" Những Đứa Trẻ Chết Già - Nguyễn Bình Phương full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Đứa Trẻ Chết Già - Nguyễn Bình Phương full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo Những Đứa Trẻ Chết Già (Tiểu Thuyết) Tác giả : Nguyễn Bình Phương Contents Phần 1 Phần 2 Phần 3 Phần 4 Phần 5 Phần 6 Phần 7 Phần 8 Phần 9 Phần cuối Phần 1 Cách đây khá lâu, dân làng Phan thấy Trường "hấp", gã trai không cha, không mẹ, không họ hàng, dẫn một người đàn bà từ mạn Trại Cau về. Người đàn bà này cả ngày không nói một câu, cũng chẳng ra khỏi nhà. Ban ngày, Trường "hấp" đem dao, cuốc lên đồi hùng hục phát cây cỏ, chẳng cả nghỉ ăn trưa. Đêm, trong căn lều tồi tàn đến mức sắp ụp xuống, người ta thấy bóng hai vợ chồng thấp thoáng diễu qua diễu lại bên cửa sổ méo xệch. Dân làng Phan xì xào bàn tán về lai lịch người vợ của Trường hấp. Họ đoán non đoán già đủ mọi thứ. Có người bảo thị là người dân tộc, kẻ khác khẳng định thị vốn có dòng họ quý tộc từng nổi lên làm giặc, sau bị thất tán. Cụ Cung rỗ, người cao tuổi nhưng háu ăn, ham gái nhất, oang oang tuyên bố vợ Trường hấp là cháu nhiều đời của Liêm Quận công, một tướng chết trận trong cuộc loạn Thái Nguyên thời Giáp Ngọ. Tất nhiên đó chỉ là giả thuyết, không ai dám chắc rằng mình là người biết gốc tích người đàn bà kia. Vả lại vợ Trường hấp cũng chẳng giao tiếp gặp gỡ người nào trong làng cả. Thi thoảng người ta mới thấy Trường ra chợ thị trấn mua các thức ăn vặt, có kẻ hỏi, chỉ cúi đầu, cắn môi cười ngượng nghịu. Bản tính hắn thế, cái gì cũng chỉ cười, nụ cười có duyên như con gái gặp đám trai lơ. Được hơn năm, vợ chồng Trường hấp giầu lên đột ngột, chúng thuê thợ xây nhà, đào ao, bạt đi một nửa quả đồi làm vườn cây ăn quả. Trường hấp liên tục đi mua sắm các thứ, cả máy cole phát điện lẫn đài và xe đạp. Cánh thợ đào ao hùng hục làm ba tuần mới xong. Cái ao to, rộng, vuông vức nằm bên trái nhà, có một rãnh nhỏ thông ra sông Linh Nham, ngay sát chân cầu. Khi đám thợ đi được bốn năm tháng, người ta phát hiện vợ Trường hấp có chửa. Nhiều kẻ ác miệng bảo nhau, con của những thằng thợ đấu, không phải của Trường hấp. Đấy là những kẻ ghen ăn tức ở vì thấy vợ chồng Trường hấp giầu lên không rõ nguyên nhân. Vẫn lại cụ Cung rỗ bô bô: - Nó đào được của. Khặc! Mẹ nó chứ, không tin cứ chặt đầu tôi đi - vừa nói, cụ vừa vươn cao chiếc cổ chằng chịt gân, hai tay chém chém vào không khí để có sức thuyết phục: - Đất này ngày xưa là nơi các quan và bọn cướp giấu của mà lị. Đa số đều tin lời cụ cố Cung, vì họ xét thấy chẳng còn nguyên nhân nào khác nữa. Chỉ có mụ Sinh lùn chống lại giả thuyết đó, cũng như mụ khẳng định rằng vợ Trường hấp tự dưng có chửa, mặc dù không ngủ với thằng đàn ông nào. - Bởi vì nó lưỡng tính. Mụ Sinh lùn chống đôi tay hộ pháp lên hông, hất mặt nhìn mọi người với vẻ đắc thắng. Mụ là người biết nhiều chuyện ở làng, mới tám tuổi đã nổi tiếng là con bé hay đưa chuyện. Mụ từng bị chồng là lão Bính chột đánh thừa sống thiếu chết không biết bao lần vì cái tội xoen xoét đó mà vẫn không chừa được. - Chẳng có gì vui vẻ cả, ngoài cái chuyện ấy! Mụ Sinh lùn nói với chồng sau mỗi lần bị đòn. Câu “chuyện ấy” được hiểu theo nghĩa là ngồi lê mách lẻo hay thói gió trăng của mụ? Vốn hám hơi đàn ông, hễ thấy ai vừa mắt mình là mụ Sinh cứ lăn xả vào bằng được, bất chấp mọi phản kháng, mọi lời ong tiếng ve. Mấy bà trong làng có chồng lực lưỡng, sức vóc đôi chút hễ trông thấy mụ vội vàng ấn giúi chồng vào chỗ khuất để khỏi bị nhìn thấy. Cánh đàn ông có vợ lãnh cảm nhìn nhau nháy máy, sung sướng ra mặt khi gặp mụ. Cũng cần nói thêm, mụ Sinh có thói quen ra sông Linh Nham tắm bất kể đông hay hè. Mụ cứ nồng nỗng vốc nước vã lên người, coi thiên hạ như bị mù tất cả. Chính vì thói quen đó đã dẫn đến tình cảnh cụ cố Cung bị gẫy mất hai cái răng cửa trước khi tự nó rụng. Cụ cố Cung tưởng mụ dễ ăn, lân la ra bờ sông. Lúc đầu còn thều thào đứng trên bờ gạ gẫm, sau mò xuống tận nơi, thò tay bóp vú. Không thấy mụ Sinh phản ứng, thế là cơn hứng già chơi trống bỏi nổi lên, cụ cố Cung bèn quỳ ngập đầu gối xuống nước, định vục mặt vào chỗ ấy của mụ. Chỉ chờ có thế, mụ Sinh co chân giáng cả cái gót to tổ bố vào mồm cụ. Từ hôm ấy hễ thoáng thấy bóng dáng mụ Sinh ở đâu, cụ cố Cung lại đưa tay lên sờ chỗ răng khuyết, lầm bẩm gì đó rồi lảng ra chỗ khác. Trường hấp không phản ứng trước những lời đồn đại xung quanh. Trái lại, hắn còn phởn chí, cuốc bộ ra chợ mua hẳn một cút rượu và nửa cái đùi chó về. Hai vợ chồng hắn trải chiếu ra sân, mở nhạc cùng nhau ăn uống. Bây giờ dân làng mới biết con vợ kia uống rượu cũng không phải loại xoàng. Bà Châu Cải, người hàng xóm quắt queo như củ gừng phơi khô, phải rên lên: - Giời ơi, các bác không biết chứ, chúng nó uống ghê lắm. Chồng làm một hớp, vợ cũng một hớp. Chồng gặm một miếng, vợ cũng một miếng. Mà cái con thổ tả ấy nó còn ngồi khoanh chân bằng tròn và rung đùi gật gù nữa mới khiếp! Vợ chồng Trường hấp ngồi với nhau như hai thằng bạn chí cốt. Mỗi lần uống rượu, mặt hai vợ chồng đỏ lựng lên, đồng bóng, cứ nhìn nhau tình tứ rồi lại cắm cúi ăn tiếp. Ngày mùng 7 tháng 6 giờ Dậu, dân làng thấy trong đáy ao nhà Trường hấp bốc lên một cột khí trắng hình con rắn. Ngày 9 tháng đó, phía Tây có đám mây màu đỏ xuất hiện, hình dáng không khác gì người đàn ông cụt đầu, tay cầm dao quắm. Tháng 11, vợ Trường hấp ốm, nằm liệt giường. Lão Bồi còng đi chơi đêm về, qua nhà vợ chồng Trường hấp, tiện chân đứng đái ngay cổng, nghe có tiếng rên ẹ ẹ rồi tiếng trẻ khóc. Không kịp cài cúc quần, lão vội vàng sấn lại, vạch hàng rào nhìn vào. Đột nhiên lão rú lên, ôm đầu chạy bán sống bán chết. Sớm hôm sau, lão kể với mọi người thấy vợ Trường hấp ôm một đứa trẻ đỏ hỏn, không tã lót gì, đứng giữa sân nhà. Mắt thị xanh lè, tóc xoã sượi, da mặt xám ngoét. Lưng còng sát đất, lão Bồi khum khum tay che mặt, thẽo thợt: - Nó cười, eo ơi, trông như một con ma, các bác ạ! - Thì vốn dĩ nó là thế, còn như với nhiếc gì nữa! Mụ Sinh lùn khẳng định, liền bị lão chồng giáng cho một cú bạt tai, người chúi về phía trước. Đi đâu, gặp ai, dù đang úp mặt vào gốc cây đái, lão Bồi cũng gọi lại để kể về tiếng kêu è ẹ và khuôn mặt ma quỷ của vợ Trường hấp. Đúng là vợ hắn đẻ thật, đêm nào đứa trẻ cũng khóc váng cả làng. - Nó cho bú bằng cái gì nhỉ? Cô Nguyệt góa hỏi bâng quơ rồi phá lên cười một mình. Vợ Trường hấp ngực phẳng lì, mông thẳng đuỗn, loại ấy nuôi con rất khó. Thế mà trái với điều mong muốn, chờ đợi của mọi người, thằng bé lớn như thổi. Vợ chồng Trường hấp đặt tên con là Liêm. Lê Liêm. ẳ Năm thằng Liêm lên hai tuổi làng bị hỏa hoạn. Chẳng biết lửa từ đâu cháy lém qua cánh rừng thốc vào làng từ phía sau. Vụ hỏa hoạn chưa thu dọn xong, dân làng thấy đồn lên thị trấn Chùa Hang có con thú lạ xuất hiện. Ba ngày sau nhà cụ cố Cung có những vết chân thú rất lạ, bốn móng in hằn lên mặt đá lát sân. Cô Nguyệt goá lập miếu khấn vái xì xụp cả ngày. Trường hấp quý con như vàng, chăm sóc, lo toan cho thằng bé từ xô nước nóng để tắm đến những bộ quần áo loè loẹt, bé xíu mua tận chợ tỉnh. Được năm tuổi, thằng Liêm đi thơ thẩn khắp làng, gặp ai, nhất là đám đàn bà con gái, nó cũng giương đôi mắt một mí lên nhìn vẻ vừa thông minh, láu lỉnh, vừa dâm đãng. Mụ Sinh lùn ca ngợi cái nhìn của thằng Liêm hết lời: - Giá lão già nhà tôi có đôi mắt như nó, cuộc đời có phải khác đi không! Rồi mụ buông tiếng thở dài rủa chồng: - Đồ chó thiến. Lớn thêm chút nữa, thằng Liêm vào thị trấn chơi những hôm phiên chợ. Mùa thu, dịp nó đi học vỡ lòng, tự nhiên sét đánh cháy một nửa cầu Linh Nham. Chiếc cầu này có từ thời Pháp, toàn bộ bằng những thanh sắt to, dày bản ghép lại. Thằng Liêm lên cấp hai, người vạm vỡ hẳn. Dáng hơi gù, trán ngắn trằn, tóc cứng, mắt nó xếch ngược với đôi mày đen mượt, rậm rì như một gã trung niên. Đến giữa cấp ba, chân thằng Liêm to bè, bố mẹ tìm khắp thị trấn mà không được đôi dép nào vừa chân nó. Gần cuối cấp, Liêm bị đuổi học vì tội dốt và hay rình bóp vú những cô giáo trẻ. Vợ chồng Trường hấp bắt nó ở nhà trông nom vườn cây và giữ ao cá vì hay có kẻ câu trộm. Đặc biệt là lũ con mụ Sinh lùn, chúng nhanh nhẹn, nhỏ thó, chỗ nào cũng luồn lách vào được. Tháng 8 ngày mùng 10, làng bị mưa tơi bời. Mưa suốt ngày suốt đêm, bốn phía chỉ thấy một màu trắng. Nước thượng nguồn đổ về réo như đàn trâu điên. Rạng sáng ngày 12, mưa tạnh. Đang trưa, tự dưng dòi đất bồi dưới chân cầu Linh Nham nứt toác, sâu thẳm, không ai dám đến gầy. Từ kẽ nứt đó có tiếng vọng lên ầm ì như sấm. Liêm tròn mười chín tuổi bỏ nhà ra thị trấn. Hơn tuần sau hắn mò về cùng một lũ bạn sàn sàn tuổi, cả trai lẫn gái, trông đứa nào cũng nhếch nhác, bẩn thỉu. Đám con trai chân đất, đầu trọc lốc, bọn con gái khoác lên người toàn thứ vá víu, chằng đụp. Chúng đem rượu ra sân uống tới sáng mới lếch thếch tản. Trường hấp hộc lên một tiếng, vung thanh củi quật như trời giáng vào lưng thằng con cầu tự: - Đồ chó dái, tao sẽ chôn sống mày. Lão gầm gừ, mặt đỏ găng, bọt sùi trắng hai bên mép như người trúng dại. Lần đầu tiên trong đời người ta thấy Trường hấp nổi cáu. Không khí trong gia đình trở nên căng thẳng, chốc chốc lại bùng lên những cơn va chạm dữ dội. Liêm lầm lì hẳn, mặt lúc nào cũng sẵn sàng gây gổ. Một buổi sáng, sau khi Liêm trốn ra thị trấn chơi hai ngày trở về, người làng nghe tiếng đập vỡ loảng xoảng, lúc sau thấy Trường hấp lạch bạch lao ra hiên nhà, tóc dựng ngược lên. Lão chỉ thẳng vào mặt con trai, hét lạc cả giọng: - Thằng động đực, đồ chết đâm chết dầm, ông sẽ cho mày biết tay. Ông sẽ lấy cho mày một con vợ nửa điên nửa dại xem mày có bỏ được cái thói đòi của nữa hay không. Lão vớ bừa chiếc đôn sứ cạnh lan can cửa, đập đánh choang xuống sân. Liêm lừ lừ cầm cuộn dây cước bỏ ra ao cá. Và lão Trường lấy vợ cho con trai thật. Cùng thời gian đó, quả đồi sau nhà lão có con chim đen to bằng con gà tây đến ở. Con chim chiều nào cũng lượn những vòng ngoằn ngoèo hình số tám. Liêm lấy vợ thì mẹ mắc bệnh kiết lị, nằm liệt giường. Trước khi chết, mụ vợ Trường hấp cho gọi con trai vào thều thào điều gì đó rồi nghẹo đầu, mắt trợn ngược, thân hình còm cõi co rúm lại. Bố con lão Trường chôn bà ta trên đỉnh đồi sau nhà. Riêng việc chọn địa thế đào huyệt, bố con lão phải ngắm đi ngắm lại hàng ngày trời sao cho mộ nằm đúng tâm chóp đồi. Lão Trường xây mộ có mái che xong, nhường quyền cai quản cho vợ chồng Liêm. Vợ Liêm tốt tính, ả ít nói, hay làm, đặc biệt chưa bao giờ hàng xóm thấy cãi lại bố chồng cũng như chồng một câu Ả nào. Ả vốn là dân Thái Bình lên thị trấn làm thuê cho hiệu phở lão Lịch. Người ả to, cao, tóc mượt, phải cái răng vổ cả hàm, trông lúc nào cũng như cười. Hai vợ chồng Liêm ăn ở với nhau được ba đứa con, hai trai một gái. Thằng con đầu lấy tên là Can, sau đó đến Hải, cô con gái út mang tên kiều diễm là Lê Loan. Can tính cục cằn thô lỗ, từ bé đã có ý thức cương quyết không cần biết chữ. Cậu ta không đến trường mặc dù ông bố vừa van nài, vừa đe nẹt. Năm mười bốn tuổi, Can chết đuối ở đoạn sông ngay trước cửa nhà. Cụ Trường nghiến răng bắt vợ chồng Liêm chôn đứa cháu cả cạnh mộ bà, chếch xuống dưới một chút. Cũng từ hôm đó cụ quỵ xuống trông thấy, người hốc hác, tóc bạc trắng. Rồi cụ đổ bệnh thổ huyết, nằm bẹp dí trong góc nhà do vợ chồng Liêm mới cơi nới thêm, cạnh mép ao. Được một dạo tự dưng người cụ khỏe lại, ăn như hùm, mỗi bữa đả đến năm sáu bát, chưa kể đến những thứ ăn vặt khác. Cụ Trường hấp quý đứa cháu gái hơn cả vì nó chịu khó ngồi nghe cụ kể, và nó hay dành những thứ ăn được cho cụ. Mùa đông, tháng 11 ngày mùng 9 giờ Tý, cả làng Phan giật mình vì tiếng hổ gầm ngay cánh rừng bên cạnh. Ngày 23, sao chổi xuất hiện phía Tây, trông như dải lụa trắng. Ngày 13 tháng 12, động đất, thú trong rừng chạy nháo vào làng, có con hổ trắng to bằng con trâu mộng. Nước sông Linh Nham nóng rẫy, cá và ba ba chết dạt trắng hai bên bờ. Thời gian đi vù vù như gió. Thằng Hải học hết cấp hai, cấp ba rồi bỏ không thi đại học. Cái Loan bắt đầu thi chuyển cấp, trông nó ra dáng đứa con gái vào tuổi dậy thì. Vợ chồng lão Liêm mỗi ngày một già đi, một đăm chiêu hơn. Cụ Trường chưa phút nào cảm thấy mình sắp chết, trái lại cứ mong ngóng chiều thứ bẩy đứa cháu gái từ thị trấn về để cụ còn kể chuyện những người mình đã biết. Cụ kể không bao giờ hết chuyện. Nào mụ Sinh lùn chết ra sao, lão Công bị cây đè thế nào. Cả chuyện cố Cung bị gẫy hai cái răng cửa và những cú tát trời giáng lão Bính chột dành riêng cho vợ. Gia sản nhà vợ chồng Liêm không hề suy chuyển, đôi khi còn tăng lên đột ngột. Câu hỏi về nguồn gốc kinh tế nhà lão vẫn là một bí ẩn trong làng, nó được truyền qua những người già cả trở thành sự tò mò của lớp trẻ. Vô thanh I Không khí ảm đạm và lưu cữu. Hoàng hôn trung du bao giờ cũng rề rà, mỏi mệt. Những quả đồi chầm chậm lùi lại, chầm chậm xuất hiện. Đôi chỗ, chè hoang mọc xanh đậm lên tận chóp đồi. Hương chè nhả ra chát đặc. Ông quan sát hai người thanh niên đối diện với mình. Họ tựa vai vào thành gỗ cáu bẩn, vẻ mệt mỏi hiện rõ trên khuôn mặt phủ bụi. Người thứ nhất có thân hình lực lưỡng, mái tóc húi cua cứng queo và đôi mày xếch chạy thành hai vệt đen bằng ngón chân cái. Người này mặc chiếc áo đen, cáu ghét, nứt nẻ, đôi giầy ba ta rách mõm của anh ta phả ra mùi hôi nồng nặc. Người thứ hai có vẻ trẻ hơn, chiếc quần thụng như váy đàn bà bị gió tạt chéo hằn lên cặp đùi ống sậy dài ngoẵng. Anh ta đeo kính cận, tóc xòa xuống che nửa vầng trán rộng mốc thếch. - Vắt diệt! Gã đánh xe ho khan, vung chiếc roi tre quất vào mông con trâu già cụt sừng. Cả người gã in bật trên nền trời tím nhạt pha chút xanh xám. Ông so vạt cổ áo, lơ đãng nhìn ra ngoài. Con tàu vẫn sóng đôi với tầm nhìn của ông mặc dù nó luôn có vẻ cố gắng bứt lên phía trước. Những vệt khói của con tàu hất về đằng sau như mớ tóc trắng khổng lồ. Ông không nghe thấy tiếng máy tựa hồ như nó đang chạy trên màn ảnh câm. Lộc cộc. Lộc cộc. Chiếc xe nhẫn nại chuyển động, đôi lúc nó nẩy lên rồi tụt xuống một chiếc ổ gà. Thành xe vặn ken két. Mùi da trâu nồng nặc. Ông thò tay vào túi áo đại cán, mân mê chiếc thìa nhôm. Dưới chân ông, mấy củ sắn nằm lăn lóc, lạo xạo đất cát. - Ngủ chiều khác gì đi đái trong mơ! Gã đánh xe quay lại nhìn hai thanh niên, nhếch môi buông một câu. Ông rùng mình, toàn thân run lên, sống lưng lành lạnh như rắn bò. Ông nhìn chằm chằm vào khuôn mặt xoay nghiêng của gã. Một khuôn mặt trì độn, lưu cữu rất khó đoán tuổi. Cách đây lâu lắm rồi, ông nghe một câu như vậy ngay trên chuyến xe như thế này. Ngày đó xe cũng có ba người, ba bố con ông, chỉ có điều ông và em gái thay chỗ hai thanh niên kia, còn bố ông ngồi đúng chỗ ông bây giờ. Bố ông cũng mặc chiếc áo đại cán bạc phếch. - Mình đã bỏ lại cây trẩu sau lưng. Em gái ông lúc đó đã bảo vậy. Nó ngoái cổ về phía sau như níu lại cây chẩu. Còn ông, chú bé vạm vỡ chỉ hầm hừ và nghiêm mặt như người lớn thực thụ. “Mình đã bỏ lại cây trẩu sau lưng”. Em gái ông nhắc lại lần nữa nhưng không ai tỏ thái độ gì. Khuôn mặt bố ông lênh đênh trôi về một xứ sở nào đó, thi thoảng cụ lại ho khan. Gã đánh xe luôn khịt mũi. Con trâu lì lợm thả từng bước một, chiếc dây thừng ở mũi nó kéo lệt sệt trên mặt đường lổn nhổn đá. Nó đã quen đường, không những thế bây giờ nghĩ lại ông còn thấy nó có vẻ thân thuộc với đoạn đường này. Bố ông bảo có lẽ phải nghỉ một chút, đường còn xa. Ông không trả lời, em gái ông cũng vậy. Nó lục trong chiếc làn nhỏ ra một cuốn sổ và loạt xoạt giở. Gã đánh xe không thèm quay đầu, buông một câu: - Ngủ chiều khác gì đi đái trong mơ! Âm sắc hầu như không thay đổi chút nào. Nhưng ngần ấy thời gian chả lẽ gã không già đi ư? Hay đây là con của gã? Mấy chục năm trôi qua. Ông vò mái tóc bạc trắng, mọi ý nghĩ rối tung lên. Hai thanh niên dựa vào thành xe nghẹo đầu lơ mơ, mồm người trẻ chóp chép, còn người to đen lại há hốc như nuốt không khí. Ông toan hỏi điều gì đó nhưng cổ họng đắng nghoét tay lại run run mân mê chiếc thìa. Những ngón tay nóng rực cựa quậy. Bố ông không ngủ, cụ thở khò khè, đăm đăm nhìn qua vai hai anh em ông. Gã đánh xe chồm người ra phía trước. Đoạn lưng gù của gã trông như cái mả cổ xưa. - Đố anh con gì kia? Em gái ông lại nhướn cổ, háo hức hỏi, tay chỉ vào bụi lau ven đường. - Dẽ giun! Ông bĩu môi trả lời. Mặt nó xịu xuống. - Em sẽ học cách câm. Nó buông một câu dỗi. Ông khinh bỉ quay ra phía khác. Ông không thèm chấp vặt lũ con gái. Bố ông cực quậy, lục túi lấy thêm chiếc áo khoác cũ khoác lên người. Gã đánh xe khịt mũi: - Có mùi thuốc súng lẫn cồn i ốt. - Phải, tôi là lính. Bố ông thản nhiên