"
Những Con Chuột Hát Khúc Tình Ca Và Những Câu Chuyện Kỳ Lạ Từ Thế Giới Khoa Học - Lliana Bird & Dr Jack full mobi pdf epub azw3 [Thường Thức]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Con Chuột Hát Khúc Tình Ca Và Những Câu Chuyện Kỳ Lạ Từ Thế Giới Khoa Học - Lliana Bird & Dr Jack full mobi pdf epub azw3 [Thường Thức]
Ebooks
Nhóm Zalo
Từ những diễn giả của kênh podcast nổi tiếng “Geek Chic’s Weird Science” đến cuốn sách trả lời cho tấ t cả các câu hỏi mang tính khoa học mà bạn không bao giờ biết rằ ng mình nên hỏi.
Lliana Bird và Dr Jack Lewis thảo luận về các hiện tượng kỳ lạ và siêu thực từ sâu thẳm đại dương đến vũ trụ xa xôi, từ những góc tối trong giỏ đựng đồ giặt đến các ngăn tủ lạnh bị lãng quên. Gói ghém những sự thật và những câu chuyện bấ t thường tưởng chừng như ngớ ngẩn, mỗi chủ đề với những kiến thức hấ p dẫn này được kể bằ ng sự hài hước và hóm hỉnh không thể bắ t chước của nhóm Geek Chic.
Chuyến phiêu lưu vui nhộn qua những điều kỳ quái của thế giới khoa học, Những con chuột hát khúc tình ca mang đến các vấ n đề nặng ký gồm cá mập yêu thích nhạc heavy metal, quầ n jeans ống bó đe dọa tính mạng, ngày tận thế của loài sứa, và tấ t nhiên cả những con chuột biết hát trong tiêu đề.
Lliana Bird là người dẫn chương trình truyền hình và phát thanh với tiết mục hằ ng tuầ n trên Radio X (trước đây là Xfm). Cô viết blog thường xuyên cho trang Huffington Post, và là một người say mê khoa học với bằ ng cử nhân Tâm lý học Thực nghiệm. Lliana tin rằ ng khoa học có thể là loại nhạc rock’n’roll mới, và đang thực hiện một nhiệm vụ hơi khó khăn để chứng minh điều đó. Cô cũ ng là người đồng sáng lập tổ chức “Help Refugees” (Hỗ trợ người tỵ nạn).
Dr Jack Lewis đã nghiên cứu khoa học thầ n kinh tại trường đại học, tiếp tục quét não trong ba năm để lấ y bằ ng PhD. Jack là người dẫn chương trình khoa học trên nhiều chương trình truyền hình, đỉnh cao là series về não của riêng anh trên kênh kỹ thuật số mới độ-phân-giải cực-cao: Insight.tv.
Lliana và Dr Jack gặp nhau vào năm 2014 khi đang làm việc trong một chương trình tâm lý của kênh BBC, và ý tưởng về podcast giành giải thưởng, “Geek Chic’s Weird Science” của họ ra đời. Cùng nhau, họ đã giới thiệu đến hàng ngàn thính giả về thế giới khoa học kỳ lạ và tuyệt vời của mình.
‘Cuốn sách là cuộc phiêu lưu tuyệt vời qua những hành lang kì lạ, đáng ngạc nhiên, và đôi khi gây sốc của các nghiên cứu khoa học. Tôi thích nhấ t là nghiên cứu chứng minh rằ ng cá vàng được-huấ n-luyện-trước có thể phân biệt hai bản nhạc “Toccata and fugue in d minor” của Bach và “The rite of spring” của Travinsky. Tôi có những đồng nghiệp hàn lâm không thể làm nổi điều đó.’
Brian Cox
‘Từ những con cá mập thích nhạc Ac/Dc đến những con gián được điều khiển từ xa, cuốn sách của Lliana và Dr Jack là một trò giải trí thú vị thông qua những góc nghiên cứu đầ y hiếu kỳ – bằ ng cách cuốn vào một số ngành khoa học đáng kinh ngạc trên đường đi.’
Tom Whipple – Biên tập khoa học, The Times
Chúng tôi dâng tặng cuốn sách này, cùng với tình yêu dành cho những bậc cha mẹ đáng kính của mình, và với một cái đập tay hi-five mạnh mẽ cho Richard Boffin.
Giới thiệu
Đ
iều đầu tiên xuất hiện trong đầu bạn khi ai đó nhắc đến “khoa học” là gì? Có phải là những anh chàng xám xịt trong chiếc quần nhung ống loe, cặm cụi đánh vần công thức magnesium chloride? Hoặc dành
hàng giờ bất tận cúi mình trên bảng tuần hoàn, toát mồ hôi lạnh khi vật lộn ghi nhớ các nguyên tố?
Nếu vậy, hãy suy nghĩ lại nhé! Khoa học có thể rất vui, thú vị, và (chúng tôi dám nói rằng) thậm chí rất rock‘n’roll. Những gì bạn cần là một cái sàng nhỏ để lọc bỏ những thứ nhàm chán và giữ lại những điều thú vị, hài hước, và hoàn toàn kỳ quặc – như chuyện giả mang thai của gấu trúc, cách phát hiện một kẻ tâm thần, hoặc những con cá mập yêu thích nhạc heavy metal.
Với niềm tin được sẻ chia này, đầu tiên chúng tôi tạo ra các chương trình podcast*, và sau cùng là cuốn sách này – mang mục tiêu làm sáng tỏ những điều lạ lùng, hài hước, và hấp dẫn mà bạn chưa bao giờ được học ở trường hoặc trong các cuốn sách khoa học.
* – Podcast: các file âm thanh được tạo ra để người dùng có thể tải về và nghe, thường là theo series – ND.
Xuyên suốt các chương sách, chúng tôi sẽ mang tới cho bạn một số câu chuyện khoa học đáng kinh ngạc, khó tin mà chúng tôi đã trải qua, cũng như một vài quan điểm cá nhân sâu sắc và độc đáo trong thế giới khoa học. Vậy chúng tôi là ai? Và tại sao chúng tôi – một DJ radio và một tiến sĩ khoa thần kinh học – quyết định mạo hiểm đi đường vòng vào thế giới khoa học mới mẻ thú vị này? Hãy để chúng tôi giới thiệu bản thân:
LLIANA
Tôi luôn bị thu hút bởi thế giới khoa học rộng lớn. Tôi tin rằng cha tôi, với bộ não lạ lùng nhưng logic, đã để vô số những cuốn sách vật lý lượng tử rải rác quanh phòng khách, hoặc những bản sao các tạp chí khoa học cho chúng tôi đọc trong lúc thoa phấn lên chiếc mũi nhỏ của mình. Mẹ tôi, em gái, và tôi cũng chia sẻ nỗi ám ảnh về thế giới tự nhiên – sưu tầm những con bọ, giải cứu những con chim bị thương, hay thăm thú các khu bảo tồn động vật bất tận.
Nhưng tôi cũng sở hữu những đặc điểm khác, những thứ hoàn thiện bản thân tôi, một người yêu thích chưng diện những bộ đồ lập dị, tham dự các lễ hội âm nhạc để nhảy nhót với ban nhạc The Flaming Lips suốt đêm. Dường như tôi không phù hợp với khuôn mẫu của một người yêu khoa học (hoặc tôi cho là vậy).
Tôi vào đại học để học ngành Tâm lý học Thực nghiệm, và rồi tôi thực sự khám phá ra khoa học vui như thế nào – nghiên cứu sâu cơ chế của não bộ để giải mã tại sao chúng ta mơ, yêu, hay thậm chí phạm tội.
Sau khi tốt nghiệp, tôi đến với thế giới của radio, thỏa mãn nhu cầu khám phá tất cả các lĩnh vực khác nhau, gặp gỡ và phỏng vấn những người thú vị thuộc mọi tầng lớp, và vâng, thậm chí là chơi nhạc The Flaming Lips để kiếm sống.
JACK
Hơn 20 năm nghiên cứu bộ não con người, tôi cảm thấy chính mình ngày càng trở nên thất vọng bởi rào cản giao tiếp tồn tại giữa khoa học và thế giới thực. Những vị giáo sư hào-hoa-khuôn-mẫu, thuyết giảng cho đám đông từ tháp ngà khoa học của mình, thích nhồi nhét các thuật ngữ kỹ thuật gây nhiễu. Họ luôn khiến tôi cảm thấy đó là một phương tiện vô năng trong việc làm say mê trí tưởng tượng của con người bằng những điều kỳ diệu từ khoa học. Quan sát này đã thôi thúc tôi luôn cố gắng chia sẻ sự hào hứng của mình về những đột phá khoa học với những người khác theo cách dễ tiếp cận hơn, cố gắng hết sức để trò chuyện “đơn giản” mọi lúc.
Nhiều lĩnh vực truyền thông có xu hướng cố gắng “bình dân hóa” khoa học, trong nỗ lực làm cho nó trở nên dễ hiểu hơn đối với công chúng, thay vì chỉ sử dụng thuật ngữ đơn giản hơn để mô tả. Tôi cảm thấy điều này rất thiếu tôn trọng độc giả. Tệ hơn nữa, cách tiếp cận này thường dẫn đến các phần quan trọng của câu chuyện bị mất đi, và có thể xuất hiện hiểu lầm. Kết quả cuối cùng thường là phiên bản biến dạng về một phần nhỏ của câu chuyện, thay vì toàn bộ câu chuyện dựa trên sự thật. Khi điều đó xảy ra, tôi thực sự rất buồn, thế nên tôi đã rất cố gắng để không rơi vào những cái bẫy đó trong suốt sự nghiệp của mình. Hy vọng tôi sẽ thành công trong vấn đề này, nhưng đó phải là do bạn đánh giá!
Tôi tin chắc rằng nếu một người không hiểu vấn đề khoa học trong một bài báo, trách nhiệm sẽ đặt thẳng lên vai người viết chứ không phải độc giả. Trong hơn 10 năm qua, tôi đã nắm bắt mọi cơ hội để giảng giải khoa học tuyệt vời một cách rõ ràng, hấp dẫn, và chính xác nhất có thể qua TV và radio, trong sách, blog, hoặc các buổi nói chuyện. Trong những năm gần đây, mong muốn thực hiện một số podcast luôn ấp ủ trong tâm trí tôi,
nhưng cơ hội dường như không bao giờ tới. Cho đến khi tôi kết thúc công việc cố vấn khoa học cho một chương trình TV mà Lliana đồng thuyết minh.
LLIANA
Tôi nhớ lần đầu tiên gặp Jack – đó là trên trường quay của một chương trình truyền hình mà tôi thuyết minh, và ấn tượng ban đầu của tôi là một sự khuây khỏa lớn. Chương trình được thiết kế để đưa các hiện tượng tâm lý vào bài kiểm tra cho mọi người, và mặc dù tôi học ngành Tâm lý học Thực nghiệm ở đại học, nhưng đã hơn 10 năm kể từ lúc tốt nghiệp. Nói rằng tôi là một kẻ tay mơ thì vẫn là một lời nhẹ nhàng. Vậy, đây chính là một tiến sĩ trẻ – được giới thiệu với tư cách là “chuyên gia não bộ” đằng sau hậu trường – người sẽ hướng dẫn tôi và đảm bảo tất cả các phần khoa học thực tế hoàn toàn chính xác. Phù.
Khi tuần quay phim diễn ra, tôi nhận thấy rằng Jack và tôi có nhiều điểm chung hơn chỉ là tình yêu với ngành tâm lý học. Vâng, chúng tôi đều là những kẻ ghiền trò thú-tội (confession), nhưng chúng tôi cũng nhìn khoa học một cách năng động, thường là vui nhộn và đôi khi kỳ quặc. Càng trò chuyện nhiều, chúng tôi càng băn khoăn – liệu có chắc rằng chỉ có chúng tôi mới chia sẻ quan điểm này? Sau cùng, Giáo sư Brian Cox nhanh chóng trở thành sự chọn lựa số một, và “geek chic – phong cách mọt sách”* là xu hướng mới nhất.
* – Phong cách thời trang mọt sách, ở đây mang nghĩa thông tin học thuật theo phong cách sành điệu – ND.
Sẽ ra sao nếu chúng ta lấy những câu chuyện kỳ quặc và lạ lùng nhất từ thế giới khoa học – những câu chuyện có nền tảng khoa học thực sự, và đưa chúng vào thế giới thực một cách vui vẻ nhẹ nhàng? Liệu chúng tôi có thể lôi kéo mọi người vào nhiệm vụ này? Liệu chúng tôi có thể thuyết phục thế giới rằng khoa học là một điệu rock‘n’roll mới? Tôi lập tức mời Jack tham gia chương trình radio trên Xfm, mỗi tuần một lần, để mang những tin tức kỳ lạ nhất, tuyệt vời nhất từ thế giới khoa học đến cho những thính giả rock‘n’roll đáng yêu của mình.
Chúng tôi sớm nhận thấy rằng mình được phép tha hồ lựa chọn. Từ những con mèo yêu âm nhạc cổ điển đến lý do bia có thể tốt cho bạn, thế giới khoa học đang tiếp tục đưa ra những nghiên cứu mới thú vị nhằm thỏa mãn sự khao khát của thính giả.
Chúng tôi thích thú đến nỗi quyết định tìm hiểu sâu hơn và biến kênh radio nhỏ này thành một kênh podcast hằng tuần tên là “Geek Chics Weird Science”. Chúng tôi tìm thấy chính mình thông qua những thính giả từ khắp nơi trên hành tinh – kể cả những nơi xa xôi như Trung Quốc, Mỹ, và New Zealand. Khi kênh podcast phát triển, sự giúp đỡ ủng hộ của những thính giả trung thành và niềm tin của chúng tôi rằng khoa học thực sự là thứ có thể thu hút bất cứ ai cũng phát triển theo. Từ đó, bước đi tự nhiên tiếp theo là mang nó vào một cuốn sách…
JACK
Điều tốt đẹp nhất khi thực hiện một kênh podcast hằng tuần suốt nhiều tháng chính là ý nghĩa của tiến trình. Trong những ngày đầu, chúng tôi đối đầu với nhau vì các quyết định về biên tập: tôi đấu tranh cho những câu chuyện có giá trị khoa học lớn nhất, còn Lliana chiến đấu cho những câu
hỏi khơi mào cuộc trò chuyện, những tiết lộ trái ngược, những sinh vật dễ thương lông mượt.
Cô ấy khéo léo loại bỏ bất kỳ câu chuyện nào được tôi gợi ý nhưng bị rơi vào chiếc bẫy có-giá-trị-về-mặt-khoa-học nhưng hoàn toàn vô nghĩa đối với công chúng phi khoa học. Trong những tháng đầu tiên tôi đã bị sốc bởi rất nhiều lời đề nghị của mình rơi vào loại này. Tôi thực sự nghĩ rằng mình đã thất bại với trẻ con. Nhưng rõ ràng nhiều năm trời ở trong sự cô lập tương đối của một viện nghiên cứu thần kinh học hoặc nơi nào đó đã làm lu mờ quan điểm của bản thân tôi. Tôi đã học được rất nhiều từ những lần chọn lọc đầu tiên này. Về phần mình, tôi bỏ qua bất cứ điều gì mang tính giật gân nhưng không có bất cứ dữ liệu khoa học vững chắc nào hỗ trợ phía sau, hay bất cứ thứ gì mà sự thật khoa học đã bị trình bày hơi sai lệch trong phần tóm tắt nhằm làm cho câu chuyện có vẻ thú vị hơn. Sau vài tháng ngắn ngủi, chúng tôi chỉ đề xuất cho nhau những câu chuyện mà mình biết người kia sẽ chấp nhận. Nói cách khác, chúng tôi đã nhanh chóng tìm ra cách thấy được cả hai mặt của quá trình lựa chọn câu chuyện dùng để biên tập. Điều này khiến chúng tôi rất thỏa mãn. Có lẽ quan trọng hơn, podcast của chúng tôi dường như ngày càng tiến bộ.
Ngay từ đầu, chúng tôi đã rất thân thiết với nhau, rồi tuần trôi qua và tháng trôi qua, chúng tôi thấy rằng khi cuộc đối thoại ngày càng trôi chảy hơn, dường như càng ít dần những điểm dở khiến chúng tôi phải loại ra khỏi kênh podcast. Điều tốt nhất đối với tôi là việc khám phá toàn bộ bề dài, bề ngang và bề rộng của nỗ lực khoa học nói chung, thay vì bị giới hạn trong tài liệu khoa học thần kinh. Có rất nhiều nghiên cứu hấp dẫn về tất cả các loại sinh vật, vật liệu và công nghệ mới, bên ngoài vũ trụ, dưới biển, về khí hậu, hệ sinh thái, thực phẩm, sức khỏe và hành vi của con người mà tôi thường không để ý đến. Và tôi nhận thấy rằng cuộc sống của mình đã được cải thiện rất nhiều với tất cả những kiến thức bổ sung này. Cụ thể hơn, tôi sẽ không bao giờ bí những mẩu chuyện thú vị để tán gẫu trong quán rượu, câu lạc bộ, một lễ hội hoặc sân ga tàu điện ngầm London, chắc chắn là vậy.
Đó là một chút về chúng tôi – bây giờ đến cuốn sách. Vài trăm trang tiếp theo được lấp đầy bằng một số nghiên cứu gây giật mình mà chúng tôi
phát hiện ra trong ba năm làm việc trên kênh podcast của mình (dĩ nhiên bao gồm cả những chú chuột hát tình ca như trong tựa đề), cũng như rất nhiều câu chuyện hoàn toàn mới mẻ mà chúng tôi chọn ra, với hy vọng sẽ khiến bạn cười ngặt nghẽo hoặc thở hổn hển, hoặc bạn sẽ chia sẻ với bạn bè.
Bạn có thể nghiền ngẫm nó trên giường ngủ, trên xe, hay trong nhà vệ sinh – chẳng sao cả. Bạn có thể sử dụng những câu chuyện này như một cách tuyệt vời để khơi mào cuộc trò chuyện trong lúc lúng túng, hoặc đơn giản chỉ để phá tan sự lạnh lẽo ở trạm xe buýt (ai mà không muốn biết tại sao lũ vẹt lại thích nhạc của The Scissor Sisters?). Bạn cũng có thể sử dụng nó như một bí kíp để lấy le với lũ bạn khi bọn họ trò chuyện một cách tự phụ (chúng tôi đã dùng câu chuyện Trọng lực Cầu vồng vài lần – nó có tác dụng đó!).
Hơn hết, chúng tôi hy vọng bạn thích đọc nó nhiều như chúng tôi thích viết nó. Chúng tôi sẽ đưa bạn vào một cuộc hành trình xuyên qua tương lai, đi vào tâm trí của những kẻ giết người tâm thần, và đến tận cùng không gian vũ trụ. Chúng tôi sẽ nắm tay bạn khi chúng ta khám phá những động vật hoang dã kỳ quái nhất, những con robot điên rồ nhất, những loại thực phẩm kỳ lạ nhất, những kiểu tình dục kỳ dị nhất. Ồ, và chúng tôi sẽ kết thúc bằng việc chỉ cho bạn cách có thể làm được như siêu anh hùng yêu thích của mình.
Vậy nên, hãy thắt dây an toàn và sẵn sàng để tâm trí được thổi bùng bởi thế giới khoa học kỳ lạ và tuyệt vời.
Yêu thương, Lliana & Jack
1
Tương lai là hiện tại
T
háng 8 năm 1980, hai nhà biên kịch đang sống chật vật ngồi lại và bắt đầu tưởng tượng cuộc đời sẽ ra sao nếu đụng phải cha của mình ở trường. Liệu họ có nghĩ rằng các ông bố thật tuyệt và muốn nhập
bọn? Hay sẽ cho rằng họ là những kẻ thua cuộc thảm hại và tìm cách tránh xa?
