"
Những Dấu Chân của Mẹ - Hà Khánh Linh full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Dấu Chân của Mẹ - Hà Khánh Linh full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
Mụclục
Chương1
Chương2
Chương3
Chương4
Chương5
Chương6
Chương7
Chương8
Chương9
Chương10
Chương11
Chương12
Chương13
Chương14
Chương15
NHỮNG DẤU CHÂN CỦA MẸ Hà Khánh Linh
www.dtv-ebook.com
Chương 1
Trải bao gian khổ nhọc nhằn cuối cùng vú Ngần cũng đưa được bé Liên Chi về tới nhà mình ở Núi Đỏ - Yên Định. Cũng như những miền quê khác mà vú đã đi qua, trên đường về gần tới nhà vú đã nhìn thấy nhiều cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới trên khắp các cổng chào, các nẻo đường, các trụ sở
Việt Minh... Nhiều người quen nhận ra vú từ xa tay bắt mặt mừng. Ở một ngã ba vú gặp các bà bạn cũ đi chợ về nói rằng tiếc quá, bác Ngần chỉ cần về sớm hai hôm là có thể được tham gia cuộc mét tin của toàn huyện. Trên bãi đồi đất đỏ au kia có hàng vạn người từ khắp nơi trong huyện đổ về dự, nhất là dân vùng Núi Đỏ hầu như đi dự gần hết. Các bà nói:
- Bây giờ hết vua rồi. Cũng hết Tây hết Nhật rồi. Bây giờ chỉ có người Việt Nam mình với nhau mà thôi. Bây giờ người Việt làm chủ nước Việt Nam dân chủ. Tri huyện đã nộp ấn tín xin đầu hàng Việt Minh rồi...
- A... Con bé này là đứa nào vậy? - Một bà nhổ quết nước trầu xong, dùng mấy ngón tay chùi quết trầu ở mép rồi dùng chính những ngón tay đó vê vào má vào cằm Liên Chi mà hỏi.
Vú Ngần đáp:
- À, cái Tũn tôi nhặt được trên đường đi ấy mà!
- Tội nghiệp! - Một bà nói: - Chắc là cha mẹ bị giặc Tây giặc Nhật bắn chết rồi phải không con? Trên bến đò Vạn phải không con?
Rồi không đợi vú Ngần và Liên Chi trả lời, một bà khác vuốt má Liên Chi
nói:
- Con cái nhà ai mà mặt mày sáng sủa xinh xắn quá! - Bà ngắm nghía Liên Chi một lát rồi nói tiếp: - Bây giờ cách mạng đổi đời rồi. Nhiều cô cậu ở đây đổi tên đổi tuổi hay ra phết! Con bé này bác cũng nên chọn một cái tên đèm đẹp mà đặt cho nó.
- Ừ... tôi sẽ gọi nó là... là cái Liên.
- Liên... ừ, tên hay đấy! Thôi bác về nhá! Thằng Cún nhà bác chắc là mừng lắm!
Vừa nói bà vừa xoa tay nắn vai Liên Chi.
Vú Ngần mừng vì mới sáng nay, trước khi về tới làng vú đã bảo Liên Chi đưa vú tháo chiếc kiềng vàng giấu vào trong yếm của vú. Còn tông tích thì mấy hôm nay Liên Chi đã thuộc lòng. Nếu có ai hỏi hãy nói rằng vú nhặt được em ở bến đò quan. Em bị lạc mất cha mẹ. Em tên là Tũn. Không ngờ về đến đây mọi người chê tên ấy xấu, đòi vú phải đặt tên lại cho em. Đi qua những xóm làng phố chợ mấy hôm nay vú đã thấy tận mắt sự thay đổi kỳ lạ. Những con người nghèo hèn khốn khổ lại đứng lên cầm súng cầm giáo mác gậy gộc đánh đuổi giặc Pháp giặc Nhật, đánh vào huyện đường, Phủ đường, bắt sống Tri huyện, Tri phủ... Ông Tri phủ Thiệu Hóa nhà ta nếu như không bận về Huế chịu tang mà còn ở lại Phủ đường chắc gì đã thoát khỏi sự truy nã bắt bớ này? Nhưng điều lạ lùng là người ta còn đổi cả tên gọi xấu xí thành ra tên mới hay ho nữa chứ! Thôi từ nay vú cứ gọi hẳn là bé Liên Chi cho tiện.
Vú Ngần đưa Liên Chi vào một ngôi nhà lợp lá cọ, bên trong có cột kèo bằng gỗ. Không thấy người lớn đâu, chỉ một cậu bé gầy guộc cỡ tuổi Liên Chi đang nghịch đất. Cậu dùng những cái tim tre câu con cun cút trong những chiếc lỗ nhỏ xíu như lỗ đinh miên man trên mảnh sân sau đầy rêu đất.
- Thằng Cún Lộc! Lộc của u!
Nghe tiếng gọi, cậu bé - thằng Cún Lộc bỏ cuộc chơi, hớt hãi chạy về phía vú Ngần.
- U về! U về! Cậu bé reo lên, đưa hai bàn tay túm lấy vạt áo tứ thân của mẹ.
Vú Ngần đặt khăn gói trên chiếc chõng tre, rồi ngồi sụp xuống ôm đứa con trai vào lòng mà hôn hít lên khắp mặt mày tay chân ngực bụng... của nó. Nước mắt rưng rưng, vú hỏi:
- Thầy đi đâu rồi hở con?
- Thầy đi cằn! - Cậu bé đáp.
- Chị Phúc đi đâu?
- Chị Phúc đi củn.
Vú cười. Liên Chi ngồi xuống ôm đầu gối của vú.
Vú bảo:
- Lộc này, con chào chị Liên Chi đi.
- Em chào chị Niên Tri.
Vú dịu dàng bảo:
- Con hãy nói lại cho đúng: Chị Liên Chi.
Nhưng cậu bé cứ “Niên Tri”.
Liên Chi cảm thấy lạ lùng. Không ngờ vú Ngần có một người con trai nhỏ
bằng Liên Chi - thằng Cún Lộc của u. Cún Lộc có cái nhìn hiền lành dịu dàng như vú. Lộc phải lủi thủi ở nhà một mình, chơi một mình tội nghiệp quá đi thôi! Trong lúc đó vú lại đến ở với Liên Chi, ngày đêm chăm sóc Liên Chi. Có thể nói từ nhỏ tới giờ Liên Chi đã quen có vú Ngần rồi, như thể vú Ngần sinh ra trên đời là để cho Liên Chi vậy. Không ngờ ở đây cũng có một người con trai thương yêu vú, vui mừng khi gặp vú như thế. Liên Chi hỏi:
- Lúc nãy em bảo thầy và chị đi đâu vậy hả vú?
- À... ấy là em nói thầy đi cày. Chắc là cày ở ruộng khoai. Còn chị Phúc đi củi chắc cũng sắp về rồi.
- Thầy có bới cơm theo để ăn trưa không hả con?
- Có ạ! - Lộc đáp. - Thầy có bới theo. Thầy nói tún mới viền. - Em vừa nói gì vậy hả vú?
- À, em bảo thầy đi tối mới về. - Nói đoạn vú nắm tay Liên Chi: - Con vào đây, vú tắm rửa cho cả hai đứa rồi nghỉ ngơi để vú đi nấu cơm.
Vú Ngần múc nước trong vại đổ ra chiếc thau đồng cũ trước đây bà Phủ cho đem về để tắm cho Cún Lộc. Vú cởi áo xống cho cả hai đứa trẻ tắm chung. Mặc dầu nắng gió gian khổ trên đường đi nhưng Liên Chi vẫn cứ trắng mịn hồng bên một cu Lộc gầy nhoằng, đen nhẻm. Song mắt đứa nào cũng sáng, miệng cười đứa nào cũng xinh. Khi mặc áo quần cho hai đứa, cu Lộc tò mò ngắm chiếc áo dài đầy những bông hoa sặc sỡ của Liên Chi, rụt rè hỏi:
- Tại sao con phải gọi bạn này là chị Liên Chi?
Vú Ngần nhìn con trai một lúc rồi lựa lời giảng giải:
- Là vì các con bằng tuổi nhau, nhưng con đẻ tháng Mười năm Sửu, còn Liên Chi...
- Con đẻ tháng Mười một. - Liên Chi nhanh nhảu nói.
- Vậy Liên Chi đẻ sau con, Liên Chi phải gọi con bằng anh...
- Không phải đâu con. Liên Chi tính tháng Tây, còn u con mình tính tháng ta. Thực ra hai con đẻ cùng một tháng, nhưng con đẻ sau chị Liên Chi hai ngày, con phải gọi chị. - Nói rồi vú Ngần nhớ lại những ngày xưa ấy gia đình vú khổ lắm. Khi cái Phúc, con gái đầu lòng của vú lên năm tuổi gặp lúc mùa màng thất bát, dân tình đói khổ. Những tưởng trời chỉ cho có một cái Phúc mà thôi, ai ngờ lại có mang. Vợ chồng mừng rỡ khôn xiết, cầu mong sao cho lần này sinh được con trai. Nhưng vừa mừng lại vừa lo. Sưu cao thuế nặng, ruộng không có. Chỉ mảnh vườn nhỏ đất bạc màu, trồng cây gì cũng còi cọc không lên nổi. Quanh năm cả hai vợ chồng cày thuê cuốc mướn khắp làng không lo đủ ba miệng ăn, bây giờ nếu sinh thêm một đứa nữa không biết lấy gì để nuôi con nuôi mình. Đang lúc vợ chồng ngày đêm lo lắng chưa biết tính sao thì bất ngờ có tin quan Tri phủ bên Thiệu Hóa đang tìm người ở vú vì bà Phủ sắp sinh. Có người mách nên quan bà tìm đến tận nơi, thấy gia cảnh khó khăn, bà cho ít tiền rồi đem Ngần đi khám bác sĩ Tây. Bảo rằng sức khỏe tốt, thai nhi khỏe. Khi Ngần sinh con được một tháng thì bà Phủ cho người đem tiền và quà đến thăm hỏi, dặn rằng khi đứa bé được hai tháng tuổi thì Ngần hãy đến nuôi con cho bà Phủ. Âu cũng là trong khó khăn gặp được điều may mắn. Nếu bà Phủ nhất quyết đòi đến chăm con của bà ngay từ tháng thứ nhất, có khi cũng phải thuận, và chừng đó sẽ tội nghiệp cho cún Lộc biết bao! Nhưng bà Phủ nhân đức đã không làm thế. Hai tháng tuổi cu Lộc có thể bắt đầu uống nước cháo loãng pha với những hộp sữa bò mà bà Phủ gửi cho. Nhưng quan trọng hơn hết là vợ chồng Ngần có được một số tiền sửa lấy mái nhà cho kín gió, sắm được con trâu để đi cày ruộng thuê, có được cơm ăn ngày hai bữa, nuôi cái Phúc no đủ. Cứ ba tháng ông bà Phủ lại cho Ngần về
thăm nhà một lần. Theo hợp đồng khi bé Liên Chi tròn ba tuổi là Ngần có thể nghỉ việc. Nhưng nghĩ đến ân tình của bà Phủ nên Ngần muốn ở tiếp. Hàng nửa năm Ngần lại về thăm, mang theo tiền cho chồng con. Nay vì nghĩa tình của bà Phủ đối xử với gia đình Ngần rất tốt, nên Ngần phải thương yêu chăm sóc bé Liên Chi trong cơn hoạn nạn.
Cơm nấu xong thì Phúc về với đôi gánh củi nặng trĩu trên vai. Đặt gánh củi xuống sân, mồ hôi ướt đầm lưng và vai áo, khuôn mặt xinh đẹp của cô bé mười bốn tuổi sáng bừng lên khi bất ngờ được nhìn thấy mẹ, và kia một bé gái cỡ bằng tuổi Cún Lộc đang quấn quýt bên mẹ, Phúc hiểu ngay cô bé là ai. Phúc chạy ùa vào nhà ôm chầm lấy mẹ, kêu lên mừng rỡ:
- U đã về! U đã về!... - Rồi quay qua với Liên Chi, Phúc bồng cô bé lên hỏi: - Có phải đây là bé Liên Chi mà u đã nuôi dưỡng từ bấy đến nay?
- Đúng rồi. Từ giờ trở đi Liên Chi là em gái của con.
- Em gái của con? - Phúc ngước lên hỏi.
Bà Ngần vắn tắt kể lại sự việc cho Phúc nghe. Nghe xong Phúc rơm rớm nước mắt, ôm chặt bé Liên Chi vào lòng nói:
- Tội nghiệp em! Vậy là trong phút chốc em bỗng dưng xa lìa hết cả cha mẹ, người thân... Từ nay em cứ ở đây với thầy u của chị. Chị sẽ xem em như em gái ruột của mình. À, em Liên Chi và em Lộc đứa nào lớn tuổi hơn hả u?
- Cún Lộc đẻ sau Liên Chi hai ngày phải làm em chứ còn gì nữa!
Bà Ngần đáp xong liền nghĩ: - Ngay từ đầu phải định ngôi thứ cho rõ ràng như thế. Người ta là con nhà quan, vì sa cơ mà phải về ở với mình, nhưng không thể để cho các con của mình mày tao mi tớ với người ta được! Cái Phúc lớn hơn sáu tuổi làm chị đã đành, còn cu Lộc nhất thiết phải gọi Liên Chi bằng chị, dẫu rằng hai đứa bằng tuổi nhau.
Trong lúc cô bé Phúc và mẹ với Liên Chi cu Lộc cứ xoắn xuýt lấy nhau thì người cha vác cày trở về. Ông Thọ đặt cây cày bên hè nhà bước vào, ánh mắt sáng ngời nụ cười tươi rói nở trên môi, lưng áo gụ bạc màu ướt đẫm mồ hôi.
- Thầy em đã về! - Bà Ngần bước ra đón chồng, tay cầm chiếc quạt nan quạt lấy quạt để vào lưng vào vai ông.
Người chồng nói:
- Tôi định cày xong thửa ruộng mới về. Nhưng nghe mấy bà xóm bên nói u nó về nên...
Liên Chi thấy người đàn ông da nâu, đôi tay rám nắng, khuôn mặt chữ điền, cái nhìn hiền lành đang hướng về phía Liên Chi và khẽ mỉm cười.
Bà Ngần trao bát nước chè xanh vào tay chồng, khi ông đã ngồi xuống chõng tre và cởi chiếc áo đẫm mồ hôi. Chị Phúc kéo Liên Chi lại gần ông Thọ, vừa quạt cho ông và quạt cho Liên Chi. Phúc nói cho cha mình hay những việc xảy ra ở nhà quan Phủ, ở Phủ đường rồi thưa:
- Em Liên Chi từ nay về ở với nhà ta thầy nhé!
Ông Thọ đưa bàn tay thô nhám vuốt mớ tóc nhỏ của Liên Chi và nói:
- Bây giờ vật đổi sao dời rồi. Hãy cứ ở đây với vợ chồng ta. Ta sẽ coi như con cái trong nhà.
Bà Ngần thoáng một chút thảng thốt khi nghe chồng mình bạo mồm nói sẽ coi Liên Chi là con cái trong nhà. Nhưng rồi bà kịp nghĩ lại. Đúng như lời ông Thọ nói - Bây giờ vật đổi sao dời rồi, bé Liên Chi đâu còn là cô chủ nhỏ mà hàng ngày bà phải hầu hạ nâng niu chiều chuộng, mà là một cô bé bơ vơ không nơi nương tựa, không có người che chở nuôi dưỡng. Gia đình ông bà
lúc này là nơi duy nhất có thể bao bọc che chở nuôi dưỡng Liên Chi. Cầu mong sao cho không ai nhòm ngó về sự có mặt của cô con gái quan phủ trong nhà ông bà, cầu mong sao cho ai cũng tin rằng đó là cô bé lạc cha mẹ trên bến đò quan mà bà Ngần nhặt được đem về nuôi. Bà Ngần vừa đong thêm lon gạo đổ vào nồi đồng nhỏ đặt lên bếp nấu thêm phần cơm của chồng - vừa giục con gái soạn mâm ăn.
Trong lúc hai mẹ con đang tất bật chuẩn bị cơm, cu Lộc đem Liên Chi ra vườn dạy cho Liên Chi cách câu con cun cút trong những chiếc lỗ nhỏ như lỗ đinh miên man trên mặt đất.
Ông Thọ lặng lẽ bắc ghế đẩu với tay lên giàn bếp đưa xuống một bọc lá chuối khô, mở ra bên trong là những tấm bánh dầy khô to bằng hai bàn tay bị ám khói vàng khè xếp chồng lên nhau, ông chọn lấy hai tấm rồi gói lại cẩn thận để vào chỗ cũ. Ông cất ghế rồi đem hai tấm bánh dầy khô ra vại nước, múc một gáo giội sơ qua rồi đem vào đặt lên thớt dùng dao cau thái từng lát mỏng.
Bà Ngần xách rổ ra vườn sau hái rau đay. Liên Chi bỏ cuộc chơi bắt cun cút với Lộc, chạy theo hỏi:
- Vú hái lá này làm gì hả vú?
Liên Chi vừa dứt lời thì cu Lộc chạy tới nói:
- Chị Niên Tri phải gọi là rau đay chứ, đây không phải lá. Rau đay dùng để nấu canh ăn ngon lắm u nhỉ?
- Ừ.
- Sao chị Niên Tri không gọi u mà gọi vú hả u?
- Ờ... Ờ... Vì chị chưa quen. Thôi thì gọi bằng gì
cũng được, miễn là chị em chúng con yêu thương đùm bọc nhau.
Bà Ngần nói, đôi mắt trở nên xa xăm. Liên Chi bắt chước vú hái rau đay, rồi cùng vú rửa rau trong chiếc chậu gốm.
Khi vợ và các con đang lo món rau nấu canh thì ông Thọ đem những lát bánh vừa thái xong xếp lên nồi cơm mới cạn.
Thấy chị Phúc đang soạn mâm bát Liên Chi cũng làm theo. Chị Phúc nắm bàn tay nhỏ nhắn của Liên Chi khẽ đẩy ra, nói:
- Em chưa quen làm để chị làm cho.
Ông Thọ nói:
- Cứ để cho em làm. Từ nay chị Phúc phải bảo cho em tập làm những việc nhỏ cho quen...
Bữa cơm được dọn ra gồm món tép rang chị Phúc đi đánh giậm hôm qua, món canh rau đay và một đĩa cà muối. Liên Chi ăn một cách ngon lành. Chốc chị Phúc lại chọn những con tép to, đỏ au, bỏ vào bát cho Liên Chi, cho cu Lộc. Chị ép cu Lộc và Liên Chi ăn thêm mỗi đứa một bát nữa. Cả hai đều vâng lời chị, thi đua ăn mau hết bát nữa. Cuối bữa, ông Thọ chia vào bát mỗi người những lát bánh dầy khô thái mỏng, hấp cơm lên mềm và dẻo. Đây là lần đầu tiên Liên Chi được ăn món bánh này, và cũng lần đầu tiên cô bé ăn nhiều cơm, nhiều bánh đến thế. Liên Chi cảm thấy món bánh dầy khô hấp lên ngon hơn bất cứ món cao lương mỹ vị nào mà trước đây ông bà Phủ nài ép Liên Chi ăn mỗi bữa.
Cùng thời khắc đó tại Huế trong một ngôi nhà cổ kính ở thôn Nam Phổ, bữa cơm gia đình ông bà Bửu Tín quanh chiếc bàn ăn gồm có ông bà và cu cậu Vĩnh Cơ, cu út Vĩnh Bảo. Bà Bửu Tín nước mắt ràn rụa, mấy lần bưng bát cơm lên rồi đặt xuống, cố nén tiếng nấc, nhưng tiếng nấc cứ bật ra khỏi cổ
họng. Bửu Tín cũng đau lòng lắm, nhưng cố nuốt nỗi đau, dỗ dành vợ:
- Thôi mình đừng khóc như thế, sẽ hóa bệnh mất! Gắng mà ăn uống chút đỉnh để còn lấy sức nuôi hai đứa con này nữa chứ. Việc của bé Liên Chi coi như phú cho trời đất. Anh tin rằng một con người có tấm lòng nhân hậu như vú Ngần, chắc chắn sẽ không bỏ rơi con gái của chúng ta đâu!
Nghe đến đây bà không cầm được nước mắt, khóc òa lên:
- Nhưng vú Ngần lấy gì nuôi con chúng ta? Vú còn những đứa con của vú nữa chứ! Với lại người ta có để cho vú yên không? Có để cho Liên Chi yên không? Lại nữa, mình không nghe nói đang đêm Phủ đường bị tấn công đó à? Cả hai phe đều nã đạn vào nhau tại Phủ đường, liệu hòn đạn mũi tên có?... Ôi chao, mình ơi, làm sao em sống nổi trong tình cảnh này?! Bé Liên Chi ơi, từ nay mẹ mất con rồi! Con ơi là con ơi!... Ông trời bày chi chuyện trớ trêu độc địa, dạo đó nếu bé Liên Chi không đau ốm thì có lý nào chúng ta để cho con một mình ở lại với vú Ngần?!... Ôi chao con ơi là con ơi, làm sao mẹ sống được khi không biết con sống chết phương nào...
Tuy Bửu Tín làm ra vẻ cứng rắn nói vậy, nhưng khi nói xong cũng buông đũa ngồi thừ người, nước mắt chảy ròng trên đôi gò má nhăn nheo vì thương nhớ và đau khổ. Ông không ngờ ngày về Huế chịu tang cha cũng là ngày ông rời bỏ quan trường, rời bỏ Phủ đường Thiệu Hóa, rời bỏ đứa con gái đầu lòng
yêu quý của vợ chồng ông. Mọi việc sau đó chuyển biến nhanh quá, mà đỉnh cao là Việt Minh cướp chính quyền, Hoàng đế Bảo Đại phải thoái vị. Đến cái ngai vàng cùng ấn tín và gươm báu của các tiên đế để lại mà Hoàng thượng cũng không giữ được nữa là, huống hồ cái chức Tri phủ của ông! Ông mất trắng mọi thứ cùng một lúc - đành vậy, nhưng còn đứa con? Trời đất ơi, ông có tội tình gì mà ông trời nỡ trừng phạt bằng cách bắt vợ chồng ông phải xa lìa đứa con gái đầu lòng yêu quý? Giờ đây tình thế như thế này làm sao ông dám trở lại nơi đó tìm con? Ông đã vài lần bí mật phái người thân tín tìm đường về Thanh Hóa - Thiệu Hóa để hỏi thăm, nhưng một đi không thấy về,
hai đi không thấy về!...
Vĩnh Cơ và Vĩnh Bảo thấy ba mẹ khóc cũng òa lên khóc. Cả nhà khóc nức nở. Hai bà vú từ đâu bất thần chạy ập vào ôm lấy hai cu cậu, rồi cùng khóc nấc lên.
Bửu Tín ngạc nhiên nhìn vú Bảo và vú Cơ hỏi:
- Ô kìa, tôi tưởng hai chị đã về đến nhà rồi kia mà? Sao mãi còn ở đây? Vú Cơ nói trong nước mắt:
- Thưa ông bà, chúng con thương ông bà và hai cậu lắm, nên chúng con đi không đứt...
