"Những Đốm Lửa Lưu Lạc - Celeste Ng full mobi pdf epub azw3 [Best Seller] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Đốm Lửa Lưu Lạc - Celeste Ng full mobi pdf epub azw3 [Best Seller] Ebooks Nhóm Zalo Người Shaker xem tất cả những ai không thuộc về Shaker là “nhân thế”. The Shakers: Hands to Work, Hearts to God* II. Tách biệt khỏi Thế gian. Đi ngược lại trật tự để vay mượn tiền tài thế gian; để tay trắng đi giữa thế gian; để bắt tay “thế gian”, nhưng, chỉ khi họ chìa tay ra trước; để có được địa vị, dẫu xa rời thế gian. IX. Những trật tự khác Đi ngược lại trật tự để ai cũng có thể viết nên trật tự mới; để tìm hiểu trật tự của các gia đình khác; để nói rằng anh ta hoặc cô ta đã nói dối; để tâm trí rộng mở vượt khỏi ranh giới của trật tự. Shakerism Unmasked*,1828 1 Ở Shaker Heights mọi người vẫn đang bàn tán về chuyện xảy ra vào mùa hè năm ấy: tại sao mà con bé Isabelle, đứa con út của gia đình Richardson, lại có thể phát điên mà châm lửa đốt nhà. Suốt mùa xuân, chuyện về bé Mirabelle McCullough trở thành chủ đề buôn chuyện - hoặc, tùy bạn đứng về phía nào, mà có thể gọi bé là Châu Mai Linh - còn bây giờ, rốt cuộc cũng có chuyện mới, một đề tài hấp dẫn để bàn luận. Một sáng thứ Bảy của tháng Năm, vừa non trưa, nhiều khách đang đẩy xe hàng mua sắm trong siêu thị Heinen’s đã nghe tiếng xe cứu hỏa inh ỏi chạy loạn xạ, hướng thẳng về phía hồ vịt. Khoảng 12 giờ 15 phút, bốn chiếc xe cứu hỏa đỗ thành một dãy đỏ lộn xộn dọc đường Parkland Drive, nơi cả sáu phòng ngủ của gia đình Richardson đang ngùn ngụt cháy, ai nấy trong vòng nửa dặm đều thấy khói bốc lên từ những ngọn cây giống như đám mây giông đen ngòm dày đặc. Sau đó, người ta đồn rằng từ lâu đã xuất hiện nhiều dấu hiệu rõ ràng: rằng Izzy là con nhỏ điên loạn, rằng gia đình Richardson lúc nào cũng có gì đó kỳ lạ, rằng vừa nghe tiếng còi báo động vào sáng hôm ấy thì họ biết chắc có chuyện khủng khiếp đã xảy ra rồi. Dĩ nhiên, lúc bấy giờ Izzy vẫn mất tích, không ai biện hộ cho cô và thiên hạ có thể - hoặc đã - đồn đoán bất cứ thứ gì mà họ thích. Dù khi xe cứu hỏa đến, và rồi sau đó một lúc, cũng không ai biết được chuyện gì đã xảy ra. Những người hàng xóm nép sát hết mức vào rào chắn tạm thời - chiếc xe tuần dương của cảnh sát, đỗ chắn ngang cách xa vài trăm mét - để quan sát đội cứu hỏa tháo các cuộn ống trong nét mặt khắc nghiệt của người đã nhận ra sự vô vọng. Bên kia đường, đàn ngỗng trong hồ vẫn ngụp đầu xuống nước lặn tìm rong, hoàn toàn không chút xáo trộn trước sự hỗn loạn này. Bà Richardson đứng trên bờ cỏ, tay túm chặt cổ áo choàng màu xanh nhạt. Dù trời đã sang chiều, bà vẫn còn đang ngủ khi đầu báo khói rú lên. Bà đã đi ngủ muộn, cố vào giấc, tự nhủ thầm phải gắng nghỉ ngơi sau một ngày dài khó nhọc. Tối hôm qua, từ cửa sổ tầng trên, bà nhác thấy một chiếc xe hơi cố đậu lại trước nhà. Lối lái xe vào nhà vừa xa vừa vòng, hình cung trũng kiểu móng ngựa uốn cong từ lề đường đến trước cửa rồi trở ra - vì vậy con đường chính chỉ cách cỡ trăm bước, nhưng với bà nó xa đến mức bà khó lòng nhìn rõ, dù bây giờ vẫn đang là tháng Năm , huống hồ lúc đó là chín giờ rưỡi đêm, trời đã sầm tối. Tuy vậy bà nhận ra chiếc Volkswagen cỡ nhỏ màu nâu vàng nhạt của vị khách thuê nhà, cô Mia, với chiếc đèn pha sáng rực. Cửa phụ mở ra, một dáng người mảnh mai xuất hiện, khép hờ cánh cửa: đứa con gái tuổi teen của Mia, là Pearl. Đèn dưới mui chiếu sáng bên trong khiến chiếc xe giống như một hộp trưng bày, nhưng chiếc xe xếp đầy nào hộp, nào túi đến gần chạm trần và bà Richardson chỉ có thể nhận ra chiếc bóng mờ nhạt tạo ra từ đầu cô Mia với búi tóc rối bù ngự trên đỉnh đầu. Pearl cúi xuống hộp thư, và bà Richardson chỉ có thể hình dung được tiếng cót két yếu ớt phát ra khi cửa hộp thư mở ra, rồi đóng lại. Sau đó Pearl nhảy lò cò trở vào xe và đóng cửa. Đèn phanh xe lóe lên đỏ rực sau đó chớp tắt, chiếc xe tất tả lao vào màn đêm đang buông đầy. Lòng thấy nhẹ nhõm, bà Richardson xuống chỗ hộp thư và nhìn thấy bộ chìa khóa đặt trên một chiếc nhẫn trơn, không một lời nhắn. Bà định sáng mai sẽ xem xét kỹ lưỡng cũng như kiểm tra căn hộ ở đường Winslow, dù bà biết rõ hai mẹ con họ đã đi rồi. Nhờ biết chuyện này nên bà mới chịu đi ngủ, và bây giờ là mười hai giờ rưỡi, bà đang đứng trên bờ cỏ trong chiếc áo choàng tắm, chân xỏ đôi giày tennis của cậu con trai Trip, nhìn căn nhà của gia đình đang cháy thành tro bụi. Khi bị đánh thức bởi tiếng rít ầm ĩ từ đầu báo khói, bà chạy hết phòng này đến phòng khác tìm cậu, tìm Lexie, tìm Moody. Thật ngạc nhiên khi bà không tìm Izzy, có vẻ như bà đã đinh ninh rằng Izzy là đứa gây nên tội. Phòng nào cũng trống trơn nhưng lại nồng nặc mùi xăng cùng ngọn lửa nhỏ đang cháy tanh tách ngay giữa mỗi chiếc giường, y như có con điên đang cắm trại trên đó. Đến khi bà kiểm tra phòng khách, phòng sinh hoạt gia đình, phòng giải trí và phòng bếp thì khói đã bắt đầu lan rộng bao phủ hoàn toàn, cuối cùng bà tháo chạy ra ngoài, nghe tiếng còi báo động, tín hiệu phát ra từ hệ thống an toàn của căn nhà. Ngoài ngõ vào, bà thấy chiếc Jeep của Trip không còn, cả chiếc Explorer của Lexie, xe đạp của Moody cũng vậy và dĩ nhiên chiếc ô-tô mui kín của chồng bà cũng vắng mặt. Người ta phải gọi cho ông từ sở làm. Sau đó bà sực nhớ Lexie, ơn trời, tối qua con nhỏ qua đêm ở nhà Serena Vương. Bà tự hỏi liệu Izzy đã đi đâu. Bà tự hỏi liệu mấy đứa con trai của bà đang ở đâu, và làm cách nào tìm được chúng để báo chúng biết chuyện gì đã xảy ra. Khi ngọn lửa được dập tắt, ngôi nhà chưa đến mức bị thiêu rụi hoàn toàn nhưng bà Richardson vẫn còn rất sợ hãi. Tất cả cửa sổ đều cháy rụi nhưng khung gạch của ngôi nhà vẫn còn, ẩm ướt, đen nhẹm đi và bốc đầy hơi nước, phần lớn mái nhà, các tấm bảng màu đen bóng bẩy lấp lánh giống như những chiếc vảy cá họ mới vừa ngâm tẩm. Trong vài ngày tới, gia đình Richardson không được vào nhà cho đến khi các kỹ sư của sở cứu hỏa kiểm tra xong tất cả những thanh xà còn trụ lại, tuy vậy, chỉ cần đứng từ bờ cỏ - nơi gần nhất với bảng CẢNH BÁO màu vàng mà họ được phép đến - họ vẫn nhìn thấy chút gì đó còn sót lại trong căn nhà đổ nát. “Trời ơi,” Lexie sửng sốt. Cô ngồi ngay mép mui xe của mình, chiếc xe đang đỗ bên kia đường, trên bãi cỏ giáp cái hồ vịt. Cô và Serena vẫn đang say ngủ, lưng đâu lưng cuộn tròn trong chiếc chăn cỡ queen của Selena thì bác sĩ Vương lay vai cô, nói nhỏ, “Lexie. Cục cưng Lexie. Dậy nào. Mẹ con vừa gọi đấy.” Họ đã thức đến hơn hai giờ sáng, nói chuyện - như họ đã làm suốt mùa xuân - về bé Mirabelle McCullough, tranh luận về việc quyết định của quan tòa là đúng hay sai, liệu bố mẹ nuôi của con bé có nên nhận được quyền giám hộ hoặc liệu có nên trả nó về với mẹ ruột. Cuối cùng Serena nói “Thậm chí Mirabelle McCullough cũng không phải tên thật của con nhỏ, ôi trời,” và Lexie đáp lại, “Mẹ nó đã từ bỏ nó, đồng nghĩa cô ta từ bỏ luôn quyền đặt tên cho nó,” rồi họ rơi vào không khí tĩnh lặng ảm đạm cho đến khi cả hai ngủ thiếp đi. Bây giờ Lexie nhìn đám khói cuồn cuộn bốc ra từ cửa sổ phòng ngủ của cô, cái cửa sổ hướng ra bãi cỏ, và nghĩ đến mớ đồ đạc trong phòng chẳng còn gì. Mỗi chiếc áo phông trong ngăn tủ kéo, mỗi cái quần jean trong tủ quần áo. Mớ ghi chú mà Serena đã viết cho cô từ hồi lớp Sáu hãy còn xếp lại thành các quả banh giấy, chúng được cất giữ trong một hộp giày đặt dưới giường; cả cái giường, các tấm ga trải giường và chiếc chăn bông đều cháy rụi thành than. Đóa hồng cài áo mà bạn trai Brian đã tặng trong chuyến hành hương được treo trên bàn trang điểm đến khô đi, những cánh hồng đỏ thắm, sẫm lại hóa đỏ bầm. Giờ chẳng còn gì ngoài tro tàn. Đột nhiên Lexie nhận ra rằng, trong bộ đồ vừa thay mà cô mang đến nhà Serena, thì cô còn khá khẩm hơn các thành viên còn lại trong nhà: trên ghế sau cô có cái túi du lịch, cái quần jean và bàn chải đánh răng. Bộ đồ ngủ. Cô liếc vội mấy đứa em, nhìn qua mẹ, mẹ hãy còn mặc áo choàng tắm đứng nơi bờ cỏ, và cô nghĩ, Thật luôn, mọi người chẳng còn gì ngoài bộ đồ dính trên người. “Thật luôn” là một trong những từ cửa miệng của Lexie, thậm chí cô gán nó vào những tình huống chẳng thật chút nào. Trong trường hợp này, chí ít một lần, không ít thì nhiều cô cũng dùng chính xác. Ngay cạnh cô, Trip thất thần đưa tay xước tóc. Lúc này mặt trời đang đứng bóng, mồ hôi làm cho những lọn tóc quăn của cậu cứ ngang tàng dựng ngược. Cậu đang chơi bóng rổ tại trung tâm cộng đồng thì nghe tiếng xe cứu hỏa rền rĩ, nhưng cậu chẳng mấy để ý. Ngay sau đó, mọi người đói bụng và quyết định nghỉ chơi, cậu lập tức lái xe về nhà. Đúng kiểu Trip, thậm chí cửa xe có đang hạ xuống thì cậu cũng không bận tâm đến đám khói khổng lồ phảng phất bay về phía mình mà chỉ bắt đầu nhận ra chuyện không ổn khi thấy xe cảnh sát phong tỏa con đường. Sau mười phút giải thích, cuối cùng cậu cũng được phép đỗ chiếc Jeep của mình ở phía bên kia ngôi nhà, nơi Lexie và Moody đang ngồi đợi từ lúc nào. Ba chị em ngồi trên mui xe theo thứ tự, như thứ tự trong các bức ảnh chân dung gia đình từng treo chỗ cầu thang, những bức ảnh giờ đã thành tro bụi. Lexie, đến Trip, Moody: học sinh năm cuối, năm ba, năm hai. Cạnh bên, mấy chị em nhận ra chỗ trống mà Izzy, học sinh năm nhất, “con cừu đen” trong nhà, một đứa bất định, đã để lại. “Rồi chúng ta sẽ ở đâu?” Trip hỏi. Phút lặng thinh bỗng chốc vây lấy ba chị em khi họ nhìn lại tình cảnh của nhà mình. “Chúng ta sẽ đến khách sạn hoặc nơi nào đó đại loại thế,” cuối cùng Lexie trả lời. “Chị nghĩ trước đây gia đình Josh Trammell cũng làm vậy.” Ai cũng biết chuyện này: vài năm trước, Josh Trammell, một học sinh năm hai đã ngủ quên khi đèn cầy còn cháy làm căn nhà của bố mẹ cậu bị thiêu rụi. Nhiều năm qua, ở trường trung học vẫn đồn rằng nguyên nhân không phải cây đèn cầy mà vì hút cần sa, nhưng bên trong ngôi nhà đã bị hủy hoại hoàn toàn nên chẳng thể nào biết được, và Josh mắc kẹt trong chuyện cây đèn cầy của chính mình. Người ta vẫn xem cậu là thằng đầu đất đốt nhà, dù chuyện này đã trôi qua nhiều năm, và mới đây Josh đã tốt nghiệp Đại học Ohio State với tấm bằng danh dự. Giờ đây, dĩ nhiên, đám cháy của Josh Trammell không còn là vụ hỏa hoạn lừng danh nhất ở Shaker Heights này nữa. “Một phòng khách sạn? Cho cả bọn?” “Sao cũng được. Thì hai phòng. Hoặc chúng ta sẽ đến khách sạn Embassy Suites. Chị không biết.” Lexie nhịp mấy ngón tay lên đầu gối. Cô muốn làm một điếu, nhưng sau những gì vừa xảy ra - và trước mắt mẹ với mười người lính cứu hỏa - cô không dám châm điếu. “Bố mẹ sẽ tính toán thiệt hại. Và phía bảo hiểm sẽ bồi thường cho nhà mình.” Mặc dù chỉ hiểu biết mơ hồ về thủ tục bảo hiểm, thì suy nghĩ này của cô nghe có vẻ hợp lý. Dù sao đi nữa, đây là chuyện của người lớn, không phải của bọn trẻ. Những lính cứu hỏa cuối cùng đang từ nhà bước ra, kéo chiếc mặt nạ bảo hộ ra khỏi mặt. Khói từ đám cháy hầu như đã không còn, nhưng cảm giác oi bức vẫn bao phủ khắp nơi rất giống bầu không khí phòng tắm sau khi tắm nước nóng. Mui xe nóng dần lên và Trip duỗi chân xuống kính chắn gió, di mũi dép tông đẩy đẩy vào cần gạt nước. Rồi cậu phì cười. “Gì mà vui vậy?” Lexie hỏi. “Chỉ đang tưởng tượng cảnh con Izzy chạy loanh quanh để đánh diêm khắp nhà.” Cậu khịt mũi. “Cái con điên.” Moody đang ngồi vắt chéo chân trên bãi cỏ cạnh chiếc xe đạp của mình. “Sao ai cũng khẳng định là nó?” “Thôi đi.” Trip nhảy khỏi xe. “Là Izzy chứ ai. Chúng ta đều ở đây. Mẹ cũng ở đây. Bố thì trên đường về. Còn thiếu ai nữa?” “Vì Izzy không có ở đây. Nên nó là đứa duy nhất có khả năng gây ra hay sao?” “Thủ phạm?” Lexie cắt ngang. “Izzy á?” “Bố đang ở sở làm,” Trip nói tiếp. “Chị Lexie ở nhà Serena. Em thì đang chơi bóng bên đường Sussex. Còn em, Moody?” Moody ngập ngừng. “Em đạp xe đến thư viện.” “Đó. Chị thấy chưa?” Với Trip, đáp án quá hiển nhiên. “Kẻ tình nghi duy nhất chỉ còn Izzy và mẹ. Mà mẹ thì đang ngủ.” “Biết đâu đường điện nhà mình bị chập. Hoặc giả có người quên tắt lò nướng thì sao.” “Đội cứu hỏa nói có nhiều mồi lửa rải khắp nhà,” Lexie nói. “Rất nhiều điểm phát lửa. Khả năng có cả chất xúc tác. Không phải sự cố.” “Chúng ta đều biết con nhỏ đó thần kinh mà.” Trip ngả người tựa vào cửa xe. Bên kia đường, xe cứu hỏa bắt đầu cuộn ống vào guồng. Ba đứa trẻ còn lại của nhà Richardson dõi theo đội cứu hỏa buông rìu xuống và cởi bỏ những lớp áo khoác vàng ám đầy mùi khói. “Đứa nào qua đó ngồi với mẹ đi,” Lexie bảo, nhưng chẳng ai nhúc nhích. Sau một phút, Trip tuyên bố, “Khi bố mẹ tìm thấy Iz, họ sẽ nhốt nó vào bệnh viện tâm thần đến hết đời.” Không ai bận tâm đến việc cô Mia và Pearl vừa rời khỏi căn hộ ở đường Winslow. Bà Richardson, đang quan sát đội trưởng đội cứu hỏa tỉ mỉ ghi chép vào hồ sơ tạm nên đã hoàn toàn quên mất hai vị khách thuê cũ của mình. Bà còn chưa báo với chồng hay bọn trẻ về chuyện đó; nhưng sáng sớm hôm ấy, Moody đã phát hiện sự vắng mặt của họ và cậu vẫn không chắc mình nên làm gì. Phía cuối đường Parkland Drive, đốm xanh nhỏ - chiếc BMW của bố chúng - đang tiến lại gần. “Sao anh biết chắc họ sẽ tìm ra nó?” Moody hỏi. 2 M ột năm trước, khi cô Mia và Pearl chuyển đến thuê căn hộ nhỏ ở đường Winslow, dù bà Richardson (chủ sở hữu căn hộ) hay ông Richardson (người bàn giao chìa khóa) đều không bận tâm nhiều về họ. Hai ông bà chỉ biết rằng gia đình họ không có ông Warren, và cả chuyện cô Mia ba mươi sáu tuổi, theo như bằng lái xe Michigan mà cô cung cấp. Họ để ý thấy cô không đeo nhẫn bên tay trái, mặc dù cô đeo rất nhiều nhẫn: một chiếc thạch anh tím cỡ lớn ở ngón trỏ, một chiếc làm từ cán chiếc thìa bạc đeo ngón út, và một chiếc đeo ở ngón cái khiến bà Richardson ngờ rằng nó trông giống một chiếc nhẫn tâm trạng . Nhưng trông cô có vẻ tử tế, và con gái cô cũng vậy, Pearl, một cô bé mười lăm tuổi, ít nói, thắt bím tóc đen dài. Cô Mia đã trả tiền thuê nhà tháng đầu và tháng cuối, cộng với tiền đặt cọc bằng một xấp những tờ hai mươi đô-la, và chiếc VW Rabbit màu nâu vàng nhạt - dù quá đỗi cà tàng - cũng đã lịch xịch chạy xuống đường Parkland Drive, phía bờ nam Shaker, nơi có những căn hộ san sát hơn và sân vườn cũng nhỏ hơn. Đường Winslow là một dãy dài những căn hộ hai tầng*, nhưng khi đứng trên vỉa hè bạn sẽ không nhận ra điều này. Từ ngoài nhìn vào, bạn chỉ thấy có một cửa trước, một đèn cửa trước, một hộp thư và số nhà. Có lẽ người ta có thể đặt một đồng hồ điện đôi, nhưng những thứ này - mỗi thành phố đều quy định - phải giấu ra phía sau nhà, bên cạnh nhà để xe. Chỉ khi bước đến lối vào bạn mới nhìn thấy hai cánh cửa bên trong, một dẫn lên căn hộ tầng trên, một đến tầng dưới và xuống tầng hầm chung của hai tầng. Mỗi một căn nhà ở Winslow đều có hai gia đình nhưng nhìn bề ngoài lại như chỉ một mà thôi. Người ta thiết kế như vậy đều có chủ ý. Thiết