trả lời: - Hai chục năm rồi còn gì. Câu cuối, cụ lẩm bẩm như nói một mình. - ít quá chăng? Gã đánh xe cười khẩy. Ông không chịu nổi nụ cười đó. Nó có vẻ hắc ám và nhẫn tâm. - Cũng chẳng biết. Bố lại ho: - Con người phần lớn là đi… Im lặng. Bánh xe chần lên đá cục lục. Hoàng hôn buông trùng trùng xung quanh. Ông nhìn trời sau những đỉnh đồi và thấy một màu ảm đạm. Em gái vẫn giở sổ loạt xoạt. Mắt nó dướn lên tìm kiếm, môi trễ xuống, thở động đậy. Hai thanh niên choàng mắt từ lúc nào, người gầy gò chỉ cho bạn về phía Tây. Tay anh ta bíu chặt thành xe với thái độ sung sướng như vừa phát hiện ra một chân lý. Nhìn theo tay anh ta, lòng ông rộn lên. ẳ Cây trẩu ấy vẫn như cũ. Thân nó chắc lẳn, bình nhiên tạc vào hoàng hôn những chiếc cành đối xứng, khỏe khoắn. Cây trẩu mang trên mình một màu xanh tự tin. - Dễ đến trăm năm đấy nhỉ? Người gầy gò nói nhỏ, mắt anh ta thoáng mơ màng. - Hừ, chỉ bốn ngày là hết cứt! Thanh niên to cao đáp lời bạn. Gã đánh xe vung cây roi vào không khí: - Vắt diệt! Lọc cọc… lọc cọc. Chiếc xe vẫn trồi lên sụt xuống. Ông căng mắt cố bám lấy hình ảnh cây trẩu, tai đón đợi một lời xa xưa nào vẳng đến. Một lời tiếc rẻ của em gái ông. Cây trẩu lùi dần, lùi dần. Lúc đó ông bấu vai em gái, toan chỉ cho nó dãy đồi mang hình cô gái khỏa thân nằm ngửa nhưng nó vùng vằng, mắt lạnh lẽo cụp xuống trang sổ. Ông hé mắt nhìn. Cuốn sổ không có lấy một dòng chữ. Tất cả các trang đều trắng tinh. Em gái vẫn cắm mặt vào đấy với độ chăm chú cao. “Trí thức rởm!” - Ông thoáng bực bội. Hình như đã thỏa mãn với sự trả thù, hình như biết ông sắp cáu, nó ngước mắt nhìn, khúc khích cười rồi lại chăm chú đọc. Lát sau nó thở dài, buông một câu bâng quơ như đọc ra từ cuốn sổ: - Những cặp môi xanh xao! Ông chẳng hiểu gì, nhưng mặt nó nghiêm trang đến mức ông nghi ngờ chính mình. Bố tự nhiên chồm ra phía gã đánh xe hỏi xem đã hết mùi thuốc súng và mùi cồn chưa. Gã đáp cộc cằn: - Mùi của đêm! - Con khỉ! Bố gắt khẽ, rất khẽ. Em gái ông bật cười. Nó suốt đời không thể học câm được. Ông nheo mắt, lục cuộn chỉ và cây kim đưa cho nó. Con bé tái mặt, tay run run rờ môi. Thoáng đó qua nhanh và tất cả bừng tỉnh bằng tiếng cười như phá ra của ông. Ông cười thốc tháo, chẳng biết vì sao nữa. Bố lắc đầu. Gã đánh xe quay phắt lại: - Nấm dại rồi! Em gái ông ngửa cổ, rồi đột nhiên nó khóc. Tiếng cười của ông bị dập tắt. - Nín đi con! Bố ông buồn rầu vuốt ve tóc nó. Bàn tay sần sùi cụt ba ngón chậm chạp lướt từ đỉnh đầu xuống vai con bé. - Con thích về. Em gái ông nói trong nước mắt. Bố lại lắc đầu, trán co rúm, chằng chịt rãnh: - Mình đang về con ạ. Phần 2 Mắt em gái ông lờ đờ. Đôi mắt ấy còn lờ đờ cho đến ngày ông vào lính và ba năm rưỡi sau, ông lê bước về. Cái chết của bố ông như nhát dao quyết định bứt hẳn ông ra khỏi làng. Ông đến chào em gái để ra đi mặc dù lúc ấy chẳng biết đi đâu. Em gái ông đang học năm cuối của trường sư phạm trên thị xã. Nó trọ nhờ nhà một cô bạn cùng lớp. Ông bước vào căn phòng ọp ẹp, cũ kỹ. Mọi thứ đều chật cứng, tối mờ. Mùi ẩm mốc lảng vảng khắp nơi. Nó ngồi trên chiếc ghế đẩu, hơi ngả về phía sau một chút. Trên bàn, mấy cuốn sách nhàu nát vứt bừa bộn. Một chiếc gạt tàn đầy ự. Nó rít thuốc, lờ đờ nhả khói. Ông cúi khom người bước vào và thấy mặt nó trôi trong làn khói trắng đục. Mắt nó trôi đi rất xa. Ông hắng giọng gọi nó về. - Anh đến đây làm gì? Nó hỏi, không chờ ông trả lời, nói tiếp bằng cái giọng vỡ phế quản: - Em hết tiền rồi! Ông không tự ái mặc dù được tiếp đón bằng thái độ như thế. - Sao mày không về chịu tang bố? - Một người là đủ. Nó trề môi, cáu kỉnh. Ông thở nhẹ bất lực. Chính ông cũng chẳng biết mình có hiếu hay không nữa. - Anh đến để chia tay mày. Ông thản nhiên ngồi xuống mép giường. Bừa bộn kinh khủng. - Đi đâu? Nó lại hỏi. - Không biết. Nó thở nhẹ, tiếp tục trôi theo làn khói. Ông gấp chân gạt những vỏ hộp vào gậm giường. - Bố mẹ biết mày thế này, hẳn các cụ sẽ không được vui! Ông ái ngại nói, lúc đó vụt nhớ đến những ngày thơ ấu. Những ngày hai anh em lấy đất ướt nặn hình những con ốc sên có cái chóp xoáy vút. Bọn ông tưởng tượng ra đủ các ngả đường cho ốc sên. Lần nào em gái ông cũng kết thúc một câu lạnh lẽo: “Bọn mình sẽ đi chu du bằng những con ốc sên này. Cho cả bố mẹ đi nữa”. Không hiểu sao ông nhìn nó khẽ rùng mình và nghĩ đến Xoan, người yêu đầu tiên hồi cấp ba. - Em sắp có con! Ông chồm lên khi nghe câu nói của em gái. Mắt ông lướt nhanh qua bụng nó rồi dừng lại ở đôi tay chằng chịt gân. Ô - Với ai? Ông hỏi, gần như hụt hơi. - Với làng mình! Không hiểu sao đêm nào em cũng về làng. - Mày đi bộ? - Vâng. Ông không tin. Nó làm sao có thể đi bộ về làng được. Ông hỏi nó yêu ai, tên gì, nhưng nó chỉ buông một câu gọn lỏn: “Núi rừng!”. Ông ngờ nó bị tâm thần. Ngày mẹ ông mất nó không khóc, cứ ngồi thu lu trong góc nhà ngó mọi người qua lại. Không ai để ý đến nó. Cũng từ hôm ấy không hiểu sao nó ghét ông Biền đến phát sợ. Nhìn thấy ông ta nó lảng xa như tránh một con vật ghê tởm. - Có nghĩa là mày chửa hoang? Ông lẩm bẩm một mình. Em gái cúi xuống lôi trong gậm ghế ra chiếc nồi nhôm đen kịt. Coi như không có ông, nó loẹt quẹt vét cơm nguội, trộn với ít muối vừng, ngồi ăn một cách thản nhiên. Bụng ông sôi ầm ầm. - Tao đói! Ông gào lên. - Bố bảo tất cả đều phải tự lực! Nó vét nốt chỗ cơm trong cái bát da lươn nứt vành rồi lẳng bát vào gậm ghế như cũ. Nó ra ngoài vục nước quệt mồm, ông nhìn ngang thấy bụng nó đã lùm lùm. - Tao đi đây! Ông chán nản đứng dậy. Nó nhìn ông rất nhanh, cặp môi thoắt tái nhợt… … Đấy là lần cuối cùng ông gặp nó. Sau này, ông nghe tin nó về làng và chết ở dưới gốc cây si như những người khác. Nó chết, trong bụng nó vẫn cựa quậy đứa con. Người làng vội vã chôn hai mẹ con nó cạnh mộ bố mẹ ông. Từ phòng nó bước ra, ông chẳng biết mình sẽ đi đâu. Ông mặc cho bước chân định đoạt. Khi bừng tỉnh, ông đã thấy mình đang ở ghềnh đá. Trời đã tối, cơn mưa đột ngột ập xuống. Người ông ướt sũng nhưng thanh thản. Ông không thấy đói mặc dù cả ngày hôm đó không có gì cho vào bụng. Sau Ô mưa, trăng dậy lên bừng bừng. Ông đi một mình giữa khuya. Tiếng thở dài từ mỏm đá, rìa sông làm ông khựng lại. Ông thấy một người đàn bà ngồi đó, cô ta bó hai tay vào nhau, tóc rũ sau lưng. Ông muốn lùi lại, nhưng không hiểu sao chân cứ dấn lên. Người đàn bà không nhìn thấy ông, cô ta mải mê với ánh trăng bốc khói giữa mặt sông. Trên má cô ta, ánh sáng méo mó, chạy lằng nhằng. Cái dáng bất động và đôi mắt đăm đăm nhìn khiến ông liên tưởng đến vẻ tuyệt vọng của con mèo trên đầu nóc nhà giữa buổi chiều bầm tím. Ông lầm bầm và cô ta từ từ quay nhìn. Mũi cô ta hấp háy như đánh hơi. Toàn thân ông rợn ngợp. Ông ngồi xuống cạnh cô ta. Xung quanh đã chết, chỉ còn lại sự dịch chuyển của các linh hồn. - Ịt ẹ ày. Ông ngạc nhiên phát hiện sau lưng người đàn bà còn một thằng bé. Nó chui nửa người trong chiếc bao tải. Thằng bé chằm chằm nhìn ông, mắt nó bắt trăng, xanh như mắt mèo. - Con hả? Ông hỏi, cô ta gật đầu. Thằng bé nhai cái gì trong miệng lốp cốp. Ông quờ tay vẫy nhưng nó không lại, nó co người thành một đống bùng nhùng. Thằng bé dạo đó mới được bốn năm tuổi. Nó ngọng nghịu, đôi mắt lồi ra, mũi chảy thành hai dòng đặc quánh xuống môi. Nó gầy nhỏng, đen xạm. Đêm đó ông trở thành kẻ có gia đình. Ông làm chồng, làm bố. Sau này, khi cô ta chết, ông đến với người đàn bà thứ hai, bà này sắc sảo hơn, to béo hơn, nhưng không cho ông một đứa con, một kỷ niệm nào cả. Chiều mùa hạ. Trời vàng rực ẩn sau lớp rừng bị cháy tơ tướp đang cố gắng hồi sức. Những cơn gió hiếm hoi lóp ngóp bò lên từ lòng đất làm vô số lá khô và tàn tro bay loạn xạ khắp làng. Xa xa, về phía Tây, con đường nhỏ, gầy còm dẫn vào khe Bò Đái thấp thoáng ẩn hiện giữa những búi lau trắng phơ, dày đặc. Ánh nắng thoi thóp lê lết rút về nơi cố hữu của mình ở sau dãy đồi. Dòng Linh Nham lầm lì chuyển động, tiếng nước lục bục lúc lúc bị át đi bởi tiếng xe ô tô lao qua. Chiếc cầu nâu gỉ rên lên kèn kẹt dưới sức nặng miết xuống của những chiếc xe chở quặng từ Trại Cau về Gang thép. Làng Phan co mình dưới ánh sáng lờ đờ uể oải. Những ngôi nhà thưa thớt, mái cũ kỹ bị tốc lên trông như tóc kẻ đi ngược gió. Lão Liêm đờ đẫn vác chiếc ghế đẩu bóng vàng ra chái nhà ngồi. Cái trán ngắn choằn của lão bóng rợn, in rõ mấy rãnh ngang đen. Mắt lão nheo nheo, một bên lông mày trĩu xuống, hai cánh mũi to phập phồng đánh hơi. Sông Linh Nham phả mùi tanh khắp làng. Vài sợi lau liệng nhẹ đùa rỡn trong cơn hứng chí im lặng. Dưới chân cầu, cạnh chỗ đất nứt, có mấy đứa trẻ cởi truồng chí choé té nước lên nhau. Nghe tiếng cụ Trường lầu bầu một mình, lão Liêm cúi đầu khó chịu, cặp môi dầy, thâm trễ xuống mệt mỏi. - Hải, Hải đâu, ra tao bảo! Lão quay đầu gọi nhỏ, nhưng âm thanh khỏe trầm. Lúc sau, Hải lóp ngóp phía sau nhà chui ra, đầu vướng đầy lá khô. - Bố gọi con? Hải hất hàm, đôi mắt một mí, dài vút nheo lại. Lão Liêm không trả lời, nhìn thằng con từ đầu tới chân đánh giá, cân nhắc. Ở tuổi mười tám, người Hải cao, hơi xương xương, hai cánh tay đen xạm vì nắng nổi lên từng múi cơ thon dài, chắc chắn. Quai hàm hắn bạnh sang hai bên, sống mũi khoằm, gồ ghề bướng bỉnh. “Nó hơn mình ở cái trán” Lão Liêm hài lòng nghĩ, bàn tay to bè nổi thành cục bất giác đặt lên đôi lông mày. Trán Hải quả có hơn bố, nó hình thanh lộn ngược, viền khung bằng mớ tóc nâu lúc nào cũng mơn mởn như được bôi mỡ. - Trưa mai, mày lấy xe lên thành phố đèo con Loan về. Lão Liêm nói chậm rãi. Hải giậm chân đánh huỵch, nền đất rung lên, giọng bực bội: - Nó có xe cơ mà, việc gì phải vất vả. - Mất rồi, tuần trước! Bỗng dưng lão nổi cáu: - Thôi, tao đã bảo đi là đi mà lị. Chốc nữa bảo mẹ mày cho ăn cơm trưa sớm còn đi. Hải lẳng con dao quắm xuống đất, ngúc ngoắc chiếc đầu gồ ghề: - Nếu thế thì đi sớm. Chả cần phải cơm nước. - Mày điên chắc? Lão Liêm lồng lên, mắt hấp háy, cổ nổi gân đỏ chằng chịt. - Chẳng điên điếc gì cả. Con muốn tranh thủ xem ở đấy thế nào mà con Loan cứ suốt ngày ca ngợi nó đổi khác. - Xem xét cái con cặc tao đây này. Mất thời gian. Sớm mai mày phải tranh thủ khơi nốt cái rãnh ao đã. Tay lão chỉ chiếc ao cỏ mọc um tùm hai bên mép, đáy khô khốc, trồi lên toàn đá sống trâu. Lão tiếc chiếc ao đứt ruột, quyết tâm đợt này hai bố con tu sửa lại cho đàng hoàng. Hải hậm hực bỏ vào nhà nói to với mẹ đang ngồi nhặt thóc trong thúng gạo: - Trưa mai mẹ nấu cơm sớm để con đi rước bà Loan về. Thật chó má. - Mày bảo gì? Lão Liêm gầm lên nhẩy bổ vào giáng cho thằng con một cú giữa gáy. Hải nghiến răng chẳng nói chẳng rằng leo vật lên giường. Bà Liêm tái mét mặt rền rĩ can chồng: - Thôi ông, nóng tính vừa vừa chứ. Con nó có nói gì đâu. Lão Liêm điên tiết chỉ tay vào Hải, hai thái dương giật giật: - Bà đừng có bênh. Thằng chó dái, tôi không thể chịu đựng được thói mất dạy. Tao thì tao nghiền mày ra như cám, hiểu chưa? Thằng đĩ đực. - Chẳng biết ai là đĩ đực! Hải day mặt vào tường đay lại. Bị chạm nọc, lão Liêm vớ chiếc ghế con ném Hải nhưng trượt, lão sấn sổ lao đến, khi nhìn thấy tấm lưng cuồn cuộn của thằng con, lão chùn lại, lạch bạch chạy ra ngoài. Lúc sau lão lại đâm bổ vào: - Đồ ăn cứt, chết cha mày đi cho tao nhẹ mắt. Nhưng Hải đã ngủ, tiếng ngày pho pho. Lão Liêm uất nghẹn vác cuốc ra ao khơi rãnh, được mấy nhát, thấy người mệt rũ, mắt hoa lên. Bỏ ra chỗ cây táo ngồi, đầu óc lão ong ong như có hàng ngàn con ruồi bay trong đó. Dạo này lão đâm ra cáu bẳn. Linh tính một người cha, một kẻ từng ăn uống thở hít khá lâu trên đời mách bảo cho lão biết chuyện gì đó không ổn về thằng Hải. Nó hay đi chơi đêm với cánh trai làng, có hôm đến hai ba giờ sáng mới về. Thi thoảng, lão bắt gặp con trai múa võ, hú hét gầm gừ sau nhà, trong vườn. Tay nó cầm chặt con dao quắm, múa vù vù như chuẩn bị đâm chém ai đó. Rồi nó uống rượu, tất nhiên giấu lão, nhưng hơi rượu nồng nặc cứ phản lại nó. Chính lão cũng không hiểu thằng con mình muốn gì. Ở nhà chẳng đến nỗi thiếu thốn, đói khổ. Trái lại, gia đình lão vẫn được tiếng khá giả nhất làng. Vợ chồng lão nuông chiều, chăm lo cho con cái đến thế, vậy mà tự dưng thằng giời đánh lại đổi khác. Nhiều lần nó bóng gió tuyên bố không có vợ chồng lão nó cũng sống được. Tháng trước lão nghe người ta xì xào thằng Hải lăng nhăng với mấy đứa con gái trong mạn khe Bò Đái, ghen tuông thế nào lại vác dao chém nhau. May không đứa nào việc gì cả. Rồi mới hôm kia, bà Thùy toét bảo với lão rằng nó tằng tịu với con Lanh, vợ thằng Quý cụt đang bị ở tù. Lão điên lên, mắng át mọi người, nhưng khi về lão lại trút lên đầu con mọi thứ bực tức. Thằng chó dái cứ câng câng câng câng không chịu nhận. Tiên sư nó, nó làm cho gia đình này tan nát mất. Hy vọng về thằng con trai sụp đổ trong lão. Giờ đây lão chỉ hy vọng vào Loan, mặc dù chưa khi nào lão yêu quý nó thực sự. Với lão loại cò lả như con Loan bao giờ cũng chứa đựng những tai họa không thể lường được. Ngồi nghĩ lẩn thẩn, tự dưng lão lại nghi ngờ con gái mình. Nó vừa thi trúng đại học sư phạm, vào nhập trường được hơn một tháng, thế mà ngay từ hôm về nhà lần đầu đã bắt lão cho tiền mua sắm này nọ. Nó thích ăn mặc diện, thích có tiền đi xem phim, rồi tiền học, tiền tham quan, đủ thứ cả. Nhìn mắt con gái, lão không yên tâm ngay từ lúc nó còn bé. Mắt lúc nào cũng ươn ướt, lại thừa hưởng ở lão cặp môi dày, hơi cong, eo nó thon, đi uyển chuyển như lưng báo gấm. - Gay đấy! Chính cụ Trường, bố đẻ lão, ngắm đứa cháu cũng phải thốt lên như vậy. Ngủ đẫy giấc Hải vùng dậy ăn cơm. Cả bữa, lão Liêm hậm hực nhìn con. Hải ăn uống vẻ hỗn hào, cứ tam táp như lợn lai. Bên cạnh, cụ Trường không có ý định kém cháu, cụ đánh liền bốn bát đầy tú hụ, lại còn thêm ba chén rượu dành riêng cho mình. Đứng dậy xoa xoa bụng, cụ gườm mắt nhìn thằng cháu: - Tao thấy mày ăn hơi khỏe đấy cháu ạ! Hải quăng đũa, không nhìn ai, vớ chiếc tích ngậm vào vòi tu ừng ực, trước khi bước ra hắn cộc cằn buông một câu: - Ôi giời, bao giờ người già mới đến tuổi chết nhỉ? Bà Liêm tái mét níu tay chồng. Cụ Trường đực mặt, rơm rớm đi về chỗ của mình, Hải khoác áo, vớ con dao quắm lao ra cổng. Lão Liêm định nhào theo nhưng không kịp. Đêm đen đặc, Bầu trời chi chít sao. Dòng Linh Nham ì ầm ì ầm trong tiếng xạc xào mơ hồ của những khu bụi lau. Khắp làng những đốm sáng hắt ra từ ô cửa sổ bập bùng như mắt đàn hổ. Sớm hôm sau, lão Liêm vào buồng đánh thức Hải dậy khơi rãnh ao đã không thấy hắn đâu. Hải đi từ sớm. Lão vặc một câu tục tĩu rồi tấp tểnh vác xẻng ra làm một mình. *** Hải vừa đạp vừa buồn ngủ díp mắt, hơi lạnh buổi sớm làm hắn khoan khoái đôi chút. Đến thị trấn chùa Hang, Hải tỉnh hẳn, hắn nghẹo cổ cho xương kêu răng rắc. Còn sớm, thị trấn vắng người. Các ngôi nhà đóng cửa im ỉm, đỉnh núi chùa Hang tím xám chọc lên trời như ngọn mác lạnh. Đường trải nhựa nhưng rất xấu, ổ gà chi chít khiến chiếc xe của Hải kêu lọc xọc như người mắc bệnh lao. Ánh nắng đầu tiên chạm xuống mặt đất khi hắn đạp đến Đồng Bẩm. Hai bên đường, những ruộng rau xanh lấp lánh bạc trải dài ra tận mép sông Cầu. Thưa thớt mấy người đàn bà ra chăm rau, tiếng thùng va nhau lịch kịch. Một con chó vừa ngáp vừa dạng chân đái ngay vệ đường. Đèn cầu Gia Bốy chưa tắt tỏa ánh sáng xanh nhạt xuống đường xen lẫn ánh nắng vàng óng thành màu tím nhạt nhẽo, loang lổ. Giữa sông hơi nước bốc lên cuồn cuộn rồi loãng dần. Hải rẽ xuống đường tròn, tranh thủ đạp lòng vòng xem cho thỏa chí. Khá lâu hắn chưa xuống đây, quả là thành phố có thay đổi. Nhà hai tầng mọc chen chúc nhau bóp đường phố thành hình hộp thẳng đuỗn. Người ta dựng giữa đường tròn một chiếc đồng hồ có kim bốn mặt. Chợ thành phố mở sớm, khi Hải đến đã đông người. Quần áo, đài đóm bày la liệt, hoa cả mắt. - Trông nó vẫn như một con đồng bóng! Hải buột miệng và tự thưởng cho mình nụ cười méo xệch. Hắn la cà chơi ở chợ đến tận trưa, đi qua hàng nào cũng đưa tay rờ rệt cho khoái. Loan vừa tan tiết học thì anh đến, cô chẳng nói chẳng rằng ra hiệu cho Hải chờ mình ở bên ngoài rồi lẳng đi về ký túc xá. Hải đợi lâu, sốt ruột liều lĩnh mò vào chỗ em gái thấy Loan đang thản nhiên ngồi trên chiếc giường tầng vét cơm ăn. Mấy cô bạn cùng phòng ré lên, kéo ri đô che giường của mình. - Tiên sư… Hải cáu, nhổ mạnh nước bọt: - Mày bắt tao đợi đến bao giờ, hả con ranh? Loan lừ mắt, mặt câng lên vừa đẹp vừa đanh đá. - Anh lịch sự một chút, không phải ở nhà mình đâu! Hải thở dài ghé mông ngồi bừa vào mép giường ngay cạnh. Có tiếng thét lên đau đớn. Một cô gái mặt non choẹt vừa ôm tay giận dữ nhìn hắn. Hải gượng cười nhưng không xong, mặt hắn méo đi đến thảm hại. Hai anh em đèo nhau ra