Vú Bảo nói:
- Như ông bà biết đó, con của con chết khi mới lọt lòng. Chồng của con trước đó đã đi theo người đàn bà khác. Con chỉ biết nương nhờ cửa của ông bà và thương yêu cậu Cơ, cậu Bảo, con không còn ai nữa trên đời...
Bửu Tín nói:
- Nhưng mà các chị cũng phải hiểu cho vợ chồng tôi chứ. Bây giờ tôi không còn đi làm việc nữa, không có lương bổng gì hết, nếu giữ các chị lại, chúng tôi biết lấy gì để trả lương cho các chị?
- Chúng con không đòi trả lương. Chúng con chỉ muốn được ở lại với ông bà... - Cả hai cùng thốt lên.
Bà Phủ lau nước mắt dịu dàng nói:
- Như các chị biết đó, chúng tôi là con thứ được các cụ cho ngôi nhà này và ít vật dụng cần thiết. Từ khi nhà tôi ra làm Tri phủ Thiệu Hóa thì ở nhờ
sau lưng Phủ đường. Tài sản bới theo ra ngoài đó giờ đây coi như mất trắng. Các chị đối với chúng tôi có tình có nghĩa như vậy, chúng tôi rất lấy làm cảm kích. Vú Cơ quê ở Quảng Trị, nếu ngại một thân một mình không đi được thì tôi sẽ tìm cách gửi gắm cho vú trở lại quê gặp chồng con. Vú Bảo còn trẻ, có thể gặp một đám tử tế rồi xây dựng gia đình trở lại.
Nghe bà Phủ nói xong hai bà vú lại ôm nhau khóc.
Hai hôm sau ông bà Bửu Tín nhờ chú Quyền nguyên là lính lệ quê gốc Triệu Phong đưa giúp vú Cơ về quê. Bà Bửu Tín gom góp ít tiền trao tay cho hai người. Chú Quyền nói:
- Con sẽ không bao giờ quên ông bà. Con hứa sẽ đưa vú Cơ về đến nơi đến chốn. Có nơi nào trong phủ Triệu Phong mà con không thuộc. Nay con về quê làm ruộng với cha mạ của con...
Vú Cơ và người lính lệ còn sót lại lưu luyến giã biệt vợ chồng Bửu Tín. Riêng vú Bảo vẫn ở lại trong nhà.
Bà Bửu Tín tay bồng Vĩnh Bảo tay dắt Vĩnh Cơ đến bên nói:
- Các con nghe lời mẹ dặn đây, từ nay các con không gọi là vú Bảo nữa, mà gọi bằng chị. Chị tên là Sa, các con gọi là chị Sa nhé!
- Dạ vâng ạ!
Vĩnh Cơ ngoan ngoãn vâng lời mẹ, còn Vĩnh Bảo cứ mải chơi với con chó bằng cao su đỏ tươi mềm mại vắt qua vẫy lại trên tay, cu cậu như không hề nghe thấy lời của mẹ.
Tuy đã làm mẹ, và đứa con nếu còn sống thì giờ đây đã lên hai tuổi - lớn gần bằng Vĩnh Bảo, nhưng tuổi đời Sa mới vừa tròn mười tám. Sa hiểu rằng bà Bửu Tín muốn thay đổi cách xưng hô giữa Sa với các con bà, không phải
vì từ nay Sa được coi như người chị lớn của hai em, mà còn vì một lẽ như bà nói là “có thể gặp một đám tử tế rồi xây dựng gia đình trở lại...”. Sa không phải là người đã mất hết người thân, Sa còn cha mẹ, nhưng Sa không muốn trở về sống với người cha người mẹ vì thua bạc mà đem Sa gá cho một tay chủ nợ khi Sa mới mười lăm tuổi. Thân phận Sa lúc đó không ra đứa ở, không ra vợ lẽ, không ra nàng hầu! Khi biết Sa mang thai, vợ chồng tên chủ nợ liền đem Sa gá cho một người đàn ông khác. Một thời gian không lâu sau đó người đàn ông này lấy hết chỗ nữ trang vốn liếng ít ỏi của Sa rồi bỏ đi biệt tích. Sa sinh con non tháng nên đứa bé không sống được. Giữa lúc Sa đau đớn tuyệt vọng tột cùng thì gặp bà Phủ. Sa nuôi Vĩnh Bảo và thương Vĩnh Bảo như con. Nhưng giờ đây bà Phủ bảo Sa làm chị làm em với Vĩnh Cơ, Vĩnh Bảo cũng không sao, vì bà Phủ muốn chấm dứt cuộc đời làm vú của Sa, Sa biết vậy. Ông bà cho Sa thôi việc với lý do từ nay ông bà không còn có thể trả lương cho Sa. Nhưng đối với Sa điều đó giờ đây không quan trọng lắm. Tiền lương bao lâu nay ông bà trả cho Sa, Sa đã dành dụm được một khoản kha khá, nhưng chưa hề tiêu dùng vào việc gì. Nay dẫu ông bà không trả lương, Sa cũng ở lại với gia đình ông bà một thời gian, bởi vì ông bà đối với Sa còn tốt hơn cha mẹ. Nghĩ vậy rồi Sa đứng lên đón lấy Vĩnh Bảo trên tay bà Phủ và dắt ra vườn sau chơi - nơi những người làm vườn đang chiết cành, nhổ cỏ, vun gốc cho các loài cây ăn trái như cam, quýt, mãng cầu, mận, đào, thanh trà và bưởi.
Đau buồn về việc Đoan Thuận, thời gian này Bửu Toàn chỉ còn niềm vui niềm an ủi duy nhất là những buổi họp mặt anh em đoàn thể để nghe thông báo tình hình và giao nhận công tác.
Với danh nghĩa quân đồng minh đến Việt Nam để tước vũ khí của quân đội Nhật, hơn năm ngàn quân của Tưởng Giới Thạch tràn vào Kinh đô Huế. Thói cách hợm hĩnh và sự ăn chơi trác táng của đội quân ô hợp này đã gây rất nhiều phiền toái cho dân chúng Huế. Nhiều tệ nạn xã hội bắt đầu phát triển, trong đó có những người đàn bà buôn hương bán phấn mà một số quân Tàu
Tưởng muốn tác hợp hôn nhân để tính kế ở lại lâu dài, nên dân chúng đã có lời khuyên thẳng thừng:
"Có con mà gả cho Ngô"
Ăn nói hồ đồ không kể mẹ cha...
Cái thứ ăn nói hồ đồ không kể mẹ cha thì gả cho chúng nó làm gì?!...
Thế nhưng dựa vào sự hỗ trợ của các tướng lĩnh Tưởng Gới Thạch, các đảng phái như Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội đang hoạt động tích cực, ra sức chống phá Việt Minh dưới mọi hình thức, giữa lúc thực dân Pháp đang muốn thực hiện âm mưu trở lại xâm lược Việt Nam. Từ Kinh đô Huế ngày 25 tháng 11 năm 1945 người dân lắng nghe Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh với nội dung trích dẫn lời của Lê Nin: Giành chính quyền càng dễ bao nhiêu, giữ chính quyền càng khó bấy nhiêu! Nhiệm vụ trước mắt là phải “củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân”. Trước đó, hơn sáu trăm quân Pháp đổ bộ đánh chiếm thành phố Sài Gòn, và ngày 26 tháng 9 năm 1945 - chỉ hai mươi bốn ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi nhân dân trong cả nước cùng đồng bào Nam Bộ tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong không khí hừng hực quyết tâm đánh Pháp xâm lược, tuổi trẻ Huế nao nức xếp bút nghiên lên đường Nam tiến, thì một lần nữa Phan Tấn nén lòng mình lại không đăng ký tòng quân. Rồi anh tham gia đội tự vệ khu phố và tích cực luyện tập suốt ngày đêm. Mỗi đội viên tự vệ đều được trang bị vũ khí, nhưng không đồng bộ. Người thì được một thanh gươm, người được cái mã tấu, người được đại đao, người súng trường, người lựu đạn... Phan Tấn được trang bị một quả lựu đạn. Tiếp đó, Phan Tấn tham gia đội cảm tử quân của trường Kỹ nghệ thực hành, sẵn sàng chiến đấu một mất một còn với thực dân Pháp. Phan Tấn tham gia quân tự vệ thì Bửu Toàn có nhìn thấy, có biết. Còn việc tham gia đội cảm tử quân thì Phan Tấn
giấu không cho Bửu Toàn biết. Đêm 19 rạng ngày 20 tháng 12 năm 1946 thành phố Huế biến thành một trận địa với những tiếng nổ long trời lở đất của đạn pháo ta và các loại súng đạn hiện đại của Mỹ trang bị cho giặc Pháp - vừa đến chiếm đóng ở các cứ điểm quan trọng, trong đó có trường Thiên Hựu và trường Khải Định. Quân ta đánh phá nhiều mục tiêu quan trọng của địch, các đội cảm tử quân đã chiến đấu hết sức dũng cảm, và có tin không may một cỗ pháo của ta do không điều chỉnh đúng cự ly đã giọt nhầm vài quả đạn vào một đơn vị bộ binh xung kích trên bờ sông An Cựu... Bửu Toàn lo lắng đi tìm Phan Tấn.
NHỮNG DẤU CHÂN CỦA MẸ Hà Khánh Linh
www.dtv-ebook.com
Chương 2
Vĩnh Tuấn đã tròn mười ba tuổi, cao lớn khỏe mạnh. Bà Diệu Anh mãn nguyện khi nhìn thấy con trai đã trở thành một thiếu niên chững chạc tuấn tú. Vĩnh Tuấn học trường trung học Khải Định, thỉnh thoảng đạp xe đến thăm ba, chuyện trò vui vẻ với ba xong đạp xe về phủ Vinh Quốc Phong. Buổi tối Vĩnh Tuấn ngủ ở phòng của ông nội. Phòng đọc sách ngày xưa của ông nội giờ trở thành phòng học của Vĩnh Tuấn. Chiếc giường ngày xưa ông nội nằm thành giường nằm của Vĩnh Tuấn. Ba và chú Bửu Tín luôn nhắc bảo Vĩnh Tuấn phải lo chăm chỉ học hành và sớm thể hiện vai trò đích tôn của mình, là phải thường xuyên lau chùi đồ thờ tự, quét dọn nơi thờ tự, coi sóc phòng phủ, cũng như tập dần việc quản lý nhà đất, cây trái, hoa cảnh trong vườn.
Bửu Toàn vui mừng khi nhìn thấy con trai, học giỏi, biết vâng lời và hiếu thảo. Ngôi nhà trên đường Chương Đức đã trở nên thân thuộc như là ngôi nhà thứ hai của Vĩnh Tuấn. Phan Tấn đã tốt nghiệp xuất sắc được giữ lại trường làm trợ giảng từ hơn một năm nay. Thỉnh thoảng Vĩnh Tuấn đến gặp lúc Phan Tấn ở nhà, hai anh em chuyện trò vui đùa hoặc chơi thể thao với nhau, làm cho Bửu Toàn cảm thấy lòng bớt cô quạnh. Ông chợt có ý nghĩ lạ lùng là cách đây không lâu trong nhà luôn rộn tiếng nói tiếng cười của hai cô thiếu nữ, bây giờ nhà lại có hai cậu con trai... Sự xuất hiện từng cặp người trẻ tuổi bên cạnh cuộc đời ông như một định mệnh.
Từ ngày thực dân Pháp đánh chiếm Huế, các lực lượng vũ trang Huế rút dần lên chiến khu, Bửu Toàn cũng như một số nhân sĩ trí thức cùng một số cán bộ Việt Minh trước nay chưa ra hoạt động công khai giờ đây đều nằm im tại chỗ để chờ đợi thời cơ.
Một chiều mùa hè Vĩnh Tuấn đang đi lại trong vườn ngắm những trái cây bắt đầu chín và nghe tiếng của các loài chim đang chuyền cành hót những khúc thánh thót, bỗng thấy một chiếc ô tô đời mới bóng lộn sịch đỗ trước cổng phủ. Một người đàn bà chừng ngoài ba mươi tuổi ăn mặc sang trọng từ trên xe bước xuống, tay dắt một bé gái khoảng hai tuổi đi vào cổng hỏi thăm Hoàng thân Bửu Toàn.
Vĩnh Tuấn lễ phép:
- Thưa bà, giờ này ba tôi không có ở nhà. Quý bà cần nhắn gì để tôi sẽ bẩm lại với ba tôi...
Người đàn bà mở xắc da lấy một phong thư trao vào tay Vĩnh Tuấn, rồi cầm tay đứa bé lên nói:
- Tôi để cháu bé ở lại đây với phong thư này. Hoàng thân Bửu Toàn đọc thư sẽ rõ tất cả.
Vĩnh Tuấn hết sức bối rối, chưa biết phải làm gì với đứa bé và phong thư. Cậu đang định mở lời nói một câu gì đó thì người đàn bà sang trọng đã vội vã ra xe rồi đi mất hút. Vĩnh Tuấn đuổi theo bà mấy bước rồi chững lại.
Diệu Anh đang ở vườn sau, thấy có khách lạ, bà lật đật men lối nhà ngang chạy vào khu tiền sảnh của phủ thờ, chỉ kịp nhìn thấy đứa bé mếu máo chực khóc khi người đàn bà vội vã bỏ đi, Vĩnh Tuấn chậm chạp bối rối đuổi theo sau... Diệu Anh chợt dự cảm có một điều quan trọng gì đó đang xảy ra dưới mái phòng phủ này. Bà vội vàng chạy tới ôm lấy đứa bé vuốt ve và dỗ dành cho nó khỏi khóc, rồi giục Vĩnh Tuấn đi tìm ba về cho ba đọc thư.
Vĩnh Tuấn vâng lời mẹ vội lấy xe đạp đi tìm ba. Khi Vĩnh Tuấn lên đến chợ Vĩ Dạ thì gặp ba đang trên đường về phủ.
Bửu Toàn cầm phong thư mà đôi tay run lẩy bẩy, đôi mắt nhòa lệ khi
nhận ra nét chữ của Đoan Thuận.
Chiến khu, ngày ... tháng ... năm 1948
Kính gửi Hoàng thân Bửu Toàn.
Sắp sửa vào chiến dịch mới. Tôi sợ lần ra đi này có thể không trở về, nên tôi đành phải gửi con tôi nhờ ngài nuôi dạy giúp. Tôi sinh con vào ngày 25 tháng 5 năm 1946 tại vùng kháng chiến nên chưa có điều kiện làm giấy khai sinh. Tên gọi thường ngày của bé là NHỚ.
Tôi vào cùng biết ơn ngài, và luôn cầu mong ngài được bình an, mạnh khỏe và hạnh phúc.
Đoan Thuận.
Gấp vội phong thư, Bửu Toàn bước tới đón lấy đứa bé trên tay bà Diệu Anh, rồi ông ôm siết đứa bé vào lòng. Linh cảm mách bảo với Bửu Toàn rằng đấy là đứa con ruột thịt của ông. Ông cảm thấy như được sống lại. Ông bấm vào đầu ngón tay tự hỏi đây là thực hay mơ, rồi ông hôn đứa bé từ đầu đến chân. Đứa bé vừa ngơ ngác rụt rè lại vừa sợ hãi nên cứ co rúm người lại. Diệu Anh lật đật chạy vào phòng trong rồi trở ra với chiếc khăn bông mềm, mấy thứ trái cây và bánh ngọt, Diệu Anh nói:
- Ba đặt bé ngồi lên chiếc đôn sứ này để em lau mặt cho bé.
Bửu Toàn làm theo lời Diệu Anh, đặt đứa bé ngồi trên chiếc đôn sứ rồi ông quỳ xuống bên ngắm nghía bé, trong lúc Diệu Anh lau mặt mũi tay chân cho bé xong, đưa bánh và trái cây bảo bé ăn.
Cô bé cầm chiếc bánh thuẫn cắn từng miếng nhỏ, nhai cẩn thận, rồi đòi uống nước. Hình như cảm thấy mọi người chung quanh đều sẵn sàng thân thiện với bé, nên khi ăn bánh xong bé tụt xuống khỏi đôn sứ, bước đi mấy
bước vừa nở nụ cười phô những chiếc răng sữa trắng muốt và đều tăm tắp. Bửu Toàn cảm thấy lòng se thắt lại khi nhận ra vành môi ấy, nụ cười ấy và cả đôi hàm răng trắng nhỏ kia... Tất cả là của Đoan Thuận. Một Đoan Thuận thứ hai vừa tái sinh trong cuộc đời ông. Ông cúi xuống bồng đứa bé lên rồi ôm chặt nó vào lòng, ông cảm thấy tim mình vẫn còn đập mạnh, tay chân vẫn còn run rẩy vì chưa hết xúc động bàng hoàng... Bà Diệu Anh đến bên dịu dàng nói:
- Nếu ba Vĩnh Tuấn không chê em vụng thì hãy để cho em được chăm sóc bé. Phụ nữ vẫn quen việc chăm bẵm trẻ con hơn...
Bửu Toàn nhìn thấy vẻ dịu dàng chân thành và có chút gì nhẫn nhục trong lời nói của Diệu Anh, ông cảm thấy xao lòng, nói:
- Nếu mẹ Vĩnh Tuấn thương yêu chăm sóc được bé thì không gì tốt bằng. Anh vào cùng biết ơn...
- Ơn với nghĩa chi!
Diệu Anh nói rồi đi vào phòng của Vĩnh Tuấn - cũng là phòng trước đây của Ân Thụy Thái Vương - thu xếp một chỗ tươm tất trên bộ ngựa gõ cho bé rồi bà nói với Vĩnh Tuấn:
- Cho em bé nằm nghỉ ở đây. Đến tối mẹ đưa em về ngủ chỗ mẹ nhé!
Diệu Anh làm vậy là muốn để cho Bửu Toàn ở đấy mà bồng bế âu yếm đứa bé cho đến lúc nào ông trở về ngôi nhà trên đường Chương Đức, bà mới thay ông làm việc đó. Không ngờ nghe mẹ bảo xong Vĩnh Tuấn nói:
- Mẹ ạ, con muốn em bé ở lại đây với con, ba cũng ở đây với con. Cả ba, cả con và em bé cùng nằm trên bộ ngựa gõ hoặc cùng nằm trên giường ông nội, ba nhé,mẹ nhé?
Diệu Anh không đáp, đưa mắt nhìn lướt qua Bửu Toàn, khi Bửu Toàn mỉm cười bồng em bé đi vào chỗ mà Diệu Anh vừa thu xếp.
Ăn cơm tối xong một lát em bé dụi mắt tỏ vẻ muốn ngủ, Diệu Anh bồng về phòng riêng của mình. Bửu Toàn dặn Vĩnh Tuấn mấy việc rồi lái xe về ngôi nhà trên đường Chương Đức. Gần như suốt đêm ông không ngủ được. Ông chưa hết bàng hoàng, ông không tin đó là sự thật! Ông đọc phong thư của Đoan Thuận không biết bao nhiêu lần, ông chong đèn suốt đêm nằm mở mắt nhìn lên trần nhà. Khi phong thư của Đoan Thuận đã bị nước mắt ông làm nhòe, ông vội lấy khăn thấm khô. Nhưng càng thấm lại càng nhòe, vì nước mắt ông vẫn tiếp tục rơi. Khi ấy ông mới tin đó là sự thật. Ông hình dung Đoan Thuận đi tham gia cách mạng như thế nào. Khi biết mang thai tâm trạng của Đoan Thuận ra sao? Vui mừng hay lo lắng? Rồi Đoan Thuận một mình tự xoay xở lấy để chờ ngày đứa con ra đời. Sinh con và nuôi con trong điều kiện thiếu thốn mọi thứ ở vùng kháng chiến, rồi muốn được tiếp tục tham gia công tác chắc chắn Đoan Thuận phải gửi con vào nhà dân nhờ dân nuôi giúp. Khi đứa con đã hơn hai tuổi, nếu không chuẩn bị bước vào chiến dịch mới và sợ sẽ hy sinh trong chiến dịch đó, bỏ lại con thơ không ai nuôi - chắc gì Đoan Thuận đã chịu gửi con về cho ông? Tính cách của Đoan Thuận thì ông đã quá rõ. Đứa con này là một báu vật thiêng liêng vào giá đối với cô, đời nào cô chịu rời con ra? Nhưng tình thế buộc cô phải rời xa con, tìm chỗ gửi gắm con thơ trước khi vào trận. Gửi con về cho Bửu Toàn là một quyết định đúng đắn. Nhưng chiến khu là chiến khu nào? Đứa bé đã đi một đoạn đường dài cỡ nào trước khi đến được phủ Vinh Quốc Phong? Bửu Toàn hình dung ra một đường dây liên lạc hết sức chặt chẽ, rất đồng bộ từ chỗ Đoan Thuận về đến nhà ông. Bao nhiêu người đã chuyền tay nhau ẵm bồng gìn giữ chăm sóc để đưa đứa con đến tận tay ông. Người đàn bà ăn mặc sang trọng đi trên chiếc ô tô đời mới, bóng lộn, hẳn là một cơ sở nội thành hết sức khôn khéo đã trinh sát mục tiêu rất kỹ trước khi xuất hiện cùng với đứa bé và phong thư của Đoan Thuận rồi ra đi vội vàng.
Buổi sáng Bửu Toàn trở lại phủ Vinh Quốc Phong rất sớm. Diệu Anh trao đứa bé cho Bửu Toàn rồi đi chợ mua mấy bộ áo váy và giày dép cho bé. Diệu Anh không quên mua mấy món đồ chơi và quà bánh rồi lật đật về nhà, ướm thử áo xống và giày dép, trao đồ chơi và bánh trái cho bé rồi đi làm thức ăn xong trước giờ dạy chừng ba mươi phút, bà lật đật đạp xe tới trường.
Kể từ hôm ấy Diệu Anh lúc nào cũng bận rộn tíu tít nhưng lúc nào cũng cảm thấy một niềm vui. Niềm vui ấy cứ lớn dần lên, lan rộng mãi không thôi... Diệu Anh xưng với bé bằng mẹ và gọi bé bằng một cụm từ thân yêu là "Con gái của mẹ". Trong lúc Diệu Anh bận làm việc thì Vĩnh Tuấn trông em và chơi với em thật ngoan. Vĩnh Tuấn càng vui hơn và yêu quý em hơn vì từ khi có em, ba thỉnh thoảng ở lại đêm với Vĩnh Tuấn. Em chơi với ba đầu hôm rồi sau đó về phòng ngủ với mẹ. Sáng sớm mai mẹ để em ở nhà với chị giúp việc rồi đi chợ. Cũng có khi mẹ đi dạy sớm, trưa về ghé chợ mua thức ăn, rồi mẹ và chị giúp việc vừa nấu cơm vừa trông coi em và dọn dẹp nhà cửa. Đến bữa cơm lúc nào mẹ cũng tự tay cho em ăn chứ chưa bao giờ để việc đó cho chị giúp việc.
Bửu Toàn đã chọn một cái tên vừa ý để làm khai sinh cho em bé. Hôm cầm tờ khai sinh về Bửu Toàn đặt lên bàn học của Vĩnh Tuấn. Diệu Anh đến bên đọc lướt qua và tay chân bà chợt run rẩy: Anh Thi, con gái của ông Nguyễn Phúc Bửu Toàn và bà Nguyễn Khoa Diệu Anh.
