"
Những Điều Bí Ẩn Trong Lịch Sử Trung Quốc - Trịnh Trung Hiếu & Nguyễn Thanh Hà full mobi pdf epub azw3 [Biên Khảo]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Điều Bí Ẩn Trong Lịch Sử Trung Quốc - Trịnh Trung Hiếu & Nguyễn Thanh Hà full mobi pdf epub azw3 [Biên Khảo]
Ebooks
Nhóm Zalo
Table of Contents
Phần I. ĐẾ VƯƠNG
HOÀNG ĐẾ CÓ PHẢI LÀ NHÂN VẬT TRONG TRUYỀN THUYẾT KHÔNG
VUA VŨ CÓ PHÁ BỎ CHẾ ĐỘ THIỀN NHƯỢNG KHÔNG MỐI TÌNH BÍ ẨN GIỮA CHU MỤC VƯƠNG VÀ TÂY VƯƠNG MẪU
VIỆT VƯƠNG CÂU TIỄN CÓ NẰM GAI NẾM MẬT THẬT KHÔNG
ĐẦU CƠ HÀNG QUÝ - BÍ ẨN THÂN THẾ TẦN THUỶ HOÀNG
BÍ ẨN “ĐỐT SÁCH CHÔN NHO SĨ ” CỦA TẦN THUỶ HOÀNG
CÓ PHẢI HÁN THÀNH ĐẾ CHẾT VÌ BUÔNG THẢ TÌNH DỤC KHÔNG
BÍ ẨN VỀ HÁN VĂN ĐẾ CƯNG CHIỀU ĐẶNG THÔNG VÌ SAO TÀO THÁO PHẢI XÂY BẢY MƯƠI HAI LĂNG TẨM LƯƠNG VŨ ĐẾ “HOÀNG ĐẾ HOÀ THƯỢNG ” VÌ SAO CHẾT ĐÓI Ở CHÙA
VÌ SAO ĐƯỜNG THÁI TÔNG PHÁT ĐỘNG “BINH BIẾN CỬA HUYỀN VŨ”
CÔNG LAO ĐỂ NGƯỜI ĐỜI ĐÁNH GIÁ NGÀN NĂM BÍ ẨN VỀ BIA KHÔNG CHỮ CỦA VÕ TẮC THIÊN
TẠI SAO ĐƯỜNG HUYỀN TÔNG ĐƯỢC TÔN LÀM LÃNH TỤ LÊ VIÊN
VÌ SAO LÝ DỰC HẬU CHÚA NAM ĐƯỜNG ĐỂ MẤT NƯỚC “TIẾNG RÌU BÓNG NẾN” VÀ CÁI CHẾT CỦA TỐNG THÁI TỔ
VÌ SAO TỐNG CAO TÔNG TRIỆU CẤU KHÔNG NỖ LỰC THU HỒI LẠI ĐẤT ĐÃ MẤT Ở MIỀN BẮC
CHUYỆN VỀ SỰ LOẠN LUÂN CỦA HẢI LĂNG VƯƠNG NHÀ KIM
Ể
MINH VŨ TÔNG XÂY DỰNG BÁO PHÒNG ĐỂ ĂN CHƠI HƯỞNG LẠC
HOÀNG ĐẾ VẠN LỊCH NHÀ MINH KHÔNG LÂM TRIỀU MẤY CHỤC NĂM
VUA SÙNG TRINH ĐÃ CHẾT NHƯ THẾ NÀO
BÍ ẨN VỀ XUẤT GIA ĐI TU CỦA VUA THUẬN TRỊ HOÀNG ĐẾ KHANG HY BẮT NGAO BÁI NHƯ THẾ NÀO VIỆC BÍ MẬT LẬP HOÀNG THÁI TỬ CÓ PHẢI BẮT ĐẦU TỪ KHANG HY KHÔNG
BÍ ẨN TRONG VIỆC KẾ VỊ CỦA VUA UNG CHÍNH BÍ ẨN VỀ CÁI CHẾT ĐỘT NGỘT CỦA VUA UNG CHÍNH CHA MẸ VUA CÀN LONG CÓ PHẢI NGƯỜI HÁN KHÔNG VUA ĐỒNG TRỊ CHẾT VÌ BỆNH ĐẬU MÙA HAY BỆNH GIANG MAI
BÍ ẨN NGUYÊN NHÂN CÁI CHẾT CỦA HỒNG TÚ TOÀN VIÊN THẾ KHẢI CÓ PHẢI ĐẦU SỎ TỘI PHẠM CỦA THẤT BẠI “BIẾN PHÁP MẬU TUẤT” KHÔNG
Phần II. HẬU CUNG
ÁI PHI MUỘI HỶ CỦA VUA HẠ KIỆT CÓ PHẢI “GIÁN ĐIỆP” HAY KHÔNG
BÍ ẨN VỀ VIỆC NUÔI “NÔ TÀI TÌNH DỤC ” TRONG THÂM CUNG CỦA TRIỆU THÁI HẬU
BÍ ẨN VỀ CHUYỆN TƯ THÔNG CỦA LÃ HẬU VỚI THẨM THỰC KỲ
TẠI HẬU CUNG VÕ TẮC THIÊN CÓ BAO NHIÊU DIỆN THỦ
BÍ ẨN VỀ SỰ DÂM LOẠN CỦA THÁI BÌNH CÔNG CHÚA TẠI CHÙA CHIỀN
BÍ ẨN DƯƠNG QUÝ PHI KHÔNG ĐƯỢC LẬP LÀM HOÀNG HẬU
BÍ ẨN VỀ TƯ THÔNG GIỮA DƯƠNG QUÝ PHI VỚI AN LỘC SƠN TƯỚNG MẠO XẤU XÍ
RÚT CỤC THÌ AI ĐÃ GÂY RA “VỤ ĐÌNH KÍCH” BÍ ẨN VỀ VẠN QUÝ PHI ĐƯỢC YÊU CHIỀU LÂU DÀI HƯƠNG PHI CÓ PHẢI NGƯỜI THỰC
Ừ Ớ
TỪ HY ĐÃ LIÊN KẾT VỚI CUNG THÂN VƯƠNG NHƯ THẾ NÀO ĐỂ TRỪ KHỬ CỐ MỆNH ĐẠI THẦN
BÍ ẨN VỀ TRÂN PHI RƠI XUỐNG GIẾNG
BÍ ẨN VỀ “BA BÀ” TRONG HẬU CUNG CỔ ĐẠI TRUNG QUỐC
Phần III. CHÍNH GIỚI
BÍ MẬT VỀ NHỮNG LẦN DỜI ĐÔ CỦA NHÀ ÂN VÌ SAO CHU CÔNG KHÔNG THAY THẾ CHƯ THÀNH VƯƠNG TRỊ VÌ THIÊN HẠ
VÌ SAO THƯƠNG ƯỞNG BỊ “NGŨ MÃ PHÂN THÂY” VÌ SAO KINH KHA MƯU SÁT TẦN VƯƠNG KHÔNG THÀNH
BÍ MẬT VỀ VIỆC LÝ TƯ HÃM HẠI HÀN PHI
TRIỆU CAO LOẠN TẦN
VÌ SAO HẠNG VŨ KHÔNG CHỊU VƯỢT GIANG ĐÔNG “PHI TƯỚNG QUÂN” LÝ QUẢNG VÌ SAO KHÔNG ĐƯỢC PHONG HẦU
“BA LẦN MỜI GIA CÁT LƯỢNG ” LÀ THẬT HAY GIẢ VÌ SAO CHO ĐẾN KHI CHẾT TÀO THÁO VẪN KHÔNG LÊN NGÔI HOÀNG ĐẾ
CHÂN TƯỚNG CỦA VIỆC “LY MIÊU TRÁO THÁI TỬ” NHƯ THẾ NÀO
BÍ MẬT VỀ NGUYÊN NHÂN CÁI CHẾT CỦA NGƯỜI ANH HÙNG DÂN TỘC TRUNG HOA - NHẠC PHI
BÍ MẬT VỀ CÁI CHẾT CỦA VU KHIÊM
BÍ MẬT VỀ VIỆC GIA CÁT LƯỢNG LẤY VỢ
Phần IV. QUÂN SỰ
TRUNG QUỐC BẮT ĐẦU XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI TỪ KHI NÀO
VĂN QUAN VÕ TƯỚNG TRUNG QUỐC ĐƯỢC CHIA TỪ BAO GIỜ
HÁN CAO TỔ LÀM THẾ NÀO ĐỂ THOÁT ĐƯỢC KHỎI “VÒNG VÂY BẠCH ĐĂNG” ”
NỎ ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG CHIẾN TRANH THỜI CỔ ĐẠI ĐƯỢC PHÁT MINH NHƯ THẾ NÀO
Ả Ừ Ỉ Ậ
CÓ PHẢI BÀNG QUYÊN ĐÃ TỪNG CHỈ HUY TRẬN MÃ LĂNG
BÍ MẬT XUNG QUANH VIỆC LÝ LĂNG - ĐẠI TƯỚNG TÂY HÁN ĐẦU HÀNG QUÂN HUNG NÔ
BỨC MÀN BÍ MẬT VỀ THẤT BẠI CỦA TÀO THÁO TRONG TRẬN XÍCH BÍCH
GIA CÁT LƯỢNG GẠT LỆ CHÉM MÃ TỐC CÓ PHẢI CHỈ BỞI THẤT THỦ NHAI ĐÌNH
SỰ KIỆN LOẠN AN LỘC SƠN DO AI GÂY RA
KỴ BINH CỦA THÀNH CÁT TƯ HÃN LÀM THẾ NÀO CÓ THỂ TUNG HOÀNH KHẮP Á ÂU
MINH ANH TÔNG BỊ BẮT SỐNG NHƯ THẾ NÀO TẠI SAO QUÂN ĐỘI LÝ TỰ THÀNH KHÔNG CHỊU NỔI MỘT ĐÒN CỦA QUÂN THANH
TẠI SAO TRONG CHIẾN TRANH THUỐC PHIỆN LẦN THỨ NHẤT QUÂN THANH BỊ ĐÁNH BẠI KHÔNG CÒN MẢNH GIÁP
CÓ BAO NHIÊU TƯỚNG LĨNH CỦA THÁI BÌNH THIÊN QUỐC LƯU VONG HẢI NGOẠI
TRONG “CHIẾN TRANH GIÁP NGỌ” VÌ SAO QUÂN NHẬT LẠI TIẾN VÀO LỤC ĐỊA ĐƯỢC
Phần V. DANH NHÂN
“MỘNG SINH” HAY “DÃ HỢP” -BÍ MẬT VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA KHỔNG TỬ
TÂY THI CUỐI CÙNG TRỞ VỀ ĐÂU
CÓ HAY KHÔNG TUNG HOÀNH GIA QUỶ CỐC TỬ KHUẤT NGUYÊN VÌ SAO TRẪM MÌNH Ở SÔNG MỊCH LA CÓ HAY KHÔNG CHUYỆN NÀNG MẠNH KHƯƠNG KHÓC Ở TRƯỜNG THÀNH
CÁI CHẾT CỦA SỬ GIA TƯ MÃ THIÊN
XUẤT THÂN CỦA ĐIÊU THUYỀN - NGƯỜI PHỤ NỮ CÓ SẮC ĐẸP KHIẾN CHO "NGUYỆT THẸN"
SỐ PHẬN DANH KỸ BẮC TỐNG LÝ SƯ SƯ
ĐƯỜNG BÁ HỔ CHỌN THU HƯƠNG
CÁI CHẾT CỦA NHÀ THƠ VĨ ĐẠI LÝ BẠCH
Ậ Ả
CÔ GÁI BÍ MẬT MÀ TÀO THỰC TẢ TRONG LẠC THẦN PHÚ LÀ AI
LẠC TÂN VƯƠNG - NHÀ THƠ NỔI TIẾNG THỜI ĐƯỜNG LƯU LẠC NƠI ĐÂU
Phần VI. CHÍNH GIỚI
BÍ MẬT NƯỚC PHÉP CHỮA BỆNH CỦA ĐẠO THÁI BÌNH NHỮNG BÍ ẨN VỀ NGÀY ĐẦU DU NHẬP VÀO TRUNG QUỐC CỦA PHẬT GIÁO
BỒ ĐỀ ĐẠT MA CÓ TỪNG GẶP LƯƠNG VŨ ĐẾ HAY KHÔNG
TĂNG NHÂN ĐẠT MA CÓ PHẢI LÀ ÔNG TỔ CỦA QUYỀN PHÁP THIẾU LÂM
NHÀ SƯ HUYỀN TRANG ĐI TÂY THIÊN LẤY KINH NHƯ THẾ NÀO
ÁO CÀ SA MỘC MIÊN CỦA THIỀN TÔNG CÓ THẬT HAY KHÔNG
HẠT XÁ LỢI CỦA ĐỨC PHẬT RA ĐỜI NHƯ THẾ NÀO ĐÃ CÓ BAO NHIÊU NGƯỜI TỪNG ĐẾN TÂY THIÊN LẤY KINH
TẠI SAO CHUÔNG CHÙA PHẢI ĐÁNH 108 LƯỢT ĐẠO SỸ TRẦN ĐOÀN CÓ DỪNG HOA SƠN ĐÁNH CUỘC VỚI TỐNG THÁI TỔ HAY KHÔNG
TẠI SAO CÁCH XA VẠN DẶM THÀNH CÁT TƯ HÃN VẪN TRIỆU KIẾN KHÂU XỨ CƠ
PHẢI CHĂNG TRƯƠNG TAM PHONG LÀ ÔNG TỔ CỦA VÕ ĐANG QUYỀN
PHẬT GIÁO CÓ BAO NHIÊU VỊ LA HÁN
TẠI SAO MẬT TÔNG THỜ PHẬT HOAN HỶ
BÍ MẬT XUNG QUANH PHẬT SỐNG Ở TÂY TẠNG BÍ MẬT VỀ THI HÀI HOÀ THƯỢNG THẠCH ĐẦU CẢ NGÀN NĂM KHÔNG PHÂN HUỶ
HOÀNG ĐẾ NÀO LÀ NGƯỜI ĐẦU TIÊN PHONG THIỀN TRÊN NÚI THÁI SƠN
Phần VII. VĂN HÓA
BÍ MẬT VỀ SỰ KIỆN THÔNG HÔN GIỮA HAI ANH EM PHỤC HY VÀ NỮ OA
Ả
CÓ PHẢI HOÀNG ĐẾ PHÁT MINH RA BÓNG ĐÁ CHỮ HÁN HÌNH THÀNH NHƯ THẾ NÀO
CON GIÁP RA ĐỜI NHƯ THẾ NÀO
NHỮNG BÍ ẨN VỀ CHỮ GIÁP CỐT
BÍ ẨN XUNG QUANH HÀ ĐỒ VÀ LẠC THƯ
AI LÀ THUỶ TỔ CỦA HỘI HỌA TRUNG QUỐC TÔN TỬ BINH PHÁP CÓ PHẢI LÀ TÁC PHẨM CỦA TÔN VŨ
BÍ MẬT VỀ VIỆC KHỔNG TỬ VIẾT KINH XUÂN THU TẢ KHÂU MINH CÓ TỪNG VIẾT QUỐC NGỮ LÃ THỊ XUÂN THU RA ĐỜI TỪ BAO GIỜ
VÌ SAO CUNG A PHÒNG LẠI CÓ TÊN NHƯ VẬY NGỌC TỈ CỦA TẦN THUỶ HOÀNG THẤT LẠC NƠI ĐÂU NGƯỜI TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI SƯỞI ẤM NHƯ THẾ NÀO VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH DÀI BAO NHIÊU NHỮNG BÍ MẬT XUNG QUANH CHẾ ĐỘ ĐA THÊ CỦA TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
BÁT TRẬN ĐỒ CỦA GIA CÁT LƯỢNG BIẾN THÀNH THẾ TRẬN NHƯ THÊ NÀO
CHUYỆN TÌNH LƯƠNG SƠN BÁ -CHÚC ANH ĐÀI CÓ THẬT HAY KHÔNG
DI THƯ Ở ĐÔN HOÀNG VÌ SAO BỊ GIẤU KÍN BÍ MẬT XUNG QUANH SỰ RA ĐỜI BỨC TRANH “HÀN HI TẢI DẠ YẾN”
AI NGHĨ RA HỦ TỤC BÓ CHÂN PHỤ NỮ TRUNG HOA BÍ MẬT VỀ THIÊN THƯ XUẤT HIỆN THỜI VUA TỐNG CHÂN TÔNG
BÍ MẬT XUNG QUANH TÁC GIẢ CỦA MÃN GIANG HỒNG TẠI SAO TRONG QUẦN THỂ THẬP TAM LĂNG MƯỜI HAI LĂNG KHÔNG CÓ VĂN BIA
BẢN CHÍNH VĨNH LẠC ĐẠI ĐIỂN THẤT LẠC NƠI ĐÂU KỲ THƯ XUẤT KỲ NỮ - PHAN KIM LIÊN CÓ PHẢI LÀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ CÓ THẬT
TÁC GIẢ CỦA KIM BÌNH MAI LÀ AI
BÍ MẬT XUNG QUANH TÁC GIẢ TIỂU THUYẾT THUỶ HỬ Ữ
HAI CHỮ THANH MINH TRONG THANH MINH THƯỢNG HÀ ĐỒ CÓ Ý NGHĨA GÌ
BÍ MẬT XUNG QUANH TÁC GIẢ TÂY SƯƠNG KÍ BÍ MẬT VỀ VIỆC CÁC THÁI GIÁM TRUNG QUỐC CƯỚI VỢ
BÍ MẬT XUNG QUANH VIỆC CÀN LONG CHO SOẠN TỨ KHỐ TOÀN THƯ
TẠI SAO CỐ CUNG LẠI CÓ TÊN GỌI “TỬ CẤM THÀNH” Phần VIII. KHOA HỌC KỸ THUẬT
NGƯỜI TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI BIẾT MAY VÁ VÀ SỬ DỤNG DAO ĂN TỪ BAO GIỜ
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI CÓ CHỈ NAM XA HAY KHÔNG ÔNG TỔ NGHỀ NẤU RƯỢU CỦA TRUNG QUỐC LÀ AI THUẬT CHÂM CỨU CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI LỖ BAN VÀ CÔNG THÂU BÀN CÓ PHẢI LÀ MỘT NƯỚC CAM LỘ MÀ CÁC BẬC ĐẾ VƯƠNG XƯA NAY VẪN CẤT CÔNG TÌM KIẾM LÀ GÌ
THỜI CỔ ĐẠI, Ở TRUNG QUỐC ĐÃ TỪNG XUẤT HIỆN ĐĨA BAY
XÁC ƯỚP CỔ ĐỒI MÃ VƯƠNG TẠI SAO HƠN 2000 NĂM KHÔNG HỀ PHÂN HUỶ
CÓ PHẢI BÀN CHẢI ĐÁNH RĂNG DO NGƯỜI TRUNG QUỐC PHÁT MINH RA
MÁY DỰ BÁO ĐỘNG ĐẤT CỦA TRƯƠNG HÀNH VẬN HÀNH RA SAO
ÁO NGỌC CHỈ VÀNG CÓ THỂ LÀM TỬ THI KHÔNG PHÂN HUỶ
BÍ MẬT VÊ VIỆC GIA CÁT LƯỢNG CHẾ TẠO TRÂU GỖ, NGỰA MÁY
CÓ PHẢI HOA ĐÀ LÀ NGƯỜI ĐẦU TIÊN PHÁT MINH RA PHẪU THUẬT
LẦU NHẠC DƯƠNG DO AI XÂY DỰNG
ĐŨA BẠC CÓ THỰC SỰ THỬ ĐỘC HIỆU QUẢ
TÀU THUỶ CÓ PHẢI DO NGƯỜI TRUNG QUÔC PHÁT MINH RA
Những điều bí ẩn trong lịch sử Trung Quốc Trịnh Trung Hiểu - Nguyễn Thanh Hà (sưu tầm) Nhà xuất bản Thế Giới, 2010
Khổ: 15 x 22. Số trang: 403
Thực hiện ebook: hoi_ls
(www.e-thuvien.com)
Phần I
ĐẾ VƯƠNG
HOÀNG ĐẾ CÓ PHẢI LÀ NHÂN VẬT TRONG TRUYỀN THUYẾT KHÔNG?