cổng trường. Hải lầm bầm bảo em gái: - Lũ bạn mày trông được đấy nhỉ. - Thì sao? Loan rít lên. Hải cười khì khì, quẹo tay lái rồi đạp dấn. - Tao đói quá, ờ mà có lẽ mày cũng nên mời một hai đứa về nhà mình chơi. Buổi tối càng tốt. - Có cái cứt ấy. Trông anh xấu bỏ cha đi, chúng nó thèm vào. Toàn loại con nhà có cỡ cả đấy, đừng tưởng bở. - Cỡ thì cỡ chứ, kệ mẹ chúng nó! Hải không nói một câu nào thêm cho đến khi về nhà. Vợ chồng lão Liêm xúm vào hỏi han con gái, họ cuống cuồng như gặp người từ cõi chết trở về. Cụ Trường mò sang, kéo Loan đến chỗ mình, giọng hổn hển: - Sang đây với ông, gớm mày định trốn tút hút ở trên đó hả. Tao còn lạ gì lũ chúng mày nữa. Này, có nhớ những chuyện ông kể không hả cháu… ờ ờ tốt. Loan cau mày nhìn ông, ngoáy mông đi ra giếng rửa mặt. Bây giờ cô không còn trẻ con nữa. Cụ Trường cay cú nhìn theo cháu, buông một câu rõ to cho tất cả nghe thấy: - Gay đấy! Lão Liêm điên người nhìn bố. Lão biết ông cụ đang kích mình. Bữa cơm chiều có thịt gà và cá chép rán. Cụ Trường vục mặt vào ăn nhưng vẫn tranh thủ kể chuyện cho cô cháu quý hóa nghe. Hải lầm lì ăn thật nhanh rồi bỏ ra. Bà Liêm liên tục tiếp thức ăn cho con, bà hỏi chuyện nó không thiếu một thứ gì. Nào là thức ăn có rẻ không, nấu bằng cái gì. Rồi đêm mấy giờ đi ngủ, mấy giờ dậy, hố xí có cạnh chỗ ở không, có trộm cướp nhiều không… Loan miệng ăn, miệng trả lời mẹ, thi thoảng lại cố giả vờ đang nghe ông kể chuyện. Lão Liêm ngồi im, mắt rình rập xét nét con gái. Kết thúc bữa ăn, Loan kết luận một câu lạc lõng chẳng đâu vào đâu: - Bọn con trai làng mình xấu như lợn. Cụ Trường quệt ống tay áo ngang mồm cũng kết luận những câu chuyện tự mình kể tự mình nghe từ nãy bằng cái giọng đau khổ vờ vĩnh: - Thế là chỉ còn có ông trụ lại lâu nhất ở làng này, cháu ạ! Rồi cụ mò ra bờ ao cạn, vạch quần tè một cách tự nhiên, miệng chóp chép thỏa mãn. Trời tối hẳn, Loan giở trong túi xách ra một cuốn sổ bìa đỏ, mạ chữ vàng. Cô hắng giọng, đăm chiêu lật từng tờ một. Bà Liêm nhìn con cảm động: - Mày học nó vừa thôi con ạ, không khéo lại tâm thần thì chết. Bà động viên con bằng giọng trìu mến xen lẫn trách móc. Loan vờ không nghe tiếng, chìm đắm vào những con chữ. Trước khi đi ngủ, cụ Trường cố ra nhìn đứa cháu gái, rồi gật gù, mắt rơm rớm: - ừ, con này có chí! Thực ra cuốn sổ của Loan chỉ ghi toàn các món ăn và địa chỉ rạp hát. Trong khi đó Hải đi thẳng vào thung lũng Cắc với mấy thằng bạn để tập võ. Thung lung nằm giữa dãy đồi, vây bên ngoài là rừng rậm. Một cái lều nhỏ nằm dưới phiến đá to, được che cẩn thận bằng lớp cỏ vàng úa. Đấy là chỗ cho ông Trình, thày dạy võ bọn Hải, ngồi nghỉ. Ông Trình, thày dạy võ bọn Hải, ngồi nghỉ. Ông Trình người trong xóm Trại thuộc khe Bò Đái. Người ông thấp một mẩu, tóc cứng, chân chữ bát, đi khuỳnh khuỳnh như con gấu. Ông vui tính và giỏi võ. Chẳng biết thế nào thằng Chanh còm quen được và tán tỉnh ông dạy võ cho cả bọn. Ông đồng ý với điều kiện không để cho ai biết, mỗi tối phải cho ông một chai rượu và hai quả trứng gà. Tất nhiên điều kiện đó quá dễ dàng với hơn chục tay tráng máu mê võ nghệ. Dưới trăng, ông Trình múa võ trông như thần thoại, chân tay cứ loang loáng, chẳng biết đâu mà lần. Ấy vậy nhưng khi dạy, ông chỉ bảo cặn kẽ từng động tác một. Đặc biệt ông Trình quý Hải, ông hay ngồi nói chuyện với hắn những lúc giải lao, đôi khi còn bày thêm một hai thế võ hiểm. Hải mê ông Trình như điếu đổ, ông bảo gì cũng nghe, sai gì cũng làm. Chỉ dẫn mấy động tác xong, ông Trình ra một góc ngồi với chai rượu và hai quả trứng bày trước mặt. Ông ngửa mặt lên trời, mắt thả lơ đãng. Đêm nay trời đen kịt, gió ít. Không gian ì ầm mơ hồ. Ông bặm môi làm một chén rất gọn rồi lại ngửa đầu nghĩ ngợi. Năm nay ông đã bốn ba tuổi, bao nhiêu thời gian đi qua nhưng chúng không đủ sức vùi lấp ý chí của ông. Cuộc đời ông mải mê, âm thầm với những trách nhiệm to lớn của dòng họ giao cho. Ông phải từ giã vợ con ở phố để vào chung sống dân xóm trại trong danh nghĩa một gã thợ mộc rong. Ông phải trụ lại bằng cách dựng căn nhà nhỏ giữa xóm, sống theo cách sống của đám người ngu muội nhưng dữ tợn. Hàng ngày ông lấy cớ vào rừng chọn gỗ để tìm cách dò la ra những điều còn khá mơ hồ nhưng lại có ý nghĩa quyết định. Cho đến khi ông lao về căn nhà của mình, reo lên sung sướng vì đã lần ra được sợi dây dẫn đến bí mật cần tìm. Ông lân la đến làng Phan nhưng không vào. Rốt cuộc bây giờ ông đã nắm trong tay hơn một chục con người, lũ chúng đủ khả năng cung cấp cho ông những tin sốt dẻo cần thiết. Xa xa thoảng tiếng hổ gầm. Một ngôi sao trượt nhanh rạch đôi bầu trời bằng vệt trắng lóa rồi nhanh chóng tắt lịm. Chếch một chút nữa, mé tây, dòng Linh Nham ùng ục réo vì mấy hôm trên thượng nguồn mưa lớn. Đám thanh niên tự động nghỉ từ lúc nào, chúng quây quanh ông thành hình vòng cung. Đôi mắt ông Trình sáng quắc, giọng chắc như gỗ nghiến: - Tôi hỏi các cậu một câu. Học võ để làm gì? Đám trai ngớ ra, chúng không biết, chỉ thấy thích là học, có thế thôi. Im lặng một lúc, chợt Hải mạnh dạn lên tiếng: - Để tự vệ. - Với cái gì? Ô Ông Trình cắn răng hỏi lại. Hải vụt đứng dậy, con dao quắm sáng loáng nằm dọc cánh tay, hắn sử dụng con dao này như chính bàn tay mình: - Với tất cả! Tự dưng ông Trình thấy run người lên vì lạnh. Ông cố gắng nhìn thẳng vào mắt Hải, nhưng chỉ thấy một vùng tối mờ mờ bí hiểm. Giọng ông thoáng run nhẹ: - Nhưng không được dùng võ để ăn cướp. Hải gật đầu đồng tình, dịu giọng: - Vâng, bọn cháu chỉ để giữ thôi. Đám thanh niên về, ông Trình ngồi lại một lúc rồi cũng nhanh nhẹn vụt dậy đi theo ngả của mình. Hải cố ý tụt phía sau đến cổng nhà Lanh, hắn huýt sáo nhẹ. Con chó đang nằm ở cửa rít lên, đuôi đập cuống quýt. Lanh mở cửa. Nhanh như con báo, Hải nhảy vọt qua bờ rào. Hắn lao đến đẩy dúi Lanh về phía cái giường rồi hất chân đóng cửa lại. - Từ từ đã. Lanh rên lên trong vòng tay hắn. Ả ta hơn Hải đến bảy tám tuổi nên không dám gọi hắn bằng anh. Hải vật Lanh xuống giường, người hắn bức bối từ mấy hôm nay. Chiếc giường nứa rung lên bần bật trong căn nhà lờ mờ sáng. Bàn tay Hải giật tung các thứ vải trên cơ thể Lanh, hắn vùi cái đầu hôi rình vào bộ ngực đồ sộ, thây lẩy như cao su. Lanh mặc kệ hắn, ả ườn ra chờ đợi hưởng thụ. Hải khỏe thật, vừa khỏe vừa ác, hắn vần ả như vần một khúc gỗ hàng tiếng đồng hồ mới chịu nhả. *** Ngày 17, dòng Linh Nham bị sạt lở một bờ hàng chục mét. Gần sáng 18, người ta thấy trong làng xuất hiện vết chân thú lạ, y như vết chân từng in lên mặt sân đá nhà cụ Cung. Tại làng Trại, khu Bò Đái, trong căn nhà cuối làng, ông Trình chăm chú giở một tờ giấy nhàu nát ra xem xét. Tờ giấy vẽ những hình kỳ dị, đặc biệt có hình một chiếc vú ba núm. Ông Trình lục trong góc nhà ra cuốn sổ nhỏ bằng bàn tay, ghi mã số chữ in. Im lặng một chút, ông Trình tiện tay vẽ hình ngôi sao có chuôi tua rua đằng sau rồi ngửa mặt than: - Bao giờ nó lại đến?. *** Những quả đồi vẫn tiếp tục sinh ra. Con tàu lừ lừ trôi bên cạnh. Móng trâu đạp lên sỏi lạo xạo. Gã đánh xe xê dịch mông cho đỡ mỏi. Khói thuốc từ mũi hai thanh niên phả về phía sau lãng đãng. Họ trao đổi với nhau những câu rời rạc, xung khắc. Họ bàn đến vẻ đẹp phụ nữ, đặc biệt ca ngợi cặp môi và cái háng. Người to thấp hào hứng kể về một ả đàn bà đi qua đời anh ta: - Một mụ đàn bà háu đói với cặp đùi núng nính. Thật kinh khủng, mụ nuốt chửng tao. Anh ta xoè bàn tay kết luận: - Mụ là nơi trữ tinh trùng và là chiếc xe chở đàn ông lên thiên đàng. Đôi tai người trẻ ngọ nguậy, anh ta khép đùi, mũi ửng lên hau háu nhìn vào mồm bạn và luôn miệng: “Thế à, thế à, lạ nhỉ!”. Ông thấy đầu nhưng nhức. Tìm hộp dầu con hổ, ông day lên hai thái dương. Mùi dầu nóng cay sặc khiến hai thanh niên ngạc nhiên, họ nhìn ông. Tự dưng ông thấy mình cô đơn và lạc lõng khủng khiếp. Cả đời ông chưa được bàn tay phụ nữ nào chăm sóc. Tất cả đều do tự thân ông chống chọi, đôi khi ông thèm được vợ vuốt ve, nũng nịu, nhưng tuyệt nhiên cả hai người đàn bà ấy đều lạnh lùng bỏ qua. Họ thả ông vào tâm trạng lẻ loi vĩnh viễn với chiếc thìa trong túi. Phần 3 Suốt ngày ông quanh quẩn bên ghềnh đá. Ông nhìn xuống chỗ vực xoáy chờ đợi thằng Tĩnh. Nhiều lần ông đã âm thầm ôm mặt khóc như đứa trẻ lạc mẹ. Ông tưởng tượng một lúc nào đó, thằng Tĩnh, thằng con duy nhất trong đời ông, trở về. Nó rẽ nước mà lên, mắt to lồi nhìn ông. Nó sẽ cất giọng như ngày nào. Cái giọng ngọng líu, dính liền nhau mà chỉ ông mới nghe và giải mã nổi. Có điều ông không thể biết nó khóc như thế nào. Ông cầu mong nó vẫn như xưa. Vẫn nhỏ bé, vẹo vọ và nghịch ngợm. Đêm ông mơ thấy nó. Nó lặng lẽ vuốt tay ông, thỉnh thoảng lại cười phô ra mấy chiếc răng sún. Có lần nó về ngồi khoanh chân bằng tròn nhổ tóc sâu cho ông. Nó đếm chi li từng sợi một. Ông vùng tỉnh dậy và thấy tóc mình rụng trắng giường. Cầm một sợi tóc, ông soi lên ngọn đèn dầu như bao lần ông giơ chiếc thìa nhôm của dòng họ để hòng tìm kiến những vết hoa tay in t rên đó. Bây giờ nếu thằng Tĩnh có về, nó sẽ nhổ tóc đen cho ông. Mà hình như cũng chẳng còn sợi nào đen để nó nhổ nữa. Bất giác ông nhìn lại hai thanh niên. Ông thèm được như họ. Giá tóc ông đen lại… Thời gian là kẻ sát nhân tàn khốc. Tóc gã đánh xe không đen cũng chẳng trắng. Nó nhờ nhờ một màu bùn đất. Cảm giác về sự già nua rõ nhất mỗi khi ông bị ốm. Trong túp lều tối ẩm, ông lắng nghe tiếng mọt nghiến ken két, tiếng nước ầm ì và tiếng gió lật mái gianh. Bụi mọt phủ khắp người. Ông nghĩ rằng những bụi mọt kia sẽ phủ kín mình nếu như ngày mai ông không dậy. Ngày mai đã qua nhưng ông chưa bị phủ. Rồi ngày nữa, ngày nữa. Đầu ông chập chờn, nóng hầm hập. Ông liên tục mê thấy mình đi trên đá. Dưới chân ông, những đốm lửa phụt lên rồi vụt tắt. Những ngọn lửa giấu trong lòng đá, như ngày xưa nó giấu dưới đám rêu xanh trong câu chuyện về ông ngoại. Mỗi lần ngọn lửa phụt lên là một lần đầu ông bị mũi dùi xuyên qua. Trận ốm nặng nhất của ông kéo dài hai tuần. Khi dứt ốm, phải cố gắng lắm ông mới gạt được lớp bụi đã đông cứng phủ lên mình. Lần đó tóc ông rụng hết hai bên thái dương. Rồi mùa đông ông lại phải chống chọi với Ô những trận lụt. Ông đeo bọc quần áo vào cổ, cố gắng leo lên chóp đá cao nhất để thoát khỏi cơn đại hồng thủy. Ông nhìn xung quanh, tất cả đều đục ngầu, đều cuồn cuộn, đều xoay tròn, vỡ nát. Thị trấn ngập ngụa trong mưa. Mưa xối xả đến mức không thể trở lại được. Mọi thứ rác rưởi cùng đồ đạc, xác người xác vật trộn vào nhau, nổi lềnh bềnh trong trạng thái buông xuôi, bất lực. Nước à à khắp nơi. Nước vươn tay định kéo ông xuống để mang đi đâu đó. Ông hoảng sợ, thấp thỏm chờ. Biết đâu thằng Tĩnh lại về những lúc đó. Ông không biết nó ra đi vô tình hay cố ý. Khi kéo chiếc cải tiến chở thuê về, ông gọi nhưng không nghe tiếng trả lời như mọi hôm. Ông lần ra mép đá nơi ngày đầu gặp mẹ con nó và thấy một chiếc cần câu nằm chúc đầu xuống nước. Ông lồng lên, chạy cuống cuồng dọc mép sông gọi nó. Ông gọi cho đến lúc kiệt sức, gục xuống mỏm đá. Trăng xoã khắp người làm ông gượng tỉnh. Ông khóc rống lên. Thế là nó đã đi. Nó đã bỏ ông một mình. Mẹ nó, người vợ đầu tiên của ông, cũng từng bỏ đi mà không nhắn lại lời nào. Người ta chỉ cho ông một đống tro trắng xốp nằm giữa khu nhà cháy. Đám cháy khổng lồ không rõ nguyên nhân đã đưa vợ ông đi vĩnh viễn. Chỉ còn lại hai bố con nuôi nhau bằng chiếc xe cải tiến kéo thuê. Ông âm thầm nghiến răng làm, cố gắng dành dụm cho thằng Tĩnh một số tiền. Nó phải có cái để mà ăn, mà gây dựng vợ con khi ông không còn. Cũng dạo đó, ông quen người đàn bà thứ hai. Cô ta phiêu bạt từ xuôi lên và tự nguyện theo ông về làm vợ. Ngay buổi đầu, cô ta đã véo tai bắt thằng Tĩnh đi kiếm cành khô về làm củi đun. Cô ta ăn khỏe như hùm. Phải công nhận rằng cô ta cũng biết xoay sở. Có một dúm vốn, cô ta liền bỏ ông để đi theo một anh chàng bán thuốc bắc rong. Ông không đủ sức buồn, chỉ lặng lẽ thu xếp những gì còn lại và tiếp tục duy trì cuộc sống của hai bố con. Nhà có cái gì, cô ta mang theo hoặc đem bán đi hết. Một thời gian dài sau đó, cô ta lại quay về. Ông không có nhà. Cô ta bắt thằng Tĩnh chỉ cho mình chỗ ông giấu tiền. Nó không chỉ, nên bị đánh đập. Thằng Tĩnh chạy ra cổng. Nó chửi điên cuồng cho đến khi sẩm tối, ông lóc cóc kéo chiếc xe về. - ịt mẹ ày! Ô Nó gào to khi nhìn thấy ông. Ông hỏi, nó không thèm trả lời, bất thần vơ nắm cát đáp thẳng vào mặt ông. Ông tát và xách cổ nó về. Lúc đó thằng bé mới choàng tỉnh, òa khóc. - ó ấy ết iền ồi! Ông nhìn góc lều bị bới tung và chợt hiểu. Sống mũi ông cay cay. Ông thầm buồn thực sự. Nỗi buồn thăm thẳm không lấy gì để chống đỡ được. Ông bắt đầu lại từ đầu. Số tiền dành dụm cho nó chưa được là bao… Từ ngày nó đi, có một con chó không hiểu từ đâu chiều nào cũng đến lều. Con chó quanh quẩn trong lều lấy lệ rồi lảng ra phía sau hít lấy hít để cái hố. Cái hố ấy thằng Tĩnh đào để cất giấu đồ chơi. Nó nhét xuống đấy đủ thứ và bảo rằng để dấm. Vớ được cái gì nó cũng nhét cả xuống, từ chuối non, đu đủ, quần rách cho đến xác chuột chết. Có lần không hiểu nó kiếm đâu ra mấy đồng tiền nhàu nát rồi đem vùi xuống cái hố đó. Nó dấm tiền. Con chó ngủ trên miệng hố, đến sáng lại lảng vảng vào thị trấn để kiếm ăn. Ông mặc kệ con chó, vả lại có nó quang cảnh cũng đỡ buồn hơn. Những lúc rỗi, ông nhìn sang bên kia bảo tàng lịch sử. Cái nhà vuông chằn chặn như tảng gạch đá ong nằm soi bóng xuống dòng sông. Chiều nào cũng có những con quạ đen đến lượn trên nóc bảo tàng như ca ngợi, cổ vũ và thèm khát. Ông đã vào đấy một lần. Toàn súng ống, tượng anh hùng và vàng bạc giả. Có cả ống hút thuốc phiện nữa. Đặc biệt, ông thấy vô số quần áo của đủ loại dân tộc. Tất cả những thứ đó tỏa mùi khêu gợi bầy quạ đen. Người hay sang trò chuyện với ông là lão Hạng. Lão có cửa hàng nhỏ ngay cổng chợ. Cửa hàng, cũng là nhà của lão luôn. Lão Hạng đông con, có đến năm đứa tất cả, toàn trai, đứa nọ nhỉnh hơn đứa kia một chút. Một lũ quỷ sứ thật sự. Vợ lão Hạng bị liệt sau một trận sốt phát ban. Nghe nói mụ ta trước kia thuộc con nhà khá giả, có học. Hôm đầu vào nhà lão chơi, người ông nổi gai ốc ầm ầm. Căn nhà nhỏ chật cứng những đồ đạc rẻ tiền, bẩn thỉu. Vợ lão ngồi trên tấm phản, tựa lưng vào tường. Không biết mụ ngồi đó đã bao năm. Ông chỉ thấy một đống nhàu nhĩ trong bóng tối ẩm ướt, lưu cữu. Một mùi khai nồng nặc sộc vào mũi ông. Con mắt vợ lão Hạng lừ đừ chuyển động khi ông hỏi thăm sức khỏe. Mụ không trả lời, chỉ ậm ự một thứ âm thanh lạnh lẽo và nhớt. Mụ đang loay hoay bắt những con rận bò rào rào quanh mép chiếu. Mấy đứa con lão nằm ườn trên đống quần áo cũ, kịch liệt giành nhau một mẩu sắn nướng. Ông ngồi khoảng ba phút rồi ra. Khi về, ống thấy thái độ lão Hạng khác hẳn mọi lần. Không còn nét thân mật nữa mà ánh lên vẻ thù hằn độc ác. Ông thoáng tiếc, giá như đừng vào nhà lão chắc hẳn quan hệ giữa hai người vẫn tốt đẹp như xưa. Lão Hạng ít nói và tốt bụng. Người lão nhỏ thó, vai trái bị tật, lệch trĩu xuống. Chơi với nhau lâu, ông biết lão thích cây. Lão mê cây đến mức có thể ngồi bất động hàng giờ trước cãi chõng bày dép cao su để ngắm những cây xà cừ xanh thẫm. Lão nhìn miên man như thèm khát. Những lúc như vậy ông thấy mặt lão xanh lét, giần giật chạy. Khó ai có thể đoán chính xác tuổi của lão. - Thủa nhỏ, tôi thích đi rừng. Bao giờ gặp nhau, lão cũng mở đầu bằng một cau như vậy. Mấy lần ông tìm cách dò hỏi gốc gác lão nhưng đành chịu. Khoản đó lão kín như bưng. Lão gây cho ông một sức hút kỳ lạ. Gần lão, ông thấy mình thanh thản, nhẹ nhõm và sảng khoái hơn. Một hôm thằng con thứ hai của lão bị đánh chết ngay giữa chợ. Nó ăn cắp ở hàng chè. Lão Hạng ôm xác con vào lòng, hộc lên một tiếng như lợn. Lão đờ đẫn ngồi cạnh xác con trai hai ngày liền, không cho ai đem đi chôn. Lão đặt xác thằng bé lên chiếc chõng xếp dép cao su. “Tôi bán. Tôi bán!”. Lão lẩm bẩm như thế, mắt nhìn sâu vào khuôn mặt tím tái của đứa con. Công an, bảo vệ đến can thiệp lão cũng mặc kệ. Ông phải bỏ kéo xe hai ngày để ngồi cạnh lão an ủi. Khí lạnh và mùi tanh từ xác chết tỏa làm người ông nhũn lại. “Tôi bán. Tôi bán!”