Cuộc trò chuyện này đã tạo ra kịch bản cho một trong những bộ phim nổi tiếng nhất ở thế hệ chúng tôi, cũng là một trong những bộ phim hay nhất mọi thời đại. Bộ phim ngược về quá khứ, đưa chúng ta trở lại năm 1955, kể câu chuyện về chuyến du hành thời gian của một anh chàng trẻ tuổi mê trượt ván tên là Marty McFly, người phải hoàn thành nhiệm vụ để quay trở về tương lai.
Phần tiếp theo của bộ phim, phát hành vào năm 1989, đã đảo ngược câu chuyện và tưởng tượng đến một tương lai, nơi những chiếc xe hơi biết bay, thanh thiếu niên lướt trên ván bay, và mọi người thực sự gọi điện thoại video (bạn có thể tưởng tượng được không?!). Thời điểm tương lai mà họ dự đoán là năm 2015 – chính xác là ngày 21 tháng 10 – và tất nhiên vào lúc này, thời điểm đó đã đến và đã đi qua, cho chúng ta cơ hội tốt nhất để kiểm chứng những dự đoán từ một số bộ não sáng tạo nhất Hollywood, và thử đặt mình vào cách nhìn của họ về tương lai.
Một số dự đoán của họ đã thành sự thật, một số gần đúng, một số rơi rớt lại bên đường, và một số có thể đã định hướng cho những đổi mới của hiện tại. Nhưng tương lai chính là bây giờ, và một số điều đang xảy ra ngày hôm nay vượt xa cả những tưởng tượng điên rồ nhất của các nhà biên kịch.
Trong chương này, chúng ta sẽ xem xét một số thiết bị và phát minh công nghệ cho tương lai kỳ lạ nhất, điên rồ nhất và đáng kinh ngạc nhất, và cũng có cái nhìn táo bạo về những gì tương lai của chúng ta có thể nắm giữ. Rõ là đỉnh hơn cả Marty McFly và Tiến sĩ Brown!
GÓC HỢP THỜI: Bộ phim Back to the Future không dự đoán được internet, thứ đã cách mạng hóa cách chúng ta làm việc, chơi bời và giao tiếp, nhưng nó đã đoán đúng rấ t nhiều thứ khác. Gọi điện video, thiết bị thanh toán qua vân tay, thiết bị smart home, và công nghệ mang-đeo-được (wearable) là những thứ khá phổ biến hiện nay.
Ván bay (Hoverboard)
Cách duy nhất để khởi động một chương về công nghệ tương lai là nói tới thiết bị mang tính biểu tượng nhất trong bộ phim Back to the Future II: ván bay. Và, không, chúng tôi không nói về loại xe hai bánh tự cân bằng Swegway nhan nhản khắp nơi (cũng được gọi là hoverboard) mà các bạn trẻ thường làm phiền chúng ta khi họ đi lên và xuống vỉa hè. Chúng tôi đang nói về loại đồ “thật”, ván bay như của Marty McFly – nét đặc trưng của một trong những cảnh phim viễn tưởng được giới trẻ khao khát nhất trong lịch sử điện ảnh, khi người anh hùng của bộ phim Back to the Future II “mượn” chiếc ván trượt màu hồng của một cô bé, tháo tay vịn ra, sau đó bám vào phía sau chiếc xe hơi, thoát khỏi nanh vuốt xấu xa của Biff và tay chân của lão.
Có vẻ, cũng như chúng ta, nhiều nhà khoa học và nhà thiết kế ngày nay đã từng là những đứa trẻ yêu thích phim khoa học viễn tưởng, xem đi xem lại những cảnh phim và ước ao một ngày nào đó chúng cũng có thể lượn trên mặt hồ mà không bị ướt chân. Tua nhanh tới 26 năm kể từ khi phát hành bộ phim, cuộc đua xem ai sẽ mang tới chiếc ván bay, với công nghệ hỗ trợ bay thực sự, để đưa ra thị trường đúng vào ngày 21 tháng 10 năm 2015, còn gọi là “Ngày Tương Lai”, đã kết thúc.
Họ đã làm được ư? Rất nhiều công ty tuyên bố như vậy, và thật ngạc nhiên! một số ít thực sự sắp chạm tay tới điều đó. Ngay cả Christopher Lloyd, hay Tiến sĩ Brown, cũng tham gia vào câu chuyện ván bay điên cuồng này, khi ông ấy giới thiệu huyền thoại trượt ván Tony Hawk cùng với một chiếc ván bay bóng bẩy vào năm 2014. Đáng buồn thay, đó lại là một cú lừa tinh vi. (Cả ông nữa ư, Tiến sĩ Brown?) Nhưng những nỗ lực thực sự khác phần nào ấn tượng hơn.
Ván bay Hendo
Chiếc ván bay Hendo là một nỗ lực khá hay, và có Tony Hawk lèo lái sự phát triển, nó chắc chắn sẽ là một món đồ chơi hợp mốt. Đội ngũ đằng sau nó đã sử dụng dụng cụ có vẻ ngoài giống một chiếc ván trượt truyền thống, nhưng với vô số nam châm vĩnh cửu nhỏ, quay tròn dán dính ở mặt dưới, nơi thường gắn bánh xe. Những điều chỉnh khác sử dụng nam châm điện thay thế, qua đó dòng điện dao động liên tục theo một cách đặc biệt (xem phần Góc mọt sách). Cơ chế chính xác về cách họ làm cho chúng hoạt động vẫn còn một chút bí ẩn. Nhưng bất kể phương pháp bí mật đặc biệt gì mà họ dùng trên ván bay nam châm, luôn có một vấn đề nhỏ đối với những giấc mơ theo-kiểu-Marty của chúng ta: bạn cần một bề mặt từ tính, như đồng, để nâng ván Hendo, vì vậy bạn phải đi đến các trung tâm trượt ván chuyên biệt để có thể cưỡi chúng. Hoặc là vậy, hoặc là bạn cần làm những con đường mới với một lớp đồng mỏng phía dưới lớp nhựa đường, mà điều này thì khó có thể thực hiện ngay được. Trong khi nó có thể trở thành thú vui mới dành cho buổi tối cuối tuần – một kiểu vũ trường cho ván bay – nhằm thỏa mãn giấc mơ tuổi thơ của chúng ta, giấc mơ cưỡi ván bay lượn quanh xóm làng với tất cả sự tự do của người chơi ván trượt, thì đó vẫn là trường hợp xém thành công.
GÓC HỢP THỜI: Tuy những nỗ lực dành cho ván bay Hendo không hoàn toàn được như ván thương hiệu Marty McFly, nhưng họ đã thực hiện một chiến dịch huy động vốn tuyệt vời trên trang Kickstarter. Bộ dụng cụ tự phát triển đơn giản của họ đã sẵn sàng, để bấ t kỳ ai cũ ng có thể mày mò với công nghệ Magnetic Field Architecture™ (Kiến trúc Từ trường) của Hendo. Chúng tôi rấ t hào hứng với một thiết bị đặc biệt, nó tạo ra một khối trôi lơ lửng có thể lái được bằ ng smartphone như thể một cái điều khiển từ xa.
Ván bay ArcaBoard
Công ty Arca Space thì theo một đường lối khác, sử dụng công nghệ tương tự như ở tàu đệm khí. Thay vì lực đẩy từ trường, họ sử dụng sức mạnh không khí, được tạo ra bằng cách sử dụng 36 chiếc quạt nhỏ lắp phía dưới ván bay “ArcaBoard” hình chữ nhật, để người lái có thể nổi lơ lửng trên bất kỳ bề mặt thông thường nào. Họ bắt chước một số thử nghiệm chưa hoàn hảo trước đó, phần lớn là chiếu trên các chương trình truyền hình, mà về cơ bản là gắn máy thổi lá vào dưới ván lướt sóng. Một số động cơ phản lực mạnh được hướng xuống dưới để bạn có thể thích thú lướt đi trên ArcaBoard, cách mặt đất khoảng 30 cm, với tốc độ tối đa chừng 20 km/h. Một mặt, đó là một cải tiến vượt bậc, vì nó không dựa vào bất kỳ bề mặt đặc biệt nào, nên về mặt kỹ thuật nó có thể di chuyển qua một hồ nước, mặt khác, tốt hơn hết đó là một hồ nước nhỏ, vì pin sẽ cạn sau sáu phút và sự thăng bằng không còn dễ dàng nữa.
Ván bay Omni
Tuy vậy, món đồ yêu thích của chúng tôi là chiếc ván bay phi thường Omni, một thiết kế khác dựa trên lực đẩy không khí do Catalin Alexandru Duru người Canada tự sản xuất. Loại này trông hơi giống như bạn đứng trên hai con nhện kim loại to bự, mỗi con có những cánh quạt trực thăng nhỏ thay thế cho chân, xoay tròn nâng bạn lên không trung. Vào tháng 5 năm 2015, Duru đã phá Kỷ lục Guinness Thế giới về chuyến bay xa nhất bằng ván bay, với tấm ván sợi carbon của mình, lơ lửng 16 m trên hồ Ouareau, Canada. Anh ấy đã xoay xở đi được đoạn đường khổng lồ 275,9 m – tương đương với chiều dài của ba sân bóng, chỉ trong 90 giây. Mặc dù anh ấy không có nhiều sự lựa chọn về thời gian cho chuyến bay của mình – nó phụ thuộc vào 12 thỏi pin lithium polymer duy trì được bao lâu. Và chúng tôi nghĩ rằng việc thiết bị của mình bị cạn pin khó chịu y như cái nhọt ở mông vậy…
Hiện tại chưa có thiết kế nào hoàn hảo, nhưng chúng ta đang ngày càng tiến gần hơn đến việc hiện thực hóa những giấc mơ tuổi thơ mang cảm hứng Marty McFly, về những điều mà đời người nên nắm giữ trong thế kỷ
21. Ngay cả vậy, có một điều chắc chắn – không ai trong chúng ta ngầu hơn Michael J. Fox trên ván bay.
GÓC MỌT SÁCH: Định lý Earnshaw phát biểu rằ ng về mặt nguyên tắ c, không thể có được sự cân bằ ng ổn định giữa hai từ trường đối nhau. Do đó, cách thiết lập ván bay Hendo không đơn giản như có một từ trường hướng vào chiếc ván bay và một từ trường đối nghịch hướng vào sàn nhà. Khoa học hiếm khi đơn giản. Những nhà sáng tạo ván bay Hendo đã tìm ra cách tận dụng một hiện tượng đáng kinh ngạc gọi là Định luật Lenz để chế ngự các dòng điện (xoáy) được tạo ra mỗi khi từ trường di chuyển trên bề
mặt dẫn điện, nhằm mang lại sự ổn định cầ n thiết. Xứng đáng là huyền thoại!
Ván bay sẽ rất tuyệt khi dùng để lượn quanh phố phường, nhưng đối với những quãng đường xa hơn thì một thiết kế lớn hơn, mạnh mẽ hơn, và nhanh hơn sẽ phù hợp hơn nhiều. Và nếu như nhân vật SuperGran* có thể có một chiếc xe để lái và bay lượn, thì chúng tôi cũng muốn một chiếc.
* – Nhân vật trong chương trình TV cho trẻ em những năm 80 – ND.
Ô tô bay
“Nơi chúng ta đang đến không cần đường sá”
Tiến sĩ Brown, Back to the Future, 1985
Đáng buồn thay, những lời cuối cùng nổi tiếng của Tiến sĩ Brown, khi ông ấy và Marty du hành đến tháng 10 năm 2015, không bao giờ trở thành sự thật, và đường phố của chúng ta vẫn phải trải nhựa đường. Tuy vậy, ô tô bay vẫn là một trong những mảng công nghệ được khao khát nhất trong thế giới khoa học viễn tưởng, và nhiều người trong chúng ta vẫn mơ ước một ngày nào đó chúng có thể trở thành hiện thực.
GÓC HỢP THỜI: Ý tưởng về ô tô bay được nhắ c đến sớm nhấ t mà chúng tôi tìm thấ y là vào năm 1904. Trong tiểu thuyết The Master of the World, tác giả tiên tri Jules Verne đã viết về một chiếc ô tô có thể biến thành máy bay, thuyền thậm chí là tàu ngầm. Hơn một thế kỷ sau, chúng tôi nghĩ rằ ng đã đến lúc Duck Tours, những nhóm du lịch quanh London và đi dọc sông Thames trên những con xe dã chiến lai với tàu thuyền, cầ n nâng cấ p phương tiện!
Vậy, chúng ta gần mục tiêu đến mức nào rồi?
Sau nhiều thử nghiệm không ấn tượng lắm, dường như chúng ta phải tiến đến năm 2017 – với một thiết kế ô tô bay đặc biệt được gọi là “AeroMobil” rất nổi bật. Và nếu bạn đang thắc mắc nó trông như thế nào, chỉ cần liên tưởng tới sự giao thoa giữa ô tô và máy bay, và, vâng, bạn được phép gọi nó là một “ô-bay” nếu thích*. Có vẻ ngoài giống như đứa con của một chiếc xe Smart và một chiếc máy bay chiến đấu, chiếc xe hai chỗ này hoạt động như mọi chiếc xe khác. Bạn có thể đậu xe trong khu đậu xe thông thường, bơm xăng tại các trạm xăng thông thường, và cũng có thể gào thét giận dữ với những tài xế khác có hành vi không đúng như thường. Và rồi, chỉ cần nhấn nút, đôi cánh gập sẽ bật ra từ hai bên xe, giống như một con chim giấy origami thanh lịch. Như một phép mầu! – bạn đã biến chiếc ô tô của mình, một cách kỳ diệu, thành một chiếc máy bay cánh quạt loại nhẹ, có thể cất cánh và hạ cánh trên bất kỳ bề mặt cỏ hoặc lát đá nào
dài vài trăm mét. Đó là một phát minh xứng đáng với điệp viên Q trong bộ phim James Bond, và hơn thế nữa, nó khá là bảnh.
* – Tác giả không chịu trách nhiệm cho vẻ mặt cáu kỉnh của bạn bè và gia đình bạn nếu bạn chọn làm như vậy. Tác dụng phụ khác có thể bao gồm việc mọi người không thèm mở miệng với bạn trong một giờ.
GÓC HỢP THỜI: Vết rạn đầ u tiên về ô tô bay là vào năm 1928, khi Henry Ford thiết kế mẫu ô tô bay cá nhân “sky flivver”. Than ôi, lầ n thử nghiệm định mệnh đã khiến một phi công thiệt mạng, và giấ c mơ của Ford tan tành. Tuy thế, Henry Ford vẫn hy vọng vào tương lai của những chiếc ô tô bay, với câu nói nổi tiếng vào năm 1940, “hãy nhớ
lấ y lời tôi: sự kết hợp giữa máy bay và ô tô sắ p diễn ra rồi. Bạn có thể cười, nhưng nó sẽ đến thôi.”
Không như các nỗ lực khác của những người yêu thích bộ phim Back to the Future khi trình diễn ô tô bay, sự khác biệt ở AeroMobil chính là công ty Slovakia đứng đằng sau nó không lên kế hoạch chế tạo một chiếc chỉ để chứng minh ý tưởng; họ thực sự có ý định tung hàng loạt sản phẩm ra thị trường. Họ đã thử nghiệm chạy trên đường và bay từ tháng 10 năm 2014. Và các video cho thấy chiếc AeroMobil chạy trên xa lộ cũng thoải mái như khi bay trên bầu trời, một việc đầy hứa hẹn. Bởi vì một điều chắc chắn: dù có bao nhiêu sáng kiến và phát minh tuyệt vời khác được đưa ra, thì cho đến khi chúng ta thực sự làm được như trong bộ phim hoạt hình The Jetsons và phóng vèo vèo trên bầu trời, những người yêu thích khoa học viễn tưởng như chúng ta sẽ tiếp tục nhắc lại một câu hỏi không lời đáp: “chính xác là đến lúc nào chúng ta mới thấy được chiếc ô tô bay đã được hứa hẹn từ lâu lắc lâu lơ này?”
Và giờ đã có một câu trả lời khiến chúng ta im lặng sớm hơn chúng ta tưởng: năm 2017.
GÓC MỌT SÁCH: Chiếc ô tô bay AeroMobil dài 6 m, sải cánh 8,2 m và tốc độ tối đa 200 km/h. Nó có tầm bay khoảng 700 km, hoặc tối đa 4 giờ – đủ để bay từ London đến Aberdeen.
Trong khi ô tô bay là một viễn cảnh gây nhiều cảm xúc, thì cùng lúc đó, chúng ta đang mắc kẹt với việc di chuyển bằng máy bay. Tác động của sự mở rộng nhanh chóng quy mô giao thông đường hàng không trên toàn cầu đến môi trường đang gia tăng đều đặn. Có cách nào để hạn chế sự phát thải khí nhà kính liên quan tới với việc chuyên chở hàng ngàn người trên không trung mỗi ngày không… ?
Máy bay năng lượng mặt trời
Với việc du hành bằng đường hàng không tăng lên thần tốc, có lý do hoàn hảo để hy vọng về tương lai của máy bay. Liệu có một ngày chúng ta sẽ bay khắp nơi với tốc độ ánh sáng, trong khoang riêng có bồn tắm nước nóng? Hoặc đi khắp thế giới bằng tên lửa tương lai, trong lúc tiếp viên robot phục vụ những ly rượu martini hảo hạng?
GÓC HỢP THỜI: Hãng hàng không American Airlines đã tiết kiệm được 40.000 dollar vào năm 1987 chỉ bằ ng cách loại bỏ một quả ô liu khỏi mỗi phầ n salad được phục vụ trong khoang hạng nhấ t.
Bất kể du lịch hàng không tương lai quyến rũ và xa hoa đến mức nào, trước hết chúng ta cần tìm một giải pháp cho vết chân carbon khổng lồ của nó. Với nhu cầu về các chuyến bay quốc tế đang tăng đều đặn, nhờ các hãng hàng không siêu rẻ và tầng lớp trung lưu toàn cầu đang mở rộng nhanh chóng, lượng nhiên liệu hóa thạch do ngành du lịch hàng không tiêu thụ đang gây tổn hại nghiêm trọng cho hành tinh này. Quá đơn giản để nhận ra rằng chúng ta cần đảm bảo nhu cầu tăng vọt của các chuyến bay không giết chết Trái Đất yêu dấu, nhưng một lần nữa, chắc chắn chúng ta cũng không hy vọng từ bỏ một trong những niềm vui lớn nhất của cuộc đời – những kỳ nghỉ ở nước ngoài? Rõ ràng chúng ta cần một sự thay thế bền vững hơn cho nhiên liệu hóa thạch.
Một giải pháp hiển nhiên là sử dụng năng lượng mặt trời, khai thác điện mặt trời và lưu trữ trong các bộ pin để cung cấp năng lượng cho máy bay.
Tuy vậy, chướng ngại chính là pin dùng để dự trữ điện mặt trời dư thừa thường nặng kinh khủng, khiến năng lượng cần thiết chỉ cho việc nâng khối lượng đồ sộ của chúng lên thậm chí còn cao hơn mức bình thường. Hiển nhiên, pin để lưu trữ vô cùng cần thiết, vì khi màn đêm buông xuống, hoặc trời nhiều mây, bạn sẽ mất tất cả hoặc một phần nguồn cung cấp năng lượng của mình. Và không ai muốn bị rơi khỏi bầu trời đêm đâu. Giải pháp? Chế tạo một chiếc máy bay nhẹ hơn nhiều, và tăng đáng kể hiệu suất năng lượng của nó. Đó chính xác là những gì bộ đôi người Thụy Sĩ André Borschberg và Bertrand Piccard đã làm.