kế đó giúp người dân tránh khỏi kỳ thị khi sống trong căn hộ hai tầng - chỉ thuê, thay vì làm chủ - và nó còn giúp cho các nhà quy hoạch đô thị giữ gìn diện mạo phố phường, vì mọi người sẽ ít biết về những vị hàng xóm thuê nhà cạnh mình. Shaker Heights là như vậy. Tồn tại những luật lệ, nhiều luật lệ, về những gì bạn được làm và không được làm, cô Mia và Pearl bắt đầu biết về chúng khi dọn vào ngôi nhà mới. Họ biết cách viết địa chỉ mới của mình: số 18432 đường Winslow Thượng, chữ Thượng này để chắc rằng thư của họ được chuyển lên căn hộ của mình ở tầng trên chứ không phải cho ông Dương ở tầng dưới. Họ biết rằng dãy cỏ nhỏ nằm giữa vỉa hè và mặt đường được gọi là bờ cỏ - nhờ một cây phong Na-uy nhỏ trước mỗi nhà đã tô điểm cho làn cỏ - và thùng rác không được kéo đến đó vào những sáng thứ Sáu, thay vào đó chúng được đặt ra phía sau nhà, tránh thùng rác bừa bộn nơi lề đường khiến quang cảnh khó coi. Những chiếc xe máy cỡ lớn được lái bởi người đàn ông vận bộ đồng phục màu da cam, chạy vụt qua mỗi ngõ lui xe để gom rác trong sân sau, chở chúng đến chiếc xe tải lớn đang đỗ ở đường ngoài, và qua nhiều tháng cô Mia vẫn nhớ rõ ngày thứ Sáu đầu tiên của hai mẹ con tại đường Winslow này, nỗi kinh hãi mà cô gặp phải khi chiếc xe máy, y như chiếc xe golf đỏ rực gào rú, bắn qua cửa sổ nhà bếp cùng tiếng động cơ rầm rầm. Rốt cuộc họ cũng quen với điều đó, giống như quen với việc nhà để xe nằm tách biệt - ở vị trí hợp lý phía sau nhà, lại để giữ gìn cảnh quang đường phố - và biết mang theo ô để giữ người khô ráo khi phải chạy từ xe vào nhà trong những ngày mưa gió. Hồi tháng Bảy, khi ông Dương đi Hồng Kông hai tuần thăm mẹ, họ biết rằng với bãi cỏ chưa cắt sẽ nhận được lá thư lịch sự nhưng không kém phần nghiêm khắc từ thành phố, thông báo rằng bãi cỏ của nhà họ đã cao quá sáu inch và nếu tình trạng này không được khắc phục, thành phố sẽ cắt cỏ - và thu phí một trăm đô-la - trong vòng ba ngày. Có rất nhiều quy định cần phải biết. Và còn nhiều quy định khác mà cô Mia và Pearl không thể nhận biết hết trong suốt thời gian dài. Chẳng hạn như các quy tắc quy định về màu sắc được phép sơn nhà. Thành phố có một bản đồ tiện ích phân loại từng ngôi nhà theo phong cách Tudor* kiểu Anh, hay kiểu Pháp, và bố trí màu sắc tương thích cho các kiến trúc sư cũng như gia chủ. Những ngôi nhà theo “phong cách kiểu Anh” chỉ được sơn những màu xám nhạt, xanh rêu, hoặc một sắc nâu vàng nhạt nhất định để đảm bảo thẩm mỹ hài hòa cho mỗi con phố; những ngôi nhà mang phong cách Tudor đòi hỏi phải có sắc kem đặc biệt trên nền thạch cao và sắc nâu tối đặc biệt trên các thanh gỗ. Ở Shaker Heights, mọi thứ đều có kế hoạch. Từ khi thành phố được quy hoạch vào năm 1912, các trường học đều được bố trí sao cho tất cả trẻ em có thể đi bộ mà không phải băng qua bất kỳ đường lớn nào; các đại lộ đều có vỉa hè, với những trạm giao thông nhanh được đặt ở các vị trí chiến lược để nhanh chóng đưa những hành khách dùng vé tháng vào khu trung tâm Cleveland. Trên thực tế, khẩu hiệu của thành phố là - thật sự, như Lexie nói, ít nhất được một lần chính xác - “Cộng đồng nào cũng có chuyện; tốt nhất là lập kế hoạch”: triết lý cơ bản để mọi thứ có thể - và phải - được lên kế hoạch, bằng cách này người ta có thể tránh được sai lầm, bất mãn và tai họa. Tuy nhiên cũng trong những tuần đầu đến đây, hãy còn nhiều điều thú vị khác đáng để hai mẹ con khám phá. Giữa bộn bề dọn dẹp, sơn sửa rồi tháo dỡ, họ còn biết tên các con phố xung quanh: đại lộ Van Aken, nơi những chiếc xe điện chạy vào trung tâm thành phố Cleveland; đường Winchell; đường Latimore và đường Lynnfield. Đại lộ Chagrin, nơi mà cô Mia gọi là “Đại lộ Tuyệt vọng”. Họ biết đường nhà mình gần siêu thị Heinen’s ở địa phương, nơi mà cô Mia nói rằng họ đối xử với khách như tầng lớp quý tộc: thay vì phải đẩy xe hàng ra tận bãi gửi xe, thì một nhân viên xe hàng trong chiếc sơ-mi lụa thẳng thớm sẽ treo một số thứ tự vào xe đẩy và đưa khách tấm thẻ đỏ - trắng tương ứng. Sau đó khách mắc tấm thẻ ấy lên cửa sổ xe hơi của mình rồi lái đến phía trước siêu thị, ở đó có một nhân viên xe hàng khác sẽ đẩy hàng hóa ra rồi xếp gọn gàng vào cốp xe cho khách mà không nhận bất kỳ phần tiền boa nào. Họ biết trạm xăng rẻ nhất ở đâu - nó ở ngay góc đường Lomond và Lee Roads, nơi lúc nào cũng rẻ hơn những trạm khác một cent; họ cũng biết các tiệm thuốc ở đâu và tiệm nào có áp dụng phiếu giảm giá đôi*. Hai mẹ con còn biết rằng gần Cleveland Heights, Warrensville và Beachwood, dân địa phương thường bỏ lại lề đường những vật dụng cá nhân không dùng nữa, và họ còn biết rõ ngày nào là ngày phế liệu tại con đường nào. Họ biết rằng có thể mua được cái búa, cái tua vít, một lít sơn mới và cái bàn chải ở nơi đâu: mọi thứ đều có thể tìm thấy tại cửa hàng Shaker Hardware, nhưng chỉ vào khoảng chín giờ rưỡi đến sáu giờ chiều, khi chủ cửa hàng cho đám nhân viên về nhà ăn tối. Và, đối với Pearl, đó còn là cuộc khám phá hai vị chủ nhà và khám phá những đứa trẻ của gia đình Richardson. Moody là thành viên đầu tiên của gia đình Richardson đã cả gan đến căn hộ nhỏ ở đường Winslow. Cậu nghe mẹ mô tả những khách thuê mới với bố. “Cô ấy kiểu nghệ sĩ,” bà Richardson nói, và khi ông Richardson hỏi là nghệ sĩ gì, bà phì cười đáp lại, “Kiểu nghệ sĩ chật vật”. “Không sao đâu,” bà trấn an chồng. “Cô ấy đưa em tiền cọc luôn rồi.” “Vậy cũng đâu có nghĩa họ sẽ trả tiền thuê nhà,” ông Richardson nói, nhưng họ đều biết phần tiền cho thuê đó không quan trọng - chỉ ba trăm đô-la mỗi tháng cho tầng trên - và họ không cần khoản tiền ấy để trang trải cuộc sống. Ông Richardson là luật sư bào chữa và bà Richardson làm việc cho tờ báo địa phương, tờ Sun Press. Căn nhà ở đường Winslow là tài sản thuộc toàn quyền sở hữu của hai vợ chồng, bố mẹ của bà Richardson đã mua nó như một tài sản đầu tư từ khi bà mới ở tuổi thiếu niên. Chỗ tiền thuê đó giúp bà theo học ở Denison, sau đó trở thành chỗ tiền “phụ trội” hàng tháng - như cách mà mẹ bà đã gọi - trong giai đoạn bà mới đảm nhận vai trò phóng viên tập sự. Sau đó, từ khi bà kết hôn với Bill Richardson và trở thành bà Richardson, phần tiền cho thuê đã phụ vào chỗ tiền đặt cọc để mua căn nhà Shaker xinh đẹp, cũng là ngôi nhà ở đường Parkland nơi mà sau này bà chứng kiến vụ cháy. Năm năm sau khi bố mẹ qua đời, bà Richardson thừa kế ngôi nhà ở đường Winslow. Trước khi mất, hai cụ đã sống trong viện dưỡng lão một thời gian và ngôi nhà nơi bà trưởng thành đã được bán đi rồi. Nhưng gia đình vẫn giữ lại căn nhà ở đường Winslow, tiền cho thuê căn nhà này được dùng để trả phí chăm sóc cho hai cụ và đến giờ bà Richardson vẫn giữ lại, xem đó như một kỷ vật. Không, tiền bạc không phải vấn đề. Tiền cho thuê - cả thảy năm trăm đô-la mỗi tháng - giờ đều chuyển vào quỹ du lịch của gia đình Richardson, năm ngoái họ đã dùng quỹ ấy cho chuyến thăm thú đảo Martha’s Vinyard, ở đó, Lexie tập thành thạo kiểu bơi ngửa, Trip thì mê hoặc hết thảy thiếu nữ địa phương còn Moody bị sạm nắng đến lột cả da cháy. Thực ra, nếu không có chỗ tiền cho thuê kia thì gia đình họ vẫn dư dả tiền đi du lịch. Đối với bà Richardson vấn đề nằm ở chỗ khách thuê nhà là ai. Vì bà không cần khoản tiền cho thuê mà cái bà muốn là cảm giác bản thân đang hành thiện. Bố mẹ đã nuôi nấng bà để làm việc tốt; hàng năm họ đều quyên góp cho Tổ chức nhân đạo và Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc UNICEF đồng thời luôn tham gia vào các quỹ góp vốn ở địa phương, có lần họ đã thắng được một con gấu nhồi bông cao ba bộ tại buổi đấu giá kín* do Câu lạc bộ Rotary tổ chức. Bà Richardson xem ngôi nhà như một hình thức làm từ thiện. Bà định giá thuê thấp - bất động sản ở thành phố Cleveland cực kỳ rẻ, nhưng nhà ở những khu có giá trị như Shaker thì lại đắt - và bà chỉ cho đúng một kiểu người thuê, kiểu người mà bà cảm thấy họ xứng đáng, nhưng vì lý do này kia, họ gánh chịu một cuộc sống bất công. Và bà thấy vui lòng khi có thể bù đắp được phần nào cho họ. Ông Dương là vị khách thuê đầu tiên kể từ khi bà thừa kế căn nhà; là dân Hồng Kông nhập cư, ông đến Mỹ mà chẳng quen biết bất cứ ai, vả lại còn nói tiếng Anh nặng giọng, chắp vá. Sau nhiều năm, giọng ông chỉ nhẹ bớt đôi phần và mỗi lần nói chuyện, đôi khi bà Richardson buộc phải gật đầu cười trừ. Tuy nhiên, bà cảm nhận được ông Dương là người tốt; ông chăm chỉ làm việc, lái xe buýt chở học sinh đến Học viện Laurel, một trường nữ tư thục ở gần đó, đồng thời ông còn là thợ thủ công, sống một mình với mức thu nhập ít ỏi là thế, chẳng bao giờ ông có khả năng sống trong khu phố tử tế đến vậy. Lẽ ra với chi phí đó, ông sẽ phải bó mình ở một nơi xám xịt tù túng nào đó ở đường Buckeye, hoặc có khả năng phải ở khu tam giác gai góc phía đông Cleveland, người ta gọi đó là Khu người Hoa, nơi mà hồi cuối những năm 90 giá cho thuê thấp đến đáng ngờ, mọi tòa nhà đều bị bỏ hoang và tiếng còi vang lên ít nhất một lần mỗi đêm. Thêm vào đó, ông Dương luôn giữ căn nhà ở trạng thái không chê vào đâu được, ông sửa chửa các vòi nước bị rò rỉ, trát lại bê-tông phía trước và chăm chút khoảnh sân hình con tem sau nhà thành khu vườn trĩu quả. Hè nào cũng vậy, ông luôn mang bí đao nhà trồng sang biếu bà, một vài quả, mặc dù bà Richardson vẫn chưa biết làm gì với chúng - mớ trái màu ngọc bích, uốn gợn và rối rắm những lông - dù sao đi nữa bà cũng đánh giá cao sự chu đáo nơi ông. Ông Dương chính xác là kiểu khách thuê mà bà Richardson mong muốn: kiểu người mà bà có thể làm ơn cho họ, cũng là kiểu sẽ cảm kích cái ơn của bà. Căn hộ tầng trên không thành công được vậy. Mỗi năm, hoặc cũng tầm thời gian đó, tầng trên lại đón một khách thuê mới: một nghệ sĩ đàn cello, người vừa được thuê để giảng dạy tại Học viện Âm nhạc, một phụ nữ bốn mươi đã ly hôn, một đôi vợ chồng son vừa chuyển đến Cleveland. Khi bà bắt đầu nghĩ đến việc họ xứng đáng nhận thêm đôi chút hỗ trợ. Thì chẳng người nào ở lại lâu. Nghệ sĩ đàn cello bị từ chối vị trí nhạc trưởng của bang nhạc Cleveland đã rời thành phố trong nỗi buồn chua xót. Người phụ nữ ly hôn thì tái hôn sau cơn lốc tình yêu dài bốn tháng rồi cùng chồng mới cưới chuyển đến Dinh thự* mới toanh ở thành phố Lakewood. Còn đôi vợ chồng trẻ, trông quá đỗi chân thành, lại rất tận tâm và yêu nhau sâu đậm, thì lại cãi nhau đến nỗi không thể cứu vãn rồi chia tay chỉ sau mười tám tháng, bỏ lại một hợp đồng thuê dang dở, vài bình hoa vỡ và ba vết nứt trên tường, cao ngang đầu, ngay vị trí chiếc bình đã vỡ. Bà Richardson xem đó là bài học. Lần này, bà sẽ thận trọng hơn. Bà nhờ ông Dương trát lại lớp thạch cao và dành thời gian tìm người thuê khác, kiểu khách thuê đúng ý bà. Căn hộ số 18432 đường Winslow Thượng đã để trống gần sáu tháng cho đến khi Mia Warren và con gái dọn đến. Một bà mẹ đơn thân, giỏi giao tiếp, khéo léo, đang nuôi dạy cô con gái lễ độ, khá xinh đẹp và có lẽ cũng rất thông minh. “Em nghe nói trường học ở Shaker là tốt nhất Cleveland,” cô Mia nói, khi bà Richardson hỏi lý do vì sao hai mẹ con chuyển đến Shaker này. “Pearl rất nỗ lực để vào đại học. Nhưng em không đủ khả năng cho con bé học trường tư thục.” Cô liếc vội Pearl, con bé đứng yên tại phòng khách trống trải của căn hộ, siết chặt đôi tay đặt phía trước, và Pearl mỉm cười ngượng ngùng. Trong cái nhìn giữa hai mẹ con ấy có gì đó làm trái tim bà Richardson như bị mắc vào cái vợt bướm. Bà quả quyết với Mia rằng đúng như vậy, trường ở Shaker này là tuyệt nhất - Pearl có thể ghi danh học các lớp AP* cho từng môn, còn có phòng thí nghiệm khoa học, đài thiên văn, năm thứ tiếng mà con bé có thể theo học. “Có một chương trình kịch nghệ rất hấp dẫn, nếu con bé hứng thú,” bà nói thêm. “Năm ngoái, Lexie nhà chị đã đóng vai Helena trong vở Giấc mộng đêm hè.” Bà dẫn nguyên văn khẩu hiệu Trường học ở Shaker: Một thành phố nổi tiếng nhờ hệ thống trường học của mình. Thuế bất động sản ở Shaker cao hơn bất kỳ đâu, nhưng chắc chắn người dân nhận được những giá trị xứng đáng với đồng tiền họ bỏ ra. “Tuy nhiên, em chỉ thuê nhà, và em hoàn toàn nhận được mọi phúc lợi mà không phải chịu bất kỳ gánh nặng nào,” bà cười và nói thêm. Tuy bà đưa cô Mia lá đơn, nhưng trong lòng đã có quyết định. Và bà rất mực hài lòng khi mường tượng cảnh người phụ nữ ấy cùng con gái dọn vào căn hộ này, Pearl sẽ đang làm bài tập ở bàn bếp, còn Mia có lẽ sẽ đang vẽ một bức tranh hoặc một tác phẩm điêu khắc nào đó - vì cô ấy không đề cập chính xác chuyên môn của mình - nơi mái hiên nhỏ khép kín và hướng ra sân sau. Khi nghe mẹ tả về những khách thuê mới, Moody bị hấp dẫn bởi một nghệ sĩ thì ít mà bởi đứa con gái “sáng láng” trạc tuổi cậu được nhắc đến kia mới là nhiều. Vài hôm sau, khi cô Mia và Pearl chuyển đến, sự tò mò đã chế ngự con người cậu. Như mọi khi, cậu dắt chiếc xe đạp của mình, một chiếc xe đạp không phanh hiệu Schwinn đã cũ mà ngày trước tại Indiana nó thuộc sở hữu của bố cậu. Ở Shaker Heights không ai cưỡi xe đạp cả, cũng không ai đi xe buýt nếu họ còn cách khác: hoặc bạn lái, hoặc người khác sẽ chở bạn; người ta xây dựng thành phố này cho xe hơi và cho những người có xe hơi. Moody cứ đạp xe. Đến mùa xuân tới cậu mới tròn mười sáu tuổi, và cậu chẳng khi nào nhờ chị Lexie hay anh Trip chở mình đi bất cứ đâu nếu cậu tự đi được. Cậu chuồn đi, men theo đoạn vòng của đường Parkland Drive, ngang qua hồ vịt, chưa bao giờ cậu nhìn thấy con vịt nào ở đó, mà chỉ có bầy ngỗng Canada vừa to béo vừa xấc xược; băng qua Van Aken và các đường giao thông nhanh để đến đường Winslow. Cậu chẳng mấy khi đến đây - chẳng đứa trẻ nào lại liên quan đến nhà cho thuê cả - nhưng cậu biết đường đến đó. Hồi còn nhỏ, đôi lần cậu đã ngồi trong xe tạm đỗ ở ngõ vào nhà, ngắm nhìn cây đào trong sân và lướt qua các đài phát thanh trong khi mẹ chạy vào đưa đồ hoặc kiểm tra gì đó. Việc này không thường xảy ra; ngoại trừ khi mẹ cậu đang tìm khách thuê, còn lại thì chủ yếu ngôi nhà vẫn được để nguyên đó. Khi hai bánh xe đạp đâm sầm lên đoạn nối giữa phiến đá sa thạch to nơi vỉa hè, cậu mới nhận ra rằng mình chưa bao giờ đặt chân vào căn nhà này. Cậu không chắc liệu những đứa trẻ khác có như vậy. Phía trước, Pearl đang cẩn thận xếp những thanh gỗ giường lên bãi cỏ trước nhà. Lượn qua trạm dừng bên kia đường, Moody trông thấy thiếu nữ mảnh mai trong chiếc váy dài nhàu nhĩ và áo phông lùng nhùng in dòng chữ cậu không tài nào nhìn rõ. Mái tóc của cô dài, quăn xoắn và cột thành bím dày xõa sau lưng tạo cảm giác căng đến sắp sổ tung. Cô gái đặt tấm ván đầu giường xuống chỗ đất phẳng gần các luống hoa trồng quanh nhà, đặt các thanh ray bên dưới và đặt những thanh gỗ mỏng ở phía bên kia thành hàng ngay ngắn, giống như bộ xương sườn. Dường như chiếc giường cố hít một hơi thật sâu, sau đó yêu