. Lão Hạng vật vã, mắt toàn lòng đen. Đồng tử lão giãn to che hết màu trắng. Người ta vực lão vào nhà. Ông chất xác thằng bé lên xe cải tiến của mình, cùng mấy bà quét chợ đem đi chôn. Lão Hạng càng ngày càng ít nói. Lão vẫn hay nhìn cây. Hàng lão ế ẩm vì không ai dám mua. Những đôi dép cao su phủ bụi, co lại, xoăn như hơ lửa. Lão cũng chẳng thèm để ý. Trong khi ngồi, tay lão cứ vuốt ve từ đầu xuống chân. Dưới bàn tay lão, ông thoáng thấy hình thằng bé con bất hạnh chập chờn ẩn hiện. Ông không đến chơi với lão nữa. Buổi chiều cuối năm, sau khi kéo thuê cho hàng rau bắp cải từ Đồng Bẩm về, ông thấy đám đông bu quanh cây xà cừ trước nhà lão Hạng. Tò mò, ông lách vào và không tin ở mắt mình nữa. Lão Hạng dang hai tay ghì chặt gốc xà cừ vào người, trán lão tì vào lớp vỏ sần sùi. Lão đã chết. Khi gỡ lão ra, người ta thấy ngực lão có một vết rạch rộng bằng gang tay, chỗ rạch ấy áp vào một thân cây, cũng đúng chỗ vỏ bị rạch một vết tương tự. Từ vết rạch ở thân cây, ứa ra một dòng nhựa đỏ bầm, đặc quánh. Khi đặt lão Hạng xuống đất, người ta phát hiện ra người lão cứ xanh dần, xanh dàn như lá cây già. Ông ôm mặt lần ra ngoài. Thotó nhiên ông hoa mắt khi nhìn cây xà cừ. Cái cây rung rung và đỏ hồng lên như một cơ thể sống. Ông sốt nặng. Hình ảnh lão Hạng cùng chiếc chõng dép cao su đêm nào cũng lừ đừ trôi về. Lão Hạng mỉm cười rì rào. Từ đấy, mỗi lần buồn, ông lại vẩn vơ nhìn hàng xà cừ cạnh nhà bảo tàng. Ông như được ai đó từ các tán cây trò chuyện, chia xẻ cùng mình. Ông nhớ lại lần làm quen đầu tiên với lão Hạng. Hôm ấy trời nhả mưa, ông chạy quáng quàng vào thêm nhà lão trú nhờ. Lão tỏ ra khó chịu khi có người trú ở thềm nhà mình. Mưa ồ ồ mấy tiếng liền. Gió lạnh khiến ông run lập cập. - Làm gì mà rét! Mãi lúc sau lão Hạng mới lên tiếng vẻ châm biếm, giễu cợt. Ông mỉm cười ngượng nghịu. - Xích vào đây một chút vậy! Người với chả ngợm. Lão chì chiết. Ông vẫn đứng nguyên chỗ cũ, lòng rối bời vì lo cho thằng Tĩnh ở nhà. Thấy ông im lặng, lão Hạng lân la tìm cách bắt chuyện: - Này, kéo xe thế có đủ ăn không? Ông gật đầu thay cho câu trả lời. Lão xoay sang nói một mình: - Giời với chả đất, đến chết hết đi cho rồi. Cây thì tốt phải biết. Con đĩ kia ông có biết không? Ông nhìn theo tay lão và thấy ở dãy hàng bên cạnh, một cô gái ngồi co ro trước thềm. - Nó làm tiền đấy, tôi biết mà, nó gạ tôi! Lão Hạng hồ hởi nói như khoe. - Nhà cô ta ở đâu? Xích vào trong một chút, ông hỏi, gần như mấp máy môi. - Xì, nhà cửa gì. Đêm nào cũng ngủ thềm đây này. - Thế à? Ông hờ hững, lòng vẫn nghĩ đến thằng Tĩnh. - Uống nước! Lão Hạng đẩy cho ông chiếc ca men bốc hơi. Ông đón lấy với vẻ biết ơn, rụt rè uống. - Hôm nào tôi cũng thấy ông, giờ mới quen. Ông đưa trả ca nước rồi ngồi xuống cạnh lão. Tự dưng lão im bặt, không nói thêm câu nào. Mặt lão lại càu cạu như lúc đầu. Lần sau, ông ghé qua hàng lão mua một đôi dép cao su thay cho đôi cũ đã đứt hết quai. Lão vừa nhận tiền từ tay ông vừa thò cổ vào nhà quát mấy đứa trẻ. Khi ông bước ra, lão gọi với theo: - Này, khi nào mưa cứ vào đây mà trú nhá! Ông mỉm cười kéo xe đi. Ông và lão đã trở thành bạn thân. Xẩm tối, dọn hàng xong, lão lại mò ra lều ông để tán gẫu. Lão nói nhát gừng không để ý đến thái độ người nghe. Chủ đề của lão bao giờ cũng xoay quanh chuyện lụt lội và lợi ích của những đôi dép cao su. Lão nói về thứ dép ấy hào hứng, làm như quảng cáo mặc dù biết được một điều hiển nhiên là hai, ba năm sau ông mới thay dép. Dù sao cũng có một ông bạn cùng lứa. Thằng Tĩnh không ưa lão Hạng. Nó nhăm nhăm chờ lão sang vốc cát ném, sau đó cười rú lên. Lão chẳng giận cũng chẳng chú ý đến nó. Lão nhìn lướt qua đầu nó rồi quên phắt. Thằng Tĩnh và lão không hợp nhau, trái lại càng ngày càng xung khắc. Rốt cuộc thì cả hai đều bỏ ông đi. Đời ông là thế, ròng rã những cuộc chia ly. Mỗi lần như vậy, người ông lại nhẹ hẳn đi như mất một phần xương thịt. Đôi khi ông chợt nghĩ không cẩn thận, cứ đà này này ông sẽ đi là là mặt đất như bà giáo ở làng mình mất… - Tao biết có một người đẻ ngược. Tiếng người thanh niên gầy gò bùng lên đột ngột. Người to thấp hỉ mũi, ông thấy mấy ngón chân thò ra khỏi mũi giầy của anh ta ngọ nguậy. - Đó là chân lí chăng? Vẫn là những câu chuyện tầm phào. Mọi âm thanh đưa ra đều rơi vào khoảng trống. Ông thấy thú vị và theo dõi câu chuyện rời rạc của họ. - Bà giáo ở chỗ tớ đẻ ngược! Người gầy gò nhăn mặt. - Sinh năm Tuất chăng? - Có thể. - Tên? Thanh niên gầy không trả lời, mặt anh ta thoáng vẻ bí ẩn, láu lỉnh. Hai người lạ mặt này ở đâu nhỉ? Tại sao họ biết câu chuyện kì dị của làng ông? Thuở ấy xa lắm, xa đến mức chính ông cảm thấy mịt mù, mặc dù là người chứng kiến câu chuyện của đời bà giáo. Ông nhắm mắt nhớ đến ngày ấy, cái ngày ông đang học cấp hai… *** Bà giáo nhà cuối làng. Gọi là bà, nhưng năm ấy bà mới chỉ hai mươi tuổi thôi. Bà lấy một anh chồng làm thợ rèn. Chồng bà to cao, da bóng nhẫy cả trong mùa đông lẫn mùa hè. Bà giáo có chửa và sinh đứa con đầu lòng. Cả làng mang quà đến biếu vợ chồng bà. Vừa ra đời, đứa trẻ đã gây sự kinh ngạc khắp làng. Nó là trai. Người ta phát hiện ra rằng con bà giáo có râu. Không những thế, ba bốn ngày sau tóc nó còn bạc trắng. Đứa trẻ không khóc, nó giương đôi mắt kèm nhèm nhìn mọi người như phán xét. Vợ chồng bà giáo hoảng hồn. Không ai dám đặt tên cho đứa bé. Hai tuần sau nó chết. ẳ Ngay bản thân vợ chồng bà giáo cũng chẳng dám gọi nó là con. Bẵng đi một thời gian, khoảng ba năm, bà giáo lại có chửa. Dĩ nhiên ngay sau lần sinh đầu, bà đã nghỉ không đi dạy học nữa. Ai dám cho con đến học bà? Bà ở nhà trồng bắp cải. Những cây cải to chưa ở đâu bằng. Dân làng nghi ngờ nhìn chằm chặp vào cái bụng phưỡn to của bà giáo. Bà sợ không dám bước chân ra ngoài nữa. Suốt ngày ru rú trong nhà, chiếc bễ lửa ngoài cửa của chồng bà giáo cứ ù ù như lên cơn điên dại, thù hằn. Bà giáo ở cữ. Lão Biền thi thoảng lại bỏ cắt tóc vào thăm bà. Khi ra, bao giờ mắt lão cũng nhấp nhát, hai cánh mũi phập phồng. Chồng bà giáo bỏ làm, rút vào với vợ. Bà giáo đẻ lúc nào không ai biết. Dân làng thì thào rằng chính lão Biền đỡ đẻ. Họ xúm vào hỏi nhưng lão chỉ gãi đầu im lặng. Gần một tháng trời vợ chồng bà giáo không ra khỏi nhà. Người ta lồng lộn tò mò. Cùng với bí mật quyến rũ đến ghê người, làng tự dưng bị lâm vào một tình trạng chưa từng xảy ra bao giờ. Đó là sự mất tiếng. Cứ về đêm, mọi âm thanh của người và vật biến mất. Những con chó sủa không thành tiếng, chỉ thấy mõm chúng há ra, ngậm vào như hình ảnh trong giấc mơ. Rồi con người cũng lâm vào tình trạng đó. Mọi cử chỉ, ngôn ngữ về đêm được diễn ra dưới sự im lặng kỳ quặc. Tất cả đều nhìn nhau kinh ngạc. Người nọ nhìn người kia và cách giải quyết tốt nhất là đi ngủ thật sớm. Giấc ngủ cưỡng bức, vội vã chìm ngập trong mùi hương thơm lựng từ miếu dì Lãm. Cả làng trở thành một chiếc bóng câm lặng khổng lồ. Ngọn Rùng đen thẫm in trên nền trời. Khói hương bốc ngùn ngụt. Ngay cả tiếng thầm thào ở gốc si cũng biến mất như kẻ tuân theo một mệnh lệnh nghiêm khắc. Người làng vẫn không quên hướng mọi giác quan về phía vợ chồng bà giáo. Chuyện vỡ ra từ hôm thằng Thành, con lão Mộc toét vô tình nhìn thấy bà giáo ẵm con xuống bếp. Mà hôm ấy đúng vào ngày cả làng được trả lại âm thanh. - á a, cháu thề độc, nếu cháu nói sai thì cả nhà cháu mù. Nó cứ toang toác như thế từ nhà nọ sang nhà kia: - Chẳng biết trai hay gái, nhưng mà… - Nói đi. Người ta quây lấy thằng bé, sốt ruột giục cuống quýt: - Nói đi mày. Thằng Thành gãi đầu tỏ vẻ khó nói. Nó đánh mắt xuống bếp hoặc về phía bất cứ cái nồi nào trong nhà. Người ta hiểu ý. - Đợi đấy, bác cho khoai luộc! - Dạ, cái ấy cháu… - Khoai ngọt lắm! - Khoai! Bố cháu bảo khoai thì trơn cổ họng bác nhỉ! Thằng Thành toét miệng cười. Nó ăn lấy ăn để, không những thế, còn đút túi mang về cho mấy đứa em ở nhà. Ai cũng biết nhà nó không đến nỗi nào. Nhưng mà thôi, cái cần nhất là tin tức về đứa con bà giáo. - Mày trông thấy thế nào? Người ta ngon ngọt hỏi nó. - úi chao, nói ra thì phát khiếp. Tóc nó bàng bạc nhá. Mà không, y như tóc bố cháu. - Hoa râm. - Đúng vậy. Răng đen, chết, cháu quên, răng vàng ố. - Khiếp thật! - Chưa bác ạ. Thằng Thành làm vẻ mặt nghiêm trọng: - Nó nói như người lớn nhá. Cháu nghe rõ mà lị. Nó bảo: “Mẹ lấy cho tôi cái điếu” - Bịa. Tao bợp tai cho bỏ cha bây giờ. - Cháu thề… Giữ chặt hai miệng túi quần đầy ự khoai, thằng Thành lao ra cửa và biến mất. Rốt cuộc thì nó nói đúng. Phải cái, lần này con bà giáo không đến nỗi như đứa trước. Nó ở độ già của người ba nhăm, bốn mươi gì đó. Làng lại được dịp ầm ĩ. Bà giáo định tự tử, may có ông chồng giữ lại kịp. Không ai dám đến gần nhà bà nữa. Đêm, đột nhiên dân làng nghe từ nhà bà giáo vọng ra tiếng của hai người đàn ông trạc tuổi nhau, gầm ghè trò chuyện. Cho đến hôm bà giáo lao ra đường kêu gào giữa trưa. Đứa bé đã biến mất. Không hiểu nó bỏ đi hay bị ẵm trộm. Nhiều người rỉ tai nhau rằng biết đâu vợ chồng bà chôn nó đi rồi đóng kịch. Dù sao bà giáo cũng đáng sợ và đáng thương. Phải công nhận rằng bà giáo rất hiền. Bà kiệm lời như kẻ đi tu vậy. Bà mới ba hai tuổi, trông còn đẹp lắm. Môi bà cứ đỏ hồng, mòng mọng, cả má và hai vành tai nữa. Chuyện nguôi ngoai dần. Vợ chồng bà giáo lại lúc cúc dắt nhau lên thị trấn khám bệnh, sau đó về chửa thêm lần nữa. Bà sinh con gái. Nhưng đứa trẻ vẫn mang bộ mặt già trước tuổi. Lọt lòng được hai ngày, con bé có cơ thể như gái mười tám. Hơn tuần sau, nó tự tha thẩn đi chơi khắp làng nhưng tuyệt nhiên không ghé vào nhà ai. Lũ con trai nhìn nó vừa sợ vừa thèm thuồng. Lần sinh nở này khiến bà già sọp hẳn, người nhẹ bẫng. Bà đi chân không bén đất, cứ là là như một làn sương mỏng tang buổi sớm… Phần 4 Mỗi lần ra cắt tóc, lão Biền lại kể cho ông nghe về đứa con gái ấy. - Ai nhìn nó mắt cũng phải dại đi, chú mày ạ! Lão cười khùng khục: - Ước gì tao trẻ lại ba mươi tuổi nhỉ. Chà, tiếc đứt ruột. Câu sau, lão nói một cách nghiêm chỉnh. Ông không cười, cũng chẳng phản ứng. Bố ông cấm không cho chơi với con bà giáo. Em gái ông khóc lóc. Chả hiểu sao nó lại thích con bé đến thế. Dĩ nhiên là nó và con gái bà giáo chưa bao giờ nói chuyện với nhau. Lần nào qua ngõ, con gái bà giáo cũng đưa mắt tìm kiếm em gái ông. Rồi nó có chửa. Nó chửa, bụng to quá cỡ bình thường. Vợ chồng bà giáo chỉ biết khóc. Nó đẻ, đứa con ra đời và chết. Ai cũng bảo đứa trẻ giống mẹ như lột. Con gái bà giáo xanh nhớt, nó uể oải dạo quanh nhà, không đi xa nữa. Một sớm tinh mơ những người dậy sớm nhìn thấy nó trôi là là về phía núi Rùng như một chiếc lá. Nó biến mất. Riêng ông, ông cứ băn khoăn về đứa trẻ mặc dù nó đã chết. Ông ngờ ngợ như gặp khuôn mặt đó ở đâu rồi. Cho đến ngày ông vuốt mắt cho thằng Chí ở cánh rừng biên giới, ông bỗng rụng rời chân tay. Trong ánh trăng xanh lét, khuôn mặt thằng Chí hệt như đứa trẻ chết yểu kia. Điều này chỉ xảy ra, tựa hồ một làn chớp nhưng dư âm của nó còn lởn vởn, ám ảnh ông đến trọn đời. Ông học hết cấp ba, chuẩn bị vào lính thì gặp lão Biền, lão khoe rằng bà giáo lại vừa sinh thêm đứa nữa. - Lại đẻ? Ông ngạc nhiên: - Cháu không hiểu nổi. Bà giáo quá già rồi kia mà. - Quá già thì sao. Lão Biền huơ kéo trước mặt ông: -Cốt là kết quả. - Lại một quái thai chứ gì? Ông sốt ruột muốn đến ngay nhà bà giáo. - Không, một thằng bé chính cống. Nó khóc oe oe. Đẹp lắm. Chính tớ đỡ đấy. Lão Biền khoe khoang: - Nó háu ăn và kháu khỉnh. Mà này, chồng bà giáo chết rồi. Không đợi ông hỏi, lão nói liến thoắng: - Đúng hôm thằng bé ra đời thì nhà họ sập một nửa. Ông ấy bị rui đè gẫy cổ. Ông cúi đầu thở hắt ra. Như chợt nhớ, ông hỏi nhanh: - Mấy lần trước bác cũng đỡ cho bà giáo hả? - Ừa. Lão Biền xác nhận: - Nhưng đừng có hỏi nữa. Chú mày đi bộ đội xong là lấy vợ ngay đi. Lấy đi. Tiếc rằng ông không được nhìn thấy mặt đứa con cuối cùng của bà giáo. Đứa con hoàn chỉnh duy nhất trong cuộc đời éo le của vợ chồng bà. Bà giáo chết, người dưới xuôi về đón đứa bé về làm con nuôi. Câu chuyện về bà giáo chẳng hiểu vô tình hay cố ý đã không loang ra khỏi làng. Nó chỉ lục xục quanh quẩn trong từng nhà rồi mất hẳn. Vậy mà tại sao hai thanh niên này lại biết? Chẳng lẽ sự đời trùng nhau đến thế sao? Chẳng lẽ lại có một cái làng thứ hai như làng ông sao? *** Tao sẽ đấm vỡ mặt mày, thằng động cỡn! Lão Liêm gầm vang nhà, huơ huơ nắm đấm gồ ghề trước mặt con trai. Hải gầm mắt chẻ nốt thanh củi, lẳng toẹt nó vào một góc. - Tôi làm gì mà bố đòi đánh? Rõ rởm. - Ờ, ờ rởm cái thằng cha mày! Lão Liêm nhẩy cẩng lên như người phải bỏng, đấm đánh rầm xuống bàn. Bà Liêm lao ra níu chặt lấy chồng, mếu máo can. Trẻ con hàng xóm kéo sang chật sân, chúng há mồm nuốt lấy từng lời của lão Liêm rồi phá lên cười thích thú. - Mấy thằng chó, có cút mẹ chúng mày không thì bảo? Hải vung chân phóng bừa một cú làm năm sáu đứa bé văng ra quãng xa. Lũ trẻ hớt hải biến sạch. Cú đá của Hải không qua khỏi mắt lão Liêm, lão run lên, vừa sợ hãi vừa bàng hoàng, với cú đá đó, lão hiểu thằng con mình không phải loại thường, lôi thôi quá mức để nó cáu lên thì khốn. Nghĩ vậy lão vờ hục hặc nhẹ mấy câu rồi bỏ đi làm việc riêng. Sẩm chiều, theo thói quen lão mò lên đỉnh đồi, nơi có hai ngôi mộ của gia đình. Lòng lão bứt rứt khó tả, có gì đó không yên ổn vây bọc ý nghĩ của lão. Mấy tháng gần đây, trong mơ lão hay thấy vết chân lạ vô hình in quanh hai ngôi mộ của bà mẹ và cậu con cả lão. Ngắm nghía hai ngôi mộ, lão Liêm ngờ ngợ như chúng sắp sửa biến mất không để lại dấu vết gì. Chỉ nghĩ đến đó, lão lạnh cả gáy. Mộ mẹ lão đã lún xuống một góc khá sâu, vết lún đó kéo theo một vết nứt chạy dài nửa phần mộ. Rêu mọc xanh thẫm trên lớp xi măng. Đấy là điều kỳ lạ lão không sao giải thích nổi. Tuồng như dưới ngôi mộ đó là cả một dòng sông nhả hơi nước lên để nuôi đám rêu một cách công phu. Mộ thằng Can, trái lại khô khốc, xi măng bóng rợn, đất trên đỉnh đồi bị mưa xô xuống che mất một nửa. Tiếng vỗ cánh phành phạch làm lão giật mình. Con chim đen khổng lồ lượn những vòng rộng. Nó sống được bao năm rồi nhỉ? Lão Liêm bần thần tự hỏi. ở trên cao lão bao quát cả vùng Linh Nham trong tầm mắt. Những quả đồi phập phồng chạy chéo nhau, xa hơn chút nữa rừng núi tím thẫm, còn dưới chân lão, sông Linh Nham ẩn hiện chẳng khác gì con rắn khổng lồ đang trườn giữa rừng cây um tùm. Nếu tính những quả đồi cao nhất, sẽ thấy chỗ lão Liêm đang đứng là đầu một con vật lạ chưa ai nhìn thấy, nó hao hao giống một con bò già cóc đế, xương sống lổn nhổn. Nhưng người giầu tưởng tượng hơn nữa sẽ dễ dàng nhận ra rằng những quả đồi to xếp với nhau thành hình con Nghê. Đấy là một bí mật, bởi vì chưa ai được đặt chân lên đỉnh đồi nhà lão, mà chỉ ở đỉnh quả đồi này mới có thể nhìn ra hình con vật kỳ dị đó. Rời hai ngôi mộ, lão Liêm lững thững đi xuống. Lúc này đầu óc lão lại nghĩ đến thằng con trai. Sớm nay, lão đang lúi húi chẻ lạt buộc lại giàn mướp thì Lanh sang. ả trơ trẽn hỏi xem Hải có nhà không. Chẳng hiểu giời xui đất khiến thế nào lão lại đốp luôn một câu: - Con tôi không chơi với đĩ! Lanh nổi cơn tam bành, ả nhẩy tâng tâng rỉa rói vào mặt lão, không còn nể nang gì nữa. ả vươn bộ ngực đồ sộ dí sát người lão khiến lão tối tăm mặt mũi: - Đĩ, ừ thì vậy. Tôi không làm đĩ với ông, tôi làm đĩ với con trai ông đấy. Giỏi thì cứ lao vào… Bố sư thằng già này. Bà thì bà kẹp cho vỡ bẹp cả đầu chứ lị. Bà không tha cho con trai của mày đâu! Không kịp để lão phản ứng gì cả, ả đùng đùng bỏ về. Lão lẩm bẩm chửi đổng, gặp Hải đi tắm về, lão trút ra tất cả nỗi bực bõ cũng như danh dự vừa bị sỉ nhục. Lúc này đầu óc lão căng ra tìm cách tính toán chặn thằng con lại, không nó sẽ phá vỡ gia đình của lão. Lão vỗ vỗ tay lên cái trán ngắn một mẩu, mồm méo xệch vẻ căng thẳng. Chi bằng lấy cha cho nó một con vợ, thế là xong hết mọi chuyện. Có vợ nó sẽ khác đi. Ngày xưa chính bố lão cũng làm như thế để trị lão. Hải ngồi dạng chân chêm lại cái cán xẻng thì bố xăm xăm đi tới: - Này Hải, mày biết con Hoan cháu bà Kính chứ? Nghe bố hỏi, Hải nghi ngờ nhìn lên, khẽ gật đầu. Thấy vậy, lão Liêm tuyên bố một lèo: - Tao sẽ hỏi nó làm vợ mày. Câm mõm, đừng có cãi lại. Ngần này tuổi đầu rồi, phải chí thú vào mà làm ăn. Con bé cũng tốt nết đáo để. Khoan, định bỏ đi đấy phỏng. Hừm… Ngay sáng mai tao sẽ sang nhà bà ấy… Hải đực mặt nhìn bố như bị thôi miên. Lão Liêm hồ hởi, nói tràng giang đại hải cứ y như cưới ngay đêm nay, mà chính mình cưới chứ không phải thằng con trai đang ngồi kia. Đột nhiên sực tỉnh, Hải đứng phắt dậy phủi tay vào ống quần, gằn giọng: - Bố đem con ấy về đây, tôi đấm nó chết ngay tại cổng! Lão Liêm bổ chửng vì phản ứng quá bất ngờ và dữ dội của con trai. Lão cố bình tĩnh lại, nhếch môi nhợt nhạt: - Làm gì mà mày căng thẳng thế, thằng hũ nút kia. Lấy vợ xong, bố sẽ cho mày đủ thứ, thoả sức mà sống dư dật con ạ. Tao còn một kho của kia kìa. Lão huơ tay ra sau định chỉ vào một điểm nào đó nhưng liền đấy rụt lại như bị sét đánh. Suýt nữa lão đã phạm phải một sai lầm không thể tha thứ được. Cũng may lúc đó Hải không để ý, hắn huỳnh huỵch bỏ vào dọn cơm cùng mẹ. Cả nhà lão Liêm đang quây quần bên mâm cơm thì thằng