Trời đất quay cuồng như muốn sụp đổ. Diệu Anh quỳ sụp dưới chân bé Anh Thi khóc rưng rức. Ông trời đã bất ngờ ban tặng cho bà một niềm hạnh phúc lớn lao. Cùng một lúc bà có được đứa con gái đẹp như thiên thần và sự tin cậy của người chồng tưởng đã mất vĩnh viễn. Nhìn thấy mẹ khóc, bé Anh Thi lo lắng không biết vì sao, bé đưa bàn tay nhỏ xinh bụ bẫm vỗ nhè nhẹ lên vai, lên tóc mẹ vừa hỏi han dỗ dành:
- Ai làm gì mẹ? Ai đánh mẹ thế? Mẹ nín đi, đừngkhóc nữa!...
Nói rồi bé kéo vạt áo đầm màu hoàng yến lên lau nước mắt cho mẹ. Diệu Anh ôm chầm lấy con, nước mắt làm ướt hết cả vạt áo đầm mẹ mới mua cho bé hôm trước.
Ban đầu Bửu Toàn định đặt tên cho con gái là Anh Thư khi nghĩ đến tính cách của Đoan Thuận. Nhưng sau đó ông quyết định đặt tên con là Anh Thi, vì ông tin rằng rồi đây sắc đẹp của Anh Thi sẽ không thua kém gì Tây Thi một thuở.
Dưới mái rêu phong của phủ Vinh Quốc Phong lại rộn rã tiếng cười đùa của trẻ thơ và những lời dạy bảo dịu hiền ngọt ngào của người lớn.
Tuy ở hậu cứ nhưng các lực lượng vũ trang vẫn luôn tổ chức những trận đánh bất ngờ vào đồn bốt địch làm cho giặc Pháp ngày đêm lo lắng và tăng cường bố phòng nghiêm ngặt hơn. Bộ tư lệnh lực lượng Pháp ở miền Trung đặt tại Huế. Tổ chức mật thám Liên bang Đông Dương Trung Kỳ cũng đặt tại
Huế. Lực lượng quân sự cũng như lực lượng mật thám điệp viên ở Huế dày đặc, ngày đêm tổ chức đánh phá các cơ sở cách mạng. Trong điều kiện đó những cán bộ nằm vùng cũng như các gia đình cơ sở có con em đi kháng chiến lúc nào cũng nơm nớp lo âu. Bửu Toàn và Phan Tấn không thoát khỏi tình cảnh đó. Lúc nào hai người cũng tự đặt ra cho mình những giả thiết và tình huống bất ngờ xảy ra để chủ động lên phương án đối phó. Và không hẹn, nhưng mỗi lần nghe súng nổ, nghe có trận đánh nhau ở đâu đó là niềm tin trong lòng được củng cố, hôm ấy cả nhà đều vui và âm thầm làm những bữa liên hoan nhẹ chúc nhau giữ bền lòng son dạ sắt với cách mạng, với kháng chiếncứu nước.
Năm 1949 vùng nông thôn giải phóng đã được mở rộng. Các khu du kích và căn cứ du kích của các huyện trong tỉnh đã áp sát thành phố, ngày đêm quân du kích tăng cường các trận đánh theo chiến thuật du kích, trên các trục lộ giao thông, đặc biệt là trên Quốc lộ I làm cho bọn địch ăn không ngon, ngủ không yên. Tháng 2 năm 1949, địch cho hơn ba ngàn quân tấn công chiến
khu Dương Hòa. Hai bên đánh nhau quyết liệt. Bọn Pháp muốn biến chiến khu Dương Hòa thành vùng trắng nhưng thất bại. Sau khi quân địch rút, chiến khu Dương Hòa được củng cố mạnh hơn.
Biết vùng kháng chiến thiếu thốn nhiều thứ, nhân dân Huế đã âm thầm quyên góp tiền bạc, văn phòng phẩm, thức ăn, thuốc men... bí mật tìm đường gửi lên chiến khu cho cán bộ và bộ đội.
Đúng như Bửu Toàn dự đoán, hai người con trai của mệ Hy là Tôn Thất Hoan và Tôn Thất Hỷ sau khi bị đưa sang Pháp, chúng bố trí hai anh làm lính thợ. Sau thế chiến thứ hai, những người lính này lần lượt được trở về quê hương. Riêng Tôn Thất Hoan còn tìm cách ở lại hoạt động trong phong trào Công đoàn ở Tân Ghi nê, sau đó bị Pháp bắt và trục xuất về nước, nhưng lại không cho sống tự do với gia đình, mà hàng ngày bọn mật thám luôn rình rập anh. Lại có tin bọn Pháp sắp chuyển Tôn Thất Hoan cùng với một số người có lý lịch tương tự như anh đến sống tập trung ở một vùng khác để chúng dễ bề quản thúc. Lần này không đợi Tôn Thất Hy chạy đi cửa nọ cửa kia để lo cho con trai, mà Bửu Toàn đã chủ động tìm bắt liên lạc với Ủy ban Hành chánh Kháng chiến và giới thiệu Tôn Thất Hoan ra vùng giải phóng để lên chiến khu. Vì Bửu Toàn biết, với tay thợ bậc cao lại có kinh nghiệm trong hoạt động Công đoàn, chắc chắn Tôn Thất Hoan sẽ giúp ích cho kháng chiến.
Trong một lần bí mật đi quyên góp để ủng hộ kháng chiến, Phan Tấn gặp Sa đang mang trái cây trong vườn ông bà Bửu Tín đi bán ở chợ Đông Ba. Sa đưa một túi quýt cho Phan Tấn và nói:
- Em không có gì, chỉ ủng hộ một ít trái cây chokháng chiến.
Phan Tấn cất túi trái cây, nói lời cảm ơn rồi đi ngay. Về sau, khi đã trở nên thân thiết Phan Tấn mới biết mình nhỏ hơn Sa một tuổi, và rất đỗi thương cảm khi biết quá khứ đau buồn và bất hạnh của Sa. Còn bây giờ thì chưa. Bây giờ Phan Tấn rời khỏi chợ Đông Ba rồi mà lòng còn bâng khuâng nhớ khuôn
mặt, ánh mắt, làn da... tất cả những cái đó làm nên một vẻ đẹp mặn mà đằm thắm trẻ trung hết sức đáng yêu của cô hàng trái cây.
Hôm trên đường lên chiến khu, túi trái cây được một nữ cán bộ mở ra để phân phát cho mọi người. Tôn Thất Hoan nhận ra những trái quýt giống Ý Đại Lợi trong vườn phủ Vinh Quốc Phong do vợ chồng Bửu Tín và cô Sa chăm bón.
Tháng 7 năm 1949, mặc dầu biết đưa Bảo Đại trở về Huế là việc hết sức khó khăn, nhưng thực dân Pháp vẫn cố làm cho bằng được. Chúng tổ chức đón tiếp Hoàng đế Quốc trưởng "hồi loan" bằng một buổi lễ được huy động theo kiểu quân đội và cảnh sát bố trí dày đặc từ ngoại ô nơi giáp cửa ngõ thành phố rồi đi vào thành phố. Trước đó chúng cho người đến từng nhà dân để vận động đi đón Bảo Đại, cứ mỗi người dân thành phố đi đón thì được tặng một chiếc nón với bốn đồng bạc, mỗi người dân ở thôn quê thì được tặng một chiếc nón với mười sáu đồng bạc. Trong điều kiện đời sống nông thôn còn nghèo khổ thì số tiền ấy đủ cho một người sống qua vài tuần, nhưng nhân dân không chịu đi. Bọn cảnh sát và binh lính phải gí mũi súng và lưỡi lê vào từng người, áp giải họ ra đường để đón tiếp Hoàng đế Quốc trưởng! Cuộc đón tiếp kiểu nào rồi cuối cùng cũng qua. Nhưng điều quan trọng là sau khi trở lại cung điện của mình, ngay đêm đầu tiên Bảo Đại đã được chào đón bằng một loạt đạn súng cối của lực lượng vũ trang thành phố giọt vào gần long sàng! Bảo Đại sợ quá phải chui ngay xuống hầm để ẩn nấp. Và ngày hôm sau, xe thiết giáp của quân đội Pháp phải đến chở Hoàng đế Quốc trưởng thoát khỏi cung điện của mình, đưa lên Đà Lạt.
Tất cả những sự kiện này được Bửu Toàn viết thành một bài báo rất súc tích. Khi viết xong Bửu Toàn đưa cho độc giả đầu tiên là Phan Tấn đọc. Đọc xong bài báo Phan Tấn cứ chép miệng khen hay quá! Hay quá! Bửu Toàn hỏi:
- Hay là hay ở chỗ nào? Như thế nào?
Phan Tấn thưa:
- Dạ con thấy hay nhất ở chỗ đọc xong bài báo mọi người dẫu ở xa Huế bao nhiêu cũng biết được thựcdân Pháp đã sử dụng con bài Bảo Đại như thế nào, và Bảo Đại đã dại dột tự biến mình thành một công cụ rẻ mạt trong tay người Pháp. Thảm hại nhất là cuộc trốn chạy khỏi Kinh thành Huế trên chiếc xe bọc thép của quânđội Pháp...
Thời gian này, bằng nhiều biện pháp riêng, Bửu Toàn cũng như luật sư Kim Hồng Ân và một số nhân sĩ trí thức khác vẫn thường xuyên có báo chí tiến bộ Pháp để đọc, kể cả báo của các đảng cộng sản. Bài báo trên được Bửu Toàn gửi đăng trên tờ Cahier du Communisme - tạm dịch là "Sổ tay Cộng sản". Về sau một tờ báo của Cục Thông tin Phong trào Cộng sản thế giới đăng lại. Qua đó nhiều người biết sự kiện Bảo Đại hồi loan, và biết tên tuổi của cây bút không chuyên Bửu Toàn từ lần ấy.
Nhân sự kiện này, giữa năm 1950, khi Mặt trận Liên Việt chuẩn bị ra tờ báo Quyết Thắng, Bửu Toàn được cơ cấu vào Ban chủ nhiệm.
Ngoài những tờ báo in từ chiến khu được bí mật đưa vào thành phố, thời gian này người dân Huế còn được đọc một tờ báo in ngay giữa lòng Kinh đô Huế. Xưởng in lụa ở tầng hầm nhà quan Thị Vấn trên đường La Citadelle được khai thác công suất tối đa. Anh Viết, con trai của quan Thị lại phải một mình lo đảm nhiệm việc ấn loát này. Và ngôi biệt thự trên đường Chương Đức trở thành trụ sở của báo, là tòa soạn, nơi ở và làm việc của Ban chủ nhiệm báo ngay trước mũi kẻ thù mà chúng không hề hay biết!
Mùa hè năm 1951, Vĩnh Tuấn trốn nhà gia nhập Vệ Quốc Đoàn khi vừa thi đỗ bằng Thành chung. Bà Diệu Anh khóc hết nước mắt. Bửu Toàn an ủi:
- Ông trời đã sắp đặt hết cả rồi. Để chuẩn bị cho Vĩnh Tuấn ra đi thì ông
trời đã đưa bé Anh Thi đến cho bà mấy năm nay rồi còn gì? Vả lại Vĩnh Tuấn cũng đã tròn mười sáu tuổi. Ngày xưa ở tuổi ấy đức Hoàng đế Duy Tân đã cùng với các ông Thái Phiên, Trần Cao Vân lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp...
Diệu Anh nghe Bửu Toàn nói rồi lấy khăn lau nước mắt, ngồi im lặng suy nghĩ miên man.
Bé Anh Thi ngồi trong lòng Diệu Anh vụt nhoài người lên đưa bàn tay bụ bẫm nhỏ xíu sờ soạng lên mặt, lên miệng bà Diệu Anh nói:
- Mẹ à, anh Vĩnh Tuấn nói anh đi rồi anh sẽ về, sẽ mua cho con một con gà tu huýt thổi kêu ở đằng đuôi...
- Ừ, anh đi rồi anh sẽ về. - Diệu Anh cúi xuống vuốt tóc rồi nắm lấy bàn tay nhỏ xíu của Anh Thi, nói: - Con phải chịu khó ăn nhiều vào cho mau lớn để ngày về anh Vĩnh Tuấn khen con ngoan nhé!
- Dạ...
Trong lúc nhà Bửu Toàn có những biến động về nhân số và sự kiện thì gia đình Bửu Tín luôn bao trùm một không khí nặng nề buồn thảm vì nỗi mất con. Càng về sau càng không có mấy hy vọng có thể tìm thấy lại được Công Huyền Tôn Nữ Liên Chi.
Một số quan chức của triều đình về vườn, bất đắc chí thường tụ tập đánh tài bàn, mạt chược, tổ tôm, uống rượu, làm thơ, thỉnh thoảng nói kháy, chửi đổng. Riêng ông Tri phủ Bửu Tín không giống đám người kia. Ông trở nên thầm lặng, ít nói, không muốn giao du. Ông đòi ăn chay, tụng kinh niệm Phật, đọc sách báo và suốt ngày đêm chuyên tâm cầu nguyện cho Công Huyền Tôn Nữ Liên Chi được tai qua nạn khỏi, tật bệnh tiêu trừ. Và ông thầm cầu mong có một phép màu nhiệm nào đó cho ông được gặp lại Liên
Chi một lần...
Niềm mong ước của người mẹ - của Diệu Anh đã trở thành hiện thực. Tháng 7 năm 1954, khi hòa bình lập lại Vĩnh Tuấn trở về gặp ba, gặp mẹ và em gái. Nhưng còn một người nữa mà Bửu Toàn mỏi mắt chờ mong mãi không thấy về! Ngôi biệt thự trên đường Chương Đức bao năm nay vẫn được lau chùi, quét dọn tu sửa và xén tỉa cây cảnh để chờ Đoan Thuận và mong cô được bình an trở về gặp lại ông. Lúc đó ông sẽ không câu nệ gì nữa, ông sẽ bất chấp dư luận, ông sẽ đánh đổi tất cả để được sống với Đoan Thuận. Ông sẽ bù đắp những thiếu thốn mất mát khát khao mà suốt cả một đời cô đã thao thức vì ông...
Nhưng càng mong càng thấy biền biệt. Có thể Đoan Thuận đã hy sinh trong chiến dịch 1948 - ngày mà cô nhờ các tổ chức cơ sở móc nối để đưa con gái về giao tậntay ông.
- Không phải vậy! - Vĩnh Tuấn khẳng định: - Năm 1953 con vẫn còn gặp dì ấy trong một trạm quân y.
Bửu Toàn trố mắt ngạc nhiên nhìn Vĩnh Tuấn. Ông giục con trai kể lại cuộc gặp gỡ đó cho ông nghe. Vĩnh Tuấn nói:
- Sau trận đánh ở cứ điểm làng Han tại mặt trận Yên Khương địch chết như rạ, chắc ba đã nghe? Hồi đó con bị thương ở chân phải. Sau khi sơ cứu xong con được đưa về tuyến sau điều trị. Tại một trạm quân y ở Hà Tĩnh có một bác sĩ sau khi thăm khám vết thương của con xong, ông ta quay người lại nói với một đồng sự của ông ta rằng với tình trạng vết thương như thế này thì cách tốt nhất là nên cưa đứt chân. Ông ta nói bằng tiếng Pháp. Nghe xong con hoảng quá, con cố chống tay ngồi dậy dù toàn thân rất đau nhức. Con cũng nói tiếng Pháp với ông ta rằng chân của tôi chỉ bị thương ở phần mềm. Do ở tiền phương thiếu phương tiện và thuốc men điều trị nên mới phải đưa về đây để các bác sĩ điều trị cho tôi. Theo tôi nghĩ vết thương này chưa đến nỗi phải
cưa chân. Nghe con nói xong, ông ta tháo đôi kính cận trố mắt nhìn con thau láu một hồi rồi khoát tay bước lên phía trước. Vị bác sĩ cùng đi bước theo sau. Mười lăm phút sau người ta đưa con vào phòng mổ vết thương, làm thuốc, tiêm thuốc... Xong mọi việc, cô y tá đặt con lên xe đẩy đưa trở về giường bệnh. Khi cô y tá bước ra khỏi phòng bệnh, vừa đi vừa tháo khẩu trang, con kịp nhận ra đó là dì Đoan Thuận. Con còn nhớ rõ khuôn mặt của dì hôm về dự đám tang ông nội, đặc biệt là đôi mắt, về sau này con gặp lại đôi mắt ấy ở bé Anh Thi. Con bất thần gọi to:
- Dì Đoan Thuận!
Dì Đoan Thuận giật thót khi bất ngờ người bệnh gọi tên mình quá to, liền quay lại, đi đến bên con hỏi:
- Đồng chí là...
- Dì không nhận ra con sao? Con là Vĩnh Tuấn - con trai của ba Bửu Toàn đây!
Dì Đoan Thuận mặt biến sắc, đôi môi mấp máy, hai tay run, đứng như chết lặng trong giây lát rồi cúi xuống nắm chặt bàn tay con, run giọng nói:
- Thật là quá may mắn dì được gặp Vĩnh Tuấn ở đây. Vĩnh Tuấn có biết tin gì về bé Nhớ?
Con kể cho dì nghe bé Nhớ đã được đưa đến nhà như thế nào. Ba và mẹ đã thương yêu bé như thế nào. Và tên khai sinh của bé là Anh Thi. Nói rồi con nhờ dì lục tìm ba lô của con để con đưa cho dì coi tấm hình của em Anh Thi mới chụp mấy hôm trước lúc con trốn nhà tham gia kháng chiến. Có thể nói bức ảnh là món quà quý giá nhất đối với dì Đoan Thuận. Dì đã ôm hôn bức ảnh rồi ghì chặt vào lòng như thể dì đang ôm bé Anh Thi bằng xương bằng thịt vậy.
Từ đó hàng ngày dì tranh thủ thời gian để được ở bên con nhiều hơn, chăm sóc con từng li từng tí. Và dì rất muốn nghe con kể nhiều hơn nữa về bé Anh Thi, về ba, về mẹ. Thế rồi khi vết thương đã ổn, con phải trở về đơn vị. Con và dì Đoan Thuận trao địa chỉ cho nhau. Buổi chia tay hôm đó con với dì lưu luyến nhau lắm. Dì Đoan Thuận như không thể rời xa con! Lúc đó con có cảm tưởng dì coi con như là bé Anh Thi vậy. Nhưng khi trở về đơn vị con đã mấy lần viết thư cho dì mà không thấy hồi âm.
Có người nói ngay sau lúc con xuất viện, trạm quân y đó phải dời đi chỗ khác vì bị máy bay địch ném bom. Chẳng hiểu trận ném bom đó có tổn thất nhiều không. Dì Đoan Thuận có mệnh hệ gì không mà con mong ngóng mãi vẫn bặt tin...
Nghe đến đây Bửu Toàn đưa tay trấn lên ngực. Còn Diệu Anh đứng dậy đi vào bàn thờ thắp hương lên bàn Phật rồi chắp tay cúi đầu cầu nguyện trong lặng im. Bé Anh Thi vẫn vào tư chạy nhảy tung tăng đuổi theo một con chuồn chuồn ớt màu đỏ lựng đang chập chờn dưới thềm hoa.
Vĩnh Tuấn trở về không có con tu huýt gà bằng đất thổi kêu ở đằng đuôi để tặng cho em gái như lời anh hứa hơn ba năm về trước. Nhưng suốt ngày anh loay hoay sửa chiếc lồng chim để nhốt con khướu, làm con búp bê bằng những cánh hoa hồng hoa cúc ép khô, chuốt đôi đũa tre nhỏ xinh thật bóng, đan chiếc quạt nan nhỏ vừa tay cầm của Anh Thi, lấy chiếc bẹ cau làm thuyền cho Anh Thi thả chơi vào bể non bộ...
Ngày tháng dần trôi, hai anh em cứ lớn dần lên mà mẹ Đoan Thuận của em vẫn không thấy trở về.
Tuy yêu mến và biết ơn người cha dượng đã nuôi mình ăn học và tìm nơi gả chồng cho mình hết sức tử tế, nhưng càng về sau này Hương Thảo càng ít đi lại thăm viếng Hoàng thân Bửu Toàn. Từ sự kiện Đoan Thuận bỏ nhà ra đi, rồi mấy năm sau nghe nói Hoàng thân có thêm một đứa con gái với bà Diệu
Anh, Hương Thảo rất lấy làm khó chịu. Bởi vì hơn ai hết Hương Thảo là người biết rất rõ từ sau cái chết của bà Mộc Lan, Hoàng thân Bửu Toàn chỉ biết dồn tình thương yêu vào việc nuôi dạy hai chị em Hương Thảo và Đoan Thuận. Sau này khi Đoan Thuận đã lớn, cô đem lòng yêu Bửu Toàn và đã tìm đủ mọi cách để biểu lộ tình cảm với ông, để chinh phục ông nhưng không có kết quả. Có thể nói đấy là một thành trì kiên cố, bất khả xâm phạm! Vậy mà Hoàng thân đã chính thức quay lại với người đàn bà mà ông ly dị từ lâu? Nếu quả thật như vậy thì cũng... thuận lẽ đời thôi! Bởi vì bà Diệu Anh là người vợ đầu tiên được đôi bên gia đình ưng thuận và là người đã sinh ra cho Bửu Toàn một cậu con trai. Hương Thảo tự an ủi mình như vậy. Rồi một hôm, Hương Thảo tình cờ gặp bà Diệu Anh dắt cô con gái đi chợ Gia Lạc. Hôm ấy mồng năm Tết Nguyên đán Canh Dần 1950, Hương Thảo đang chọn mua cho cô con gái Kim Hồng Mai, những con giống xinh xắn bằng bột lọc nhuộm phẩm màu rực rỡ, nào là chim, gà, rùa, sư tử, rồng, phụng, ông lão câu cá, nàng tiên... thì bất ngờ một cô bé mặc áo đầm đỏ sà xuống, kéo tay người mẹ vừa líu lo đòi mua món này món khác... Còn nhớ ngày còn học trường Khải Định, Hương Thảo đã tìm gặp để biết mặt bà Diệu Anh, nhưng bà Diệu Anh chưa biết Hương Thảo. Còn đứa bé gái Hương Thảo nghe nói những ngày gần đây, bây giờ được tận mắt nhìn thấy quả là xinh xắn, dễ thương và được mẹ yêu chiều quá mức.
- Con thích cô tiên kia... - Cô bé vòi vĩnh.
- Nhưng mà hết cô tiên rồi. Thôi con chơi mấy thứ này cũng đẹp, nào ông thọ, nào con rồng, con cá... - Bà Diệu Anh dỗ con.
- Nhưng con thích cô tiên...
- Đây, cô tặng cháu cô tiên này. - Hương Thảo nói rồi đặt cô tiên vào bàn tay nhỏ xíu của bé Anh Thi.
Bà Diệu Anh ngỡ ngàng trong lúc bé Anh Thi ngước đôi mắt tròn đen ngơ
ngác lên, đôi môi chúm chím nở nụ cười. Bà Diệu Anh nói: - Thật quý hóa quá! Rất cám ơn cô!
Quay sang bé Anh Thi, bà Diệu Anh giục:
- Con hãy nhận và cám ơn cô đi con!
Bé Anh Thi từ từ nắm cô tiên trong bàn tay nhỏ xíu của mình, đôi rèm mi dày khẽ chớp rồi ngước lên nói:
- Cháu cám ơn cô ạ!