GÓC HỢP THỜI: Trong chuyến bay kéo dài ba giờ, cơ thể bạn có thể mấ t khoáng 1,5 lít nước.
Tác phẩm của họ, Solar Impulse, là một chiếc máy bay có lắp các tấm pin quang điện, có thể bay cả ngày lẫn đêm bằng năng lượng từ Mặt Trời, và không dùng một giọt nhiên liệu hóa thạch nào. Thật khó tin, nhưng bộ đôi năng động này đã quyết định đưa phát minh của họ vào thử nghiệm phá kỷ lục sau cùng. Vào tháng 3 năm 2015, Borschberg cố gắng phá kỷ lục thế giới cho chuyến bay vòng-quanh-thế-giới đầu tiên bằng năng lượng mặt trời, sử dụng mô hình thứ hai đã được cải tiến nhiều của họ: Solar Impulse II. Với sải cánh 72 m*, lớn hơn so với mô hình đầu tiên, và hơn 17.000 tấm pin quang điện, chuyến bay vòng quanh thế giới của Solar Impulse II đã có khởi đầu khá tốt đẹp. Nó đi từ Abu Dhabi, qua châu Á, và băng qua Thái Bình Dương đến Hawaii, nhưng tại thời điểm đó, ảnh hưởng của nhiệt trên các tấm pin cuối cùng đã khiến dự án dũng cảm này tạm thời bị gián đoạn. May mắn thay, sau một vài tháng thất vọng và tốn kém vì ngừng hoạt động, do họ phải tìm thêm nguồn tài trợ để sửa chữa, cuối cùng họ đã trở lại đường bay.
* – Sải cánh 72 m, và chỉ nặng khoảng 2.300 kg, Solar Impulse II có sải cánh rộng hơn so với chiếc Boeing 747 nhưng khối lượng ít nhiều, tương đương một chiếc xe Ford Fiesta.
Dù sao thì, trong cái rủi cũng có cái may, vì Borschberg vẫn xoay xở để lập được kỷ lục cho chuyến bay một mình (và như thực tế, bằng năng lượng mặt trời) lâu nhất, ở trên không trung trong khoảng thời gian 118 giờ 52 phút. Anh ấy hẳn rất cô đơn khi ở trong buồng lái nhỏ bé, chưa kể đến buồn ngủ, vì chỉ được phép chợp mắt không quá 20 phút mỗi lần. Nhưng, giống như nhân vật Phileas Fogg, Borschberg cự tuyệt chuyện hoãn lại, và thề phải hoàn thành chuyến đi vòng-quanh-thế-giới-bằng-năng-lượng-mặt trời của mình. Bất kể điều gì, về lâu dài mà nói, đều xứng đáng với tất cả phí tổn và sự bất tiện bởi đã hoàn tất một công việc tuyệt vời khi nâng cấp vị thế của năng lượng mặt trời như là một tương lai khả thi, xanh, sạch của giao thông đường hàng không.
GÓC MỌT SÁCH: Giá thành tấ m pin quang điện đã giảm xuống trong vài năm gầ n đây. Đề án của Ngân hàng Deutsche ước tính rằ ng việc tạo ra điện năng bằ ng pin mặt trời sẽ ngang bằ ng với chi phí điện năng từ khí đốt của 66% dân số thế giới vào năm 2020. Cơ quan Năng lượng Quốc tế cũ ng dự đoán rằ ng điện mặt trời sẽ chiếm 27% sản lượng điện toàn cầ u vào năm 2050, vượt qua sự đóng góp của các nhà máy nhiệt điện than đá.
Ô tô bay và máy bay năng lượng mặt trời là một viễn cảnh thú vị, nhưng trong khi chờ đến lúc đó, chúng ta vẫn có khả năng bị kẹt trong các vụ ùn tắc giao thông đường bộ. Vậy có phát kiến nào cho những con đường trong tương lai không?
Đường LEGO
ẳ
Chẳng có mấy thứ có thể gây bực bội hơn việc bị chôn chân trong một vụ kẹt xe, đặc biệt khi nó là do làm đường. Bạn kiên nhẫn chờ đèn giao thông tạm thời chuyển sang màu xanh, chỉ để thấy rằng, khi bạn lái xe đi qua, không có ai đang thực sự làm việc trên đoạn đường bị ngăn hàng rào ấy cả.
GÓC HỢP THỜI: Từ LEGO xuấ t phát từ hai chữ cái đầ u tiên của các từ tiếng Đan Mạch nghĩa là “chơi vui” – Leg Godt!
Dù có bỏ trống hay không, công trường trên đường phố và xa lộ vẫn có thể gây khó chịu khủng khiếp, và chúng dường như luôn được triển khai vào những thời điểm không thích hợp nhất, khiến bạn phải chạy chậm lại khi
sắp trễ một cuộc họp quan trọng, lớp học hoặc đám cưới. Đôi khi chúng ở đó hàng tuần, hàng tháng hoặc thậm chí nhiều năm, mà không thực sự có dấu hiệu hoàn thành nào để cho tất cả sự gián đoạn đó trở nên đáng giá. Tại sao vậy? Một phần của vấn đề là những con đường được làm bằng nhựa đường, cần nhiều thời gian và công sức để khoan phá và sửa lại. Nếu có một cách khác…
Tiến lên phía trước, LEGO! Phải, chính nó. Trong khi chúng ta chưa tỏ lòng biết ơn đầy đủ đối với Đan Mạch cho một trong những món đồ chơi yêu thích của mình, thì giờ đây LEGO hóa ra cũng rất thành công khi trở thành nàng thơ cho các nhà quy hoạch đô thị cách tân giỏi nhất châu Âu. Một nhóm các kỹ sư người Hà Lan đã thiết kế một con đường bằng nhựa dẻo lấy cảm hứng từ LEGO, và gom góp tất cả cảm hứng sáng tạo của mình lại để nặn ra một cái tên hấp dẫn độc đáo cho phát minh này, cuối cùng họ gọi nó là “PlasticRoad” (Đường Nhựa).
GÓC HỢP THỜI: Ở một vài nơi trên thế giới, như thành phố Jamshedpur của Ấn Độ, rác thải nhựa và lốp xe cũ thường được thu gom, nghiên thành các hạt nhỏ và trộn vào nhựa đường. Điều này không những giúp loại bỏ các vật liệu thừa nói trên, không làm đầ y các bãi chôn lấ p, mà còn làm cho các con đường bền hơn tới 50%.
Ý tưởng là xây dựng từng phần của con đường bằng các tấm đúc sẵn, được vận chuyển tới bất cứ nơi nào cần, và được lắp đặt gọn gàng vào đúng vị trí theo cách y như lắp LEGO. Các ngăn khác nhau bên trong tấm nhựa cường lực là nơi chứa các hệ thống cáp, ống dẫn và những thứ vớ vẩn khác nằm dưới mặt đất.
Về cơ bản, điều này có nghĩa là các con đường có thể được nhanh chóng lắp đặt suốt đêm, với các phần cụ thể được gỡ bỏ và thay thế trước giờ cao điểm giao thông ngày hôm sau. Như thế sẽ gây ra sự gián đoạn tối thiểu.
GÓC HỢP THỜI: Ở Hoa Kỳ , các kế hoạch đang được tiến hành để sử dụng các con đường vào việc tạo ra điện, bằ ng cách “nhúng” các tấ m pin mặt trời vào một phầ n của 72.000 km2 mặt đường toàn quốc.
Còn hơn vậy nữa, vì PlasticRoad được làm hoàn toàn từ nhựa tái chế, tránh được sự phát thải chất độc liên quan đến việc rải nhựa đường truyền thống, nên tính thân thiện với môi trường của nó rất cao. Thêm vào đó, nó quá bền nên sẽ tồn tại lâu hơn (xem Góc mọt sách).
PlasticRoad hiện đang được thử nghiệm tại thành phố cảng Rotterdam của Hà Lan, nhưng phía trước là một quãng đường dài trước khi những đại lộ mang cảm hứng từ LEGO thực sự trở thành đường phố của chúng ta (xin lỗi, chúng tôi không dừng được). Tuy nhiên, khi “tương lai” ít nhiều vô định, chúng ta vẫn không nghi ngờ gì là sự đổi mới này, trong một số trường hợp, đến một lúc nào đó, sẽ trở thành hiện thực theo phong-cách LEGO. Một tương lai không còn ùn tắc giao thông đường bộ do công trường? Chúng ta sẽ rất hạnh phúc khi sống trong một thế giới như vậy.
GÓC MỌT SÁCH: Khác với các loại nhựa đường truyền thống, PlasticRoad có thể chịu được nhiệt độ từ -40 đến +80°C. Đã là điều tốt nhấ t chưa? Chúng được dự đoán sẽ tồn tại lâu gấ p 3 lầ n so với các con đường truyền thống, trước khi cầ n thay thế.
Đến lúc này, chúng ta đã mơ ước được giống như Marty McFly với ván bay và ô tô bay, cũng như suy ngẫm về tương lai của những con đường. Rồi thì, đã đến lúc chuyển sự chú ý sang một phát minh tương lai cũng mang tính biểu tượng khác, trong bộ phim Back to the Future II – giày tự buộc-dây.
Giày tự buộc dây (và các công nghệ khác)
Bạn có nhớ khi còn là một đứa bé, mẹ hoặc cha đã dạy bạn cách thắt dây giày không? Lên trên, xuống dưới, vòng quanh và kéo qua, gặp Thỏ Bunny,
thắt lại và xong. Một cuộc chiến thật sự, vì buộc dây giày rất khó, nhưng những đứa trẻ tương lai sẽ sớm thoải mái với điều này, bởi vì đôi giày tự buộc-dây cuối cùng đã thành hiện thực.
Không mấy ngạc nhiên, người đầu tiên có đôi giày này không ai khác ngoài bạn cũ của chúng ta, Marty McFly, hay chính là nam diễn viên Michael J. Fox.
Nike đã tặng Michael đôi giày tự buộc dây vào ngày – thử đoán xem! – 21 tháng 10 năm 2015, thời điểm mà bộ phim Back to the Future II dự đoán nó sẽ trở thành một phần trong cuộc sống thường nhật của chúng ta. Michael đã trình diễn đôi Nike Air MAGS trông cực ngầu phát sóng trực tiếp trên TV, và sau đó tweet một lá thư cảm ơn từ nhà thiết kế vì chính anh đã làm cho giày tự-buộc-dây trở nên phổ biến nhiều năm trước khi chúng thực sự tồn tại.
GÓC HỢP THỜI: Người thiết kế chính cho đôi giày Nike của Marty McFly là nhà cách tân có cái tên rấ t thích hợp, Tinker Hatfield (tinker = thợ hàn), ông cũ ng đứng đầ u bộ phận thiết kế sản phẩm nổi tiếng nhấ t của Nike: đôi Air – Jordans.
Một tin tức thời trang khác từ bộ phim Back to the Future II, áo khoác tự khô không nổi tiếng lắm của Marty cũng đã được phát minh: chỉ cần nhấn nút, áo khoác sẽ phồng lên và tự làm khô đến 90% chỉ trong chưa đầy một phút. Một ví dụ khác về khoa học viễn tưởng truyền cảm hứng cho công nghệ đời sống. Ngày nay, công nghệ mang-đeo đã vượt ra khỏi thế giới mà các nhà làm phim tưởng tượng ra. Dưới đây là một vài ví dụ về các trang phục công nghệ mới này:
GÓC MỌT SÁCH: Một công ty của Pháp tên là Zhor Tech đã đi trước một bước so với giày tự buộc dây: bạn có thể thắ t chặt hoặc nới lỏng giày bằ ng ứng dụng điện thoại, nhận phản hồi về lượng calorie đã đốt trong ngày hôm đó, và điều chỉnh nhiệt độ bằ ng hệ thống điều hòa không khí tích hợp trong giày.
Quần leggings như một huấn luyện viên yoga, sử dụng các cảm biến chuyển động tích hợp sẵn để cung cấp cho bạn hướng dẫn bằng lời nói, và phản hồi về kỹ thuật khi bạn duỗi người trong mỗi tư thế luyện tập.
“Áo ngực thông minh” đầu tiên trên thế giới, đo nhịp tim và nhịp thở khi bạn tập luyện cường độ cao, giúp bạn theo dõi những thay đổi trong tín hiệu sinh trắc học để đạt được mục tiêu luyện tập của mình. Một chiếc băng đô được cho là sẽ khiến một lớp tóc mỏng mọc lại, thông qua việc sử dụng một số tia laser nhỏ hữu ích (Donald Trump lưu ý nhé).
Và dĩ nhiên, những chiếc đồng hồ thông minh rất phổ biến hiện nay, có thể hoàn thành lượng công việc đáng kinh ngạc, từ theo dõi hoạt động hằng ngày của bạn đến gửi email, và thực hiện các cuộc gọi y như thám tử Dick Tracy ngoài đời thực.
GÓC HỢP THỜI: Trong bộ phim Back to the Future II, “dây giày tự buộc” nối tiếng không thực sự buộc chặt – chúng chỉ đơn giản là siết lại và thắ t chặt, không có nơ bướm hay nút thắ t khó khăn nào cả.
Nếu bạn đang tìm cho mình một đôi giày tự-buộc-dây Nike Air MAGS thời thượng, hãy nhớ rằng toàn bộ bộ sưu tập với phiên bản giới hạn đã được bán đấu giá, tiền thu về được chuyển đến Quỹ nghiên cứu Parkinson Michael J. Fox. Dù vậy, những người hâm mộ cuồng nhiệt cũng đừng mất hy vọng – lần kiểm tra gần đây nhất của chúng tôi, có một đôi được rao bán trên eBay với giá phát ngất là 5.000 bảng Anh.
Thời trang và công nghệ chắc chắn sẽ tiếp tục kết hợp theo dòng thời gian, nhưng một trong những ví dụ thú vị nhất về điều này, dưới cái nhìn của các tác giả mọt sách (và lịch lãm!) của bạn, được chúng tôi mô tả trong những trang tiếp theo: rất gợi cảm, được tích hợp công nghệ tiên tiến, và đưa chúng ta lên một bước nhỏ nhưng quan trọng, gần hơn với việc làm sạch hành tinh này.
Đồ bơi làm sạch biển
Kịch bản lý tưởng là thế này: bạn đang ở một vùng nhiệt đới nào đó, tận hưởng kỳ nghỉ xứng đáng trên bãi biển, cả ngày nằm dài lười biếng thưởng thức những ly cocktail dưới ánh mặt trời, rồi ào ra biển, ngâm mình vào làn nước mát mẻ. Rồi vào cuối ngày, bạn tự khen ngợi bản thân, tin chắc rằng mình đã đóng góp tích cực vào trạng thái khỏe khoắn hạnh phúc của hành tinh này.
Tất cả chúng ta đều có thể sớm đạt được giấc mơ này nhờ vào siêu cặp đôi – vợ chồng kỹ sư Mihri và Cengiz Ozkan, bởi vì họ đã tạo ra một vật liệu hoàn toàn mới gọi là “Sponge” (bọt biển), giúp lọc các hóa chất nguy hiểm, làm sạch đại dương của chúng ta. Loại vật liệu có độ xốp cao này có thể được tích hợp vào đồ bơi, đồ lặn hoặc bất kỳ vật liệu nào khác hướng đến màu xanh bất tận của đại dương, đồng thời có tính kháng nước, và bẫy được các hóa chất độc hại vào trong lõi của nó, một phân tử sponge gốc đường rất tân tiến.
GÓC HỢP THỜI: Bộ bikini đắ t nhấ t thế giới có giá 20 triệu bảng Anh, được làm gầ n như hoàn toàn bằ ng kim cương 150 carat và bạch kim. Có lẽ bấ t cứ ai mặc nó khi đi bơi sẽ chìm thẳng xuống đáy biển – điều này chẳng cầ n thảo luận làm gì, tại sao phải bận tâm?!
Máy in-3D được dùng để tạo ra những bộ bikini từ loại siêu vật liệu này, thứ mà bất kỳ quý cô yêu biển nào cũng có thể vui vẻ mang theo trong chuyến đi nghỉ, và mặc để ngâm mình hằng ngày. Nhờ cấu trúc đặc biệt, vật liệu này có thể chứa được lượng chất gây ô nhiễm lên tới 25 lần trọng lượng của chính nó – không tệ chút nào.
GÓC MỌT SÁCH: Vật liệu sponge làm từ loại nhựa PLGA, có thể được sử dụng để “càn quét” các tế bào ung thư nguy hiểm, ngăn chặn chúng tiếp cận các khu vực mới, và thậm chí cho bác sĩ biết liệu ung thư có đang lan rộng không.
Nhưng chờ một chút! Có phải điều này nghĩa là mọi người sẽ bơi lặn với một lượng chất độc đáng sợ cọ xát vào da? May mắn thay, không phải vậy. Thực ra, các hóa chất bị hấp thu được cách ly an toàn bên trong lõi của loại vật liệu này, và chỉ được giải phóng ở nhiệt độ trên 1.000°C – điều này khó có thể xảy ra một cách tình cờ. Hơn thế nữa, người đi bơi có thể mặc những bộ ren mới ngọt ngào của họ ít nhất 20 lần trước khi nó cần được tái chế. Làm sạch biển và đại dương đơn giản bằng cách mặc bikini, hoặc đồ lặn đặc biệt trong kỳ nghỉ ư? Trở thành chiến binh bảo vệ môi trường cũng không quá khó khăn nhỉ…
GÓC HỢP THỜI: Bộ bikini đầ u tiên theo kiểu như chúng ta thấ y hiện tại đã được tung ra thị trường vào năm 1946, với khẩu hiệu: “tiết lộ mọi điều về cô nàng, ngoại trừ tên thời con gái của mẹ cô ấ y.” Tuy nhiên, dường như bikini đã xuấ t hiện trước đó một thời gian. Những bức tranh của người Minoan cổ đại từ khoáng năm 1600 TCN, và
ế
bức tranh khảm Sicilia thế kỷ 4 SCN – được gọi một cách không chính thức là “những cô gái mặc bikini” – vẽ những người phụ nữ mặc đồ bơi hai mảnh.
Trong khi chúng ta đang bàn về chủ đề loại công nghệ cho phép con người ngâm mình dưới biển đồng thời góp phần vào sự sạch đẹp của nó, thì những trí óc thông minh hơn đang nhìn sâu vào bên dưới những con sóng, và dự tính một tương lai mà cuối cùng chúng ta thực sự có thể sống ở đó.
Tương lai xán lạn, lương lai là… ở dưới nước?
Từ huyền thoại Atlantis đến thế giới của SpongeBob SquarePants*, các thành phố dưới nước từ lâu đã chiếm được trí tưởng tượng của chúng ta. Giờ đây, một công ty nọ tuyên bố rằng sẽ biến chúng thành hiện thực.
* – Nhân vật bọt biển trong bộ phim hoạt hình cùng tên – ND.
Tập đoàn Shimizu, đặt trụ sở tại Tokyo, đã nghiên cứu và thiết kế thành phố Ocean Spiral từ năm 2014, và, chúng tôi phải thừa nhận, nó trông quá tuyệt. Thành phố dưới nước này, nơi họ hy vọng con người có thể chuyển vào sinh sống vào năm 2030, sẽ được đặt trong một thứ trông giống một quả bong bóng khổng lồ, với lối vào 200 m dưới mực nước biển – an toàn trước khả năng xáo trộn của bất kỳ trạng thái biển động nào đang diễn ra trên bề mặt, nhưng vẫn được chiếu sáng bởi ánh mặt trời. Văn phòng, khách sạn và phòng thí nghiệm là một số các công trình có thể thoải mái sắp xếp bên trong quả cầu chính rộng 500 m, được mệnh danh là “Khu vườn Xanh”.