Trong sách cổ có cách nói “Tam hoàng ngũ đế”, trong đó "ngũ đế" là chỉ Thái Cao phương đông, Viêm Đế phương nam, Thiếu Hạo phương tây, Chuyên Húc phương bắc và Hoàng Đế ở trung ương. Trong truyền thuyết, Hoàng Đế là tổ tiên của dân tộc Trung Hoa. Tuy nhiên, rút cục ông là người hay là thần? Vì sao được gọi là "Hoàng Đế"? Hiện nay vẫn có những ý kiến khác nhau, không thống nhất được.
Có học giả cho rằng, Hoàng Đế là thần sấm sét trong truyền thuyết thần thoại, về sau mới vươn lên thành Hoàng Đế ở trung ương. Tương truyền ông có bốn mặt, có thể cùng một lúc nhìn khắp bốn phía đông, tây, nam, bắc. Bất cứ nơi nào xảy ra việc gì, đều không lọt qua được mắt ông. Về sau, ông chiến thắng bốn thiên đế ở đông, tây, nam, bắc, xây dựng nên đất nước thần thánh của mình.
Chân dung Hoàng Đế
Liên minh bộ lạc thống nhất được xây dựng nên sau khi Hoàng Đế và Viêm Đế ngừng chiến giảng hoà, hai ông trở thành tổ tiên của dân tộc Trung Hoa. Bởi vậy, người Trung Quốc ngày nay tự xưng là "Con cháu Viêm Hoàng".
Lăng Hoàng Đế ở trên núi Hoàng Lăng Kiều, Thiểm Tây bây giờ, nơi đây tùng bách tốt tươi, phong cảnh rất đẹp
Chân dung Viêm Đế
Cũng có người cho rằng, Hoàng Đế là người thực, ông là một thủ lĩnh liên minh bộ lạc thời cuối xã hội nguyên thuỷ. Sách Sử ký, Ngủ đế bản kỷ
ghi chép: "Hoàng Đế, con trai của Thiếu Điển, họ Công Tôn, tên là Hiên Viên. Mới đẻ ra đã như thần, sơ sinh mà biết nói, bé tí đã thông hiểu mọi điều, lớn lên chút ít đã rất nhanh trí, trưởng thành thì rất thông minh. Thời Hiên Viên, họ Thần Nông thế suy yếu, chư hầu xâm lược lẫn nhau, bạo ngược với nhân dân, họ Thần Nông không chinh phạt được, thế là Hiên Viên đã chế tạo ra khí giới để chinh phạt những kẻ bạo ngược, chư hầu đều khâm phục."
Những lời ghi chép này dường như chứng tỏ Hoàng Đế là người có thực trong lịch sử, là người sáng lập, hình thành và phát triển dân tộc Trung Hoa. Vì vậy, nói ông là người là có lí hơn. Vậy thì, vì sao ông lại được gọi là “Hoàng Đế"?
Tương truyền rằng, trong năm thiên đế thì Hoàng Đế là thủ lĩnh trung ương quản lí bốn phương, lại vì chuyên quản đất đai, mà đất đai ở trung nguyên mầu vàng, nên có tên "Hoàng Đế". Các học giả cho rằng, điều đó đã phản ánh thời kì thượng cổ, người ta sùng bái đất màu vàng. Cổ sử coi ông là "Dĩ thổ đức vi vương" (coi đức của đất là vua). Người đời sau từ đó mà suy tôn mầu vàng, biến màu vàng thành một thứ tượng trưng của quyền lực và tôn quý. "Long bào", "Mã quái" mà đế vương các triều đã mặc đều mầu vàng, chính là sinh ra từ đó. ("Mã quái" là thứ áo ngắn mặc khi cưỡi ngựa)
Trong sách sử và truyền thuyết thần thoại Trung Quốc, đều có nhiều ghi chép về Hoàng Đế, nhưng vì niên đại xa xưa, rất nhiều ý kiến đã không thể nào khảo chứng được nữa. Tuy nhiên, Hoàng Đế là thuỷ tổ của dân tộc Trung Hoa lại là điều vô cùng chắc chắn.
VUA VŨ CÓ PHÁ BỎ CHẾ ĐỘ THIỀN NHƯỢNG KHÔNG?
Nghiêu là người thực hiện đầu tiên chế độ thiền nhượng trong lịch sử Trung Hoa. Cốc, cha của Nghiêu sau khi qua đời, truyền ngôi vua cho Chí, anh trai của Nghiêu, Chí lại truyền ngôi cho Nghiêu. Sau khi cầm quyền 50 năm, đã quyết định không truyền ngôi cho Đan Chu, con trai mình, mà nhường ngôi vua cho một người hiền đức. Đấy gọi là chế độ thiền nhượng.
Chân dung vua Hạ Vũ
Thuấn tiếp tục chế độ thiền nhượng của Nghiêu, chọn Vũ, một người hiền làm người kế tục mình, chứ không phải Cao Quân, con trai mình. Sau khi Thuấn qua đời, Vũ lên ngôi vua. Nhưng cách làm sau của Vũ, lại khác hẳn với Thuấn. Vũ để con trai mình là Khải kế thừa ngôi vua, chế độ thiền nhượng đã bị phá bỏ.
Lăng Đại Vũ
Vậy thì chế độ thiền nhượng có đúng là Vũ phá bỏ hay không? Đối với việc kế vị của Khải là tiếp tục làm theo chế độ thiền nhượng hay là đổi thành chế độ thế tập, ý kiến các học giả không nhất trí. Sách Mạnh Tử- Mỹ Chương ghi chép: " Ích đến phía nam Cơ Sơn để trốn tránh con của đế Vũ, người trong triều bái tâu trình kiện cáo, không đến với Ích mà đến với Khải, nói rằng: "Đây là con trai của vua ta", "Khải là người hiền đức, tôn kính thừa hưởng được đạo của vua Vũ. Ích chỉ là quan của vua Vũ. Ngày tháng giúp lập vua còn ngắn ngủi, đem lại phúc lợi cho dân chưa nhiều. Thuấn, Vũ, Ích khác nhau rất lớn, con trai vua Vũ hiền đức tài trí, là trời giành cho, đâu phải người làm được như vậy". Sử ký, Hạ bản kỷ ghi chép: "Vua Vũ lên ngôi, và Cao Dao tới chầu, liền tiến cử ông ta, và trao cho quyền hành. Cao Dao qua đời, phong cho con cháu Cao Dao ở đất Oanh, Lục, có người đất Hứa. Rồi lại tiến cử Ích làm quan nắm giữ quyền hành. Năm thứ 10, vua Vũ đi tuần thú phía đông, tới đất Cối Kê thì băng hà; giao thiên hạ cho Ích. Ba năm sau hết tang, Ích nhường ngôi vua cho Khải, con
trai vua Vũ, rồi lánh đi tới ở phía nam Cơ Sơn. Khải, con trai vua Vũ là người hiền đức, thiên hạ quy thuận. Vua Vũ băng hà, dẫu giao quyền cho Ích, Ích phò tá vua Vũ chưa lâu. Thiên hạ không hài lòng, cho nên chư hầu đều từ bỏ Ích và đi theo Khải, nói rằng: "Vua ta, là con trai vua Vũ!" Và thế là Khải liền lên ngôi thiên tử, đó là Hạ hậu đế Khải." Quan điểm của Tư Mã Thiên về cơ bản thừa nhận sách "Mạnh Tử”. Tổng hợp những ghi chép lịch sử này thì thấy, Nghiêu, Thuấn, Vũ đều đã thực hiện chế độ thiền nhượng, và Thuấn, Vũ, Ích đều lần lượt nhường cho Đan Chu con của Nghiêu, Thương Quân con của Thuấn, Khải con của Vũ, chỉ vì Thuấn, Vũ, Khải hiền tài, mới được chư hầu ủng hộ và lên ngôi vua. Do đó có thể thấy, thiền nhượng khi đó tuy là một chế độ, nhưng then chốt vẫn là ở người kế thừa hiền tài hay không hiền tài, có được lòng dân hay không.
Ngược lại với ý kiến này rất nhiều sách sử đều ghi chép: "Nghiêu Thuấn truyền cho người hiền tài, Vũ chỉ truyền cho con trai", "Nghiêu Thuấn đều truyền cho người hiền tài, tới Vũ thì đức suy yếu, không truyền cho người hiền tài mà truyền cho con trai." Cho dù có học giả đã biện luận giải thích, nói rằng:" Đan Chu phẩm hạnh không ra gì, con trai của Thuấn cũng thế, Vũ truyền cho con là Khải, vì Khải là người hiền tài". Nhưng căn cứ vào ý kiến của Trúc thư kỷ niên, Hàn phi tử, Chiến quốc sách thì quan điểm lại khác nhau. Trúc thư kỷ niên ghi chép: "Ích ở ngôi của Khải, Khải đã giết ích"; Sách Hàn phi tử, Ngoại trữ thuyết hữu hạ ghi: "Ngày xưa khi Vũ chết, đã truyền thiên hạ cho Ích, người của Khải đã giành lấy nên giết Ích mà lập Khải"; còn Chiến quốc sách, Yêu sách lại viết: "Vũ truyền cho Ích, và bổ nhiệm Khải làm quan vì cho rằng Khải không đủ tài năng cai trị thiên hạ, nên đã truyền cho Ích. Khải cùng bè đảng giết Ích cướp lấy thiên hạ". Tại đây không nói tới việc Khải vì hiền tài mà được chư hầu ủng hộ. Nhưng Khải đích thực dùng vũ lực giết Bá Ích. Ít lâu sau rất nhiều chư hầu đến đô thành Dương Địch triều bái, Khải đã tổ chức yến tiệc long trọng thịnh soạn tại Quân Đài khoản đãi họ, đó là "Yến tiệc Quân Đài" nổi tiếng trong lịch sử. Nội dung những sử liệu đã ghi chép này về cơ bản nhất trí
với sự thực đã trình bày mở đầu bài viết này.
Chân dung Nghiêu đế
Kỳ thực thì Vũ chẳng có gì đáng trách cả. Chế độ thiền nhượng là hình thái quá độ diễn biến kết cấu quyền lực cổ đại. Dân chủ trong quá trình thiền nhượng là vô cùng có hạn. Trong tình hình truyền thống dân chủ cũ vô cùng có hạn, thì ý kiến của thủ lĩnh những bộ lạc Tứ Nhạc thật sự có tác dụng đâu có quan trọng lắm, mà quyết định của Nghiêu, Thuấn, ý kiến cá nhân của thủ lĩnh liên minh bộ lạc là cực kì quan trọng. Những sự việc quan trọng thời đại bộ lạc, thị tộc ngày xưa do ban nghị sự và đại hội dân chủ tập thể thảo luận quyết định, thủ lĩnh là do những người có quyền bầu cử bầu ra, thể hiện được ý chí dân chúng. Việc thực thi thiền nhượng chẳng qua chỉ là khoác cái vỏ ngoài truyền thống dân chủ trên ý chí cá nhân của thủ lĩnh bộ lạc mà thôi. Nếu không phải là tiến cử của thủ lĩnh bộ lạc Tứ Nhạc và ý chí cá nhân của Nghiêu, mà bầu cử như thời đại thị tộc, thì Thuấn dứt khoát không thể trúng cử. Còn vào thời đại Vũ, kết cấu quyền lực xã hội đã có thay đổi rất lớn, ý kiến của thủ lĩnh bộ lạc đặc biệt quan trọng. Nguyên nhân quan trọng nhất là: Chế độ thế tập đã được đại đa số chấp nhận, nguyên nhân chủ yếu của thất bại đấu tranh quyền lực giữa Bá Ích
và Khải là thủ lĩnh bộ lạc đã bắt đầu chấp nhận chế độ thế tập, dẫu Khải cũng chẳng có tài đức hơn Đan Chu, Thương Quân, nhưng ông ta cuối cùng đã thắng.
MỐI TÌNH BÍ ẨN GIỮA CHU MỤC VƯƠNG VÀ TÂY VƯƠNG MẪU
Đế vương cổ đại Trung Quốc khi đang tại vị đều có thời gian định kì đi "tuần thú" một lần các nơi trong cả nước. Thời Tây Chu, Chu Mục Vương cũng đã đi tuần thú thiên hạ. Chu Mục Vương họ Cơ, tên là Mân. Việc tuần thú của ông cực kì lãng mạn, vừa thật vừa ảo mang nhiều màu sắc thần bí.
Chân dung Chu Mục Vương
Truyện thiên tủ Mục chủ yếu kể lại chuyến đi sang phía tây rất lí thú của Chu Mục Vương. Chuyện xảy ra vào năm Chu Mục Vương thứ mười ba; khi ấy ông đích thân thống lĩnh bẩy đoàn tướng sĩ, ngồi xe tám ngựa, có Bách Thiên mở đường, Tạo Phụ đánh xe, hành trình trên vạn dặm, bắt đầu chuyến tuần du sang phía tây với mục đích khai thác miền bắc và miền tây.
Trên đường đi, ông đã gặp nhiều nhân vật ly kỳ cổ quái, trải qua nhiều chuyện thú vị tuyệt diệu. Trong đó, mối tình giữa ông và Tây Vương Mẫu
huyền ảo thực hư khó lường, tới nay vẫn có người nghiên cứu tìm hiểu. Trên đường tuần du, ông đi qua núi Dương Vu, núi Côn Sơn, cuối cùng tới Pamia, đất nước của Tây Vương Mẫu, gặp Tây Vương Mẫu, và đã xuất hiện chuyện tình yêu buồn thương da diết triền miên.
Chuyện tình cực kỳ lãng mạn của vua chúa hai nước này, được đời sau coi là giai thoại truyền tụng mãi tới nay.