Trời đất! Một cái nhìn rất quen thân, vì đó là con gái của Bửu Toàn? Hương Thảo tự hỏi và đang dùng dằng muốn kéo dài giây phút này ra thì bất ngờ một thiếu niên từ góc chợ đằng kia chạy tới kéo tay bà Diệu Anh hối hả:
- Mẹ ơi, đằng kia có con tu huýt gà thổi kêu ở đằng đuôi, mẹ tới mua cho hai anh em con đi!
- Ở đâu hở anh Vĩnh Tuấn? - Cô bé níu lấy tay anhtrai hỏi.
- Ở đằng kia kìa... - Cậu con trai lại giục mẹ đi mua.
- Ừ, để mẹ đi! - Nói đoạn bà Diệu Anh khẽ gật chào Hương Thảo rồi ba mẹ con dắt díu nhau đi.
Vĩnh Tuấn chưa bao giờ gặp Hương Thảo, nhưng Hương Thảo đã nhìn thấy Vĩnh Tuấn một lần khi cậu đi cùng với ba mình vào hội chợ. Và Hương Thảo cũng đã được nghe Đoan Thuận nói về cậu bé này hôm Đoan Thuận về
dự lễ tang Ân Thụy Thái Vương. Hương Thảo chỉ tới ngôi nhà trên đường Chương Đức để nói lời chia buồn với ba Bửu Toàn và thắp hương lên bàn thờ vọng đặt ở đấy mà thôi. Hôm ấy trên đường từ chợ Gia Lạc trở về nhà, hình ảnh ba mẹ con bà Diệu Anh cứ đọng mãi trong tâm trí Hương Thảo. Đó là
một gia đình hạnh phúc. Dẫu sao thì má cũng đã mất lâu rồi và không sinh cho ba được đứa con nào. Hương Thảo tự an ủi mình và lý giải để biện hộ cho Bửu Toàn. Ba còn trẻ, không lẽ lại cứ giam mình trong nỗi buồn thương, nhớ tiếc mãi má của Hương Thảo? Ba phải sống nốt cuộc đời của ba chứ! Nhưng tại sao ba lại vội vàng quay về với bà Diệu Anh đến thế? Phải chăng đó là lý do làm cho ba cứ một mực khước từ tình cảm của Đoan Thuận? Nhiều người cho rằng Đoan Thuận đã một thân một mình qua Pháp sinh sống. Nhưng nếu quả thật như vậy sao Đoan Thuận không hề có một lời một chữ cho Hương Thảo biết? Cũng có lời đồn đoán rằng Đoan Thuận đã cặp với một chàng sĩ quan trường Thanh niên Tiền tuyến cùng đi lên chiến khu kháng chiến... Tất cả đều vào căn cứ. Bởi vì những việc lớn như thế sao Đoan Thuận không hề tỏ ra một dấu hiệu nào cho Hương Thảo biết, kể cả với Hoàng thân Bửu Toàn? Cứ nhìn thấy vẻ mặt âu sầu thảng thốt của ông khi bươn chải đi tìm Đoan Thuận khắp nơi cũng đủ biết ông đau khổ tuyệt vọng biết nhường nào! Nhiều lúc Hương Thảo trào nước mắt khi nghĩ rằng vì quá đau đớn tuyệt vọng mà em gái mình đã tìm đến một cái chết không để lại tăm tích! Giả thiết này trước đó đã nhiều lần bị bác bỏ - nhất là Bửu Toàn và luật sư Kim Hồng Ân cho rằng con người ta một khi muốn tìm đến cái chết thì không dại gì mà phải mang theo hành lý, đồ dùng. Nhưng Hương Thảo nghĩ với một tính cách cực đoan quyết liệt như Đoan Thuận thì điều đó có thể xảy ra. Đoan Thuận muốn ra khỏi nhà của Bửu Toàn không để lại một lời một chữ nào. Đó cũng là một cách trừng phạt ông!
Tuy không hy vọng nhiều lắm về việc Đoan Thuận trở thành người kháng chiến, nhưng khi cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp kết thúc, một số người đi kháng chiến lần lượt trở về, Hương Thảo cứ ngóng trông và thầm cầu mong trong số đó có Đoan Thuận. Vì thế thời gian này Hương Thảo thường ghé qua chỗ Bửu Toàn để nghe ngóng tin tức Đoan Thuận, nhưng lúc nào cũng gặp ánh mắt buồn phiền thất vọng của Bửu Toàn. Hoặc gặp lúc không có Bửu Toàn ở nhà, Phan Tấn nói:
- Ông con ngày nào cũng ra ngẩn vào ngơ, có lúc leo lên thượng thành đứng trông về bốn phía, lúc đi bộ một vòng ra quảng trường Phu Văn Lâu - Thương Bạc rồi trở về, nét mặt buồn lắm!
Chiều nay Hương Thảo đi với chồng và con gái Kim Hồng Mai đến thăm ông. Trong lúc Kim Hồng Mai mải chơi hái hoa bắt bướm với chú Phan Tấn ngoài sân, Hương Thảo đi vào phòng em gái, ngắm sững sờ chân dung Đoan Thuận xinh tươi phơi phới đang nhìn Hương Thảo và khẽ mỉm cười... Một lúc sau Hương Thảo bước ra đến bên chồng, đôi mắt đẫm lệ. Bác sĩ Kim Hồng Văn đang tranh luận với Bửu Toàn về vấn đề nhân quyền và dân quyền, vấn đề dân tộc tự quyết... Ông ngừng lại, rút khăn tay lau mắt cho vợ rồi cả ba hơi cúi đầu im lặng một hồi lâu. Như không thể chịu đựng hơn được nữa, Hương Thảo nấc lên:
- Làm sao mà mọi người đều có tin tức hết, chỉ trừ em con? Làm sao mà ai cũng đã trở về, em con không về?
Ba ơi!...
Bửu Toàn cố kìm nén cơn xúc động nói:
- Anh chị trông chờ em Đoan Thuận như thế nào, lòng ba đã biết. Ba cũng đang sống trong niềm hy vọng mong manh, ngày đêm mỏi mắt chờ mong...
Càng về sau Hương Thảo càng thấy không có hy vọng gì về sự trở về của Đoan Thuận. Nghĩ mà giận, giận lại càng thương người em gái số kiếp long đong này. Nhớ có lần Đoan Thuận đã nói: "... Đôi lúc em hận má. Lẽ ra má không nên lấy ba. Bởi vì cuộc hôn nhân này chỉ đem lại hạnh phúc cho riêng má, nhưng lại giáng bất hạnh xuống đầu bao nhiêu người! Chị cứ thử tính mà coi! Nếu má không bỏ chồng con để chạy theo quan ngài Hoàng thân đẹp trai lịch lãm hào hoa phong nhã Bửu Toàn thì giờ đây quan ngài ấy đã thuộc về em! Lẽ ra má phải nhường người đàn ông ấy cho con gái mình. Khi lần đầu
tiên gặp Hoàng thân, má không còn trẻ nữa, mà con gái má thì sắp lớn. Lẽ ra má phải tỉnh táo để nhận ra điều đó... Đôi lúc em cũng rất giận ba. Là người Tây học nhưng ba không dám bước qua lễ giáo phong kiến phương Đông, cái thứ lễ giáo trói buộc con người ta một cách phi lý. Mà cái lễ giáo này ngay người đặt ra nó - chính bản thân họ có thực hiện đâu?...” Phải chăng vì quá đau khổ và tuyệt vọng nên Đoan Thuận đã bỏ đi biệt xứ để cố quên một tình yêu ngang trái? Cố quên Bửu Toàn? Hoặc Đoan Thuận đã liều mình tìm đến cái chết để nhẹ thân? Một cái chết không để lại tăm tích? Ôi chao! Em ơi, Đoan Thuận ơi, sao em nông nổi ra vậy?! Còn Bửu Toàn? Quan ngài đã làm gì trước sự mất mát này? Nói rằng ngài vẫn thương yêu trông chờ Đoan Thuận, nhưng cùng lúc ngài cũng chăm lo chánh thất của ngài ở phòng phủ Vinh Quốc Phong! Ở đó ngài có một người vợ vốn dòng tộc danh tiếng, ngài có con trai, con gái... đủ hết. Chỉ có em tôi là khổ, khổ vì ngài!
Hương Thảo nghĩ vậy rồi quay quắt tìm đến chỗ Bửu Toàn. Nhưng Bửu Toàn không có ở nhà, Phan Tấn thưa:
- Ông con đi từ sáng sớm chưa thấy về. Có thể là đến nhà mấy người bạn, cũng có thể về phủ Vinh Quốc Phong.
Chào tạm biệt Phan Tấn xong, Hương Thảo mạnh dạn quyết định tìm về phủ Vinh Quốc Phong để những muốn tận mắt nhìn thấy cái ngôi chánh thất của quan ngài Bửu Toàn nó êm đềm hạnh phúc ra làm sao!
Nhìn thấy khuôn viên phủ được bao quanh bởi một bức tường thành bằng gạch trát vữa lâu ngày bám đầy rêu xám, Hương Thảo bùi ngùi chạnh nhớ màu xám của bức tường thành bao bọc ngôi nhà trong phố cổ Hội An. Nhưng khi bước chân vào bên trong phủ, cảm giác bùi ngùi ấy liền biến mất, nhường chỗ cho sự thán phục trước sự bày biện tuyệt vời của hoa trái cây cảnh, cùng sự phân cách rạch ròi khu phủ thờ và các khu nhà ở. Không mấy khó khăn Hương Thảo đã tìm ra được ngôi nhà của tôn trưởng. Tiếp Hương Thảo là một chàng thanh niên trên hai mươi tuổi, đi bộ đội về đang học tiếp để thi lấy
bằng Tú tài. Rắn rỏi và chững chạc, có vài nét phảng phất giống Bửu Toàn. Anh tự giới thiệu tên là Vĩnh Tuấn, cho biết Hoàng thân Bửu Toàn hiện không có ở nhà.
Sau khi mời Hương Thảo ngồi lên chiếc đôn sứ cạnh bàn nhỏ đặt ở chái Tây với tách trà nóng, Vĩnh Tuấn nói:
- Tuy chưa được gặp, nhưng qua tìm hiểu tôi được biết dì Đoan Thuận còn có một người chị tên là Hương Thảo. Vậy ra... đây là quý bà Hương Thảo?
- Dì Đoan Thuận? Cậu gọi Đoan Thuận bằng dì ư?
- Thưa bà, xưa nay theo lẽ thông thường, người đàn bà nào cùng với cha mình đẻ ra cho mình những đứa em trai em gái thì mình phải gọi người ấy bằng dì chứ ạ?
- Đẻ ra những đứa em trai em gái? Cậu nói gì tôi không hiểu?! Nhưng tôi hỏi cậu, trước tiên cậu có biết Đoan Thuận là con của ai không?
- Thưa bà, điều đó bà khỏi cần phải giới thiệu. Làm sao tôi lại không biết người đàn bà đã làm cho mẹ tôi đau khổ? Người đàn bà đã làm tan nát gia đình tôi, đã giật cha tôi ra khỏi tay mẹ tôi...
Hương Thảo run rẩy phải bíu những ngón tay vào mép bàn để giữ nguyên tư thế ngồi. Vĩnh Tuấn như không hề quan tâm đến điều đó, vẫn tiếp tục nói:
- Nhưng rất may là người đàn bà đó đã không hề có con với cha tôi! Xét về mọi phương diện bà ấy không xứng đáng sinh ra những đứa con cho dòng họ này! Nhưng dì Đoan Thuận, dì đã sinh ra cho tôi một cô em gái rất thông minh, rất xinh đẹp. Tôi và mọi thành viên trong gia tộc rất biết ơn dì ấy. Đặc biệt với riêng tôi còn có mối thiện cảm với dì Đoan Thuận khi tôi bất ngờ được gặp dì trong một trạm quân y ở khu Bốn...
Hương Thảo không còn quan tâm đến việc người ta đang xúc phạm mẹ mình, cũng như về chuyện con cái của Đoan Thuận, Hương Thảo đứng phắt dậy, hơi chồm người về phía trước, nói như ngột thở:
- Cậu... cậu... đã gặp Đoan Thuận?!
- Vâng, tôi đi bộ đội. Tôi được gặp dì Đoan Thuận khi tôi bị thương, còn dì là y tá...
Đất dưới chân như sụp xuống, Hương Thảo vịn vào mép bàn lần bước rồi vin tựa vào chiếc cột nhà đứng thở dốc. Trời đất! Vậy là dự đoán Đoan Thuận đi tham gia kháng chiến quả không sai, nhưng...
- Cậu nói Đoan Thuận đã sinh con? Vậy con của Đoan Thuận đang ở đâu?
- Ồ, hóa ra bà không biết gì cả. Mà không biết là phải. Ngay cả bé Anh Thi chắc cũng không còn nhớ ra người mẹ đẻ của mình, bởi vì mẹ tôi đã trực tiếp nuôi dưỡng em khi em vừa được hai tuổi. Đó là một bí mật của gia đình tôi. Nhưng bà là chị ruột của dì Đoan Thuận nên tôi thấy cũng nên nói cho bà biết. Và rất mong bà giữ kín cho, vì em gái tôi còn đi học, còn lớn lên... Trước đây là vì sự an nguy của em tôi, nhất là lúc em mới được đưa từ chiến khu về...
“Bé Anh Thi”... “đưa từ chiến khu về“... Trời đất!... Vậy hóa ra cô bé xinh xắn mà Hương Thảo gặp ở chợ Gia Lạc năm nào là con gái của Đoan Thuận? Thảo nào... đôi mắt... Đúng rồi, đôi mắt rất đẹp, rất quen thân!... Ôi, con của Đoan Thuận...
Hương Thảo lần bước đến trước mặt Vĩnh Tuấn nói như cầu xin:
- Cậu làm ơn cho tôi được gặp con gái của Đoan Thuận, cho dì cháu tôi được nhận mặt nhau!
- Thưa bà, rất tiếc là giờ này bé Anh Thi đang đi cùng với mẹ tôi về giỗ bên ngoại, chả là hôm nay ngày húy của ông ngoại tôi. Nhưng nếu em gái tôi ở nhà, liệu có tiện không?... - Nói đến đây Vĩnh Tuấn ngừng lại suy nghĩ một lát rồi: - Thôi được, vì dì Đoan Thuận tôi sẽ cố gắng làm những gì liên quan đến dì ấy. Tôi sẽ chuẩn bị tinh thần cho em gái tôi. Có được thêm một bà dì nữa chắc chắn Anh Thi sẽ rất hạnh phúc, nhưng xin bà đừng giải thích gì về gốc tích mối quan hệ này, để cho em gái tôi đượchồn nhiên lớn lên trong không khí bình an trong trẻo và hạnh phúc...
- Tôi biết. Rất cám ơn cậu. Tôi sẽ làm theo lời cậu bảo. Giờ đây xin cậu cho biết thêm về dì Đoan Thuận...
- Tôi may mắn được ở cạnh dì trong lúc cuộc kháng chiến bước vào thời kỳ gian khổ và ác liệt nhất. Chúng tôi tạm biệt nhau khi tôi lành vết thương phải trở lại đơn vị chiến đấu...
Hương Thảo quá bất ngờ xúc động trước những điều Vĩnh Tuấn kể, nước mắt thấm ướt cả vạt áo dài màumận chín.
Hương Thảo khóc sưng vù cả đôi mắt khi bước ra khỏi phủ Vinh Quốc Phong. Một cảm giác vừa đau buồn vừa phấn chấn chiếm lĩnh cả tâm hồn Hương Thảo. Bất ngờ được biết tin tức của Đoan Thuận. Thật là vượt quá mong ước. Nhưng lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Vĩnh Tuấn nhìn thấy Đoan Thuận là vào mùa thu năm 1953. Bao nhiêu lâu rồi mà không thấy Đoan Thuận trở về. Đoan Thuận đã hy sinh? Hay Đoan Thuận đi với đoàn quân tập kết ra miền Bắc, đợi sau hai năm sẽ có hiệp thương tổng tuyển cử theo tinh thần của Hiệp định Genève 1954, khi ấy Đoan Thuận mới trở về? Còn đứa bé, theo như lời Vĩnh Tuấn kể, từ đầu mùa hè năm 1948 Đoan Thuận vì sợ mình hy sinh trong chiến dịch bỏ lại con thơ nên đã tìm cách gửi con về cho Bửu Toàn. Nhưng nếu còn sống, tại sao hòa bình rồi Đoan Thuận không tìm về với con? Như vậy khả năng Đoan Thuận còn sống sót tập kết ra Bắc là rất ít! Phải chăng Đoan Thuận chỉ sống một đoạn đời ngắn ngủi thôi
nhưng đã sống trọn vẹn, sống hạnh phúc? Một cuộc đời, một hướng đi, một tình yêu... Tất cả đều do Đoan Thuận tự quyết lấy cho chính mình và Đoan Thuận đã thỏa mãn? Kể cả khi quyết định gửi đứa bé trở về mái nhà của cha ông nó - Đoan Thuận đã tính toán rất kỹ. Là chị em ruột, từ trước nay không có việc gì không nói cho nhau biết, thế nhưng việc này Đoan Thuận không hề tiết lộ một chút gì với Hương Thảo. Ngày Đoan Thuận ra đi, Hương Thảo vừa mới sinh bé Kim Hồng Mai, còn nhớ buổi sáng hôm ấy Bửu Toàn hớt hải chạy tới nhà hỏi Đoan Thuận có đến thăm chị và cháu không?... Vậy là bé Anh Thi nhỏ hơn Kim Hồng Mai một tuổi. Chúng là chị em mà chưa bao giờ được nhìn thấy nhau. Kim Hồng Mai cũng chỉ mới được nhìn thấy dì Đoan Thuận qua những bức ảnh. Hương Thảo nghĩ - mặc dầu mình khẩn khoản xin Vĩnh Tuấn cho được gặp thăm bé Anh Thi và đã được Vĩnh Tuấn hứa, rồi dì cháu sẽ được gặp nhau, nhưng Hương Thảo sẽ không để cho Kim Hồng Mai gặp Anh Thi. Cũng như Hương Thảo chỉ đưa con đi lại thăm ông Bửu Toàn tại nhà riêng của ông trên đường Chương Đức, chứ không bao giờ đến phủ Vinh Quốc Phong. Khi con trẻ lớn lên, nó không cần phải biết ông Bửu Toàn còn có một gia đình ở phủ Vinh Quốc Phong, lại càng không nên để nó gặp Anh Thi... Nghĩ đến đây Hương Thảo cảm thấy lòng đau nhói. Vì chính Hoàng thân Bửu Toàn cũng không bao giờ nói cho Hương Thảo biết một chút gì về Đoan Thuận, về bé Anh Thi kia mà? “Đó là bí mật của gia đình tôi...” Lời của Vĩnh Tuấn như còn văng vẳng bên tai: "Dì Đoan Thuận đã sinh ra cho tôi một cô em gái rất thông minh rất xinh đẹp. Tôi và mọi thành viên trong gia tộc rất biết ơn dì ấy...”
NHỮNG DẤU CHÂN CỦA MẸ Hà Khánh Linh
www.dtv-ebook.com
Chương 3
Bửu Toàn bán ô tô của mình rồi mua ngay ba chiếc xe máy Mobilette. Một cho Vĩnh Tuấn, một cho Phan Tấn và một cho Hoàng thân Bửu Tín đi làm việc, vì Bửu Toàn vừa xin cho em trai mình đi làm ở Thưviện tỉnh.
- Thế còn ba, ba đi xe gì? - Vĩnh Tuấn lo lắng hỏi.
- Ba thì con khỏi phải lo. Lúc nào muốn đi đâu ba gọi một cuốc xe, muốn xe gì có xe ấy. Lúc này ba thấy đi xe xích lô rất thú vị, tốc độ vừa đủ cho người ta ngắm cảnh. Cả người điều khiển xe và người đi xe đều có được chỗ ngồi thoải mái, không như xe kéo ngày xưa...
Tờ báo Quyết Thắng tự đình bản vì đã làm xong nhiệm vụ của mình. Được sự chỉ đạo trực tiếp của cấp trên, lực lượng cách mạng hoạt động hợp pháp ở thành phố Huế tích cực hoạt động trong phong trào Hòa bình. Ban chủ nhiệm tờ Quyết Thắng được bổ sung thành Ban biên tập của tập san Ngày Mai với nội dung đòi duy trì hòa bình, chống đàn áp, chống khủng bố những người đã tham gia đánh đuổi thực dân Pháp bây giờ trở về đời sống thường dân lo chăm chỉ làm ăn, không màng danh lợi, không quan tâm chính trị... Tập san được phát hành rộng rãi hai tháng một kỳ, trở thành món ăn tinh thần đặc biệt thú vị, và được bạn đọc trong tỉnh trong nước nhiệt liệt hoan nghênh.
Nhận thấy nội dung tập san mang tư tưởng chỉ đạo của Tỉnh bộ và Thành bộ Cộng sản Việt Nam Thừa Thiên và thành phố Huế, giữa tháng 6 năm 1955, ngụy quyền ra lệnh đình chỉ tập san Ngày Mai khi vừa phát hành xong số 5 và đang chuẩn bị bài vở cho số 6.
Một lần nữa Ban biên tập mà hầu hết là nhân sĩ, trí thức lại rút về thế phòng thủ và chờ đợi thời cơ.
Tỉnh bộ và Thành bộ Cộng sản đã có kế hoạch chuyển vào ngay giữa lòng thành phố từ những ngày Hiệp định Genève bắt đầu có hiệu lực. Những căn hầm bí mật kiên cố được xây dựng ở những địa điểm hết sức bất ngờ đối với kẻ địch, như tại vị trí Siêu thị số một về sau này ở ngã sáu, trên đường Trần Hưng Đạo, đường Chi Lăng... Tuy nhiên, đến giữa năm 1955 nhân kỷ niệm một năm ngày ký kết Hiệp định Genève tại Huế xuất hiện nhiều truyền đơn đòi "Nhà đương cục hai miền Nam Bắc phải hiệp thương tổng tuyển cử tự do" cũng là lúc Chính phủ Sài Gòn bắt đầu mở các chiến dịch tố cộng, đàn áp phong trào đòi hòa bình, đánh phá dữ dội vào các cơ sở của cách mạng. Một số cán bộ đảng viên bị bắt, bị tra tấn và tù đày, một số phải chuyển vùng, một số rút lên hậu cứ trên dãy Trường Sơn. Chúng mở nhiều cuộc truy lùng càn quét lên hậu cứ. Một vài cán bộ phải tự biến mình làm người dân tộc thiểu số, cùng ăn cùng ở cùng làm với đồng bào dân tộc thiểu số trên đỉnh Trường Sơn, một số tìm về với Trung ương... Trong lúc đó có một tổ chức cơ sở đã hình thành nhiều năm ở ngay giữa lòng đô thị mà kẻ địch không bao giờ ngờ tới. Họ là những luật sư, bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, nhạc sĩ, quan lại, Hoàng thân và nhà báo danh tiếng... Trong thời kỳ đen tối này, Tổ chức nhận thấy cần phải phát huy hơn nữa thế mạnh hợp pháp của những con người được đối phương vị nể về danh phận cũng như dòng tộc, nhưng một lần nữa Bửu Toàn từ chối không chịu vào Cộng sản. Bửu Toàn nói:
- Tôi sẽ sống và làm việc như một người cộng sản...