Toàn bộ sẽ được neo giữ bởi một “đường-xoắn-ốc” – trông hơi giống một cái mở nút chai khổng lồ – vào một nhà máy năng lượng tái tạo cố định dưới đáy biển, để cung cấp điện, nước uống và oxygen theo nhu cầu của cư dân. Thêm vào đó, toàn bộ công trình có khả năng được cung cấp năng lượng từ nguồn CO2 mà chúng ta thở ra, kết hợp với các sản phẩm thải loại khác có thể chuyển đổi thành khí methane nhờ vi sinh vật. Đâu là phần thú vị nhất? Đó là bất kỳ người dân nào cũng có thể đến “khu sảnh thuyền đáy bằng dưới biển sâu”, rồi đi thang máy xuống đường-xoắn-ốc để xem những gì đang xảy ra bên dưới. Một cuộc khám phá ngay lập tức lòng đại dương sâu thẳm.
GÓC HỢP THỜI: Một thành phố 1.300 tuổi tên là Shicheng – tạm dịch là “Thành phố Sư tử” – gầ n như còn nguyên vẹn nhưng lại chìm dưới một cái hồ ở Trung Quốc. Thành phố cổ này vẫn nằm trên mặt đấ t cho đến năm 1959, khi tấ t cả 300.000 cư dân của nó được di tản do chính phủ Trung Quốc quyết định xây dựng một con đập, và làm ngập hết khu vực đó.
Thành phố Ocean Spiral không phải chỉ để trông thật ấn tượng, dù đúng là vậy: nó thực sự giải quyết được một số vấn đề chúng ta gặp phải trên mặt đất. Sự kết hợp giữa dân số quá đông và thiếu nhà ở, chưa kể đến diện tích đất xây dựng ngày càng hạn chế, đều là những vấn đề lớn – và đừng quên rằng đại dương bao phủ đến 70% bề mặt Trái Đất và khá sâu, vì vậy những
lợi ích tiềm tàng liên quan đến việc xây dựng những thành phố dưới nước này là rất lớn.
Cái giá phải trả? Ước tính sẽ cần hơn 16 tỷ bảng Anh để xây dựng, và có Chúa mới biết ai được quyền cấp phép cho kế hoạch này. Chúng tôi cho rằng tất cả các rắc rối trở ngại sẽ đáng giá nếu đó là cơ hội để ngồi mơ mộng trước bàn làm việc, nhìn ra cửa sổ trong lúc một con cá mập đầu búa uể oải bơi bên ngoài.
GÓC HỢP THỜI: Huyền thoại về thành phố Atlantis được kể lầ n đầ u tiên bởi Plato vào năm 330 TCN, trong các tác phẩm đối thoại Timaeus và Critias. Chỉ đến năm 1881, một nhà văn tên là Ignatius Donnelly mới đề xuấ t rằ ng có thể đó là một thành phố bị biến mấ t ngoài đời thực.
Vì đến một ngày nào đó chúng ta có thể sống dưới biển, trong những thành phố dưới nước, nên có lẽ việc tìm ra cách tự nuôi sống bản thân, mà không cần phải vướng vào rắc rối khi đi ngược lên mặt đất để kiếm thức ăn, sẽ mang nhiều ý nghĩa. Chỉ cần tưởng tượng phải dành ra nửa giờ trong buồng giảm áp mỗi khi bạn muốn chăm sóc vườn rau của mình. Nhưng đừng lo, đã có một giải pháp được đưa ra, khi một nhóm các thủy thủ tàu ngầm gan dạ làm việc cật lực với thử thách tìm ra cách trồng cây trong nhà kính dưới biển.
Canh tác nông nghiệp dưới nước
Bạn nghĩ rằng chuyện xuất ngoại đi hái trái cây ở Miệt Dưới (Australia và New Zealand) trong một năm có vẻ khá kỳ cục, thế việc hái dâu tây sâu dưới biển thì sao? Lúc này có thể chưa sẵn sàng cho bất kỳ cậu Tom, cậu Dick, hay cô Henrietta nào đó, nhưng canh tác nông nghiệp dưới nước chắc hẳn sẽ là nét đặc trưng lý thú trong một tương-lai-không-xa. Và trong lúc chúng ta phải đợi đến năm 2030 để có thể sống ở thành phố dưới nước, một trang trại dưới biển đã được thử nghiệm thành công.
Từ năm 2012 đến 2015, những người nông-dân-lặn-biển, Sergio Gamberini và con trai Luca, đã chăm sóc vụ mùa của mình trong “Khu vườn Nemo”, ở
độ sâu chỉ 5-10 m dưới lòng biển, trong một vịnh nhỏ ở miền bắc Italy.
Cây cối được trồng trong các sinh quyển trong suốt, hơi giống quả bóng hình con sứa khổng lồ neo vào đáy biển bằng những xúc tu làm từ dây thừng. Vì chỉ bị dìm ở độ sâu tối đa 10 m nên chúng vẫn nhận được nhiều ánh sáng mặt trời. Và cũng vì nằm sâu dưới biển, tránh được những biến đổi thời tiết trên bề mặt, nên chúng dễ dàng được giữ ở nền nhiệt thân thiện với thực vật, khoảng 25°C. Thật ấm áp!
Bên trong những bong bóng nhà kính dưới biển này, nước ngưng tụ trên mái, sau đó nhỏ giọt xuống cây cối bên dưới, giữ cho chúng được tưới nước đều đặn. Thêm vào đó, quá trình này tạo ra môi trường ẩm, thích hợp cho nhiều loại cây trồng tăng trưởng mạnh hơn – khoảng 85%, trong trường hợp bạn quan tâm. Thậm chí còn tốt hơn nữa, vì không có vấn đề về sâu bệnh hay côn trùng, chuột bọ, nên không cần dùng đến các loại hóa chất độc hại. Đúng là những tin tức tuyệt vời cho những người thích ăn trái cây và rau củ, và có lẽ còn tuyệt vời hơn cho người bạn thân của chúng ta: loài ong*.
* – Vào năm 2015, một nghiên cứu đã chứng minh được rằng một số loại hóa chất diệt trừ sâu hại đang góp phần gây ra cái chết hàng loạt ở loài ong, và nếu không có ong – loài vật chịu trách nhiệm thụ phấn chéo cho một lượng lớn các loại cây trồng – thì nói một cách đơn giản, chúng ta gặp phải rắc rối lớn rồi.
Cuộc thử nghiệm kéo dài ba năm ở miền bắc Italy là một thành công lớn, và những vị nông-dân-lặn-biển anh hùng của chúng ta đã trồng được rất nhiều dâu tây, đậu và rau diếp ngon lành. Họ cũng xoay xở để trồng được vô số húng quế, rất tiện dụng để các bà các mẹ Italy làm ra thứ nước sốt pesto nổi tiếng, đặc sản của vùng Liguria – nơi đây canh tác cây trồng truyền thống nhưng thường gặp nhiều khó khăn do địa hình nhiều đá, quá đông dân, và thỉnh thoảng bị lở đất hoặc lũ lụt.
GÓC MỌT SÁCH: Tương lai của việc canh tác nông nghiệp không chỉ nằm dưới mặt nước, mà cũ ng có thể ở trên bầ u trời. Tại Hàn Quốc, một “Nông trại Trên không” đã được thiết kế, theo đó mùa vụ sẽ được trồng trọt trên một tòa cao ốc hình-cái-cây, không chỉ cung cấ p thực phẩm, mà còn giúp thanh lọc không khí giữa lòng thành phố náo nhiệt.
Vậy, những nông-dân-lặn-biển ở vịnh Noli đã chứng minh được quan điểm của mình: ở những khu vực có điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu không phù hợp, hoàn toàn có thể trồng được các loại trái cây thơm ngon và rau tươi dưới nước. Cuộc thử nghiệm đã kết thúc, và không có lý do gì để các trang trại dưới nước không được triển khai đến các khu vực khác trên thế giới.
Các sinh quyển này vận hành với chi phí thấp, không dùng các loại thuốc trừ sâu, giải phóng tài nguyên đất đai quý báu, và không cần điều chỉnh nhiệt độ, nên cần rất ít năng lượng. Thấy không? Chúng thực sự có thể là kiểu trang trại của tương lai.
GÓC HỢP THỜI: Nông trang đô thị thủy canh dưới lòng đấ t đầ u tiên trên thế giới được khai trương tại London vào năm 2015, đặt trong chuỗi hầm trú bom bỏ hoang từ Thế chiến II, ở độ sâu 33 m so với mặt đường. Chúng tọa lạc bên dưới Đường tàu điện ngầm bắ c London Clapham, và ban đầ u được sử dụng làm nơi trú ẩn không kích, chứa được 8.000 người. Bạn thích loại thực phẩm được trồng ở một nơi mang đậm tính lịch sử được tái sử dụng khôn khéo? Hãy đến Siêu thị Borough ở London và tìm kiếm nhà cung cấ p trái cây và rau củ Ted’s Veg.
Có lẽ chúng ta đã từng cho là những loại cây như cà chua hay rau diếp chỉ có thể trồng được trên mặt đất, giờ đây chúng ta biết được rằng thực vật cũng có thể phát triển khỏe mạnh dưới lòng biển. Nhưng nếu các loại cây lương thực thậm chí không cần được trồng trọt thì sao? Nếu bạn đơn giản là có thể in-3D nó? Chuyện in-3D không chỉ được chứng minh là khả thi (hiện có sẵn một cái máy để sử dụng trong văn phòng, nơi chúng tôi đang viết cuốn sách này), mà các chất liệu dùng để in đã được mở rộng nhanh chóng từ nhựa công nghệ cao ban đầu sang một loạt các chất liệu khác.
In-3D
Đã từng có thời, nhắc đến từ “in ấn” thường khiến chúng ta rùng mình nghĩ tới hàng giờ lãng phí vào chuyện kéo những mẩu giấy bị kẹt ra khỏi má kẹp của máy in, cùng với ánh đèn nhấp nháy giận dữ, và những tiếng bíp bíp báo lỗi.
Ngày nay, phản ứng của chúng ta hơi khác một chút. Chúng ta thậm chí còn phải kiềm chế nụ cười, vì các công nghệ mới mang ý nghĩa rằng tương lai của chúng ta có thể sớm tràn ngập các sản phẩm, thực phẩm, thậm chí là các bộ phận cơ thể, được tạo ra bằng cách sử dụng những sáng kiến mới trong công nghệ in-3D. Đây không thực sự là một ý tưởng mới: các mẫu vật đầu tiên xuất hiện vào những năm 1980, khiến chúng khá hoài cổ (vì vậy, có lẽ chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi dân hippie ở khu Đông London bắt đầu đeo chúng như các loại vòng trang sức). Những năm gần đây, sự phát triển của nó thực sự rầm rộ, và in-3D giờ đây có vẻ như được tạo ra để cách mạng hóa lĩnh vực y tế, chế tạo, sản xuất ô tô, nghệ thuật và công nghiệp thực phẩm. Nếu dư tiền trong tài khoản, bạn thậm chí có thể mua máy in-3D và đặt nó trong nhà, chỉ để cho vui*.
* – Hiện tại, một máy in-3D cơ bản có giá khởi điểm khoảng 250 bảng Anh, mặc dù những máy chất lượng cao có thể lên tới 50.000 bảng.
Dưới đây là cách thức hoạt động:
Trước tiên, bạn phải tạo một mô hình kỹ thuật số của đối tượng bạn muốn in, bằng phần mềm vẽ 3D (CAD). Sau đó đưa bản mẫu kỹ thuật số này vào máy in-3D, và để nó làm việc của mình: hợp nhất các lớp vật liệu gốc chất-lỏng, lớp này chồng lên lớp kia, cho đến khi đồ vật bạn thiết kế dần dần hiện ra.
Các nhà biên kịch bộ phim Back to the Future đã bỏ lỡ cơ hội tiên đoán tác động của công nghệ in-3D tới cuộc sống ở thế kỷ 21, nhưng thế giới thực thì không như vậy, và sau đây là một số ứng dụng yêu thích của chúng tôi.
Những bộ phận cơ thể người
In sinh học đã xuất hiện từ những thập niên trước, khi mô người đầu tiên được tạo ra bằng cách in các lớp tế bào da đan xen với các vật liệu kết cấu. Từ da và xương sọ đến tế bào gan và van tim, in-3D đã thay đổi và cứu sống con người.
Năm 2014, những cái tai người đầu tiên được in. Phải thừa nhận rằng điều này làm chúng tôi khá phấn khích, nhất là bởi vì có người thực sự đã xoay xở in ra một bản sao chính xác cái tai bị đứt của Vincent van Gogh, bằng cách sử dụng DNA từ một trong những người thân của ông ấy. Nhưng, dù cái tai của van Gogh rất có tiềm năng dùng để khoe mẽ, vẫn có nhiều những ứng dụng quan trọng hơn.
Một ví dụ là ứng dụng cho hàng ngàn đứa trẻ sinh ra hằng năm với dị tật microtia, tình trạng một hoặc cả hai tai có thể bị biến dạng hoặc không tồn tại. Những chiếc tai giả truyền thống có thể khắc phục điều này, nhưng các phiên bản in-3D có thể tạo ra các bản sao chính xác hơn nhiều dựa trên mẫu vật thật, kết quả là vẻ ngoài trông tự nhiên hơn. Cách thức mà điều kỳ diệu này được thực hiện cũng khá khó tin. Một loại nhựa tương thích sinh học được in ra theo hình dạng tai mong muốn, đóng vai trò bộ khung, sau đó được cấy vào dưới da trên cánh tay hoặc đùi của bệnh nhân, nó sẽ ở đó một hoặc hai tháng, trong khi da tự nhiên phát triển bao quanh nó. Và rồi, bạn có một cái tai mới đẹp đẽ, sẵn sàng để ghép vào một bên đầu của mình.
GÓC HỢP THỜI: Một công ty có trụ sở tại Thượng Hải hiện đang cung cấ p cho các gia đình tang quyến cơ hội in-3D bấ t kỳ bộ phận cơ thể bị mấ t nào của người quá cố, để khiến họ chỉnh tề hơn khi nói lời tạm biệt sau cùng. Họ có thể làm toàn bộ khuôn mặt với giá khoảng vài trăm bảng Anh.
Một khẩu súng thật
Thứ này khiến chúng ta sợ hãi tột độ, nhưng cũng thật khó tin khi nghĩ rằng ai đó chỉ cần nhấp nút “in” để tạo ra một khẩu súng đầy đủ chức năng. May mắn thay, việc in súng tại nhà đã bị coi là bất hợp pháp… mặc dù một công ty đã chia sẻ các thiết kế súng 3D của mình lên mạng, dễ đoán được là thứ này nhanh chóng trở thành “virus”, và đã lan ra khắp internet. Hãy cầu nguyện cho những anh chàng kia, thế giới này cần một cách tiếp cận ý nghĩa hơn với súng ống!
Lâu đài
Giấc mơ công chúa ám ảnh mọi cô bé nay đã trở thành sự thật: một lâu đài cổ tích cho riêng mình. Hóa ra lại là một anh chàng người Mỹ bự con – Minnesotan Andy Rudenko – đã hiện thực hóa trí tưởng tượng của mình bằng cách in ra một lâu đài bê tông trong sân sau nhà mình. Anh đã chế tạo chiếc máy in-3D khổng lồ đặc biệt cho việc này, và chỉ mất một tháng để hoàn thành lâu đài. Dự án lớn tiếp theo của anh ấy ư? In một ngôi nhà hai
tầng. Chúng tôi sợ hãi khi nghĩ tới chuyện xử lý tắc nghẽn cho một máy in bê tông sẽ căng thẳng đến mức nào…
Vật liệu không gian
Năm 2015, khi phi hành gia người Anh Tim Peake lần đầu lơ lửng phía trên Trái Đất trong Trạm Vũ trụ Quốc tế và cần thứ gì đó, anh sớm nhận ra rằng khi đang bay ngoài vũ trụ, điều đó không hề dễ dàng như việc tạt vào các cửa hàng gần nhà. Đáng tiếc, các cửa hàng tiện lợi nằm trên quỹ đạo bay vẫn còn ở thì tương lai, nhưng cũng may mắn cho anh ta và những cư dân vũ trụ khác, giờ đã có một giải pháp rất đơn giản. Một lần nữa, chính là chiếc máy in-3D đáng tin cậy. Các kỹ thuật viên trên Trái Đất có thể thiết kế mẫu CAD cho bất cứ thứ gì Tim cần, từ búa đến giày, máy ảnh đến guitar, và gửi qua email, để các phi hành gia gan dạ có thể in nó ra dựa theo các tiện nghi trên tàu vũ trụ.
GÓC HỢP THỜI: Những người đi bộ đường dài có thể lưu giữ thành tích leo núi ấ n tượng nhấ t của mình trong một tác phẩm điêu khắ c mini được in-3D, về địa hình mà họ đã chinh phục và con đường cụ thể mà họ đã vượt qua.
Bánh pizza
Đó là sự phúc đáp cho lời cầu nguyện của tất cả tín đồ pizza. Một ngày nào đó sớm thôi, bạn có thể đang thư giãn tại nhà, chợt thấy nhói bụng vì cơn đói quen thuộc, và, dù tủ lạnh trống rỗng, bạn vẫn thỏa mãn được sự thôi thúc đánh chén chỉ đơn giản bằng cách bật máy in-3D “Foodini” lên, và tự chiêu đãi bản thân các món ăn ngon lành.
Chiếc máy in này hoạt động như một máy in-3D thông thường, ngoại trừ các thành phần thực phẩm tươi được nạp vào các hộp mực inox nhỏ, thay vì thường là bê tông hoặc nhựa. Trong giai đoạn ban đầu, chúng chủ yếu được sử dụng trong các nhà bếp công nghiệp, nhưng sẽ sớm có các viên nhộng đóng gói sẵn để mua và nạp vào máy in-3D, nhằm tạo ra thực phẩm tươi tại nhà, như pizza, burger và pasta. Tuy nhiên, dù sao đi nữa thì hiện
tại bạn vẫn cần chịu đựng sự bất tiện khi phải cho chúng vào lò để nấu chín.
Thịt
Một trong những chuyện lạ lùng nhất xảy ra trong thế giới công nghệ in 3D là các công ty đã tìm ra cách in thịt – thịt thật sự! Để đạt được kỳ tích này, họ đã lấy cảm hứng từ công nghệ in sinh học, được sử dụng trong ngành y tế (như đã đề cập từ trước). Tế bào gốc được thu thập từ động vật sống trong quá trình sinh thiết, sau đó được nhân lên trong ống nghiệm
nhiều lần, cho đến khi đủ để nạp vào hộp mực của máy in sinh học. Các tế bào sống kết tụ thành mô sống (được nhắc đến với tên gọi quyến rũ là “bionk”), sau đó có thể được in ra thành bất kỳ dạng thịt nào bạn muốn cho bữa ăn – steak, xúc xích thậm chí là bánh mì kẹp thịt.
Nghe cứ sởn gai ốc, nhưng điều này có thể có những tác động rất lớn. Không những vô số động vật không còn phải chịu đựng sự khó chịu khi bị chăn nuôi thâm canh, vốn chỉ để cung cấp thực phẩm cho chúng ta, mà nó còn mang lại lợi ích to lớn cho sức khỏe và môi trường. Ngành công nghiệp thịt dự phần phá hủy rừng nhiệt đới và các sinh quyển khác trong cuộc tìm kiếm không hồi kết để có thêm nhiều đồng cỏ tươi, tạo ra một lượng lớn khí nhà kính, và tác động nặng nề tới dấu-chân-carbon chung của chúng ta khi nó được nhập khẩu/xuất khẩu trên toàn cầu. Tiêu thụ quá nhiều thịt cũng bị quy kết là góp phần tăng tỷ lệ béo phì, thúc đẩy sự phát triển của một số bệnh ung thư, thậm chí đe dọa quét sạch loài người bằng việc tạo ra siêu vi khuẩn (xem trang 326-334). Thịt được in-3D có thể giải quyết tất cả những vấn đề này – vì vậy, nó còn hơn cả một sở thích hào nhoáng nhất thời.