Bình Mịch nhẩy bổ vào. Hắn gọi hải ra thì thào rồi biến mất. Cụ Trường nhét nốt gắp rau muống vào mồm, trợn đôi mắt kèm nhèm rồi hỏi cháu: - Cái gì thế? Hải im lặng ăn rồi hắn buông đũa trả lời một câu cộc lộc: - Tối nay đi rình thú lạ! - Mày bảo sao? Lão Liêm hộc lên xuýt nữa thì bị nghẹn. Cụ Trường nhìn con trai, thở dốc. Bà Liêm hỏi nhanh: - Hai người làm sao đấy? Lão Liêm tỉnh ngay nét mặt, xua tay: - Không có gì cả. Tý nữa ăn cơm xong, mày ra tao nói chuyện này! Lão bảo con trai. Hải ngạc nhiên nhưng không hỏi. Cụ Trường đột nhiên ho rũ rượi. - Lại chuyện chẳng lành rồi! Bà Liêm than lên. Lão Liêm gắt át đi: - Con khỉ, câm ngay, biết gì mà chõ mồm vào. Hai bố con lão Liêm ngồi trên đỉnh đồi, giữa hai ngôi mộ. Bóng đêm lảng vảng kéo đến vây lấy họ. Dòng Linh Nham sôi âm ỉ. Hải cau có gại gại móng tay vào ống quần, chờ đợi xem bố định nói gì. Lão Liêm thả mắt bâng quơ khắp vùng đồi đang thoi thóp giữa bóng tối. Tự dưng lão thấy khó xử vô cùng. Đã có thể nói rõ cho thằng con không đáng một xu tin tưởng này điều lão canh cánh ấp ủ chưa? Chẳng biết nó có xứng đáng được đón nhận, chia sẻ bí mật ấy không nhỉ? Lão hiểu trước sau mình cũng phải nói, nhưng hình như chưa đến lúc, vả lại lão biết mình còn dư sức lắm. Nói ra ngộ nhỡ thằng chết đâm chết dầm này làm hỏng bét cả thì khốn. Đầu lão căng lên vô vàn câu hỏi, lão sực nhớ mình chưa hỏi ý kiến ông bố. ở cái nhà này chỉ có hai người biết được điều thiêng liêng và quan trọng đó. Nghĩ đi nghĩ lại, lão Liêm quyết định không nói nữa. Trước lúc xuống nhà, lão hắng giọng bảo con: - Tối nay mày không đi đâu cả. Đừng có a dua theo con nhà Mịch, làm gì có thú lạ thú liếc nào. Hừm… Lão phẩy tay bước đi thoăn thoắt khác hẳn mọi ngày. Hải ứ người, uất nghẹn đến cổ vì thái độ của bố. Hắn không hiểu được ông muốn gì. Và Hải quyết định không ra khỏi nhà đêm nay, hắn thấy chân tay mỏi nhừ như bị cho vào cối dần. Trái với mọi lần, lão liêm lên giường đi ngủ rất sớm, nửa đêm không thấy động tĩnh gì, lão rón rén dậy bước ra ngoài đường tay cắp theo một thanh tre đực to bằng cổ tay, vàng sẫm. Lão men theo bờ rào hàng xóm, vòng xuống chân cầu Linh Nham, ngồi thụp xuống, mắt căng lên chờ đợi. Lúc sau, có tiếng sột soạt, rồi từ cánh rừng ven sông, một con vật ngất ngư đi ra. Lão Liêm rùng mình. Dưới ánh trăng loãng nhạt lão nhìn thấy con thú kỳ lạ, thân ngắn, bốn chân có bốn túm lông trắng, tai con thú to nhưng thấp áp vào đầu. Con thú đi xuống sông, vục cái đầu quá cỡ xuống uống nước ngay cạnh chỗ lão ẩn nấp. Con thú không có lông trên lưng, bụng thon như sư tử, nó uống một cách từ tốn, đôi mắt to trong như hai cái trôn bát sáng rực. Lão Liêm hắng giọng nhẩy vụt ra khua cây gậy lên trời. Miệng lão huầy huầy xua đuổi con vật. Thấy động, con vật kỳ lạ ngẩng lên, đôi mắt nó chiếu thẳng vào lão Liêm một lúc rồi vụt vào rừng như cơn lốc. Lão Liêm thở phào, tay quệt mồ hôi đang đầm đìa khắp mặt. Đang thủng thẳng về, chợt lão thấy bóng thằng Bình Mịch lom khom xách khẩu súng săn lần ra mép sông. Lão nép vào bụi duối gần đấy, đợi chờ, miệng lẩm bẩm: “Muộn rồi con ạ!”. Khi thằng Bình đi ngang qua chỗ mình, lão Liêm vung cây gậy tre phạt một cú trời giáng quét ngang mặt đất. Chỉ nghe tiếng hộc đau đớn, rồi thân hình dài ngoằng của thằng Bình Mịch đổ vật xuống, khẩu súng săn văng sang bên. Lão Liêm lách theo các bụi cây, lẳng lặng trở về. Lão biết mình vừa gỡ được một tai họa ghê gớm cho gia đình và cũng tự nhủ rằng không còn là lúc thảnh thơi nữa. Trước khi vào giường, không hiểu sao lão lại đảo qua chỗ Hải nằm nhưng chỉ thấy chiếc màn rỗng. Khá lâu sau Hải mới lò dò về, người thẫm sương, đẫm ướt. - Mày đi đâu về, thằng kia ? Hải giật mình nghe tiếng bố hỏi, hắn vờ cài cúc quần, nói rất khẽ: - Đi ỉa! - Đừng có giấu tao, đi đâu? Vừa hỏi nhỏ lão Liêm vừa sấn đến trước mặt con, hai cục ổi ở yết hầu chạy lên chạy xuống. Tự dưng Hải cáu: - Tôi đã bảo đi ỉa là đi ỉa. Không tin ra mà xem! Hắn chỉ bừa tay ra ngoài. Lão Liêm trở về giường. Lão tin lời con trai. Thực ra, khi lão Liêm đi, Hải chằng biết nhưng hắn sực nhớ lời ông Trình dặn ông đang cần một chiếc lưỡi của con thú hiếm để làm thuốc chữa bệnh. Nếu thấy cố gắng mách cho ông biết. Hải nhớ thằng Bình nói buổi chiều rằng đây là con thú lạ, chưa nhìn thấy bao giờ. Thế là Hải nhỏm dậy, chạy báo cho ông Trình. Nghe Hải nói, ông trình vội vàng xỏ quần, vác dao đi ngay, bỏ mặc hắn tụt lại đằng sau. Hải về thẳng nhà, mặc kệ ông Trình với con thú, chỉ biết hắn đã có lòng tốt mách cho ông, thế là xong. *** Ông Trình đi như bay ra sông Linh Nham, lòng dội lên cảm giác khó tả. Chợt ông dừng lại khi đến gần chân cầu. Một bóng ngươig khật khà khật khừ xách khẩu súng lê sền sệt trên lối mòn đầy cỏ. - Bình hả? Nắm chắc con dao trong tay, ông Trình hỏi nhanh. Bóng người khựng lại gật đầu, miệng vẫn rên hừ hừ. Ông Trình vực Bình dậy mới biết hai ống chân của hắn sưng vù, không đứng nổi. - Ai đánh cậu? - Cháu không biết. - Bình thều thào: - Mẹ kiếp, suýt nữa thì xong đời. Bác làm ơn xách cho cháu khẩu súng. Ông Trình nhìn quanh, dưới trăng đôi lông mày chổi xể chụm lại, đổ bóng tô xuống vành mắt. - Con thú đâu? Bình nén đau, hỏi lại đầy ngạc nhiên: - Sao bác biết? Ông Trình lắc đầu, hỏi tiếp lần nữa Bình ngao ngán vơ cọng cỏ đưa lên mồm nhấm nhấm: - Mọi đêm nó vẫn ra, đêm nay thì… Hắn uất ức và sợ hãi nhìn quanh. Ông Trình nghĩ ngợi một lúc rồi im lặng dìu Bình về. Tới cổng ông để hắn tự lê vào nhà còn mình vạch đêm quay lại xóm Trại. Suốt đêm đó ông Trình không ngủ, nằm vắt tay lên trán nhìn chăm chăm vào đám mạng nhện chăng trên nóc. Gần sáng, ông vùng dậy giở cuốn sổ cũ kỹ, thận trọng đọc lại từng chữ, xong, bỏ ra ngoài, vươn vai đi mấy thế võ kỳ quái. Ông Trình đang tắm bên dòng suối nhỏ trong veo thì Quản hâm đi qua. Mụ là người đàn bà độc thân, ngày xưa từng làm cô giáo dạy vỡ lòng được huyện cử vào xóm Trại. Ông Trình nghe người ta kể lại rằng thuở ấy mụ đẹp, phải tính hơi rưn rứt, động tí là cười, động tí là khóc. Đôi khi đang giảng cho bọn trẻ, mụ lại ngồi phệt xuống đất cười nói huyên thuyên làm bọn trẻ bỏ học hết. Tất nhiên đấy chỉ triệu chứng nhẹ. Sau vụ bị một thằng cha vu vơ nào đó tận làng Phan lừa đến mức thất tình, mụ bỏ dậy, không đi đâu, nhập luôn làm dân bản xứ. Từ đấy cái tính hâm của mụ cứ theo tuổi tác mà tăng dần. Mụ Quản ở đây dễ đến ba bốn chục năm rồi, và với ngần ấy thời gian, tất cả lũ đàn ông trong xóm Trại đều lần lượt qua tay mụ. Dạo này mụ Quảng hay vào rừng buổi sớm, chẳng biết để làm gì. Có người bảo mụ mê ông Trình mà sinh ra thế. Mỗi lần đi qua nhà ông, mụ Quản đều sửa sang áo xống, tóc tai cho gọn ghẽ, mặt vưỡn lên, mắt chớp chớp như đang có điều gì cảm động trong lòng. Rồi mụ còn hát, tiếng hát của mụ khàn đặc, nặng chình chịch nhưng đôi chỗ luyến láy nghe cũng véo von ra trò. Dừng lại bên suối, mụ Quản nhón lấy một viên sỏi đáp đánh tũm xuống chỗ ông Trình đang tắm, rồi e thẹn nép vào tảng đá cạnh đấy nấp. Nhìn ông Trình ngoảnh đi ngoảnh lại tìm kiếm ngơ ngác, mụ Quản bật cười khúc khích. - Này, này, lên đây bảo cái này này. Ông Trình trợn mắt nhìn đầu mụ thò ra khỏi tảng đá. - Tắm sớm thế, cảm chết! - Cút! Ông Trình vừa bực, vừa xấu hổ quát, lom khom lấy tay che hạ bộ bước đến chỗ quần áo. Mụ Quản nổi cơn hứng chí giở cái trò vỡn vèo của bọn trẻ đang yêu, ưỡn ẹo bước ra vơ lấy quần của ông Trình giấu ra sau lưng. - Khiếp chưa kìa! Mụ vờ ngoảnh mặt, che cái miệng mở toác ra cười sau bả vai. Ông Trình không ý tứ gì nữa, nhẩy sổ đến giật lấy quần rồi chạy. Mụ Quản há hốc mồm nhìn ông như thôi miên. Mụ tẽn tò vì trò đùa không được hưởng ứng, bèn nhổ toẹt bãi nước bọt, bỏ đi. Nghĩ sao, mụ lại đuổi theo ông Trình, mặt dằn dữ: - Này, đây bảo cho mà biết nhớ, còn khươn nó mới đến! Ông Trình giật thót người. Bằng linh cảm của kẻ có thần kinh nhạy bén, ông biết mụ Quản nói “nó” ấy là cái gì. Ông vồ lấy vai mụ lắc mạnh: - Sao mụ biết? Mụ Quản vờ như không nghe thấy, cứ đắm đuối nhìn sâu vào mắt ông Trình. Sốt ruột, ông nói nhanh: - Bỏ cái thói ấy đi. Già bố nó rồi, ai thèm! - Đây nuốt thẹn mà nói rằng đây yêu đằng ấy! - Hì! Cũng được. Ông Trình cắn răng: -Vậy nói đi sao mụ biết? Mụ Quản vẫn quan trọng, ngồi xuống ven đường, hoác đôi chân ra, rung rung làm ông Trình đỏ cả mặt. Mụ vẫy ông ngồi xuống bên cạnh. - Còn những ba tháng nữa cơ! Mùa đông nhá, mùa xuân nữa nhá. Mà nhớ nhá, đây đã nói rằng đây nuốt thẹn để… Không kịp để mụ nói hết câu, ông Trình sầm sầm bỏ đi, miệng văng tục: - Con khỉ! Ngứa cả… Câu cuối ông nhịn được. Buổi tối, ông Trình ra thung lũng sớm hơn mọi lần. Ông sốt ruột chờ Hải. Những lúc nghỉ giải lao, ông hỏi hắn rất nhiều, sau đó với giọng thản nhiên ông nhờ Hải tìm cách lấy cho mình một viên đá ở nhà cô Nguyệt, cháu cụ cố Cung. Phải lấy hòn đá đó ở vết chân con thú đã in ngày xưa. - Lấy làm gì nhỉ? Hải hỏi lại bâng quơ, với hắn đó là trò vô nghĩa. - Tôi muốn xem có đúng là con thú tối qua không. Nếu phải mới làm thuốc được. Cậu giúp tôi. - Khó gì! Trước khi về, ông Trình dặn Hải rằng nhớ không để cho ai biết vì ông muốn tránh thói tò mò của thiên hạ. Ngoài ra, ông Trinh còn gọi riêng Ngân sùi, một đứa con gái mười sáu tuổi, xấu xí, mặt rỗ hoa, thích học võ cùng đám con trai, nhờ nó in lại nguyên vẹn vết chân thú ở bờ sông Linh Nham. Con Ngân hồ hởi nhận lời, đối với nó không gì vinh dự bằng được ông Trình giao việc. Nó vốn sùng ông như vị thánh, đêm nào cũng nằm mơ thấy ông đánh võ. Cả đời nó ao ước được giỏi võ như ông để đi giang hồ. Nó tưởng tượng mình sẽ khuấy nước chọc trời ở cả vùng Linh Nham này. Đi đâu, làm gì nó chỉ nghĩ đến bộ quần áo mà sau này mình sẽ may. - Lúc ấy, em phải mặc quần áo đỏ, có đai đen mới được. Còn mũ, ma thôi, đội mũ rách việc, sẽ chít khăn to bản. Theo anh, khăn màu gì để hợp với thanh gươm em sẽ đeo nhỉ? Con Ngân tâm sự nhiều với Hải như thế, trên đường về. Hải ngạc nhiên hắn nhìn nó như quái vật. - Tao nghĩ mày chỉ hợp với cái cũi chó thôi. Bị xúc phạm, ngân giận Hải mấy ngày không thèm nói một câu. Nó càng quyết tâm học võ và bám ông Trình không rời một bước trong những buổi tập. Ngân mắc bệnh lãng mạn, nó thầm hứa một lúc nào đó có điều kiện sẽ hiến thân cho ông Trình, người thầy, vị minh chủ của nó. Đêm, khi tắm, nó cứ ngắm mãi thân hình cong queo của mình và cầu mong vú to thêm một chút nữa. Nó mơ màng nghĩ: “Những người như chàng Trình thì bao giờ cung thích vú to. Chao ôi, tội nghiệp chàng phải đợi. Em sẽ cố gắng…”. Đêm sau nữa, ông Trình đã có trong tay vết chân con thú do con Ngân đem đến, còn Hải, hắn bảo răng chưa có điều kiện đột nhập vào sân nhà cô Nguyệt. Lý do chẳng có gì khác nhau ngoài chuyện chó nhà ấy vừa đẻ. *** Hai tuần nay Loan không về nhà. Cô đã có người yêu tên là Huấn. Anh chàng này làm ở hội văn nghệ tỉnh. Huấn không phải dân gốc ở đây. Nghe đâu anh ta sinh ra trong một cái lều bỏ xó thuộc tỉnh Yên Bái. Người Huấn đậm chắc, đầu hơi vuông. Đặc biệt anh ta có nụ cười làm duyên khá đẹp. Với nụ cười đó, với đôi mắt đa tình lúc nào thấy con gái cũng nheo nheo và do vị trí biên tập ở tờ báo của hội, nhiều cô gái chập choẹ làm thơ đã xa vào vòng tay của anh ta. Loan quen Huấn trong buổi thơ sinh viên do trương tổ chức. Ngồi dưới nghe Huấn đứng trên bục đọc thơ tình, lòng Loan thắt lại. Bài thơ nói về một mối tinh tan vỡ, chàng trai đi lang thang và rền rĩ gọi người yêu. Sau đó, chàng trai gục đầu hóa đá ở ngay một cái chợ quê nào đó. Loan thổn thức, nước mắt ướt đầm chiếc khăn mặt mới sắm được. Giọng của Huấn lại bi thương, y như bản thân anh ta sắp hóa đá đến nơi. Loan ghìm nước mắt, run rẩy cầm bó hoa hồng lên dúi vào tay Huấn, nghẹn ngào câu gì đó. Thế là họ quen và yêu nhau. Trong cơn say mê điên cuồng của mối tinh đầu, Loan đã quyết tâm trao thân cho người con trai mà cô tưởng tượng rằng số phận của anh ta đã nằm trong bài thơ lâm li thống thiết kia. Hai người ngủ với nhau được mấy ngày thì Huấn tuyên bố cắt đứt quan hệ. Lý do của anh ta vô cùng đơn giản nhưng không kém phần quan trọng, thiêng liêng: - Em ạ, anh đã thuộc về nhân loại rồi. Mắt Huấn nhắm lại, vẻ khổ sở: -Thế cho nên đừng ích kỷ thuộc về riêng em… Anh biết, em là cô gái có lòng nhân vị cao cả. Lịch sử thi ca sẽ ghi công cho sự hi sinh của em! Nói xong, Huấn nức nở bỏ đến nhà Thúy lùn, một cô giáo vừa ly dị chồng, để nằm ngấm nỗi đau của sứ mệnh vĩ nhân. Loan bàng hoàng, đồng thời cũng cảm thấy có ai đó ở nơi xa đang sắp sửa ghi tên mình vào từ điển văn học thật. Khi lũ bạn cùng lớp biết chuyện, chúng gào ầm lên với Loan: - Vĩ nhân! Con Quỳnh dài giọng: -Cái mã nó có mà hót phân cũng chưa xong nữa là. Thơ với chả phú, chùi đít hết. Còn Thọ, bạn trai của Loan, nghe xong chỉ đút hai tay vào túi quần chửi rõ to: - Tiên nhân mấy thằng làm thơ! Nhiều người quanh đấy phản đối Thọ. Thế là xảy ra cuộc tranh luận lý thú về thơ. Có người bảo thơ bây giờ dở như cứt, kẻ khác cự lại, khen hết lời, nào là hình tượng mới, nhịp điệu mới, vân vân và vân vân. Cuối cùng hai phe lao vào ẩu đả nhau, quần nát cả vườn cải của cô giáo Hiền. Chồng cô ta lao ra, giang hai tay lên trời, thét một tiếng nghe đứt cả ruột: - Trời ơi, lũ quỉ, thế là mất đứt một món tiền của gia đình tao rồi! Loan đang ở tâm trạng hoang mang thì Công đến. Công vốn là dân báo chí, nhưng cũng tập toẹ làm đôi ba bài thơ. Tính khí của Công có vẻ hào hoa, dáng lại đặc biệt rất đàn ông, cao to vạm vỡ, phải cái mặt gẫy gục và nói ngọng. - Anh sẽ làm nọ hoa để em ngự trong đó. Trời em nộng nẫy làm sao. Loan rũ ra cười vì câu tỏ tinh kỳ lạ đó. Cô tắc lưỡi yêu Công. Khi biết Huấn đến trước cả mình, Công ức lắm, suốt ngày nói xấu anh ta: - Anh thì anh không thù hằn gì Huấn cả, nhưng trong nĩnh vực văn chương phải xoàng phẳng. Thơ của Huấn dở bỏ sừ, dở hơn rau thối, hơn… Công chém chém tay tìm từ diễn đạt hàng tiếng mà không được. Loan buồn bã. Nhiều lúc bên Công cô cứ nghĩ vẩn vơ rằng chẳng lẽ số mình lại phải dính mãi vào những người làm thơ ư? Hay cả cái thành phố này con trai đều thế? Rồi Công cũng chuồn nốt. Anh ta để lại cho Loan một bức thư kể lể chuyện khó khăn của mình. Cuối thư, Công chép tặng Loan bài thơ, theo anh ta viết, thì nó được ra đời trong tâm trạng dằn vặt đau đớn. Loan không nhớ bài thơ, cô chỉ mang máng rằng có câu gì đó đả động đến ớt với tỏi. Lá thư gieo vào lòng Loan sự đỏ vỡ chán chường về tình yêu cũng như bản chát về đàn ông. Loan bị giang đòn xây xẩm cả mặt mày, cô lao vào các cuộc tình ngày một mãnh liệt, chóng vánh. Trong đó, một lần Loan không thể tha thứ được cho mình, ấy là yêu nhầm ngay cả một thằng cha hấp. Loan bị bạn bè đem điều đó ra làm cho cười, cô càng ức muốn trêu ngươi tất cả. Cô bỏ học liên miên, người gầy rộc đi, mặt mũi hốc hác, duy chỉ có đôi mát vẫn ánh lên cái gì đó ươn ướt và cặp môi dầy cong là còn giữ nguyên vẹn. Nhà trường cảnh cáo Loan đến lần thứ tư thì ông hiệu trưởng quyết đinh cho cô nghỉ học. - Tôi dí cứt vào sách vở! Loan gằn môi sát mặt ông hiệu trưởng rồi đi thẳng. Cô đến nhà Tiến quắt, gã người tình sống độc thân ngay khu chùa phù Liễn. Tiến quắt hơn Loan đến hai chục tuổi. Gã láu cá vô cùng, con mắt một mí lúc nao cũng lim dim như kẻ chực ngủ, ấy vậy nhưng cấm có điều gì qua được mắt gã. Tiến làm chân xé vé ở chợ thành phố hàng chục năm nay. Vớ được Loan, gã nở tung cả lòng ruột vì hạnh phúc. Đời gã tưởng đi đứt về đường tinh duyên, thế mà trời lại phù hộ cho một hòn ngọc quý báu. Tiến quắt chiều Loan hơn chiều gái đẻ. Loan muốn cái gì hắn cũng lọ mọ kiếm bằng được. Đi đâu, gặp ai hắn cũng khoe là mình đã có vợ, mặc dù Loan chỉ tuyên bố với gã là chỉ ở tạm mấy tuần. Một chiều, khi Loan đang uể oải trong nhà Tiến quắt chờ gã về thì Hải đến. Hải nhìn căn nhà thấy ọp ẹp, tối lờ mờ, đồ đạc sơ sài vất bừa bộn, hắn khịt khịt mũi. Loan nửa nằm nửa ngồi trên giường, lưng tựa vào tường, chiếc gạt tàn thuốc lá để bên cạnh đầy ự. - Tao biết hết rồi. Hải nói tỉnh bơ, không những thế hắn còn thấy thích thú: - Ông bà già sốt ruột quá, cứ bắt tao đến xem thế nào. Loan không nhúc nhích, mặt lờ đờ theo làn khói loả tỏa từ điếu thuốc trên môi. Lúc này Hải mới để ý thấy móng tay em gái mình đánh sơn đỏ chót. - Tao sợ ông già sẽ thân chinh đến đây mất. Mày còn gì ăn uống không, đói bỏ mẹ đây này. Phần 5 Hải ngồi cạnh em gái, lấy chân gạt mấy thứ lặt vặt vào gầm giường. Loan rít nốt mẩu thuốc, dúi xuống cái gạt tàn, môi cong tớn lên: - Anh về cứ bảo ông bà già là em đang bận ôn thi. Ở đây rách lắm, về đi. Hải nhìn em gái chằm chằm, tự dưng hắn thấy cổ họng khô cứng. - Hay mày về cùng