Đây là lần thứ hai luật sư Kim Hồng Ân chứng kiến lời khước từ của Bửu Toàn. Trong suy nghĩ của luật sư Kim Hồng Ân và một số đồng chí khác thì việc Bửu Toàn không gia nhập là một thiệt thòi cho . Nhưng biết làm thế nào được? Vì đó là quyền tự do của Bửu Toàn. Mục này Điều lệ đã ghi rõ.
Nhiều bạn bè của Vĩnh Tuấn ghen tị khi nói với Vĩnh Tuấn rằng anh là
người luôn "chớp" lấy thời cơ. Thuở còn là học sinh trường Khải Định anh đã xếp bút nghiên đi tham gia kháng chiến - dẫu rằng lúc đó anh chưa đủ tuổi tòng quân, nhưng nhờ tài khéo ăn nói mà anh được nhập ngũ! Anh trở về kịp mùa tựu trường năm học 1954-1955 để đến năm 1957 anh thi Tú tài toàn phần xong thì cũng vừa lúc Huế có Viện Đại học. Anh là một trong những sinh viên Văn khoa đầu tiên của Trường Đại học Văn khoa Huế, lại học giỏi, luôn được thầy yêu bạn mến. Chàng sinh viên mới vào năm thứ hai đại học đã nổi tiếng khiến một nàng sinh viên trường Luật để ý và chủ động làm thân. Nàng tên là Ngọc Mai - con gái yêu của một quan chức cao cấp và là học trò giỏi của luật sư Kim Hồng Ân. Ông trở thành giảng viên của trường Đại học Luật ngay từ khi mới thành lập.
Đôi lúc Vĩnh Tuấn cũng lấy làm hãnh diện trước những đúc kết của bạn bè về anh. Nhưng Vĩnh Tuấn thấy mình còn quá kém cỏi so với ba. Ba trong mắt Vĩnh Tuấn cứ cao vời vợi. Vĩnh Tuấn nghĩ dẫu suốt đời học hành phấn đấu anh cũng không đuổi kịp ba, nói gì đến việc vượt qua ba, để cho câu nói cửa miệng của người đời "con hơn cha là nhà có phúc" được trọn nghĩa hơn. Vĩnh Tuấn nghĩ có lẽ đến thế hệ anh thì nhà không có phúc nữa rồi!
Thỉnh thoảng các quan chức của Tỉnh đường Thừa Thiên đến phủ Vinh Quốc Phong hầu chuyện Hoàng thân Bửu Toàn, hỏi:
- Vì sao quan ngài để cho cậu Vĩnh Tuấn đi theoViệt Minh? Bửu Toàn điềm nhiên trả lời:
- Nào tôi có muốn cho hay không cho mà được? Nó tự ý bỏ nhà trốn đi. Lúc bấy giờ cũng như các trường khác trong thành phố, học sinh trường Khải Định bỏ học giữa chừng đi kháng chiến đâu phải là chuyện gì khác thường?
Bà Diệu Anh ngồi bên nói tiếp ý của Bửu Toàn:
- Lúc ấy nào chúng tôi có thấy ai ngoài Cụ Hồ? Một bên là Cụ Hồ một bên là giặc Pháp, chẳng lẽ chúng tôi lại cho con mình đi theo giặc Pháp à? Phải cho nó theo Cụ Hồ để đánh đuổi giặc Pháp chứ!
Nghe Diệu Anh nói đến đây Bửu Toàn nhớ hồi Vĩnh Tuấn mới trốn nhà ra đi, Diệu Anh đã khóc ròng suốt mấy ngày đêm. Lúc đó Bửu Toàn thầm nghĩ người đàn bà này dành hết tình thương yêu cho con mà không dành cho Tổ quốc một chút tình nào cả (!). Vậy mà bây giờ nói hay thế! Bửu Toàn sợ Diệu Anh sẽ nói tiếp cái ý rằng lúc ấy nào chúng tôi có thấy Ngô Tổng thống của các ông? Trước đó Ngô Tổng thống đã bận làm bạn với Nhật...
Nhưng rất may Diệu Anh không nói cái ý này ra. Chỉ một lời ngắn gọn như chân lý trên đã làm cho các quan chức Ngô triều không còn gì để hạch hỏi nữa.
Tuy Bửu Toàn vẫn đi về hai nơi ba chốn, nhưng các quan chức vẫn lui tới ra vào hầu chuyện với quan ngài. Trong khi đó, tuy cùng khuôn viên và Tri phủ Bửu Tín giờ là viên chức thư viện, nhưng các quan chức Tỉnh đường không mấy khi tới thăm nhà Bửu Tín. Điều này làm cho Bửu Toàn phải cảnh giác. Họ vị nể danh phận của Bửu Toàn hay có vấn đề nghi vấn và đang để tâm theo dõi Bửu Toàn? Một lần nữa ông kiểm tra lại những việc làm của mình xem có sơ hở chỗ nào không để kịp thời ứng phó.
Khách ở nhà Bửu Tín phần lớn là bạn học của Vĩnh Cơ, Vĩnh Bảo và bạn hàng của chị Sa. Vĩnh Cơ đang học Đại học Sư phạm. Vĩnh Bảo học trường Quốc Học Huế. Chị Sa cai quản vườn trái cây. Chị Sa cùng với bà Bửu Tín làm bánh in bột nếp, bột đậu xanh, bánh hột sen, bánh sen tán... đi bỏ mối ở các chợ Đông Ba, An Cựu, Bến Ngự... Chị Sa đảm đang, đoan trang và thùy mị. Ai cũng khen ông bà Bửu Tín có được người con gái nuôi đã đẹp người lại đẹp nết. Có người ngỏ ý xa gần đòi làm mai mối, nhưng bà Bửu Tín bảo việc đó tùy chị Sa. Bà hoàn toàn không biết được rằng vì quá mang nặng mặc cảm về quá khứ của mình mà Sa đã khước từ Phan Tấn, dẫu rằng Sa cũng rất
yêu Phan Tấn. Khi khước từ Phan Tấn, Sa nói:
- Anh bây giờ khác nào người con trai lớn của bác Bửu Toàn, còn Sa, ai không biết cứ tưởng là con đẻ của ông bà Bửu Tín. Như vậy chúng mình là anh em con bác con chú, làm sao lại có thể?...
Lúc nói câu này mắt Sa ánh lên những tia tinh nghịch ngây thơ làm cho Phan Tấn càng khao khát mê say...
Và Phan Tấn không dễ dàng rời bỏ "mục tiêu" của mình, anh kiên trì bám sát, vận động để Sa trở thành người bạn đồng chí của mình. Phan Tấn giới thiệu Sa với Tổ chức. Từ đó Sa trở thành một cơ sở quan trọng, một liên lạc viên tích cực của các cán bộ lãnh đạo nằm vùng hoạt động trên địa bàn Huế và các vùng ven.
Nhận thấy tình cảm của Phan Tấn đối với Sa quá tha thiết nên Bửu Toàn mạnh dạn đặt vấn đề với vợ chồng em trai mình và với Sa. Vợ chồng Bửu Tín liền thuận theo. Phan Tấn và Sa rất vui mừng. Hai nhà lo tổ chức lễ cưới cho Phan Tấn và Sa tại vườn phủ Vinh Quốc Phong. Một đám cưới tân thời, không nạp lễ, không đưa đón dâu, nhưng ấm cúng và đầy tình người. Bửu Toàn tặng đôi vợ chồng trẻ mấy món nữ trang. Sa và Phan Tấn cảm động rơi nước mắt. Phan Tấn nói:
- Cuộc đời con được như ngày hôm nay là nhờ ông. Cha mẹ con dưới suối vàng cũng đội ơn ông...
Cưới xong Sa vẫn ở lại nhà ông bà Bửu Tín, thỉnh thoảng lên nhà chồng trên đường Chương Đức. Cũng như Bửu Toàn, từ nay Phan Tấn cũng lên về phủ Vinh Quốc Phong như con thoi.
Ngay từ lúc đang học năm thứ ba Đại học Văn khoa Vĩnh Tuấn đã là cộng tác viên thường xuyên của vài tờ báo ở Sài Gòn với những bài viết phản ảnh
không khí chính trị xã hội tại thành phố Huế. Mùa hè năm 1962, khi vừa tốt nghiệp, Vĩnh Tuấn nhanh chóng được nhận làm phóng viên thường trú tại Huế cho một tờ nhật báo ở Sài Gòn, ngoài ra anh còn làm cộng tác viên cho vài tờ báo khác. Cũng năm đó Vĩnh Cơ vừa tốt nghiệp Đại học Sư phạm thì bị bắt lính - trong lúc Vĩnh Bảo đang học năm thứ nhất trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế.
Từ đầu năm học này Bửu Toàn nhận dạy Pháp văn cho trung học tư thục Bồ Đề một tuần mười lăm tiết. Ông thường đi dạy bằng xe xích lô. Anh xích lô do Phan Tấn giới thiệu chuyên làm nhiệm vụ chở Bửu Toàn đi dạy và đưa ông đến những nơi cần đến. Ngoài ra anh không cần phải chở thêm khách nào nữa, vì Bửu Toàn trả lương cho anh rất khá.
Khác với cha mình, Vĩnh Tuấn yêu đương rồi lấy vợ khá đơn giản và suôn sẻ. Anh gặp và quen biết Ngọc Mai trong bữa tiệc sinh nhật một người bạn chung của hai người. Ngọc Mai là con gái của một quan chức có vai vế của chế độ Việt Nam Cộng hòa. Ông làm việc tại Tỉnh đường Thừa Thiên. Vợ chồng ông không có con trai nên nuôi dưỡng, cưng chiều hai cô con gái rất mực. Ngọc Quế - chị của Ngọc Mai đã lấy chồng khi vừa đỗ Tú tài toàn phần. Chồng của Ngọc Quế là một viên tướng trẻ trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Còn lại một mình Ngọc Mai khác nào cậu con trai lớn trong gia đình. Mọi việc nhà gần như do một tay Ngọc Mai quyết định. Ngọc Mai học giỏi, tính tình cương nghị, nhưng cô đã bỏ học giữa chừng khi quyết định về làm vợ Vĩnh Tuấn. Đã từ lâu cô nghĩ cái sự học hành của đàn bà con gái đôi khi chỉ như một thứ trang sức. Không có nó không được. Nhưng rất nhiều cô sau khi tốt nghiệp đại học rồi đi lấy chồng, rồi ở nhà làm một bà nội trợ thuần túy chứ có hề đem cái vốn học thức ra giúp ích cho đời đâu? Những ông chồng thời nay cũng cảm thấy hãnh diện khi giới thiệu vợ trước bạn bè, trước công chúng kèm theo những học hàm học vị. Nhưng phần lớn các ông chồng không muốn vợ mang học hàm học vị ấy vào đời. Bởi vì đàn ông bao giờ cũng thích những người đàn bà đẹp và học ít hơn mình một chút, nếu cùng
làm một loại công việc thì muốn người nữ đồng nghiệp phải kém tài năng hơn mình một chút... Vậy nên Vĩnh Tuấn vừa lấy xong bằng cử nhân Văn khoa thì Ngọc Mai hãy khoan lấy bằng cử nhân Luật mới hay! Nghĩ vậy rồi Ngọc Mai yên tâm lên xe hoa về nhà chồng. Phủ Vinh Quốc Phong từ ngày có thêm cô dâu mới, cái vẻ thâm nghiêm đường bệ im vắng bớt dần đi, thay vào đó là những chiếc áo màu phấp phới, những đôi giày cao gót để đầy dấu ấn trên lối đi dẫn vào cổng phủ. Những trận cười giòn tan của chị dâu với cô em chồng bé bỏng đuổi bắt nhau dưới bóng cây lưu niên trong vườn, bên những chậu hoa cây cảnh đặt rải rác ở bao lơn, ở hàng hiên và phòng đọc sách. Ông Bửu Toàn cảm thấy vơi đi chút cô quạnh. Còn bà Diệu Anh bấy lâu nay an phận, giờ đây có được con dâu, bà thấy cuộc đời không đến nỗi nào. Đúng như câu nói "gái có công chồng không phụ". Tuy ông Bửu Toàn và bà không nối lại tình xưa nhưng còn một chút nghĩa cũ. Ông đã tin tưởng mà giao Anh Thi vào tay bà nuôi dạy, đến nay trở thành một cô nữ sinh xinh đẹp của trường trung học Đồng Khánh. Anh Thi hiếu hạnh đoan trang và rất xinh đẹp. Anh Thi nổi tiếng không phải chỉ vì học giỏi, được thầy cô giáo khen ngợi và bạn bè yêu mến mà còn vì sắc đẹp của mình. Không có chàng trai Huế nào không nghe danh người đẹp Anh Thi và muốn được diện kiến. Cổng trường Đồng Khánh thường bị nghẽn tắc trong những lần Anh Thi từ lớp học bước ra... Nhiều người bạn của Diệu Anh phải ghen với bà về Anh Thi. Niềm vui càng nhân lên khi Ngọc Mai mang thai rồi cho ra đời một bé trai kháu khỉnh. Ông nội đặt tên cho cháu là Bảo Ngọc Quỳnh. Thời gian này Vĩnh Tuấn chuyên viết mảng phóng sự xã hội. Vĩnh Tuấn thường đi viết ở các tỉnh miền Trung. Nhờ bóng râm của ông bố vợ che chắn mà lý lịch một thời đi lính Vệ quốc của anh được nhà cầm quyền sở tại lờ đi. Ngoài ra, người anh em cột chèo - tướng Nguyễn Chí Thiện cũng là một điểm tựa vững chắc của Vĩnh Tuấn. Về phía Nguyễn Chí Thiện, ông thực lòng yêu mến Vĩnh Tuấn trước hết bởi vì Vĩnh Tuấn có cái bộc trực của anh Hoàng phái, có cái khôn ngoan của anh Việt Minh, cái nhạy bén của người làm báo.
Khi bé Bảo Ngọc Quỳnh lên hai tuổi, Ngọc Mai sinh tiếp một bé nữa, lần
này là gái. Bửu Toàn đặt tên cho cháu là Bảo Ngọc Giao. Từ khi có đứa con thứ hai tính tình của Ngọc Mai dần thay đổi. Nhận thấy vị trí quan trọng của mình trong nhà chồng, Ngọc Mai tự cho mình cái quyền điều khiển mẹ chồng, cũng như điều khiển chồng và các con. Ông Bửu Toàn rất lấy làm khó chịu vì điều đó, nhưng ông không muốn nói, nghĩ mình không phải sống đời để mà can dự vào việc riêng của các đôi vợ chồng trẻ. Mặc chúng nó thu xếp với nhau. Còn bà Diệu Anh xưa nay quen hy sinh, nín nhịn, an phận, giờ nhìn thấy con dâu quá tự mãn, quá hãnh tiến, quá hung hăng, bà tự hỏi phải chăng Vĩnh Tuấn yêu thích ngay chính cái tính cách ấy ở Ngọc Mai nên mới nâng niu, chiều chuộng, phụng thờ? Nghĩ lại mình suốt một đời dịu dàng thủy chung yêu chiều chồng con, hy sinh tất cả cho chồng con, mà nào chồng có chung thủy gì với mình? Cuộc đời làm vợ ngắn ngủi, hạnh phúc lứa đôi chỉ như một tia chớp đến với bà rồi sớm lịm tắt đi, còn lại là một chuỗi ngày dài âm thầm nhẫn nhục gửi hết tình thương yêu hy vọng vào con. Ở đời đôi khi tồn tại một nghịch lý như vậy, có khi người đàn ông chịu lép một bề, chịu thủy chung và tôn trọng những bà vợ dữ dằn hung hãn... Tuy vậy Diệu Anh chưa một lần dằn dỗi con dâu một phần vì từ khi Ngọc Mai bắt đầu mang thai đứa con thứ hai thì được ba mẹ cho xây cất nhà riêng trong khuôn viên phòng phủ.
Ở miền Bắc, Công Huyền Tôn Nữ Liên Chi bây giờ gọi là Nguyễn Thị Liên Chi đang là cô công nhân hai mươi lăm tuổi, năng nổ tháo vát trong công tác duy tu và bảo dưỡng mặt đường đoạn Quốc lộ 1A đi qua địa phận tỉnh Thanh Hóa. Sáng nay trời nắng gắt, những cơn giông đầu mùa báo hiệu trời thường đổ cơn mưa bất chợt. Anh chị em công nhân hối hả rây đá dăm mịn lên mặt đường vừa rải nhựa bóng và cán láng cho kịp nguội để khách bộ hành và xe cộ đi qua. Một tốp nam nữ thanh niên chừng mười người đang nối đuôi nhau đạp xe đến gần đoạn đường nhựa bốc hơi nóng hầm hập. Họ vừa đi vừa nói cười vui vẻ. Khi bánh xe đạp trước của họ áp sát vào tấm biển chỉ lộ giới cấm vượt qua đoạn đường đang thi công, thì họ không cho xe qua đường tránh để đi, cả toán dừng lại, vứt xe la liệt trên vệ đường, rồi soạn giấy bút,
bảng màu, giá vẽ, dầu cọ...
- Chúng em là sinh viên mỹ thuật từ Hà Nội vào đi thực tế để làm bài tốt nghiệp đây. - Một cậu nói.
- A, sinh viên... Nhưng mỹ thuật là gì hở các cô cậu? Một cô bịt kín mặt, tay đeo găng bảo hộ lao động đang cặm cụi bên vựa đá dăm ngước đôi mắt đen tròn lên hỏi.
- À... là cái cách làm đẹp cho đời, là phục vụ cho đời sống tinh thần của con người ấy mà, là vẽ tranh và nặn tượng cho thật đẹp...
- À, biết rồi! Họa sĩ vẽ và nặn tượng chúng mày ơi! - Cô công nhân trẻ kêu lên với các bạn đồng nghiệpcủa mình.
- Chúng tôi chưa phải là họa sĩ. - Một sinh viên coi bộ lớn tuổi nhất trong đám nói: - Chúng tôi đang học làm họa sĩ thôi ạ! Các anh chị cho chúng tôi vẽ các anh chị nhé.
- Được, các bạn cứ việc vẽ. Nhưng mà công việc của chúng tôi nặng nhọc, mặt mày đen nhẻm, chân taylấm lem...
- Vấn đề là ở chỗ đó. Các anh chị cứ làm việc tự nhiên để mặc chúng tôi...
Họ nói rồi thi nhau ký họa liên tục những nguời công nhân đang hối hả hì hục làm cho xong khúc đường rộng chạy ngang qua một thị tứ.
- Nơi đây ngày xưa là một trong những khu phố sầm uất, nhưng tất cả đã bị phá hủy trong kháng chiến chống Pháp. Nay miền Nam vẫn chưa được hoàn toàn giải phóng nên những con đường nối liền huyết mạch hai miền Nam Bắc phải được duy tu bảo dưỡng thường xuyên để chi viện cho miền Nam...
Anh sinh viên coi bộ lớn tuổi nhất trong nhóm với dáng vẻ điềm đạm chững chạc nói cho các bạn biết về vị trí của con đường nơi họ đang căng giá vẽ.
Cô công nhân lúc nãy hỏi mỹ thuật là gì - chừng như đã làm xong phận sự của mình, cô bước tới gần bên đứng xem các sinh viên vẽ. Rồi cô nhẹ nhàng tháo chiếc khăn che mặt bám đầy khói và bụi để lộ một khuôn mặt trái xoan với đôi mắt tròn đen láy, những giọt mồ hôi chảy ròng từ hai bên thái dương, từ đôi gò má ửng màu nâu sáng, và đọng lại ở chiếc cằm xinh xắn... Cô đứng nhìn chăm chú cây cọ trong tay các họa sĩ tương lai. Rồi người sinh viên lớn nhất trong đám đem bức chân dung anh vừa ký họa xong đến trước mặt cô nói:
- Chị nhìn xem có giống chị không?
Cô công nhân nhìn chăm vào bức ký họa rồi reo lên:
- Ồ giống! Giống lắm! Nhưng mà làm sao anh vẽ nhanh thế? Tôi chỉ mới tháo bỏ khăn che mặt ra...
- Nghề nghiệp chuyên môn của người ta mà! - Một nữ công nhân khác cất cao giọng trả lời thay cho anh họa sĩ tương lai rồi nói tiếp: - Cũng giống như chúng mình làm đường ấy, mới hôm nào con đường rải nhựa nằm tít mãi tận đằng kia mà nay đã bò đến đây rồi. Tôi nói thế có đúng không anh họa sĩ?
- Đúng, đúng lắm! - Chàng sinh viên khẳng định rồi quay lại với cô công nhân lúc nãy: - Chị cho tôi biết tên chị để tôi đề tặng bức ký họa.
- Tên tôi à? Ồ... tên tôi xấu lắm!
Cô công nhân trả lời ngúng nguẩy.
- Không đúng đâu! - Cả đám công nhân nữ reo lên: - Tên nó đẹp nhất đội
đấy! Cái gì đây... rồi mới đến Nguyễn Thị Liên Chi...
- Thôi thì cứ đề ngắn gọn là tặng Liên Chi nhé?
Nói rồi chành sinh viên đề tặng và ký tên dướibức tranh.
Trong lúc trò chuyện làm quen thì chàng gọi bằng chị, thế nhưng khi đề tặng thì chàng đề:
Tặng Liên Chi.
Mặt đường Khu IV. Mùa hạ năm 1962 - Từ Huy
- Từ Huy! Tên anh là Từ Huy?
- Vâng!
- Tôi nghe anh nói giọng Thanh Hóa, vậy ra anh là người ở đây sao? - Vâng, quê tôi ở Yên Định, bên bờ sông Mã.
- Yên Định? Cô công nhân hỏi mà như reo vui: - Tôi cũng ở Yên Định - Định Hưng, nhà ở khu vực Núi Đỏ.
- Vậy hóa ra là người cùng huyện mà lên đây mới biết.
- Anh thuộc tầng lớp trí thức nhàn hạ chỉ biết ăn học, quen biết những người như tôi để làm chi?
- Nhàn hạ gì tôi! Chị cứ nhìn thấy tôi "già” nhất trong đám sinh viên này thì đủ hiểu cuộc đời tôi lận đận biết bao trên con đường học vấn...
Những từ cuối cùng của câu nói Từ Huy bị át đi bởi tiếng cười, tiếng réo gọi ơi ới của phía anh chị em công nhân làm đường và đám sinh viên. Liên
Chi sực nhìn lại và cảm thấy e thẹn khi tất cả anh chị em công nhân đang tụ tập dưới bóng râm để ngồi nghỉ ngơi và chuẩn bị cơm nước, còn đám sinh viên thì lác đác đây đó ai nấy đang tìm bóng râm để ngồi nghỉ, chỉ có Từ Huy và Liên Chi cứ mải đứng ở đây hỏi nhau quê quán, gia cảnh, học hành...
Không hẹn, cả hai cùng bước về phía anh chị em công nhân đang mở những nắm cơm, gói xôi, mớ lạc luộc, muối vừng... ra để ăn trưa, bên cạnh một nồi nước chè xanh bốc hơi nghi ngút. Từ Huy đưa tay vẫy gọi các bạn sinh viên cùng đi về phía mình và nói:
- Chúng ta cùng ngồi ăn cơm trưa với các cô chú anh chị ở đây đi!