Về chuyện tình ly kỳ này, đã có người tiến hành khảo chứng và tưởng tượng suy đoán, cho rằng đó là sự thực, nên tăng thêm không ít những điều bí ẩn mới cho người đời.
Theo ghi chép của Chuyện Mục thiên sử, Mục Vương đã tây du, gặp Tây Vương Mẫu, quên mất đường về, sau nghe tin trong nước có kẻ làm phản, đã lấy trộm ngựa quý Tây Vực, và đi suốt ngày đêm trở về, dẹp xong phản loạn, Mục Vương đã có tám con tuấn mã, đi chu du khắp thiên hạ.
Thứ nhất, nói về giao thông, Chu Mục Vương đưa một đoàn quân khổng lồ vượt qua sa mạc Gôbi, vượt vùng đất hoang Thanh Hải, núi tuyết sông băng, đến Tân Cương chẳng có mấy dấu chân người, hầu như hoàn toàn không thể làm được. Một học giả đương đại khi nói tới sách đọc Hồng hy tuyên hiệu Truyện Mục thiên tử, đã phát hiện sông núi, xóm làng đã ghi trong sách đều có thể tra cứu thấy cả, và cũng phát hiện sách Thuỷ kinh chú của Lịch Đạo Nguyên, đã căn cứ vào sông núi sách này chú thích, thì thấy hoàn toàn có đầy đủ không sai tí nào! Thật sự khiến người ta kinh ngạc.
Thứ hai, xét về quan hệ dân tộc. Thời Tây Chu kẻ thù mạnh ở Tây Bắc thường xuyên đến vùng Trung Nguyên quấy nhiễu, lực lượng và uy danh của Chu Mục Vương không thể bảo đảm được an toàn cho việc tây du. Nhưng, cũng có một học giả cho rằng, thuỷ tổ tộc Chu vốn là cư dân biên cảnh phía tây Tân Cương, Mục Vương du hành sang phía tây, vốn dĩ là để hành hương về nơi phát tích tộc Chu, chính là quê hương tổ tiên ông. Còn một học giả cho rằng, Tây Vương Mẫu là con gái Mục Vương, đi xe vạn
dặm khai hoang, tới Pamia để tiến hành sự nghiệp thực dân của Chu Mục vương, Mục Vương đi sang phía tây, là để thăm con gái, và thị sát biên giới phía tây. Theo khảo chứng của ông ta, trước khi vùng này bị sa mạc hoá, khi Mục Vương đi sang phía tây, nơi đây vốn có một con đường nối đông tây thông thoáng, xe qua lại dễ dàng.
Tranh trên đá vẽ Tây vương Mẫu Hán
Thứ ba, theo những sách cổ đại, theo Sử ký - Chu bản kỷ của Tư Mã Thiên, thì không có một chữ nào nói về việc Mục Vương tây du cả, cho rằng đây chỉ là lời đồn đại, không phải sự thực lịch sử. Những học giả cho rằng có chuyện thực này lại tìm ra được rất nhiều chứng cứ xác thực. Một là, sách Tấn thư, Vũ bản kỷ ghi chép, năm Hàm Ninh thứ năm (năm 270 CN) "Bất Chuẩn, người huyện Cấp, kẻ trộm đào mộ Nguỵ Tương Vương, lấy được thẻ tre sách cổ chữ tiểu triện, hơn 10 vạn chữ, giấu kín trong nhà". Tấn Vũ để Tư Mã Viêm đã cử mấy học giả tài giỏi đến đó chỉnh lí, viết thành sách tất cả có 16 loại, 25 cuốn. Truyện Mục thiên tử là một trong số đó. Hơn nữa, theo luật lệ thời đó, chẳng có ai làm chuyện dại dột là nguỵ tạo sách cổ như vậy. Hai là, xét về nội dung sách, thì thời gian, địa điểm, sự kiện ghi chép trong Truyện Mục thiên tử, đều có ghi số rõ ràng, kiểu như nhật kí. Sách Tuỳ thư, Kinh tịch chí, sách Tân Đường thư - Nghệ văn chí đều xếp Truyện Mục thiên tử vào bộ sử Khởi cư trú môn, sách Tống sử- Nghệ văn chí xếp sách này vào Biệt sử, sách Sùng văn tổng mục
triều Minh, xếp sách này vào loại truyện kí. Do đó thấy được, tính chân thực của sách không còn gì để nghi ngờ. Ba là, từ chứng cứ phụ cho biết, trong sách Tả truyện, Chiêu công thập nhị niên,trình bầy sự việc nghiêm túc trong các sách Tiên Tần ghi chép, "Ngày xưa Mục Vương thích vui chơi thoải mái, chu du khắp thiên hạ, dễ chỗ nào cũng có dấu vết xe ông đi qua", đến nỗi đại thần của ông "Tế công mưu phụ, làm bài thơ "Kỳ chiêu", để ngăn chặn ý thích của ông ta". Từ đó, những chuyến đi xa của Chu Mục Vương mới dừng lại. Từ đó có thể thấy, "Đi chu du thiên hạ" là sự thực, nhưng đã bị đại thần phản đối.
Trong lịch sử liệu có chuyện yêu đương giữa Chu Mục Công và Tây Vương Mẩu thật hay không, đành phải chờ phát hiện mới của khảo cổ sau này chứng minh, tìm ra bí ẩn.
VIỆT VƯƠNG CÂU TIỄN CÓ NẰM GAI NẾM MẬT THẬT KHÔNG?
Câu chuyện lịch sử Việt Vương Câu Tiễn nằm gai nếm mật nhiều người đã biết. Câu chuyện lịch sử này kể rằng: Trong một cuộc chiến tranh thời kì Xuân Thu, nước Ngô đánh bại nước Việt, quân Ngô bao vây Việt Vương Câu Tiễn ở núi Cối Kê, khiến cho Việt Vương phải nhẫn nhục cầu hoà trong tình trạng hết đường xoay xở. Từ đó về sau, nước Việt trở thành nước bầy tôi của nước Ngô, bị nước Ngô khống chế. Việt Vương Câu Tiễn chẳng khác gì nô tì phục dịch ba năm trong cung nước Ngô, về sau vua Ngô đã miễn tội cho Câu Tiễn, cho ông ta về nước. Để không quên nỗi đau mất nước, và báo thù rửa hận, Câu Tiễn treo từ nóc nhà xuống một chiếc mật đắng, cho dù đi ra hay đi vào, ngồi hay đứng, ngay cả lúc ăn lúc ngủ, cũng phải nếm một chút vị đắng của mật để khích lệ ý chí đấu tranh của bản thân. Ông ta còn bỏ cả không dùng giường, không chăn không đệm, mệt mỏi thì ngủ ngay trên "giường" toàn là củi chất đống, lấy đó để rèn luyện gân cốt.
Chân dung Phạm Lãi - Danh thần phò tá Câu Tiễn phục quốc rửa hận
Nước Việt cuối cùng đã diệt được nước Ngô, vì Câu Tiễn đã được tôi luyện hơn mười năm như vậy và thực hiện nhiều biện pháp có hiệu quả đắc lực.
Nhưng Việt Vương Câu Tiễn trong lịch sử có đúng đã dùng hai biện pháp nằm trên gai và nếm mật để kích thích khuyến khích và nhắc nhở bản thân hay không? Trước tiên phải đọc sách lịch sử cổ, Tả truyện và Quốc sách viết thành sách có niên đại khá sớm, đồng thời sự thực lịch sử ghi chép trong đó rất đáng tin cậy, vì thế có giá trị tham khảo khá tốt. Nhưng hai cuốn sách lịch sử này, dù là quyển nào, khi kể về cuộc đời Câu Tiễn, căn bản đều không ghi chép hành vi nằm gai nếm mật của Việt Vương Câu Tiễn. Ngoài ra, trong Việt Vương Câu Tiễn thế gia của Sử ký, Tư Mã Thiên nói: "Nước Ngô thù địch của nước Việt, Việt Vương Câu Tiễn về nước, đã khổ công rèn luyện nóng lòng suy nghĩ, để túi mật bên chỗ ngồi, ngồi nằm đối mặt nhìn túi mật, ăn uống gì cũng nếm mật''. Trong đó, không viết Việt Vương Câu Tiễn nằm trên củi. Thời kì Đông Hán, Viên Khang, Ngô Bình đã viết sách Việt tuyệt thư, Triệu Hoa viết sách Ngô Việt xuân thu, hai cuốn sách này tuy chuyên ghi chép lịch sử hai nước Ngô, Việt thời xuân thu, nhưng cả hai quyển chỉ lấy lịch sử Tiên Tần làm cơ sở, cộng với sự tưởng
tượng của các nhà viết tiểu thuyết. Nằm gai, nếm mật trong Việt tuyệt thư đều không nói tới. Câu Tiễn quy quốc ngoại truyện trong Ngô Việt xưân thu, cũng chỉ nói "Việt Vương Câu Tiễn treo một túi mật bên ngoài nhà, ra vào đều nếm, không bao giờ quên", căn bản không nói tới việc nằm gai. Do đó có thể thấy trong Sử kí thời Tây Hán, xuẫt hiện sớm nhất chuyện Việt Vương nếm mật, mà trong sử liệu thời kì Đông Hán vẫn chưa xuất hiện chuyện nằm gai.
Có người khảo chứng trong Nghĩ Tôn Quyền đáp Tào Tháo thư của Tô Thức viết vào thời Bắc Tống, "Nằm gai nếm mật" lần đầu tiên được sử dụng là một thành ngữ. Nhưng Tô Thức khởi thảo lá thư này đã mang tính vui đùa khá nhiều, nội dung trong thư chẳng liên quan gì đến Câu Tiễn, mà cho rằng Tôn Quyền vào lúc Tam quốc chia đều thiên hạ, đã từng "Nằm gai nếm mật". Thời kì Nam Tống Lã Tổ Khiêm trong "Tả thị truyền thuyết" đã từng nói tới chuyện "Nằm gai nếm mật", nhưng lại nói là Ngô Vương. Đời Minh, Trương Phổ trong sách Xuân Thu liệt Quốc luận cũng nói: "Vua Ngô lên ngôi, nằm gai nếm mật". Sau đó, trong hai quyển Tả truyện sự vĩ và Dịch sử, đều nói là Ngô Vương Phù Sai nằm gai nếm mật. Cùng với việc đó, Chân Đức Tú thời Nam Tống trong bài "Mậu thìn tứ nguyệt thượng điệu tấu trát", Hoàng Chấn trong hai cuốn sách Cổ kim kỷ yếu và Hoàng thị nhật sao lại nói là Việt Vương Câu Tiễn nằm gai nếm mật.
Tuy nhiên, tới Tô Thức Bắc Tống sau khi đã nêu ra từ "Nằm gai nếm mật", rút cuộc là Phù Sai hay Câu Tiễn đã làm việc này, từ Nam Tống cho đến nhà Minh đều chưa có kết luận. Những năm cuối triều Minh, trong kịch bản truyền kì "Hoản sa kí", Lương Thần Ngư đã tô vẽ rất nhiều cho hai việc Việt Vương Câu Tiễn đã nằm gai và nếm mật. Ngô Thừa Quyền đầu đời Thanh đã viết trong sách Cương giám dị tri lục: “Câu Tiễn trở về nước, đã lao tâm khổ tứ suy nghĩ rất nhiều, nằm gai nếm mật”. Sau đó Phùng Mộng Long, nhà văn cuối đời Minh trong cuốn tiểu thuyết lịch sử in khắc Đông Chu liệt quốc chí cũng đã nhiều lần nêu ra chuyện Câu Tiễn nằm gai nếm mật. Tới tận bây giờ, chuyện Việt Vương Câu Tiễn nằm gai
nếm mật mới lưu truyền rộng rãi. Nhưng tính chân thực của nó lại còn cần phải khảo chứng.
Lại có một số học giả cho rằng, ngay vào thời Đông Hán, trong Câu Tiễn quy quốc ngoại truyện của sách Ngô Việt Xuân Thu, đã có ghi chép việc "nằm gai" của Việt Vương Câu Tiễn. Truyện này nói rằng, Việt Vương Câu Tiễn khi ấy "Khổ công suy nghĩ ngày đêm, dụng liễu công chi dĩ mục ngoạ". Liễu, Mã Thuỵ Thìn đời nhà Minh giải thích là rau đắng. Liễu tân, ý là nói loại rau đắng liễu này tích tụ lại nhiều. Câu Tiễn chuẩn bị nhiều rau đắng nhất định là dùng để tôi luyện ý chí. "Công chi dĩ liễu" cũng có thể nói là "Công chi dĩ liễu lâu". Như vậy, ý lời nói trong Ngô Việt xuân thu đã rất rõ ràng: Khi ấy Câu Tiễn ngày đêm lo toan vất vả, mắt rất mỏi, chỉ muốn ngủ, tức là "mục ngoạ", nhưng ông ta dùng "liễu tân" để kích thích bản thân, mong có thể nhẫn nại khắc phục, tránh buồn ngủ. Nằm gai, nếm mật là nói để thị giác và vị giác cảm thấy khổ đắng. Người sau lại nói "nằm gai" thành ra ngủ trên củi cứng, đã hiểu sai ý của "Ngô Việt xuân thu", vì "ngoạ tân" là mắt đã bị dày vò hành hạ, chứ không phải thân mình bị dày vò hành hạ. Kết luận của ý kiến này là: Câu Tiễn thật sự đã có hành động nếm mật để chống buồn ngủ, cho dù người đời sau đã hiểu sai ý của từ ngữ này.
Hình vẽ Câu Tiễn nằm gai nếm mật
Nếu bảo chuyện nằm gai nếm mật này là thật, thì tại sao trong lịch sử
lại ghi chép muộn đến như vậy? Nếu nói là giả, thì sao truyện lại lưu truyền rộng rãi trong dân gian, hai ý kiến này đều có căn cứ cả. Vì vậy, nó lại trở thành một bí ẩn chưa được làm rõ trong lịch sử Trung Quốc.
ĐẦU CƠ HÀNG QUÝ - BÍ ẨN THÂN THẾ TẦN THUỶ HOÀNG
Chân dung Tần Thuỷ Hoàng
Tần Thuỷ Hoàng Doanh Chính là vị hoàng đế đầu tiên thanh thế lẫy lừng nhất thời đại chuyên chế mấy nghìn năm của Trung Quốc. Vua chúa phi tần, vương tôn công chúa, hoàng thân quốc thích của sáu nước chư hầu, đều xin làm bầy tôi trước Tần. Tuy vậy, Tần Thuỷ Hoàng ngạo mạn trước thiên hạ, nhưng trong lòng lại vô cùng yếu đuối, ông ta suốt đời che đậy thân thế của mình.
Tần Thuỷ Hoàng kế vị Tần Trang Tương Vương (Tử Sở), lên ngôi vua với thân phận thái tử. Triệu Cơ, mẹ Tần Thuỷ Hoàng, nghe nói đã từng là ái thiếp của Lã Bất Vi, đã được dâng cho Tử Sở, được phong làm vương hậu. Vậy Tần Thuỷ Hoàng chính xác là con của Tử Sở, hay là con của Lã Bất Vi, người đời sau vẫn tranh luận với nhau mãi.
Trong Sử ký ghi Lã Bất Vi, thừa tướng nước Tần, là một người rất giàu ở Bộc Dương, Hà Nam, là thương gia lớn nổi tiếng gần xa. Nhưng ông ta không thoả mãn với địa vị và cuộc sống lắm của nhiều tiền này, mà vô cùng thèm muốn vương quyền thiên hạ.
Vì thế Lã Bất Vi chuẩn bị hành trang, tới Hàm Đan, quốc đô nước Triệu, dầy công tính toán kế hoạch thực hiện một âm mưu lớn, kết thân với Dị Nhân cháu của vua Tần đang làm con tin ở nước Triệu, tìm cách đem con mình cho phu nhân Hoa Dương đang được sủng ái, chẳng bao lâu sau, Dị Nhân được lập làm thừa tự, đổi tên là Tử Sở.
Ít lâu sau đó, việc nước có biến cố, Tần Chiêu Vương, Hiến Văn Vương liên tiếp qua đời, Tử Sở đàng hoàng lên ngôi vua, Lã Bất Vi được phong làm thừa tướng. Sau đó, Lã Bất Vi dâng cho Tử Sở người thiếp yêu quý của mình là Triệu Cơ, Triệu Cơ sinh được Doanh Chính, bà này được phong làm hoàng hậu, không ngờ Tử Sở chỉ làm vua được ba năm đã qua đời, con trai ông ta, Doanh Chính đường đường chính chính kế thừa ngôi vua, đó là Tần Thuỷ Hoàng.
Lã Bất Vi cho rằng Doanh Chính là con đích thực của mình, đòi Doanh Chính gọi mình là "trọng phụ", bản thân thì nắm giữ chính sự toàn quốc, trở thành một nhân vật lớn, dưới một người, trên cả muôn người, quyền thế áp đảo trong triều ngoài nội, một tay che cả trời, mưu kế bí mật tại Hàm Đan của Lã Bất Vi đã được thực hiện.