GÓC HỢP THỜI: một chiếc burger in-3D hiện tại có giá lên tới 300.000 dollar.
Các sản phẩm in-3D khác
Một cây guitar acoustic, sáo, thuốc kháng sinh, ống kính mấy ảnh, mô hình bào thai, một đôi giày, vải, tòa nhà văn phòng, máy cắt cỏ và cờ lê chỉ là một vài trong số những thứ đáng kinh ngạc mà bạn có thể in-3D vào lúc này. Thêm nữa, như thể chưa đủ thú vị, công ty Local Motors, có trụ sở tại Phoenix, đã làm chấn động ngành công nghiệp ô tô bằng cách tạo ra chiếc xe in-3D đầu tiên trên thế giới – Strati. Với kế hoạch mở 50 nhà máy mini sản xuất xe hơi in-3D trên khắp thế giới, việc giúp đỡ các thanh thiếu niên đặt tay lên vô lăng chiếc ô tô đầu tiên của mình có thể sẽ tiêu tốn chi phí thấp hơn rất nhiều.
Một thế giới với bánh pizza được in khi nhấn nút, ván bay ngoài đời thực, ô tô bay, môi trường sống và các trang trại dưới nước, nghe như kiểu tương lai mà chúng ta từng hy vọng trong những năm của thế kỷ 20. Dù vậy, triển vọng lớn nhất về những thứ tương lai có thể nắm giữ bao gồm viễn cảnh tránh được cái chết.
Tôi muốn sống mãi
Anh sẽ lấy đi những ký ức trong tôi? Và lãng quên tôi khi tôi chết? The Offspring – “The Future Is Now”
Tại sao quá nhiều người trong chúng ta bận tâm về cái chết? Liệu đó có phải là lời nguyền kỳ dị ám lên loài người khi được sinh ra với nhận thức về khả năng chết đi của chính bản thân, dẫn đến việc không thể chấp nhận ý tưởng một ngày nào đó, người mà chúng ta biết rõ nhất trên thế giới này (tức là chính mình) sẽ không còn tồn tại, trong khi cuộc sống của những người khác vẫn tiếp diễn. Cũng có thể đó là một hình thức mạnh mẽ của FOMO (hội chứng sợ bỏ lỡ) – khát vọng gắn bó với xung quanh để không bỏ lỡ việc nhìn thấy những gì xảy đến trong tương lai, để xem những sự
kiện mới thú vị diễn ra, để – như các nghệ sĩ nhóm Oasis và Queen đến dàn diễn viên trong bộ phim Fame đã hát – “Sống Mãi”.
Nhiều người dành cả cuộc đời cống hiến cho nhiệm vụ đánh bại tử thần. Một số cố gắng có được sự bất tử bằng cách đạt đến đỉnh cao của danh vọng, số khác chọn cách có hàng tá con cái nối dõi, và một số, những chàng trai và cô gái như chúng ta, sử dụng khoa học và công nghệ để thử nghiệm và đánh lừa các quá trình sinh học.
Nhân bản, các sản phẩm “cải lão hoàn đồng” và cyborg (sinh vật nửa người nửa máy – xem chương 5, “Paranoid Android”) chỉ là một vài trong số các công nghệ đang được khám phá trong nhiệm vụ trị giá hàng triệu bảng, nhằm đấm một phát thẳng vào mặt Thần Chết. Nhưng thứ tuyệt nhất trong số đó là gì? Đó là upload bộ não của mình lên máy vi tính.
Các nhà khoa học đang đánh vật nhiều cách khác nhau để vẽ bản đồ, sao chép và “upload” bộ não của chúng ta. Một ngày nào đó, cách thức này có thể cho phép chúng ta sống mãi mãi, dẫu là ở bên trong một cỗ máy, với
chất lượng cuộc sống bị tổn hại đôi chút do điều này gây ra. Xét cho cùng, bộ não của chúng ta về cơ bản là một bảng mạch 3D khổng lồ, với hàng tỷ tỷ kết nối trong mạch sinh học đặc biệt này, và mỗi kết nối đều phức tạp.
Việc có một bản sao dự phòng cho bộ não của mình nằm đâu đó có thể có ích theo cách vượt ra ngoài sự bất tử. Ví dụ, bạn có thể điều chỉnh một số khu vực nhất định để tăng cường sự tự tin, hoặc ngăn chặn những nỗi sợ ám ảnh trong tiềm thức. Nếu bị đánh mạnh vào đầu dẫn đến mất một số chức năng não bộ, bạn có thể thay thế khu vực bị thương bằng một bản sao lưu đồng nhất – cũng tương tự việc đồng bộ chiếc iPhone mới của bạn với máy vi tính, để tất cả thông tin gốc ban đầu được nạp thẳng vào nó. Ý tưởng về “iMind” có vẻ hấp dẫn.
GÓC HỢP THỜI: có bốn loài động vật được biết đến có thể “sống mãi” về mặt kỹ thuật, sứa Bấ t tử, hay Turritopsis dohrnii, tránh được cái chết bằ ng cách đảo ngược quá trình lão hóa và trở lại trạng thái polyp trước đó, trước khi phát triển một lầ n nữa. Loài giun dẹp được biết đến với khả năng tái sinh. Nhiều nhà khoa học tin rằ ng miễn là tôm hùm và rùa có thể tránh được bệnh tật và hàm răng của những kẻ săn mồi, chúng có thể sống mãi mãi, vì các cơ quan nội tạng của chúng ít có dấ u hiệu suy giảm theo thời gian.
Trong khi một iMind thật sự đang mòn mỏi đợi chờ tại văn phòng cấp bằng sáng chế, một số nhà khoa học chân chính đang bận rộn với các giải pháp thực tế. Nhiều người tin rằng bước quan trọng đầu tiên là lập bản đồ bộ não con người. Cựu tổng thống Mỹ Barack Obama đã tham gia, với vai trò to lớn, vào một hoạt động trong thời gian tại vị, đó là khởi động Sáng Kiến BRAIN trị giá hàng tỷ dollar, vào năm 2013. Chương trình này tài trợ tất cả các loại dự án nghiên cứu gây cảm hứng, mỗi dự án chịu trách nhiệm cho một phần khác nhau của thách thức vĩ đại về việc nắm bắt bản chất của bộ não con người.
Một công ty tên là Brain Backups đang cố gắng sử dụng các kỹ thuật quét não không xâm lấn, chẳng hạn như chụp cộng hưởng từ (MRI), để vẽ bản đồ toàn vẹn bộ não và tất cả các kết nối của nó. Để cuối cùng, nó có thể cho phép mọi người tạo ra bản thiết kế não bộ ở mức cơ bản, trong đó lưu trữ bản đồ độc đáo về các kết nối và chức năng não bộ của họ. Vấn đề
hiện nay là ngay cả khi chúng ta có thể vẽ bản đồ mọi kết nối riêng rẽ giữa 86 tỷ tế bào thần kinh của mình và 86 tỷ tế bào hỗ trợ bổ sung, chúng ta cũng không có một khuôn mẫu nào để lưu trữ khối dữ liệu cực kỳ phức tạp này, theo một cách có ý nghĩa.
Ngay cả khi chúng ta đã tiến đến giai đoạn này, các nhà khoa học liên quan đoán rằng toàn bộ não sẽ cần từ 1.000 đến 10.000 terabyte dung lượng lưu trữ. Đó là một ổ cứng cực kỳ đắt tiền, và là thứ bạn chắc chắn không muốn vô tình để quên trên xe buýt đâu.
Tại thời điểm hiện nay, cách duy nhất để lập bản đồ toàn bộ bộ não con người là cắt nó thành các lát mỏng, điều đó tất nhiên cũng mang nghĩa hủy hoại nó. Và chúng ta đã đề cập đến mức giá khổng lồ 1,8 triệu bảng Anh chưa nhỉ? Thậm chí bản đồ não bộ bạn nhận được cũng chỉ sao chụp được trạng thái của nó tại một thời điểm duy nhất, còn cách xa chuyện lý tưởng rằng bộ não tạo ra các kết nối mới và phá vỡ các kết nối cũ mỗi phút mỗi ngày. Tuy nhiên, đây là một bước khởi đầu quan trọng, và nó có thể chứng tỏ sự hữu ích lớn lao ở một số lĩnh vực về sức khỏe não bộ, chẳng hạn như nghiên cứu nguyên nhân và tiềm năng chữa khỏi các bệnh như Alzheimer và tự kỷ.
GÓC MỌT SÁCH: Việc cố gắ ng vẽ ra sự tương đồng giữa sức mạnh xử lý của não bộ so với máy vi tính đã phải hứng chịu những lời chỉ trích hoàn toàn hợp lý. Trong khi máy vi tính đơn thuầ n là digital, bộ não tốt hơn nên được mô tả như một thiết bị analog. Mỗi neuron có hàng tỷ thành phầ n phân tử có thể được thêm, bớt hoặc di chuyển xung quanh để tác động lên vai trò của nó trong một mạch não nhấ t định. Điều này không đúng với trường hợp máy vi tính, khiến cho nhiệm vụ tái tạo sự phức tạp trong cấ u trúc và chức năng não bộ trở thành một thách thức vô cùng khó khăn đối với một thiết bị thuầ n kỹ thuật số như máy vi tính.
GÓC HỢP THỜI: Động vật có vú sống lâu nhấ t là cá voi đầ u cong, với một cá thể được biết đến đã tồn tại trong thời gian vô cùngấ n tượng là 211 năm.
Một nhóm khác đã cố gắng mô phỏng chính xác một giây hoạt động của não người vào năm 2014, sử dụng siêu máy tính của Nhật Bản – nó giống một máy vi tính, nhưng mạnh mẽ hơn, hơn nhiều (và còn siêu nữa!) “Siêu máy tính K”, mạnh thứ tư trên thế giới, đã làm được kỳ tích này, nhưng phải mất đến 40 phút để xử lý toàn bộ dữ liệu một khi nó được thu thập xong. Sự mô phỏng chỉ mô tả được 1% mạng lưới neuron của não người, bằng cách tái tạo 1,73 tỷ dây thần kinh và 10,4 tỷ tỷ kết nối giữa chúng. Sau đó, còn cả một chặng đường xa trước mắt cho đến khi toàn bộ bộ não được “upload” và tái tạo, nhưng không nhất thiết là không thể. Theo giả thuyết, một chiếc máy tính exascale mạnh mẽ hơn gấp nhiều lần có thể giải quyết được toàn bộ chuyện này. Vấn đề duy nhất? Những siêu máy tính hiện nay chưa tồn tại, nhưng các công ty sản xuất máy vi tính tuyên bố rằng họ sẽ tạo ra một chiếc vào năm 2018*.
* – Các thông tin cập nhật hiện nay là máy tính exascale sẽ được chế tạo tại Mỹ vào năm 2021 – Nxb.
Có thể chúng ta còn cách rất xa thế giới trong bộ phim Ma trận, nhưng các nhà khoa học đã tìm cách upload bộ não của một con giun, và nhiều người tin rằng khả năng upload bộ não của chính chúng ta chỉ là vấn đề thời gian và công sức.
GÓC MỌT SÁCH: Nhà khoa học Aubrey de Gray tin rằ ng trong vòng 25 năm nữa, công nghệ sẽ cho phép chúng ta sống được từ 1000 năm trở lên. Hơn nữa, ông dự đoán rằ ng chúng ta sẽ có thể duy trì vẻ ngoài và cảm giác trẻ trung như mong muốn. Ý tưởng là biến đổi bộ gene của chúng ta, thêm vào các đoạn mã di truyền của các vi sinh vật sống trong đấ t, để có thể phá hủy những protein thừa thải do tế bào tạo ra mà cơ thể không thể tự loại bỏ hoàn toàn.
Có một điều chắc chắn: quy luật về sự sống và cái chết của loài người sẽ còn tiếp diễn lâu dài trong tương lai. Những tiến bộ công nghệ và y tế hiện đang cho phép chúng ta sống lâu hơn, và thậm chí một ngày nào đó có thể cho phép chúng ta bất tử. Con người nên cẩn thận với những gì mình mong muốn…
Những suy nghĩ sau cùng
Bây giờ bạn đã thấy được một phần cuộc sống trong tương lai có thể như thế nào, và chúng ta phải thành thật rằng điều đó khá kích thích. Một số có thể tập trung vào việc dọn dẹp mớ hỗn độn khổng lồ mà loài người đã tạo ra trên Trái Đất nhờ cả đống những sáng kiến tiện lợi trước giờ. Nhưng phần lớn còn lại mang hy vọng làm cho cuộc sống đơn giản hơn, dễ dàng hơn, và nhiều niềm vui hơn (này máy in pizza 3D, bọn tao đang trông chờ mày đấy!).
Khi thế giới dần trở nên gần gũi hơn với những gì con người từng mơ ước trên phim ảnh, chúng ta lại càng mong chờ những dự đoán về tương lai của mình. Bởi vì nếu có một điều mà các tiên đoán về thế giới vào năm 2015 trong phim Back to the Future II đã dạy chúng ta, thì đó là chúng ta có thể tưởng tượng ra tất cả những gì mình thích, và một số thậm chí có thể trở
thành sự thật. Nhưng cách duy nhất để thực sự biết được những gì sắp xảy ra là kiên nhẫn, và đơn giản là chờ xem.
2
Sát thủ tâm thần, chuyện gì xảy ra? Đ
iều gì ở những kẻ giết người mà loài người chúng ta cảm thấy lôi cuốn? Một mặt, bọn họ khiến chúng ta căm phẫn, cảm xúc được thúc đẩy bởi sự đồng cảm mãnh liệt với nỗi đau của các nạn nhân. Mặt
khác, chúng ta hoàn toàn bị họ mê hoặc tưởng chừng đến mụ mị, qua các phương tiện truyền thông và đặc biệt là phim ảnh.
Những kẻ độc ác khét tiếng như Myra Hindley, Ted Bundy và Aileen Wuornos thường trở thành chủ đề của vô số phim ảnh, phim tài liệu và sách báo. Một tìm kiếm nhanh trên Google về “Charles Manson merchandise” cho thấy không thiếu áo phông rock‘n’roll, áo khoác, hoặc phù hiệu in hình khuôn mặt hắn ta theo kiểu thần tượng hóa. Và gần đây, tên giết người hàng loạt “Boston Bomber” đã được giật tít trên trang bìa của tạp chí Rolling Stone – một vinh dự thường chỉ dành cho những nhạc sĩ được sùng kính nhất. Trong khi những kẻ giết người trở nên nổi tiếng thì nạn nhân của chúng bị chìm trong lãng quên. Quá sai lầm nhỉ?
Có phải bởi vì những kẻ sát nhân đã làm điều gì đó cực đoan mà chúng ta không bao giờ dám, hoặc muốn làm? Hoặc có lẽ, theo một cách đáng lo ngại hơn nhiều, bởi vì chúng đại diện cho một cái gì đó như kiểu mong muốn của lớp thanh thiếu niên, được phá bỏ luật lệ, được làm điều cấm kỵ, và phá hoại xã hội?
Dù với lý do gì đi nữa, sự hứng thú của chúng ta với việc giết chóc và những chuyện rùng rợn sẽ không biến mất một sớm một chiều. Và không chỉ có các nhà làm phim, tiểu thuyết gia, và biên tập viên báo chí chia sẻ sự mê muội này, các nhà khoa học cũng tham gia.
Trong suốt chương này, chúng ta sẽ cùng xem xét một số nghiên cứu khoa học kỳ quặc nhất, gây sốc nhất, và kinh khủng nhất về mặt tối trong bản chất con người. Chúng ta sẽ đưa zombie, người rối loạn nhân cách chống đối xã hội, kẻ sát nhân hàng loạt, mèo và thậm chí cả quần jeans ống bó vào phạm vi xem xét, nhưng hãy bắt đầu với một trong những kẻ giết người được nhắc đến nhiều nhất mọi thời đại.
Jack Thợ Xẻ (Jack the Ripper)
Ngày 9 tháng 11 năm 1888: các khu ổ chuột ở London làm suy kiệt vùng East End. Khi buổi sáng thứ Sáu đầy sương mù hé rạng, một chiếc xe ngựa lăn bánh uể oải dọc theo con đường rải sỏi. Tờ báo sáng đập vào một cánh cửa trước, phá vỡ sự yên tĩnh, và ở đó, chễm chệ trên trang nhất, là dòng tít:
Xác nhận nạn nhân thứ 5 của Jack Thợ xẻ – Người phụ nữ đã bị chém dã man đến chết
Đầu đề này – xuất hiện trên tờ London Daily Post – đánh dấu 5 trong 11 vụ giết người man rợ được quy cho kẻ được biết đến với những tên gọi từ “Tên sát nhân vùng Whitechapel” đến “Cái tạp dề da”, sau này trở thành “Jack Thợ xẻ” khét tiếng trên toàn thế giới. Các nạn nhân chủ yếu là gái làng chơi, những vụ giết người luôn tàn bạo.* Nội tạng thường bị lấy khỏi cơ thể nạn nhân, làm dấy lên tin đồn kẻ giết người có lẽ là một nhà giải phẫu hoặc bác sĩ, tuy vậy, thủ phạm của những tội ác ghê tởm này chưa bao giờ bị bắt.
* – Rất có khả năng hắn ta đã thực hiện ít nhất 5 trên 11 vụ giết người được chính thức quy cho hắn.
Khởi đầu như một loạt các vụ giết người rất kinh khiếp và bi thảm, sự việc này sau đó đã biến thành cuộc săn lùng của cảnh sát quốc gia, sự điên cuồng của cánh truyền thông thời Victoria, và những đồn đoán trong gần 130 năm, các lá thư giả, sách, phim, chương trình truyền hình, tour du lịch đến hiện trường giết người, bảo tàng, thậm chí cả những tái hiện đẫm máu tại Hầm ngục London. Ngày nay, Jack Thợ xẻ là một phần trung tâm của văn hóa dân gian London – hắn ta và tội ác của hắn đã trở thành một ngành công nghiệp cho một số người, là trò giải trí hấp dẫn cho một số người khác, và là nỗi ám ảnh với nhiều người. Thứ thúc đẩy niềm đam mê bệnh hoạn của xã hội đối với tên sát nhân này chính là việc danh tính của hắn ta vẫn luôn là điều bí ẩn… có lẽ, cho đến tận lúc này đây.
Các kỹ thuật và phát kiến khoa học hiện đại đã bắt đầu khai sáng bí ẩn kẻ giết người khét tiếng nhất London có thể là ai, và ít nhất trong mắt chúng ta, không có gì thú vị hơn những nỗ lực của nhà sinh học phân tử, Tiến sĩ Jari Louhelainen.
May mắn cho bộ đôi làm podcast đứng sau cuốn sách này, Tiến sĩ Louhelainen đã đồng ý tham gia một cuộc phỏng vấn độc quyền trên chương trình podcast Geek Chic’s Weird Science để chúng tôi có thể hỏi han ông. Và tất nhiên chúng tôi đã làm thế. Đây là những gì ông tiết lộ về vai trò của mình trong câu chuyện Jack Thợ xẻ:
Vào năm 2011, một email được gửi đến Tiến sĩ Louhelainen, gợi ý rằng một phần bằng chứng bị mất từ lâu, liên quan đến một vụ giám định pháp y cũ đã được phát hiện lại. Tiến sĩ Louhelainen đã đồng ý gặp chủ sở hữu, và vài ngày sau đó, có tiếng gõ cửa phòng thí nghiệm của ông. Đó là một người đàn ông tên là Russell Edwards, mang theo chiếc cặp màu nâu, và tuyên bố với nụ cười rộng mở: “Tôi nghĩ ông có thể quan tâm đến điều này.”