- Đúng đấy! - Anh trưởng nhóm công nhân nói: - Có mấy khi chúng tôi được gặp các cô cậu sinh viên vui vẻ như thế này!
Mọi người đều vui vẻ hưởng ứng. Đám sinh viên kéo ra từ ba lô, túi xách của mình những nắm cơm, củ khoai, quả trứng. Có cô cậu mang theo cả một con gà luộc, nhưng cũng có cậu chỉ mang gói cơm khô rang vàng... Tất cả thức ăn của công nhân và sinh viên đều dọn chung trên một tấm nilon trải rộng. Mọi người quây quần bên nhau ăn uống vui vẻ. Sau bữa cơm là ca hát và kể chuyện. Vài sinh viên tranh thủ lấy giấy bút ra ký họa.
Các công nhân ai cũng muốn được tặng bức chân dung nên đám sinh viên tranh thủ phác thảo để làm quà tặng đều khắp cho mọi người.
Khi Từ Huy ký họa đến chân dung thứ ba thì một chị công nhân kéo Liên Chi đến bên Từ Huy nói:
- Anh này vẽ như thế là được rồi. Hai người đồng hương tranh thủ chuyện trò với nhau một lát để ba mươi phút nữa sẽ lại tiếp tục công việc.
Sự chân thành mộc mạc và tốt bụng của chị công nhân làm cho không những Liên Chi lấy làm cảm động mà Từ Huy cũng thấy xao xuyến cả tâm
hồn. Lạ quá, người con gái này mới thoáng gặp mà lòng Từ Huy đã cảm thấy nao nức bồn chồn...
Hai người ngồi xuống một đám cỏ ở vệ đường. Từ Huy rụt rè nói về mình:
- Tôi năm nay hai mươi sáu tuổi, cầm tinh con chuột.
- Còn em hai mươi lăm tuổi - con trâu.
Liên Chi hồn nhiên thay đổi cách xưng hô làm cho Từ Huy cảm thấy phấn chấn và trở nên dạn dĩ hẳn lên. Anh nói:
- Các sinh viên cùng lớp tôi cô cậu nào lớn tuổi nhất cũng không quá hai mươi ba. Tôi là trường hợp ngoại lệ, đặc biệt. Ông cụ tôi là lính lệ nhưng chưa bao giờ bắn một viên đạn, chủ yếu là hầu hạ ở nha môn, hầu hạ quan lớn và làm người sai vặt cho vợ con họ. Vốn tính hiền lành chăm chỉ nên cụ được nhiều người thương, thỉnh thoảng họ thưởng cho chút tiền, cộng với lương lính hàng tháng, chắt bóp dành dụm mãi cũng mua được hai mẫu ruộng. Thời kỳ Việt Minh chuẩn bị cướp chính quyền, cụ tự động rã ngũ, trốn về làng, chăm chỉ cày ruộng gieo cấy gặt hái. Một tay cụ tự làm và dìu dắt vợ con anh em ruột thịt trong nhà cùng làm. Cuộc sống gia đình ngày càng ổn định khấm khá. Trong làng ngoài xã ai cũng khen cụ hiền lành giỏi giang, ai cũng lấy cụ làm gương lao động nông nghiệp để nhắc nhủ người trong nhà. Chẳng mấy chốc cụ trở thành phú nông của làng. Hồi cải cách ruộng đất người ta ra chỉ tiêu xã nhà phải có năm địa chủ để đưa ra đấu tố. Rà đi soát lại mãi cũng chỉ được có bốn người. Cuối cùng họ tới nhà gặp cụ để thương lượng "vớt" cụ từ thành phần phú nông lên địa chủ. Họ nói trên quy định vậy thì phải hưởng ứng cho có phong trào, chứ khi đưa ra đấu tố thì chúng tôi chỉ làm nhẹ nhàng đối với cụ mà thôi. Họ nói vậy nhưng sau đó công cuộc đấu tố diễn ra không nhẹ chút nào. Cụ cũng chịu đủ các bước như bị làm nhục, bị đánh đập, bị vu cáo những việc mà cụ chưa hề làm bao giờ. Và cuối cùng là
ruộng vườn bị tịch thu, đồ đạc của cải trong nhà bị người ta đến lấy đi hết. Nhà cửa thì gồm một nhà trên để thờ, nhà giữa và nhà ngang. Người ta niêm phong nhà thờ với nhà giữa rồi dồn cả gia đình vào một cái nhà ngang ấy. Những người anh em ruột thịt bên nội bên ngoại được cụ cưu mang bây giờ bỏ đi hết, chỉ còn lại vợ chồng cụ với mấy đứa con nhỏ đang tuổi học hành nay phải thôi học, bắt ở nhà để đi lao động sản xuất với nông dân. Ruộng đất không còn nữa nên cả nhà phải đi cày thuê cuốc mướn cho nông dân để kiếm hai bữa ăn hàng ngày, nhưng vẫn không đủ. Bà con nông dân trong làng thấy cảnh gia đình cụ trong phút chốc trở nên khốn cùng như vậy, ai cũng thương lắm. Đến vụ gặt mấy anh em đi mót lúa, bà con thường nhìn trước ngó sau thấy không có ai để ý liền giục mấy anh em nhà này bứt vội những vạt lúa chưa gặt. Ban đêm khi cả nhà đóng cửa đi ngủ thỉnh thoảng nghe tiếng "bịch" ngoài sân. Nhìn trước ngó sau không thấy ai theo dõi, mấy anh em liền mở cửa ra nhặt, khi thì bao thóc, khi thì bị gạo, lúc mấy củ khoai, khi quả mít, lúc một khoanh thịt lợn... Vào dịp lễ Tết bà con còn ném cả bánh chưng, bánh dầy, giò chả... vào cho. Trong nhà cứ việc nhặt ăn, nhưng không biết đích xác là của ai, nên luôn dặn nhau là phải biết ơn cả làng, thậm chí cả xã. Bởi vì chỉ có người trong làng trong xã mới hiểu hết hoàn cảnh gia đình, mới đem lòng thương mà mạo hiểm làm cái việc nhường cơm xẻ áo kia. Ông cụ tôi còn cho rằng trong số những người thường lén lút ném lương thực thực phẩm vào sân nhà chúng tôi - không loại trừ các vị trong cấp ủy và chính quyền địa phương, trong đội sản xuất... - những người thừa hành lệnh đấu tố. Suy nghĩ theo chiều hướng đó cũng có cơ sở. Về sau khi đã tiến hành sửa sai, gia đình cụ được trả lại một ít tài sản, quy lại thành phần gia đình là phú nông. - Cả nhà mỗi khi đi ra đường gặp ai cũng nghĩ đó là ân nhân của gia đình, những người đã mạo hiểm nhường cơm sẻ áo cho mình trong những ngày đen tối. Nhưng hỏi ai ai cũng không nhận hành động lén lút ném lương thực thực phẩm vào sân nhà cụ thân sinh Từ Huy. Lại nói về chuyện học hành. Mất mấy năm trời cả bốn anh em đều thất học. Từ Huy là anh cả. Hơn mười tám tuổi đầu mà mới chỉ học hết cấp hai. Dẫu đã sửa sai cải cách ruộng đất rồi,
người ta vẫn không cho bốn anh em Từ Huy đi học trở lại. Người ta nói các cậu được ăn được học sung sướng mãi rồi, bây giờ hãy làm lụng để chia sẻ nặng nhọc với nông dân. Từ Huy nản chí quá. Rồi một hôm Từ Huy bỏ nhà trốn ra thành phố, mang theo sách vở, học bạ. Ở thành phố Thanh Hóa, Từ
Huy đuợc nhận vào học cấp ba không gặp khó khăn gì. Chỉ khổ vì thiếu thốn đói khát, ăn uống thất thường, áo quần lam lũ. Nhưng rồi cuối cùng bằng sự cố gắng hết mình Từ Huy cũng thi đỗ tốt nghiệp hạng ưu. Từ Huy trở về địa
phương xin làm hồ sơ dự thi đại học vẫn canh cánh bên lòng nỗi lo khi phải điền vào mục cải cách ruộng đất. Dẫu sửa sai rồi thì cũng đã một thời gia đình Từ Huy bị quy là địa chủ, cha của Từ Huy từng bị đưa ra đấu tố. Điều này tối kỵ đối với hồ sơ dự tuyển. Có anh bạn của Từ Huy thuở thiếu thời mới học hết tiểu học thôi nhưng giờ đây đang giữ chức chủ tịch xã. Từ Huy trình bày nguyện vọng của mình và hỏi anh có cách gì đó để loại bỏ giai đoạn đen tối nhất ấy ra khỏi lý lịch của Từ Huy không. Anh nói không được. Hai người bàn tính mãi, cuối cùng nảy ra một sáng kiến hết sức mạo hiểm là Từ Huy viết bản lý lịch làm sao để tất cả sự kiện nhức nhối ấy nằm gọn vào tờ giữa. Khi duyệt lý lịch phải đưa đến công an. Công an duyệt xong đưa về cho chủ tịch xã đóng dấu thì giật bỏ tờ lý lịch ở giữa ra, để chỉ còn thành phần gia đình phú nông. Trong cải cách ruộng đất không thấy ghi chú gì. Nhờ sự giúp đỡ này của anh chủ tịch xã mà hồ sơ của Từ Huy được chấp nhận. Rồi Từ Huy thi đậu vào Đại học Mỹ thuật và bây giờ chuẩn bị ra trường.
Liên Chi ngồi nghe Từ Huy kể đến đoạn này thì đưa mắt đảo một vòng xem có ai nghe lọt câu chuyện không. Cái sự giật bỏ tờ giữa của bản lý lịch mà người cán bộ lãnh đạo xã đã bí mật cùng anh làm là một việc cực kỳ nguy hiểm nhưng đầy tình nhân ái, vị tha. Vị chủ tịch xã ấy biết đâu từng là một trong những người đêm đêm lén ném lương thực thực phẩm vào sân nhà Từ Huy... Bất chợt Liên Chi nghĩ đến thân phận cô và những người cưu mang cô. Chỉ vì cưu mang cô mà gia đình vú Ngần bị liên lụy. Khi phát hiện ra cô không phải là đứa bé bị lạc mất cha mẹ ở bến đò quan được bà Ngần nhặt đem về nuôi, mà là con gái đầu lòng, là đại tiểu thư của quan Tri phủ Thiệu
Hóa, lập tức con gái của bà Ngần - chị Phúc bị thôi ngay chức bí thư Huyện Đoàn và bị đình chỉ công tác. Về sau, chị Phúc lấy chồng là người Công giáo rồi di cư vào Nam năm 1954. Nhà chỉ còn lại Liên Chi và em Lộc, bố mẹ vẫn cố gắng cho hai chị em ăn học hết cấp hai. Bố mẹ làm lụng vất vả một nắng hai sương, nên sức khỏe ngày càng giảm sút, rồi bố đau nặng. Liên Chi đã giấu bố mẹ lấy chiếc kiềng vàng chặt một khúc đem bán để lo thuốc thang cho bố. Nhưng bố đã không qua khỏi. Lại chặt thêm một khúc nữa lấy tiền lo đám tang cho bố. Bởi vì bố mẹ đã dành tình thương yêu cho Liên Chi khác nào với đứa con ruột thịt do mình sinh ra. Hồi bố còn khỏe mạnh, gia đình mấy phen sa sút, nhất là lần máy bay giặc Pháp ném bom làm hư hại toàn bộ nhà cửa, may mà gia đình không có ai thương vong. Lần ấy Liên Chi đề nghị bố mẹ đem chiếc kiềng vàng của cô đi bán để có tiền làm lại nhà, nhưng bố nhất quyết không chịu. Bố bảo đấy là kỷ vật của cha mẹ con để lại, con phải giữ lấy; dẫu bố có đói nghèo khốn khổ nhiều hơn thế nữa, bố cũng không đụng đến món tài sản ấy của con... Nhưng khi bố nằm xuống và Liên Chi cũng đã khôn lớn, Liên Chi xin phép mẹ cho Liên Chi được sử dụng chiếc kiềng vàng đó. Rồi em Lộc lớn lên, em Lộc xin vào bộ đội mấy lần không được, cứ trầy trật mãi vì cái lý lịch có liên quan đến gia đình Tri phủ Thiệu Hóa! Cuối cùng em Lộc phải viết đơn bằng máu chích ra từ tay mình mới được chấp thuận. Cũng như em Lộc, Liên Chi xin mãi mới được nhận vào làm công nhân cầu đường.
Liên Chi vắn tắt kể lai lịch mình, cuối cùng nói:
- Được đi công nhân và bộ đội thì vinh dự, nhưng mà nhớ nhà lắm. Em làm ở đây tuy xa nhà nhưng thỉnh thoảng còn tranh thủ về thăm u. Còn em Lộc ở xa viết thư về nhà kể chuyện thương lắm. Bây giờ em được gặp anh ở đây, em nhờ anh sau đợt đi thực tế về anh ghé thăm u giúp cho em với!
- Được. Chắc chắn anh sẽ ghé thăm u. Anh sẽ coi u em cũng như cha mẹ anh. - Từ Huy nói.
- Và đây... - Liên Chi móc trong ngực áo ra một bọc vải nhỏ trao vào tay Từ Huy nói: - Nhờ anh mang vật này về đưa cho u em, nói rằng em mang theo bên mình bất tiện, có khi bị rơi mất. Em nhờ u cất hộ. Anh mở ra xem đi!
Từ Huy mở chiếc túi nhỏ: một khúc kiềng vàng chạm đôi rồng phụng vờn nhau, phía đuôi phụng bị xắn vẹt một chút, còn phía rồng gần như còn nguyên vẹn. Con rồng thân dài thon thả, kiểu dáng rồng triều Lý.
- Đẹp quá! - Từ Huy thốt kêu rồi nói: - Nhưng anh nghĩ rằng Liên Chi đã mang theo mình, đã giữ gìn từ trước đến nay được, thì bây giờ nên tiếp tục giữ cho đến lúc nào về thăm u rồi em có muốn gửi u cất giúp cũng không muộn.
- Muộn quá chứ anh! - Liên Chi nói: - Em ở đây lao động nặng nhọc, lúc nào cũng giữ khư khư trong người, mệt lắm! Có khi nghỉ ngơi giặt giũ tắm rửa em vứt nó lung tung... sợ lắm! Nếu anh đã hiểu, đã tin em và thông cảm cho hoàn cảnh của em, thì xin anh mang về Núi Đỏ hỏi u của Liên của Lộc...
Nói rồi cô dúi gói vàng vào tay anh, giục anh cất ngay, đoạn cô đi về phía anh chị em công nhân đang chuẩn bị làm tiếp công việc của mình. Đám sinh viên cũng bắt đầu cầm lấy bút vẽ.
Buổi chiều đám sinh viên nghỉ sớm hơn công nhân. Họ tíu tít gọi nhau thu xếp dụng cụ bài vở đi về địa điểm tập kết. Lúc hai bên chào tạm biệt nhau, Từ Huy nói rất khẽ với Liên Chi:
- Anh sẽ làm theo yêu cầu của em. Hẹn gặp lại.
Khi Từ Huy cùng đám sinh viên lên xe, mấy cô công nhân đến bên Liên Chi nói lời chọc ghẹo:
- Bất ngờ được gặp đồng hương sướng nhá! Trông đẹp đôi ra phết! Hay là
anh chị đã có gì với nhau từ trước, hôm nay muốn đến thăm nhau mà cứ phải đóng kịch, phải giả vờ?...
Liên Chi không nói lời đính chính hay giải thích gì, cứ lặng lẽ đứng nhìn bóng dáng các sinh viên đang mải miết đạp xe mất hút dần về cuối con đường xa tít. Cô tự hỏi lẽ nào Từ Huy với cô đã quen biết nhau đâu từ.... kiếp trước?!
Từ Huy mong cho mau kết thúc đợt đi thực tế để ghé về nhà và ghé thăm mẹ nuôi của Liên Chi. Lớp của Từ Huy chia làm ba nhóm: một đi về phía biển, một đi về phía các hầm mỏ và nhóm còn lại về các hợp tác xã nông nghiệp. Mỗi nhóm đi đến các địa phương lại phân thành nhiều tốp nhỏ trải khắp địa bàn. Nhóm của Từ Huy đi về các hợp tác xã nông nghiệp - về cánh đồng bằng phẳng xứ Thanh. Bất chợt gặp tốp công nhân đang làm đường, vậy là họ chộp lấy cơ hội, ký họa mỗi bạn được chừng mười bức, cộng với nhiều bức vẽ lao động nông nghiệp trên cánh đồng hợp tác hóa.
Rồi ngày mong đợi cũng đến với Từ Huy. Anh về nhà thăm cha mẹ già và người em trai kế đang làm ruộng. Em trai Từ Huy đã lấy vợ và sắp có con. Thấy Từ Huy về cả nhà mừng lắm. Ông cụ nói:
- Tôi có bốn anh con trai mà không được mụn con gái nào! Bây giờ anh thứ đã yên bề gia thất, mẹ anh đã bớt dần gánh nặng việc nhà. Hai em đi bộ đội đã đành một nhẽ, còn anh là con trưởng, anh học ra trường là phải lấy vợ ngay để cho mẹ anh và tôi được nhờ.
Từ Huy cười:
- Con ra trường mà lấy vợ ngay thì gay quá! Chưa làm được gì báo đáp công ơn bố mẹ lại còn vơ lấy vợ thì có mà chết đói!
- Ai bảo anh lấy con gái thành phố? Tôi cấm anh không được đung đưa gì
với các cô nữ sinh cùng học với anh đấy nhá! Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy! Ở đây mẹ anh và tôi đã ngắm mấy đám vừa đẹp nết lại đẹp người, cũng được ăn được học rồi ra làm cán bộ ở địa phương một buổi, một buổi đi làm đồng. Hoặc như các cô giáo cấp một ở trường bên cũng xinh đáo để, anh còn ngắm ở đâu cho xa?
- Nào con đã ngắm nghía ai đâu! Con đi học bận bù đầu, lại thiếu thốn đủ bề, con còn dám nghĩ điều gì ngoài việc học?
Từ Huy trả lời cha và trong anh chợt hiện ra hình ảnh của những cô bạn cùng lớp rất gần gũi, rất thân tình, nhất là với Hoàng Oanh. Nhưng như anh đã nói với cha mình, anh thực sự chưa hề nghĩ đến ai, dẫu đã đôi lần Hoàng Oanh bóng gió chủ động ngỏ lời yêu anh, và anh đã lờ đi. Nhưng những ký ức này chợt tan biến ngay khi một khuôn mặt trái xoan làn da nâu sáng với
đôi mắt tròn đen láy của Liên Chi hiện ra. Từ Huy mở tập ký họa xem lại một lần nữa, ngắm kỹ khuôn mặt và vóc dáng của Liên Chi rồi tìm đường đi thăm mẹ nuôi của cô.
Từ Huy đã tìm gặp được mẹ nuôi của Liên Chi: tóc bạc, da nâu, ánh mắt hiền từ, hàm răng đen nhánh, nụ cười phúc hậu. Điều lạ lùng là ở Liên Chi có nét gì đó phảng phất giống mẹ nuôi của cô. Khi Từ Huy đưa khúc kiềng vàng trao tận tay bà, bà rưng rưng nước mắt nói:
- Tôi thân già ở một mình cất giữ vàng bạc không tiện. Nó đã tin anh mà nhờ anh mang về cho tôi, tức là nó chọn đúng người rồi đấy! Thôi thì coi như tôi đã nhận, bây giờ tôi gửi anh cất giùm cho em nó.
- Ấy chết! Làm sao con dám cất giữ được ạ? Giữa cô ấy với con chưa... có gì. Vả lại con phải ra Hà Nội, phải trở lại trường để làm bài thi tốt nghiệp.
Bà cụ cầm túi nhỏ đựng vàng dúi vào tay Từ Huy nói:
- Anh hãy giữ lấy! Có đi học hay đi làm việc ở đâu cũng giữ lấy! Em nó đã trao gửi cho anh được, thì cớ sao tôi lại không gửi cho anh cất giữ được kia chứ? Anh cứ nghe lời u mà cất đi giúp cho u. Nhớ khi nào có dịp thì ghé vào chơi, ăn với u bữa cơm nhé!
Bà mẹ thay đổi cách xưng hô với Từ Huy rồi vội vàng đi sắp cơm mời anh. Từ Huy nói anh phải về ngay kẻo bố mẹ anh trông. Anh xin vâng lời u cất giữ "của tin" đó cho đến lúc nào gặp lại Liên Chi. Từ Huy không ngờ lời hứa hôm ấy về sau như một lời nguyện ước.
Từ Huy vừa nhận bằng tốt nghiệp xong thì đăng ký nguyện vọng đi chiến trường miền Nam. Nguyện vọng của anh cùng một số bạn trong lớp được chấp thuận ngay, rồi được tập trung để huấn luyện tập dượt trước lúc lên đường. Từ Huy đã mấy lần viết thư gửi về địa chỉ mà Liên Chi trao cho dạo nọ nhưng không thấy thư trả lời. Ngày lên đường anh chỉ được ghé về thăm và từ giã bố mẹ có hai tiếng đồng hồ. Anh nhờ bố mẹ tìm đến Định Hưng - Núi Đỏ thăm gia đình của Liên Chi và trao gửi cho Liên Chi một món quà.
- Bố mẹ cứ đến Núi Đỏ hỏi thăm nhà u của Liên của Lộc. - Từ Huy nói.
- Vậy hóa ra anh đã có người yêu ở huyện nhà mà bố mẹ không hề hay biết? - Bố anh nói.
Mùa hè năm 1962, Vĩnh Cơ tốt nghiệp Đại học Sư phạm trong khi Vĩnh Bảo và Tôn Thất Hiền - cháu nội của Tôn Thất Hy cùng thi trượt Tú tài toàn phần. Vĩnh Cơ chấp nhận đi quân dịch để cho em trai mình được tiếp tục đi học. Tôn Thất Hiền cũng bị bắt lính vào đợt đó. Anh được bạn bè gọi là "cây" văn chương của lớp đệ nhất C trường Quốc Học Huế, thế nhưng vẫn... thi hỏng! Tính tình Tôn Thất Hiền khiêm tốn chăm chỉ và hiền lành như cái tên của mình, nên thấy Tôn Thất Hiền vừa thi hỏng lại bị bắt lính ngay, bạn bè bà con ai cũng thương xót cho anh.
Tháng 3 năm 1963, Vĩnh Bảo cùng với người bạn thân của mình là Nguyễn Hồng Quang và một số anh em sinh viên Huế bí mật đi dự Đại hội thành lập Hội liên hiệp sinh viên học sinh giải phóng miền Trung Trung Bộ về thì phấn khởi lắm, các anh càng hăng hái tích cực tham gia phong trào thanh niên sinh viên học sinh Huế cùng đông đảo dân chúng - phần lớn là tín đồ Phật giáo đấu tranh phản đối chính phủ Sài Gòn kỳ thị tôn giáo.