Chân dung Lã Bất Vi
Ý kiến cho rằng Lã Bất Vi có quan hệ cha con với Tần Thuỷ Hoàng, có nguyên nhân là:
Thứ nhất, như vậy có thể chứng tỏ Tần Thuỷ Hoàng không phải dòng dõi chính thống của vương thất nhà Tần, những người chống lại Tần Thuỷ Hoàng tìm được lí do làm phản rất tốt.
Thứ hai, là một sách lược đấu tranh chính trị Lã Bất Vi đã sử dụng để chiến thắng Trường Tín hầu Lao Ái, mưu đồ dùng tình thân cha con, giành lấy sự ủng hộ nâng đỡ của Tần Thuỷ Hoàng, tăng cường lực lượng đấu tranh của bản thân.
Thứ ba, trả được môi thù Tần đã tiêu diệt sáu nước. Lã Bất Vi, người của "lục quốc" chẳng cần một người lính nào, chỉ vận dụng mưu kế, đưa con trai của mình lên ngôi vua nước Tần, giành lấy giang sơn, vì thế đã trả được mối thù mất nước.
Thứ tư, tư liệu từ sau nhà Hán phần lớn cho rằng Doanh Chính là con Lã Bất Vi, như vậy là tìm được căn cứ lịch sử nhà Hán thay thế nhà Tần, lôgích của họ là, nội cung vua Tần bẩn thỉu như vậy, làm sao cai trị được một quốc gia, vì vậy nhà Tần bị diệt vong nhanh chóng là điều tất nhiên.
Người đời sau cũng có người cho rằng truyền thuyết trên không thể tin được.
Thứ nhất, về phía Tử Sở, cho dù có âm mưu của Lã Bất Vi, nhưng khả năng thực hiện cũng rất viển vông. Vì Tần Chiêu Vương khi đang làm vua, vị tất đã nhất định truyền ngôi cho Tử Sở, càng không thể nghĩ tới đứa con sau này của Tử Sở.
Thứ hai, xem xét về ngày tháng năm sinh của Tần Thuỷ Hoàng, giả dụ Triệu Cơ đã mang thai trước khi vào cung vua, thì Tần Thuỷ Hoàng nhất định sẽ không sinh ra đúng kì, Tử Sở không thể không biết việc này. Có thể thấy, cha đẻ của Tần Thuỷ Hoàng phải là Tử Sở, chứ không phải Lã Bất Vi.
Thứ ba, xem xét xuất thân của Triệu Cơ, cũng rất có vấn đề. Sử kí. Tần
Thuỷ Hoàng bản kỷ ghi chép, sau khi Tần diệt Triệu, vua Tần đích thân tới Hàm Đan, giết sạch những người có thù oán với nhà mẹ vua Tần. Triệu Cơ xuất thân quý tộc, cô ta làm sao lại có thể làm thiếp của Lã Bất Vi trước đó, rồi lại dâng cho Dị Nhân để làm vợ được? Vậy là không thể có được chuyện Triệu Cơ trong bụng đã có đứa con của Lã Bất Vi, rồi mới gả cho Dị Nhân được.
Bí ẩn của thân thế cũng chỉ để cho người đời sau suy đoán, còn thành ngữ "đầu cơ hàng quý" lại được lưu truyền trong đời từ chuyện này.
BÍ ẨN “ĐỐT SÁCH CHÔN NHO SĨ” CỦA TẦN THUỶ HOÀNG
Khe núi chôn nho sĩ.
Khe núi chôn nho sĩ là nơi Tần Thuỷ Hoàng đàn áp người bất đồng chính kiến, tại làng Đồng Khánh, xã Hàn Cốc khu Lâm Đồng thành phố Tây An
Di chỉ tường Lỗ Khúc Phụ Sơn Đông.
Năm 213 trước CN, khi Tần Thuỷ Hoàng đốt sách, Khổng Phụ cháu chín đời của Khổng Tử giấu sách của Khổng Tử vào trong tường nhà họ Khổng, nên đã giữ lại được khá nhiều văn bản quý báu
Nói đến Tần Thuỷ Hoàng, mọi người đều nghĩ tới điển cố “Đốt sách chôn nho sĩ", nhưng rút cục thì Tần Thuỷ Hoàng có "Chôn nho sĩ" thật hay không?
Tần Thuỷ Hoàng sau khi thống nhất sáu nước, đã áp dụng một loạt
biện pháp để tăng cường tập trung quyền lực về trung ương. Sau khi hoàn thành nhiều biện pháp tăng cường kiểm soát về chính trị, Tần Thuỷ Hoàng bắt đầu kiểm soát khống chế về tinh thần. Năm 213 trước CN, Tần Thuỷ Hoàng tổ chức một bữa tiệc lớn cho quần thần và rất nhiều nho sĩ tại cung Hàm Dương. Trong bữa tiệc, xoay quanh việc có thực hiện chế độ phân phong hay không, giữa các nho sĩ nổ ra một cuộc tranh luận gay gắt. Đám thừa tướng Vương Quán, tiến sĩ Thuần Vu Việt chủ trương thực hiện chế độ phong kiến, còn nhóm thừa tướng Lý Tư thì tán đồng chế độ quận huyện, và đã chỉ trích đám Thuần Vu Khôn "không theo ngày nay mà lại học theo cổ", "theo cổ để hại ngày nay". Cuối cùng Tần Thuỷ Hoàng ủng hộ quan điểm của Lý Tư, thực thi đề nghị "đốt sách" của Lý Tư, và hạ lệnh: Trừ Tần Kỷ (sách sử nước Tần), sách y dược, bốc phệ (bói toán), sách nông nghiệp và "Thi", "Thư", Bách gia ngữ mà tiến sĩ quốc gia đã lưu giữ ra, thì tất cả những tác phẩm Nho gia, tác phẩm Bách gia chư tử và các sách khác mà kho sách các nước, tư nhân đã lưu giữ, đều nộp tuốt tuột cho các quan để đốt huỷ. Đồng thời, cấm nói tới "Thi", "Thư" và "lấy cổ bác kim", những người vi phạm phải bị nghiêm trị, thậm chí bị tội chết. Dân trăm họ nếu muốn học pháp lệnh, thì lấy các quan làm thầy để học. Theo quan điểm này, thì khẳng định là Tần Thuỷ Hoàng đã đốt sách.
Tần Thuỷ Hoàng sau khi xưng đế, mong muốn trường sinh bất tử, mê say đạo tiên, bỏ ra nhiều tiền của, lần lượt cử bọn Từ Phúc, Hàn Chủng, Hầu Sinh, Lô Sinh đi tìm thuốc tiên. Hầu Sinh và Lô Sinh khi ấy là thuật sĩ của Tần Thuỷ Hoàng, do đã nhiều lần đi tìm tiên và thuốc tiên cho Tần Thuỷ Hoàng mà không tìm được, trong lòng như có lửa đốt, thấp thỏm sợ hãi. Theo pháp luật nước Tần, không tìm được thuốc tiên sẽ bị xử tử. Vì thế họ vô cùng lo lắng than thở: "Một kẻ dựa vào hung tàn bạo ngược tạo dựng uy thế và tham lam quyền lực thế này, chẳng đáng để tìm thuốc tiên cho hắn." Và rồi Hầu Sinh, Lô Sinh lẳng lặng trốn đi.
Việc này làm cho Tần Thuỷ Hoàng vô cùng tức giận, ông ta ra lệnh, thẩm tra tin tức của tất cả thuật sĩ ở Hàm Dương, muốn tìm ra Hầu Sinh,
Lô Sinh phao tin nhảm nhí mê hoặc dân chúng. Các thuật sĩ vì phải giữ mạng sống của mình, đành phải tố giác lẫn nhau, cuối cùng Tần Thuỷ Hoàng định tội hơn 400 người, và đào hố chôn sống họ ở Hàm Dương.
Tần Thuỷ Hoàng chôn "nho sĩ" ngay sau khi "đốt sách", còn như người bị chôn sống rút cục là thuật sĩ hay là nho sĩ, giới học thuật có ý kiến khác nhau. Phân tích từ nguyên nhân sự kiện "chôn sống nho sĩ", thì thấy những người Tần Thuỷ Hoàng chôn sống phải là thuật sĩ; nhưng xem xét từ lời tâm can của Phù Tô, con trưởng Tần Thuỷ Hoàng "Tất cả nho sĩ đều học học thuyết của Khổng Tử", thì những người Tần Thuỷ Hoàng chôn sống lại hình như là nho sĩ.
Và theo ghi chép trong bài Chiếu định cổ văn quan thư tự của Vệ Hoằng thời Đông Hán, thì Tần Thuỷ Hoàng cho đào hố tại Ôn Cốc, Lý Sơn để trồng dưa, lấy lí do hiện tượng kì lạ dưa chín vào mùa đông, dụ dỗ các tiến sĩ nho sinh tụ tập đến Lý Sơn để xem. Khi các nho sĩ tranh luận sôi nổi, mỗi người một ý kiến, Tần Thuỷ Hoàng lợi dụng cơ hội đó, hạ mật lệnh san đất đổ xuống giết họ, hơn 700 nho sĩ đều bị chôn sống tất cả tại kẽm núi Lý Sơn này. Thế là có người đã căn cứ vào đây mà đứng về phía ý kiến truyền thống, cho rằng Tần Thuỷ Hoàng thực sự đã có hành vi "chôn nho sĩ".
Nhưng có người nghiên cứu các sách sử, cho rằng "đốt sách" thì có, "chôn nho sĩ" thì không, thực sự chỉ là "sự nhầm lẫn" của "chôn thuật sĩ". Việc "chôn thuật sĩ" là vào năm Thuỷ Hoàng thứ 35, vì Hầu Sinh, Lô Sinh không tìm được thuốc tiên, họ sợ "pháp luật nước Tần không khoan dung, không được việc sẽ bị tội chết", chửi rủa Tần Thuỷ Hoàng một hồi rồi bỏ trốn. Sự việc đã do thuật sĩ gây ra, thì chỉ có thể là "chôn thuật sĩ", dĩ nhiên không thể nói trong số hơn 400 người bị giết, không có nho sĩ, mà toàn là thuật sĩ, nhưng từ nhân vật đại diện của họ mà suy ra, thì chủ thể bị giết phải là thuật sĩ, và nguyên nhân bị giết không liên quan gì với chủ trương chính trị và quan điểm học phái của nho gia. Bởi vậy cho dù người bị giết có nho sĩ, cũng không phải vì họ là nho sĩ mà đắc tội, mà là vì có liên luỵ
nào đó với đám thuật sĩ. Vì thế chẳng có lí do gì nói rằng Tần Thuỷ Hoàng "Chôn nho sĩ". Dù cho Tần Thuy Hoàng vì hành vi "Chôn nho sĩ mang tội danh bị nguyền rủa muôn đời, và cho tới bây giờ, Tần Thuỷ Hoàng rút cục có "chôn nho sĩ hay không", thì điều bí ẩn này vẫn chưa được giải đáp.
Tranh vẽ Tần Thuỷ Hoàng đốt sách chôn nho sĩ.
Bức tranh lụa này hiện ra trước chúng ta tình hình Tần Thuỷ Hoàng đốt sách chôn nho sĩ năm nào. Trong tranh trên triều đường Tần Thuỷ Hoàng ngồi oai nghiêm chễm trệ, đám hủ nho run rẩy sợ hãi xin tha mạng ở dưới, ngoài triều đường có nhiêu nho sĩ bị trói, hoặc bị giết ném vào hố, hoặc bị giải tới bên hố.
CÓ PHẢI HÁN THÀNH ĐẾ CHẾT VÌ BUÔNG THẢ TÌNH DỤC KHÔNG?
Hán Thành Đế là một ông vua hèn kém bất tài thời kì giữa sau nhà Tây Hán, về đóng góp chính trị ông chẳng có gì đáng nói, nhưng vì hoàng hậu Triệu Phi Yến ông đã khiến cho nhiều người phải chú ý, nhất là cái chết của ông thật sự phức tạp khó hiểu, trở thành một bí ẩn không thể hiểu được trong lịch sử. Thời kì cuối nhà Tây Hán, ngoại thích chuyên quyền, triều chính thối nát, mâu thuẫn xã hội cực kì gay gắt, nhưng Hán Thành Đế yếu kém bất tài, bỏ bê triều chính, chìm đắm vào hưởng lạc.
Chân dung Triệu Phi Yến
Người được ông ta sủng ái nhất là Triệu Phi Yến, những ngày mùa thu mát mẻ, Hán Thành Đế luôn cùng Triệu Phi Yến vui chơi đùa giỡn trên hồ Thái Dịch. Hai người ngồi trên thuyền vuông làm bằng gỗ sa thường, hát bài ca cây sen, hái hoa sen, luồn lách qua lại trên hồ nước xanh biếc như ngọc. Vì Triệu Phi Yến rất mảnh mai, liễu yếu đào tơ, mỗi khi có gió thổi tới, thường dễ ngã xuông hồ, Hán Thành Đế lấy dải tua xanh buộc vào
xiêm áo của Phi Yến, và lệnh cho vệ sĩ buộc dây vàng vào thuyền làm dây cáp. Ông bất chấp phản đối của đại thần, phong cho Phi Yến xuất thân nghèo hèn làm hoàng hậu. Triệu Hợp Đức, em gái Triệu Phi Yến, dung nhan cực kì diễm lệ, Hán Thành Đế cũng tuyển vào cung, phong làm Triệu chiêu nghi, sủng ái cô ta có phần còn hơn cả cô chị.
"Bất hiếu hữu tam, vô hậu vị đại" (Bất hiếu có ba điều, không có con nối dõi là lớn nhất). Hán Thành Đế làm vua đã hơn 20 năm, vẫn chưa có con nối dõi, khiến cho các đại thần trong triều bàn tán. Họ đua nhau dâng sớ khuyên can, xin Hán Thành Đế lấy việc có người nối dõi làm vua làm trọng. Dưới áp lực của quần thần, Hán Thành Đế bắt đầu cúng tế quỷ thần, khẩn cầu trời cao ban cho ông một đứa con trai, để ông khỏi bị những bậc "trung thần" bàn tán ầm ĩ. Tuy vậy chị em họ Triệu vẫn chẳng có triệu chứng mang thai, Hán Thành Đế bắt đầu đến ngủ ở cung khác, cung nữ Tào Cung Nhân sau khi được vua yêu quý, đã sinh được một con trai, ông vô cùng sung sướng, cho sáu thị nữ đến hầu hạ. Nào ngờ khi Triệu Chiêu Nghi biết, bà ta lập tức giả truyền thánh chỉ, bắt Tào Cung Nhân tự vẫn, giết chết đứa bé, ngay cả sáu người thị nữ cũng bị thắt cổ chết, trước việc này, Hán Thành Đế đã chẳng biết làm thế nào, đành bó tay. Về sau, Hứa mĩ nhân ở phòng tắm Thượng Lâm Uyển, sinh được một con trai. Lần này Hán Thành Đế lại sợ Hứa mĩ nhân bị Triệu Chiêu Nghi hạ độc thủ, ông quyết định không dấu diếm, nói với bà ta chuyện này. Vừa mới nói xong, Triệu Chiêu Nghi đã đùng đùng nổi giận, gầm lên với ông: "Đấy đều là những việc tốt bệ hạ đã làm! Bệ hạ đã có lúc không về cung Chiêu Dương, thế mà cứ nói là ở trong cung, nào ngờ bệ hạ lại đến chỗ Hứa mĩ nhân. Cô ta giỏi, bệ hạ phong cho cô ta làm hoàng hậu đi." Nói xong thì đấm ngực dậm chân, thậm chí còn lao đầu vào cột, miệng thì bô bô chẳng thiết sống nữa, rồi lại lăn từ trên giường xuống đất. Hán Thành Đế chưa bao giờ thấy cảnh nanh nọc dữ dằn này, sợ hãi, chẳng còn biết xử trí thế nào nữa. Ông đành khuyên giải an ủi Triệu Chiêu Nghi: "Ta nói với nàng với ý tốt, nào ngờ nàng lại làm lung tung ầm ĩ lên như thế này, thật chẳng sao hiểu
nổi nữa!" Triệu Chiêu Nghi nghe nói thế, khóc sụt sịt nói: "Bệ hạ sớm đã thề bồi không phụ thiếp, bây giờ chuyện Hứa mĩ nhân giải thích thế nào?" Hán Thành Đế chẳng còn biết nói sao nữa, đành phải thề rằng: "Ta nhất định không phụ lời thề trước, dù cho Hứa mĩ nhân sinh con trai, cũng không lập cô ta làm hoàng hậu, nàng yên tâm, dứt khoát không để người khác ở trên họ Triệu." Triệu Chiêu Nghi nghe xong mới thôi khóc và cười ngay. Nhưng đứa trẻ ấy cũng không thể thoát khỏi bàn tay độc ác của Triệu Chiêu Nghi.
Đèn trong Cung Trường Tín
Khi Hán Thành Đế 45 tuổi, đã không chịu nổi nỗi khổ đau trần thế, sau khi cùng bầy tỏ ý tình li biệt với Sở Tư Vương Lưu Diễn, Lương Vương Lưu Lập, chuyện trò vui vẻ với nhau không trọn một ngày, đã cùng hai chị em Triệu Phi Yến chết trên giường long sập phượng, ông đã tự sát hay là bị giết? Nếu không bị giết, thì tại sao ông tự sát, điều này trở thành một bí ẩn trong lịch sử.