kiều ép tấm thân lên bãi cỏ. Moody nấp nửa người sau thân cây, quan sát cô gái đang tìm lối vòng qua chiếc Rabbit mở toang cửa đang đỗ ở ngõ vào, cô rút bậc tam cấp từ ghế sau. Cậu muốn biết họ đã chơi trò Tetris* kiểu gì mà có thể xếp chừng ấy thanh giường vào chiếc xe nhỏ bé như vậy. Cô gái để chân trần, hai lòng bàn chân hồng vỏ sò khéo léo bước qua bãi cỏ để đặt bậc tam cấp vào vị trí. Sau đó, quá đỗi ngạc nhiên, cô bước vào giữa khuôn chữ nhật trống ấy, nơi lẽ ra phải đặt chiếc nệm giường, và ném phịch người nằm xuống. Từ tầng hai của ngôi nhà, cánh cửa sổ lạch cạch mở ra và cô Mia ló đầu nhìn xuống. “Đủ cả chứ?” “Thiếu hai thanh mỏng ạ,” Pearl trả lời. “Mình sẽ thay cái khác. Không, đợi đã, con nằm yên đó. Đừng nhúc nhích.” Đầu của cô Mia lại lần nữa mất hút. Ít phút sau cô trở lại cùng cái máy ảnh, là máy ảnh thật, với ống kính dày như hộp thiếc lớn. Pearl vẫn nằm yên đó, nhìn chằm chằm lên bầu trời giăng mây, còn cô Mia ngả rạp người đến hông, canh góc một pô ảnh chuẩn. Moody như nín thở, lo máy ảnh sẽ tuột khỏi tay cô mà rơi lên khuôn mặt để ngửa đầy tin cậy của cô gái, lo rằng bất thình lình cô tự ngã nhào khỏi bậu cửa rồi đâm sầm xuống thảm cỏ. Không xảy ra gì cả. Đầu của cô Mia nghiêng hướng đó và khung cảnh bên dưới nằm trọn trong kính ngắm của cô. Máy ảnh che mặt cô, che hết khuôn mặt chỉ để lộ mái tóc, búi tóc quăn xoắn xếp chồng trên đỉnh đầu y như một quầng tối. Sau này, khi Moody nhìn thấy những bức ảnh hoàn chỉnh, suy nghĩ đầu tiên hiện lên trong đầu cậu là Pearl trông như mẫu hóa thạch tinh xảo, một vật phẩm hàng thiên niên kỷ mới có thể bắt gặp trong bộ xương của loài mãnh thú thời tiền sử. Sau đó cậu thấy nàng giống như thiên thần đang chớp mắt với đôi cánh sải rộng ở sau lưng. Và rồi, sau một khoảnh khắc, trông nàng đơn giản như thiếu nữ say giấc trên chiếc giường mướt xanh, đợi chờ người tình đến cuộn mình nằm bên cạnh. “Đẹp rồi,” cô Mia gọi vọng xuống. “Chụp được rồi.” Cô lui trở vào trong và Pearl đứng dậy, hướng mắt sang bên đường, nhìn thẳng Moody, trái tim cậu thình thịch. “Cậu muốn giúp không?” cô bé hỏi. “Hay cứ đứng đó?” Moody sẽ không bao giờ nhớ về việc băng qua đường, việc dựng chiếc xe đạp trước vệ đường, hay đã tự giới thiệu bản thân. Vì trong cậu có cảm giác rằng mình vẫn luôn biết rõ tên cô gái này và rằng cô ấy cũng luôn biết đến mình, bằng cách nào đó, cậu và Pearl luôn biết về nhau. Họ cùng nhau vác mớ khung giường lên cầu thang chật hẹp. Căn phòng khách trống trơn chỉ có chồng hộp nhỏ nằm trong góc và cái đệm lớn màu đỏ giữa sàn nhà. “Lối này.” Pearl kéo mạnh bó thanh giường cao lên và dẫn Moody vào phòng ngủ lớn hơn, căn phòng chẳng có gì ngoài tấm đệm bông đôi sạch sẽ, sờn cũ đặt dựa vào một phía tường. “Đây này,” cô Mia bảo, đặt hộp dụng cụ bằng thép dưới chân Pearl. “Con sẽ cần đến mấy cái này.” Cô cười với Moody, như thể cậu là một người bạn cũ. “Cứ gọi mẹ khi cần giúp nhé Pearl.” Sau đó cô trở vào hành lang, và ít phút sau họ nghe tiếng cứa phát ra từ chiếc hộp đang được tách mở. Pearl sử dụng bộ dụng cụ với đôi tay thành thạo, cô bẩy các thanh vịn vuông góc với vách đầu giường, dựng chúng lên tì vào mắc cá chân trong khi cài chốt cố định lại. Moody ngồi cạnh hộp đồ nghề đang mở, quan sát cô gái với lòng nể phục. Trong nhà cậu, nếu đồ đạc gì hư hỏng thì mẹ sẽ gọi thợ đến sửa - bếp lò, máy giặt, máy nghiền rác - không thì, hầu hết những đồ dùng khác đều mang vứt hoặc mua mới. Cứ mỗi ba hay bốn năm, hoặc vào các đợt khuyến mại xuân, mẹ lại chọn một bộ đồ dùng mới cho phòng khách; bộ cũ sẽ được mang xuống phòng giải trí ở tầng hầm; còn những bộ cũ rích từ phòng giải trí sẽ được quyên cho nhà trẻ vị thành niên ở khu phía Tây, hoặc quyên cho trại nữ tạm trú ở khu trung tâm. Bố cậu không sửa xe qua loa ở ga-ra tại nhà; khi nó kêu lạch cạch hay rít gắt ông đều mang đến xưởng sửa chữa ô-tô Lusty Wrench, nơi mà bác Luther đã bảo dưỡng cho từng chiếc xe của nhà Richardson suốt hai mươi năm qua. Moody nhận ra rằng lần duy nhất cậu tự tay dùng bộ dụng cụ là ở phân xưởng hồi lớp Tám: chúng được xếp thành nhóm, một nhóm đo đạc, một nhóm cưa và một nhóm chà nhám, và khi kết thúc khóa học, mọi người nghiêm túc bắt vít các linh kiện lại với nhau để làm cái máy nhả kẹo nho nhỏ dạng hộp, cái máy sẽ thả ra cho bạn ba viên kẹo Skittles mỗi lần kéo cần gạt. Năm ngoái anh Trip cũng làm một cái tương tự ở xưởng, năm trước nữa chị Lexie cũng làm một hộp y hệt, sang năm tới Izzy mới làm thêm một cái, và mặc dù trải qua cả khóa học ở xưởng, mặc dù bốn cái máy nhả kẹo y hệt nhau được cất kỹ đâu đó trong nhà, thì Moody vẫn không chắc rằng nhà mình có ai làm được gì ngoài việc dùng cái tua vít Phillips. “Sao cậu biết xài mớ đồ nghề này?” cậu hỏi trong khi chuyền cho Pearl thanh giường khác. Pearl nhún vai. “Học từ mẹ tớ đấy,” cô nói, dùng một tay ghim thanh giường vào vị trí và chụp lấy cái đinh ốc trong mớ phụ tùng ở trên thảm. Khi láp vào, đây rõ ràng là chiếc giường đôi kiểu cũ với các tay nắm ở đầu giường, loại giường Goldilocks* có thể đã từng nằm ngủ. “Cậu lấy nó ở đâu thế?” Moody đặt nệm vào vị trí và bật nhún để thử. Pearl đặt tua vít trở vào hộp đồ nghề rồi khóa lại. “Nhà tớ nhặt được nó.” Cô ngồi lên giường, tựa lưng vào bậc tam cấp, hai chân duỗi theo chiều dài chiếc giường, nhìn chằm chằm lên trần nhà, giống như đang kiểm tra gì đó. Moody ngồi xuống đầu giường, sát cạnh chân cô. Những lá cỏ bé xíu mắc vào chân Pearl, vào bắp chân và viền nối của chiếc váy cô mặc. Người cô tỏa hương dầu gội hương hoa cỏ và mùi oải hương. “Đây là phòng của mình,” đột nhiên Pearl nói, và Moody bật dậy. “Tớ xin lỗi,” cậu nói, với đôi má nóng bừng đỏ lự. Pearl ngước nhìn với vẻ ngạc nhiên, như thể trong tích tắc cô đã quên rằng cậu ấy đang có mặt. “Ôi,” cô thốt lên. “Tớ không có ý đó.” Cô nhặt một mẩu cỏ từ các ngón chân và búng văng đi rồi hai người cùng nhìn ngọn cỏ rơi trên nền thảm. Khi bắt đầu nói tiếp, giọng cô nghe rất lạ. “Trước đây, tớ chưa bao giờ có phòng riêng.” Lòng Moody đắn đo từng lời cô nói. “Ý là cậu luôn phải dùng chung phòng?” Moody cố tưởng tượng thế giới nào mà lại có chuyện này. Cậu cố tưởng tượng phải dùng chung phòng với anh Trip, người lúc nào cũng bày bừa vớ bẩn và tạp chí thể thao ra đầy sàn, người mà việc đầu tiên anh làm khi trở về nhà là bật đài phát thanh tầng số 93.5 Mhz y như rằng thiếu cái giọng trầm cực kỳ ngu ngốc đó thì trái tim anh ta chắc ngưng đập. Vào kỳ nghỉ, gia đình Richardson lúc nào cũng đặt ba phòng: một phòng cho vợ chồng Richardson, một cho Lexie với Izzy và một cho Trip với Moody - vào buổi sáng Trip sẽ cười nhạo Moody vì đã nói mớ trong lúc ngủ. Trong khi Pearl và mẹ cô ấy thì phải dùng chung phòng - Moody gần như không tin nổi còn có người nghèo đến như vậy. Pearl lắc đầu. “Trước đây hai mẹ con tớ làm gì có nhà riêng,” cô nói, và Moody kiềm chế lòng thôi thúc muốn nói với cô rằng đây nào phải nhà, chỉ phân nửa căn nhà mà thôi. Cô đưa đầu ngón tay lần theo chỗ lún trên chiếc đệm giường, xoay vòng ở mỗi chỗ trũng. Nhìn Pearl, Moody không tài nào hiểu hết những gì mà cô ấy đang nhớ lại: cái lò khó chịu ở Urbana, hai mẹ con phải đánh diêm mới có thể đốt lò; căn hộ lầu năm không có thang máy ở Lafayette, khu vườn đầy cỏ dại ở Ocala và căn hộ mù khói ở Muncie, nơi người thuê nhà trước đây đã thả con thỏ nuôi chạy khắp phòng khách, để lại những lỗ gặm loang lổ cùng nhiều vết bẩn đáng ngại. Và ngôi nhà cho thuê lại ở Ann Arbor, cách đây nhiều năm, đó là nơi cô không muốn rời đi nhất, vì gia đình sống ở đó có một cô con gái chỉ lớn hơn cô một hoặc hai tuổi, suốt sáu tháng cùng mẹ ở đó, ngày nào cô cũng chơi với bộ sưu tập tượng ngựa của cô bé may mắn kia, cùng ngồi vào chiếc ghế bành cỡ trẻ em của cô bé ấy, cùng nằm ngủ trên chiếc giường có màn che màu tuyết trắng của họ, đôi khi, vào giữa đêm khi mẹ ngủ rồi, cô bật đèn đầu giường và mở tủ của cô ấy rồi thử đầm, thử giày dù những thứ ấy đều khá rộng so với cô. Ảnh của cô bé ấy dán khắp nơi trong nhà - trên mặt lò sưởi, trên chiếc bàn trà nơi phòng khách, một bức lớn ở cầu thang, tấm ảnh điêu khắc chân dung tuyệt đẹp tạo dáng bàn tay giữ lấy cằm - và thật dễ dàng để Pearl giả vờ rằng đây là nhà của cô, đồ đạc đó là của cô, phòng của cô, cuộc sống của cô. Khi hai vợ chồng họ cùng cô con gái trở về sau kỳ nghỉ dài (sabbatical) Pearl thậm chí không nhìn được cô gái kia, làn da rám nắng, vóc người gầy khỏe và giờ đã quá cao so với những bộ đầm trong tủ. Pearl đã khóc suốt chặng đường đến Lafayette, nơi hai mẹ con sẽ ở lại trong tám tháng tới, thậm chí chú ngựa nhỏ dáng nhảy màu vàng, có bờm và đuôi sáng mà cô trộm từ bộ sưu tập của cô gái kia cũng không làm cô thoải mái, dù cô có bồn chồn chờ đợi thì chẳng bao giờ có ai mắng vốn gì cho việc mất đồ, và còn gì thất vọng cho bằng việc lấy cắp đồ của người ta để làm của để dành mà họ thậm chí chẳng nhận ra đã mất những gì? Mẹ của cô bé ấy chắc hẳn đã biết, vì thế họ không cho thuê lại nữa. Pearl không than phiền thêm chi, bởi bây giờ cô biết bản thân thích một căn hộ trống hơn là căn hộ chất toàn đồ của người khác. “Tớ và mẹ đã chuyển nhiều chỗ. Bất cứ khi nào mẹ tớ cao hứng.” Cô nhìn Moody chằm chằm, gần như trừng trừng, Moody thấy đôi mắt ấy thẫm xanh màu ngọc bích, đôi mắt mà cậu từng nghĩ nó có màu nâu lục nhạt. Khoảnh khắc ấy, đột nhiên Moody hiểu thấu những điều xảy ra vào sáng hôm ấy: chúng chia tách cuộc đời cậu thành nửa trước và nửa sau, và cậu sẽ luôn so sánh hai đoạn đời ấy với nhau. “Cậu định làm gì vào ngày mai hở Pearl?” Moody hỏi. 3 M ấy tuần sau đó trở thành những chuỗi “ngày mai” dành cho Moody. Họ đến Fernway, trường tiểu học ngày xưa cậu học, nơi đó họ trèo lên cầu tuột, múa cột theo điệu simmi và lộn nhào từ sàn hẹp xuống đống mạt gỗ bên dưới. Cậu đưa Pearl đến Draeger’s thưởng thức món kem Hot Fudge Sundae. Ở hồ Horseshoe, họ trèo lên cây như hai đứa trẻ, ném những mẩu bánh mì ỉu cho đàn vịt đang chực chờ bên dưới. Tại Yours Truly, khu ẩm thực đêm ở địa phương, họ ngồi trong quầy gỗ ghế tựa cao, ăn khoai tây chiên phủ đầy phô mai cùng thịt xông khói và bỏ đồng hai mươi lăm cent vào máy hát tự động để nghe bản “Great Balls of Fire” và “Hey Jude.” “Đưa tớ đi xem người Shaker* đi,” ngày nọ Pearl bảo Moody và cậu bật cười. “Chẳng còn người Shaker nào ở Shaker Heights cả,” cậu nói. “Họ đều chết cả rồi. Họ không tin vào tình dục. Họ chỉ đặt tên thành phố theo tên họ.” Moody nói đúng một nửa, dù cậu hay hầu hết những đứa trẻ khác ở thành phố này đều không biết gì nhiều về lịch sử của giáo phái Shaker. Quả thực, từ rất lâu trước đây, người Shaker đã rời khỏi vùng đất mà sau này trở thành thành phố Shaker Heights, và tính đến mùa hè năm 1997 trên thế giới còn chính xác mười hai người Shaker đang sinh sống. Nhưng Shaker Heights đã được hình thành - nếu không dựa trên các nguyên tắc Shaker - với cùng ý tưởng tạo ra một địa đàng trần gian. Trật tự - và quy tắc, cha đẻ của trật tự - đã là bí quyết cân bằng của người Shaker. Họ đặt quy tắc cho mọi thứ: thức dậy đúng lúc vào buổi sáng, rèm cửa sổ có màu sắc nhất định, mái tóc của người đàn ông có độ dài thích hợp, chắp tay đúng cách khi cầu nguyện - ngón cái của tay phải để sang bên trái. Người Shaker tin rằng, nếu lập kế hoạch chi tiết cho mọi thứ, họ có thể tạo ra mảnh đất thiên đường nơi hạ giới, một nơi nhỏ bé để lánh đời, và những người sáng lập ra thành phố Shaker Heights cũng nghĩ như vậy. Trong các mẫu quảng cáo, họ vẽ ra một Shaker Heights trên mây, trên đỉnh núi ngay cuối cung cầu vồng, ném cái nhìn xuống những thành phố ngập trong bụi bặm. Sự hoàn hảo: đó là mục tiêu, và có lẽ những người Shaker đã kiên quyết thực hiện, thấm nhuần vào đất, nuôi dưỡng những người từng trưởng thành ở đó với thiên hướng hoàn thành mọi việc vượt kỳ vọng và không bao giờ khoan nhượng cho thói xấu. Thậm chí các thanh thiếu niên ở Shaker Heights - những người mang nguồn sáng chính yếu của người Shaker đang hát bản “Simple Gifts” ở lớp nhạc - có thể hiểu được việc hướng đến sự hoàn hảo vẫn làm bão hòa không khí. Khi Pearl hiểu thêm về quê nhà mới của mình, thì Moody cũng bắt đầu biết thêm về nghệ thuật của cô Mia, về sự phức tạp và thất thường trong tài chính của gia đình Warren. Moody chưa bao giờ lo nghĩ về tiền bạc, bởi cậu có bao giờ cần tiền cho việc gì. Đèn sáng khi cậu bật công tắc; nước chảy khi cậu vặn mở vòi. Thực phẩm chất đầy trong tủ lạnh theo những khoảng thời gian đều đặn rồi lại xuất hiện trong các bữa ăn nấu sẵn được dọn trên bàn vào mỗi giờ ăn. Từ khi lên mười, cậu đã có một khoản sinh hoạt phí, khởi đầu là năm đô-la mỗi tuần, sau đó gia tăng đều đặn theo mức lạm phát và độ tuổi, đến hiện tại là hai mươi đô-la. Chỗ phí ấy cộng với những tấm thiệp sinh nhật từ cô dì và họ hàng, mỗi tấm thiệp lúc nào cũng có một tờ tiền được gấp lại, thì cậu đã đủ dùng để mua sách cũ ở tiệm sách Mac’s Backs, hoặc chiếc CD đặc biệt, hoặc một cây guitar mới, bất cứ gì cậu cần. Cô Mia và Pearl cật lực gom những món đồ miễn phí đã dùng rồi hoặc vẫn còn dùng tốt. Chỉ trong vài tuần, họ biết hết vị trí mọi kho hàng của Cứu tế quân, cái ở đường Vincent De Paul và đường Goodwill là lớn nhất vùng Cleveland. Ngay tuần đầu dọn đến, cô Mia đã nhận việc ở Điện Hồng Phúc, một nhà hàng món Hoa ở địa phương; vài buổi tối mỗi tuần, tại quầy hàng, cô nhận và đóng gói các đơn phải giao đi. Họ nhanh chóng biết rằng đối với các bữa tối giao tận nơi, thì dường như người dân ở Shaker chuộng nhà hàng Ngọc Phương Đông hơn, nhà hàng đó chỉ cách nơi này vài lô, tuy vậy Điện Hồng Phúc cũng kinh doanh rất tốt mảng giao hàng. Ngoài tiền công theo giờ, các phục vụ bàn còn chia cho cô phần tiền boa của họ, và khi có thức ăn thừa, cô lấy vài hộp mang về nhà - cơm vừa chớm hẩm, thịt heo chua ngọt còn thừa, rau củ vừa mới héo - những thứ giúp cô và Pearl duy trì cuộc sống trong cả tuần. Hai mẹ con hầu như chẳng có thêm gì, dĩ nhiên những thức ấy cũng không dùng ngay được: cô Mia rất giỏi xào nấu lại. Mì xào mềm thiếu nước sốt được phủ bằng món Ragu từ chiếc bình để qua đêm; hâm nóng lại và bỏ lên thêm miếng thịt bò cam. Những tấm ga trải giường cũ, tậu được với giá chỉ bằng một phần tư tại cửa hàng đồ si biến hình thành màn cửa, thành khăn trải bàn và vỏ áo gối. Moody nghĩ đến lớp Toán: một ứng dụng thực tiễn của toán học tổ hợp. Bạn có thể kết hợp bánh kếp mu-shu và món thịt nhồi thành bao nhiêu món khác nhau? Bạn làm được bao nhiêu món khác nhau chỉ với gạo, thịt heo và ớt? “Sao mẹ cậu không tìm việc làm chính thức?” trưa hôm ấy, Moody hỏi Pearl. “Tớ cá là cô có thể làm thêm nhiều giờ mỗi tuần. Hoặc thậm chí có thể làm việc toàn thời gian ở nhà hàng Ngọc Phương Đông chẳng hạn, hoặc một nơi