Bên trong chiếc cặp, ông ta nói, là bằng chứng cuối cùng còn lại từ tội ác của Jack Thợ xẻ: một chiếc khăn choàng lụa cũ. Tiến sĩ Louhelainen ban đầu đã hoài nghi, nghĩ rằng: lại một kẻ lừa đảo khác cố làm giả đồ đạc để giành lấy một chút vinh quang từ tên giết người bí ẩn khét tiếng ở London.
Bất chấp điều đó, ông đã bị thuyết phục để làm một số thử nghiệm trên chiếc khăn choàng lụa 126 năm tuổi – mà Russell Edwards tuyên bố là đã được đưa ra khỏi hiện trường vụ án khi nạn nhân thứ tư của Jack Thợ xẻ, Catherine Eddowes, bị sát hại và cắt xẻo một cách vô cớ vào năm 1888. Một lá thư mà Edwards mang theo cùng chiếc khăn choàng xác nhận rằng Amos Simpson, một trung sĩ đang làm nhiệm vụ vào thời điểm đó, đã thó* chiếc khăn choàng nhuốm máu từ hiện trường vụ án và mang nó về nhà cho bà xã, theo phong cách lãng mạn cũ mèm của mình: Ôi em yêu, anh yêu em nhiều đến mức lấy trộm chiếc khăn choàng cổ dính máu từ một nạn nhân bị giết và mang nó về nhà làm quà cho em. Bà Simpson thật may mắn nhỉ!
* – Tác giả dùng biệt ngữ “half-inched”, tiếng lóng vần điệu khu Cockney của từ “pinched”, nghĩa là lấy cắp.
GÓC HỢP THỜI: Jack Thợ xẻ chỉ giết người vào sáng sớm, hoặc cuối tuầ n. Nhiều người nghi ngờ hắ n ta làm việc vào các ngày trong tuầ n và là một con cú đêm, thức thật khuya để thực hiện tội ác của mình. Điều này rấ t phù hợp với nghiên cứu gầ n đây cho thấ y những người thức khuya có nhiều khả năng bị tâm thầ n.
Dĩ nhiên, chuyện này là bình thường trước thời của giám định pháp y, vì vậy, Trung sĩ Simpson có thể đã nghĩ rằng không có hại gì khi lấy nó, không hề biết rằng trong những năm tới nó có thể chứng minh những điểm sống còn trong việc phá án. Bà Simpson, chắc chắn là khiếp sợ vết máu dính trên đó, không bao giờ sử dụng hay giặt nó. Và chiếc khăn choàng, cùng với câu chuyện đằng sau, được truyền lại trong gia đình Simpson cho đến năm 1993, khi cháu trai ba đời của Trung sĩ Simpson đưa nó đến Bảo tàng Black của Scotland Yard*, nơi nó được bán đấu giá.
* – Bảo tàng Black là nơi sưu tập những kỷ vật hình sự, được lưu giữ tại trụ sở cảnh sát New Scotland Yard, London.
Ngay từ đầu, Tiến sĩ Louhelainen đã hỏi ít nhất có thể về lai lịch chiếc khăn choàng, để giữ cho mình tránh được các thành kiến có thể có. Vì vậy, ban đầu ông thậm chí thực sự không biết mình đang tìm kiếm điều gì. Chẳng mấy chốc, ông khám phá ra một số chi tiết khá đẫm máu. Chiếc khăn choàng phủ đầy dấu vết còn lại của các cơ quan nội tạng và máu – từ nạn nhân – nhưng cũng có một số vết tinh dịch không ngờ tới, có lẽ là từ chính kẻ thủ ác.
Thật khó tin,Tiến sĩ Louhelainen đã phục hồi được DNA từ máu và tinh dịch 126 tuổi, và bắt đầu khớp DNA với con cháu của cả nạn nhân, cô Eddowes, và nhiều người khác bị tình nghi là tay Thợ xẻ. Làm thế nào ông xoay xở tìm được những hậu duệ khó tìm này? Sự kết hợp giữa ba năm kiên nhẫn chờ đợi và may mắn đã mang đến một phụ nữ: một chương trình truyền hình, mà một người trong nhóm của ông tình cờ xem, có liên quan đến một phụ nữ nói rằng cô ta là hậu duệ trực hệ của Catherine Eddowes. Ngạc nhiên thay, DNA ty thể (xem Góc mọt sách) trong vệt máu và hậu duệ của bà Eddowes khớp với nhau. Càng khó tin hơn, nhóm của Tiến sĩ Louhelainen đã tìm được một hậu duệ của em gái của một trong những nghi phạm Thợ xẻ, và thấy rằng DNA ty thể của cô khớp với DNA tìm thấy trong tinh dịch.
Và người mà bằng chứng buộc tội là —
* – Trống dồn dập nào!*
— Aaron Kosminski.
Một thợ cắt tóc người Ba Lan, và là nghi phạm quan trọng vào thời điểm đó, Kosminski đã bị tách khỏi xã hội vào năm 1891. Hắn trải qua phần đời còn lại trong một nhà thương điên. Danh tính thực sự của Jack Thợ xẻ cuối cùng đã được tiết lộ?
GÓC MỌT SÁCH: Hầ u hết các tế bào của chúng ta chứa một lượng lớn ty thể – các nhà máy năng lượng của tế bào, với bộ DNA riêng biệt. Tấ t cả ty thể đều được kế thừa từ mẹ của chúng ta. Điều này có nghĩa là các bà mẹ, chứ không phải các ông bố, mới là người truyền lại ty thể của họ cho thế hệ tiếp theo. Bạn có thể lầ n theo chuỗi DNA đặc biệt này dọc theo nhánh bên ngoại trong bấ t kỳ cây gia phả nào. Họ hàng nữ sẽ có DNA ty thể giống hệt nhau, được bảo tồn suốt các thế hệ. Việc tìm đúng chuỗi con cháu thuộc dòng nữ từ nạn nhân và kẻ thủ ác là chìa khóa để phá vỡ bí ẩn trong trường hợp này. Tuy nhiên, vẫn có một xác suấ t nhỏ cho sự trùng khớp hoàn toàn ngẫu nhiên, do đó vẫn có phầ n không chắ c chắ n. Xét nghiệm DNA ty thể đã rấ t thành công trong các loại công việc tìm kiếm khác, như vẽ đường đi của tổ tiên chúng ta khi di cư ra khỏi châu Phi.
Ngay cả Tiến sĩ Louhelainen cũng thừa nhận đây chỉ là phần khởi đầu cho công việc đang làm, và ông sẽ cần phải hoàn thành nhiều kiểm tra nữa để tin chắc 100%. Tuy nhiên, bất chấp sự không chắc chắn, tin tức Aaron Kosminski sau cùng có thể chính là tên Thợ xẻ đã khiến truyền thông thế giới trở nên điên cuồng. Hàng loạt những kẻ hoài nghi đã sớm xếp hàng chỉ trích công việc của Tiến sĩ Louhelainen, vượt xa số lượng những người đưa ra lời khen cho một công việc được thực hiện tốt. Một số người tách riêng câu chuyện về Amos Simpson ra, tuyên bố rằng anh ta thậm chí có thể không hề có mặt ở hiện trường vào tối hôm đó. Những người khác bới lông tìm vết các phương pháp của Tiến sĩ Louhelainen, và cáo buộc ông mắc sai lầm – nhiều điều trong số đó ông ấy không phủ nhận. Dù vậy, ông vẫn cho rằng chúng không ảnh hưởng đến phần còn lại của bằng chứng, cái đã chỉ ra một cách áp đảo kết luận của ông: Aaron Kosminski là Thợ xẻ.
Tất cả những mâu thuẫn đang diễn ra này có nghĩa là bí ẩn về chuyện ai là Jack Thợ xẻ vẫn chưa được khám phá đầy đủ, và cho đến tận ngày nay, những lý thuyết mới vẫn tiếp tục lan tỏa, với một cuốn sách hoặc một bài
báo “vạch trần” mới xuất hiện gần như mỗi tháng*. Một lý luận gần đây đã cáo buộc nhà thơ Francis Thompson là tên Thợ xẻ. Một nhà văn khác tuyên bố rằng bà-dì của mình là một nạn nhân, bị sát hại cùng với những người khác bởi chồng của bà ta, ông Francis Craig. Ngay cả đạo diễn Bruce Robinson của bộ phim Withnail and I cũng tham gia, công khai buộc tội ngôi sao âm nhạc nổi tiếng thời Victoria, Michael Maybrick.
* – Một tìm kiếm nhanh trên web các từ “Jack the Ripper” và “nhận dạng” cho thấy từ giữa tháng 7 và tháng 11 năm 2015, cứ mỗi tháng lại có một bài báo công bố danh tính của Jack Thợ xẻ.
GÓC HỢP THỜI: Mặt trăng từ lâu đã được liên kết với khả năng gây điên loạn. Vì vậy, niềm tin cố hữu rằ ng từ “lunatic” (điên cuồng) thực sự có nguồn gốc từ “lunar”, tức là liên quan đến mặt trăng, vào thời Victoria, công chúng có thể trả một xu để xem những người bị mặt trăng làm phát điên tại trại tâm thầ n, hoàn toàn mang tính giải trí. Thật bệnh hoạn!
Sự thật là danh tính của kẻ giết người khét tiếng này có thể không bao giờ được biết đến rõ ràng, cũng không được chấp nhận bởi những hoài nghi vô lý, và các lý thuyết mới của ngành “Thợ xẻ học” sẽ không sớm cạn kiệt. Nhưng có một điều chắc chắn: nếu sau cùng có bất cứ thứ gì kết thúc được những suy đoán này và trả lời cho câu hỏi đã làm bối rối biết bao thế hệ — Jack Thợ xẻ là ai? – thì cũng như rất nhiều điều bí ẩn khác trong cuộc sống, nó gần như chắc chắn sẽ đến từ thế giới khoa học tuyệt vời.
Trong khi Jack Thợ xẻ rõ ràng gây rối trí nghiêm trọng, việc hắn ta có phải là một kẻ tâm thần thực sự hay không có lẽ sẽ không bao giờ biết chắc được. Nhưng “tâm thần” thực sự nghĩa là gì? Có phải tất cả những kẻ loạn thần kinh đều ăn mặc giống mẹ mình, và đâm người trong phòng tắm? Và liệu có thể phát hiện được một kẻ tâm thần – ngay cả khi kẻ đó tình cờ là chính bạn không?
Thích cà phê có khiến bạn bị tâm thần không?
Khi đọc xong tiêu đề trên, bạn có thể nhận ra là mình đang nhòm ngó những người xung quanh một cách ngờ vực, trong khi họ nhấm nháp từng ngụm cà phê sữa ít béo. Nhưng trước khi bạn buộc tội những người hoàn toàn xa lạ – hoặc gần gũi nhất và thân thương nhất của mình – về chuyện họ có thể là tên Norman Bates tiếp theo, thì có nhiều thứ trong lý thuyết này hơn những gì bạn cảm nhận lúc ban đầu.
Nghiên cứu đưa ra lý thuyết này liên quan đến một bản khảo sát, trong đó đối tượng được hỏi về sở thích thực phẩm và đồ uống khác nhau. Các đối tượng cũng được yêu cầu thực hiện một loạt bài kiểm tra tính cách, nhằm tìm ra số điểm họ đạt được trên thang đo tâm lý liên quan đến các rối loạn
nhân cách khác nhau. Chúng bao gồm “bộ ba đen tối”: quỷ quyệt (thèm muốn thao túng người khác), tự đại (cảm nhận quá mức về tầm quan trọng của bản thân và khao khát sự chú ý), và thái nhân cách (thiếu sự thấu cảm).
GÓC HỢP THỜI: Những kẻ thích troll trên internet thể hiện những dấ u hiệu mạnh mẽ của thái nhân cách, nhưng cũ ng có cả bạo dâm, quỷ quyệt, và tự đại – tổ hợp được coi là “bộ ba đen tối”. Càng dành nhiều thời gian để “troll”, các đặc điểm trên càng mạnh mẽ. Này các bình luận viên của Daily Mail, chúng tôi đang quan sát các bạn!
Hóa ra, những người thú nhận có hứng thú với đồ ăn thức uống có vị đắng, bao gồm cà phê, nhưng cũng có bia, chocolate đen thậm chí hình như cả bông cải xanh (bông cải xanh đắng ư?!), đồng thời có xu hướng đạt điểm cao trong thang đo thái nhân cách và một số đặc điểm chống đối xã hội khác. Điều này thực sự mang ý nghĩa gì? Cho đến lúc này, đơn giản là họ đã nhận thấy mối tương quan: những người đạt điểm cao trong mục yêu thích thực phẩm có vị đắng cũng có xu hướng là những người đạt điểm cao trong thang đo thái nhân cách. Điều đó không nhất thiết nghĩa là cái này gây ra cái kia – rằng việc thưởng thức một tách cappuccino hoặc một cốc bia Cheeky Pint sẽ ngay lập tức biến bạn thành tên Dexter giết người hàng loạt tiếp theo, hoặc việc là một kẻ tâm thần tất yếu sẽ khiến bạn trở thành khách hàng trung thành nhất của Starbucks. Tuy nhiên, tương tự như vậy, chúng tôi cũng không dám tuyệt đối chắc chắn rằng không có trường hợp đó. Một kết nối đã được phát hiện, và tùy thuộc vào thế hệ các nhà khoa học tiếp theo để tìm ra chính xác lý do tại sao, và liệu cái này có gây ra cái kia hay không.
GÓC MỌT SÁCH: Những kẻ thái nhân cách có thể bị dẫn dắ t bởi sự thèm khát không thể cưỡng lại để có nhiều dopamine hơn – là chấ t dẫn truyền thầ n kinh được giải phóng trong đường-mòn-khoái-cảm (reward pathway) bên trong não bộ, kích thích cảm giác thỏa mãn – thường phát sinh khi chúng ta ăn đồ ngọt, đưa ra quyết định có nguy cơ cao, đang yêu, hoặc dùng chấ t kích thích. Một nghiên cứu quét não gầ n đây chỉ ra rằ ng những người đạt điểm cao trong thang điểm chống đối xã hội có xu hướng tạo ra nhiều dopamine hơn, gợi ý rằ ng họ có thể cảm thấ y khoái cảm tăng cao khi theo đuổi các mục tiêu đầ y rủi ro, như kiếm tiền, tình dục hoặc địa vị thông qua các tình huống nguy hiểm.
Trước khi bạn bắt đầu rình mò quanh chiếc máy pha cà phê, chờ đợi để cáo buộc người sử dụng thường xuyên nhất về tội giết chết bà của họ, tốt hơn là hãy nhớ rằng thuật ngữ y học “thái nhân cách” không hoàn toàn giống với hiện tượng đa nhân cách, thường được nhắc đến trong các cuộc trò chuyện ngồi lê đôi mách của nền văn hóa đại chúng.
Người thái nhân cách thực sự là người không có khả năng cảm nhận sự đồng cảm – họ không có ý thức nội tại về cảm xúc của người khác tại bất kỳ thời điểm nào. Về mặt thần kinh học, họ thậm chí còn cho thấy sự suy giảm hoạt động trên các phần não bộ, nơi cho phép sự đồng cảm xuất hiện ở người “bình thường” trong những trường hợp thường thấy*.
* – Phần lớn công việc này liên quan đến việc đưa mày quét MRI vào một nhà tù an ninh cao ở Mỹ, để quét não những kẻ thái nhân cách bị giam giữ vì những tội ác kinh hoàng. Bạn phải là một nhà thần kinh học cực kỳ dũng cảm để đăng ký chương trình nghiên cứu đó!
Họ có thể tỏ ra lạnh lùng, hoặc thiếu cảm xúc, nhưng điều đó chắc chắn không đảm bảo họ trở thành kẻ giết người. Trên thực tế, các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng thiếu sự đồng cảm kết hợp với các đặc điểm khác của chứng thái nhân cách – như liều lĩnh, bạo dạn, và bốc đồng – thực tế có thể tạo ra các nhà lãnh đạo rất thành công, có thể là tướng tá quân đội, trùm tư bản, thậm chí là tổng thống (chúng ta có thể nghĩ tới khá nhiều người…).
GÓC HỢP THỜI: Không phải tấ t cả những kẻ thái nhân cách đều xấ u xa. Nhà thầ n kinh học James Fallon phát hiện ra mình là một kẻ thái nhân cách toàn diện, khi phân tích các bộ não của chính gia đình mình về các ranh giới đạo đức (với không dưới bảy người bị coi là kẻ sát nhân trong gia phả). Tuy nhiên, Tiến sĩ Fallon chưa bao giờ phạm tội, tiếp tục làm việc tốt, và xét trên mọi khía cạnh, là một công dân chính trực, ông nói rằ ng cảm xúc của ông với cháu gái cũ ng tương tự như với những người xa lạ ngẫu nhiên trên phố – nhưng, nào, không ai hoàn hảo cả!
Một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng những người thái nhân cách không phạm tội, hay đôi khi được biết đến là “thái nhân cách tập đoàn”, đặc biệt đầy rẫy trong thế giới thương mại, nhất là ở vai trò quản lý cấp cao và vị trí quyền lực lớn. Vào năm 2010, một cuộc khảo sát trên diện rộng đã phát hiện ra rằng những người thái nhân cách trong số các giám đốc điều hành giỏi giang có tỷ lệ cao gấp 4 lần (1 trên 25) so với phần đông còn lại (tỷ lệ 1 trên 100). Sau đó vào năm 2013, một nhà nghiên cứu tên là Kevin Dutton thậm chí đã đi xa hơn, tập hợp một danh sách các ngành nghề được chứng nhận thu hút nhiều người thái nhân cách nhất, và thấy rằng các công việc như cảnh sát, luật sư và bác sĩ phẫu thuật đều ở mức cao trong danh sách này. Đâu là công việc hàng đầu cho những người thái nhân cách? Là CEO. Hừm, những ông chủ ứng xử khéo léo, uống nhiều cà phê, thể hiện khuynh hướng lạnh lùng và thái nhân cách ư? Không, chúng tôi không thấy ai trong số mình như vậy cả…
Bạn được tha thứ cho ý nghĩ mình đã có quá đủ các đặc điểm để cố gắng phát hiện những kẻ tâm thần thích cà phê, say mê quyền lực trong đời
mình, nhưng hãy sẵn sàng để thậm chí còn hoang tưởng hơn nữa. Chúng tôi có thêm một khả năng tố cáo nữa dành cho bạn.
Làm cú đêm có nhiều khả năng bị tâm thần
Hãy tự hỏi mình câu này – bạn có phải là cú đêm, loại người thích thức khuya, và sau đó lười biếng nằm nướng trên giường vào ban sáng, rồi nhấn nút nhắc lại chuông báo thức? Hay bạn là một người dậy sớm, sống theo câu thần chú của Benjamin Franklin, “ngủ sớm và dậy sớm làm cho con người trở nên khỏe mạnh, giàu có và khôn ngoan”?
Bất cứ ai rơi vào trường hợp đầu tiên tốt hơn nên cảnh giác, bởi vì vào năm 2013, một nhóm các nhà khoa học Australia đã phát hiện ra rằng cú đêm thể hiện các đặc điểm của bộ ba đen tối cao hơn nhiều so với người dậy sớm.
GÓC HỢP THỜI: Những người thể hiện mạnh các đặc điểm của bộ ba đen tối không phải là những sinh vật duy nhấ t của màn đêm. Các loài thú săn mồi trong vương quốc động vật, như sư tử và bọ cạp, cũ ng thường hoạt động về đêm, vậy nên có lẽ chúng có cùng động lực.