BÍ ẨN VỀ HÁN VĂN ĐẾ CƯNG CHIỀU ĐẶNG THÔNG
"Thịnh trị Văn Cảnh" là thời thái bình thịnh trị có thể sánh với "Thịnh trị Trịnh Quán", song dù cho Hán Văn Đế có vai trò rất lớn đối với "Thịnh trị Văn Cảnh", cũng không tránh khỏi những khuyết điêm như các hoàng đế khác: nuông chiều tiểu nhân - cưng chiều Đặng Thông.
Đặng Thông dẫu vô đức bất tài, nhưng lại vô cùng tinh thông cách nịnh nọt. Đặng Thông rất giỏi nghe giọng nói nhìn vẻ mặt của vua, không bao giờ làm gì trái ý vua. Văn Đế bị bệnh trĩ, bệnh rất nặng chảy mủ lở loét ở hậu môn. Đặng Thông biết dịp bợ đỡ nịnh nọt Văn Đế đến rồi, bèn chủ động xin được chia sẻ đau đớn của Văn Đế, nguyện sẵn sàng mút máu mủ cho Văn Đế. Máu mủ chỗ hậu môn bị trĩ rất hôi thối tanh tưởi, Đặng Thông sắc mặt vẫn bình thường như không, và thấy Văn Đế thoải mái dễ chịu, thì còn làm ra bộ sung sướng.
Chân dung Hán Văn Đế
Hành tỉ (triện con dấu) của Văn Đế
Một lần Đặng Thông mút máu mủ cho Văn Đế xong, Văn Đế rất cảm động nói: "Ta là chủ thiên hạ, ngươi cho rằng ai là người yêu ta nhất?" Đặng Thông nghĩ một lát rồi nói: "Trên đời thân thiết nhát chỉ có quan hệ cha con thôi, vậy thì theo lí mà nói thái tử yêu bệ hạ nhất." Hôm sau thái tử vào cung thăm Văn Đế, đúng vào lúc bệnh trĩ phát tác, Văn Đế bèn nói với thái tử: "Con có thể mút máu mủ cho ta được không?" Thái tử nghe xong dẫu rất không muốn làm, nhưng nghĩ lại thấy cha rất đau đớn, hơn nữa lại không thể kháng chỉ được, nên đã bịt chặt mũi, mút chỗ lở loét. Máu mủ vừa vào miệng, thái tử đã không chịu được và nôn mửa ngay, vội chạy đi súc miệng. Văn Đế thấy thái tử không thích làm như vậy, thì giận lắm, lệnh cho thái tử lui ra, và lại cho gọi Đặng Thông vào mút. Đặng Thông đã quá quen làm rồi, chẳng hề thây khó chịu gì, khiến Văn Đế rất cảm động, càng sủng ái ông ta hơn.
Văn Đế vì thích Đặng Thông, nên muốn biết số phận của ông ta thế nào, đã mời một thầy tướng số nổi tiếng đến xem tướng cho ông ta. Thầy tướng nói rất thẳng, nói rằng diện mạo Đặng Thông không đẹp, tướng nghèo khổ, sau này sẽ chết đói. Văn Đế nghe xong, nổi giận nói: "Ta chỉ cần một câu nói thôi, ông ta sẽ trở thành người giầu có nhất, làm sao lại chết đói được?" Rồi hạ một đạo chiếu thư ban cho Đặng Thông, Đồng Sơn ở Tứ Xuyên, và cho ông ta quyền đúc tiền đồng. Vậy là, Đặng Thông trở thành người giầu có nhất triều nhà Hán.
Bình có khắc chữ mạ vàng đời Hán
Trên hoa văn đai rộng phần vai, bụng của bình có nạm hình vẽ sinh động long hổ đấu nhau. Giữa nắp có mạ khắc một con rồng. Ở chỗ ba vòng tròn quai có khắc mạ chữ xếp thành hàng xoáy cuộn Văn Đế chết, thái tử lên ngôi, đó là Cảnh Đế. Cảnh Đế vì chuyện mút máu mủ bệnh trĩ năm trước, rất căm giận Đặng Thông. Sau khi lên ngôi, hạ lệnh cách quan chức của Đặng Thông, thu hồi Đồng Sơn, tịch thu hết tài sản, rồi giam vào nhà ngục tử tù. May mà công chúa còn nhớ lời dặn lại của Văn Đế, đã xin Cảnh Đế tha cho ông ta. Đặng Thông ra khỏi nhà lao, một xu cũng chẳng còn, đành phải mang chiếc bát Văn Đế ban cho ngày xưa đi ăn mày để sống, sau này đúng là đã chết đói, đó là lai lịch của yết hậu ngữ "Bưng bát vàng đi ăn xin."
Tranh vẽ khước từ ngồi đời Tống
Bức tranh này mô tả câu truyện Viên Ang can ngăn Hán Văn Đế. Thần phu nhân được Hán Văn Đế yêu quý, thường ngồi ngang hàng với hoàng hậu, đại thần Viên Ang đã thẳng thắn khuyên can, nói rằng hoàng hậu và phi tần ngồi ngang hàng là vi phạm cương thường phải ngăn cấm, Văn Đế đã nghe lời khuyên can của Viên Ang
VÌ SAO TÀO THÁO PHẢI XÂY BẢY MƯƠI HAI LĂNG TẨM
Chân dung Tào Tháo
Kiệt Thạch
Kiệt Thạch ở thị trấn Vạn Gia huyện Tuy Trung tỉnh Liêu Ninh, phía bắc cách bờ biển 450 mét, là đá thạch anh hoa cương. Năm xưa, Tào Tháo để thống nhất miền bắc, chinh phạt Liêu Đông, đi qua vùng này, nhất thời hết sức cảm khái, đã cao giọng ngâm: “Đông tới Kiệt Thạch, ngắm nhìn biển
xanh, nước sao trong trẻo, đảo núi chênh vênh. Cây cối xanh tốt, cỏ hoa đẹp ti/ơi. Gió thu lành lạnh, sóng lớn dập dềnh. Trăng sao vận hành, như ra từ dó, sông Ngân xán lạn, như từ đó ra. May tới được đây, hát cho thoả chí”. Là một tác phẩm tuyệt vời thơ bốn chữ, tĩnh lặng hoành tráng, khí phách khác thường
Di tích Nghiệp Thành
Tào Tháo khác với đế vương các thời đại về chôn cất mai táng, về hậu sự của bản thân, ông đề xuất "bạc táng" (chôn cất gọn nhẹ). Ông là đế vương đầu tiên đưa ra "bạc táng" trong lịch sử Trung Quốc.
Khi ấy, Tào Tháo tuy không xưng đế, nhưng quyền lực và địa vị chẳng kém gì đế vương, tại sao ông lại không những đề xướng "bạc táng", mà còn đích thân thực hiện?
Tương truyền rằng, Tào Tháo suốt đời tiết kiệm, ông đòi hỏi nghiêm khắc đối với người trong gia đình và các quan. Vợ Tào Thực, con dâu ông, vì ăn mặc lụa là, bị ông theo phép tắc gia đình, hạ chiếu "tự may cắt lấy". Các đồ quần áo vải đã mặc trong cung đình, rách thì vá, vá rồi dùng tiếp, không được thay mới. Có thời kì, thiên hạ xảy ra thiên tai đói kém, của cải thiếu thốn, Tào Tháo đã không mặc quần áo làm bằng da thuộc nữa, tới mùa đông, các quan trong triều đều không dám đội mũ da.
Lại còn nghe nói, Tào Tháo trước kia đã từng cấu kết với đám đào trộm mộ, ông tận mắt nhìn thấy cảnh tượng rất nhiều ngôi mộ sau khi bị
đào trộm xương cốt bị vất ngổn ngang, vật dụng bừa bãi, để ngăn chặn cảnh thê thảm này xảy ra sau khi mình chết, ông dứt khoát yêu cầu "bạc táng".
Để ngăn chặn mộ bị đào trộm, đồng thời với việc chủ trương và thực hiện "bạc táng", ông còn sử dụng biện pháp "mộ nghi trang". Bố trí mộ nghi trang, đương nhiên hợp với bản tính đa nghi cua ông. Lúc sinh thời, vì đa nghi ông đã giết lầm nhiều người; tính đa nghi cíỉa ông không hề thay đổi cho đến chết. Nghe nói, vào ngày an táng ông, 72 cỗ quan tài từ bốn hướng đông tây nam bắc, cùng một lúc khiêng ra từ các cổng thành.
72 ngôi mộ nghi trang này, mộ nào là thật? Bí ẩn ngàn năm về mộ Tào Tháo theo đó còn mãi.
Trăm nghìn năm nay, bọn đào trộm mộ không biết bao nhiêu, nhưng chẳng kẻ nào đào được mộ Tào Tháo thật.
Nghe nói những năm tháng hỗn chiến quân phiệt, một thương gia đồ cổ công ty Đông Ấn Độ, để tìm mộ thật của Tào Tháo, đã thuê người đào mười mấy ngôi mộ nghi trang, chẳng tìm được gì ngoài những thứ đồ đất, đồ sành.
Năm 1988, "Nhân dân nhật báo" đăng bài "Tìm ra bí ẩn của 72 ngôi mộ nghi trang của Tào Tháo nói rằng: "Quần thể mộ cổ huyện Từ tỉnh Hà Bắc" nổi tiếng trong ngoài nước gần đây đã được Quốc Vụ Viện xếp vào đơn vị bảo hộ văn vật trọng điểm toàn quốc đợt thứ ba. Trước đây truyền thuyết dân gian cho là có “72 mộ nghi trang của Tào Tháo, sau này điều tra cho thấy là quần thể mộ cổ cỡ lớn của Bắc triều, con số chính xác không phải là 72, mà là 134 ngôi." Ý kiến về mộ nghi trang đã được chứng minh là không chuẩn xác.
Nhưng, hài cốt Tào Tháo thực tế chôn ở chỗ nào, vẫn là một bí ẩn. Theo bài thơ "Cung quán Đồng tước phủ bụi trần, Vườn lăng của Nguỵ bên sông Chương, Đã để Tây Hoàng còn phải nghĩ, Bài hát năm nào chẳng ai hát được." Suy đoán từ đó, thì mộ Tào Tháo ở đáy sông Chương.
Lại theo ghi chép của "Chương Đức phủ chí", thì lăng Nguỵ Vũ Đế ở thôn Linh Chi, cách chính nam đài Đồng Tước 5 cây số. Qua khảo sát, thì cũng là giả thuyết, vậy thì nó có thể ở chỗ nào?
Hãy còn một ý kiến là, lăng Tào Tháo ở "Tào gia cô đôi", huyện Tiều, quê hương ông ta.
Nguỵ thư. Văn đế kỷ ghi chép: "Năm Giáp Ngọ (năm 220 CN), quân doanh ở Tiều, đã khao thưởng sáu cánh guân và bà con phụ lão đất Tiều tại Ấp Đông". Bột Chân Chí ghi chép: "Văn Đế tới thăm đất Tiều, khao thưởng phụ lão, lập đàn trước nhà cũ, dựng bia gọi là bia khao thưởng." Tào Tháo chết vào tháng giêng năm đó, táng vào ngày mồng 2, nếu táng ở Nghiệp Thành, thì Nguỵ Văn Đế Tào Phi vì sao không đến Nghiệp Thành mà lại trở về quê cũ? Mục đích chuyến đi ấy của ông ta có phải là tưởng nhớ cha ông là Tào Tháo hay không? Sách Nguỵ thưcòn nói: "Năm Bính Thân, đích thân cúng tế Tiều Lăng." Tiều Lăng chính là "Tào thị cô đôi", ở ngoài Thành Đông 20 cây số. Tại đây từng có tịnh xá Tào Tháo xây dựng, còn là nơi ra đời của Tào Phi. Ngoài ra còn theo ghi chép: Bột Châu có quần thể mộ họ hàng Tào Tháo, trong đó có mộ của ông nội, cha và con cái Tào Tháo. Từ đó mà suy đoán, thì mộ Tào Tháo phải ở đấy.
Nhưng ý kiến này cũng thiếu chứng cứ đáng tin, bị nhiều người nghi ngờ.
Cảm thán trước "Mộ Tào chẳng biết ở nơi mô", người ta có thể càng hiểu sâu hơn thói đa nghi của Tào Tháo. Cả đời Tào Tháo rất tiết kiệm, dẫn đầu việc "bạc táng" là có ý nghĩa tích cực. Làm như vậy là, vừa bảo vệ được bản thân, vừa khiến bọn đào trộm mộ chẳng còn làm được gì nữa. Đấy cũng là một hành động sáng suốt của ông ta.
Sự thực về lăng tẩm của Tào Tháo tới nay vẫn là một bí ẩn, còn phải chờ những phát hiện mới của khảo cổ.
LƯƠNG VŨ ĐẾ “HOÀNG ĐẾ HOÀ THƯỢNG ” VÌ SAO CHẾT ĐÓI Ở CHÙA
Chân dung Tiêu Diễn Lương Vũ Đế
"Thiên lí oanh đề lục ánh hồng,
Thuỷ thôn sơn quách tửu kỳ , phong.
Nam triều tứ bách bát thập tự,
Đa thiểu lâu đài yên Vũ trung”.
( Nghìn dặm oanh ca ánh đỏ lồng ánh xanh,
Cờ rượu bay trước gió sông núi quách thành.
Bốn trăm tám mươi ngôi chùa Phật Nam Triều,
Biết bao lâu đài trong mưa khói thanh bình).
(Tạm dịch)
Đây là một tác phẩm nổi tiếng của Đỗ Mục, nhà thơ đời Đường, bằng ngôn ngữ sinh động bài thơ mô tả sự hưng thịnh của Phật giáo Nam Triều.
Thời Nam Bắc triều, Phật giáo rất phát triển. Tiêu Diễn Lương Vũ Đế Nam triều, là một ông vua ăn chay niệm Phật, ra sức chủ trương phát triển mạnh Phật giáo. Ông đã bốn lần xả thân đến chùa Đồng Thái (nay là chùa Kê Minh, Nam Kinh) làm hoà thượng. Gọi là xả thân, cúng vào chùa tất cả của cải của mình. Còn một loại là cho cả bản thân mình, tức là sẵn sàng vào chùa phục vụ cho các tăng ni. Lương Vũ Đế vào năm 527, năm 529, năm CN, ba lần xả thân. Lần xả thân thứ nhất bốn ngày, lần cuối cùng dài tới 37 ngày. Và mỗi lần như vậy, triều đình phải bỏ ra nhiều tiền để chuộc ông về. Nhà chùa nhờ ông mà có thu nhập đáng kể. Khi ông ở ngôi vua, Phật giáo ở triều nhà Lương cực kì thịnh vượng, chỉ riêng nội ngoại thành Kiến Khang khi ấy đã có hơn 500 ngôi chùa Phật, tăng ni hơn 10 vạn người. Năm 504, ông đích thân dẫn 2 vạn người cả tăng ni và người dân thường tới gác Trùng Vân của điện Trùng Vân, biên soạn xả đạo sự Phạt văn.
Lương Vũ Đế một lòng sùng Phật, bỏ bễ triều chính, mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt. Lương Vũ Đế lúc đầu không có con, cho cháu họ Tiêu Chính Đức làm thừa tự, phong làm thái tử, về sau Lương Vũ Đế sinh được con trai, đặt tên là Tiêu Thống, rồi được lập làm thái tử, còn người cháu Tiêu Chính Đức được phong làm Tiêu Phong Hầu. Việc này khiến Tiêu Chính Đức trong lòng bất mãn. Đúng vào lúc đó, đại tướng Đông Nguỵ, Hầu Cảnh vì không hợp với Cao Hoan địch thủ chính trị, quay sang đi theo nhà Lương, Lương Vũ Đế phong cho ông ta là Hà Nam Vương.
Tượng đất nung võ sĩ chống kiếm Nam Bắc triều
Tượng gốm chất đất xám xanh, đầu đội mũ gió, mình mặc giáp trụ, trong mặc áo dài, ngoài khoác áo choàng cổ lông, há miệng gào thét, quắc mắt nhìn thẳng, hai tay cầm gươm bắt chéo trước ngực, oai phong lẫm liệt. Toàn thân tượng màu trắng, chỗ quần áo và giáp trụ tô màu đỏ
Hầu Cảnh là kẻ mưu mô xảo trá, hắn thấy hoàng tộc vô cùng mâu thuẫn nhau, cho rằng thời cơ đã đến, liền câu kết với Tiêu Chính Đức dấy binh gây chính biến, đồng ý sau khi làm xong việc sẽ để Tiêu Chính Đức làm vua. Cuối cùng quân làm phản đánh vào thành Kiến Khang. Lương Vũ Đế, ông vua hoà thượng bị vây hãm trong cung. Ông chẳng biết làm thế nào, cũng chẳng ai hỏi han tới ông, ông vua này cuối cùng đã chết đói trong hoàng cung, chẳng có ai bên cạnh, sách Trung Hoa dã sử kính giám có ghi
chép: "Năm Thái Thanh thứ ba (năm 549) tháng ba, Hầu Cảnh đánh vào thành. Tiêu Diễn bị tuyệt đường ăn uống, miệng đắng khát kêu liên tục: "Mật! Mật!" cuối cùng cũng chết đói trong điện Tịnh Cư, năm ấy ông 86 tuổi. Tiêu Chính Đức cuối cùng cũng không được làm hoàng đế. Chính biến xong xuôi đã bị Hầu Cảnh giết chết."