anh? Nhà mình cũng đâu đến nỗi. Loan phá lên cười, tóc rũ ra như con bệnh tâm thần. Cô sỗ sàng vỗ vai ông anh, nói leo lẻo: - Anh sẽ giầu có đấy. Đừng làm mất lòng ông già. Em biết ông có gì để dành rồi, nhưng mà em cần quái gì. - Mày định thế này mãi sao? Hải hỏi nhẹ, hắn cúi mặt giấu xúc động. Loan lại châm thuốc, rít liền mấy hơi, tròn mồm thả ra hàng đống khói hình chữ o. - Sẽ khác chứ, nhưng phải từ từ. Mặt Loan lại thoắt mơ màng: -Anh có biết điếm là gì không? Hải lắc đầu, hắn kinh ngạc thật sự. - Tự dưng em muốn làm điếm kinh khủng. Làm điếm sẽ có tiền, mà đỡ vất vả. - Đừng có điên! Hải gắt lên, đứng dậy định bỏ về thì Tiến quắt tênh tếch lao vào. Thấy Hải, Tiến quắt dừng phắt lại, răng nghiến trèo trẹo: - Vào đây làm gì? Loan nhổm hẳn người dậy, ngáp rõ to, thủng thẳng nói với anh trai: - Cứ thế nhé, anh đừng có kể gì cả. Với lại từ nay chẳng cần đến nữa đâu, bao giờ cần em sẽ tự về. Hải vểnh tai bước ra, khi cầm lấy ghi đông xe đạp, hắn day mặt lại phía Tiến quắt: - Cái thớ mày, tao liếm một cái là hết, đừng có hỗn. Tiến quắt đực người nhìn theo dáng băm bổ của Hải lao đi, gã hỏi gay gắt: - Anh thật hay rởm đấy? Loan gật đầu. Đến bữa ăn. Tiến quắt lại quặc Loan một chập nữa, rồi lầu bầu giọng kim: - Tôi không muốn cái thói cốc mò cò xơi đâu đấy nhá. Loan dằn bát cơm xuống, mặt đỏ văng: - Không tin hả. Xì, đồ dái ngựa chết, anh định dọa con này hử. Không xong đâu. Ngay đêm nay tôi sẽ ra khỏi đây. Tiến quắt hốt hoảng làm lành, gã quờ vai Loan vuốt ve, con mắt hấp ha hấp háy, giọng nịnh nọt: - Đừng có động cỡn lên nữa em, anh là anh đùa một tý cho nó vui thôi. Gớm, đanh đá quá, lỡm ạ. Hì, tý nữa bọn mình sẽ đi xem. Nửa đêm, Tiến quắt thấy Loan giở mình, khóc rưng rức. *** Hải về đến nhà, đêm đã khuya. Vừa đến cổng, hắn thấy trước sân nhà mình đèn sáng choang, rất nhiều người lố nhố đứng ở đấy. Hải vứt xe lao vào, đám người im lặng nhường chỗ cho hắn đi. Trên thềm nhà, Hải nom rõ Quý cụt đang vung chân vung tay chửi bới ỏm tỏi. Cạnh Quý cụt, lão Liêm mặt tái mét cứ lắp ba lắp bắp phân bua gì đó. - Được, không lôi hôi gì hết, tôi sẽ đợi ở đây cho đến khi thằng chó ấy về. Mẹ chúng mày chứ, ông thì ông giết như ngoé cả lũ. Dám cướp vợ người ta. Quý cụt quay sang đã thấy Hải đứng bên, mặt sắt lại dữ tợn. - Ai cướp vợ mày? Hải lạnh lùng gạt tay bà Liêm, sấn lại chỗ Quý cụt. - A à… Nó đây. Thằng ranh con vắt mũi chưa sạch. Quý cụt vừa lùi vừa thủ thế, vừa chỉ cánh tay độc nhất vào mặt Hải: -Mày còn già mồm hử. Tao đã nghe người ta kể hết rồi. Cả con khốn nạn ấy cũng thú nhận nữa. Còn chối hay không thì bảo. Quý cụt rút đánh xoạt con lê AK giắt sau lưng ra. Đám đông rú lên. Lão Liêm nhảy choi choi hô hét gì đó rồi cầm bừa chiếc xẻng dựng bên cạnh. - Tao thi tao nuốt sống mày… Hải không đẻ cho Quý cụt nói hết câu, nhanh như chớp hắn tung chân đá mạnh. Con lê AK trên tay Quý cụt văng lên cao, xoay mấy vòng rồi rớt xuống sân. Có tiếng trẻ con thét lên rồi tiếng đàn ông giận dữ: - Tổ sư chúng nó chết con ông rồi. Quý cụt luống cuống, bị ăn bốn năm cú đấm như trời giáng của Hải, ngã xoài ra, lăn từ bậc thềm xuống sân. Hải lao theo hắn không nhìn thấy, nghe thấy gì hết ngoài Quý cụt. Hắn đấm đá túi bụi. Lão Liêm đứng ngoài hò hét: - Đánh chết mẹ nó đi. Thằng ôn vật. Mày vừa mới ra tù mà dám vác mặt đến nhà ông hử. Cho nó mấy cú nữa… Quý cụt vung dậy được, ôm đầu xé đam người lao ra cổng. Hải ngồi thở dốc, mồ hôi đầm người. Bà Liêm xua hang xóm về rồi đóng cửa. Bà rên rỉ như đau đẻ. Cụ Trường ôm cột nhà, nhìn lên trời luôn miệng kêu: “gay đấy, gay thật đấy”. Lão Liêm hồ hởi đi quanh Hải, nhìn con trai thán phục ra mặt: - Mày thế mà giỏi. Ơ, té ra võ nghệ nó là thế. Cần phải học nữa con ạ. Rồi còn phải đối phó với thằng cụt chó má kia nhiều. Hải ngồi thừ ra. Bà Liêm lừ chồng: - Thôi, ông câm cái mõm thối hoăng ấy đi. Tưởng vui lắm đấy phỏng. Con Loan thế nào? Bà hỏi con. Hải nheo mắt, quai hàm chạy lên chạy xuống. Lão Liêm sốt ruột, giở mặt quát như sấm: - Câm à? Nó thế nào rồi? Sao mấy tháng nay không thấy vác mặt về. Hải vụt đứng dậy, nói chẳng kém gì bố: - Đi mà hỏi nó! Hình như chỉ đợi có thế lão Liêm chồm lên rỉa rối vào mặt con trai: - Thằng bất nhân bất nghĩa. Đồ quạ thối. Chỉ có mỗi việc cỏn con băng cái dái trẻ mà cũng không xong, lúc nào cung mặt nặng mày nhẹ. Khốn nạn, ham chơi thì không ai bằng. Tao chưa hỏi mày về cái vụ vừa nãy đâu nhá. Nhục cả gia đình. Thằng động cỡn… Suốt đêm đó cho đến những đêm sau, người ta nghe thấy tiếng quát tháo, tiếng đấm đá huỳnh huỵch và tiếng đàn bà khóc rống lên từ phía nhà vợ chồng Quý cụt. Ngày 21, sông Linh Nham cạn sạch. Ao nhà bà Liêm tự dưng đầy ắp nước, trong ao có con cá trê đỏ to bằng bụng chân, mắt mù, đuôi dài như chiếc khăn phu la. *** Đầu ông sắp lan man, sắp trôi di đâu đó bằng những ý nghĩ. Cảm giác cũ kỹ cựa quậy. Gã đánh xe gầm gừ trong cổ. Lọc cọc. Lọc cọc. Lọc cọc. - Tao đồ rằng nắng màu xanh. Thanh niên gầy cất giọng khô mốc, ngả đời ra sau vẻ phớt đời. - Bao giờ nó cũng tím. - Kiến thức chỉ có những kẻ không học hành! Người gầy gò phản đối, giọng chì chiết. Ông nheo mắt nhìn mấy củ sắn dưới chân lăn từ bên này sang bên kia như con lắc. Thanh niên to thấp dập ngón trỏ xuống thành xe, mồm lẩm nhẩm hát. Bạn anh ta bĩu môi khinh bỉ. - Phần lớn bọn trẻ đều hát, bài hát của chúng mới đểu cáng làm sao. Thanh niên gầy không chịu nổi vẻ thờ ơ tẻ nhạt. Anh ta lục xục móc thuốc. Khói lại bay lãng đãng: -Tao nhớ một bài hát, có lẽ nhớ suốt đời. - Có đời đâu mà nhớ! Lần đầu tiên, ông thấy gã đánh xe can thiệp vào chuyện giữa hai thanh niên. - Thế nào? Không để ý đến gã đánh xe, thanh niên to, thấp sốt ruột hỏi bạn. - Từ từ đã. Không thể quên được, quên là một tội lỗi mày ạ! - Hát đi! Người to thấp như chuẩn bị nổi cáu. Im lặng. Tiếng roi của gã đánh xe vút chéo. Người gầy gò lim dim mắt trong khi bạn anh ta nhổ nước bọt vào hoàng hôn. Ông nhăn mặt cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm. Làn khói trắng của con tàu vẫn vùn vụt song song bên cạnh. Tất cả không ai bảo ai, đều nhổm người dỏng tai. Gã đánh xe lầm rầm hát. Giọng gã khô cong. Ông trông thấy con trâu nhỏ rớt cười thiểu não. Tráng sĩ lên ba râu dài chấm ngực Phi con ngựa trắng bạch màu than Cầm thanh gươm sáng loáng đời han rỉ Chặt cây cổ thụ mới mọc mầm… Ông cắn môi. Hai người thanh niên nhìn gã đánh xe như chiêm ngưỡng. Mặt họ lộ rõ vẻ thỏa mãn. Không hề nhúc nhích, gã đánh xe vẫn nhai đi nhai lại điệp khúc đó, nửa hát nửa đọc. - Chặt cây cổ thụ mới mọc mầm… Tay ông mân mê chiếc thìa nhôm. Màu xanh ùa về reo à à trước mắt ông. Gã đánh xe lại huơ cây roi tre. …trắng bạch màu than Cầm thanh gươm sáng loáng đời han rỉ. Giọng rin rít như sắt cưa đá. Mùi khét lẹt. Mắt ông lờ đờ. Ông tiếp tục trôi. Trôi mãi. … Khi từ giã lão Biền và bố, ông khoác bộ quần áo xanh lùng thùng, cứng ngắc. Sau sáu tháng huấn luyện, người ta điều ông sang trung đoàn trinh sát. Rồi chiếc xe bịt thùng chở cả trung đội ông lao về phía có tiếng súng. Ông được cử làm tiểu đội trưởng. Một bữa liên hoan xềnh xoàng và trung đoàn trưởng vỗ vai sáu người lính non choẹt: - Nhiệm vụ các cậu khá nặng nề. Phải chặn chúng ở cánh rừng đó. Không được dùng súng. Cấm! Chỉ được phép tấn công bằng dao và võ thuật. Hà hà, chúc may mắn. Thế là ông đi đầu với lủng củng bi đông, lương khô và con lê AK sắc lẹm. Bọn ông sửa lại một phần địa đạo cũ làm chỗ ở, cách cánh rừng một đoạn ngắn. Cứ nhập nhoạng, tất cả lại giắt lê AK, một đoạn dây, một chiếc khăn mặt rồi băng vào rừng. Đây là điểm gặp gỡ của hai bên. Đối phương tùng sang những bóng người lầm lũi, xanh thẫm. Cho đến bây giờ ông thể quên được ấn tượng khủng khiếp đó. Gần như có một giao ước ngầm, không bên nào dùng súng cả. Hai bên gặp nhau giữa rừng, nơi có tảng đá hình chữ Nhân khổng lồ. Hôm thì bọn ông bị phát hiện trước, hôm thì bên kia. Tất cả đã diễn ra như một trò đùa, một trận đánh giả của lũ trẻ vô công rồi nghề. Những cái bóng âm thầm nhẩy xổ vào nhau. Dưới ánh trăng lỗ chỗ, ánh thép lượn vòng loang loáng. Ông vụt nhớ đến thời gian mất âm của làng. Ở đây cũng vậy. Ông không vắng mặt tối nào. Ông dự từ đầu đến cuối, đến lúc cả cái tiểu đội sáu người biến mất và thay vào đó là những khuôn mặt mới tinh, ngơ ngác. Ông đã chai lì cảm giác khi xung trận. Những thế võ thuần thục đến mức ngay hồi còn huấn luyện, ông cũng không tưởng tượng nổi mình sẽ được như thế. Ông vào trận bằng giác quan sáu, bằng cái hừng hực của gã trai đang độ sung sức và đang ôm hận một mối tình tuyệt vọng. Nghe gió ông đã biết đường lê của đối phương nhằm vào đâu. Và đường lê của ông gần như chính xác tuyệt đối. Nạn nhân không kịp kêu, không được phép kêu. Mũi lê chạm điểm, cùi tay ông đã chặn ngang chiếc mồm vừa há ra kinh ngạc. Điều duy nhất khiến ông bận tâm là mùi hương. Đêm nào ông cũng ngửi thấy mùi hương thơm lịm của dì Lãm. Nó, cái mùi hương ấy quyện chặt người ông gây cảm giác châng lâng khó tả. Chính nhờ nó, sau này ông đã thoát khỏi nguy hiểm. Trận đọ sức bao giờ cũng kết thúc bằng sự rút lui tự nguyện của một trong hai bên. Ô Rút lui âm thầm kèm theo xác đồng đội. Ông được tuyên dương hai lần vì bắt sống tù binh. Tiếc rằng cả hai đều quá trẻ. Ban ngày khu rừng im ắng, lầm lụi. Sáng nào ông cũng dậy thật sớm để ngắm nó. Những làn sương trắng xanh, mỏng tang dâng lên từ chân rừng, loãng dần, bốc qua ngọn cây lẫn với bầu trời chưa có ánh sáng. Đôi lúc, khi nghĩ về Xoan, ông lại thấy buồn. Nỗi buồn không giấu giếm. Nó được khơi nguồn từ nơi thẳm sâu của con người. Dòng máu ông được nuôi dưỡng, bồi đắp bởi tất cả những gì mà một con người bình thường nhất đều có thể có được. Nhưng ngày mai? Ngày kia và dằng dặc sau đó nữa? Quay về làng ư? Ông lắc đầu quầy quậy, thầm hứa với mình rằng sẽ dứt khoát rũ bỏ. Mặc dù như thế là tệ bạc, mặc dù nơi ấy còn có bố ông, có nấm mộ của mẹ ông, của dì Lãm và trăm ngàn những dằng díu gia tộc khác nữa. Nhưng ông cũng thừa biết rằng mình chẳng có một nghề nào để làm việc cả. Vây quanh ông là sự mù mịt, hoang mang. Để dìm ý nghĩ đó, chỉ còn cách lao vào những trận đánh. Rồi đánh nhau cũng trở nên tẻ nhạt cho đến khi ông tìm được cái cớ để bám vào đấy mà sống. Ông có một cái đích trong những cuộc xung đột đẫm máu. Bên đối phương có một tên khá to, võ thuật của hắn không đến nỗi nào. Ông đã chạm trán hắn hai lần. Cho đến khi hắn tặng ông một vết dao khá sâu nơi bả vai trái, ông quyết định trả miếng lại. Mỗi khi nghe tiếng rít nhẹ, khàn khàn của hắn, ông bước vào rừng với tâm trạng kiêu ngạo. Ông đánh nhanh gọn, không thèm để ý đến xung quanh. Khi rút về, nằm vật xuống tấm ni lông, người ông lại bải hoải, trống rỗng. Những lúc ấy ông thầm nghĩ đến bố và em gái. Ông đau đớn tưởng tượng lại cảnh chia tay. Tiểu đội ông có một người cùng làng, đấy là thằng Chí. Chí to cao hơn ông, ít nói và táo tợn. Nhà Chí ở cạnh nhà bà giáo, cách gia đình ông một đoạn ngắn. Chí ít tâm sự, không hé răng một lời nói gì về làng, mặc dù ông biết nó nhớ nhà đến phát cuồng. Tính nó ông biết từ hồi còn cởi truồng chơi với nhau. Nó học hết cấp hai thì ở nhà. Duy nhất có một lần sau trận đánh về Chí mò đến chỗ nhà ông nằm, lay vai ông thì thào: - Mày nhớ làng không? Ông bật dậy gườm gườm: - Ngủ đi! Nó nhìn ông lạnh ngắt rồi quay về chỗ. Hình như lúc ấy nó muốn nói gì đó. Ông ân hận, nhưng không đủ thời gian. Tự nhiên Chí giở chứng, kêu đau đầu và không đi. Ông biết nó giả vờ. Vốn dĩ nó là thằng khỏe như trâu, không có biểu hiện đau đầu sổ mũi bao giờ. Ông dựng nó dậy, nó lại ngả xuống. Ông ra lệnh, nó im lặng quay mặt vào vách hầm. - Thằng hèn! Ông rít lên. - Tao ốm! - Không phải! Ông túm ngực Chí, ông sợ nó bị kiểm điểm. Ông không muốn có một thằng bạn cùng làng sợ chết. Chí vùng dậy nhìn chằm chằm vào mắt ông. Cái nhìn của nó như phanh phui toàn bộ những gì sâu kín nhất mà chính ông còn láng máng. Ông thoáng ngạc nhiên. Hành động cương quyết của ông đối với Chí, ngoài tình bạn chân thành ra, còn có gì nữa. Cái gì nữa làm động cơ thúc đẩy những câu nói dằn dữ ông dành cho nó. Chí nói, giọng run run: - Đêm nay tao không thích. Mai tao đi. Ông cười gằn: - Tao không ngờ mày lại chó thế. - Câm! Chí gầm lên bất ngờ: -Tao chán, tao nhớ nhà… Nó ngập ngừng nhìn ra khu rừng nhập dần trong sương bạc: -Tao linh cảm có điều không lành sẽ đến với mình. Tao mơ thấy cây si… - Khỉ, vứt cha cái linh cảm của mày đi. Cây si, cây si. Ông bĩu môi: - Cây si cái con cặc! Ông giắt lê vào người hùng hổ bước ra khỏi cửa hầm. “Tao khinh mày!”. Ông quay lại đai thêm một câu. Chí không trả lời, nó úp mặt vào tay, bả vai rung lên. Bọn ông đến gần mép rừng thì Chí đuổi theo. Ông thở phào nhẹ nhõm. Chí gầm mặt không nói câu nào, nó cố tình đi cách mọi người một quãng. Đêm chạm vào lá, tỏa xuống cỏ. Ông vẫn giữ vị trí đi đầu. Rón rén, thận trọng. Khắp người ông ngứa ngáy, tai căng lên. Chỉ có tiếng gió và lũ dế i ỉ gáy. Im lặng mơ hồ. Ông khịt mũi, khẽ chau mày. Đêm nay mùi hương thơm xuất hiện sớm hơn mọi lần. Chẳng biết lành hay dữ? Gáy ông giần giật. Tảng đá hình chữ Nhân hiện ra lờ mờ. - á a… Tiếng thét đột ngột phía bên trái khiến ông bốc lên khỏi mặt đất. Ông quay ngoắt người. Một tiếng đổ nặng nề. Khu rừng rung ào ào rồi thoắt cái lại chìm vào im lặng. Ông bàng hoàng. Tiếng thét đầu tiên trong khu rừng. Luật chơi bị phá vỡ. Mọi giác quan ông bung ra. Mùi hương thơm ngọt rót đầy người khiến ông châng lâng châng lâng. Ông đứng thẳng người rồi thụp xuống, lăn sang bên. Ba bóng người nhẩy bổ vào chỗ ông vừa đứng. Những đường lê sáng lóa hình cầu vồng. Ông chạm phải vật gì ấm nóng. Bên ta! Ai vậy? Tay ông thành thạo lần khắp thân hình bất hạnh đó. Một vũng nhớp nhúa đọng giữa ngực. Ông rờ lên phía trên, tay chạm phải bộ râu quai nón. Ông hét lên một tiếng vỡ rừng và nhẩy vụt ra giữa khoảng trống. Những chiếc bóng chồm đến. Ông vung lê, vừa đánh vừa kêu. Kêu bằng giọng khàn khàn. Kêu như chưa bao giờ được kêu. Toàn bộ sinh lực ông trào vọt, cuồn cuộn và loang loáng trắng. Ông đánh bằng bản năng. Ông lảo đảo nhào từ bên này sang bên kia, mắt ông nhắm nghiền, quai hàm đau nhức nhối. Trước khi khu rừng chìm vào sự tĩnh lặng vô bờ, một tiếng rít khàn sát trán ông và thân hình đồ sộ của hắn ập xuống, kéo theo cả ông. “Món nợ đã được thanh toán sòng phẳng!”. Ông nghĩ thầm, tay vuốt nhẹ vết sẹo nơi bả vai trái. Bọn ông lầm lũi khiêng Chí về. Ông đi sau, vừa đi vừa khóc rống lên như bị chọc tiết. Ánh trăng giàn giụa tràn xuống mép rừng. Ông vượt lên mọi người và quay đầu lại. Lúc ấy ông mới thực sự bị nghiền nát bởi nỗi đau đớn. Nhìn khuôn mặt non choẹt của những người khiêng Chí, ông kịp phát hiện ra rằng bạn bè cũ của tiểu đội ông đã mất hết. Vậy mà ông không hề biết. Ông không hề quan tâm đến từng người. Với ông, tiểu đội luôn có sáu người là đủ. Ông vấp ngã liên tục. Sau lễ truy điệu Chí, ông thẫn thờ lên nóc hầm ngồi. Lần đầu tiên ông quyết định nghỉ một đêm, lấy cớ là chờ người bổ sung. Ông lần ra năm ngôi mộ, vuốt ve từng chiếc một như thủ thỉ trò chuyện. Ông ngồi ở đấy đến khuya, mắt chăm chăm vào khối đen thẫm trước mặt. Khu rừng như chiếc quan tài đen lập lờ giữa màn sương run rẩy huyền bí. Xung quanh im ắng. Gió chạy tít trên những tầng trời. Ông ngửa mặt. Sao chi chít. Những vì sao như chực khóc, chực biến mất vào khoảng mênh mông vô tận. Thốt nhiên ông rùng mình. Ai đó đang lặng lẽ nhìn ông từ trên cao. Cái nhìn xoáy buốt, xuyên qua người ông như lục lọi tận ý nghĩ sâu thẳm nhất. Ông lắc đầu quầy quậy. Ông lừ mắt, nhắm mắt. Cái nhìn vẫn lục tung ông lên. Không chịu nổi, ông rút phắt con lê huơ trên đầu: - Cút đi! Ông gào to, nhẩy vọt về hầm, trùm chăn kín đầu. Ông chập chờn mê thấy cây si đang nghiêng ngả trôi. Lần đầu tiên ông đã khóc trong mơ. Khi giải ngũ, ông ở nhà ba ngày chịu tang bố, sau đó mang toàn bộ đồ đạc của Chí đến giao cho gia đình nó. Ông ngạc nhiên thấy mẹ Chí đón nhận với thái độ hờ hững. - Có lẽ cháu nhầm! Bà nói, đặt tay lên trán: - Nó đã mang về từ lâu rồi! Nó về nằm dưới gốc cây si như bố nó ngày xưa. - Có vết gì không bác? Ông hỏi ngô nghê. - Không lành lặn cả. Da nó trắng hồng, phải cái râu lâu ngày không cạo, trông dữ quá! Mẹ Chí nhìn lên bàn thờ nghi ngút hương. Ông vội vã lao về. Chính xác hơn là lao ra nghĩa địa, nơi bố ông yên nghỉ vĩnh viễn. Bố đi khi ông đang hậm hực quấy đảo khu rừng. “Mọi người đã về!”