Hiện nay, có một số hoạt động chống đối xã hội cũng như những tội ác, mà những người có chỉ số bộ ba đen tối trong tính cách cao thường tham gia vào, có thể dễ dàng diễn ra hơn vào lúc chạng vạng. Ánh sáng yếu, ít nhân chứng tiềm năng làm phiền, và thực tế là những người ở xung quanh nhiều khả năng đang buồn ngủ, và do đó dễ bị tấn công hơn. Tất cả đều góp phần tạo nên điều kiện hoàn hảo cho các loại phạm tội nhỏ, thậm chí là giết người. Lấy ví dụ, những kẻ thái nhân cách có thể chỉ đơn giản là chọn hành động vào ban đêm, khi họ ít có khả năng bị bắt gặp.
GÓC MỌT SÁCH: Những người thái nhân cách rấ t khó nhận ra nỗi sợ hãi biểu hiện trên nét mặt của người khác. Một thử nghiệm trên 36 trẻ em, từ 7 đến 10 tuổi, cho thấ y những người đạt điểm cao trong thang đo thái nhân cách phải vật lộn để chỉ ra được sự khác biệt giữa các hình ảnh biểu cảm khuôn mặt sợ hãi và thư giãn. Điều này chung quy lại có thể do cấ u trúc hạch hạnh nhân của họ: những cấ u trúc hình quả hạnh nhân, ằ
nằm sâu bên trong thùy thái dương, có vai trò quan trọng trong việc phát hiện nguy hiểm và kích hoạt sự sợ hãi. Chúng có xu hướng nhỏ hơn ở người thái nhân cách so với những người khác.
Có thể có một mối liên kết mang tính tiến hóa giữa sự ưa thích đêm khuya và sự phổ biến của các đặc điểm trong bộ ba đen tối. Những người với khuynh hướng có các hành vi chống đối xã hội và, thức dậy sớm, thường hoạt động nhiều hơn vào ban ngày, và do đó dễ bị bắt hơn, khiến họ ít có khả năng truyền lại những gene mang tính chống đối xã hội của mình. Trong khi đó, những kẻ hành động lúc đêm khuya có thể thành công tránh bị phát hiện, và do đó dễ dàng thực hiện việc duy trì nòi giống xấu xa của mình hơn.
GÓC HỢP THỜI: Không phải tấ t cả đều rạch ròi trắ ng đen. Trong khi có rấ t nhiều ví dụ về những cú đêm độc ác, như Adolf Hitler chẳng hạn, cũ ng có rấ t nhiều người tốt như Elvis Presley, James Joyce và Barack Obama. Những người dậy sớm cũ ng rấ t đa dạng: Napoleon và Ernest Hemingway là hai nhân vật đáng chú ý, thích thức dậy vào lúc bình minh vừa chớm.
Những lý do chính xác có thể không rõ ràng, nhưng dù sao vẫn tồn tại một mối liên hệ giữa giờ thức giấc của cú đêm và chứng thái nhân cách. Hỡi những người ưa thích đêm khuya, khoan hãy tuyệt vọng! Trước khi bạn đặt lịch hẹn với bác sĩ tâm thần, nhớ rằng không phải tất cả đều là tin xấu. Những cú đêm cũng được cho là có nhiều khả năng thông minh, hướng ngoại và sáng tạo hơn – ví dụ các nghệ sĩ, nhà thơ và các nhạc sĩ thường là fan của đêm dài tối tăm. Mặt khác, những người dậy sớm có nhiều khả năng là nhân viên kế toán, hoặc công chức. Bạn chọn thái nhân cách hay kế toán viên? Cả hai đều không có vẻ gì là hấp dẫn cả!
Thái nhân cách không phải là yếu tố tạo nên kẻ giết người. Tuy nhiên, thiếu khả năng cảm nhận nỗi đau của người khác chắc chắn khiến việc giết người trở nên dễ dàng hơn. Chúng ta chắc chắn sẽ không muốn bất kỳ kẻ thái nhân cách nào nhúng tay vào câu chuyện tiếp theo, bởi vì chúng ta có lẽ đã phát hiện ra vụ giết người hoàn hảo.
ế
Vụ giết người hoàn hảo
Nữ bá tước Vera Rossakoff: Và tội ác hoàn hảo là gì? Hercule Poirot: Đó là một ảo ảnh, thưa Nữ bá tước.
Agatha Christie – thám tử Poirot: “Thừa một chứng tích phạm tội” (1991)
Có tồn tại thứ gì đó như vụ giết người hoàn hảo không? Đó là một câu hỏi choán đầy tâm trí các nhà văn hình sự, nhà làm phim, các thám tử xuất sắc, cũng như bọn tội phạm trong nhiều năm. Giờ đây, dường như một phương pháp đã được phát hiện có khả năng đánh lừa cả vị thám tử Hercule Poirot vĩ đại (Chúa ơi !).
Đó là một thủ đoạn xứng đáng với những nhà biên kịch xuất sắc nhất, và là một điều mà nhiều độc giả có thể thấy quen thuộc, đặc biệt là những người hâm mộ bộ phim truyền hình Homeland. Ở phần 2 [cảnh báo tiết lộ nội dung!], trong một tập phim với tựa đề phù hợp “Broken hearts”, Phó Tổng thống Walden bị sát hại bởi một tên khủng bố không hề đến gần ông ấy lúc đó. Kẻ thủ ác có khả năng hack máy tạo nhịp tim của vị Phó Tổng thống từ xa, và tắt nó đi. Phần tốt nhất (hoặc tệ nhất, nếu bạn thuộc câu lạc bộ hâm mộ Walden) là đối với những người khác, chuyện này chỉ như việc một người nghèo tội nghiệp phải chịu đựng một cơn đau tim. Không ai bị nghi ngờ, không ai phải chịu trách nhiệm, và kẻ giết người được bình an vô sự. Chúng ta đã xem một cách ngây thơ, và sau đó tắt TV, an tâm rằng đây chỉ là chuyện hư cấu, đúng không?
Cốt truyện thực sự được lấy cảm hứng từ một bài báo mà một trong những nhà biên kịch đã tình cờ đọc được. Bài báo chia sẻ tin tức về một nghiên cứu thực tế đã phát hiện ra lỗ hổng chết người trong máy tạo nhịp tim hiện đại và một loạt các thiết bị y tế hỗ trợ sự sống khác. Các nhà nghiên cứu bảo mật máy tính chỉ ra rằng, vì các máy tạo nhịp tim thường được điều khiển không dây, nó có thể khiến con người gặp nguy hiểm bởi sự can thiệp chết người từ tin tặc. Bạn chỉ cần đoán ra mật khẩu để hack, mà như các nhà nghiên cứu phát hiện ra, trong hầu hết trường hợp, mật khẩu được để nguyên cài đặt mặc định từ nơi sản xuất.
“Thế quái nào mà, máy tạo nhịp tim lại được làm ra với lỗ hổng chết người dễ dàng như truy cập từ xa?”, bạn có thể hỏi như vậy. Hầu hết các máy tạo nhịp tim hiện đại cấy ghép vào bệnh nhân đều được thiết kế để kết nối internet, cho phép chúng được các bác sĩ tim mạch giám sát và thiết lập từ xa, mà không cần phải mổ phanh lồng ngực của bạn mỗi khi cần điều chỉnh gì đó. Điều này hoàn toàn hợp lý khi vị bác sĩ tử tế đang theo dõi cẩn thận trái tim của bạn, và đảm bảo rằng nó đang đập tốt và ổn định. Thực không thoải mái khi bạn sực nhớ rằng với mỗi bác sĩ vị tha, ngoài kia có thể có một tên bác sĩ sát nhân Harold Shipman khác.
Một số trong chúng ta phải đấu tranh để trao trọn vẹn niềm tin cho những người chúng ta yêu thương nhất. Vậy nên, việc cho phép bác sĩ tiếp cận và kiểm soát hoàn toàn trái tim của bạn rõ ràng đòi hỏi rất nhiều sự tin tưởng. Đó là trước khi bạn quan tâm đến việc nhiều người hoàn toàn xa lạ am hiểu công nghệ ngoài kia đang háo hức vận dụng sức mạnh hack của họ trong một thử thách mới. Và trong khi các ngôi sao Hollywood như Jennifer Lawrence có thể phải đối mặt với tình trạng bối rối khi dữ liệu cá nhân bị xâm nhập, thì điều đó không là gì so với nguy cơ tiềm ẩn của hàng trăm ngàn người trên toàn cầu hiện đang đeo máy tạo nhịp tim.
May mắn thay, việc can thiệp vào chức năng chết người này tỏ ra khó khăn và tốn kém hơn bạn tưởng. Trong khi khoảng một triệu người mỗi năm được trang bị máy tạo nhịp tim, thật đáng mừng là hầu hết bọn họ sẽ không chết ngay cả khi máy tạo nhịp tim của họ bị tắt, vì chúng thường được dùng cho các bệnh tim không gây nguy hiểm đến tính mạng.
Tuy nhiên, mối đe dọa vẫn đủ để thúc đẩy cựu Phó Tổng thống Dick Cheney vô hiệu hóa chức năng không dây của máy tạo nhịp tim của ông, theo lời khuyên từ bác sĩ.
Nguy cơ này cũng xảy ra với các thiết bị y tế có thể truy cập từ xa khác, với hơn 20 thiết bị hiện đang được bộ An ninh Nội địa (Homeland Security) thật điều tra. Chúng bao gồm máy bơm insulin, máy khử rung tim, máy bơm gây mê, và tất cả các loại thiết bị cấy ghép khác có thể kết nối không dây và điều khiển từ xa.
GÓC HỢP THỜI: Các thiết bị y tế không phải là vật phẩm công nghệ duy nhấ t có thể bị hack với những hậu quả chết người: ô tô cũ ng vậy. Vào tháng 7 năm 2015, một công ty ô tô đã phải thu hồi 1,4 triệu ô tô, sau khi tin tặc chứng minh rằ ng phương tiện của họ có thể bị hack từ xa, và bị buộc chạy ra khỏi làn đường, bởi một người nào đó điều khiển thông qua hệ thống giải trí được kết nối không dây. Thật đáng sợ!
Các chuyên gia bảo mật đang bắt đầu lưu ý và kiểm soát chặt chẽ những lỗ hổng này. Các phương pháp truy tìm mới cũng đã được phát triển để giúp các nhà nghiên cứu bệnh học phát hiện ra các dấu hiệu mờ ám. Nhưng cho đến khi nó được bảo mật chặt chẽ, không ai biết liệu vụ giết người đầu tiên bằng cách truy cập từ xa máy tạo nhịp tim có xảy ra hay không và xảy ra khi nào. Tất nhiên, đó là nếu chuyện này chưa xảy ra, bởi vì nếu có, không ai trong chúng ta là người có kinh nghiệm. Và, bạn tôi ơi, đó không chỉ là điều khiến nó trở nên đáng sợ. Đó là điều làm cho nó trở thành án mạng hoàn hảo.
Bây giờ chúng ta đã biết cần chú ý những gì để phát hiện một người thái nhân cách. Chúng ta sẽ để mắt đến những chuyên gia có địa vị cao, yêu thích chocolate, bia và cà phê, với khuynh hướng thức khuya, và có các kỹ năng hack máy tính. Nhưng còn các mối đe dọa ít rõ ràng hơn ngoài kia thì sao? Như… những chú mèo con?!
Có phải loài mèo đang làm rối trí chúng ta?
Những con mèo đã trải qua một giai đoạn khó khăn, đúng không? Chúng là điềm xui nếu băng ngang đường đi của bạn. Là điềm xui nếu chúng màu đen. Là điềm xui nếu bạn sở hữu một con ở nước Anh vào thế kỷ 16, và không thể ngờ là sẽ bị thiêu trên cọc như một phù thủy.
Ngày nay, điều tồi tệ hơn hết thảy, các nhà khoa học hiện đại đang cáo buộc chúng về khả năng góp phần gây ra bệnh tâm thần, cho rằng sở hữu một con mèo ở giai đoạn thơ ấu có thể liên quan đến việc phát triển bệnh tâm thần phân liệt trong cuộc sống sau này.
Cuộc nghiên cứu được đề cập đã xem xét lại một khảo sát chi tiết được thực hiện bởi 2.125 gia đình vào năm 1982, như là một phần của kế hoạch do Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia thực hiện. Họ phát hiện ra rằng 50,6% những người phát triển chứng tâm thần phân liệt đã sở hữu một con mèo khi còn nhỏ. Hai nghiên cứu tương tự khác thực hiện ở thế kỷ 20 cho thấy kết quả gần như đồng nhất.
Đây hoàn toàn có thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Và, vì chúng tôi không bao giờ thấy mệt khi nhắc nhở bản thân (và bạn), rằng việc xác định được mối tương quan giữa hai sự việc không nhất thiết có nghĩa là cái này thực sự gây ra cái kia, chỉ là nó có thể đúng như vậy, và có lẽ nên được nghiên cứu thêm. Nhưng một lý thuyết cụ thể đã thu được rất nhiều sự
quan tâm trong những năm qua. Nó đề xuất rằng ký sinh trùng Toxoplasma gondii có thể phải chịu trách nhiệm cho việc này. Toxoplasma gondii (hay đơn giản là T.gondii) là một loại ký sinh trùng nhỏ kinh tởm sống ký sinh trong nhiều con mèo. Nó có thể truyền sang người thông qua chậu cát của mèo, và gây ra các u nang siêu nhỏ đáng sợ khi xâm nhập vào não của chúng ta. Chúng có thể được kích hoạt sau này trong não của các thanh thiếu niên, ảnh hưởng đến việc giải phóng chất dẫn truyền thần kinh và, dường như có khả năng gây ra tâm thần phân liệt.
Ký sinh trùng T.gondii cũng liên quan đến sẩy thai, mù lòa thậm chí tử vong. Nhưng vì nó chỉ truyền sang người qua phân mèo, lời khuyên chung là cần tránh xa chậu cát của mèo bằng mọi giá nếu bạn đang bị suy giảm miễn dịch hoặc mang thai. Những người bình thường có hệ thống miễn dịch mạnh thường có thể kiểm soát ký sinh trùng, nhưng đối với những người bị suy giảm miễn dịch, như người nhiễm HIV, đó có thể là rắc rối lớn – có ai còn nhớ chuyện đã xảy ra với anh chàng Tommy tội nghiệp trong bộ phim Trainspotting không?
GÓC MỌT SÁCH: Mèo không phải là loài vật duy nhấ t chịu trách nhiệm cho việc T.gondii vào não người. Mèo thường bị lây ký sinh trùng thông qua kẻ địch muôn thuở – chuột. Một khi T. gondii ở trong não, nó làm con chuột không còn sợ mèo, bằ ng cách loại bỏ nỗi sự tự nhiên của loài chuột đối với mùi nước tiểu mèo, thậm chí còn khiến con chuột cảm thấ y một sức hút không thể cưỡng lại. Loài ký sinh trùng xảo quyệt này làm cho con chuột có nhiều khả năng bị mèo ăn thịt, và nhờ đó tiếp cận được với hệ thống tiêu hóa của mèo. Đây chính xác là những gì T.gondii cầ n, bởi vì ruột mèo là nơi yêu thích của nó trong việc sinh sản và phát triển, để con cháu của nó phân tán khắ p nơi qua phân mèo.
Nhưng trước khi bạn hoảng loạn, và bắt đầu lên kế hoạch thoát khỏi chú mèo Tiddles đáng thương, chỉ cần nhớ rằng hơn 30% người dân ở phương Tây nuôi mèo, và chỉ 1,1% trong số họ được chẩn đoán mắc bệnh tâm thần phân liệt. Với yếu tố di truyền mạnh mẽ trong căn bệnh tâm thần đặc biệt này, không chắc rằng việc nuôi một con mèo có thể gây ra bệnh. Trên thực tế, cũng có thể nhìn theo hướng khác – trẻ em với khuynh hướng mắc bệnh tâm thần có thể đơn giản là có khát khao mạnh mẽ hơn trong chuyện sở hữu vật nuôi. Rốt cuộc, việc sở hữu thú cưng đã được chứng minh là giúp ẳ
giảm mức độ căng thẳng, giảm bớt sự cô đơn, và thậm chí giảm nguy cơ đau tim.
Điều đó có nghĩa là những người bạn mèo của chúng ta lại một lần nữa trở thành vật tế thần? Cần hoàn tất nhiều nghiên cứu hơn để biết chắc chắn.
GÓC HỢP THỜI: Loài mèo có vai trò trong nhiều phát minh đáng nhớ. Hầ u hết mọi người đều biết tới câu chuyện về “đôi mắ t mèo”, nhờ đôi mắ t của một con mèo rực sáng trong đêm đã truyền cảm hứng cho Percy Slaw sáng tạo ra đèn phản quang trên đường rấ t phổ biến ngày nay, nhưng bạn có biết rằ ng việc chịu một cú sốc tĩnh điện từ con mèo của mình đã truyền cảm hứng cho Nikola Tesla bắ t đầ u nghiên cứu điện học?!
Nói về việc làm rối trí chúng ta, bạn có bao giờ tự hỏi liệu thực sự có những con zombie (xác sống) tồn tại xung quanh chúng ta không? Bạn không phải là người duy nhất…
Zombie có thật không?
Bạn nghĩ rằng zombie bị giam cầm một cách an toàn trong phim ảnh và những cơn ác mộng? Nghĩ lại đi. Một số nền văn hóa, như Haiti chẳng hạn, tin chắc rằng xác chết biết đi là một phần của cuộc sống thực.
Trong nhiều năm, các câu chuyện rùng rợn về những người được mang về từ mồ chôn và được giữ trong trạng thái giống-như-hôn-mê đầy rẫy trong các nền văn hóa vodun (tức là những người tin vào Voodoo – tà thuật). Nhưng chúng đáng tin đến mức nào? Và đã bao giờ khoa học kiểm tra chưa?
Một trong những ví dụ nổi tiếng nhất về “zombie” là trường hợp bí ẩn của Clairvius Narcisse. Năm 1980, Clairvius bước vào làng và chào hỏi em gái mình. Cho đến lúc đó, mọi thứ vẫn ổn. Tuy nhiên, em gái Angelina của anh bắt đầu hét lên, rất, rất to. Hóa ra anh trai cô đã chết từ 18 năm trước, vào năm 1962, và được chôn cất tại một nghĩa trang gần đó. Cái chết của anh ta thậm chí còn được xác nhận bởi không chỉ một mà là hai bác sĩ người Mỹ.
Đáng sợ đến mức nào khi ngày hôm đó anh ta đi lại và nói chuyện ngay trước mặt cô?
Clairvius, người mà danh tính được xác nhận bởi một loạt các bài kiểm tra nghiêm ngặt, tuyên bố rằng anh ta nhớ mình đã bị chôn, tỉnh táo nhưng bị tê liệt trong toàn bộ trải nghiệm này. Rùng mình chưa? Hãy tự khích lệ bản thân! Chuyện sắp tệ hơn nữa! Anh ta thậm chí còn thuật lại rằng mình nhớ sự khủng khiếp của chiếc đinh đóng vào quan tài, và chỉ vào trước trán, nơi có một vết sẹo để (một kiểu) chứng minh điều đó. Anh ta nói rằng đêm đó mình được mang trở lại cuộc sống bởi một bokor— một thầy lang phù thủy Voodoo – người giữ anh trong trạng thái say thuốc và làm nô lệ cho một đồn điền mía đường gần đó, buộc anh phải làm việc ở đó cùng với những zombie vô tri khác trong 18 năm. Những ai muốn hỏa táng sau khi đọc xong câu chuyện, hãy giơ tay!