Chùa Kê Minh Nam Kinh Giang Tô ở trong thành Nam Kinh ngày nay được trùng tu vào đời Thanh, nguyên là di chỉ chùa Đồng Thái triều nhà Lương, Lương Vũ Đế đã bốn lần xả thân ở đây, đều được bầy tôi chuộc về với số tiền lớn. Chùa Đồng Thái khi ấy to gấp đôi chùa Đồng Thái bây giờ
VÌ SAO ĐƯỜNG THÁI TÔNG PHÁT ĐỘNG “BINH BIẾN CỬA HUYỀN VŨ”
Di chỉ thành Trường An đời Đường
Đường Thái Tông là ông vua thứ hai vương triều nhà Đường. Thời cai trị của ông được người đời sau gọi là “Thịnh trị Trinh quán" ca ngợi sự thịnh trị trong thời kì thống trị của ông. Đường Thái Tông Lý Thế Dân đã thông qua "Binh biến cửa Huyền Vũ" giết anh, bức bách cha để lên ngôi vua.
Về "Binh biến cửa Huyền Vũ", các nhà sử học xưa nay có ý kiến khác nhau, có người cho rằng Đường Thái Tông Lý Thế Dân phát động "Binh biến cửa Huyền Vũ" là quyết định vạn bất đắc dĩ, vậy thì, tình hình cụ thể như thế nào? Hãy để cho sự thực lịch sử dưới đây chứng minh.
Sách Cựu Đường thư viết: "Năm thứ chín (năm 626 CN), Hoàng thái
tử Kiều Thành, Tề vương Nguyên Cát mưu hại Thái Tông. Ngày 4 tháng 6, Thái Tông chỉ huy Trường Tôn Vô Kỵ, Uý Trì Kình Đức, Phòng Huyền Lĩnh, Đỗ Gia Hối, Vũ Văn Hoá Cập, Cao Sĩ Liêm, Hầu Quân Tập, Trình Tri Tiết, Trần Thúc Bảo, Đoàn Chí Huyền, Khuất Đột Thông, Trương Sĩ Quý, giết Kiến Thành, Nguyên Cát tại cửa Huyền Vũ, Thái Tông được lập làm hoàng thái tử, các việc chính sự đều do Thái Tông quyết đoán." Đó là "Binh biến cửa Huyền Vũ" nổi tiếng.
Ký sự bản mạt lịch triều Trung Quốc tân biên. Quyển Tuỳ Đường ghi chép như sau: "Khi Lý Uyên thành lập triều nhà Đường, theo truyền thống con trưởng kế thừa ngôi vua đã lập Kiến Thành làm thái tử, phong Thế Dân làm Tần vương, Nguyên Cát làm Tề vương. Trong đại chiến thống nhất toàn quốc sau này, Lý Kiến Thành là tự quân, ở bên Lý Uyên xử lí chính sự, còn trực tiếp chiến đấu trên chiến trường là Lý Thế Dân, lập nên những chiến công hiển hách. Chiến công hiển hách của Lý Thế Dân, một mặt khiến ông dần dần có dã tâm chính trị nhòm ngó ngôi vua; mặt khác tất nhiên cũng khiến cho Lý Kiến Thành lo ngại và sợ hãi. Còn Lý Thê Dân, càng muốn giành lấy quyền lực cao nhất. Cuộc đấu tranh cung đình đẫm máu tranh giành quyền kế thừa ngôi vua là không thể tránh khỏi."
Và Đường Thái Tông Lý Thế Dân âm mưu tiến hành "Binh biến cửa Huyền Vũ" nổi tiếng trong lịch sử. Ngày 3 (Kỷ Mùi) tháng 6 năm 626 CN, Thế Dân mật tấu với Cao Tổ sự việc dâm loạn của Kiến Thành, Nguyên Cát ở hậu cung, và nói: "Hai người này một lòng muốn giết hạ thần, có lẽ từ nay về sau, hạ thần mãi mãi không còn được nhìn thấy phụ hoàng, và hạ thần cũng chẳng muốn gặp mặt họ nơi địa phủ." Cao Tổ hết sức kinh ngạc trước lời tâu của ông ta:
- Ngày mai ta nhất định thẩm vấn họ, con phải tâu trình sớm với ta mới đúng.
Hôm sau, tại cửa Huyền Vũ, Thế Dân dẫn bọn Trường Tôn Vô Kỵ chỉ huy phục binh, chờ đợi đám Nguyên Cát, Kiến Thành đến. Trước đó, Trương Tiệp Dư biết ý đồ của Thế Dân, đã phi báo ngay cho Kiến Thành,
Kiến Thành gọi Nguyên Cát tới bàn bạc đối sách, Nguyên Cát nói: - Chúng ta tốt nhất nhẫn nại chờ đợi tình hình biến đổi, trước hết án binh bất động, và cũng không vào chầu.
Nhưng Kiến Thành cho rằng chỉ cần phòng bị nghiêm mật, có thể vào triều bái yết, đích thân thám thính tin tức. Hai người cùng vào trong triều. Đến điện Lâm Hồ, thầy tình hình có biến đổi, định quay về ngay. Nhưng đã quá muộn. Lý Thế Dân đã đuổi kịp, dùng tên bắn chết Kiến Thành. Nguyên Cát thì bị Uý Trì Kính Đức bắn chết.
Đám tướng soái Tiết Vạn Thành của phủ Tề vương Đông cung, chỉ huy quân sĩ xông đến, tấn công cửa Huyền Vũ, Kính Đức liền bêu đầu Kiến Thành, Nguyên Cát cho chúng trông thấy, bọn Tiết Vạn Thành rút lui ngay. Cao Tổ khi ấy đang chèo thuyền vui chơi với các phi tần tại hồ Hải Trì trong cung Thái Cực! Thế Dân cho Kính Đức vào hầu. Mình mặc khôi giáp, tay cầm giáo dài, Kính Đức uy phong lẫm liệt tới bên Cao Tổ, bẩm trình với Cao Tổ:
- Thái tử và Tề vương làm phản, quân lính của Tần vương đã giết họ, sợ làm kinh động tới hoàng thượng, cử hạ thần tới bảo vệ. Cao Tổ nói với đám Bùi Tịch:
- Thật không ngờ, hôm nay ta lại gặp chuyện như thế này, vậy phải xử lí như thế nào đây?
Tiêu Võ, Trần Thúc Đạt nói:
- Kiến Thành, Nguyên Cát vốn định làm phản, lại chẳng có công lao gì với thiên hạ, ghen tị thù hận Tần vương công lớn nhiều uy tín, hai người này vào hùa với nhau làm càn. Bây giờ Tần vương đã giết họ rồi, hoàng thượng nếu muốn bình yên vô sự, chỉ có lập Tần vương làm thái tử, giao chính sự quốc gia cho ông ta, là bình yên vô sự thôi.
- Đó cũng là tâm nguyện lâu nay của ta! - Cao Tổ nói.
Khi ấy quân lính tướng sĩ của Tần phủ vẫn chưa kết thúc chiến đấu với binh tướng bộ hạ của hai phủ Kiến Thành, Nguyên Cát. Kính Đức bẩm
báo với với hoàng thượng, để hoàng thượng truyền chỉ, bắt văn võ bá quan trong triều ngoài nội phải nghe theo lệnh quản lí của Tần vương, có như vậy, tất cả mới yên ổn được. Con cái Kiến Thành, Nguyên Cát đều bị liên luỵ phải xử tử. Cao Tổ cho gọi Thế Dân tới vỗ về, Thế Dân quỳ xuống, khóc ròng khá lâu. và lập Thế Dân làm hoàng thái tử, ít lâu sau Lý Uyên thoái vị, làm thái thượng hoàng.
Chân dung Uý Trì Kính Đức
CÔNG LAO ĐỂ NGƯỜI ĐỜI ĐÁNH GIÁ
NGÀN NĂM BÍ ẨN VỀ BIA KHÔNG CHỮ CỦA VÕ TẮC THIÊN
Võ Tắc Thiên là một nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Trung Quốc. Bà từ một tài nhân từng bước leo dần lên ngôi báu hoàng hậu, cho tới cuối cùng thành lập vương triều Đại Chu. Sau khi lên ngôi hoàng đế, Võ hoàng một mặt tiêu diệt kẻ chống đối mình, mặt khác hăng hái gắng sức cai trị tốt đất nước. Dưới thời kì cai trị của bà, xã hội thái bình, thịnh vượng, trong dân gian lưu truyền nhiều truyền thuyết về Võ Tắc Thiên. Nhưng vì sao trên mộ bà lại là tấm bia không chữ khiến cho trăm nghìn năm nay người đời đua nhau đoán tìm.
Chân dung Võ Tắc Thiên
Càn Lăng là ngôi mộ táng chung Đường Cao Tông Lý Trị và Võ Tắc Thiên ở Lương Sơn huyện Càn, rộng 80 héc-ta, tây bắc thành phố Tây An. Trước mộ có hai tấm bia đều là bia đá cao 6,3 mét, phía tây là "Bia thuật thánh", văn bia chủ yếu là ca ngợi công đức thành tích của Đường Cao Tông, do Võ Tắc Thiên soạn lời văn, Đường Trung Tông viết. Bia này gồm 7 phần, có ngạm mộng gắn kết vào nhau, cho nên gọi là "Bia thất
đoạn", bia rộng 1,86 mét, nặng 81,6 tấn. Phía đông là "Bia không chữ" của Võ Tắc Thiên, bia tạc bằng khối đá nguyên vẹn khổng lồ, rộng 2,1 mét, nặng 98,8 tấn. Đầu bia điêu khắc 8 con si (rồng không có sừng) cuốn vòng lấy nhau, có trang trí rồng mây trời, bệ đế bia có khắc hoạ tuấn mã uống nước, sư tử đực, hoa văn mây. Điêu khắc tinh tế như vậy, là cực kì hiếm thấy trong số bia mộ các triều đại.
Ngôi mộ hợp táng Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên
Có rất nhiều ý kiến về bia không chữ trước mộ Võ Tắc Thiên dựng, nhưng chủ yếu có ba ý kiến chính. Một là nói, Võ Tắc Thiên cho rằng bản thân công cao đức lớn, văn tự không thể biểu đạt nổi. Theo Võ Tắc Thiên, thì bản thân tuy là phụ nữ, nhưng tài năng tuyệt đối hơn hẳn Cao Tông, và thời kì bà cai trị, chính trị ổn định, xã hội phát triển, nhân dân được hưởng thái bình hạnh phúc, điều đó phải coi là công tích chính trị lớn của bà. Đáng tiếc là, khi đó có nhiều người cho rằng Võ hoàng hậu đã cướp đoạt giang sơn Đại Đường, là phản thần nghịch tặc, không thừa nhận công lao của bà. Vì vậy, Võ Tắc Thiên muốn để công lao của mình cho người đời sau đánh giá, ghi chép, nên đã có bia không chữ.
Hai là nói, Võ Tắc Thiên tự biết tội lỗi của mình nặng, ghi văn bia sợ rằng càng chuốc lấy sự nguyền rủa của người đời, nên không viết gì là tốt nhất. Có ý kiến lại cho rằng, Võ Tắc Thiên sau khi xây dựng triều Đại Chu, trong lòng cảm thấy tội lỗi không yên, một lòng muốn rằng sau khi mình chết thì trả lại giang sơn cho họ Đường. Nhưng do khoảng thời gian bản thân xưng đế khiến bà không tin rằng sau khi mình chết công lao của mình được đánh giá đúng, càng sợ người đời nguyền rủa tội cướp ngôi vua của mình, do đó để lại bia không chữ để tự chuộc tội.
Thuyết thứ ba nói Võ Tắc Thiên muốn để người đời sau đánh giá cuộc đời mình, ý kiến này hoàn toàn ngược lại với ý kiến thứ nhất. Võ Tắc Thiên vẫn rất tự hào với cuộc đời mình. Là thân phận một người đàn bà, lại có thể thi thố được toàn bộ tài năng, đạt tới đỉnh cao của quyền lực, bà muốn người đời sau đánh giá một cách khách quan tài võ công văn trị, tài trí và mưu lược kiệt xuất của mình, còn khẳng định Lý Hiển, người con trai có xung đột lợi ích với mình không thể có đánh giá khách quan, công bình đối với mình được. Căn cứ vào đó, Võ Tắc Thiên muốn giao phó công tội phải trái của bản thân cho người đời sau, tức là để cho người đời sau đánh giá cuộc đời mình. Ba ý kiến này dường như mỗi ý kiến đều rất có lí, nhưng đâu là sự thật, hiện nay vẫn chưa khảo chứng được.
Điều đáng nói là, sau Tống, Kim tới nay, người ta bắt đầu viết thêm lên trên bia không chữ, hiện nay trên đó có tất cả 13 đoạn văn tự. Điều khiến người ta kinh ngạc là, trong những văn tự ấy có một loại văn tự dân tộc thiểu số, và đã lâu nay vẫn chưa có người nào nhận biết được. Văn tự dân tộc thiểu số này bị thất truyền đã phế bỏ tuyệt diệt này, được một học giả Nhật Bản, Yamamoto Hirotosy coi là "bí ẩn của thế kỉ XX". Qua khảo chứng, em trai của Kim Thái Tông, vào năm 1134 đã khắc vào bia không chữ "Đại Kim hoàng đế đô thống kinh lược lang quân hành ký" (nói tắt là "Lang quân hành ký") và ở bên cạnh có dịch văn chữ Hán. Văn tự đã thất truyền này, không phải chữ Kim, nhưng rút cục là văn tự nào? Nhà Kim Thạch Học đời Minh, Triệu Sơn Hàm, đã nói trong "Thạch
mặc thiên hoa" ("Lang quân hành ký") "Chữ bia ấy không thể nhận biết được. Ý kiến này lưu truyền rộng rãi. Cho tới những năm 20 thế kỉ trước, cán bộ công tác khảo cổ phát hiện ra mộ chí của hoàng hậu nhà Liêu gần Ba Lâm Thạch Kỳ Nội Mông, mới giải được bí ẩn này. Những chữ này giống chữ trên mộ chí, la văn tự Khiết Đan thời kì đầu. Văn tự khiết Đan được sáng tạo ra vào năm 920 CN, nhưng cũng tiêu vong rất nhanh cùng sự diệt vong của quốc gia, tới đời Nguyên hầu như không còn ai biết nữa, tới đời Minh thì hoàn toàn trở thành "văn tự chết" không ai đọc được. Văn tự thất truyền này được coi là một sử liệu văn trị cực kì quý báu được giữ lại, trở thành một đóng góp lớn cho bia không chữ của Võ Tắc Thiên.
Bia không chữ trước mộ Võ Tắc Thiên mặt bia trông để người đời sau đánh giá
TẠI SAO ĐƯỜNG HUYỀN TÔNG ĐƯỢC TÔN LÀM LÃNH TỤ LÊ VIÊN
Người ta quen gọi ban hát, đoàn tuồng là "Lê viên", diễn viên tuồng kịch hý khúc là "Lê viên đệ tử". "Lê viên" tại sao lại gắn với nghệ thuật tuồng kịch? "Lê viên" là nơi nào? Tính chất của nó thế nào? Những điều đó đang được nghiên cứu. Thời kì đầu của Đường Huyền Tông, toàn quốc thống nhất, kinh tế phồn vinh, văn hoá phát triển thịnh vượng, rất nhiều sứ thần, học giả, thương nhân các quốc gia châu Á, châu Phi đua nhau tới tụ tập ở Trường An. Trong ảnh hưởng của giao lưu văn hoá trong và ngoài nước, âm nhạc triều nhà Đường phát triển tới mức chưa từng có trước đây. Bản thân Đường Huyền Tông vốn rất yêu thích âm nhạc, vào năm 741, những nhân tài tạp kĩ giỏi hàng đầu vốn thuộc chùa Thái Bình được tách ra, thành lập tả hữu giáo phường, lại chọn ra mấy trăm nhạc công thường xuyên luyện tập chuyên môn tại vườn lê của Thái Uyển.