khác.” Kể từ khi biết được công việc của cô Mia, suốt cả tuần nay cậu cứ thắc mắc mãi chuyện này. Cậu lập luận rằng nếu cô Mia bỏ ra nhiều thời giờ hơn, thì cô ấy sẽ đủ tiền mua cái ghế sô-pha đúng nghĩa, những bữa ăn đúng nghĩa, thậm chí cả TV. Pearl nhìn chằm chằm, nhíu mày, ra điều đơn thuần không hiểu câu hỏi ấy. “Nhưng mẹ tớ có việc làm,” cô nói. “Mẹ làm nghệ sĩ”. Họ đã sống như vậy suốt nhiều năm qua, cô Mia làm việc bán thời gian chỉ để kiếm sống qua ngày. Trong trí nhớ của mình, từ lâu lắm Pearl đã hiểu được trật tự: công việc thực sự của mẹ là tài nghệ của bà ấy, lúc nào cũng vậy mỗi hóa đơn có mặt chỉ để khiến cho nghệ thuật ấy thành hiện thực. Mỗi ngày, mẹ dành vài giờ để làm việc - mặc dù ban đầu Moody không nhận ra những thứ này là sản phẩm mà cô Mia đang làm. Thỉnh thoảng cô Mia xuống tầng dưới, trong phòng tối tạm thời mà cô dựng lên trong phòng giặt ủi ở tầng hầm, rửa các cuộn phim hoặc rửa ảnh. Đôi khi cô ấy dành gần hết thời gian để đọc sách - đọc những thứ có vẻ chẳng liên quan gì đến Moody, kiểu mấy tạp chí ẩm thực từ những năm 1960, hoặc cẩm nang xe hơi, hoặc một cuốn sách bìa cứng to oạch về tiểu sử của Đệ Nhất Phu nhân Eleanor Roosevelt -hoặc thậm chí phóng tầm mắt qua cửa sổ phòng khách chỉ để nhìn chằm chằm vào cây đào ngoài sân. Sáng hôm ấy, khi cậu đến, cô Mia đang nghịch một chuỗi dây, chơi trò dây luồn tay đan dây, cho đến khi hai đứa đi chơi về, cô vẫn ở đó, thậm chí dệt thành cái mạng rối rắm dài dằng dặc giữa các ngón tay và sau đó đột ngột tháo ra thành cái vòng đơn, rồi lại tiếp tục. “Một công đoạn trong quy trình đấy nhé,” Pearl nói với cậu khi họ ngang qua phòng khách, với vẻ lãnh đạm của một người bản địa không chút bất ngờ trước phong tục kỳ dị ở xứ mình. Thỉnh thoảng cô Mia mang máy ảnh ra ngoài, nhưng thường thì cô có thể dành nhiều ngày, hoặc thậm chí nhiều tuần, để chuẩn bị vật chụp, trong khi việc chụp những bức ảnh ấy chỉ mất có vài giờ. Moody biết rằng cô Mia không tự xem mình là nhiếp ảnh gia. Trong lòng cô, nghề nhiếp ảnh thuộc kiểu tư liệu, và cậu nhanh chóng hiểu rằng đối với cô Mia thì nhiếp ảnh đơn thuần là công cụ, cô dùng nó chỉ như người họa sĩ sử dụng cọ hay con dao. Một bức ảnh trơn sau đó có thể được chắp vá lại: với những chiếc mặt nạ thêu sặc sỡ che khuất khuôn mặt của chủ nhân đằng sau chúng, hoặc những nhân vật có thể được cắt ra, kiểu búp bê giấy, và vận những bộ trang phục được cắt ra từ mấy cuốn tạp chí thời trang. Có một bộ ảnh mà cô Mia đã tráng phim âm bản trước khi tinh chỉnh các bản in, chúng bị xuyên tạc một cách kỳ lạ - một bức là căn bếp sạch sẽ lại lốm đốm những vết nước chanh bẩn; một bức quần áo trên dây phơi bị thổi bay nhìn như bóng ma và bạc thếch vì chất tẩy. Còn một bộ ảnh khác, cô cẩn thận tạo hiệu ứng phơi sáng kép cho từng khung hình - phân lớp tòa nhà chọc trời nơi xa tít đặt trên ngón tay giữa của cô, chồng lên lớp ảnh một xác chim, đôi cánh sải trên mặt đường, vươn đến bầu trời xanh, vì vậy ngoại trừ đôi mắt nhắm chặt, trông nó như đang bay. Cô làm việc trái với lệ thường, chỉ giữ những bức mình thích và vứt hết mớ còn lại. Khi cạn kiệt ý tưởng, cô giữ mỗi bức một bản in và hủy hết âm bản. “Cô không hứng thú với việc gửi ảnh đại trà,” cô Mia trả lời Moody, có phần đùa cợt, khi cậu hỏi tại sao cô không nhân lên nhiều bản. Cô hiếm khi chụp người - đôi khi chụp Pearl, như lúc cùng chiếc giường trên bãi cỏ, nhưng cô không bao giờ dùng chúng vào công việc. Hoặc, cô cũng không bao giờ sử dụng ảnh của chính mình: có lần Pearl đã kể với Moody rằng mẹ cô đã tự chụp một bộ ảnh chân dung, mẹ đeo những chiếc mặt nạ từ nhiều thể loại đồ vật khác nhau - một mảnh ren đen, những chiếc lá dẻ ngựa năm cánh, một con sao biển ẩm ướt dẻo quẹo - mẹ dành một tháng để chụp những bức ảnh ấy, rồi lọc lại còn bộ tám bức. Chúng rất đẹp và rất lạ, và dù Pearl có thể hình dung những bức ảnh ấy một cách chính xác: đôi mắt sáng của mẹ giống như viên ngọc trai lấp lánh xuyên qua những cánh sao biển. Nhưng đến cuối cùng cô Mia đã đốt đi các bản in và âm bản, với những lý do mà thậm chí Pearl cũng không hiểu nổi. “Mẹ đã mất bao nhiêu thời gian vào đó,” Pearl nói, “và rồi chỉ, ôi” - cô búng tay tanh tách - “vậy đó?” “Mớ ảnh này không ổn,” là tất cả những gì cô Mia nói. Nhưng những bức ảnh cô đã giữ hay đã bán, chúng đều rất nổi bật. Trong căn hộ xa hoa mà họ thuê lại ở Ann Arbor, cô Mia đã lấy nhiều mẩu đồ đạc rời khác nhau của chủ nhà và xếp các linh kiện - những cái bu-lông dày như ngón tay, những cây thập giá không quét sơn dầu, một bàn chân rời - thành nhiều con vật. Chiếc bàn làm việc cồng kềnh từ thế kỷ thứ 19 đã biến thành con bò đực, các ngăn kéo rời ở hai bên tạo thành những cẳng chân cơ bắp, những cái núm bằng gang đúc dùng để kéo ngăn kéo giờ làm mắt, mũi của con bò và những quả bóng lấp lánh, một nắm viết từ trong bàn xòe ra thành cặp sừng hình lưỡi liềm. Với sự trợ giúp của Pearl, cô trải các bộ phận ra tấm thảm Ba Tư màu kem, bức phông nền trông như cánh đồng mù sương đầy hơi nước, sau đó trèo lên bàn, chụp góc từ trên xuống trước khi hai mẹ con nhặt lại từng mảnh và lắp lại thành cái bàn làm việc. Một cái lồng chim cũ kiểu Trung Quốc bị tháo tung thành mớ mạng dây cong cong, lại trở thành một con đại bàng, đôi cánh xương xương sải rộng như sắp bay lên. Chiếc ghế bành trở thành con voi, cái vòi vươn lên theo tiếng kèn trumpet. Một loạt những bức ảnh xuất hiện trong dự án này đều hấp dẫn và khiến người xem bối rối, các con vật phức tạp và giống như thật đến ngỡ ngàng, và sau khi nhìn gần hơn bạn sẽ nhận ra chúng được làm từ những thứ gì. Bộ ảnh này cô bán được kha khá, thông qua người bạn tên Anita, chủ một phòng triển lãm ở New York - người mà Pearl chưa từng gặp, ở một nơi mà Pearl không bao giờ đến. Cô Mia ghét New York, cô không bao giờ đặt chân đến đó dù để sự nghiệp của mình thăng tiến. “Chị Anita à,” có lần cô Mia đã nói qua điện thoại, “Em rất quý chị nhưng em không đến New York tham gia triển lãm được. Không, thậm chí có bán đến cả trăm bức cũng thế thôi.” Thoáng im lặng. “Biết là vậy nhưng chị biết là em không thể mà. Vẫn ổn cả. Chị cứ làm hết những gì có thể, với em vậy là quá đủ.” Tuy nhiên, Anita đã xoay xở để bán được sáu bức trong đợt này, điều đó có nghĩa thay vì dọn dẹp nhà cửa, cô Mia có thể dành sáu tháng tới để làm một dự án mới. Mẹ cô luôn làm việc như vậy: một dự án trong bốn hoặc sáu tháng, sau đó là dự án tiếp theo. Cô làm việc và làm việc rồi cho ra một bộ ảnh và phòng triển lãm của cô Anita thường có thể bán được ít nhất vài bức trong số đó. Ban đầu giá bán khá khiêm tốn - vài trăm đô-la mỗi bức - nên đôi khi cô Mia phải làm hai, hoặc thậm chí ba việc một lượt. Nhưng theo thời gian, các tác phẩm của cô được đánh giá khá tốt trong giới nghệ thuật nên Anita bán được nhiều hơn, và được giá hơn: đủ để chi trả các nhu cầu cơ bản của cô Mia và Pearl - thực phẩm, tiền nhà, xăng xe của chiếc Rabbit - thậm chí sau khi trừ đi 50 phần trăm - phần của cô Anita. “Có khi là hai hoặc ba trăm đô-la một bức,” Pearl hãnh diện nói với cậu, và Moody nhẩm tính nhanh trong đầu: nếu cô Mia bán mười bức một năm thì... Thỉnh thoảng có những bức ảnh không bán được - một dự án mà cô Mia đã thực hiện với mớ gân lá chỉ bán được mỗi một bức, và trong mấy tháng sau đó cô Mia phải kiếm sống từ các việc lặt vặt như: dọn dẹp nhà cửa, cắm hoa, trang trí bánh. Cô thạo hết mọi việc liên quan đến đôi tay và cô thích những công việc không phải giao tiếp với khách hàng, vì với những công việc đó cô có thể ở một mình và suy nghĩ, hơn là làm phục vụ, thư ký, hay nhân viên bán hàng. “Trước khi sinh ra con, có lần mẹ từng làm nhân viên bán hàng,” cô kể với Pearl. “Mẹ lay lất từng ngày. Từng ngày một. Quản lý liên tục nhắc mẹ phải đặt những chiếc đầm lên móc ra sao. Còn khách hàng thì cứ giật mấy chuỗi hạt ra khỏi áo rồi đòi giảm giá. Mẹ thích lau sàn hơn, thích một mình ở nhà hơn là đối phó mấy chuyện này.” Ngoài ra, các dự án khác đều bán được và nhận được sự chú ý. Có một bộ ảnh - đánh dấu sự trở lại của cô Mia sau thời gian làm thợ may - cô đã nuôi dưỡng chúng trong gần một năm. Cô phải đến các cửa hàng đồ si và mua những con thú nhồi bông cũ - những con gấu teddy bạc thếch, những con chó nhung long chân gãy gọng, những con thỏ bông cũ mèm - càng rẻ càng tốt. Về nhà, cô cắt chỉ và tách chúng ra thành từng mảnh, giặt sạch lớp vỏ lông, nhồi lại bông và mài lại mắt. Sau đó cô khâu chúng lại, từ trong ra ngoài, và thành quả có được lại đẹp một cách lạ thường. Bộ lông bèo nhèo tả tơi trái lại nhìn cứ như nhung xén. Cả con vật được may và nhồi bông lại, vẫn hình dáng đó nhưng điệu bộ lại khác hẳn, lưng và cổ thẳng hơn, đôi tai vênh váo hơn; đôi mắt giờ sáng bóng với tia sáng quen thuộc. Như thể những con vật được tái sinh trong một hình hài mới, già dặn hơn, mạnh mẽ hơn và tinh khôn hơn. Pearl rất thích ngồi xem mẹ làm việc, cúi xuống bàn bếp, tỉ mẩn với độ chính xác của một bác sĩ phẫu thuật - dao mổ, kim khâu, cây ghim - để biến những thứ đồ chơi thành nghệ thuật. Như màn ảo thuật. Anita đã bán hết tất cả các bức ảnh trong bộ này; cô báo lại, thậm chí một bức trên đường đến với Bảo tàng nghệ thuật hiện đại (MoMa - The Museum of Modern Art). Cô nài nỉ Mia làm thêm một bộ khác, hoặc in lại loạt ảnh này, nhưng cô Mia đã từ chối. “Có ý tưởng rồi,” cô nói. “Giờ em đang làm thứ khác.” Và cô luôn như thế, luôn có chút gì đó khác biệt, luôn có chút gì đó tạo nên vị của riêng mình. Sẽ có ngày mẹ nhất định nổi tiếng, Pearl chắc chắn vậy; sẽ có ngày người mẹ kính yêu của cô trở thành một trong những nghệ sĩ, như Kooning* hay họa sĩ Warhol* hoặc họa sĩ O’Keeffe*, những cái tên mà ai cũng biết. Chí ít, đó là lý do vì sao một phần trong cô không màng gì đến cuộc sống mà hai mẹ con luôn chịu, những bộ đồ si, ghế giường lượm lặt, cuộc sống thăng trầm tạm bợ trong mọi thứ. Rồi sẽ có ngày người đời sẽ nhận ra người mẹ tài hoa của cô. Đối với Moody, loại tồn tại này gần như không hiểu nổi. Nhìn cách gia đình Warren sống giống như đang xem một trò ảo thuật, kỳ diệu như khi biến lon soda rỗng thành cái ấm bạc, hoặc kéo ra cái bánh hấp từ chiếc mũ lụa chóp cao. Không, cậu nghĩ: nó giống như đang xem Robinson Crusoe gợi lên một cuộc sống hư không. Càng ở lâu với cô Mia và Pearl, cậu càng say mê họ. Nhờ những buổi chiều cùng Pearl, cậu dần hiểu được phần nào cuộc sống dặm trường của hai mẹ con. Họ lên đường một cách gọn nhẹ: hai cái đĩa, hai cái tách và một bộ đồ dùng cầm tay bằng bạc không đồng bộ, và dĩ nhiên cả máy ảnh của cô Mia nữa. Mùa hè, họ lái xe với các cửa sổ hạ xuống, trong chiếc Rabbit không có máy điều hòa ra sao; mùa đông, họ lái xe xuyên đêm, nhiệt độ tăng lên và ban ngày sẽ đỗ ở một nơi đầy nắng, ngủ trong nhà kính nhỏ xíu của chiếc xe trước khi bắt đầu lại hành trình vào lúc mặt trời mọc thế nào. Ban đêm, cô Mia đẩy đống túi xuống sàn để chân và trải cái chăn gấp quân đội lên bên trên rồi phủ đến ghế sau, tạo thành cái giường chỉ vừa đủ cho hai mẹ con ngả lưng. Để có sự riêng tư, họ mắc một tấm trải từ thành sau xe lên chỗ tựa đầu của ghế trước, căng lên thành cái lều nhỏ. Mỗi bữa ăn, họ dừng lại bên vệ đường, ngồi sau ghế lái ăn thức ăn đựng trong túi giấy thực phẩm: bánh mì và bơ đậu phộng, trái cây, đôi khi có xúc xích khô hoặc một cây xúc xích bò tiêu, nếu cô Mia mua được trong đợt giảm giá. Đôi khi họ chỉ lái đi vài ngày, thỉnh thoảng là một tuần, cho đến khi cô Mia tìm được nơi thích hợp, hai mẹ con sẽ ở lại. Họ sẽ tìm một phòng cho thuê: thường là dạng một buồng, đôi khi là siêu nhỏ ở bất cứ nơi nào họ đủ khả năng chi trả và ở bất cứ đâu mà họ có thể rời đi ngay trong tháng, vì cô Mia không muốn bị ràng buộc. Khi chuyển đến Shaker, họ sẽ bày biện căn hộ mới với mớ đồ dùng phế phẩm và đồ si được làm mới lại hoặc chí ít cũng ở mức chấp nhận được; cô Mia sẽ ghi danh cho Pearl học trường địa phương và tìm một công việc giúp hai mẹ con trang trải cuộc sống. Sau đó, cô Mia sẽ bắt đầu dự án mới của mình, thực hiện, lo nghĩ ý tưởng chủ đạo, trong khoảng ba, bốn hay sáu tháng, đến khi cô cho ra một bộ ảnh để gửi đến cô Anita ở New York. Sau khi Pearl ngủ say, cô sẽ bày một phòng tối trong phòng tắm. Sau vài bước dịch chuyển đầu tiên, cô đã sắp xếp mọi thứ một cách khoa học: các khay rửa ảnh đặt vào bồn tắm, dây phơi quần áo làm dây phơi ảnh kéo từ vòi hoa sen, cuộn cái khăn lại đặt ngang dưới cánh cửa để ngăn ánh sáng lọt vào. Khi làm xong, cô chồng mớ khay, xếp cái máy phóng vào túi đựng, đút các bình đựng hóa chất dưới bồn rửa và lau chùi bồn tắm sạch bóng để sáng mai Pearl còn tắm. Cô mở cửa sổ phòng tắm rồi đi ngủ, và khi Pearl thức dậy, mùi chua của thuốc tráng phim sẽ không còn. Pearl luôn biết rằng một khi cô Mia gửi ảnh qua thư điện tử thì hai mẹ con sẽ lại đóng đồ lên xe và toàn bộ quá trình sẽ được lặp lại. Mỗi thành phố, một dự án, và sau đó là lúc để rời đi. Tuy nhiên lần này thì khác. “Hai mẹ con tớ sẽ ở lại đây,” Pearl nói với Moody, và đột nhiên cậu cảm nhận niềm vui sướng choáng váng dâng tràn, như một quả bóng căng. “Mẹ tớ đã hứa rồi. Lần này, hai mẹ con tớ sẽ ở lại luôn.” Lối sống du cư đậm chất nghệ sĩ nơi họ đã hấp dẫn cậu: Moody là một chàng trai có trái tim lãng mạn. Mỗi học kỳ cậu đều có tên trong bảng danh dự, nhưng lại thiếu đi sự thực tiễn, cậu mơ mộng chuyện bỏ học, rong rủi khắp nơi như Jack Kerouac - và chỉ sáng tác nhạc thay vì làm thơ. Tiệm sách cũ Mac’s Backs ở địa phương đã mang đến cho cậu những bản sách sờn cũ của cuốn Trên đường và Dharma Bums, những bài thơ của Frank O’Hara, Rainer Maria Rilke và Pablo Neruda và cậu vui sướng khi tìm thấy một hồn thơ khác nơi Pearl. Dĩ nhiên cô không đọc nhiều bằng cậu, vì gia đình họ thường xuyên dịch chuyển, nhưng cô dành hầu hết thời thơ ấu của mình trong thư viện, nương náu giữa những giá sách, vờ làm một nữ sinh mới, hết trường này đến trường khác, hấp thu những quyển sách như thể chúng là không khí - và thực tế thì, cô bẽn lẽn kể với cậu rằng mình muốn trở thành một nhà thơ. Cô chép lại các bài thơ yêu thích của mình vào quyển sổ gáy xoắn dạng ngang lúc nào cũng mang theo bên mình. “Như vậy chúng sẽ luôn bên tớ,” cô nói, khi rốt cuộc thì cô cũng cho Moody đọc một vài bài thơ ấy, cậu không nói nên lời. Cậu muốn kết mình vào các vòng trang trí li ti mà cô vẽ. “Đẹp thật,” cậu thở dài, và gương mặt Pearl sáng rực lên hệt như ngọn đèn lồng, và ngày hôm sau Moody mang theo cây guitar, dạy cô đánh ba hợp âm, rụt rè hát cho cô nghe bản nhạc của mình, bài hát cậu chưa bao giờ hát cho bất kỳ ai. Cậu sớm phát hiện ra Pearl có trí nhớ vô cùng tốt. Cô có thể nhớ các đoạn văn chỉ sau một lần đọc lướt qua, có thể nhớ các ngày Đại Hiến Chương (Magna