Ngày lễ Phật Đản, sáng sớm tinh mơ Vinh Bảo cùng với Nguyễn Hồng Quang - sinh viên Đại học Sư phạm, là đôi bạn thân thời cùng học trường Quốc Học Huế - có mặt trong đoàn người đi rước Phật từ chùa Diệu Đế lên chùa Từ Đàm để dự lễ. Trước đó với chính sách kỳ thị tôn giáo, cụ thể là chống đối Phật giáo, chính phủ Sài Gòn đã ra lệnh không được treo cờ Phật giáo trên toàn miền Nam. Nơi nào treo cờ thì bọn chúng cho người đến tháo bỏ đi. Nhưng khi đoàn rước Phật vừa qua khỏi cầu Trường Tiền thì một rừng cờ Phật xuất hiện rực rỡ cùng với những biểu ngữ được dâng cao:
"Cờ Phật giáo quốc tế không thể bị triệt hạ!"
"Yêu cầu Chính phủ thi hành chính sách tôn giáobình đẳng!"
"Đã đến lúc chúng tôi buộc phải đấu tranh cho chính sách bình đẳng tôn giáo!"
"Phật giáo đồ cương quyết bảo vệ chánh pháp dù phải hy sinh!" "Chúng tôi không từ chối một hy sinh nào!"
"Phản đối chính sách bất công gian ác!"...
Sau đại lễ ở chùa Từ Đàm, hàng vạn người tổ chức một cuộc diễu hành đi qua các đường phố lớn. Vĩnh Bảo và Nguyễn Hồng Quang bắt gặp Tâm Anh - bạn học của Vĩnh Cơ đang đi đầu, tay đưa cao biểu ngữ mang dòng chữ: "Để bảo vệ chánh pháp chúng tôi không từ chối một hy sinh nào!"
Hôm nay thứ Tư ngày 8 tháng 5 năm 1963, buổi sáng Bửu Toàn có hai tiết dạy đầu giờ và buổi chiều có hai tiết cuối giờ, nhưng nhằm lễ Phật Đản (rằm tháng Tư Quý Mão) nên trường trung học Bồ Đề cho học sinh và giáo chức nghỉ một ngày để đi dự lễ. Bửu Toàn ở nhà, buổi sáng tiếp mấy người bạn, kể chuyện đại lễ Phật Đản và đoàn người tuần hành trên các ngả đường đông nghịt. Gần cuối buổi chiều Bửu Toàn về phủ Vinh Quốc Phong gặp lúc Vĩnh Bảo đang ngồi đợi Anh Thi ăn cơm tối xong để cùng đi biểu tình.
Bửu Toàn hỏi Vĩnh Bảo để biết thêm khí thế biểu dương lực lượng sáng nay của tín đồ Phật giáo. Đây là lần đầu tiên Phật giáo công khai chính thức dóng lên tiếng kêu phản đối chính phủ Sài Gòn phân biệt đối xử tôn giáo và đỉnh cao là công điện khẩn đề ngày 6 tháng 5 năm 1963 bắt phải triệt hạ cờ
Phật giáo trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa, mà tập trung nhất là ở Huế.
- Thưa bác, vì sao mà cờ Phật giáo quốc tế không được treo lên trong ngày lễ Phật Đản? Mấy năm trước tuy Phật giáo đã bị chính phủ Sài Gòn kỳ thị, nhưng chưa đến mức ấy... - Vĩnh Bảo hỏi.
Bửu Toàn giảng giải:
- Là vì Ngô Tổng thống có người anh ruột làm Tổng giám mục giáo phận Huế đang muốn được phong tước Hồng y. Để đạt được điều đó trên địa phận ngài cai quản phải có đông tín đồ, chứng tỏ sự thành công của ngài trong việc đi loan báo Tin mừng, rao giảng về Nước trời. Rất không may cho đến nay dẫu đã vận dụng nhiều biện pháp nhưng con số Phật giáo đồ ở Huế vẫn rất đông chứ không phải ít như báo cáo. Vì vậy dịp này Tòa thánh Vatican mới cử quan sát viên của mình đến Việt Nam, đến Huế trong dịp lễ Phật Đản để xác thực thông tin nói trên. Việc chính phủ Sài Gòn gửi công điện khẩn bắt buộc triệt hạ cờ Phật giáo là vì thế...
Nghe Bửu Toàn giải thích xong, Vĩnh Bảo suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Thưa bác, như vậy là Tổng thống hành động vì lợi ích riêng của gia đình mình chứ không phải vì quốc dân đồng bào? Ai lại làm như thế?
- Vấn đề là ở chỗ đó. - Bửu Toàn nói: - Tổng thống vốn là người có tinh thần dân tộc rất cao, làm cho người Mỹ cũng phải gờm, nhưng rất tiếc là các thành viên trong gia đình Tổng thống vì động cơ cá nhân mà làm rối tung hết cả lên!
Anh Thi ăn cơm vội vàng rồi nhanh chóng buông đũa đi vào buồng thay áo. Một lát sau cô bước ra đến trước mặt Bửu Toàn vòng tay, đầu hơi cúi:
- Thưa ba cho con đi biểu tình.
- Ừ, con đi, đừng về muộn quá! - Bửu Toàn ngắm con gái và dặn. - Dạ vâng ạ!
Anh Thi đáp lời ba rồi chạy tới bên bà Diệu Anh cũng với động tác vòng tay đầu hơi cúi như mọi lần cô thưa chào để đi học:
- Thưa mẹ, con đi biểu tình.
- Ừ. Con đi, nhưng cố theo kịp cậu Vĩnh Bảo nhé! - Quay qua với Vĩnh Bảo bà Diệu Anh lo lắng căn dặn: - Hai chị em nên đi bên nhau, coi chừng bị lạc!
- Dạ vâng ạ!
Anh Thi và Vĩnh Bảo cúi chào Bửu Toàn và Diệu Anh một lần nữa rồi ra đi.
Bửu Toàn nhìn theo hai người trẻ tuổi lòng đầy lo lắng, bởi vì theo nhận định của trên, chính phủ Sài Gòn với chính sách kỳ thị Phật giáo họ sẽ không dễ dàng để cho Phật giáo đồ tự do hành động, mà họ sẽ có biện pháp trừng
phạt. Nhưng trừng phạt dưới hình thức nào, đến giờ phút này chưa ai có thể hình dung ra được, Bửu Toàn cũng không hình dung được, chỉ thấy trong lòng rất lo lắng, song không vì thế mà ông ngăn cản con và cháu đi biểu tình. Ông hình dung Anh Thi đang cùng Vĩnh Bảo hòa mình trong dòng thác người đi vào trung tâm thành phố tay dương cao biểu ngữ, hô vang các khẩu hiệu phản đối sự phân biệt đối xử tôn giáo. Hàng ngày ông nhìn thấy Anh Thi mặc áo quần dài bằng vải pôpơlin trắng - bộ đồng phục giản dị và tinh khiết của nữ sinh, nhưng Anh Thi cứ đẹp rực rỡ. Hôm nay lần đầu ông nhìn thấy con gái mình mặc áo dài màu lam - đồng phục của gia đình Phật tử - Anh Thi càng đẹp hơn. Một chút màu lam của nhà Phật mà sắc đẹp Anh Thi còn được tôn lên như thế nữa là những màu sắc sang trọng khác! Ông nhớ mùa hè năm ngoái khi Anh Thi vừa tròn mười sáu tuổi, nhìn thấy sắc đẹp lộng lẫy của con gái cứ mỗi ngày một rực rỡ hơn, ông đã bảo bà Diệu Anh không nên may sắm chưng diện gì cho Anh Thi, một chút đồ trang sức cũng không cho đeo. Suối tóc nhung mượt buông dài cắt phẳng ngang eo, đôi guốc gỗ thấp, phẳng, không sơn, bộ áo quần dài bằng vải pôpơlin trắng may hơi rộng một chút, nón lá trắng, quai nón là một sợi dây gấc trong suốt, chiếc xe đạp tuềnh toàng, tốt nhưng mà cũ kỹ... Bửu Toàn lấy những chiếc áo dài trắng của Đoan Thuận ngày xưa may theo kiểu cũ đưa cho Anh Thi mặc đi học, lập tức tuần sau một số nữ sinh bắt chước may theo kiểu đó. Mùa đông, Bửu Toàn đưa chiếc áo len của Đoan Thuận đan tặng ông ngày xưa cho Anh Thi mặc. Chiếc áo cũ đan kiểu đàn ông, rộng thùng thình so với Anh Thi, vậy mà không lâu sau đó các nữ sinh bắt chước đan áo theo kiểu áo len Anh Thi mặc... Bửu Toàn biết cổng trường Đồng Khánh và đường Lê Lợi thỉnh thoảng bị nghẽn tắc giao thông cũng vì Anh Thi. Khuôn mặt trái xoan, vầng trán trắng mịn rộng và phẳng, má lúm đồng tiền, cằm chẻ, đôi mắt bồ câu to và trong suốt được che chắn bởi đôi rèm mi dài cong vút và dày rợp, sóng mũi dọc dừa, đôi môi hình tim, đôi hàm răng trắng nõn nà và đều đặn, cổ cao ba ngấn, thân hình dong dỏng. Bửu Toàn nghĩ sau này khi cơ thể con gái phát triển hoàn thiện không biết Anh Thi còn đẹp đến mức nào nữa? Ông vừa tự hào lại vừa
lo lắng vì sắc đẹp của con gái. Bà Diệu Anh đọc thấy sự lo lắng này. Bưng khay trà nóng đặt lên bàn rồi rót nước đưa mời Bửu Toàn xong, Diệu Anh hỏi:
- Ba nhìn thấy Anh Thi mặc áo dài màu lam quá đẹp nên đâm ra lo lắng, hay là lo vì việc con đi biểu tình?
- Cả hai. - Bửu Toàn đáp: Con đi biểu tình chống chế độ tất nhiên lòng cha mẹ nào mà không lo? Nhưng có được một đứa con gái sắc nước hương trời như vậy cũng phải lo chứ?!
Diệu Anh lựa lời trấn an Bửu Toàn:
- Con chúng ta được thừa hưởng vẻ đẹp của cha và mẹ như thế thật tuyệt vời! Vậy nên chúng ta chỉ lo nuôi dạy con cho thật tốt, đó là phúc phận của gia đình và dòng tộc chứ có gì mà ba phải lo? Em tin rằng Anh Thi lúc nào cũng là một đứa con ngoan hiền và hiếu thảo, làm việc gì cũng nghĩ đến cha mẹ, luôn nhớ lời cha mẹ...
Diệu Anh nói và nghĩ về Đoan Thuận. Diệu Anh luôn cảm ơn trời đất đã ban tặng cho bà đứa con gái rất mực xinh đẹp do Đoan Thuận sinh ra. Hôm Đoan Thuận về dự đám tang Ân Thụy Thái Vương, Diệu Anh đã có dịp chiêm ngưỡng sắc đẹp của Đoan Thuận. Sắc đẹp ấy ở thành phố này dễ mấy ai sánh kịp? Cha rất đẹp mẹ rất đẹp làm sao sinh con ra không sắc nước hương trời được?! Nhưng Diệu Anh vẫn nhớ lời Bửu Toàn ngày xưa rằng Bửu Toàn không phải là người đi săn tìm cái nổi bật nhất, mà là tìm cái hợp với mình nhất - khi Bửu Toàn chia tay Diệu Anh để đến với bà Mộc Lan. Một điều mà người ngoài không ai hay biết đó là Bửu Toàn với bà Mộc Lan sống với nhau chưa hề có hôn lễ, chưa hề đăng ký kết hôn. Diệu Anh nghĩ nếu bà Mộc Lan không xuất hiện thì Đoan Thuận với Bửu Toàn là một đôi đẹp nhất hành tinh. Vì Đoan Thuận mới là người phụ nữ hợp với Bửu Toàn hơn ai hết. Rồi Diệu Anh để cho trí tưởng tượng của mình đi xa hơn - Nếu Đoan Thuận
trở về như Bửu Toàn hằng khao khát và mỏi mắt chờ mong, chắc chắn Bửu Toàn sẽ sống với Đoan Thuận, mặc cho thiên hạ muốn nói gì thì nói. Bởi xưa nay từ các triều đại phong kiến Trung Hoa cho đến Hoàng gia Nguyễn Phước tộc Việt Nam những cuộc tình như thế không phải là chuyện hiếm, vì mục đích cuối cùng là những người đàn bà ấy có sinh ra cho vị Hoàng thân quốc thích được đứa con nào hay không, đó mới là điều quan trọng. Diệu Anh nghĩ khi Bửu Toàn và Đoan Thuận sống với nhau thì Diệu Anh chỉ xin được tiếp tục chăm sóc Anh Thi, thương yêu Anh Thi và ở với Anh Thi suốt đời mà thôi. Ôi, Anh Thi, con gái thương yêu của mẹ!
Diệu Anh ngồi tỉa xong những cành hồng thật mỏng thật khéo cho những chiếc bánh hoa hồng rồi đem vào nồi hấp, đợi lát nữa Anh Thi và Vĩnh Bảo đi biểu tình về thì dọn ra ăn cho nóng. Diệu Anh thấy chiều nay vì vội đi nên Anh Thi ăn cơm ít hơn mọi ngày. Diệu Anh ra vườn cắt nắm lá dứa thơm vào rửa sạch rồi mở nồi hấp bánh, bỏ nắm lá dứa vào và đậy nắp lại thật kín. Nhưng mùi thơm của lá dứa quyện với mùi thơm của bánh - theo hơi nước bốc lên, cứ đẩy trồi nắp nồi hấp mà thoát ra ngoài mỗi lúc một nhiều hơn, làm thơm ngát cả khu nhà. Bửu Toàn đang ngồi nghe radio bắt gặp mùi thơm của lá dứa, ông hít thở một cách thú vị, rồi nghĩ đời ông may mắn được ở gần những người phụ nữ giỏi giang khéo léo, bắt đầu từ thân mẫu của ông. Giờ đây Anh Thi ngoài chương trình học nữ công gia chánh ở trường Đồng Khánh, về nhà còn được Diệu Anh truyền dạy cho bao nhiêu bí quyết làm bánh trái nem chả, nấu nướng các món ăn Tây, Tàu, Việt Nam,Nhật Bản...
Cả Bửu Toàn và Diệu Anh cùng giật mình khi thấy Anh Thi đột ngột đi chân đất bước vào nhà, áo quần tả tơi, mặt mày lem luốc mếu máo kêu:
- Ba mẹ ơi, con đi với cậu Vĩnh Bảo, nhưng con chạy thoát, còn cậu ấy... - Vĩnh Bảo làm sao?
Cả Bửu Toàn và Diệu Anh cùng hoảng hốt đặt câu hỏi.
- Con... con không biết! - Anh Thi thở hổn hển nói: - Chúng bắn vào chúng con. Chúng cho xe tăng xông vào đoàn biểu tình...
Đất dưới chân Bửu Toàn như sụp xuống. Diệu Anh buông lời niệm Phật, nhào tới ôm chầm lấy Anh Thi và nước mắt chan đầy mặt. Bà dìu Anh Thi vào phòng để tắm rửa và thay áo.
Khi Anh Thi từ phòng trong bước ra cũng vừa lúc Vĩnh Bảo hớt hải chạy vào nhà hỏi chị Anh Thi đã về chưa. Vĩnh Bảo trông còn tả tơi lấm lem hơn cả Anh Thi.
Tìm thấy nhau rồi Vĩnh Bảo và Anh Thi rất mừng, Diệu Anh và Bửu Toàn còn mừng hơn. Diệu Anh đứng bên bếp sắp bánh từ trong nồi hấp ra những chiếc đĩa sứ trắng mà cứ lâm râm niệm Phật. Trời ơi, nếu không may Anh Thi có mệnh hệ gì thì Diệu Anh làm sao sống nổi?!... Càng nghĩ nước mắt Diệu Anh lại cứ tuôn trào.
Vĩnh Bảo vừa thở vừa nói với Bửu Toàn:
- Khi tai họa xảy ra con đang ở trong sân Đài phát thanh liền nhanh chóng thoát ra ngoài chạy đi tìm chị Anh Thi, nhưng không tìm thấy. Có mấy thiếu nữ bị xe tăng cán lên, thân xác dập nát nên rất khó nhận ra. Con chạy trong khói mù của lựu đạn cay chảy cả nước mắt nước mũi vừa gọi chị Anh Thi lạc cả giọng, với hy vọng chị đã thoát ra được và đang ở đâu đó...
- Thôi, các con đã về được đây là quý lắm rồi. Con hãy vào phòng rửa mặt, rửa tay chân rồi ra đây kể tiếp cho bác nghe. - Bửu Toàn âu yếm nhìn cháu trai, nói giọng vỗ về.
Vĩnh Bảo vâng dạ rồi đi vào phòng trong tắm rửa qua quýt để nhanh chóng trở ra kể chuyện cho bác nghe. Diệu Anh đã đặt lên bàn những đĩa bánh bông hồng nóng hổi thơm nức mùi lá dứa với chén nước mắm chua ngọt
và đĩa chả lụa. Anh Thi so đũa cho mọi người rồi mời ba mời mẹ mời Vĩnh Bảo cùng ngồi ăn.
Vĩnh Bảo sôi nổi hào hứng và đầy phẫn uất khi tiếp tục câu chuyện:
- So với số lượng người trong đoàn tuần hành sáng nay từ chùa Từ Đàm tỏa về các đường phố thì tối nay còn được bổ sung thêm, đông nghịt, dày đặc. Chúng con cùng tập trung đứng trước Đài phát thanh hô vang những khẩu hiệu đả đảo sự kỳ thị tôn giáo của chính phủ, phản đối việc chính quyền không cho phát thanh đại lễ Phật Đản sáng nay. Quý Thượng tọa, Đại đức và một số Phật tử đang ở chùa Từ Đàm nghe tin công chúng biểu tình trước mặt Đài phát thanh liền đến để nhập vào khối biểu tình, sau đó quý thầy và một số thanh niên Phật tử như Tâm Anh - bạn của anh Vĩnh Cơ, Hồng Quang - bạn của con... vào thẳng trong Đài phát thanh để hỏi lý do hủy bỏ buổi phát thanh nói trên. Ban đầu ông giám đốc Đài cứ quanh co viện cớ rằng vì trở ngại kỹ thuật, nhưng sau đó chịu không nổi trước những lời chất vấn đanh thép của những người đại diện cho đoàn biểu tình, ông ta buộc phải thú nhận việc không phát thanh buỗi lễ là do chính quyền Thừa Thiên thừa lệnh của chính phủ Sài Gòn... Một Phật tử nhanh chóng trở ra ngoài loan tin cho đoàn biểu tình biết nội dung của cuộc chất vấn. Tức thì những khẩu hiệu được hô to lên như xé cả bầu trời: "Đả đảo sự đối xử bất công, sự kỳ thị tôn giáo, sự độc tài gia đình trị..." Tiếng hô hét vang dậy cả một vùng trời. Bỗng đâu xuất hiện binh lính cảnh sát đeo mặt nạ, mang súng ống, tay cầm dùi cui, roi điện, cùng với xe tăng, xe cứu hỏa và lựu đạn cay... Mở đầu là xe cứu hỏa phun nước xối xả vào đoàn người biểu tình đang hô vang khẩu hiệu, sau đó chúng ném lựu đạn cay... Đoàn biểu tình giẫm đạp lên nhau chạy tán loạn, chúng liền cho xe tăng lao vào... Thật là một cảnh tượng hết sức thê thảm khi những người chạy không kịp đã bị xích xe tăng nghiến nát...
NHỮNG DẤU CHÂN CỦA MẸ Hà Khánh Linh
www.dtv-ebook.com
Chương 4
Liên Chi nghỉ phép về thăm nhà, được bà Ngần kể hết việc Từ Huy đã tìm đến nhà như thế nào, bà nói:
- U biết con có coi anh ấy là chỗ chí thân mới gửi vàng nhờ anh đem về cho u. Nhưng u lại muốn gửi lại cho anh ấy làm của tin... Mới nhìn qua con người đã thấy cái vẻ con nhà gia giáo nề nếp. Kiếm được một người như thế mà gửi thân gửi phận là phúc đức nghe con!
- Nhưng... anh ấy không còn ở miền Bắc nữa u ạ.
- Con bảo sao? Anh ấy đi vào Nam?
- Thưa vâng. Anh ấy đi B. Anh gửi thư cho con, nhưng thư nằm ở văn phòng công ty. Khi thư chuyển về tới đội công tác của con thì anh đã lên đường hơn một tháng.
Hai mẹ con làm cơm trong bếp vừa thủ thỉ kể chuyện. Ngoài cổng, một cụ già tay ôm thùng giấy cứng trước ngực vừa cất giọng trầm hỏi:
- Xin hỏi đây có phải là nhà bà cụ Lộc không ạ?
- Vâng! - Liên Chi đon đả bước ra chào: - Chào cụ, mời cụ vào trong này. Cụ hỏi thăm u cháu có việc gì không ạ?
Ông cụ đưa mắt nhìn lướt cô công nhân từ đầu đến chân rồi chầm chậm theo cô đi vào nhà.
Bà Ngần từ dưới bếp bước lên sốt sắng:
- Chào cụ! Mời cụ ngồi xơi nước ạ. Cụ từ đâu tới hỏi thăm già này có việc gì ạ?
Ông cụ trịnh trọng đặt chiếc hộp giấy cứng lên bàn trong lúc Liên Chi pha nước chè xanh đưa mời khách và mời mẹ. Ông cụ nói:
- Tôi là cha của Từ Huy. Trước lúc lên đường vào Nam con trai tôi chỉ tạt qua nhà có vài tiếng đồng hồ, không kịp lên thăm cụ. Anh ấy nhờ tôi lên thăm và gửi món quà này tặng cô nhà.
- Quý hóa quá! Món quà gì mà to và nặng thế, khổ thân ông! Mời ông xơi nước ạ.
Liên Chi xúc động nghẹn ngào không nói nên lời. Vậy là cô đã hiểu lòng anh hơn chút nữa. Anh đã thưa chuyện với cha mẹ và nhờ cha mẹ đến thăm nhà. Lại còn món quà gì nữa đây? Liên Chi rụt rè bước đến trong lúc ông cụ đứng lên trịnh trọng trao hộp giấy cứng - bốn bề niêm phong kín bưng - vào tay cô. Liên Chi nói lời cảm ơn rồi thận trọng bưng hộp sang chiếc bàn con
bên cạnh, rồi từ từ mở hộp ra. Cô hết sức kinh ngạc khi trước mắt mình hiện ra một bức tượng bán thân bằng thạch cao - người con gái giống Liên Chi như khuôn đúc. Và đây nữa, phong thư dày với túi vải nhỏ đựng khúc kiềng vàng dạo nọ gửi cho nhau làm của tin. Giờ đây anh gửi lại cho cô. Thư anh nói anh đi rồi anh sẽ về. Hai con rồng phụng vờn nhau trên khúc kiềng vàng còn lại chứng tỏ sẽ có ngày tái ngộ, ngày ca khúc khải hoàn...
Trong lúc Liên Chi xúc động mê say với phong thư và món quà bất ngờ của Từ Huy, thì ở bàn nước ông cụ thân sinh của anh sau khi đưa mắt quan sát cửa nhà rồi nhìn ngắm bà Ngần đăm đăm một lát và hỏi:
- Tôi xin hỏi khí không phải, - bà có bao giờ ở Thiệu Hóa không?
Bà Ngần thành thật:
- Chẳng giấu gì ông, thuở còn trẻ tôi từng làm vú em cho gia đình quan Tri phủ Thiệu Hóa...
- Vậy bà là... bà Ngần phải không ạ?