Chân dung Đường Huyền Tông
Hình vẽ nhạc vũ thăng bình đăng khoa (đỗ dạt)
Về việc thành lập "Lê viên"- Tổ chức nghệ thuật này, sách Cựu Đường thư. Huyền Tông bản kỷ ghi chép là: "Vào lúc rảnh rỗi sau những buổi chầu, Huyền Tông đã dậy ba trăm con em nhạc công Thái Thường, học chơi các loại nhạc cụ, gọi là đệ tử hoàng đế, cũng gọi là đệ tử vườn lê. Xây nhà ở gần vườn lê của Vườn cấm." Sách Tân Đường Thư - Lễ nhạc chí có viết: "Huyền Tông biết âm luật, lại rất yêu thích tuồng kịch, đã chọn ra ba trăm con em ca kỹ, dậy ở vườn lê. Ai hát sai, vua nghe ra ngay và sửa chữa cho người đó, gọi là “Đệ tử vườn lê hoàng đế”. Mây trăm cung nữ, cũng là đệ tử vườn lê, ở nhà bắc Nghi Xuân. Ban hát vườn lê, còn có những ban nhỏ hơn 30 người học thanh âm." Từ đó. "Lê viên" trở thành một trung tâm hoạt động văn nghệ quan trọng đời nhà Đường. "Lê viên" rút cục là ở nơi nào? Sự vật nguyên hội của Uông Cấp người đời Thanh, quyển 37, mục "Giáo phường lê viên" nói: "Dưới Tú Lĩnh Ly Sơn huyện Lâm Đồng phủ Tây An ngày nay, là đất vườn lê." Về xuất xứ lê viên, thông thường đều cho rằng nó vốn là một địa danh của Trường An đời nhà Đường, nhưng địa điểm cụ thể thì có ý kiến khác nhau. Có người nói là ở làng Lập Viêm xã Hoàng Lương hiện nay, gần chùa Hương Tích tây nam huyện Trường An, làng này sớm nhất gọi là làng Lê Viên hoặc làng Lật Viên. Còn có người cho rằng là làng Xuân Lâm bên cạnh di chỉ cũ Nghi Uyển do Hán Vũ Đế xây dựng gần hồ Khúc Giang góc đông nam thành Tây
An ngày nay. Ý kiến thứ ba cho rằng là làng Ngọ Môn của phường Tam Hoa gần mé đông cung Đại Minh nhà Đường đông bắc thành Tây An ngày nay. Ý kiến thứ tư nói là Lê Viên ở dưới Tù Lĩnh Ly Sơn huyện Lâm Đồng, Tây An ngày nay.
Bài ca ngôi chùa tích linh của Đường Huyền Tông
Ngoài ra còn có người cho rằng Trường An đời Đường có hai "Lê Viên". Trong sách "Nguyên Bạch thi tiên chứng cảo" của Trần Dân Khác, nói một làng ở phía bắc cửa Quang Hoa, một làng nữa ở bên cạnh cung Bồng Lai. "Từ Hải" cũng có từ "Lê Viên", nói rằng "Lê Viên" Trường An đời nhà Đường, có "Cấm uyển Lê Viên", ở trong Vườn Cấm đông bắc ngoài cửa Bắc Phương Lâm thành Trường An; "Là nơi sở tại Lê Viên thật sự đời nhà Đường". "Lê Viên trong cung", chia ra hai ban nam nữ, đều gọi là "Đệ tử Lê Viên hoàng đế".
Nghiên cứu về tính chất của Lê Viên, Từ Hải viết: "Nơi huấn luyện nghệ nhân ca múa cung đình thời Đường Huyền Tông". "Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc - Hý khúc khúc nghệ" viết rằng: "Thời Đường Huyền Tông, tổ chức chuyên huấn luyện nhạc công trong cung đình", "chức trách chủ yếu là huấn luyện nhạc công trình diễn nhạc bằng nhạc cụ". Lý Vưu
Bạch nêu ra: "Lê Viên" là "Học viện âm nhạc, vũ đạo, hý kịch hoàng gia". Vừa huấn luyện diễn viên, vừa chịu trách nhiệm biểu diễn, là học viện nghệ thuật tổng hợp đầu tiên của Trung Quốc. Lý Long Cơ là viện trưởng thôi công học viện này, dưới quyền ông ta có hai ban biên tập và nhạc doanh tướng. Chức trách của biên tập tương tự như cán bộ sáng tác bây giờ, nhạc doanh tướng tương đương với đạo diễn và giáo viên bây giờ.
Về mặt nghiên cứu "Lê Viên", được coi có uy tín là sách Lê Viên khảo luận do Lý Vưu Bạch biên soạn, cuốn sách này đã khảo chứng toàn diện những vấn đề liên quan với "Lê Viên", và còn nêu ra kiến nghị xây dựng "Nhà kỉ niệm Lê Viên đời Đường Trung Quốc".
Tượng đất nung Vũ nhạc trong cung triều Đường
Nhóm tượng đất nung Vũ nhạc này đều ngồi quỳ hoặc ngồi xếp bằng tròn, trong tay lần lượt cầm đàn không hầu, tấm phách, sáo ngang, đàn ống sinh, đàn tì bà, tiêu, đang trình diễn nhạc. Nghệ thuật biểu diễn của cung đình đời Đường đã hoà nhập Vũ nhạc của nhiều dần tộc trong và ngoài nước, vu nhạc mới biên soạn cực kì sôi động
VÌ SAO LÝ DỰC HẬU CHÚA NAM ĐƯỜNG ĐỂ MẤT NƯỚC
Lý Dực là ông vua đời cuối cùng của Nam Đường. Khi ông làm vua, thì sức mạnh của Nam Đường đã ở vào tình trạng suy đồi, ông vua tính cách bạc nhược này từng giờ từng phút đều cảm nhận được sự đe doạ của nước mất nhà tan. Ông căm thù sự áp bức của triều nhà Tống, nhưng cũng không có khả năng dùng vũ lực chống chọi với nhà Tống, đành phải chịu cảnh nước nhỏ yên ngày nào hay ngày ấy, ông cam chịu cống nạp xưng thần cuối cùng trở thành người tù dưới bệ rồng.
Cha Lý Dực là Lý Cảnh, là một cao thủ trên văn đàn từ khúc. Lý Dực từ nhỏ sống trong môi trường văn hoá sâu đậm như vậy, rất yêu thích ca từ. Khi lên ngôi vua, sức mạnh đất nước Nam Đường ngày một suy tàn, ông đối mặt với tình trạng "đành ngồi nhìn hoa tàn rụng", vì vậy khiến cho một số bài từ của ông thời kì này thể hiện nỗi niềm lưu luyến đối với cuộc sống xa hoa cung đình, một số bài lại chan chứa nỗi bi ai nặng nề. Sau khi bị bắt sống, Lý Dực là người tù dưới bệ rồng, ngày ngày sống cuộc đời toàn là nước mắt. Nỗi lòng bừng lên tự nhiên trước hoa xuân trăng thu, cảnh đẹp sớm mai, nặng lòng cố quốc, thế là ồng đã sáng tác bài Ngu mỹ nhânnghìn đời truyền tụng:
Xuân hoa thu nguyệt hà thời liễu,
Vãng sự tri đa thiểu! Tiểu lâu bộ dạ hựu đông phong,
Cố quốc bất kham hồi thủ nguyệt minh trung.
Điếu lan ngọc thế ưng do tại, chỉ thị chu nhan cải.
Vấn quân năng hữu kỷ đa sầu, cáp tựa nhất giang
Xuân thuỷ hướng đông lưu.
(Tạm dịch: Gió xuân trăng thu bao lần qua rồi, chuyện dĩ vãng quá nhiều thật không sao kể xiết, căn gác nhỏ đêm qua lại lộng gió đông về,
nặng lòng cố quốc dưới ánh trăng suông chẳng còn lòng dạ nào nhớ lại. Lan can chạm trổ tinh vi, thềm xây đá ngọc, phải chăng vẫn còn đó, chỉ có màu sắc đã nhạt phai. Chàng ơi xiết bao sầu khổ thương đau, thôi âu cũng đành như dòng nước sông xuân trôi xuôi về đông.)
Nào ngờ bài thơ này lại thành chứng cứ phạm tội của ông, ít lâu sau Tông Thái Tổ Triệu Quang Nghĩa sai người bắt ông uống thuốc độc chết trong nhà lao.
Chân dung Lý Dực
Cuộn tranh vẽ Trùng Bình hội cờ Ngũ Đại Chu Văn Cự
Bức tranh mô tả cảnh hoàng đế Nam Đường nhàn nhã vui chơi, đánh cờ giải trí Lý Dực không những giỏi viết bài từ, mà còn giỏi âm luật, vì thế bỏ bễ công việc chính sự. Hoàng Hậu Chu Nga Hoàng là con gái của Tư Đồ Chu Tông, bà thông hiểu thư sử, hát hay múa đẹp, đặc biệt là đánh đàn tì bà rất giỏi. "Nghê thường vũ y khúc" từng lưu truyền rộng rãi thời Thịnh Đường khi đó sớm đã bị người ta lãng quên, Chu Nga Hoàng tìm được một bản phổ nát. Bà căn cứ vào sự lí giải của mình, sáng tác lại, cuối cùng đã khôi phục được diện mạo ban đầu của "Nghê thường vũ y khúc", âm nhạc Khai Nguyên, Thiên Bảo lại trở lại với nhân gian. Chu Nga Hoàng còn tự mình sáng tác hai ca khúc, một là "Yêu tuý vũ phá" (múa mời rượu), một nữa là "Hận lai trì phá" (giận đến muộn). Lý Dực và bà hai người luôn luôn múa theo bài hát. Chu Nga Hoàng không những giỏi âm luật, mà tuồng Vu Thái, cờ vây cũng đều rất giỏi. Với một tri kỉ đa tài đa nghệ như vậy, Lý Dực vô cùng yêu quý, sớm sớm chiều chiều bên nhau, suốt ngày đắm chìm trong lời ca điệu múa nhẹ nhàng. Sau khi Chu Nga Hoàng chết, Lý Dực vẫn luôn luôn thương nhớ bà.
Chu Nga Hoàng có cô em gái, sử gọi là Tiểu Chu Hậu, phong độ tư thái tuyệt vời, yểu điệu duyên dáng hơn người.
Tài năng âm luật của Tiểu Chu Hậu dẫu không bằng chị Chu Nga Hoàng, nhưng lại là một cao thủ cờ vây, rất thích cờ vây và cờ tướng, vì vậy rất được Lý Dực yêu quý. Hai người thường xuyên đánh cờ với nhau, lấy đó làm thú vui tiêu khiển suốt ngày. Một hôm, Lý Dực và Tiểu Chu Hậu đánh cờ, đang giằng co chưa phân thắng bại. Để tránh mọi sự quấy rầy, Lý Dực lệnh cho vệ sĩ canh giữ của cung, nhất loạt không tiếp các đại thần đến trình tấu. Một vị đại thần tới tâu trình tình hình thu chi quốc gia, đã nhập không đủ chi, quốc khố trống không, một đại thần khác đến tâu trình nhà Tống đang điều binh khiển tướng, xâm lấn tấn công không biết lúc nào, nhắc nhở Lý Dực phải chuẩn bị sớm, nhưng đều bị vệ sĩ ngăn lại ngoài cửa cung.
Năm Khai Bảo thứ tám, quân Tống đánh phá Kim Lăng, Lý Dực dẫn mấy vị đại thần cởi trần ra đầu hàng. Tháng giêng năm thứ 9 Khai Bảo, Lý Dực tới Biện Kinh, Tống Thái Tổ phong ông ta làm "Vi mệnh hầu", về sau Tống Thái Tông lên ngôi, phong cho ông làm Lũng Tây quận công. Ngày 7 tháng 7 năm Thái Bình Hưng quốc thứ ba (năm 978), Lý Dực được Tống Thái Tông ban cho thuốc Khiên Cơ, uống để chết, năm ấy ông 42 tuổi, tặng hàm thái sư, phong là Ngô Vương, táng ở Manh Sơn phía bắc Lạc Dương. Sử chép rằng, thuốc Khiên Cơ là một loại thuốc độc mạnh, khi phát độc, thì các chi bị co rút, nên có tên như vậy.
“TIẾNG RÌU BÓNG NẾN” VÀ CÁI CHẾT CỦA TỐNG THÁI TỔ
Chân dung Tống Thái Tổ
Triệu Khuông Dận vào năm 960 phát động binh biến Trần Kiều, mặc hoàng bào, làm hoàng đế 17 năm. Tới năm 976 thì hai tay buông xuôi về tây, trong chính sử không ghi chép chính xác cái chết của ông. Trong Tống sử. Thái Tổ bản kỷ ghi chép về cái chết của ông, cũng chỉ có hai câu đơn giản: "Vua băng ở điện Vạn Tuế, lúc ấy 50 tuổi", "Theo lệnh Đỗ thái hậu, truyền ngôi cho Thái Tông." Cho nên cái chết của ông vẫn là một bí ẩn, để lại một huyền án cho lịch sử.
Trong Tương sơn dã lục, Tư Mã Quang ghi chép, tháng 10 năm Khai Bảo thứ chín, hôm ấy thời tiết cực rét, Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận vội vã gọi em trai ông Tấn Vương Triệu Quang Nghĩa vào tẩm cung, Tống Thái Tổ đuôi mọi người ra, chỉ còn hai anh em, tự rót tự uống với nhau, rượu được ba tuần, đêm đã rất khuya, ông thây Tấn Vương Triệu Quang Nghĩa cứ trốn ra phía sau, cực kì sợ hãi, thì có phần đắc ý. Thấy trước điện tuyết dầy tới mấy tấc, liền lấy rìu ngọc bổ tuyết, và luôn miệng nói với em trai rằng: "Quá dễ dàng, thật là quá dễ dàng." Đêm ấy, Triệu Quang Nghĩa không về, ngủ lại ở cấm cung. Hôm sau khi trời sắp sáng, trong cấm cung đưa ra tin Tống Thái Tổ Triệu Quang Dận đã chết, Triệu Quang
Nghĩa theo di chiếu, đã lên ngôi hoàng đế trước linh cữu.
Rìu ngọc
Nghi án gọi là "Tiếng rìu bóng nến" trong lịch sử là nói việc này. Có người cho rằng "Tiếng rìu bóng nến" có lẽ không phải là nghi án, chỉ là cái cớ Tấn Vương Triệu Quang Nghĩa giết anh cướp ngôi vua. Tống Thái Tổ sắp xếp hậu sự là việc lớn quốc gia không thể chỉ cho triệu một mình em trai vào cung, hơn nữa Triệu Quang Nghĩa lại lùi tránh khi đang uống rượu. Lấy rìu ngọc bổ tuyết, đấy chính là trạng thái Triệu Khuông Dận đã đánh nhau với Triệu Quang Nghĩa, Tấn Vương nổi xung lên giết chết Tống Thái Tổ, nếu không viết như vậy, thì đoạn sử liệu này sẽ bị phong toả.
Dân gian truyền tụng hoàng hậu Thái Tổ ngay tại trước điện mắng chửi Tông Thái Tông giết anh cướp ngôi.
Có điều, về nguyên nhân Quang Nghĩa giết anh, sử sách còn có ý kiến khác. Tận dư lục nói rằng, Triệu Quang Nghĩa rất thích Hoa Nhuỵ phu nhân họ Phí, phi tử của Hậu Thục chúa Mạnh Sưởng đã quy hàng. Sau khi Mạnh Sưởng chết, Hoa Nhuỵ phu nhân được Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận thu nạp làm phi tử của mình, và rất yêu quý. Triệu Khuông Dận ốm
nằm trên giường, vào lúc nửa đêm khuya khoắt Triệu Quang Nghĩa to gan làm bậy, tưởng rằng Tống Thái Tổ ngủ say, muốn thừa cơ trêu ghẹo Hoa Nhuỵ phu nhân, nào ngờ làm cho Tống Thái Tổ tỉnh dậy, định dùng rìu ngọc chém ông ta, tới khi Hoàng Hậu, Thái Tử chạy đến, thì Triệu Khuông Dận chỉ còn thở hắt ra. Triệu Quang Nghĩa thừa cơ trốn về vương phủ của mình, ngày hôm sau Thái Tổ Triệu Quang Dận chầu trời. Do đó có thể thấy, Triệu Quang Nghĩa nhân lúc đêm tối không có ai, khi Triệu Quang Dận ngủ hôn mê bất tỉnh chọc ghẹo Hoa Nhuỵ phu nhân mà bản thân nhòm ngó đã lâu, nào ngờ Triệu Khuông Dận bất chợt tỉnh lại thấy vậy, có lẽ trong cơn thịnh nộ muốn chém Triệu Quang Nghĩa, nhưng vì ốm đau suy yếu, thể lực không đủ, không chém trúng Triệu Quang Nghĩa. Triệu Quang Nghĩa thấy mình chỉ còn con đường chết, dẫu bằng bất cứ phương thức nào đi nữa cũng chẳng được anh mình thông cảm và tha thứ, dự tính mình sẽ bị chết thê thảm, nên đã nhẫn tâm giết chết anh ruột, sau đó hốt hoảng chạy về phủ mình. Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận chết trong lúc ốm đau và thịnh nộ hay là bị em trai giết, đó vẫn là bí mật. Có điều, việc hết sức rõ ràng là, cái chết của Triệu Khuông Dận có quan hệ nhất định với hành vi của người em Triệu Quang Nghĩa ban đêm ở trong nội điện hoàng cung.