Charta), nhớ tên các vị vua Anh quốc và nhớ tên theo đúng thứ tự của tất cả các vị Tổng thống. Nhờ chăm chú học tập và sử dụng rất nhiều thẻ ghi chú, học kỳ nào Moody cũng có tên trong bảng danh dự, nhưng mọi thứ với Pearl dường như quá đơn giản: cô có thể lướt qua một bài toán và trực giác nảy ra đáp án trong khi Moody phải nghiêm túc giải các bài đại số ra giấy hết dòng này đến dòng khác; cô có thể đọc bài luận và lập tức chỉ ra điểm nổi bật nhất hoặc lỗi logic nghiêm trọng nhất. Cứ y như cô liếc qua một đống những mảnh xếp hình và ngay lập tức nhìn ra toàn bộ bức tranh mà thậm chí không cần tham khảo từ chiếc hộp. Quá rõ ràng, trí tuệ của Pearl là thứ gì đó hết sức phi thường, và Moody không thể ngăn lòng ngưỡng mộ dành cho cách vận hành của bộ não ấy, sao mà dễ dàng đến thế. Niềm vui đơn thuần của cậu là quan sát cô xử lý mọi thứ. Bên Pearl càng lâu Moody càng thấy mình như bắt đầu phân thân. Mỗi khoảnh khắc dành ra - thực tế là mỗi khi cậu sắp xếp được - cậu sẽ ở cùng Pearl, tại quầy ăn tối, trên một cành cây, quan sát đôi mắt to tròn của cô say sưa ngắm nhìn mọi thứ xung quanh như thể cô khao khát đến khô khốc, những trò đùa vui ngớ ngẩn, vét những mẩu chuyện tầm phào, bất cứ gì làm cho cô ấy cười. Song song đó, trong đầu mình, cậu lang thang khắp thành phố, liều mạng kiếm tìm địa điểm tiếp theo để dẫn cô đến, sự bất ngờ tiếp theo của vùng ngoại ô Cleveland mà cậu có thể khoe, bởi khi cậu không còn nơi nào để khoe, cậu chắc chắn cô ấy sẽ biến mất. Cậu nghĩ mình đã chứng kiến sự im lặng kéo dài của cô qua những miếng khoai tây chiên, đang chọc vào miếng pho-mát kết đông cuối cùng trên đĩa; và cậu chắc rằng đôi mắt cô đang trôi qua bờ xa phía bên kia hồ. Quyết định này của Moody sẽ trở thành câu hỏi mà cậu phải mang theo suốt phần đời còn lại. Mãi đến nay cậu vẫn không nói với gia đình bất cứ gì về Pearl hay mẹ của cô, cậu bảo vệ tình bạn của hai người như con rồng bảo vệ kho báu: lặng lẽ và thèm khát. Tận đáy lòng, cậu nhận thấy có gì đó sẽ làm mọi thứ thay đổi, như trong các câu chuyện cổ tích, điều kỳ diệu sẽ bị tước mất nếu bạn không giữ được bí mật. Nếu cậu cứ giữ kín chuyện này, có lẽ tương lai sẽ mở ra khác hẳn. Biết đâu Pearl chẳng bao giờ gặp bố hay mẹ cậu, hoặc chị Lexie, anh Trip hay Izzy, hoặc nếu có, họ có thể chỉ là những người mà cô nghe qua chứ không hề biết đến. Hai mẹ con cô có thể ở lại Shaker này mãi mãi, giống như kế hoạch của họ; mười một tháng sau, ngôi nhà của gia đình Richardson biết đâu vẫn trụ vững. Nhưng Moody không nghĩ rằng bản thân đủ thu hút để giữ được sự chú ý của cô. Nếu cậu là một thành viên Richardson nào khác, có lẽ mọi thứ cũng đã khác; các anh chị em của cậu chẳng bao giờ lo nghĩ liệu người ta có thích họ không. Chị Lexie có nụ cười tỏa nắng và chị rất hay cười, anh Trip vừa có ngoại hình lại còn có duyên: làm sao người ta không thích họ, tại sao họ chẳng bao giờ phải hỏi những điều như thế? Izzy, thậm chí còn đơn giản hơn: nó hoàn toàn không quan tâm thiên hạ nghĩ gì về mình. Nhưng Moody không có sự ấm áp của chị Lexie, không có sức hấp dẫn tinh nghịch của anh Trip, không có sự tự tin của Izzy. Cậu cảm thấy, tất cả những gì cậu phải mang đến cho cô chính là những gì mà gia đình cậu có, chính là gia đình cậu, và suy nghĩ đó đã khiến cậu mở lời, vào một buổi trưa cuối tháng Bảy, “Đến đây nào. Cậu có thể gặp gia đình tớ.” Lần đầu tiên bước vào nhà Richardson, Pearl ngập ngừng nơi ngưỡng cửa. Cô tự nhủ rằng đây chỉ là một căn nhà. Moody sống ở đây. Tuy nhiên chính suy nghĩ ấy thậm chí bất chợt làm cô cảm thấy hơi kỳ quái. Từ vỉa hè, Moody e dè gật đầu đánh hướng về ngôi nhà. “Là nhà đó,” cậu nói, và cô ngạc nhiên, “Cậu sống ở chỗ này?” Không phải bởi quy mô của căn nhà - thực tế, nó rất to, nhưng nó cũng to như mọi ngôi nhà khác trên phố, và chỉ trong vòng ba tuần ở Shaker này, thậm chí cô còn thấy căn nhà to hơn thế. Không: đó là màu tươi xanh của bãi cỏ, những vạch vữa trắng sắc nét giữa các viên gạch, tiếng lá phong xào xạc trong làn gió nhẹ nhàng, khẽ khàng lướt qua nhau. Mùi của chất tẩy rửa, mùi bếp núc và mùi cỏ cây chan hòa đưa hương thoang thoảng nơi lối vào, như thể có người đã bày bừa chúng ra mà quên sắp xếp lại. Cảm giác thay vì bước vào một căn nhà, Pearl như đang bước vào khái niệm của một căn nhà, một kiểu nguyên mẫu* nào đó đã mang cuộc sống ngỡ ngàng này đến trước mắt cô. Những thứ cô chỉ mới nghe qua mà chưa bao giờ trông thấy. Cô có thể nghe thấy dấu hiệu cuộc sống từ những căn phòng xa xôi - tiếng lầm bầm khe khẽ của phim quảng cáo truyền hình, tiếng bíp bíp của lò vi sóng nhảy số lùi - nhưng chúng xa vời tựa hồ một giấc mơ. “Vào trong nào,” Moody giục, và cô bước vào. Sau đó Pearl nghĩ rằng có lẽ gia đình Richardson ắt đã sắp xếp mọi thứ để làm cô thích thú với cảnh tượng này, và chắc chắn rằng nhà này không phải lúc nào cũng thể hiện cuộc sống gia đình trong trạng thái hoàn hảo đến như vậy. Có bà Richardson đang làm bánh quy ở trong bếp, tất cả mọi thứ - những thứ mà mẹ ruột của cô không khi nào làm, mặc dù nếu Pearl cố hết sức nài nỉ thì đôi khi mẹ sẽ mua một khúc bột nhào được bọc kỹ về xắt ra thành từng khoanh nhỏ. Có ông Richardson, như thu nhỏ lại trên bãi cỏ xanh rộng lớn ngoài kia, đang khéo léo giũ than bỏ vào vỉ nướng bằng bạc sáng loáng. Có anh Trip, đang nằm ườn trên chiếc sô-pha vòng cung dài, đẹp trai quá mức cho phép, một tay choàng lên thành ghế cơ hồ chờ đợi cô nàng may mắn bước đến và ngồi xuống cạnh bên. Và có chị Lexie, trong vạc nắng phía bên kia, chuyển ánh mắt lấp lánh của chị từ màn hình TV về phía Pearl khi cô bé bước vào phòng, và hỏi, “Ồ, nhà mình có ai đây?” 4 T rong những ngày đầu choáng váng đó, thành viên duy nhất của gia đình Richardson mà Pearl không mấy khi nhìn thấy là Izzy - nhưng thoạt đầu cô cũng không để ý. Sao con bé lại như vậy, trong khi các thành viên khác đều chào đón cô bằng những vòng tay thiết tha, bao bọc? Bằng lòng tin không nghi ngại, bằng mục tiêu cuộc đời rõ ràng, trong mọi lúc, gia đình Richardson này đã khiến cô sững sờ. Mỗi sáng, bà Richardson sẽ lao vào bếp trên đôi giày cao gót cùng bộ chìa khóa xe hơi, tay cầm chiếc cốc du lịch bằng thép không gỉ, và nói “Pearl, rất vui khi gặp lại cháu.” Sau đó bà lộc cộc bước xuống nhà sau, trong chốc lát cửa ga-ra rầm rầm mở ra, chiếc Lexus của bà lướt xuống ngõ lái xe rộng rãi, chiếc hộp mát lạnh vàng rực lao vào trời hè oi ả. Ông Richardson, mặc áo khoác thắt cà vạt, đã rời đi từ trước nhưng lại lù lù xuất hiện ở phía sau, vững chãi, oai vệ và đầy uy lực, như ngọn núi đứng sững dọc chân trời. Khi Pearl hỏi Moody rằng bố mẹ cậu làm gì cả ngày thì Moody nhún vai. “Cậu biết đấy. Bố mẹ tớ đi làm.” Đi làm! Khi mẹ cô nói đi làm, nghe sặc mùi cực nhọc: phục vụ bàn, rửa bát đĩa, lau dọn sàn. Nhưng với nhà Richardson việc đi làm này nghe có vẻ cao quý: họ làm những việc quan trọng. Mỗi thứ Năm, cậu bé đưa báo sẽ đặt một tờ Sun Press ngay trước cửa nhà cô Mia và Pearl - báo miễn phí cho mọi cư dân - và khi mở tờ báo ra hai mẹ con sẽ thấy tên của bà Richardson ngay trang đầu, dưới các dòng tiêu đề: Tranh luận chính sách thuế mới của thành phố; Phản ứng của người dân trước dự thảo ngân sách của Tổng thống Clinton; Các chuẩn bị “không khoan nhượng” vận động tại quảng trường Shaker. Sờ sờ ra đó, giấy trắng mực đen này chính là bằng chứng cho sự chăm chỉ làm việc của bà ấy. (“Cũng không có gì ghê gớm cả,” Moody nói. “Plain Dealer mới là tờ báo đúng nghĩa. Sun Press chỉ là kiểu địa phương thôi: đăng các cuộc họp hội đồng thành phố, ủy ban khu vực và những người đoạt giải tại hội chợ khoa học.” Nhưng Pearl không tin và cũng không để tâm đến điều đó, mà cô chỉ dán mắt vào dòng in tên tác giả - Elena Richardson.) Gia đình Richardson quen biết những nhân vật quan trọng: ngài thị trưởng, vị giám đốc Phòng khám Cleveland, ông chủ của đội bóng chày Indians. Họ có những tấm vé lễ hội ở sân bóng chày Jacobs Field và Gund. (“Đội Cavs chơi dở”, Moody chê gọn lỏn. “Tuy vậy, đội Indians có thể thắng được cờ hiệu,” Trip phản bác.) Đôi khi điện thoại của ông Richardson đổ chuông và ông sẽ vừa trượt nghe máy vừa bước vào hành lang. “Bill Richardson nghe đây,” ông sẽ trả lời với câu chào bằng tên một cách đơn giản và đầy đủ như vậy. Thậm chí thành viên nhỏ tuổi nhất trong nhà Richardson cũng thế, sự vững vàng này trong chính con người họ. Mỗi sáng Chủ nhật Pearl và Moody sẽ ngồi ở phòng bếp còn anh Trip thì đã đánh một vòng, giờ ưỡn mình tựa vào đảo bếp*, rót một ly nước ép, anh trông cao ráo, rám nắng và săn chắc trong cái quần lửng thể thao, hoàn toàn thoải mái, và ném Pearl vào trạng thái hỗn loạn bằng một nụ cười toe đột xuất. Chị Lexie ngồi trên kệ bếp, luộm thuộm trong cái quần thể thao in chữ T, tóc kẹp thành búi rối bù, đang nhặt hạt vừng trên bánh vòng. Họ không để tâm đến việc Pearl nhìn thấy họ trong bộ dạng này. Họ đẹp đẽ một cách chân thực, thậm chí khi vừa ngủ dậy. Làm sao có được sự thoải mái đến thế? Làm thế nào họ có thể thật sự là chính mình, ngay khi ở nhà, thậm chí mặc bộ đồ ngủ? Khi chị Lexie cầm menu gọi món, chẳng bao giờ chị nói, “Tôi có thể lấy... không? Mà chị sẽ bảo “Tôi lấy...” đầy tự tin, như thể chị nói ra chỉ để có được chúng. Thái độ đó làm Pearl bối rối và nó mê hoặc cô. Chị Lexie sẽ trượt người khỏi ghế đẩu và bước ngang qua phòng bếp bằng điệu nhảy thanh thoát với đôi chân trần lướt trên sàn gạch Tây Ban Nha. Anh Trip nốc ngụm nước cam cuối cùng rồi đi đến cầu thang, đi tắm, Pearl dõi theo anh, mũi cô run rẩy khi hít vào mùi hương gợi cảm nơi anh: mùi mồ hôi, mùi nắng và mùi cơ thể bừng bừng. Ngôi nhà Richardson có những bộ sô-pha bọc nệm dày đến mức bạn có thể chìm vào chúng như trong bồn tắm sủi đầy bọt thơm. Nội thất Credenzas. Những chiếc giường Sleigh* to lớn. Pearl nghĩ, một khi sở hữu được cái ghế khổng lồ thế này, người ta chắc chắn sẽ ngồi mãi. Người ta sẽ ngồi đến mọc rễ và dọn chỗ để đặt nó vào nhà. Có những chiếc ghế dài có đệm, những khung ảnh và những cái tủ cổ rất quý chứa đầy đồ lưu niệm, chứa sự an nhàn phù phiếm của gia đình họ. Người ta sẽ chẳng đem về nhà cái vỏ sò trang trí từ đảo Key West hoặc mô hình Tháp CN thu nhỏ hoặc cái chai bé tí chứa cát biển từ đảo Martha’s Vinyard nếu họ không có ý định cư. Thực tế, gia đình của bà Richardson sống ở Shaker này đến nay đã ba thế hệ - theo như Pearl biết, gần như từ lúc thành phố được thành lập. Để có được gốc rễ cắm sâu ở đúng một nơi, để được triệt để đắm mình ở đó đến nỗi thấm nhuần trong từng thớ thịt: cô không thể nào tưởng tượng nổi. Bản thân bà Richardson cũng có sức mê hoặc của riêng bà. Nếu xuất hiện trên màn hình TV, bà sẽ cho cảm giác không chân thực bằng bà Brady hoặc bà Keaton. Nhưng bà đang ở ngay trước mắt Pearl, lúc nào cũng nói những điều tử tế. Bà sẽ khen “Ôi váy đẹp quá Pearl ạ,”. “Cái vòng cổ thật xinh. Tất cả khóa học danh dự luôn sao? Con thật thông minh. Màu đó hợp với con lắm đấy. Bữa nay con để tóc nhìn rất đẹp. Ôi, đừng ngốc thế, cứ gọi bác là Elena, bác nói thật đó” - và sau đó, khi Pearl vẫn tiếp tục gọi bà là bác Richardson, bà ngấm ngầm tự đắc về sự kính cẩn của Pearl, đây chắc chắn là một cô bé lễ độ. Bà Richardson nhanh chóng ôm lấy cô - Pearl, một cô gái hoàn toàn xa lạ - đơn giản vì cô là một trong những người bạn của Lexie. Cô Mia là người sống tình cảm nhưng không bao giờ thể hiện ra điều đó; Pearl chưa bao giờ thấy mẹ ôm bất kỳ ai ngoài cô. Vậy mà bà Richardson trở về nhà sau bữa tối, hôn vội lên đỉnh đầu mấy đứa con và thậm chí không dừng lại khi đến lượt Pearl, đặt một cái hôn lên đầu cô bé mà không chút đắn đo. Như thể cô cũng là một bé gà con trong đàn. Cô Mia không ngừng để ý đến sự thích thú mà Pearl dành cho gia đình Richardson. Có nhiều ngày Pearl đến nhà Richardson từ sáng sớm, rồi chỉ về nhà vào giờ ăn tối. Ban đầu cô rất hài lòng, khi quan sát Moody và đứa con gái cô độc của mình, đứa con gái đã bị bật gốc rất nhiều lần, đứa con gái chưa bao giờ thật sự thân thiết với bất cứ ai. Giờ đây cô hiểu ra rằng bấy lâu cô đã khiến con gái phải sống chung tính khí thất thường của mình: chuyển đi bất cứ khi nào cô làm xong một dự án và đang tìm kiếm ý tưởng mới; bất cứ khi nào cô cảm thấy bế tắc hoặc khó chịu. Không vậy nữa, cô Mia đã hứa với Pearl khi hai mẹ con lái xe đến Shaker này. Từ giờ trở đi, mẹ con mình sẽ định cư. Cô Mia có thể nhận ra những nét tương đồng giữa hai đứa trẻ cô đơn này, thậm chí còn rõ hơn chính bọn trẻ: trong hai đứa đều ẩn chứa sự nhạy cảm, cùng là kẻ giỏi giang ham đọc sách và thuộc loại chất phác đến lạ lùng. Mỗi sáng Moody đều ghé sớm, khi Pearl thậm chí còn chưa ăn xong bữa, và khi thức dậy cô Mia sẽ vén bức màn để thấy chiếc xe đạp của Moody ngã sóng soài trên bãi cỏ trước nhà, rồi cô bước xuống lầu thì thấy cậu và Pearl nơi bàn ăn trong căn bếp nhỏ, cặn ngũ cốc nho khô trong hai chiếc bát không đồng bộ đặt trước mặt chúng. Hai đứa sẽ đi cả ngày, Moody vịn tay lái đẩy chiếc xe đạp đi song song bên cạnh. Cô Mia, đang rửa bát nơi bồn rửa, nhớ thầm trong đầu về việc tìm cho Pearl một cái xe đạp. Có lẽ cửa hàng bán xe đạp ở đường Lee có bán xe đạp cũ. Nhưng nhiều tuần trôi qua, cô Mia có đôi phần lo lắng, có lẽ gia đình Richardson đã ảnh hưởng đến Pearl bằng cách cuốn hút con bé vào cuộc sống của họ - hoặc ngược lại. Khi ăn tối, Pearl kể về gia đình Richardson y như rằng nhà đó là một chương trình TV mà con bé mê cuồng. “Bà Richardson sẽ phỏng vấn Đệ Nhất Phu nhân khi vị ấy đến thành phố vào tuần tới,” con bé có thể nói cả ngày. Hoặc, “Chị Lexie nói là bạn trai của chị ấy, anh Brian sẽ trở thành tổng thống người da đen đầu tiên.” Hoặc - với cái thẹn thùng đỏ mặt - “Đến mùa thu, anh Trip sẽ trở thành tiền đạo của đội bóng đá. Người ta vừa phát hiện ra anh ấy.” Cô Mia gật đầu và ỡm ờ, để rồi mỗi tối đều tự hỏi, liệu có sáng suốt không, liệu có đúng đắn không khi con gái mình hoàn toàn rơi vào bùa mê của gia đình đó đến vậy. Sau đó cô nghĩ về cuộc sống của Pearl luôn bất định thế nào, hai mẹ con họ chưa bao giờ ổn định ra sao, thậm chí họ chưa bao giờ có bạn bè, cả hai mẹ con đều không có. Mới mùa xuân rồi, Pearl bị ho khan, cuối cùng cô Mia phải đưa con gái đến bệnh viện, và biết rằng con bé bị viêm phổi. Trong bóng tối, ngồi bên giường bệnh của con gái, ngắm nhìn con ngủ, chờ thuốc kháng sinh bác sĩ đã kê phát huy tác dụng, cô Mia tưởng tượng: nếu chuyện tồi tệ nhất xảy ra thì Pearl phải sống thế nào? Rày đây mai đó, cô lập, cô đơn. Phải chấm dứt, cô thầm nhủ, và khi Pearl hồi phục họ sẽ dừng chân ở Shaker Heights, nơi mà cô Mia đã hứa rằng họ sẽ ở lại. Vì vậy cô chẳng nói lời nào, và ngày hôm sau, một buổi chiều nữa lại trôi qua, Pearl lại ở cùng gia đình Richardson, ngày