- Vâng, sao ông biết?
- Tôi một thời làm lính bảo an nhưng chưa hề cầm súng bắn viên đạn nào. Bà còn nhớ chú lệ hàng ngày lo xới vườn hoa chăm cây cảnh cho quan phủ không?
- Tôi nhớ chứ! Vậy ra ông... ông là chú lệ đấy ư?
- Vâng, chính tôi! Tôi đã rời bỏ Phủ đường trốn về quê trước khi vỡ mặt trận... Vậy rồi sau đó bà về quê bằng cách nào? Ông bà Phủ có trở ra kịp để đón con của họ không? Tôi nhớ lúc ấy hình như có một người con của họ bị ốm nên không cùng về Huế cư tang cụ nội được.
- Ông nhớ đúng đấy. Chỉ có điều ông bà Phủ không làm sao trở ra được trong tình hình ấy. Đêm hôm Phủ đường bị đánh vào, tôi dẫn cháu bé trốn ra khỏi Phủ.
- Vậy bây giờ cô cậu ấy đâu rồi? Cậu hay là cô? Hình như cô phải không?
- Vâng, cô cả. Ông nhìn lại coi, cô cả đã sống với gia đình tôi từ bấy đến nay, chính là Liên Chi - là người mà anh Từ Huy nhà ông đem lòng thương...
Ông cụ há hốc mồm khi nhìn cô gái trong bộ áo quần công nhân, cao dong dỏng, săn chắc, hồng hào và rất xinh đẹp trước mắt mình. Lẽ nào đây là đại tiểu thư của quan Tri phủ Thiệu Hóa? Là người yêu của Từ Huy - con trai ông - và sẽ là con dâu trưởng của gia đình ông? Ông xúc động không kém bà
Ngần. Còn Liên Chi, khi nghe hết câu chuyện giữa cha Từ Huy và u Ngần, cô không kìm nén được nữa, bật khóc như một đứa trẻ thơ.
Bà Ngần đến bên vuốt tóc cô dỗ dành:
- Nín đi con! Âu cũng là ân phước của trời đất. - Rồi bà quay sang với cha Từ Huy nói:
- Khi gặp Từ Huy tôi đoán cha mẹ anh ấy hẳn là người phúc đức. Nhìn thấy quả thì biết được cây cành của nó ra sao chứ? Thôi từ nay hai nhà như một. Chừng nào chưa tìm được ông bà Phủ thì con cứ coi gia đình bên cụ và bên này luôn là chỗ thân thiết của con. Từ nay nếu u có mệnh hệ gì thì u cũng an lòng...
Ở cuối câu bà Ngần không ngăn được nước mắt.
Chú lệ - người phú nông - nhà địa chủ “vớt” - ông cụ thân sinh của họa sĩ Từ Huy - ông Từ Hiếu nói:
- Rồi một ngày đất nước thống nhất, hai miền Nam Bắc được đi lại tự do, ta và mẹ nuôi của con sẽ dẫn con đi vào Nam tìm cha mẹ ruột cho con...
Mùa khô năm 1965-1966 cuộc phản công chiến lược của quân đội Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Nam bị thất bại. Luật sư Kim Hồng Ân, Bửu Toàn và một số cán bộ đảng viên nằm vùng khác được kịp thời quán triệt tinh thần của Trung ương quyết định thừa thắng mở mặt trận đường 9
cho quân chủ lực đánh và thu hút lực lượng địch về phía ta, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ phát triển. Các lực lượng chính trị và vũ trang nhân dân Trị Thiên Huế phải phối hợp chặt chẽ với quân chủ lực để đưa chiến tranh vào tiếp cận với thành phố. Từng người, từng bộ phận được phân công cụ thể để chủ động đánh địch trên cả ba mặt gồm chính trị, quân sự và binh vận nhằm làm rối loạn hậu phương của
quân địch. Tất cả nhận nhiệm vụ xong ra về là triển khai hành động ngay, nhịp nhàng và đồng bộ.
Và kết quả thật đúng như mong đợi. Vì thua đau ở mặt trận đường 9 và Quảng Trị - Thừa Thiên, tổn thất 978 sinh mạng lính Cộng hòa và 112 lính Mỹ, Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia Nguyễn Văn Thiệu và Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương Nguyễn Cao Kỳ đã ký lệnh cách chức Tư lệnh trưởng Vùng I chiến thuật - tướng Nguyễn Chí Thiện. Nguyễn Chí Thiện giận lắm! Quân Cộng sản tấn công như vũ bão dồn dập hết đợt này đến đợt khác, quân ông cầm cự được như vậy là giỏi lắm rồi. Nếu không phải ông, mà là một tướng khác cầm quân trong những trận đọ sức vừa qua chắc gì con số tổn thất sinh mạng binh lính chỉ dừng lại ở mức đó? Cứ thử ra đấy mà coi! Nguyễn Chí Thiện không ngờ ngày ông được triệu về đô thành Sài Gòn để báo cáo cũng là ngày ông từ giã chức Tư lệnh trưởng Vùng I chiến thuật - ngày 11 tháng 3 năm1966! Ông hình dung anh em sĩ quan binh sĩ thuộc cấp của ông ở Huế nói riêng và ở Vùng I chiến thuật nói chung khi nghe được tin này sẽ rất nhức nhối đau buồn, bởi vì họ rất hiểu ông và yêu mến ông rất mực. Ông cũng thừa biết đã từ lâu Nguyễn Cao Kỳ chẳng ưa gì ông, nhân dịp này y trút những hiềm khích cá nhân lên đầu ông! Nhưng có một điều chắc chắn là Kỳ không được anh em đồng đội yêu mến như yêu mến Nguyễn Chí Thiện.
Suốt một đêm nằm trằn trọc không ngủ, buổi sáng thức dậy Nguyễn Chí Thiện thấy mặt trời Sài Gòn rọi thẳng vào phòng ngủ của ông. Bên ngoài nhịp sống vẫn vội vàng hấp tấp. Đường phố đông đúc, xe cộ ngược xuôi, người qua kẻ lại mua bán, làm lụng, nói cười... không ai biết trong tư dinh này Nguyễn Chí Thiện đang buồn lắm. Ông uể oải bước ra phòng ngoài gieo mình trên ghế nệm, đôi mi mắt nặng trĩu và đầu đau buốt. Ngọc Quế - vợ ông - lật đật đi pha tách cà phê sữa nóng bưng tới dỗ ông uống rồi dịu dàng nói:
- Thôi đừng buồn mà sinh ra đau ốm anh ạ! Nhiều khi mất chức lại hóa
hay. Từ nay anh khỏi phải đứng mũi chịu sào xông pha trận mạc. Cứ chịu khó nhẫn nhục chờ đợi một thời gian. Anh là tướng trẻ, quỹ thời gian còn dài, rồi ra tình hình sẽ khác...
- Khác là khác thế nào? - Nguyễn Chí Thiện vào cớ cao giọng với vợ: - Họa chăng tập đoàn Thiệu Kỳ chếtrấp đi thì anh em chiến hữu của anh mới có cơ ngócđầu dậy!...
Nói rồi Nguyễn Chí Thiện lại đổi giọng dịu dàng cám ơn vợ vì cà phê sữa hôm nay rất ngon. Ông nhấp từng ngụm nhỏ rồi nhớ lại ngày 1 tháng 11 năm 1963, người Mỹ đã mượn tay một số tướng lĩnh trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa để lật đổ Ngô triều khi họ nhận thấy nền đệ nhất cộng hòa này đã làm mất lòng dân chúng nhiều quá! Sau đó lại đến lượt nội bộ tướng lĩnh kình chống nhau và muốn thanh trừng lẫn nhau. Đúng hai tháng sau ngày lật đổ Ngô triều, ngày 1 tháng 1 năm 1964, tướng Nguyễn Khánh lật đổ tướng Dương Văn Minh và lên làm Chủ tịch Hội đồng quân sự cách mạng, rồi y dự định thành lập Nội các. Đứng đầu các Bộ phần đông sẽ là tướng lĩnh có tham gia đảo chính Ngô triều, bây giờ phải cho họ được dự phần ăn chia! Nhưng nếu Tổng trưởng Nội các cũng là một nhà quân sự e rằng quốc dân đồng bào sẽ phản đối, sẽ gọi Nội các do Nguyễn Khánh dựng lên là một tập đoàn quân phiệt! Thấy trước được điều đó nên ngày 16 tháng 8 năm 1964, nhân danh Chủ tịch Hội đồng quân sự cách mạng Nguyễn Khánh triệu tập một cuộc họp tại thành phố Vũng Tàu. Trong cuộc họp này một Hiến chương đã ra đời bầu Nguyễn Khánh làm Chủ tịch Việt Nam cộng hòa, kiêm Chủ tịch Hội đồng quân sự, đồng thời bầu Tổng tư lệnh quân đội là tướng Trần Thiện Khiêm. Dịp này Khiêm cũng vừa được thăng quân hàm, và điều quan trọng hơn hết là từ cuộc họp này trở về, ngày 31 tháng 9 năm 1964, Nguyễn Khánh đã mời giáo sư Trần Văn Hương ra làm Tổng trưởng Nội các. Nhưng đó là việc diễn ra cuối tháng 9 năm 1964, còn bây giờ thì chưa! Bây giờ tại Huế - bao giờ cũng bắt đầu từ Huế (!), lập tức một làn sóng phẫn nộ cuồn cuộn dâng lên. Nguyễn Chí Thiện đã tận mắt chứng kiến những cuộc xuống đường đấu tranh
của nhân dân Huế về “Hiến chương Vũng Tàu”, có thể nói là khi Hiến chương chưa ráo mực! Chỉ chưa đầy hai ngày sau khi Hiến chương ra đời, sinh viên Huế tuyên bố không thừa nhận Hiến chương ấy. Hôm sau tại Sài Gòn, sinh viên cũng tổ chức một cuộc hội thảo về nội dung bản Hiến chương Vũng Tàu. Nhận định rằng sinh viên Sài Gòn cũng sẽ làm như sinh viên Huế, Nguyễn Khánh liền điều động các đơn vị cảnh sát, quân đội và xe thiết giáp đến để đàn áp cuộc hội thảo. Lập tức sáng hôm sau nhằm ngày 20 tháng 5 năm 1964 tại Huế, lấy cớ kỷ niệm một năm ngày pháp nạn - ngày Phật giáo bị đàn áp dã man, hơn hai chục ngàn người dân Huế trong đó phần đông là thanh niên sinh viên học sinh và giáo chức xuống đường biểu tình chống Nguyễn Khánh. Trên tường của các trường đại họcvà trung học đầy dẫy các khẩu hiệu viết bằng sơn đỏ,sơn vàng:
"Đả đảo Nguyễn Khánh!"
"Đả đảo Hiến chương Vũng Tàu!"
"Đả đảo bọn độc tài quân phiệt!"...
Kể từ hôm ấy hằng ngày vào lúc năm giờ rưỡi chiều nhân dân Huế tập trung lắng nghe buổi phát thanh của lực lượng sinh viên học sinh tranh đấu trên Đài phát thanh Huế.
Trước áp lực như trào dâng sóng dập của công chúng Huế ngày 25 tháng 8 năm 1964, Nguyễn Khánh buộc phải thay mặt Hội đồng quân sự cách mạng thu hồi Hiến chương Vũng Tàu và hứa sẽ tổ chức bầu ra một nguyên thủ quốc gia. Người Huế vẫn chưa hả giận, vẫn cho rằng những khuôn mặt trong Nội các là một tập đoàn quân phiệt! Dẫu có bày trò bầu bán gì thì cũng giữa họ với nhau mà thôi, sẽ không có khuôn mặt mới nào khả dĩ lọt vào đó, vậy nên khi nghe Nguyễn Khánh tuyên bố thu hồi Hiến chương xong, lập tức thanh niên sinh viên học sinh Huế đến chiếm Đài phát thanh, phát đi bản tuyên bố không thừa nhận quyền bầu cử nguyên thủ quốc gia của Hội đồng quân sự
cách mạng và yêu cầu Hội đồng phải giải tán ngay trong vòng 24 tiếng đồng hồ! Rạng sáng ngày hôm sau nhằm ngày 26 tháng 8 năm 1964, thanh niên sinh viên học sinh cùng với thầy cô giáo và hàng ngàn công tư chức Huế biểu tình trên các ngả đường dương cao các khẩu hiệu, gọi đích danh các tướng lĩnh trong Hội đồng quân sự cách mạng ra mà đả đảo. Nguyễn Chí Thiện còn nhớ trong cuộc biểu tình ấy sinh viên học sinh Huế đã hô những câu khẩu hiệu rất hay, và rất lạ, ví dụ như tướng Đỗ Mậu được phân công phụ trách văn hóa văn nghệ, nên các sinh viên học sinh hô:
- Ai hiếp dâm văn hóa?
- Đỗ Mậu!
- Tại sao chúng ta không đả đảo Đỗ Mậu?
- Đả đảo! Đả đảo! Đả đảo!
- Loong Trần Thiện Khiêm là loong gì?
(Vì tướng Trần Thiện Khiêm vừa mới được vinh thăng quân hàm) - Loong sữa bò!
- Tại sao chúng ta không đạp?
- Đạp! Đạp! Đạp!...
Hàng đoàn người đạp xích lô, xe thồ, xe lam... cùng tiểu thương các chợ Đông Ba, An Cựu, Bến Ngự... ồ ạt diễu hành qua các đường phố cùng hô vang các khẩu hiệu với sinh viên học sinh, làm cho đoàn người biểu tình tưởng như dài vào tận. Ôi, người Huế!... Tiếp đến sinh viên học sinh Huế tổ chức đêm không ngủ để tỏ thái độ không thừa nhận chính phủ Trần Văn Hương, sinh viên Sài Gòn ra tuyên bố đòi chính phủ Trần Văn Hương phải tự
giải tán, và Phật giáo Huế tuyên bố đòi Trần Văn Hương phải từ chức. Điều này cũng gây bất ngờ cho Nguyễn Khánh. Tưởng rằng khi có một khuôn mặt giáo sư xuất hiện ở vai trò Tổng trưởng Nội các sẽ làm nhòe đi cái dáng hình
“tập đoàn quân phiệt”, ai ngờ dân chúng vẫn chưa vừa lòng! Nhất là dân chúng Huế! Rồi liên tiếp bao lần thay người. Trước sức ép của quốc dân đồng bào ngày 28 tháng 1 năm 1965, Hội đồng quân sự cách mạng buộc phải đưa Trần Văn Hương xuống và đưa Nguyễn Xuân Oánh lên làm quyền Thủ tướng. Ngày 16 tháng 2 năm 1965, Phan Khắc Sửu được chỉ định làm Quốc trưởng, Phan Huy Quát làm Thủ tướng, rồi đến ngày 19 tháng 6 năm 1965 được người Mỹ tích cực bảo trợ nên một chính phủ mới được thành lập, tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia và tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương. Sinh viên học sinh và các tầng lớp nhân dân Huế lại xuống đường biểu tình đòi lật đổ tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ... Dạo Trần Văn Hương còn làm Tổng trưởng Nội các, trong một cuộc họp Nội các ông than phiền rằng bây giờ trên lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa đời sống văn hóa bị xuống cấp ghê quá, thuần phong mỹ tục bị phá vỡ nhiều lắm, văn hóa độc hại đang lan tràn! Ngay trong trường trung học, đại học các nữ sinh và nữ giáo chức mặc váy quá ngắn làm cho các nam sinh và nam giáo sư... đi lại khó khăn (!). Trong một lần ngồi quán cà phê nghe Đài phát thanh phát đến đoạn này, Vĩnh Tuấn đã đập bàn cười phá lên nói:
- Người ta mặc váy ngắn thì mặc kệ người ta! Mắc chi mình mà mình... đi lại khó khăn?!...
Vĩnh Tuấn không đợi xe của hãng Hàng không Air Việt Nam đưa về văn phòng của hãng trên đường Hàm Nghi, mà vừa xuống sân bay anh đã gọi ngay taxi đưa thẳng về nhà Nguyễn Chí Thiện.
Sau khi nhấn nút chuông điện, một chị giúp việc đứng tuổi ra mở cổng cho Vĩnh Tuấn chứ không phải là chú lính hầu như mọi khi. Dẫu bị cách chức
Tư lệnh trưởng thì tướng Thiện vẫn còn lính hầu nhưng chẳng hiểu vì sao không thấy người lính nào? Càng đi sâu vào trong nhà Vĩnh Tuấn càng cảm nhận được điều đó. Cũng có thể Nguyễn Chí Thiện vì quá bực mình nên cho lính nghỉ hết để ông được ở yên một mình mà gặm nhấmnỗi đau.
Vừa thoạt trông thấy Vĩnh Tuấn, cả hai vợ chồng Nguyễn Chí Thiện cùng reo lên:
- A, chú Vĩnh Tuấn, chú vào thật đúng lúc!
- Em phải vào với anh chứ! - Vĩnh Tuấn đến bắt tay Nguyễn Chí Thiện rồi cả hai ngồi xuống.
Ngọc Quế xuống nhà bếp bảo làm nhanh món bánh cuốn nóng, món phở Bắc và hủ tíu Nam Vang bưng lên cho Vĩnh Tuấn và Nguyễn Chí Thiện cùng ăn sáng muộn với nhau luôn.
- Dì Ngọc Mai và các cháu có mạnh giỏi không? Ông bà có khỏe không? - Nguyễn Chí Thiện hỏi.
- Dạ ba mẹ em khỏe, Ngọc Mai và các cháu cũng thường luôn. Ngọc Mai nghe tin anh như vậy cũng lo lắm, Ngọc Mai giục em đi vào với anh nhanh đấy chứ! Nhưng việc đầu tiên anh cần phải biết là vừa hay tin anh bị cách chức lập tức ở Huế nổ ra hai cuộc met tin. Sáng hôm qua 12 tháng 3 năm 1966 là cuộc met tin của đông đảo đồng bào Phật tử tại chùa Diệu Đế. Tại cuộc met tin này đã ra đời một tổ chức lấy tên là Lực lượng tranh thủ cách mạng. Một cuộc met tin của sinh viên trong khuôn viên Đại học Sư phạm, các ban đại diện của năm khoa gồm Luật, Khoa học, Văn, Y và Sư phạm đã đề cử các đại diện của mình lập nên Hội đồng sinh viên tranh thủ cách mạng. Đấy là thời sự tươi rói ở Huế em mang vào riêng tặng cho anh nhé. Anh có biết vì sao mà cả hai tổ chức cùng ra đời một lúc - chỉ một ngày sau khi anh bị cách chức, và tổ chức nào cũng có cụm từ “tranh thủ cách mạng” không?
Theo ngu ý của em thì họ đang muốn tranh thủ anh đấy! Dân Huế là nhạy cảm lắm! Lúc này hễ Thiệu Kỳ trừng phạt ai thì người đó là bạn của lực lượng tranh đấu trên đườngphố Huế...
Vĩnh Tuấn nói rồi mở túi hành lý của mình kéo ra những nem, tré, mè xửng, tôm chua... đặt lên bàn, quay qua với Ngọc Quế, nói:
- Những thứ này không phải của Ngọc Mai gửi cho chị đâu, mà là của trung úy Vĩnh Cơ và anh em sĩ
quan binh sĩ của Vùng I chiến thuật gửi cho anh chị vàcác cháu...
Nguyễn Chí Thiện ngồi lặng trước thông báo của Vĩnh Tuấn về tình hình Huế hai hôm nay và những tặng phẩm do Vĩnh Tuấn cất công mang vào - tấm lòng của anh em Huế, của Vĩnh Cơ... Ôi, Huế là như thế đó! Làm sao để ông được trở về với Huế, về với anh em?...
Như đọc thấy tâm tư của Nguyễn Chí Thiện, Vĩnh Tuấn lựa lời xoa dịu:
- Cũng may mà chị và các cháu đều ở trong này hết, chứ lúc này mà gia đình ở Huế, còn một mình anh bị Thiệu Kỳ giam lỏng ở đây thì còn khổ biết bao nhiêu! Những lúc khó khăn hoạn nạn cha con vợ chồng có nhau là điều hết sức cần. Chị lúc này là điểm tựa tinh thần hết sức quan trọng đối với anh...
Tại Phủ Đầu Rồng mấy ngày qua Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia liên tiếp nhận được công điện khẩn báo cáo tình hình Huế. Có thể nói kể từ hôm công bố lệnh cách chức Tư lệnh trưởng đối với Nguyễn Chí Thiện thì ông và Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương chưa một giây phút nào được yên! Cái ngòi nổ Huế mà không khéo điều tiết thì rất mệt! Kinh nghiệm những năm 1962-1963 của nền đệ nhất cộng hòa cho ông thấy nếu lúc này mà ông không làm chủ được tình hình, để cho sự hỗn loạn ngày càng gia tăng xuất
phát từ chỗ làm mất lòng dân, nhất là dân Huế, thì sớm muộn gì người Mỹ cũng sẽ xét lại vai trò Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia của ông. Lúc này mà ông không tỉnh táo khôn ngoan đi trước một bước là nguy với người Mỹ. Ông gọi viên sĩ quan cận vệ bảo văn phòng điện mời Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương tới hội ý gấp với ông - cũng vừa lúc ông Đổng lý mang đến cho ông một bức điện khẩn gửi đi từ Huế: "Hôm nay 16 tháng 3 năm 1966 có gần bảy ngàn người họp met tin tại Thương Bạc, sau met tin là diễu hành qua các đường phố chính và hô to các khẩu hiệu đòi Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia và Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương phải từ chức, đòi bầu cử quốc hội và thành lập chính phủ dân sự, đòi cải thiện đời sống cho nhân dân..."
Đọc xong bức điện Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia cảm thấy vào cùng mệt mỏi. Ông ngước mắt nhìn lướt viên sĩ quan cận vệ và Đổng lý văn phòng đang đứng chờ lệnh, vừa lúc Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương xuất hiện trong sắc phục sĩ quan không quân. Ông mời ngồi và bắt đầu làm việc khi Đổng lý văn phòng lùi lại ở góc phòng, còn viên sĩ quan cận vệ bước ra phòng ngoài. Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia đi vào cuộc hội ý mà lòng đầy căm giận bởi những dòng cuối của bức điện khẩn cho biết sinh viên học sinh Huế lại bãi khóa. Tệ hại hơn, cha mẹ anh em chú bác của họ cũng hùa theo đòi bãi thị bãi công trên toàn thành phố. Con em không lo học hành thi cử mà cứ nghe lời Việt cộng xúi giục làm điều quàng xiên! Phụ huynh không răn dạy con em mình thì thôi, đằng này còn bắc thang cho chúng nó leo! Leo mãi lên tới tận trời vẫn chưa hả, còn muốn, muốn nữa!... Cái xứ Thuận Hóa này ngày xưa các vua chúa muốn hóa cho nó thuần, cho nó thuận thảo nên mới đặt tên như vậy, chứ thực ra rất khó! Con người sinh ra trên vùng đất ấy thời nào cũng thế, phải gọi là nan hóa mới đúng! Thôi thì đất không nghe trời, trời phải nghe đất vậy!...
Hơn ba ngày qua Vĩnh Tuấn dành nhiều thời gian ở bên Nguyễn Chí Thiện, chuyện trò với Nguyễn Chí Thiện, có khi còn đánh cờ với nhau nữa,
"""