Chân dung Tống Thái Tông
Về nghi án này, cũng có một số người gỡ tội cho Triệu Quang Nghĩa,
trong Thúc thuỷ kỳ văn của Tư Mã Quang có ghi rằng: "Khi xa giá Thái Tổ đến dự yến, đã là trống canh tư. Tống hoàng hậu Sử nội thị đều biết Vương Kế Long mời Tấn Vương Đức Phương; Kế Long biết ý định Thái Tổ truyền ngôi cho Tấn Vương đã dứt khoát rồi, liền không cho gọi Đức Phương nữa, đi thẳng đến phủ Khai Phong cho gọi Tấn Vương. Thấy thái y Giả Đức Huyền ngồi ở cổng phủ... liền nói cho biết việc ấy, gõ cửa và cùng vào gặp Vương, và mời Vương. Vương cả kinh, do dự không dám đi, nói rằng "Tôi đang bàn với người nhà việc ấy." Ngồi mãi không đi. Kế Long thúc giục bảo "Việc để lâu, sẽ bị người khác giành mất." liền cùng Vương dưới mưa tuyết đi bộ đến cửa cung, gọi cửa và vào... cùng đi vào tẩm cung. Tống hoàng hậu nghe nói Kế Long tới, thì hỏi: "Đức Phương đến đấy hả?" Kế Long nói: "Tấn vương đến đây ạ". Hoàng hậu thấy Vương thì ngạc nhiên, liền xưng hô là quan gia và nói: "Số phận mẹ con tôi, đều trông chờ vào quan gia." Vương khóc nói: "Cùng giữ gìn phú quý giầu sang, đừng lo lắng." Từ đoạn ghi chép này thì thấy, Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận khi qua đời, em trai ông Triệu Quang Nghĩa đâu có biết, và cũng không ở trong cung, dường như có thể gột sạch việc nghi ngờ "Tiếng rìu bóng nến".
Nhưng sau khi Triệu Quang Nghĩa kế tục ngôi vua , thì con trai trưởng của Triệu Khuông Dận là Đức Chiêu bị buộc phải tự sát vào năm 970, con thứ Đức Phương lại chết một cách vô cớ vào năm 981, Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa vẫn không thoát khỏi bị nghi ngờ "Tiếng rìu bóng nến", "giết anh cướp ngôi".
VÌ SAO TỐNG CAO TÔNG TRIỆU CẤU KHÔNG NỖ LỰC THU HỒI LẠI ĐẤT ĐÃ MẤT Ở MIỀN BẮC
Văn Trưng Minh, tài tử Tô Châu đời Minh đã sáng tác bài từ Mãn giang hồng. Nhan đề bản sắc lệnh Tống Tư Lăng gửi Nhạc Vũ Mục, đoạn kết là: "Khởi bất tích, trung nguyên thúc, khởi bất niệm, Huy Khâm nhục, đán Huy Khâm kỳ phản, thử thân hà thuộc! Thiên tải hưu đàm nam độ thố, đương thời tự phạ trung nguyên phục. Bỉ khu khu nhất. Cối hà năng vi, phùng kì dục." Ý của bài từ này là nói Nhạc Phi sở dĩ bị giết, Nam Tống xin hoà, người chịu trách nhiệm chính phải là Tống Cao Tông Triệu Cấu, Tần Cối chỉ là một thần tử nhỏ nhoi. Triệu Cấu chỉ lo yên ổn một vùng, không nghĩ tới thu phục đất đã mất, chỉ sợ là khôi phục Trung Nguyên, Huy Khâm trở về nam, thì ngôi vua của ông ta sẽ mất, cho nên dềnh dàng chùng chình, làm ra bộ trù trừ ít quyết đoán, để cho Tần Cối đã sẵn có ý định đầu hàng nhờ vả nước Kim ra sức chủ trương giảng hoà, không muôn thu hồi đất đã mất để mang tiếng xấu.
Chân dung Tống Cao Tông
Ý kiến này của Văn Trưng Minh, đã được một số người tán thành, vì dù sao đi nữa, Tần Cối trước sau vẫn chỉ là một thần tử bầy tôi, mọi đề nghị của hắn ta không được Cao Tông chấp nhận, thì không thể thực hiện
được, mà Cao Tông là hoàng đế, không thể để mặc cho Tần Cối chi phối. Vì vậy, Tần cối chỉ là "làm theo ý ông ta" mà thôi.
Bức tranh Lâm Tiêu chiếu thuỵ ứng
Bức tranh mô tả Triệu Cấu ngủ trong doanh trại, mơ thấy mình mặc hoàng bào, làm hoàng đế
Tống sử. Tần Cối truyện viết rằng: "Lúc đầu, triều đình nhiều lần cử sứ thần, nhưng chỉ phòng thủ và giảng hoà, còn chuyện bỏ thù oán giảng hoà với người Kim, thực sự bắt đầu từ Tần Cối." Từ khi Cao Tông lên ngôi vua tới năm Thiệu Hưng thứ tám phong Tần cối làm thừa tướng, trải qua 11 năm, triều đình Nam Tống làm được bốn việc: (1) Huấn luyện sĩ tốt, xây dựng một đội quân chống chọi được với người Kim; (2) Thu gom sắp xếp dân lưu tán, khôi phục sản xuất, tạo được nguồn của cải bảo vệ được chính quyền; (3) Thống nhất nội bộ, bình ổn được tình hĩnh hỗn loạn quần hùng cát cứ sau Tĩnh Khang (bao gồm đàn áp nông dân khởi nghĩa), hình thành được một hậu phương tương đối ổn định; (4) Định ra được các loại điển chương chế độ, làm cho trật tự xã hội bị chiến tranh phá hoại được khôi phục ở mức độ nhất định. Đó đều là tiền đề của phòng thủ và chiến đấu. Chính vì như vậy, mới tạm thời giữ vững được hai phần ba đất đai thời kì Bắc Tống. Từ những sử liệu này có thể đưa ra kết luận, trước khi Tần Cối làm thừa tướng, Cao Tông không có ý cầu hoà.
Nói về Cao Tông, tình hình tư tưởng khi ấy của ông thường xuyên dao động giữa hòa và chiến. Sau Tĩnh Khang, quần hùng cát cứ, nông dân khởi
nghĩa khắp nơi. Nếu Cao Tông một mực cầu hoà xin hàng, chẳng ai muốn làm quan dưới quyền ông. Trong thực tế, Cao Tông nhanh chóng tụ hội được các thế lực chính trị, thống nhất được các vùng cát cứ, điều đó chứng tỏ ông có sức hiệu triệu sức tụ hội nhất định. Những năm Kiến Viêm, người Kim muốn nhân lúc chính quyền Nam Tống còn chưa thật ổn định để tiêu diệt Nam Tống, Cao Tông khi ấy muốn cầu hoà không được chấp nhận. Năm thứ ba Kiến Viêm, Cao Tông bị người Kim đuổi từ Dương Châu tới Minh Châu, thậm chí đuổi tới tận biển. Năm thứ tư Kiến Viêm, quân nhà Kim lùi ra khỏi Giang Nam, Cao Tông từ Ôn Châu trở về Việt Châu, rồi trở về Hàng Châu, chính quyền Nam Tống mới dần dần vững vàng. Lã Di Hạo, Triệu Đỉnh, Trương Tuân lần lượt làm tể tướng đều chủ trương phòng thủ và chiến đấu. Họ nhiều lần cử người đi cầu hoà, nhưng tất cả đều xem xét về sách lược (trừ Tần Cối), theo ý kiến của Lã Di Hạo là "Viết thư để làm chúng kiêu ngạo", "tỏ ra yếu để lừa phỉnh chúng", "xuất kì bất ý, thừa dịp đánh lên phía bắc". Có người suy đoán từ những sử liệu này, cho rằng Cao Tông không muôn thu hồi đất đai đã mất là sai lầm.
Còn như Cao Tông sợ Khâm Tông quay về thì mình không còn chỗ đứng, người ta cho rằng đây chẳng qua chỉ là quân bài Tần Cối và người Kim bắt chẹt Cao Tông, không đủ để chứng minh Nam Tống cầu hoà với người Kim. Nếu không phải Tần Cốì gây ra tình hình chỉ có thể cầu hoà, thì dù Cao Tông có ý nghĩ không muốn Khâm Tông trở về nam, thì điều đó cũng chẳng có ý nghĩa thực tế. Khâm Tông cho dù trở về miền nam, thì một ông vua mất nước, liệu còn có khả năng lại lên ngôi vua nữa hay không?
CHUYỆN VỀ SỰ LOẠN LUÂN CỦA HẢI LĂNG VƯƠNG NHÀ KIM
Sự tích Nhạc Phi chống nhà Kim thì ai ai cũng biết, nhưng biết triều nhà Kim còn một người nổi tiếng là Hải Lăng Vương, thì e rằng chỉ một vài người biết thôi. Hải Lăng Vương Hoàn Nhan Lượng, là con trai thứ của Hoàn Nhan Hoàn Cán, cháu của Kim Thái Tổ Hoàn Nhan A- Cô Ta. Ông sau khi lên ngôi, dốc hết sức lực tiêu diệt thế lực cũ thổ hào liệt thân khu vực Thượng Kinh, dời đô về Trung Kinh (nay là Bắc Kinh), tiến hành một loạt cải cách, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phong kiến hoá của xã hội Nữ Chân. Đồng thời, ông không quên tập tục thượng võ của tổ tiên, không phế bỏ việc cưỡi ngựa bắn cung, nhưng lại cấm bầy tôi khi săn bắn quấy nhiễu trăm họ, làm trở ngại nông vụ, ai phạm lệnh câm nghiêm trị không tha.
Điêu khắc gạch Tạp kịch Kim triều
Nếu chỉ suy đoán theo sự tích kể trên, thì Hải Lăng Vương dường như có phong cách mẫu mực của một minh chủ sáng suốt. Đúng vậy, Hải Lăng
Vương có vai trò vô cùng quan trọng với việc thúc đẩy sự phát triển lịch sử triều nhà Kim. Nhưng điều khiến người ta ít thây là, ông ta hiếu sắc hoang dâm, những chuyện dâm ô với phụ nữ, cướp vợ người khác nhiều không kể xiết, mục đích của ông ta là để "giành lấy người đẹp trong thiên hạ làm vợ của mình tất". Đây có thể coi là số ít đếm trên đầu ngón tay trong lịch sử cổ đại Trung Quốc.
Trong tiểu thuyết bạch thoại Tỉnh thế bằng ngôn của Phùng Mộng Long có thiên tiểu thuyết Phóng túng tình dục Hải Lăng Vương nhà Kim, ghi chép những chuyện hoang dâm vô đạo của ông ta.
Quý phi Định Ca có nhan sắc hoa nhường nguyệt thẹn, vốn là vợ của Ô Đới, tiết độ sứ sùng nghĩa, trước khi lấy chồng đã có tư tình với Hải Lăng Vương. Ô Đới quanh năm trấn thủ biên cương, mỗi dịp lễ tết vui vẻ hoặc ngày sinh nhật Hải Lăng Vương, đều cử gia nô Cát Lỗ, Cát Ôn tới tận kinh đô chúc thọ, Định Ca cũng cử thị tỳ Quý Ca tới thăm hỏi. Hải Lăng Vương bảo Quý Ca nói với Định Ca: "Từ cổ Thiên Tử đã có hai hoàng hậu, liệu có thể giết phăng chồng nàng đi, theo ta được không?" Quý Ca nói lại với Định Ca lời của Hải Lăng Vương. Định Ca than rằng: "Khi trẻ trung, quân vương rất không đứng đắn, làm những việc thật đáng hổ thẹn, bây giờ con cái đều đã trưởng thành nên người, làm sao lại có thể làm chuyện lung tung như lúc trẻ trung được?" Hải Lăng Vương biết được việc ấy, cử người đến nói với Định Ca: "Nàng không nhẫn tâm giết chồng mình, ta sẽ giết cả nhà các ngươi. "Nhưng Định Ca vẫn không hề đổi ý. Hải Lăng Vương hổ thẹn và càng giận giữ, một lần, nhân lúc Ô Đới uống rượu say, Hải Lăng Vương sai Cát Lỗ, Cát Ôn thắt cổ giết chết ông ta. Ô Đới mai táng chưa lâu, ông ta đã mau chóng đưa ngay Định Ca vào cung, tấn phong làm quý phi.
Còn có chiêu phi A Li Hổ ban đầu lấy A Hổ Điệt, sinh được một con gái là Trùng Tiết. Trùng Tiết xinh đẹp hoa nhường nguyệt thẹn. Hải Lăng Vương nhìn thấy thì xao xuyến say mê ngay, chẳng bao lâu chiếm đoạt ngay Trùng Tiết. A Ly Hổ biết chuyện, vô cùng tức giận, đánh Trùng Tiết, việc ấy khiến Hải Lăng Vương rất không hài lòng, hạ lênh giết hết con
cháu tông thất A Li Hổ, Hải Lăng Vương chỉ tha cho đám phụ nữ, vì trong bọn họ có khá nhiều người xinh đẹp. Ông ta đưa tất cả vào trong cung, sau đó nói với đại thần Tiêu Dụ rằng: "Hậu cung của trẫm vẫn chưa nhiều, trong đám phụ nữ này có thân thích với trẫm, đưa hết họ vào cung thì thì thế nào?" Tiêu Dụ trả lời: "Gần đây giết hại tông thất, trong ngoài triều đình xôn xao bàn tán, tại sao lại làm như vậy?" Nhưng Hải Lăng Vương chưa đạt mục đích thì đâu có chịu, Tiêu Dụ cũng đành phải tán thành. Có thể nói, để thoả mãn dâm dục bản thân, thì ngay cả người thân của mình cũng chẳng buông tha.
Hải Lăng Vương hoang dâm vô độ, là có tác động của nhân tố chính trị và tập tục xã hội, triều nhà Kim là ở đất Hồ, không có sự ràng buộc của luân lí đạo đức vùng Trung Nguyên, về quan hệ nam nữ khá tuỳ tiện, thậm chí xuất hiện hiện tượng loạn luân. Hành vi việc làm của ông ta nhanh chóng làm cho mâu thuẫn nội bộ gay gắt, tăng nhanh khả năng diệt vong của bản thân.
Hải Lăng Vương tưởng rằng muốn làm gì cũng được, nhưng cuối cùng không thể thực hiện được mơ tưởng "tất cả tuyệt thế giai nhân đều lấy làm vợ" ngược lại đã tự hại mình. Năm 1161, Hải Lăng Vương đem quân xâm lược miền nam, muốn thôn tính tiêu diệt Nam Tống, thống nhất Trung Quốc, Hoàn Nhan Ung chuẩn bị thế lực đã lâu thừa cơ phát động binh biến tại Liêu Dương, tự xưng Đế. Tháng 11 cùng năm, đại quân của Hải Lăng Vương bị Ngu Doãn Văn của Nam Tống đánh cho thua to ở Thái Thạch Cơ, sau đó ông ta bị bộ tướng Hoàn Nhan Nguyên Nghi giết chết tại Dương Châu. Hoàn Nhan Ung đã xưng Đế nghĩ tới hành vi việc làm của Hải Lăng Vương, giáng tước xuống làm Hải Lăng quận vương, thuỵ hiệu là Dượng, nhưng vẫn chưa hả giận, sau đó lại giáng xuống phong là Hải Lăng thứ nhân, sử gọi là Hải Lăng Vương.
Chân dung quan võ
MINH VŨ TÔNG XÂY DỰNG BÁO PHÒNG ĐỂ ĂN CHƠI HƯỞNG LẠC
Chân dung Minh Vũ Tông Chu Hậu Chiếu
Nhìn khắp mấy trăm đế vương phong kiến Trung Quốc, rất ít người thoát khỏi sự cám dỗ của bốn chữ "tửu", "sắc", "tài", "khí", mà trong đó ghê gớm nhất là Minh Vũ Tông Chu Hậu Chiếu. Nhất là về "sắc", có thể nói là đã lên tới điểm đỉnh.
Minh Vũ Tông Chu Hậu Chiếu là con trưởng của Minh Hiếu Tông Chu Hựu Đường, Hiếu Tông trước lúc lâm chung, phó thác Chu Hậu Chiếu cho ba vị phụ chính đại thần Lưu Kiều, Tạ Thiên, Lý Đông Dương. Nhưng Chu Hậu Chiếu tính ham chơi hưởng lạc, bê trễ triều chính, căn bản chẳng coi ba vị đại thần phụ chính ra gì, mà giao tất cả công việc chính sự cho thái giám tâm phúc Lưu Cẩn xử lí. Lưu Cẩn liền cùng Mã Vĩnh Thành, Cao Phong, La Tường, Nguỵ Bân, Khâu Tụ, Dục Đại Dụng, Trương Vĩnh, tám người này suốt ngày cấu kết với nhau, dùng gái đẹp, múa hát mua vui cho Chu Hậu Chiếu, và dần dần có thế lực, khi ấy gọi là "Chính Đức bát hổ".
"""