càng say mê. Pearl thường có buổi học đầu tiên ở những ngôi trường mới, đôi khi hai hoặc ba lần một năm, đủ nhiều đến mức cô không còn thấy sợ, nhưng lần này cô lại cực kỳ lo lắng. Mẹ cô đã hứa rằng họ sẽ ở lại đây lâu dài, nên lần này, họ sẽ ổn định. Để bắt đầu ở một ngôi trường mà biết rõ rằng bạn sẽ phải rời đi; bạn sẽ không cần lo lắng người ta nghĩ gì về mình, bởi bạn sẽ sớm đi thôi. Cô đã trải qua bao nhiêu lớp học như thế, không bao giờ để tâm quen biết bất kỳ ai, không bao giờ thân thiết bất kỳ ai. Nhưng để bắt đầu ở một ngôi trường khi biết rõ rằng bạn sẽ gặp những con người này suốt cả năm, những năm sau, và nhiều năm sau nữa, thì lại khác. Nhưng hóa ra, Pearl và Moody học chung gần như tất cả các môn, từ Sinh học đến Tiếng Anh danh dự cho đến môn Sức khỏe. Hai tuần học đầu tiên, cậu chỉ cho cô bước qua các hành lang với phong thái tự tin mà chỉ một học sinh năm hai mới có, bảo cô biết những vòi phun nước lạnh nhất, chỗ ngồi ở phòng ăn tự phục vụ, giáo viên nào sẽ đưa bản kiểm điểm nếu họ bắt được mình vào trễ chuông điểm giờ còn thầy cô nào sẽ chào đón bằng nụ cười bao dung. Cô bắt đầu đi lại trong trường bằng sự giúp sức của các bức bích họa được vẽ bởi các học sinh của trường trong nhiều năm qua: vụ nổ Hindenburg đã chỉ đường đến khu Khoa học; Jim Morrison được bao bọc bởi hành lang giảng đường; một bức họa như thật của một dãy tủ cá nhân đánh dấu hành lang xuống phòng Công tác xã hội, một sảnh được thiết kế cho các học sinh năm cuối, nơi đó có một máy hát tự động và một lò vi sóng dùng làm bỏng ngô khi trống tiết và một máy bán Coca chỉ mất năm mươi cent thay vì bảy mươi lăm cent như ở phòng ăn tự phục vụ. Năm trước, trên trần nhà mái vòm gần lối vào chính, một học sinh đã tự vẽ mình cùng ba người bạn đang trộm nhìn xuống theo phong cách Kilroy*; một người trong số họ đang nháy mắt, và mỗi lần Pearl đi dưới mái vòm ấy cô đều cảm thấy họ đang chào đón cô. Sau giờ học, cô đến nhà Richardson và nằm ườn trên bộ sô-pha rời ở phòng khách với anh Trip, chị Lexie và Moody, cùng xem chương trình Jerry Springer. Đó là một nghi thức nhỏ mà những đứa lớn trong nhà đã khởi xướng trong mấy năm qua, một trong số rất ít lần cả bọn có thể nhất trí trong bất cứ việc gì. Không dàn xếp trước cũng không thỏa thuận trước, cứ mỗi trưa, nếu Trip không đi tập và Lexie không phải họp, họ sẽ tụ tập cùng nhau ở phòng khách và mở Kênh số 3. Đối với Moody, chương trình TV đó là bài học tâm lý hấp dẫn, mỗi tập là một ví dụ khác nhau về sự kỳ lạ trong bản chất con người. Đối với Lexie, nó na ná như nhân chủng học, các bà mẹ là vũ nữ thoát y, các bà vợ ngoại tình và những đứa trẻ buôn ma tuý, một cánh cửa sổ bước vào thế giới quá xa lạ với cô, nó giống như những thứ xa rời Margaret Mead*. Và đối với Trip, đó hoàn toàn chỉ là bộ phim hài thuần túy: một màn diễn hài thú vị với đầy đủ các tràng đả kích bem bép và hàng loạt màn ném ghế. Những cảnh yêu thích nhất của anh là khi những bộ tóc giả của khách mời bị giật xuống. Izzy thì thấy trò này ngu ngốc không tả nổi và tự làm rào chắn bảo vệ ở trên lầu bằng cách tập luyện violin. “Thứ duy nhất mà con bé Izzy thật sự nghiêm túc,” Lexie giải thích. “Không,” Trip phản bác, “Con Izzy nghiêm túc thái quá trong mọi chuyện, vấn đề của nó nằm ở đó.” “Đúng là mỉa mai,’’chiều đó Lexie nói, “mười năm nữa chúng ta sẽ nhìn thấy Izzy trong hình ảnh của Jerry đấy.” “Bảy thôi,” Trip nói. “Hoặc tám là hết nấc. ‘Jerry, Giải Thoát Tôi Khỏi Ngục Tù!’ ” “Hoặc ‘Gia Đình Muốn Bỏ Tù Tôi’ ”, Lexie đồng ý. Họ liếc sang Pearl. “Cậu chưa hiểu hết con nhỏ đó đâu,” Moody nói. “Rồi cậu sẽ biết. Nó là đứa ăn càn, nói bậy.” Và câu chuyện bắt đầu tràn ra, Jerry Springer tạm thời bị bỏ quên. Khi lên mười, Izzy bị bắt trong lúc lẻn vào Tổ chức bảo vệ động vật khi cố giải thoát lũ mèo lạc. “Nhìn chúng như những tù nhân chờ án tử,” con bé nói. Lên mười một tuổi, mẹ cô - tin chắc rằng Izzy quá vụng về - đã ghi danh cho cô học các lớp nhảy để cải thiện khả năng phối hợp của con gái. Bố cô cố nài con gắng học xong một khóa, sau đó nghỉ cũng được. Lớp nào cũng vậy, Izzy cứ ngồi lì trên sàn và không chịu di chuyển. Kể chi tiết lại thì - với sự trợ giúp của cái gương và một cây bút Sharpie - Izzy đã viết KHÔNG PHẢI CON RỐI CỦA BÀ ngang trên trán và trên hai má của mình ngay trước khi lên sân khấu, nó cứ đứng như phỗng trong khi những người khác, bối rối, nhảy múa xung quanh. “Chị nghĩ chắc mẹ xấu hổ đến chết mất,” Lexie nói. “Rồi năm ngoái thì phải? Mẹ thấy nó mặc toàn đồ đen nên mua cho nó mớ đầm dễ thương này. Izzy nó chỉ cuốn mớ đầm lại, bỏ vào cái túi tạp hóa và bắt xe buýt vào trung tâm rồi đem cho mấy người vô gia cư. Mẹ đã cấm túc nó một tháng.” “Ăn càn, nói bậy,” Moody nhấn mạnh lần nữa, và Lexie khịt mũi, “Câu đó là dành cho nó,” Trip nhấn nút điều khiển mở lại tiếng, và Jerry Springer lại om sòm. Bộ sô-pha tám chỗ, nhưng ngay cả chỉ với ba đứa trẻ nhà Richardson, thì cũng luôn có nhiều trò phỉnh lừa để giành nhau chỗ có tầm nhìn đẹp nhất. Bây giờ, cộng thêm Pearl nữa, những thủ đoạn ấy thậm chí càng thêm phần phức tạp. Bất cứ khi nào xoay sở được, Pearl sẽ sà xuống - một cách kín đáo, một cách thờ ơ, cô hy vọng vậy - vào chỗ ngay cạnh Trip. Cuộc đời cô mãi đến giờ, những anh chàng mà cô say nắng đều luôn cách rất xa; chưa bao giờ cô đủ can đảm chuyện trò cùng bất cứ anh chàng nào mà mình có cảm tình khi biết rõ cô và mẹ sẽ rời đi chỉ trong vài tháng, thậm chí chưa một lần cô bận lòng cố thử. Nhưng giờ đây họ sẽ định cư ở Shaker Heights này luôn - và giờ anh Trip đang ở đây, trong ngôi nhà này, đang ngồi cùng chiếc ghế với cô - cô thấy anh ấy thu hút mình, một cách mơ hồ nhưng khó lòng lay chuyển được. Cô tự nhủ, rằng từ giờ về sau mình có thể ngồi cạnh bên anh một cách tự nhiên; không ai để ý đến chuyện này, tất nhiên, ít nhất là anh Trip. Trong khi đó, Moody cảm thấy mình xứng đáng với chỗ ngồi cạnh Pearl: cậu là người đã giới thiệu cô với gia đình, và trước mọi thành viên khác trong nhà, cậu thấy quyền lợi của mình là tối thượng - khi cậu là người quen biết cô lâu nhất. Và kết quả là Pearl yên vị bên cạnh Trip, Moody sẽ thả người xuống cạnh cô, thành ra cô xen vào giữa cậu và anh Trip, chị Lexie sẽ duỗi người ở góc ghế, cười tự mãn với ba đứa em, bật TV, và bốn đứa chuyển sự chú ý của mình vào màn hình trong khi vẫn biết trong phòng đang diễn ra những gì. Pearl sớm nhận ra mấy đứa trẻ nhà Richardson tranh luận về chương trình Jerry Springer là hăng nhất. “Trời ơi, may mà nhà mình ở Shaker,” Lexie kêu lên vào hôm chiếu một tập có nhan đề quá khiêu khích “Bỏ Ngay Việc Dắt Gái Da Trắng về Nhà Ăn Tối!” “Ý chị là chúng ta rất may. Ở đây không ai phân biệt chủng tộc cả.” “Ai cũng phân biệt hết chị Lex à,” Moody nói. “Khác biệt duy nhất ở chỗ họ có giả vờ hay không thôi.” “Nhìn chị với anh Brian xem,” Lexie trả lời. “Bọn chị bên nhau một năm nay, làm gì có ai tào lao về việc chị là người da trắng còn anh ấy là người da đen đâu chứ.” “Chị không nghĩ bố mẹ anh ấy muốn ảnh hẹn hò với một cô gái da đen hay sao?” Moody hỏi. “Chị thật sự không nghĩ họ quan tâm tới chuyện đó.” Lexie khui thêm một lon Coca không đường. “Màu da không nói được bất cứ điều gì về con người em cả.” “Xìiii,” Trip nói. “Lại nữa.” Chuyện đã xảy ra vào một trong những buổi chiều như thế - trong lúc xem tập “Tôi Đang Mang Cái Bầu Của Chồng Cô!” - thì đột nhiên chị Lexie quay sang Pearl và hỏi, “Có khi nào em nghĩ đến việc tìm lại bố mình chưa?” Pearl nhìn chằm chằm chị ấy một cách ngây ngô đầy chủ ý, vậy mà Lexie vẫn không thôi. “Ý chị là, đại khái như ông ấy sống ở đâu. Em chưa bao giờ muốn gặp ông ấy sao?” Pearl quay mắt sang màn hình TV, nơi các nhân viên an ninh lực lưỡng đang lôi một phụ nữ tóc màu cam trở lại chỗ của cô ta bằng thế lôi trông như chiếc ghế đệm Barca. “Em phải bắt đầu bằng việc tìm ra ông ấy là ai,” cô trả lời. “Và ý em là, để xem chuyện này đi đến đâu. Sao em lại không muốn chứ?” Lời móc mỉa không tự nhiên tràn ra, thậm chí đối với bản thân mình, cô nghe như ai oán hơn là mỉa mai. “Ông ấy có thể là bất cứ ai,” Lexie nhún vai. “Gã bạn trai cũ. Biết đâu ông ta chia tay khi mẹ em mang bầu. Hoặc biết đâu ông ấy qua đời bởi tai nạn trước khi em chào đời.” Cô nhịp nhịp một ngón tay lên môi, động não nhiều khả năng. “Có thể ông ta đã bỏ rơi mẹ em để đi theo người đàn bà khác. Hoặc...” Lexie đứng dậy, một cách kích động. “Biết đâu ông ta cưỡng hiếp mẹ em. Rồi mẹ em cấn bầu rồi giữ lại đứa bé.” “Lexie,” Trip đột nhiên quát. Anh trượt qua ghế sô-pha, choàng một tay qua vai Pearl. “Chị thôi ngay đi.” Với Trip, việc để ý đến cuộc trò chuyện ngoài thể thao gần như là chuyện bất thường, huống hồ gì hứng thú với cảm nhận của người khác, và cả bọn đều biết điều đó. Lexie trợn mắt. “Chị chỉ đang đùa thôi,” cô nói. “Pearl biết mà. Phải không hở Pearl?” “Vâng,” Pearl nói. Cô cố gượng cười. “Chuyện!” Cô đột ngột cảm thấy một luồng ẩm ướt dưới cánh tay mình, trái tim cô thình thịch, và cô không chắc liệu có phải do cánh tay anh Trip đang ôm lấy vai mình, hay do những luận bàn của chị Lexie, hoặc do cả hai. Trên hết, ở đâu đó trên lầu, Izzy tập nhạc Lalo cùng cây violin của mình. Trên màn hình TV, hai người đàn bà lại nhảy ra khỏi chỗ và bắt đầu túm lấy tóc nhau. Tuy vậy các nhận xét của Lexie làm cô day dứt. Nhiều năm qua, Pearl chưa bao giờ tự vấn bản thân về điều gì, nhưng khi nghe rõ mồn một, lại từ miệng của người khác, làm vấn đề trở nên cấp bách hơn. Thỉnh thoảng cô cũng tự hỏi những chuyện này, nhưng khi còn bé, cô hỏi mẹ, mẹ cô đã cợt nhã đáp rằng, “Ôi, mẹ lượm con ngay thùng rác ở Goodwill đó,” cô Mia từng nói. Lần khác: “Mẹ nhặt con ở một vườn cải bắp. Con không biết sao?” Cuối cùng, lên tuổi teen, cô không hỏi nữa. Chiều nay, câu hỏi vẫn làm tâm trí cô xáo trộn, cô về nhà và thấy mẹ trong phòng khách, đang quét màu cho bức ảnh chiếc xe đạp trơ khung. “Mẹ ơi,” cô bắt đầu, sau đó nhận ra mình không thể lặp lại những lời lỗ mãng của chị Lexie. Thay vào đó, cô hỏi, một câu hỏi ẩn dưới mọi câu hỏi khác, giống như dòng sông ngầm bí ẩn. “Con có được mong đợi không?” “Mong đợi ở đâu?” Với nét cọ tỉ mỉ, cô Mia đã sơn lốp xe màu xanh phổ lên chiếc phuộc xe đạp trống trơn. “Thế này. Con muốn hỏi là, mẹ có muốn sinh ra con. Hồi con còn nhỏ ấy.” Cô Mia im lặng hồi lâu làm Pearl không chắc rằng liệu mẹ có nghe không. Nhưng sau một lúc lâu im lặng, cô Mia quay người lại, cây cọ vẽ trong tay, và Pearl hết sức kinh ngạc khi đôi mắt mẹ cô ướt nhòe. Mẹ mà khóc sao? Người mẹ lạnh lùng, dữ dằn, không khuất phục của cô, chưa bao giờ cô thấy mẹ khóc, không hề ngay cả khi chiếc Rabbit bị hỏng phải đỗ lại bên đường và một gã lái chiếc bán tải màu xanh đã dừng lại và làm ra vẻ như đến giúp mẹ, nhưng hắn lại giật mất ví tiền của mẹ rồi phóng xe đi mất; không hề ngay cả khi mẹ làm rơi cái khung giường nặng trịch - nhặt được ở vệ đường -lên ngón chân út, đập mạnh đến nỗi rốt cuộc cái móng chân thâm tím và rơi ra luôn. Nhưng trước mắt cô: thứ ánh sáng lấp lánh xa lạ kia đang vươn trên mắt mẹ, giống như cô đang nhìn vào làn sóng nước. “Con có được mong đợi không à?” cô Mia nói. “Tất nhiên. Con được mong đợi. Rất, rất nhiều.” Cô đặt cọ vẽ xuống khay rồi bước nhanh ra khỏi phòng mà không nhìn con gái thêm lần nữa, bỏ lại Pearl trầm ngâm bên chiếc xe đạp được sơn còn dang dở cùng vấn đề mình vừa hỏi, vũng màu từ từ váng lại một lớp trên đám lông cọ vẽ. 5 X em ra tình tiết của chương trình Jerry Springer đã làm Lexie nhận thức được sự hiện diện của Pearl, cô bắt đầu quan tâm đến cô bạn của cậu em mình - Nhỏ Pearl Mồ Côi, tối nọ cô nói với Serena Vương qua điện thoại. “Con nhỏ ít nói,” Lexie lấy làm lạ. “Giống như nó ngại nói vậy. Và khi cậu nhìn nó, mặt nó sẽ đỏ lên - đỏ như một quả cà chua. Quả cà chua thật luôn đó.” “Nhỏ đó siêu nhát,” Serena nói. Cô ấy đã gặp Pearl ở nhà Richardson vài lần, nhưng chưa khi nào nghe Pearl nói một câu. “Có lẽ con nhỏ chỉ không biết cách kết bạn thôi.” “Không chỉ vậy đâu,” Lexie nhún vai. “Như con bé đang cố để không ai nhìn thấy. Như nó muốn lẩn trốn ngay trước mắt.” Pearl, nhút nhát, lặng lẽ và thiếu tự tin như thế, đã thu hút Lexie. Và với Lexie, cô bắt đầu từ vẻ bề ngoài. “Con bé nhỏ xíu à,” cô nói với Serena. “Nó mặc mấy chiếc áo phông rộng thùng thình nhìn dễ thương lắm.” Chiều hôm đó, Pearl trở về nhà với một túi đầy quần áo mới. Chính xác cũng không phải mới, cô Mia nhìn thấy chúng khi đem đi giặt: chiếc quần jean vá từ những năm bảy mươi có sọc ruy băng bên hông, một cái áo choàng cũ vải cotton in hoa, một cái áo phông màu kem in gương mặt của ca sĩ Neil Young ở phía trước. “Con và chị Lexie đi tiệm đồ si,” Pearl giải thích khi cô Mia từ phòng giặt quay trở lên lầu. “Chị ấy muốn đi sắm sửa.” Thực tế thì, ban đầu Lexie đưa Pearl ra trung tâm mua sắm. Rất tự nhiên, Lexie nghĩ rằng Pearl sẽ nghe lời cô; Lexie quen với việc người khác cần đến chủ ý của mình, đến mức cô thường cho rằng họ muốn vậy, chỉ là không nói ra mà thôi. Và Pearl, chỉ vừa mười sáu tuổi, là một cô bé thật đáng yêu, điều này quá rõ ràng: đôi mắt đen to tròn kia, không hiểu sao trông còn to tròn hơn và đen hơn ngay cả khi không hề trang điểm chút nào; mái tóc đen dài uốn quăn đó, chiều hôm ấy khi cô thuyết phục Pearl làm tóc, lúc nới lỏng bím bính thì y như rằng mái tóc nuốt chửng lấy cô bé. Cách mà Pearl nhìn ngắm mọi thứ trong nhà họ - thật luôn, mọi thứ, mọi nơi - như thể con nhỏ chưa bao giờ nhìn thấy chúng. Lần thứ hai Pearl ghé chơi nhà, Moody đã để cô lại phòng tắm nắng rồi đi lấy nước, và thay vì ngồi xuống, Pearl chầm chậm xoay một vòng, như thể lạc vào xứ Oz thay vì ngôi nhà của gia đình Richardson. Lexie cầm cuốn tạp chí Cosmo số mới nhất và lon Coca không đường trên tay, đang bước xuống hành lang, cô dừng lại ngoài thềm cửa, đứng khuất và quan sát. Sau đó Pearl bẽn lẽn chìa ngón tay lần theo nhánh nho leo trên tường, và lòng Lexie ngập tràn thương hại, bé chuột con buồn bã ạ. Ngay sau đó, Moody cầm hai lon Vernor’s ra khỏi nhà bếp. “Em không biết chị cũng lên đây,” cậu nói. “Tụi em sẽ xem phim.” “Chị chả quan tâm,” Lexie đáp vậy, nhưng thực lòng cô lại có. Cô ngồi vào cái ghế lớn phía trong góc, dán mắt vào Pearl, rốt cuộc cô bé ấy cũng ngồi xuống và khui lon soda của mình. Moody đẩy cuốn băng vào đầu máy video, và Lexie lật mở quyển tạp chí. Điều gì đó đã diễn ra trong cô, một việc tốt mà có thể cô làm. “Pearl ơi, đọc xong chị sẽ cho em cuốn này,” cô nói, và thấy lòng mình rực lên thứ ánh sáng mơ hồ của sự hào phóng tuổi teen. Vậy nên, buổi chiều đầu tháng Mười hôm ấy, Lexie quyết định dắt Pearl đi sắm sửa. “Nào Pearl,” cô nói. “Mình đi trung tâm mua sắm đi.” Khi Lexie nhắc đến trung tâm mua