. Ông cay đắng nghĩ. “Còn mình lại đi”. Ông rời khỏi làng ngày hôm sau, không ngoái lại. Ông buồn bã bẻ lại cổ áo. Trước mặt, người thanh niên gầy bẻ ngón tay lục cục. Gã đánh xe vẫn lải nhải điệp khúc cáu bẩn của mình. Rồi như choàng tỉnh, gã im bặt trở lại vẻ lầm lì ban đầu. - Kìa, một con cò! Người thanh niên gầy háo hức chỉ. Bạn anh ta nhổ nước bọt vào lòng bàn tay, xoa xoa: - Đấy là chiếc diều của lũ đốn mạt! - Trắng nhỉ? - Ở chỗ tao nhiều bộ xương còn trắng hơn. - Tởm! Người gầy nhăn mặt vẻ nghĩ ngợi. Lần đầu tiên, ông thấy anh ta suy nghĩ. Lát sau, anh ta ngẩng lên hỏi bạn: - Mày chết bao giờ chưa? Người to thấp gãi gãi móng chân thò ra ở mõm giầy, gật đầu: - Rồi! - Có đúng là nó trống rỗng không? - Đúng! Đúng! Ờ, trống rỗng, trống rỗng là không có gì chứ gì? Người gầy gật gù xác nhận. Thấy vậy, bạn anh ta reo lên: - Không có gì, tức là dựng được tất cả! - Hay! Gã đánh xe buột miệng khen, làm người to thấp phổng mũi. Anh ta nhìn gã vẻ biết ơn. Ông nhếch môi quay đi. Hoàng hôn rề rà trải dài, trải dài và se lạnh. - Có một người đọc toàn giấy trắng. Gã đánh xe nói lấp lửng. Ông hốt hoảng nhìn gã. Tấm lưng gã cựa quậy. - Giấy trắng! Người thanh niên gầy trề môi: - Tôi còn biết có những người cả đời mê chơi gió! - Phần lớn đều nhảm nhí. Cả cái con tàu chết tiệt kia nữa! Người cao gầy cay độc nói, mặt anh ta lộ rõ vẻ ám chỉ. Mấy vạt lau hiện ra rồi trôi qua chậm chạp. Mùi chè chét đặc lại bao bọc ông. Ông chun mũi thở mạnh như đẩy tất cả không khí trong người ra ngoài. Chiếc xe trồi lên, sụt xuống. Lại trồi lên, sụt xuống. Người ông hẫng đột ngột. Ông rơi vào miệng vực khổng lồ, đen ngòm. Ông vật vờ hàng tháng trời trong trạng thái vô nghĩa. Nằm giữa mẹ con thằng Tĩnh, ông không ngủ được, đầu óc rối tung. Sau này nghĩ lại, ông thấy mình phần nào đó yếu đuối. Ông không tin vào bất cứ một hy vọng gì. Họ hàng thân thích không còn ai, đứa em gái duy nhất lại chửa hoang, nó sống bê tha trụy lạc. Ông nhớ đến Xoan, ông bám lấy điều đó làm hy vọng sống duy nhất. Rồi hình ảnh Xoan cũng bị chìm lấp bởi quãng thời gian trống trải. Ông điên lên, chỉ muốn tìm đến nơi nào đó vắng người. Đôi lúc ông nẩy ra ý định táo bạo là trở lại cánh rừng ma quỷ kia để chui vào đó mà sống. Mặc dù cuộc chiến ở đấy chưa dứt nhưng ông sẽ đến với một danh nghĩa một kẻ không phản đối hay ủng hộ bên nào. Ông sẽ tự lập và hoàn toàn tách biệt với cái thế giới đẫm máu ấy. Nhưng rồi miếng cơm manh áo lại cuốn ông đi ngả khác. Ban ngày vợ chồng ông kéo xe cải tiến thuê, đêm về ông lại trằn trọc với những kỷ niệm, những câu hỏi đang ngùn ngụt trong đầu. Những lúc như vậy ông cố gắng gạt bỏ chúng, chỉ giữ lại hình ảnh lão Biền để vuốt ve cho nguôi ngoai cơn nhớ. Lão Biền là bạn ông từ thuở nhỏ. Lão sống độc thân trong túp lều giữa ngã ba của làng. Quanh năm suốt tháng, lão kiếm sống bằng nghề cắt tóc thuê. Vóc lão đậm chắc như cột lim ngâm nước. Ngày trẻ lão xuýt nữa lấy dì Lãm. Nhưng chẳng hiểu sao hai người lại vùng vằng bỏ nhau. Nghe nói hình như dì Lãm không đồng ý vì chê lão bẩn thỉu, tục tĩu. Mẹ ông bảo, ngày cưới dì Lãm lão giở trò phá đám, cứ cởi truồng chạy trước đoàn người đưa dâu, vừa chạy vừa đái. Dì Lãm coi lão như con bệnh. Không bao giờ dì cho phép ai nhắc đến tên lão trước mặt dì. Thỉnh thoảng lão Biền lại sang nhà ông chơi, nói huyên thuyên đủ chuyện trên trời dưới đất, uống liền một lúc năm sáu chén nước rồi về. Có lần ông thấy lão ủ rũ ngồi nói chuyện với bố mẹ mình. Khi lão về, mẹ ông chép miệng: -Rõ khổ, người với chả ngợm, có bộ toong đơ lại mất. Giờ thì lấy gì mà làm ăn! Lão bị ai lấy trộm mấy bộ toong đơ Trung Quốc. Hôm sau, ông thấy lão cắt tóc cho khách hàng bằng chiếc kéo mà mẹ ông hay dùng khâu vá. Mỗi lần ông từ thị trấn về, lão Biền lại huơ chiếc kéo thành một vòng điêu luyện, chép miệng: - Chú mày về đấy hử? Khá chứ! Ông chỉ cười đáp lại. Cắt tóc ở chỗ lão từ lúc bé ông đâm quen. Mặc dù ở thị trấn có nhiều thợ cắt tóc giỏi nhưng ông chỉ về để lão cắt cho. Quàng chiếc khăn vàng úa cáu bẩn quanh cổ ông, lão nháy mắt: - Sắp lấy vợ chưa? Lấy đi để biết thế nào là đời người chú mày ạ. - Cháu ấy à, còn lâu. Ông mắm môi tránh cười. Ông mắc cái tật hễ nhìn vào gương là cười ngặt nghẽo. Có bận lão Biền chệch kéo, sỉa vào cuống tai ông một vết khá sâu. - Cún con, đừng vờ vịt. Mai kia đến lúc động cỡn lại không cuống lên đấy. Lấy mẹ nó con cái Xoan làng mình đây này. Nó cũng kháu đáo để. À mà nó cũng học với cậu kia mà? Thôi, xong đứt đi! - Cháu không thích. Ông đỏ mặt nói ngượng. Lão Biền cười hềnh hệch: - Ngu bỏ mẹ. Đi vào cái hang của con ấy là nhất trần đời. Ngoài ra hang nào cũng đáng sợ cả. Chú mày không biết chứ, ngày xưa tao cũng ghê lắm. Mò mẫm ra trò. Đủ các loại hang. Ngày ít ra cũng dăm bận. Tính lão thế. Cả làng xô đến hàng lão vì cắt tóc thì ít mà hóng chuyện lại nhiều. Họ nghiện những câu nói tục tĩu của lão. Nghe đủ thứ chuyện trong làng với từng chi tiết một. Lão Biền kể cũng khôn. Lão chỉ cung cấp chuyện hàng xóm cho những ai đến cắt tóc, mà lão nói rất khẽ, đủ cho người đang phải cắt tóc nghe được. Dạo bà giáo đẻ lần thứ ba, hàng lão Biền xúm đông xúm đỏ người. Lão cứ việc chậm rãi hớt tóc từng người một với những câu nói thủng thẳng lập lờ. Kỳ nghỉ, ông về tới đầu dốc, thấy lão ngồi duỗi chân dưới gốc cây. Đắng cay. Chiếc gương gá tạm lên thân cây. Quán của lão bị cháy không hiểu nguyên do từ đâu. Lão xin bố mẹ ông cho ở nhờ sau chái nhà. Cũng đợt ấy mẹ ông thổ huyết, mất. Bà mắc bệnh lao hàng chục năm nay. Phần 6 Qua cửa kính cô thấy những cánh đồng vùn vụt chạy ngược về phía sau. Bầu trời nhẹ tênh. Lần đầu tiên cô lên thị trấn. Chẳng biết nó như thế nào. Cô không hình dung nổi, chỉ biết rằng dì Lãm bảo trên ấy cái gì cũng có. Cô mê mẩn nghĩ. Tiếng xe ì ì đều đặn. Cô mệt mỏi, mắt díp lại, ngả mạnh xuống vai chồng. Cô thoáng thấy đôi vai lực lưỡng của người lái xe trước khi khép mi chìm vào giấc ngủ. Cô ngủ và mơ. Cô thấy bóng một đứa trẻ chăn trâu vận quần đùi, cởi trần chạy lên trước mắt mình và toét miệng cười. Đứa trẻ sấn sổ cầm tay cô dắt vào bãi tha ma đen kịt. Cô hét lên, choàng tỉnh đầu va phải vật gì đau buốt. Cô ngơ ngác nhìn quanh, tim đau nhói. Trong xe không còn một ai, cả người chồng vừa ngồi cạnh cô nữa. Chiếc xe vẫn lầm lì chạy. Cô tưởng mình còn mơ. Cô dùng tay cấu mạnh ngực. Cảm giác đau nhói lên. Cô lắc đầu thật mạnh. Không, cô không mơ. Mọi người đâu hết rồi? Cả chồng cô nữa? Hay là họ chơi trò ú tim trêu mình? Tay ghì chặt bó hoa, cô chệnh choạng đứng dậy, nhìn sâu vào những hàng ghế trống không. Cô ngoái về phía người lái xe cầu cứu. Cô thét lên, ở chỗ người lái xe chỉ còn một bộ quần áo rỗng không. Bộ quần áo rúm ró lửng lơ theo hình người, hai ống tay mềm oặt gắn hờ lên mép vô lăng. Mắt cô hoa lên, đầu choáng váng. Cô lao ra cửa xe. Hai bên đường, những ngôi mộ xám xịt trải dài hết tầm mắt. Bầu trời xanh lơ hắt vào cửa kính. Chiếc xe vẫn chạy đều trên con đường độc đạo, lồi lõm. Con đường vươn thẳng đến chân trời. Cô ôm đầu, buông rơi bó hoa lay ơn. Một mảnh giấy nhàu nát văng ra. Cô vội vàng vồ lấy. Chiếc xe nẩy lên rồi rụt xuống ổ gà. Quàng tay qua thanh vịn, cô cố gắng giữ cho mình khỏi chao đảo, mắt ngấu nghiến đọc. Tờ giấy chỉ vẻn vẹn có mấy chữ nguệch ngoạc: “Anh đánh cuộc bằng hai viên bi rằng em đang đọc những chữ này. Kí tên: Buông tờ giấy, cô ngồi phịch xuống ghế. Bộ quần áo rỗng không vẫn tiếp tục điều khiển vô lăng. Con đường chỉ vừa đủ cho hai bánh xe vẫn mở ra hun hút. Mộ trải rộng mênh mông. Những ngọn cỏ tranh quệt vào thành xe ràn rạt. Cô hoang mang cực độ. Cơ thể cô tê liệt hoàn toàn. Mắt cô mở trân trân bất động về phía trước. Rồi đột nhiên cô thấy một bức tường huyền ảo, ngũ sắc chắn ngay đầu xe. Bức tường dựng đứng, những đường vân lờ đờ chuyển động. Xe vẫn lao đều với tốc độ lớn. Cô chỉ kịp hét lên một tiếng và thấy mình bay vụt ra ngoài. Chiếc xe đã đâm phải chân trời. Nằm vắt mình ngang một ngôi mộ, cô thấy đầu chiếc xe rúm lại rồi từ từ bung ra thành trăm ngàn mảnh. Cái áo của người lái xe bay dật dờ qua đầu cô sau đó rơi xuống ngôi mộ bên cạnh. Tất cả diễn ra trong chớp mắt và không gây lên tiếng động nào. Như thể đấy là giấc mơ vậy. Cô giãy giụa, chống hai tay dậy và vùng chạy. Cô chạy điên cuồng cho đến khi vấp phải một vật cứng, lạnh. Đầu cô vụt tỉnh táo lạ thường. Cô đỡ vật đó lên và nhận ra một tấm bia trắng trong suốt, bên trong có những luồng khói xanh chậm rãi cuốn tròn. Cô nhíu mày nhìn kỹ và thấy dòng chữ lờ mờ khắc trên đó: “Khuất Biên Cu. Bị trâu húc chết ngày mười ba. Thọ bốn tuổi rưỡi”. Đầu cô lại mụ đi nhanh chóng. Trong cảm giác lờ mờ, cô thoáng thấy một bóng người mặc quần đùi lén lút đi giữa hoàng hôn của những ngôi mộ. Và cô tiếp tục vùng dậy chạy, cô chạy ngược hướng với cái bóng đó. Chạy theo cảm giác. *** … Bác Lung đổ sụp xuống, bỏ ăn hàng tuần trời. Rồi một đêm bác đùng đùng vác dao vào rừng chặt củi. Không ai cản được bác. Dì Lãm nhìn theo bóng bác đi, miệng chúm chím cười thỏa mãn. Dì lại tiếp tục đốt hương. Mẹ ông không ngủ. Mẹ ôm hai anh em ông vào lòng, mắt chong chong nhìn lên trần nhà. Tiếng chặt củi của bác Lung vọng từ núi Rùng xuống chan chát, cộc cằn dữ tợn. Cả làng í ới gọi nhau ra sân nghe ngóng. Quá nửa đêm không thấy bác Lung về. Người ta đổ xô ra chỗ gốc si và tìm thấy bác nằm sóng sượt, không thấy con dao đâu cả. Đám ma bác Lung diễn ra gọn nhẹ. Dì Lãm và bố ông không đến dự. Từ đấy, hễ đêm trăng sáng, trên đỉnh núi Rùng lại vọng xuống tiếng chặt cây chan chát, đều đặn. Tầm gần sáng tiếng chặt lại biến mất. Mẹ ông định đón hai người con bác Lung về nuôi, nhưng vì đang ở thời sống khó khăn, với lại bố ông không đồng ý, cho nên hai chị đó đã bỏ làng ra thị trấn làm thuê. Khoảng bảy tám năm sau người ta thấy cả hai về nằm chết dưới gốc si. Chính ông và lão Biền đã tổ chức chôn cất họ. Sau đó là thời kỳ ông cảm thấy những biến đổi dữ dội trong cơ thể cũng như tính tình. Ông hay cáu gắt, bực tức và ít đi chơi hơn. Ông tránh nói chuyện hoặc đi cùng em gái. Ông biết mình là người lớn. Ông đầy ứ một cái gì đó và cũng thiếu hụt cái gì đó. Ông lánh xa mọi người, ngồi bó gối hàng giờ, nghĩ vẩn vơ đến những miền đất xa lạ, heo hút trong tưởng tượng. Ngay cả việc thi hết cấp, ông cũng chểnh mảng. Ông nhìn những cánh rừng mọc trên đỉnh Rùng với nỗi chán chường tuyệt vọng. Màu xanh thẫm ì ào bí hiểm vây lấy ông, chế ngự, ám ảnh ông. Sau đỉnh núi Rùng kia là cái gì? Sau màu xanh trầm mặc kia là cái gì? Những câu hỏi chồng chéo xoay tròn trong ông và giới hạn của trí tưởng tượng bao giờ cũng kết thúc bằng một miền đất ẩm ướt lờ mờ. Một mùa đông lạnh lẽo trong buổi chiều nhập nhoạng cùng những con người xa lạ. Những con người đó không già cũng chẳng trẻ. Họ không cười không nói, cứ lầm lì mệt mỏi thấp thoáng trên cánh đồng vàng tàn tạ. Cũng có khi họ lê bước trên các lối mòn ẩn hiện để rồi mất hút vào một căn nhà nào đó, mà trong ấy đối với ông toàn những cái nhìn lạnh lẽo, cáu bẩn. Không bao giờ ông nghe thấy âm thanh trong mơ. Duy nhất có lần ông mơ hồ nghe tiếng mèo cái gào hoang dã lẫn với tiếng một đứa trẻ khóc nằng nặc. Ông rùng mình khi nghĩ rằng một lúc nào đó ông sẽ bị đem bỏ đến đấy và chết trong nỗi bất lực mòn mỏi, chết mà không có bố mẹ, em gái ở bên cạnh. Ông xua đuổi viễn cảnh ấy bằng cách lao đến chỗ mẹ và em gái. Nhưng ngồi cạnh họ một lúc, tâm trí ổn định dần ông lại thấy chán nản và bỏ đi nơi khác. Khi lên thị trấn học, ông như kẻ mất hồn. Ông ngồi ngóng về làng và nghĩ lan man đủ thứ. Ông sốt ruột chờ ngày nghỉ cuối tuần để rồi khi ngày đó đến, ông lại chần chừ không muốn về. Ông cảm thấy mình cô đơn kinh khủng, chính điều này, phần nào đó đã đẩy ông hướng về Xoan như một sự giải thoát duy nhất. Trong trạng thái lan man đến mụ mẫm đó, đôi lần, ông tưởng như sắp biết được kiếp trước của mình. Có một giấc mơ mà mãi đến hôm nay, ông vẫn đặt phần lớn lòng tin vào đó với tâm trạng nửa buồn, nửa sợ. Trong mơ ông thấy một người đàn bà điên dẫn mình đi qua bao nhiêu đồi núi, đến một gốc cây mục um tùm cỏ tranh, người đàn bà điên chỉ vào đó và nói rin rít: - Kiếp trước của mày đấy! Rồi bà ta bỏ đi. Ông quỳ xuống, bới cỏ thấy một bộ xương trắng nhởn, bên cạnh có con dao găm han rỉ. Giấc mơ đẩy ông vào cảm giác nhẹ nhàng, mơ hồ. Ông vẫn tiếp tục buồn. Nỗi buồn của kẻ luôn luôn xa quê. Một kẻ biệt xứ mặc dù đang sống nơi mình sinh ra. Quê ông ở nơi nào đó mà ông không bao giờ hình dung nổi một cách rõ nét. Chỉ biết rằng nhất định nơi đó ẩm thấp mù mịt. Nơi đó hoàng hôn ngự trị bất tận. Hoàng hôn mùa lạnh. Ông không quen ai và không nói chuyện với ai ở vùng quê tưởng tượng đó. Ông cô đơn. Một nỗi cô đơn mang khoái cảm ủ ê, tuyệt vọng. Càng ngày ông càng thấy mình xuất hiện những cảm giác lạ và hay nghĩ đến cái chết. Sau những lần gặp Xoan, nghĩ đến Xoan, cảm giác ấy tăng mạnh. Một giấc ngủ triền miên không đầu không cuối cứ lơ vơ thường trực trong ông. Ngủ là chết tạm thời. Chết lại không phải là hết. Ông căm thù hai quan niệm đó bởi vì ông sợ sự bất tận. Con người, theo ông nghĩ, chỉ cảm thấy hạnh phúc khi biết rằng mọi thứ có giới hạn. Điều đó được ông ôm ấp, duy trì để chống đỡ với quãng thời gian khủng hoảng. Những lúc lê thê chờ giáp mặt nhau trong cánh rừng đẫm máu, ông trụ được là nhờ nghĩ đến giới hạn. Mình sẽ vùng dậy bây giờ! Chúng nó sẽ đến! Đêm sẽ hết. Mình sẽ chết để rời khỏi đây! Ý nghĩ ấy tạo cho ông sức đề kháng cực lớn trước nguy cơ của ý thức và sự sụp đổ. Ông trở nên linh hoạt hơn, tỉnh táo và tốc độ hơn, Cái hạn định bao giờ cũng có tác dụng hủy diệt thời gian. Nhưng khi chết mình sẽ ở đâu? Ông hoang mang thực sự trước câu hỏi ác độc cứ chốc chốc lại loé lên trong đầu. Rốt cuộc bao giờ ông cũng cố nghiêng về bên hạn định. Không có giới hạn, ông sẽ không đủ can đảm để sống tiếp quãng đời còn lại, không dám chờ thằng Tĩnh bên ghềnh đá. “Ngày gặp nó sắp đến”, ông nghĩ thầm như vậy và ông tin rằng những lúc ngồi trước ngôi miếu, dì Lãm hẳn cũng nghĩ như ông. Cứ thử tưởng tượng cảnh dì Lãm ngồi âm thầm với chiếc miếu một trăm năm, một vạn nghìn năm, ngồi triền miên bất tận là ông không thể chịu nổi. Đến lúc dì cũng phải chạm vào cái hạn định cuối cùng. Ấy là cái chết cùng sự sụp đổ của ngôi miếu. Mùa đông, ngồi bên ngọn lửa bập bùng, ông hay nhớ lại câu chuyện mẹ đã kể về ông ngoại mình. Tất nhiên ông tin rằng đa số những chuyện người lớn kể cho trẻ con đều là bịa cả. Bịa một cách trắng trợn mà không hề áy náy. Ông lưu giữ ấn tượng đầu tiên của mình khi nghe câu chuyện đó. Và hình ảnh được tái dựng bởi lời kể cứ lừng lững xô đến, lững thững chuyển động theo trình tự. Mẹ ông kể rằng ông ngoại ông người thấp, nhỏ, lập tức trong đầu óc non nớt của ông xuất hiện một con người nhỏ, đen, chân tay săn chắc, đặc biệt là đôi mắt, theo ông, nhất định đôi mắt ông ngoại phải to, sáng. Mồm ông ngoại lúc nào cũng mỉm cười và những nét vạch hai bên hõm má biểu hiện sự cương nghị khó tả. Ông ngoại có mối tình bi thảm nhất trong các mối tình của người làng. “Người con gái đó rất đẹp con ạ!”, mẹ nói nhỏ. “Đẹp lắm hả mẹ?”. Ông hỏi, mẹ gật đầu. Lập tức ông nghĩ đến cô gái có thân hình thon nhỏ như chị Cải. Cô ta có cặp môi đỏ, quầng mắt sâu, lờ mờ viền xanh nhạt. Cô gái ấy sẽ trắng, trắng lắm. Tóc cô cũng đen và dài nữa. Ông đấm đấm trán, nghĩ ngợi. “Mắt cô ấy có sáng như chị Cải không mẹ?”. “Cô ta bị mù, con ạ!”. Ông bật khóc thổn thức. Chị Cải cũng sẽ bị mù ư? Cô ấy đẹp thế mà lại mù. Có nghĩa rằng cả đời cô ấy chẳng nhìn thấy gì cả. Mù sẽ như thế nào nhỉ? Người ta bảo bị mù thì chỉ có một màu. Màu đen. ÔNg thử bịt mắt mình và thấy vô số màu chạy nhấp nháy. Như thế mù cũng thú vị vô cùng. “Cô ta không yêu ông ngoại, trong khi ông ngoại con yêu cô ta đến mức bỏ ăn bỏ uống. Suốt ngày ông ngoại chỉ nhắc đến tên cô. Ông đăm đăm nhìn sang nhà cô ta hàng năm trời”. Ông nghĩ rằng ông ngoại mình thật là vớ vẩn. Phải tay ông, nếu yêu cô ta ông sẽ chạy sang nói ngay tức khắc. Tội gì phải bỏ ăn bỏ uống. “Một buổi sớm tinh mơ, sớm mùa thu, trời trong vắt, cô gái bỏ làng đi vào trong rừng”. “Vì sao, mẹ?”