sắm, cô chẳng mảy may nghĩ đến khu Randall Park - nhiều đứa gọi nơi này là Trung tâm Randall u ám, khu này phải đi hết đường Warrensville đông nghịt ngang một cửa hàng săm lốp, một cửa hàng cho thuê, và một nhà trẻ nội trú. Sống ở Shaker, nơi duy nhất Lexie nghĩ đến mỗi khi mua sắm là trung tâm Beachwood Place, một khu làm móng be bé nổi bật ở bên đường bởi hình dáng trái xoan nhỏ nhắn, sát cạnh Dillard’s, Saks và một cửa hàng Nordstrom’s mới. Cô bé ấy chưa hề biết đến thuật ngữ Khu Tẩy Trắng và hẳn sẽ kinh ngạc lắm cho xem. Nhưng, dù đã đánh một vòng từ Gap, qua Express và đến The Body Shop, thì Pearl vẫn chẳng mua gì ngoài cái bánh quy xoắn và hũ son dưỡng vị kiwi. “Em không thích gì sao?” Lexie hỏi. Pearl im lặng, cô chỉ có mười bảy đô-la và biết phí sinh hoạt hàng tuần của chị Lexie là hai mươi đô-la. “Chị có thấy mấy thứ đó cứ y hệt nhau không?” cuối cùng cô nói. Cô phát tay lên bảng hướng dẫn của cửa hàng thức ăn nhanh Chick-Fil-A và khu trung tâm phía bên kia. “Khi đi học, mọi người đều trông như những bản sao của nhau.” Cô nhún vai và đưa mắt thoáng nhìn chị Lexie, đang tự hỏi liệu chị thấy có lý không. “Em chỉ thích mua đồ ở những nơi khác biệt chút xíu. Nơi em chọn được những món mà người khác không có.” Pearl ngưng lại, đưa mắt nhìn chiếc túi Gap màu trắng-xanh đang lủng lẳng quai dây rút trên cánh tay của chị Lexie, đột nhiên tự hỏi liệu chị ấy có giận không. Nhưng Lexie hiếm khi, thậm chí chẳng khi nào tức giận: những ẩn ý và gợi ý tinh tế có xu hướng bật ra khỏi màng lọc nơi bộ não của chị. Cô nghiêng đầu sang bên và hỏi. “Chẳng hạn như chỗ nào?” Vì vậy Pearl đã chỉ Lexie xuống đường Northfield, qua tuyến đường đua, đến cửa hàng đồ si, nơi dạo phố của các phụ nữ trong nhà hàng Taco Bell vào ngày nghỉ, hoặc lướt qua chúng khi sắp sửa vào ca tối. Trong đời mình, cô đã đi hàng tá cửa hàng đồ si khắp các thành phố và chẳng hiểu sao mỗi cửa hàng đều có chính xác một mùi - bụi bặm và thơm ngọt - và cô luôn chắc rằng những đứa trẻ khác cũng có thể ngửi thấy thứ mùi đó trên quần áo mà cô mặc, thậm chí sau khi giặt sạch đến hai lần, như thể cái mùi đó đã ngấm sâu vào da thịt. Cái tiệm này, nơi mà cô và mẹ đã bới tung mấy thùng rác tìm những tấm trải cũ làm màn cửa, cũng như vậy. Nhưng bây giờ, khi nghe tiếng reo mừng của chị Lexie, cô lại nhìn cửa hàng bằng con mắt khác: ở đây chị có thể tìm thấy những mẫu đầm cocktail từ những năm sáu mươi cho chuyến hành hương, những bộ đồ phẫu thuật mặc lúc nghỉ ngơi hay những khi đi ngủ, một cái áo phông cũ in phối kiểu rộng và, nếu may mắn, đó còn là quần loe, những cái quần ống loe chính hiệu, không phải mấy cái làm lại phong cách retro của cửa hàng Delia’s đâu mà là hàng thật, với hai ống loe rộng và mảng vải denim nơi đầu gối mỏng tanh từ hàng thập kỷ bị hao mòn. “Kiểu cổ điển,” Lexie thở dài, và treo lên giá với sự kính trọng. Thay cho những cái áo choàng và chân váy hippi mà mẹ Mia lúc nào cũng chọn cho mình, thì Pearl tìm cho cô mớ áo phông ngộ nghĩnh, cái chân váy làm từ chiếc quần jean hiệu Levi’s và cái áo hoodie xanh biển có khóa kéo. Cô bày Lexie cách xem bảng giá - vào thứ Ba những món treo bảng xanh lá đều giảm nửa giá, thứ Tư thì màu vàng - và, khi Lexie chọn được cái quần jean phù hợp, thì Pearl đã thành thạo cạy bảng giá màu cam ra và thay bằng cái xanh lá từ chiếc blazer vải tổng hợp kiểu những năm tám mươi xấu xí. Dưới sự hướng dẫn của Pearl, cái quần jean còn có bốn đô-la, cả túi đồ của Pearl còn có mười ba đô-la bảy mươi lăm cent, và Lexie đã vui đến nỗi tạt vào Wendy’s drive-through và gọi cho mỗi đứa một phần Frosty. “Mấy cái quần jean này hợp với chị lắm, như thể chúng được may riêng cho chị vậy,” trên đường về Pearl nói với Lexie như vậy. “Trời định chúng thuộc về chị rồi.” Lexie múc một muỗng đầy chocolate chảy cho vào miệng. “Em biết không?” cô nheo mắt nói, như thể đặt Pearl vào tâm điểm. “Cái váy đó mặc với áo sơ-mi sọc nữa trông sẽ rất tuyệt. Chị có một cái mặc rồi, em có thể lấy xài.” Khi hai chị em trở về nhà, Lexie kéo từ tủ quần áo ra cả nửa tá sơ-mi. “Cái này nhé?” cô nói, vuốt thẳng cổ áo cho Pearl, cẩn thận cài cái nút độc nhất giữa ngực, chẳng đoan trang gì nữa, theo cách mà mọi nữ sinh năm tư đều ăn vận vào năm đó. Cô xoay Pearl về phía gương và gật đầu ra chiều hài lòng. “Em lấy mấy cái này đi,” cô nói. “Em mặc rất xinh. Chị có nhiều đồ kiểu này rồi.” Pearl gói mấy cái sơ-mi vào túi. Cô đã quyết định rằng nếu mẹ có nhận ra, cô sẽ nói mình mua chúng từ hàng đồ si cùng những món khác. Không rõ vì sao nhưng cô cảm thấy mẹ sẽ không đồng ý việc cô lấy đồ cũ của chị Lexie, thậm chí chị ấy có không cần nữa. Bỏ quần áo vào giặt, cô Mia nhận ra mấy cái sơ-mi thơm mùi bột giặt Tide và hương nước hoa, chứ không phải mùi bụi bặm, chúng tươm tất, y như đã được ủi. Nhưng cô không nói gì, và tối hôm sau tất cả quần áo mới của Pearl nằm gọn gàng một đống dưới chân giường của cô, Pearl thở phào nhẹ nhõm. Vài ngày sau, ở phòng bếp của gia đình Richardson, mặc một trong những chiếc sơ-mi của chị Lexie, Pearl nhận ra anh Trip liếc nhìn cô hết lần này đến lần khác, rồi chỉnh lại cổ áo của cô và thoáng cười tự mãn. Ngay cả bản thân Trip cũng không hiểu nổi vì sao anh lại đưa mắt nhìn Pearl, nhưng anh không thể ngăn mình chú ý đến cái đồng hồ cát nhỏ nhắn bằng da người mà áo sơ-mi của cô để lộ: hình tam giác để lộ bởi khung xương quai xanh; hình tam giác để lộ nơi vòm bụng với vết lõm tinh tế của hõm rốn; cái áo ngực màu xanh biển thoáng ẩn hiện lúc trên lúc dưới hột nút khóa độc nhất. “Hôm nay em đẹp lắm,” anh nói, giống như rất ngạc nhiên, còn Pearl thì đỏ mặt, bừng bừng đến từng chân tơ kẽ tóc. Dường như anh cũng ngượng ngùng, như vừa tiết lộ sự yêu thích dành cho một chương trình TV chán ngắt. Moody không thể làm lơ. “Cậu ấy lúc nào chẳng đẹp,” Moody gắt. “Anh thôi đi Trip.” Tuy nhiên, lúc nào cũng vậy, Trip không để tâm đến cơn cáu kỉnh của cậu em. “Ý anh là đẹp hơn nhiều,” anh nói. “Màu này hợp với em lắm. Làm nổi bật màu của đôi mắt em.” “Là của chị Lexie,” Pearl thốt lên, và Trip cười toe toét. “Em mặc đẹp hơn, “ anh nói, gần như bẽn lẽn rồi bước ra ngoài. Ngày hôm sau, Moody vét mớ tiền tiết kiệm của mình để mua quyển sổ ghi chép tặng Pearl, một quyển sổ hiệu Moleskine màu đen nhỏ gọn được chốt bằng sợi thun ràng. “Hemingway chính xác đã dùng hiệu này đấy,” cậu nói với Pearl, cô cảm ơn cậu và cất nó vào cặp sách của mình. Khi Pearl mỉm cười với Trip hay đỏ mặt trước những lời khen của anh ấy, cậu nghĩ, Pearl sẽ chép những bài thơ của cô vào đó, thay vì quyển sổ gáy xoắn ọp ẹp cũ kỹ kia, và suy nghĩ đó làm lòng cậu dễ chịu, khi biết rằng cậu trao cho Pearl quyển sổ, nó sẽ nắm giữ bao câu từ, bao suy nghĩ yêu thích của cô. Tuần sau đó, bà Richardson định giặt thảm bằng hơi nước nóng, và yêu cầu bọn trẻ ra khỏi nhà cho đến giờ ăn tối. “Nếu để mẹ nhìn thấy một dấu giày ống nào - Izzy - hoặc một dấu giày đinh nào - Trip - trên những tấm thảm này, mấy đứa sẽ bị cắt phí sinh hoạt trong một năm. Rõ chưa?” Trip ra ngoài đá bóng còn Izzy học violin, nhưng Lexie, cũng như mọi khi, chẳng có gì để làm. Serena Vương đi tập việt dã và có vẻ như tất cả những bạn khác của chị ấy đều bận rộn không việc này cũng việc khác. Sau tiết thứ mười, Pearl ngạc nhiên khi thấy chị Lexie đứng ở tủ cá nhân của mình. “Em có định làm gì không?” Lexie hỏi, chìa một viên kẹo cao su trắng vào tay Pearl. “Không có hả? Chúng ta đến nhà em đi.” Bao nhiêu năm trước đây, Pearl miễn cưỡng mời bạn về nhà: căn hộ của họ luôn chật chội và bừa bộn, thường nằm trong những khu tồi tàn của thành phố, và khả năng cao là bất cứ ngày nào cô Mia cũng có thể đang thực hiện một trong những dự án của mình - cái mà, trong con mắt của người ngoài, là làm thứ gì đó kỳ quặc không cắt nghĩa được. Nhưng chị Lexie đang cạnh bên cô - chị Lexie đang hỏi để ghé chơi nhà cô - chị Lexie đang hỏi để dành thời gian cùng cô - làm cô thấy mình như công chúa Lọ Lem tìm thấy bàn tay hoàng tử đang dang ra. “Được thôi,” cô đáp. Trong sự vui mừng của Pearl - và nỗi cáu gắt của Moody - ba người họ leo lên chiếc Explorer của Lexie, và nhắm xuống đường Parkland Drive hướng về ngôi nhà ở đường Winslow, tiếng nhóm nhạc nữ TLC vỡ òa từ những cửa sổ để hạ. Khi xe dừng trước nhà, cô Mia đang tưới cây đào ngoài sân, đã thoáng chốc giật mình sửng sốt. Cô đã phải đấu tranh với cơn thôi thúc đột ngột nhưng mãnh liệt rằng bỏ ống nước xuống, chạy vào trong và khóa cửa phía sau lại. Khi mà Pearl chưa bao giờ mời bạn về nhà, cũng như cô Mia chưa bao giờ mời người ngoài đến chơi. Đừng có lố bịch, cô thầm nhủ. Đây là điều mày muốn cơ mà, không phải sao? Để Pearl có bạn bè. Đến khi cửa xe Explorer mở toang và ba đứa trẻ tuổi teen bước ra, cô vặn tắt vòi nước và chào đón chúng bằng một nụ cười. Khi làm một mẻ bỏng ngô - món yêu thích của Pearl và là món ăn nhẹ duy nhất trong tủ - thì cô Mia tự hỏi liệu cuộc trò chuyện kia có trở nên gượng gạo vì sự có mặt của mình hay không. Có lẽ chúng sẽ ngồi đó ngượng ngùng im lặng, và không bao giờ Lexie muốn ghé chơi lần nữa. Nhưng ngay khi các hạt bắp đầu tiên bắn lên nắp xoong, ba đứa trẻ đã thảo luận về chiếc xe hơi mới của Anthony Brecker, một con bọ VW cổ sơn màu tía; tại sao mà Meg Kaufman lại say xỉn đến trường vào tuần trước; Anna Lamont giờ xinh đẹp lên bao nhiêu khi cô ta duỗi tóc (“Em nên nhìn thấy nó lúc trước,’’ Lexie nói, “Nhìn y như con poodle vậy”). Chỉ khi đến chủ đề đơn đăng ký nhập học đại học thì cuộc trò chuyện đã ngưng lại. Cô Mia lắc cái xoong để mớ bỏng ngô không bị khét, cô nghe Lexie rên rỉ và nghe một tiếng huỵch, có thể con bé đập trán trúng bàn. Đơn nhập học đại học ngày càng chiếm hết tâm trí của Lexie. Người Shaker rất coi trọng chuyện đại học: quận có chín mươi chín phần trăm tỉ lệ tốt nghiệp và gần như toàn bộ học sinh đều vào đại học theo nhiều loại trường. Tất cả bạn bè mà Lexie biết đều đang nộp đơn sớm và kết quả là, ở phòng công tác cộng đồng mọi người có thể thảo luận về việc ai đã nộp đơn cho trường nào. Serena Vương đã nộp đơn vào Harvard. Bạn trai của Lexie, Brian, thì đặt trái tim mình ở Princeton. “Cứ như Cliff và Clair có thể để anh đi nơi nào khác vậy,” anh nói. Bố mẹ anh tên thật là John và Deborah, bố anh là bác sĩ và mẹ anh là luật sư, nói thật thì, hai ông bà dành sự mến mộ nhất định với những nhân vật trong Cosby, bố anh là người ra nhiều mồ hôi và rất lịch sự, còn mẹ anh là người có năng khiếu dí dỏm, nghiêm túc và dứt khoát. Họ đã gặp nhau ở Princeton khi là sinh viên năm cuối, và Brian có những tấm hình hồi anh còn nhỏ trong bộ đồ liền in chữ Princeton. Đối với Lexie thì tiền lệ không rõ ràng cho lắm: mẹ cô lớn lên ở Shaker và chưa từng đi đâu xa - bà chỉ xuống Denison học năm cuối trước khi quay trở về Shaker này. Bố cô đến từ một thị trấn nhỏ ở Indiana và chỉ ở đó, một lần bố gặp mẹ ở trường đại học, rồi chuyển về quê của vị hôn thê, hoàn thành chương trình Tiến sĩ Luật tại Đại học Case Western, thăng tiến từ một đồng sự cấp cao thành một cộng sự tại một trong những công ty lớn nhất trong thành phố. Nhưng giống như hầu hết các bạn cùng lớp của mình, Lexie không hề muốn ở lại bất cứ đâu gần Cleveland. Một thành phố lộn xộn nơi bờ hồ dơ bẩn và chết chóc, được cấp nước bởi con sông nổi tiếng nhờ vụ cháy*; một thành phố đã tạo nên con sông mang cái tên buồn bã: Nỗi tuyệt vọng. Sau đó lại mang cái tên đó đặt cho mọi thứ, những ổ đau khổ nằm rải rác khắp thành phố, chôn vùi như những mạch vô vọng: Làng Tuyệt Vọng, Đại lộ Tuyệt Vọng, Khu bảo tồn Tuyệt Vọng. Địa ốc Tuyệt Vọng, Trung tâm bão dưỡng Tuyệt Vọng. Sự tuyệt vọng được tái tạo và sinh sôi nảy nở như thể chúng không bao giờ dừng lại. Đôi khi người ta gọi nó bằng cái tên Sai lầm trên hồ*, và đối với Lexie, cũng như các anh chị em hay bạn bè của mình, Cleveland là thứ gì đó cần được giải thoát. Khi thời hạn cho kỳ nộp đơn sớm đã gần kề, Lexie quyết định nộp đơn sớm vào Đại học Yale. Trường này có chương trình kịch nghệ khá hay, và hồi năm ngoái Lexie đã sắm vai chính trong một vở hài kịch, dù khi ấy cô mới học năm ba. Bất chấp tính lông bông của mình, mỗi học kỳ cô đều có tên trên bảng danh dự; cô đã hoàn thành bốn lớp AP (Advanced Placement) và đảm nhiệm vai trò thư ký cho Câu lạc bộ tiếng Pháp. “Đừng để vẻ hời hợt đó đánh lừa cậu,” Moody nói với Pearl. “Chị Lexie rất thông minh. Chỉ là chị ấy không thường dùng não trong cuộc sống thực mà thôi.” Xem ra Yale có khá nhiều yêu cầu nhưng đó là một ngôi trường phù hợp, vị cố vấn học đường của cô khẳng định - “Thêm vào đó,” Bà Lieberman bổ sung, “Họ biết những học sinh đến từ Shaker luôn thể hiện tốt.” Cô và Brian đã bên nhau gần sáu tháng và cô thích thú với ý tưởng chỉ cần lên tàu hỏa và đi. “Chúng ta có thể đến thăm nhau mọi lúc,” Lexie bày với anh khi cô in đơn đăng ký sớm vào Yale. “Thậm chí chúng ta có thể hẹn nhau ở New York.” Cuối cùng, điều này đã làm cô dao động: New York, nơi trước giờ vẫn tỏa ra sức thu hút đặc biệt cuốn vào trí tưởng tượng của cô khi cô đọc quyển Eloise hồi còn nhỏ. Cô không muốn theo học tại New York; vị cố vấn học đường của cô đã thoáng nghĩ đến Đại học Columbia, nhưng ai lại muốn sống ở khu Morningside Heights cơ chứ, Lexie nghĩ. Ấy thế mà, cô thích ý tưởng có thể làm một chuyến đi chơi trong ngày - buổi sáng ở Viện bảo tàng mỹ thuật Met (Metropolitan Museum of Art), có thể đi đốt tiền ở Macy’s hoặc thậm chí dã ngoại cuối tuần cùng Brian - và sau đó trốn khỏi đám đông, khỏi bụi bặm, khỏi ồn ào. Tuy nhiên, trước khi những chuyện này có thể xảy ra, cô phải viết bài luận. Bà Lieberman đã nhắc đi nhắc lại rằng một bài luận hay là những gì mà cô cần để tách mình ra khỏi đám đông. “Nghe câu hỏi bại não này nè Pearl,” chiều hôm đó, trong căn bếp nhà Pearl, vừa rút bản in đơn nhập học ra khỏi cặp sách, cô vừa lầm bầm. ‘“Viết lại một truyện nổi tiếng với quan điểm khác. Ví dụ, kể lại truyện Phù thuỷ xứ Oz bằng lời kể của nhân vật Wicked Witch.’ Đơn xin nhập học mà, có phải văn sáng tạo đâu cơ chứ.” “Chuyện cổ tích thì sao,” Moody gợi ý. Cậu kéo quyển sách giáo khoa môn Toán ra khỏi túi, và Lexie nhăn mũi. “Chuyện Lọ Lem theo lời kể của hai cô em kế. Biết đâu cuối cùng hai cô em kế cũng không đến nỗi xấu xa. Biết đâu Lọ Lem mới thật sự là con khốn đối với bọn họ.” “Cô bé quàng khăn đỏ qua lời kể của con sói,” Pearl đề xuất. “Hay Rumplestiltskin nhỉ,” Lexie đăm chiêu. “Ý chị là, con gái của người thợ xay bột đã xù tiền ông. Ông ấy đã đánh sợi xe hết mớ chỉ cho cô ta, cô ta hứa sẽ cho ông đứa con nhỏ của mình rồi sau đó lại nuốt lời. Biết đâu trong chuyện này cô ta mới là kẻ xấu.” Với móng tay màu hạt dẻ, cô gõ nhẹ vào nắp lon Coca không đường vừa mua trước tiết thứ mười, sau đó bật chốt. “Chị muốn nói là nếu đã không muốn thì ngay từ đầu cô ta không nên đồng ý cho ông đứa bé.” “Nào,” cô Mia đột nhiên xen vào. Cô trở ra, với bát bỏng ngô trên tay, cả ba đứa trẻ nhảy cẫng lên cứ như những mẩu đồ gỗ đã bắt đầu mở miệng. “Có lẽ mãi đến khi đó cô ấy mới biết mình đã từ bỏ điều gì. Có lẽ một lần nhìn đứa bé cô ấy đã đổi ý.” Cô Mia đặt bát xuống giữa bàn. “Đừng vội vàng phán xét, Lexie à.” Ngay tức thì Lexie kiềm chế, sau đó thì trợn mắt. Moody ném cái nhìn sang Pearl: nông cạn gì đâu? Nhưng Pearl không để ý. Sau khi cô Mia trở vào phòng khách - ái ngại trước cơn bộc phát của mình - Pearl quay sang Lexie. “Em có thể giúp chị,” cô nói, khẽ khàng đến mức nghĩ rằng mẹ Mia không thể nghe thấy. Rồi, một lát sau, bởi lời đề nghị ban nãy dường như chưa đủ, “Em giỏi môn luận văn lắm. Thậm chí em có thể viết giùm chị luôn.” “Thật sao?” Lexie cười rạng rỡ. “Ôi trời, Pearl ơi, chị nợ em cả đời.” Cô choàng đôi tay ôm lấy Pearl. Bên kia bàn, Moody đóng sập quyển sách Toán, và ở phòng khách, cô Mia mím chặt môi nhấn cây cọ sơn vào ly nước, tẩy lớp sơn trên mớ lông cọ trong xoáy nước bẩn màu. 6 N hư đã hứa, Pearl đưa bài luận đánh máy cho Lexie vào tuần kế tiếp - chuyện về hoàng tử ếch, dựa theo lời kể của con ếch. Cả cô Mia, người không muốn thừa nhận rằng mình đang nghe lén, hay Moody, người không muốn bị gán mác là kẻ đạo đức giả, chẳng ai nói một lời về chuyện này. Nhưng cả hai ngày càng không thoải mái. Mỗi sáng khi Moody sang nhà để cùng Pearl đi bộ đến trường, từ phòng mình, Pearl đều xuất hiện trong chiếc sơ-mi của chị Lexie, hoặc chiếc áo hai dây, hoặc son môi màu đỏ sẫm. “Là của chị Lexie cho con,” cô giải thích, nửa với mẹ nửa với Moody, cả hai người đều chằm chằm nhìn cô bằng ánh mắt đầy thất vọng. “Chị Lexie nói màu này quá tối với chị nhưng lại rất hợp với con. Vì tóc con tối màu hơn.” Dưới lớp son môi, đôi môi cô trông như vệt tím bầm, nhạy cảm và thô ráp. “Tẩy sạch đi,” cô Mia bảo, ngay lần đầu tiên trông thấy. Nhưng sáng hôm sau Pearl lại đeo cái vòng cổ của Lexie, cái vòng trông như vết cắt từ dải dây đen buộc quanh cổ. “Hẹn gặp lại mẹ vào bữa tối,” cô nói. “Tan học con và chị Lexie sẽ đi mua sắm.” Vào cuối tháng Mười, khi những tờ đơn đăng ký được gửi đi hết đơn này đến đơn khác thì suy nghĩ về buổi lễ kỷ niệm đã bắt đầu len lỏi trong những học sinh năm cuối. Bài luận đăng ký của Lexie đã được duyệt, và tâm trạng của cô đang vô cùng hồ hởi. Nhờ Pearl, bài luận của cô rất tốt, điểm SAT* loại giỏi, điểm GPA* cao và cô có thể sẵn sàng hình dung mình trong khuôn viên Đại học Yale. Cô cảm thấy nên thưởng cho Pearl vì sự trợ giúp của em ấy và, sau nhiều suy nghĩ, cô nảy ra ý tưởng tuyệt vời. “Cuối tuần này Stacie Perry có tiệc,”cô nói. “Muốn đến không?” Pearl do dự. Cô có nghe về bữa tiệc của Stacie Perry, và cô cũng không chắc mình có thích hay không. “Không biết liệu mẹ có cho em đi không nữa.” “Thôi nào, Pearl,” Trip nói, ngả tay lên chiếc sô-pha. “Anh cũng đi. Anh cần bạn nhảy cùng.” Sau đó, Pearl không cần thêm lời thuyết phục nào nữa. Tại trường trung học Shaker Heights, bữa tiệc của Stacie Perry là một huyền thoại, ông bà Perry có nhà cao cửa rộng và thường xuyên du lịch, và Stacie có đầy đủ điều kiện. Trong trạng thái căng thẳng của việc gửi đơn đăng ký sớm cùng mấy tuần chờ kết quả thì các học sinh năm cuối đã sẵn sàng vui chơi. Suốt tuần, bữa tiệc Halloween là chủ đề sốt dẻo của các cuộc thảo luận: ai đi, ai không? Tất nhiên, Moody và Izzy không được mời; họ chỉ biết tiếng tăm của Stacie Perry, và danh sách khách mời chủ yếu là học sinh năm cuối. Dù gắn bó với Lexie nhưng Pearl vẫn hầu như chẳng biết đến ai ngoài gia đình Richardson, và Moody thường là người bạn duy nhất mà cô nói chuyện trong suốt thời gian ở trường. Tuy vậy cả Lexie và Serena Vương đều được chính Stacie mời, do đó họ được phép dẫn theo người đi cùng - thậm chí là một học sinh năm hai không ai quen biết. “Tớ nghĩ chúng ta sẽ thuê phim Ác quỷ nổi giận (Carrie),” Moody lầm bầm. “Cậu nói là cậu chưa xem phim này mà.” “Cuối tuần sau nhé,” Pearl báo trước. “Đằng nào lúc đó cũng là ngày Halloween. Trừ khi cậu muốn chơi trò cho-kẹo-hay-bị-ghẹo.” “Chúng ta lớn hết rồi,” Moody nói. Ở Shaker Heights, trò cho-kẹo hay-bị-ghẹo cũng như mọi thứ khác, đều có quy định của nó: tiếng còi báo lúc sáu giờ và tám giờ để ra hiệu bắt đầu và kết thúc, và mặc dù không có giới hạn chính thức về độ tuổi, thì người ta có xu hướng ném ánh nhìn ngờ vực vào những cô cậu tuổi teen đang xuất hiện trước cửa nhà họ. Lần cuối cùng cậu chơi cho-kẹo-hay-bị ghẹo là khi mười một tuổi, trong bộ dạng của một Ninja Rùa. Trong bữa tiệc của Stacie, hóa trang là yêu cầu bắt buộc. Brian không đi - anh đang tranh thủ hoàn thành đơn đăng ký sớm vào Đại học Princeton - vì vậy anh không phải là nhân tố được trù tính. “Hãy hóa thành Những thiên thần của Charlie nào,” Lexie gào lên trong sự phấn khích vỡ òa, vì thế cô, Serena và Pearl đã vận quần ống loe phối sơ-mi sợi tổng hợp và xước tóc cao hết mức có thể. Khi mái tóc không thể cao hơn được nữa, họ liên tục tạo dáng, các ngón tay chỉa thành hình khẩu súng, và tự quan sát mình trong gương với lớp keo xịt tóc rối mù. “Hoàn hảo,” Lexie khẳng định. “Nâu sẫm, vàng hoe và đen nhánh.” Cô chĩa ngón tay vào mũi Pearl. “Sẵn sàng cho bữa tiệc này chưa, Pearl?” Dĩ nhiên, câu trả lời là không. Đó là đêm kỳ lạ nhất mà Pearl từng trải qua. Suốt buổi tối, bao chiếc xe được lái bởi những người trượt ván cùng nhiều động vật và Freddy Kruegers đã lái xe đỗ nơi lề cỏ rộng của nhà Stacie. Ít nhất có bốn chàng trai đeo mặt nạ Thần chết; một cặp vận áo bóng bầu dục và mũ bảo hộ; vài người sáng tạo thì mặc áo khoác dài, đội mũ phớt, đeo kính râm và quàng khăn lông. (“Mấy gã ma cô”, Lexie giải thích.) Hầu hết bọn con gái đều mặc đầm thiếu vải và đội nón hoặc đội tai thú, một người hóa trang thành công chúa Leia; người khác ăn vận như một robot nữ, tay đeo Austin Powers*. Bản thân Stacie thì sửa soạn như thiên thần trong chiếc váy ngắn hai dây màu ánh bạc, đôi cánh lấp lánh, vải lưới che và vầng hào quang trên chiếc băng đô. Khi Lexie, Serena và Pearl đến nơi là chín giờ rưỡi, mọi người đều đã say rồi. Không khí đậm mùi mồ hôi và chua nồng vị bia, các cặp đôi đang ve vuốt mò mẫm nhau trong góc tối. Sàn bếp nhớp nháp thức uống chảy tràn vương vãi, vài cô nàng nằm dài trên bàn giữa đống chai rượu vơi nửa, hút điếu cần, cười khúc khích trong khi gã trai liếm rượu rum trên hõm rốn của cô ta. Lexie và Serena tự rót đồ uống và luồn lách vào sàn nhảy dã chiến ở phòng khách. Pearl, còn lại một mình, đứng nơi góc bếp, chăm một ly nhựa đỏ đầy ắp rượu Stoli pha Coca, ngóng tìm đợi Trip. Nửa tiếng sau, cô thoáng nhìn thấy anh, phía sân trong, hóa trang như ác quỷ trong cái áo khoác màu đỏ từ cửa hàng đồ si cùng cặp sừng quỷ. “Em thậm chí không nghĩ anh ấy biết chị Stacie,” Pearl hét vào tai Serena khi cô quay trở lại lấy đồ uống. Serena nhún vai. “Stacie kể, một hôm nó nhìn thấy cậu ấy cởi trần sau khi tập banh và nghĩ cậu ta rất bảnh. Nó kể - và chị nói nguyên văn nhé - cậu ta ngon hết sảy.” Chị ấy tu một hơi rồi cười khúc khích. Pearl nhận ra mặt chị đỏ lên. “Đừng kể lại với Lexie, nhất trí nhé? Con nhỏ mửa ra đấy.” Chị ấy quay trở lại phòng khách, nhẹ nhàng lắc lư trên đôi giày cao gót mũi nhọn đang mang, và qua khung cửa kính trượt, Pearl quan sát Trip dùng cây chĩa nhựa thúc vào giữa vai của cô gái tóc đỏ. Cô vuốt lại tóc và lên kế hoạch. Ít lâu sau, khi ly của anh Trip vơi cạn, anh ấy sẽ vào trong, anh sẽ gặp cô. Anh sẽ hỏi, sao vậy Pearl. Và sau đó cô sẽ nói gì đó thật khéo léo với anh. Cô cố nghĩ ra chuyện. Chị Lexie sẽ nói gì với anh chàng mà chị ấy thích chứ nhỉ? Nhưng trong khi cô cố vắt óc nghĩ ra thứ gì đó vừa gợi cảm lại dí dỏm thì cô nhận ra Trip đã không còn ở sân trong. Anh ấy vào trong, hay đã rời đi rồi? Cô nâng ly lên cao, len lỏi vào phòng khách, nhưng không nhìn thấy ai cả. Tiếng xập xình tràn ra từ dàn âm thanh nổi, tiếng bass dập mạnh đến mức cô có thể cảm nhận được nó trong cổ họng, và ca sĩ Janet Jackson đang xuất thần rền rĩ. Ánh sáng duy nhất đến từ vài ngọn đèn cầy, và tất cả những gì cô có thể nhận ra là những chiếc bóng quằn quại và tiếng bem bép trong những hành vi phóng đãng rõ mồn một. Cô lẻn ra sân sau, nơi có một tốp con trai đang nốc bia và tranh luận về cơ hội tranh vé vớt của đội bóng. “Nếu chúng ta thắng đội Ignatius,” một người trong số họ hét lớn, “và đội U.S thắng Mentor...” Trong khi đó, Lexie đang có một đêm trọng đại. Cô thích nhảy nhót; cô, Serena và đám bạn cùng vào trung tâm bất cứ lúc nào các hộp đêm ở đó có chương trình đêm dành cho teen - hoặc bất cứ khi nào họ nghĩ nhân dạng bản thân không chân thật, làm họ cứ như là những sinh viên năm nhất, thì họ sẽ phá vỡ cơn lừa bịp đó. Lần nọ, hai người đã lẻn vào thùng xe chở hàng trong một nhà kho bỏ hoang để đến Flats và nhảy nhót đến tận ba giờ sáng, những chiếc vòng cổ lấp lánh lắc lư trên cườm tay và yết hầu của hai cô gái. Họ thường nhảy cùng nhau, với sự thoải mái của hai cô gái biết nhau quá nửa cuộc đời, eo sát bên eo, hông sát kề hông, Lexie đâu lưng lại Serena. Tối nay khi hai người đang nhảy cùng nhau thì Lexie cảm thấy có ai đó áp vào lưng cô. Đó là Brian, và Serena cười với cô ra chiều hiểu ý trước khi quay đi. “Anh còn không chịu hóa trang nữa chứ,” Lexie vùng vằn, phát vào vai anh. “Anh hóa trang rồi đây,” Brian khẳng định. “Anh là chàng trai vừa gửi đơn đăng ký nhập học trường Princeton.” Anh choàng tay ôm eo cô và hôn lên cổ cô. Nửa tiếng sau, nhảy nhót, men rượu và sự kích thích ngọt ngào của phút vội vàng lên mười tám đã căng tràn hai con người trong lòng háo hức dâng đầy. Trong sáu tháng hẹn hò, họ đã gần gũi nhiều, như Lexie bẽn lẽn kể lại với Serena, nhưng chuyện đó, là chuyện hệ trọng, phút chốc tồn tại trong suy nghĩ của họ, giống như hồ nước sâu nơi mà đôi trai gái chỉ mới nhúng ngón chân vào đó. Bây giờ, áp vào cơ thể của Brian, chếnh choáng trong men rượu rum và coca, tiếng bass xập xình vây quanh hai thể xác như sẻ chia nhịp đập trái tim, cô ngập tràn khao khát được đột ngột lao mình vào hồ nước ấy và lặn sâu xuống tận đáy. Khi còn trẻ và ít trải nghiệm, Lexie có nhiều ảo tưởng cho lần đầu tiên ấy. Cô lên kế hoạch: có nến, có hoa, và có nhóm Boyz II Men trong đầu đĩa CD. Chí ít cũng có phòng ngủ, và có giường. Không phải ở ghế sau xe hơi như cái cách mà một số bạn bè cô đã làm; chắc chắn không phải ở cầu thang trường, như lời đồn về Kendra Solomon. Nhưng giờ phút này cô không còn quan tâm đến chuyện đó. “Muốn lượn một vòng không?” cô hỏi. Và cả hai đều hiểu cô đang gợi ý chuyện gì. Không nói một lời, họ lẻn ra lề đường, nơi xe của Lexie đang chờ ở đó. Lúc Lexie và Brian đi rồi, Pearl trở lại góc bếp của cô, đợi chờ anh Trip xuất hiện. Nhưng chẳng thấy, đến mười giờ rưỡi cũng không, đến mười một giờ cũng không. Mỗi giờ trôi qua, và mỗi chai rượu vơi cạn, mọi thứ trở nên ồn ào hơn và lỏng lẻo hơn. Vừa quá nửa đêm, trong lúc tự mình cố rót một cốc nước, Stacie Perry đã nôn luôn vào bình đựng nước hiệu Brita, và Pearl quyết định đó là lúc về nhà. Nhưng không thấy chị Lexie đâu cả, thậm chí khi cô tìm đường qua đám cơ thể lắc lư để vào phòng khách. Liếc nhìn ra bên ngoài, cô không thể biết được liệu chiếc Explore của chị Lexie vẫn còn đỗ trong dãy xe hơi lộn xộn ngoài đó hay không. “Chị có thấy chị Lexie đâu không? Cô hỏi bất cứ ai có vẻ còn chút tỉnh táo. “Hoặc chị Serena?” Hầu hết mọi người nhìn cô chằm chằm như thể đang cố đánh giá cô. “Lexie á?” Họ hỏi. “Ô, Lexie Richardson hả? Em đến cùng bạn ấy sao?” Cuối cùng một cô gái sà vào lòng anh cầu thủ bóng đá trên chiếc ghế bành lớn, đã nói, “Chị nghĩ cậu ấy đưa bạn trai đi rồi. Phải không, hở Kev?” Đáp lại, Kev đưa đôi tay chắc nịch ôm lấy mặt cô và kéo miệng cô về phía mình, Pearl quay đi. Pearl hoàn toàn không chắc mình đang ở đâu, và men rượu vodka đã làm nhòe tấm bản đồ Shaker thô sơ trong đầu cô. Liệu từ đây có thể đi bộ về nhà không? Phải mất bao lâu nhỉ? Thậm chí nhà Stacie nằm trên đường nào đây? Trong một lúc, Pearl cho phép mình mơ màng tưởng tượng. Có lẽ anh Trip sẽ đi qua cánh cửa kính trượt, làn gió mát mẻ sảng khoái thoảng qua theo anh vào phòng bếp. Và anh sẽ hỏi. Có cần anh đưa về không? Nhưng tất nhiên chuyện này không xảy ra, và cuối cùng, Pearl lén lấy cái điện thoại không dây trong quầy bếp, trốn ra ngoài ga-ra, nơi yên tĩnh hơn và gọi cho Moody. Hai mươi phút sau, một chiếc xe hơi đỗ trước nhà Stacie. Cửa sổ hành khách hạ xuống và đứng từ bậc cao Pearl nhìn thấy nét mặt Moody cau có. “Lên xe,” là tất cả những gì cậu nói. Nội thất trong xe toàn da mềm, mịn màng như da dưới đùi cô vậy. “Xe của ai vậy?” cô hỏi, một cách ngớ ngẩn, khi chiếc xe lăn bánh khỏi lề đường. “Mẹ tớ,” Moody đáp. “Và trước khi cậu gọi, mẹ đang ngủ, vì vậy chúng ta đừng phí thời giờ ở đây nữa.” “Nhưng cậu chưa có bằng lái mà.” “Được cho phép làm gì đó và biết cách để thực hiện nó là hai chuyện khác nhau.” Moody đánh xe vòng quanh góc đường và quay về hướng đường Shaker Boulevard. “Cậu say rồi à?” “Tớ có uống một ly. Tớ không say.” Ngay cả khi nói ra điều này, Pearl cũng không chắc đúng là như vậy - cái ly đó có rất nhiều rượu vodka. Đầu quay cuồng và mắt cô nhắm lại. “Tớ chỉ không biết cách để về nhà thôi.” “Xe anh Trip vẫn nằm đó, cậu thấy mà. Chúng ta chạy ngang qua nó lúc đi ra đó. Sao cậu không bảo anh ấy?” “Tớ không tìm được ảnh. Tớ không tìm thấy ai cả.” “Chắc lại ở trên lầu với đám con gái chứ gì.” Họ im lặng một lúc. Theo đồng hồ trên bảng điều khiển, đã gần một giờ. “Cậu thấy chưa,” Moody nói. “Họ giống cái gì.” Khi họ tiến lại gần khu nhà của cô Mia và Pearl, cậu ấn tắt đèn và đỗ xe bên lề đường. “Mẹ cậu sẽ giận lắm đấy.” “Tớ có nói với mẹ là ra ngoài với chị Lexie và mẹ bảo tớ có thể chơi đến mười hai giờ. Tớ chỉ hơi trễ chút xíu.” Pearl liếc nhìn lên cửa sổ nhà bếp còn sáng đèn. “Người tớ có mùi không?” Moody sán lại gần. “Người cậu hơi có mùi thuốc lá. Nhưng không giống rượu. Này.” Cậu ấy kéo một gói kẹo cao su Trident ra khỏi túi. Theo thông tin cho biết buổi tiệc Halloween kéo dài đến ba giờ rưỡi sáng, và kết thúc là đám trẻ say khướt bất tỉnh nhân sự trên thảm trải phương Đông ở phòng khách nhà Perry. Lexie bò về nhà lúc hai giờ rưỡi, Trip thì ba giờ và hôm sau, hai đứa đều ngủ nướng đến quá trưa. Sau đó, Lexie xin lỗi Pearl bằng một lời thú tội thầm thì: trong thoáng chốc, cô và Brian đã nghĩ về chuyện ấy và có vẻ như tối nay chính là đêm đó - cô không biết, cô chỉ muốn kể ra với ai đó, thậm chí cô vẫn chưa nói gì với Serena, nhìn cô có gì khác không? Đối với Pearl, chị ấy ắt phải khác chứ - ốm hơn, sắc sảo """