. Ông đau khổ hỏi. Mẹ vuốt má ông, cười buồn bã. “Vẫn vì mù thôi con, cô ấy không chịu nổi cảnh một chàng trai được cả làng quý mến lại yêu mình, kẻ mù lòa từ bé. Con biết không, hồi đó ông ngoại con được dân làng quý lắm, ông thông minh, dũng cảm và vui tính”. “Sao mẹ biết”. Em gái ông chồm lên hỏi, mặt nó nghi ngờ. Mẹ cười xuề xòa “Mẹ nghe kể sau này. Chính bà ngoại kể. Bởi vì bà ngoại yêu ông ghê lắm nhưng không dám nói. Đến khi ông trở về một mình từ rừng, bà ngoại mới đến đặt tay lên vai ông ngoại. Năm sau thì bác Lung các con ra đời. Rồi đến mẹ và dì Lãm”. “Mẹ kể tiếp đi, sao nữa?” Ông hỏi rưng rưng. Em gái ông bĩu môi. “Cô ta vừa đi vào rừng vừa hát và thả xuống đất những mẩu quần áo đang mặc của mình. Cô đi qua bao rừng, bao suối. Đi xa lắm. Bài hát của cô buồn thê thảm. Mẹ nhớ láng máng mấy câu thế này: Ta có người yêu màu đen Mắt người yêu ta đỏ thẫm Ngón tay chàng tím như hoa dại Người yêu ta không màu Người yêu ta trong veo Ta có người yêu màu đen Tiếng hát văng vẳng đến tai ông ngoại, ông bứt rứt khó chịu và quyết định đi tìm cô gái ấy. Ông đi theo dấu cô ta. Đi mãi đi mãi. Ông cứ lần theo dấu chân cô ta. Những mảnh quần áo của cô gái bị rêu phủ xanh rờn. Ông ngoại gạt những lớp rêu đó ra thì thấy bên trong là lửa. Những mẩu quần áo biến thành lửa còn lửa bị rêu phủ kín. Ông ngoại mải mê gạt rêu tìm lửa. Cho đến một buổi chiều, không còn dấu vết của đám rêu nào nữa, ông ngoại các con thấy một đồng cỏ phẳng lì. Giữa đám cỏ ấy có hàng chục cô gái, cô nào cũng giống nhau như đúc. Họ ủ rũ ngồi bó gối nhìn ông ngoại. Điều kỳ lạ là các cô mặc quần áo trắng toát, cả tóc cũng trắng. Ông ngoại chạy đến thì các cô biến mất, rồi lại hiện ra ở đằng trước. Cứ thế, ông ngoại đuổi vồ các cô nhưng không bao giờ chạm được đến họ. Ông ngoại các con đã khóc. Khi giọt nước mắt đầu tiên rơi xuống đất, lạ thay, ông đã thấy mình đang nằm vật đầu làng. Xung quanh có rất nhiều người. Lúc đó, bà ngoại mới đến”. - Mọi sự đều phi lý. Thanh niên gầy ngáp vờ vịt. - Đúng, cái phi lý bao giờ cũng có lý! Người thấp gật gù hưởng ứng: - Tỉ như mùi thối nhất lại thường có nguồn gốc ở mùi thơm nhất. - Hì! Mày không phi lý. Thanh niên gầy công kích bạn, vẻ cay độc: - Trông mày với mùi mày đến hợp lý. Nghe bạn nói, người to thấp nghẹo đầu ngửi vai áo mình, sau anh ta cười khùng khục, đắc ý. Gã đánh xe cúi gập người. - Vắt diệt! Tiếng roi quất nghe mơ hồ xa thẳm. *** Mùa đông lướt thướt kéo đến. Những cơn gió xám xịt cuồng nhiệt bứt nốt đám lá còn lại trên các cánh rừng. Bầu trời sà thấp, võng xuống với những đám mây khổng lồ mòng mọng. Dòng Linh Nham bốc hơi trắng xóa suốt ngày đêm. Sương túa ra từ đất, từ kẽ nứt của ba ngọn đồi dày đặc, người đi cách nhau ba bốn bước không thể nhìn thấy. Cái lạnh nghiến ngấu vò xé cơ thể con người và súc vật thành một đống nhầu nhĩ, ủ dột. *** Buổi trưa Tiến quắt thấy sốt ruột bèn hớt hải lao về. Gã sững người trong tâm trạng ngơ ngác khi thấy căn nhà trống không. Loan đã bỏ đi. Trên bàn có một lá thư viết vội, nét chữ dài lêu nghêu: “Có người đến đón em đi. Đừng tìm làm gì. Nói chung là cám ơn anh vô cùng. Khi nào cần thiết, em sẽ quay về, con chó cún ngoan ngoãn của em ạ. Ký tên: Loan” Dưới mẩu giấy, có mấy dòng tái bút cộc lốc: “Hình như anh đang có trong bụng em”. Tiến run run vuốt ve tờ giấy, mắt gã nhoà đi, môi lập bập. Thế là điều lo lắng của gã đã xảy ra, Loan bỏ gã đi. Đời gã tưởng đến thế là hạnh phúc lắm rồi. Tiến đột ngột gầm lên, nhẩy loi choi đập phá lung tung đồ đạc trong nhà. Không thể thế được, gã phải đi tìm Loan về. Vừa bước ra sân Tiến vừa đọc lại lá thư, rồi vo tròn, ném mạnh nó xuống đất, chân di di. Gã lầu bầu: - Con đĩ, ông mày biết ngay mà. Tiến cố lục trí óc xem Loan có thể đi đến chỗ nào. Gã quyết định đến tìm Công để hỏi. Bản thân Tiến không ưa gì cánh báo chí, nhưng lúc này chẳng còn ai để nhờ cậy, hy vọng nữa. Xốc lại dây lưng quần, dắt xe ra cổng, Tiến gục gặc đầu cứ thế nhảy lên đạp túi bụi. Trước khi vào nhà Công, gã cúi đầu nghĩ ngợi điều gì, rồi thở hắt ra: - “Cún con ngoan ngoãn của em”. Xì, cún con, cún con cái con cặc ông đây này. Mẹ cha mày chứ! Ngay cả Công cũng không biết Loan đi đâu. Đạp xe lang thanh khắp nơi lòng Tiến buồn rười rượi, trống vắng. Đối với gã hạnh phúc chỉ là những khoảnh khắc may rủi, chợt đến chợt đi thì phải. Bản thân Tiến cũng không nhớ rõ mặt mẹ mình. Bà chết khi gã mới ba tuổi rưỡi. Còn với ông bố thì gã chịu, chẳng thể biết ông thế nào, tên gì mà hình dung. Một người đàn bà câm đã nhận gã về nuôi. Sống với bà, cho đến tận bây giờ Tiến vẫn giữ lại những ấn tượng vừa xấu hổ, vừa tủi nhục, vừa kinh hoàng. Người đàn bà câm đó ở một mình, bà ta làm nghề gánh nước thuê để sống. Con mắt bà ta to, đen, lông mày xếch ngược. Người bà ta trắng, béo phốp pháp. Tiến được đi học đến hết cấp hai thì phải ở nhà giúp việc. Dạo đó, gã vẫn nhỏ con như bây giờ, nhưng chân tay săn chắc vô cùng. Người đàn bà nhìn gã bằng con mắt khác hẳn sau lần bà ta bắt gặp gã tắm truồng bên giếng. Rồi một đêm, Tiến đang lơ mơ ngủ thì thấy có bàn tay vuốt ve khắp cơ thể mình. Gã vùng dậy. Người đàn bà nhìn gã bằng con mắt long lanh dưới ánh đèn dầu nhỏ bằng hạt đỗ. Bà ta cởi quần áo ngay trước mặt gã, cởi từ từ, chậm rãi. Mặc dù hơn bốn mươi, nhưng cơ thể người đàn bà đó còn khá hấp dẫn. Tiến đờ người, gã chẳng hiểu ra làm sao cả. Gã mụ mẫm tê dại. Người đàn bà rì rầm bên tai Tiến như con muỗi khổng lồ. Khi Tiến tỉnh dậy, gã thấy mình trần như nhộng, người đàn bà câm vẫn đang ngủ, đôi chân trần phốp pháp choãi ra hớ hênh. Từ đấy, không đêm nào Tiến thoát khỏi người đàn bà câm. Người gã rộc đi, nhưng không dám từ chối. Năm Tiến được hai mươi hai tuổi, người đàn bà câm chết. Trước khi nhắm mắt, bà ta trao cho gã một chiếc túi nhỏ, đựng toàn bộ tư trang và số tiền dành dụm được của mình. Với số vốn đó, gã lao vào ăn chơi bù cho những ngày tuổi trẻ bị giam cầm gò bó bởi người đàn bà câm. Được thời gian ngắn, Tiến lâm vào cảnh túng quẫn. May sao, nhờ một người bạn, gã xin vào làm một chân xé vé chợ để sống qua ngày. Mang tiếng là người ăn chơi trác táng, bao nhiêu con gái qua tay, nhưng thực sự đến Loan, Tiến quắt mới cảm thấy mình có hạnh phúc. Vậy mà cô ta nỡ bỏ gã đi. - Nếu không có ở quanh đấy, thế nào nó cũng về nhà. Ông cứ mò đến đấy, chắc chắn là gặp. Đám bạn thấy Tiến lọ mọ, khổ sở suốt ngày, vỗ vai an ủi gã. Tiến gật đầu: - Ừa nhỉ, tí nữa mình quên mất, ông ạ! Nói thế nhưng Tiến không đi tìm Loan nữa. Gã biết có tìm được cũng không hy vọng cô ta đồng ý quay trở lại. Là người từng chịu cảnh o ép, Tiến phần nào hiểu tâm trạng của kẻ muốn được tự do. “Bao giờ chán, cô ta sẽ quay lại. Cô ta hứa như thế rồi”. Tiến tìm cách tạm quên Loan trong thời gian ngắn. Gã trở nên ít nói, sống tử tế hẳn, hễ xong việc là về nhà ngay, không giao du với bạn bè nữa. Thi thoảng rỗi rãi, gã lại mò sang nhà mẹ con bà Trình chơi. Gã quí bà ta bởi tính cách hiền lành, không chấp vặt. Chẳng hiểu lão Trình đi làm ăn ở đâu hoặc bồ bịch gì đó mà mấy năm mới vác cái xác khô héo trở về một lần. Tiền của thì chẳng thấy gì, chỉ được cái ăn như thần trùng, mỗi lần lão về, hai mẹ con bà lại phải bấn lên vì chạy ăn. Nhà chỉ trông vào độc cái máy khâu, con gái lại đang học trung cấp bưu điện tỉnh, đâm ra đôi lúc mẹ con bà Trình vẫn phải sang nhờ cậy Tiến quắt. Chủ nhật, cái Hương, con gái bà Trình được nghỉ học, hễ rảnh tay lại chạy sang nhà Tiến chơi. Gã quý con bé, nó hơi tồ một chút, nhưng thông minh, cơ thể phát triển đều đặn, đặc biệt nó thích nghe những chuyện Tiến kể về các bà bán hàng ở chợ. Từ ngày Loan bỏ đi, Tiến lại càng quí Hương hơn, gã dành hết cho nó những tình cảm của mình đang bị đầy ứ. Ngồi nghe Tiến kể chuyện, mắt Hương cứ dán vào cái mồm dẻo quẹo, rất có duyên của gã. Một đôi lần, trong ánh mắt đứa con gái hàng xóm ấy ánh lên chút gì đó khác lạ nhưng lập tức tắt ngay. - Tại sao chị ấy lại bỏ chú đi? Hương tò mò hỏi, giọng run rẩy. Tiến buồn bã lắc đầu. Mặt gã co rúm lại: - Con người là thế, cô bé ạ, đang yên đang lành lại nổi cơn lên, làm một chặp rồi rốt cuộc vẫn trở lại trạng thái ban đầu. Nó sẽ quay trở lại… - Không… Hương cắn môi, tay vặn gấu áo. Tiến rót nước đẩy đến trước mặt cô bé, gã không muốn đem chuyện riêng tư của mình ra bàn cãi. Hai người chìm vào im lặng. Bên kia hàng rào, tiếng máy khâu của bà trình kêu rè rè, nhẫn nại. Tự dưng Tiến thở dài, gục đầu xuống bàn. Hương bỏ về nhà. Đêm, khi Tiến mắc màn đi ngủ thì nghe tiếng gõ cửa rụt rè. Hương bước vào, mặt trắng bệch, người run lên vì lạnh. Cô bé nhìn Tiến chăm chăm khiến gã nổi da gà. Gã ngắm cô từ đầu đến chân. Mái tóc cắt ngắn, ốp sát gáy, chiếc áo phin hoa mỏng, mềm mại. Ngực Hương thở dồn dập. - Lại đây cho đỡ lạnh. Tiến bước lên, giơ tay ra phía trước. Cả người Hương đổ nhào vào vòng tay gã, rung bần bật như bị sài giật. Lão Liêm bồn chồn ra mặt, đêm nào cũng lén lút khoác chiếc áo bông to sụ, đi sục sạo quanh quả đồi sau nhà. Cụ Trường phều phào hỏi: - Thế nào? Lão chỉ lắc đầu, sẵng giọng: - Chưa thấy biểu hiện gì! - Gay đấy! Cụ Trường ngả đầu xuống gối, kéo chăn lên che tận cằm. Nằm trong chăn, người cụ vẫn run lên ầm ầm, răng đánh vào nhau côm cốp như nhai đá hộc. Nằm một lúc, cụ gọi với sang chỗ thằng cháu đang hì hục gọt chuốt lại cái cán xẻng cho bóng: - Tao lại buồn… Lấy cho ông cái chậu, cháu! Giọng ông cụ nịnh nọt. Hải ngẩng phắt lên, hắn quát rầm nhà: - Đái gì mà đái lắm thế. Đây! Hắn lẳng cái chậu nhôm thủng gắn nhựa đường dưới đáy đến xoẻng một cái. Cụ Trường rón rén hất vạt chăn sang bên, mặt ngửa lên trời, cố điều chỉnh cho dòng nước khỏi kêu to. Lão Liêm khó chịu đưa tay bịt tai lại. Bên cạnh lão, bà vợ ngủ ngáy như kéo bễ. Tức khí, lão tiện chân đạp cho bà vợ một cái rõ đau rồi vùng dậy vặn to ngọn đèn, đi đi lại lại như một con gấu sa lưới. - Mấy hôm nữa, mày đem cái máy đi chữa, nghe không, Hải. Nhà với cửa, lúc nào cũng tối như lỗ đẻ thế này mà cũng chịu đựng được. Hải nói át đi: - Hàng xóm người ta còn chịu quanh năm được nữa là… - Câm mõm. Mày là chúa bàn lùi! Thế tao bảo xuống đón con Loan về, đã xuống chưa? Hải gãi chiếc đầu bù xù, bóng hắn hắt lên tường gẫy làm mấy khúc. - Thời gian đâu mà đi. Lão Liêm hộc lên nhẩy xổ đến, giáng cho thằng con một cú đá giữa lưng: - Tổ cha mày, chỉ giỏi cãi. - Tao lại buồn. Cụ Trường lẩm bẩm nói nhỏ. Tiếng nước lại long tong long tong vào chậu. Hai bố con lão Liêm đang gầm gừ nhìn nhau bỗng nghe đánh choé một tiếng, rồi năm sáu hòn đá loại củ đậu liên tiếp lẳng vào nhà. Cụ Trường rụt vội lại, thụt cả người vào trong tấm chăn. Hải lừ đừ đi thẳng ra cửa, lão Liêm níu tay, kéo sang bên, nói nhỏ nhưng rành rẽ: - Cẩn thận. Vòng ra cửa sau! Nhanh như con mèo, Hải mở chốt cửa bên cạnh, lần ra cổng. Hắn thoáng thấy một bóng người huỳnh huỵch chạy, liền đuổi theo. Nghe có bước chân đằng sau, bóng người càng tăng tốc độ nhưng vẫn bị Hải túm được. - Thằng chó cụt! Hải rít lên, nhe hai hàm răng như răng lợn lòi, tay túm chặt cổ áo Quý giật mạnh. Quý cụt thở hổn hển, ngoái đầu nhìn Hải bằng con mắt căm thù: - Mày cứ đánh đi. Tao sẽ cho cả lũ lĩ họ hàng nhà mày vỡ đầu mới hả. - Này thì vỡ… Hải thúc một cú đầu gối vào xương cụt, gã hàng xóm nấc lên đau đớn. Lão Liêm vác cây gậy tre chạy đến. Chẳng nói chẳng rằng lão bổ luôn một nhát ngang bụng Quý cụt. Gã này thét lên, giãy đành đạch. Hải buông Quý cụt, phủi tay, mặt khinh bỉ nhìn ra bờ sông Linh Nham rồi lẳng lặng bỏ về. Lão Liêm gầm ghè xoay quanh lão hàng xóm với vẻ hung hăng của con sói vờn chú bê con. Lão vừa vạch tội Quý cụt, vừa đệm thêm một hai nhát gậy cho bõ tức: - Mẹ bố mày chứ, mày tưởng làm vương làm tướng ở đây được hả. Bố con ông thì giần cho mày chừa cái tính cắn trộm đi. Bao nhiêu lần rồi… hừm! Này thì đáp trộm… Con vợ mày nó hư hỏng thì về dạy nó hiểu chưa. Mày mất dái hay sao mà không giữ được vợ. Động đến nỗi đau. Quý cụt nghiến răng chồm dậy túm lấy đầu gậy của lão Liêm. Lão hoảng hốt cầu cứu con trai hỗ trợ nhưng không thấy nó ở đấy nữa. Quý cụt tống cho lão một quả điếng người vào ngực. Lão Liêm hốt hoảng vùng chạy như bị ma đuổi. Tối hôm sau, Hải không tập võ cùng lũ bạn. Hắn ngồi riêng ra một góc, mặt lầm lì, tay cựa quậy liên tục. Lúc nữa, hắn đứng dậy ra về. Ông Trình gọi giật lại: - Cậu về làm gì sớm thế? Hải đáp cộc cằn: - Có việc! Ông Trình nheo mắt, tay bóp vụn hòn đá đang cầm rồi ném rào rào vào bụi cây. - Không cẩn thận, người đàn bà đó sẽ bị chết vì cậu mất. Hải chạy vùn vụt, ông Trình lắc lắc cổ tay nhìn theo. Con Ngân sán lại, bạo dạn vuốt cằm ông. Ông Trình bực bội gạt mạnh ra, gắt: - Đừng có hỗn. Ra tập đi, nghe chưa! Ngân cụt hứng, tẽn tò trở lại bãi cỏ, nghĩ sao nó ngoái cổ lại nhìn như thách thức ông Trình, rồi bước thẳng, mông ngoáy lia lịa. Trong lúc ông Trình mải nghĩ ngợi đâu đâu, Ngân kéo Bình Mịch vào một bụi cây, ghé tai nói nhỏ: - Anh muốn làm phó tướng không? Bình Mịch ngạc nhiên: - Mày điên à? - Không, em nói thật. Sau này em sẽ phải cần đến một đạo quân ở đây! Ngân mơ màng, nói huyên thuyên đủ điều về những dự định của mình, Bình Mịch cố gắng ngồi nghe, mắt sục sạo khắp người Ngân, đoạn nói: - Được, tao sẽ làm phó tướng cho mày. Ngân reo lên, mắt sáng quắc: - Thật chứ, anh Bình? Bình Mịch hùng hồn, chém chém tay vào không khí: - Không những thế, tao sẽ đi mộ quân cho mày. Chỉ việc ngồi đấy mà chờ. Tao mộ chắc chắn sẽ không dưới một nghìn đâu. Ngân đực mặt cảm động phát run lên. Bình Mịch hạ giọng: - Nhưng mà… tí nữa, mày phải cho tao… - Cho cái gì? Bình Mịch gãi đầu, nheo mắt, hất hàm ỡm ờ: - Cái ấy… - Là cái gì? Ngân chưa hiểu, Bình Mịch cáu tiết, nhổ toẹt bãi nước bọt: - Ngu thế không biết. Cái… hì… cái này này! Tay Bình Mịch chỉ vào bụng dưới của Ngân, săm soi nhìn quanh. Ngân gật đầu liền, đối với nó việc ấy không có gì quan trọng. Chủ tướng với phó tướng thì chẳng nên tiếc nhau. - Thế nhé, chốc nữa. Đợi chúng nó về. Bình Mịch nói như giao hẹn, bỏ ra chỗ đám bạn ngồi. Ngân nhìn theo dáng lồi lõm, khổ sở của Bình Mịch, trong mắt nó chiếc áo bộ đội vá chằng vá đụp của Bình Mịch bỗng biến thành chiếc áo choàng đỏ rực, lấp lánh những sợi kim tuyến vàng óng ánh. Nó nuốt nước bọt đánh ực một cái, bắt đầu nhắm mắt để nghĩ đến cách trang điểm quần áo mai kia mình sẽ mặc, sao cho thật lộng lẫy, nhưng không kém phần oai phong lẫm liệt. Đối với Ngân, chủ soái phải có thân hình đẹp. “Chân mình hơi cong một chút, nhưng chẳng ẳ Ý sao, sẽ tập cho nó thẳng dần dần”. Ý nghĩ đó làm cho nó khoái trá, tự cười rú lên. Tiếng cười của Ngân khiến ông Trình giật bắn người. Cùng lúc ấy, trên trời đột nhiên sáng rực. - Nó đã đến! Không kìm nổi hồi hộp ông Trình reo to. Sao chổi bay chéo bầu trời, soi rõ từng lớp sương đang lờ đờ chuyển động. Trong ánh sáng trắng xanh ấy lấp lóa hình một con thú bằng không khí đang tan ra lẫn vào màn hơi đục mờ của thung lũng đầu đông. Sao chổi kéo chiếc đuôi dài hàng chục mét lao đi vùn vụt rồi tắt ngấm sau cánh rừng làng Phan. - Đẹp quá, tiên sư khỉ! Ông Trình nghe tiếng than ngay bên cạnh mình. Ông quay phắt lại nói hổn hển: - Thôi, nghỉ! Rồi bóng ông mất hút vào biển sương đêm mênh mông, huyền bí. Từ thung lũng về, Hải đến thẳng nhà vợ chồng Lanh. Hắn huýt sáo nhẹ, Lanh ra mở cửa, hoảng hốt xua tay đuổi. Hải lách cửa vào. - Chết thật, sao lại thế này? Lanh lắp bắp, đánh mắt ra góc nhà. Quý cụt đang ngủ, người co quắp, dớt dãi chảy sều xuống chiếc gối cáu bẩn. Hải lạnh lùng nhìn Quý, hắn dằn Lanh xuống ngay dưới chân giường. Lanh thất thần giãy giụa chống cự, mắt dại hẳn. - Tôi lạy anh, buông ra, nó mà dậy thì chết… - Yên nào, con khỉ… Hải vần Lanh oành oạch, mắt vẫn dè chừng Quý cụt. Nghe động, Quý vùng dậy mắt nhắm mắt mở nhìn xuống nền nhà. Hắn vặn to ngọn đèn, hất màn lao vút qua hai thân người đang hùng hục làm tình. - Buông ra nào, buông ra, thằng chó chết. Lanh giẫy đạp lung tung nhưng không thoát khỏi sức nặng cơ thể Hải. Quý cụt nhẩy xổ vào. Hải chỉ chờ có thế, thốc chân trái lên bụng hắn, Quý văng ra một đoạn. Trong cơn điên cuồng, không biết trời đất là gì, Quý quờ tay vớ được cái xiên chuột hùng hổ giơ lên đâm mạnh xuống lưng Hải. Hải lẹ làng buông Lanh, lăn sang bên. Một tiếng rú kinh hoàng nổi lên. Hải không nhìn Lanh, mắt hắn rực lửa, nói giễu cợt: - Xong nợ rồi nhé. Thằng cụt. Hắn lững thững ra, để lại sau lưng Quý cụt đang ôm ghì lấy vợ, rống lên như con bò bị chọc tiết. Đến giữa sân nhà vợ chồng Quý, Hải thấy ánh sáng chói lòa chụp lấy mình. - Sao chổi! Hắn thốt lên rồi chuồn thẳng. Tiếng chân người rầm rập từ các ngóc ngách chạy đến. Chạm chân vào cổng, Hải gập bố và ông mình đứng dựa vào nhau, mặt hóng mãi lên trời. Bên cạnh, mẹ hắn đang khuấy nồi cháo to đùng, bốc hơi nghi ngút. Cụ Trường giương đôi mắt hấp háy, hai nắm tay vo lại thành cục gân guốc. Mặt lão Liêm tím tái rét, ánh lửa bập bùng từ chiếc bếp hắt ra, trông lão càng dị dạng. - Tao bảo, đã tắt chửa? - Rồi! Lão Liêm miễn cưỡng trả lời. Cụ Trường lại nổi cơn ho sù sụ, người lẩy bẩy như chực ngã. Bà Liêm nói vọng ra: - Thôi đưa ông cụ vào nhà đi. Rét mướt thế này đứng mãi làm gì cho khổ. Sao với chả sít. Nó tắt từ lâu rồi. Cứ như trẻ con không """