GÓC HỢP THỜI: Nhiều người Haiti tin rằ ng nếu bạn cho zombie ăn muối, bạn sẽ giải thoát họ – họ không sống lại nhưng cơ thể sẽ trở về yên nghỉ trong mộ.
Sự thật hay tưởng tượng? Bạn hãy tự mình quyết định. Tuy nhiên, trường hợp của anh ta không phải là duy nhất – rất nhiều người khác đã kể những câu chuyện tương tự – vì vậy, một nhà khoa học tò mò, Wade Davis, đã quyết định đến Haiti để tự mình điều tra. Ông được giới thiệu với Marcel Pierre, một thầy lang phù thủy Voodoo dày dạn kinh nghiệm theo hướng ma thuật hắc ám. Nhà khoa học đã thuyết phục được ông ta tiết lộ cách
chuẩn bị “bột zombie”, thứ mà người dân địa phương tin rằng có thể khiến người ta chết đi, sau đó biến thành những tên nô lệ u mê.
Davis đã thử nghiệm một số lọ thuốc lạ, và thấy rằng mỗi loại khác nhau một chút, nhưng hầu hết bao gồm các hỗn hợp khác nhau của một chút cóc, sâu biển, thằn lằn, nhện độc, và ớn lạnh nhất, xương trẻ sơ sinh nghiền vụn. Tuy nhiên, thành phần thực sự thu hút sự chú ý của Davis là cá nóc khô. Đó là bởi vì nó chứa một độc tố thần kinh cực kỳ mạnh và độc hại, được gọi là tetrodotoxin, mà những người yêu thích món fugu ngon lành của Nhật Bản hẳn là quen thuộc. Khi được chuẩn bị đúng cách bởi các đầu bếp lành nghề đã có giấy phép, món fugu sẽ tuyệt ngon. Nhưng nếu bị cắt nhầm, nó sẽ nguy hiểm chết người, đúng như nạn nhân không may trong một tập của bộ phim Columbo đã phát hiện ra theo một cách khó chịu.
GÓC HỢP THỜI: Tetrodotoxin được đặt tên như vậy vì có nguồn gốc từ cá nóc, loài vật có bốn chiếc răng (tetras – bốn, odontos – răng) hợp với nhau thành một loại mỏ kẹp để nghiền san hô và những thứ tương tự.
Liệu chất ngăn chặn xung thần kinh tetrodotoxin có thể là chìa khóa để biến người bình thường thành zombie không? Sau tất cả, đó là một độc tố thần kinh mạnh gấp hàng ngàn lần cyanide. Nhóm của Davis đã thử nghiệm nhiều hơn, cọ “bột zombie” vào phần lưng bị cạo của một số con chuột ngẫu nhiên tội nghiệp, chúng nhanh chóng rơi vào trạng thái hôn mê. Trên thực tế, lũ chuột dường như đã chết, nhưng dù sao cũng quét được những sóng não mờ nhạt và nhịp tim yếu ớt. Bingo!
GÓC HỢP THỜI: Tetrodotoxin không chỉ giới hạn ở cá nóc. Một loạt các sinh vật biển khác cũ ng sản xuấ t và lưu trữ nó trong cơ thể, có lẽ là để ngăn cản những kẻ săn mồi. Chúng bao gồm cá vẹt, cá bò, cá bống, cá tuyết (hả!), cá mặt trăng, sao biển, cua móng ngựa, giun dẹp, giun ruy băng, trùng mũ i tên, hải tiêu, sò vỏ nón Nhật Bản, và thậm chí một vài loài ếch nhỏ dễ thương.
Điều đó đủ để thuyết phục Davis rằng, giống như các bác sĩ gây mê bậc thầy, các thầy lang Voodoo có thể cẩn thận dùng đúng liều lượng để khiến một người có vẻ như đã chết với những người xung quanh, và sau đó có thể mang họ trở lại từ mồ chôn. Ông ấy tin rằng những bokor sẽ đào họ lên trong trạng thái giống như zombie, sau đó biến họ thành nô lệ bằng cách cho uống đều đặn liều thuốc từ loài cây có tên là Datura stramonium, để giữ họ trong trạng thái mê sảng và mơ hồ. Lễ hội người chết – hãy “yêu quý” zombie hơn nữa!
Vậy, liệu khoa học có chứng minh được rằng ma thuật hắc ám thực sự hiệu quả? Lý thuyết của Davis đã bị các nhà khoa học săm soi trong nhiều năm khi họ phải vật lộn để tái tạo kết quả thử nghiệm của ông ấy. Nhiều người khinh thường toàn bộ lý thuyết này như là một mớ chuyện vớ vẩn về ma thuật hắc ám*. Nhưng Davis đã viết một cuốn sách đáng kinh ngạc về những trải nghiệm của bản thân nhan đề The Serpent and the Rainbow (Con rắn và Cầu vồng), sau đó được chuyển thể thành một bộ phim bom tấn của đạo diễn Wes Craven. Nhiều người tin rằng bộ phim này đã đưa zombie lên hàng đầu trong thể loại kinh dị, khiến một loạt phim zombie được thực hiện sau đó.
* – Tác giả dùng từ “cobblers”, cách viết ngắn gọn của “cobblers awls”, tiếng lóng khu Cockney cho từ “balls” – vừa có nghĩa là “bi”, vừa có nghĩa là chuyện vớ vẩn.
Vô số câu chuyện rùng rợn về những người bị giết chết, rồi được cứu sống, được giữ trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, bị biến thành nô lệ như zombie vẫn còn đến ngày nay ở những vùng khác nhau như Haiti, Nam Phi và Tây Ấn thuộc Pháp. Trong lúc những kẻ hoài nghi và người hâm mộ công việc của Davis vẫn tiếp tục xung đột, thì có tin đồn rằng ông ta đã bán thứ thuốc pha chế đó cho Michael Jackson, người sau đó đã ép buộc các vũ công của mình chà bột zombie lên da trước khi trình diễn “Thriller”, nhưng thông tin này hoàn toàn chưa được xác nhận.
GÓC MỌT SÁCH: Tetrodotoxin (TTX) ức chế các kênh natrium, thứ cho phép những thông điệp điện lan truyền dọc theo sợi trục thầ n kinh của các tế bào não. Nguyên nhân TTX là một loại độc tố nguy hiểm chính là nó ngăn chặn một thành phầ n cơ bản của mọi tế bào thầ n kinh đơn lẻ trong cơ thể và não bộ. Nếu bạn ăn một con cá nóc chưa được loại bỏ TTX một cách thỏa đáng thì xem như, game over. Đầ u tiên, môi và miệng của bạn bắ t đầ u cảm thấ y tê, cảm giác này sẽ sớm lan ra mặt và tứ chi. Tiếp theo là tê liệt các khu vực cơ thể khác, bao gồm các cơ quan quan trọng như tim và phổi, và cái chết sẽ đến sau 6 đến 8 giờ. Thật kinh khủng! Ngay cả như vậy thì đối với các nhà sinh học thầ n kinh, đây vẫn là một công cụ vô giá, có tiềm năng y học lớn lao như một loại thuốc gây mê và cũ ng có thể giảm đau.
Đối với loài người, có rất ít thứ đáng sợ hơn ý tưởng về zombie: những sinh vật được mang lên từ dưới mộ để tấn công chúng ta, ăn thịt chúng ta, và biến chúng ta thành những sinh vật vô tri giống như chúng. Nhưng phần còn lại của vương quốc động vật thì sao – có chăng những con zombie ngoài đời thực ẩn nấp giữa bầy chim và những con ong?
Vương quốc zombie
Nhắc đến từ “zombie”, và Quái vật Frankenstein, bộ phim Shaun of the Dead (Giữa bầy xác sống) của Simon Pegg, hay thậm chí là nhóm The Cranberries (nhớ bài hát đó chứ?) có thể hiện ra trong đầu bạn. Nhưng sau khi đọc xong phần này, bạn có thể bắt đầu nghĩ đến những con vật đáng sợ khác, bởi vì theo ngôn ngữ khoa học, zombie tồn tại xung quanh chúng ta: chúng chỉ ngẫu nhiên có vẻ ngoài rất khác so với những gì chúng ta tưởng tượng.
Chuyên gia về zombie (một chức danh mà chúng tôi rất thèm muốn) Frank Swain đã đồng ý để chúng tôi phỏng vấn cho mùa Halloween đặc biệt trên kênh podcast Geek Chic Weird Science. Ông nói rằng trong khi những chuyên gia điện ảnh có thể coi zombie là những kẻ ăn thịt, là xác sống, thì đối với các nhà khoa học, thực tế lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Trong nhiều bài báo khoa học, thuật ngữ “zombie” được sử dụng – dù hơi bông đùa – cho bất kỳ sinh vật nào có hành vi bị thay đổi hoặc bị kiểm soát bởi một sinh vật khác.
Có bao nhiêu sinh vật đoạt não vật chủ? Hóa ra khá là ít! Các loài ký sinh dưới nhiều hình thức khác nhau tìm cách xâm nhập vào cơ thể của các sinh vật khác, và sửa sang ngôi nhà mới của chúng thành một môi trường phù hợp hơn với nhu cầu bản thân. Cũng gần giống việc một vị khách không mời nhảy vào phòng khách nhà bạn, sắp xếp lại đồ đạc, không chịu rời đi, và rồi chiếm luôn tâm trí của bạn. Đại loại vậy.
Những kẻ ngây thơ đáng thương bị biến thành nạn nhân của kẻ-tạo-zombie có thể là những sinh vật sống, hoặc thậm chí, sốc nhất, là con người – nổi trống lên nào “thùng thùng THÙNG”.
Dưới đây là một vài ví dụ yêu thích của chúng tôi và Frank Swain: Tò vò ngọc lục bảo
Loài quái vật nhỏ đê tiện này kiểm soát gián bằng cách đâm cái vòi chích của nó vào sâu trong não của gián. Con gián sau đó trở nên rất ôn hòa, và dễ dàng bị ép buộc, không cho thấy động thái chạy trốn, cũng không quan tâm gì nhiều đến các chuyện khác.
Có một chút thông minh pha lẫn hèn hạ: quá trình zombie-hóa này cho phép tò vò dẫn dụ gián đến một nơi yên tĩnh, đẻ trứng lên nó, và rồi che phủ nó giữa những viên cuội nhỏ. Con gián có vẻ khá hạnh phúc trong trạng thái yên bình, nửa mê nửa tỉnh, nhưng cùng lúc đó, tất cả những điều nghiệt ngã bắt đầu xảy đến. Trứng nở, ấu trùng đào hang bên trong cơ thể con gián, và bắt đầu ăn thịt nó – từ trong ra ngoài. Đồ ăn ngon tuyệt! Sau cùng, tò vò con làm nổ tung con gián theo kiểu người ngoài hành tinh khi đã trưởng thành, mập mạp, hạnh phúc, no nê. Con gián, dĩ nhiên, bị ăn sống và đã chết đi. Thật đúng là một cách hay để cảm ơn vị chủ nhà tử tế vì bữa ăn hào phóng.
GÓC MỌT SÁCH: Ký sinh trùng thậm chí không cầ n vào bên trong não của vật chủ để tạo ra những thay đổi trong hành vi mà chúng mong muốn, miễn là chúng có thể làm nhiễm độc tế bào thầ n kinh ở các bộ phận cơ thể khác. Việc này có thể kích hoạt phản ứng miễn dịch trong hệ thống thầ n kinh trung ương, do đó có thể thay đổi tín hiệu thầ n kinh và nội tiết tố để tác động lên hành vi của vật chủ theo cách có lợi cho ký sinh trùng.
Nấm zombie
Những con kiến tội nghiệp. Không chỉ phải đối mặt với những ngón tay đập côn trùng của bọn trẻ chập chững và luồng ánh sáng mặt trời hội tụ qua kính lúp của những cậu bé nghịch ngợm – còn chưa đề cập đến các loài động vật ăn thịt thông thường – bây giờ chúng còn phải cẩn thận tránh bị nấm biến thành zombie.
Nếu một bào tử của loài nấm nhiệt đới Ophiocordyceps unilateralis chạm vào một con kiến, mọi thứ sẽ rất, rất nhanh biến thành sự chết chóc với con vật nhỏ bé. Bào tử nảy mầm, xâm nhập vào bên trong cơ thể kiến thông qua các lỗ nhỏ trên khung xương ngoài của nó. Nấm xem đó như nhà của mình, phát triển và mở rộng các sợi tua, rồi chiếm lấy nhiều mô mềm của kiến. Khủng khiếp nhất là nấm chiếm lấy phần thịt của con kiến, nhưng chừa lại các cơ quan quan trọng, giữ cho kiến sống lâu nhất có thể, trong lúc từ từ phá hủy nội tạng của nó. Thế mà chúng ta từng nghĩ Hannibal Lecter là kẻ thâm độc nhất.
Đến thời điểm nấm mọc lên và tạo ra các bào tử của riêng mình, các nhánh sợi dài của nó cuối cùng cũng đâm vào não kiến, đầu độc nó, sau rốt hoàn toàn chiếm lấy nó. Lúc này, con kiến là cỗ quan tài biết đi của chính mình. Và, không theo ý muốn của bản thân, nó rời đàn, leo lên cây, và sau đó – kỳ quặc là luôn vào buổi trưa – tự kẹp mình trên một chiếc lá, trước khi bụp!, các bào tử nấm mới xổ ra từ trên đầu, bay đi để biến những con kiến ngây thơ khác thành zombie.
GÓC HỢP THỜI: Một danh sách các quốc gia an toàn nhấ t trong đợt bùng phát zombie (dựa trên các tiêu chí như dân số, sự hiện diện của cảnh sát và địa hình) đã được công bố. Australia đứng đầ u danh sách, tiếp theo là Canada, Hoa Kỳ , Nga và Kazakhstan.
Giun tóc
Bạn nghĩ rằng chú dế Jiminy Cricket đã an toàn trước hiểm họa zombie hóa? Không đâu, trong khi loài giun tóc vẫn còn!
Loài giun ký sinh nhỏ xíu này chui vào cơ thể châu chấu hoặc dế, và bơm đầy nó bằng một loại cocktail hóa chất. Các protein mà giun tóc nhả ra phá hoại hệ thống thần kinh trung ương của vật chủ, tẩy não nó một cách hiệu quả, và buộc nó phải tự sát – bằng cách nhảy xuống một vũng nước, con suối, hoặc cái ao gần nhất. Jiminy tội nghiệp bị chết đuối, trong khi giun tóc – cần có nước để sinh sản – phát triển mạnh, ăn thịt luôn vật chủ cho đến khi con cái của nó sẵn sàng nổi lên.
Đó chỉ là một số ví dụ điển hình và ghê rợn về côn trùng bị đoạt não, và rồi tới điểm quan trọng: loài người chúng ta thì sao?
Con người
Theo Frank Swain, luôn có khả năng chúng ta bị kiểm soát. Bạn đã bao giờ bị giun chưa? KHÔNG SAO ĐÂU, bạn không đơn độc, không cần phải ngại ngùng! Nếu đã từng bị, bạn sẽ biết rõ rằng một trong những triệu chứng của giun là ngứa ở mông. Tuy không muốn gãi, nhưng bạn cảm thấy mình bị ép buộc, và khi làm vậy, bạn chạm vào những con giun và trứng của chúng, giúp lây lan chúng ra xung quanh đến những vật chủ tiềm năng khác. Đó là một ví dụ kinh điển về ký sinh trùng khiến chúng ta làm điều gì đó giúp chúng phát triển mạnh; và chúng ta chẳng thể nói gì về vấn đề đó. Một số vi sinh vật khác cũng ảnh hưởng đến tâm trí của con người, thậm chí có thể ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của chúng ta – có nhớ loài Toxoplasma gondii và mối liên hệ có thể có với bệnh tâm thần phân liệt không?
Có rất nhiều sinh vật và con người ở giữa chúng ta (thậm chí có thể là chính chúng ta!) sống một cách hạnh phúc mà không hề hay biết về một loại ký sinh trùng ở sâu bên trong cơ thể, theo một cách nào đó, chiếm quyền kiểm soát suy nghĩ hoặc hành động của mình. Họ có thể không xuất hiện trong hình dạng như các nguyên mẫu của phim kinh dị cổ điển mà chúng ta biết tới và sợ hãi, nhưng, trong suy nghĩ của nhiều nhà khoa học, zombie chắc chắn ở lẫn trong số chúng ta.
GÓC HỢP THỜI: Một “file bí mật” có tên “CONOP 8888” đã được phát hiện trong mạng lưới máy tính của Lầ u Năm Góc, tiết lộ kế hoạch sinh tồn trong trường hợp zombie bùng phát. File chi tiết – mà Lầ u Năm Góc sau đó công bố, không khác gì một bài tập huấ n luyện nhẹ nhàng – liệt kê các mối đe dọa zombie có thể xảy ra bao gồm: zombie phóng xạ, zombie gây bệnh, zombie ma quỷ và thậm chí cả zombie gà (đó chính xác là điều được nói đến: gà biến thành zombie). Kế hoạch này bao gồm các lệnh “tiêu diệt tấ t cả những loài không phải là con người trong tầm nhìn” và “nhắm vào tấ t cả các cơ thể chính và chống lại các vật chủ có tác dụng lây lan zombie”.
Bất kỳ cuốn sách hoặc phim kinh dị hay nào cũng đưa ra cảnh báo rộng rãi để chúng ta sợ hãi zombie, nhưng ở đây có ai thấy sợ quần jeans ống bó không? Hóa ra có thể bạn đang có một thứ đáng sợ lảng vảng trong tủ quần áo…
Chiếc quần jean ống bó có thể giết chết bạn không?
Nghe có vẻ như cơn ác mộng của dân hippie, nhưng vào năm 2015, các bác sĩ đã thực sự báo cáo rằng quần jeans ống bó có thể tạo ra mối đe dọa cho cuộc sống và chân tay của bạn. Và, không – chúng tôi không nói tới Cuộc Báo thù của Quân đoàn Sát thủ Vải Jeans, với quân đội là những zombie đồ jeans điên cuồng đang hiên ngang đi lại trên đường phố và giết hại những người vô tội. Chúng tôi đang nói về một nghiên cứu trong tạp chí y khoa đích thực, tiết lộ rằng mặc quần jeans ống bó có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe của bạn, và trong kịch bản xấu nhất, có thể gây tử vong.
Mọi chuyện sáng tỏ khi một phụ nữ Australia 35 tuổi ngã quỵ sau khi mặc chiếc quần jeans ống bó trong lúc giúp bạn chuyển nhà (ai đó đã nói rằng hành động tốt thì không bị trừng phạt?*). Cô ấy đã ngồi xổm suốt thời gian dài, có lẽ là trong khi giúp bạn mình đóng gói hành lý và chuyển chúng ra xe tải. Điều này, kết hợp với sự bó chặt của chiếc quần, nghĩa là cô ấy đã gây tổn thương nghiêm trọng tới các mô cơ ở bắp chân cũng như các sợi thần kinh gửi thông điệp điện đến và đi từ các cơ dưới đầu gối. Cô ấy đã cắt đứt nguồn cung cấp máu đến cơ ở bắp chân, và gây sưng tấy
nghiêm trọng đến mức hai trong số các dây thần kinh chính điều khiển các cơ ở cẳng chân của cô bị nén lại, và bị rối loạn chức năng.
* – Tác giả dùng thành ngữ No good deed goes unpunished, mang nghĩa là cuộc đời bất công, người tốt làm việc tốt vẫn gặp xui xẻo, trả giá – ND.
Trên đường về nhà sau buổi chiều hôm đó, bàn chân và đặc biệt là mắt cá chân của cô đơn giản là ngừng hoạt động bình thường, và cô bị ngã – bị tê liệt tạm thời. Phải mất vài giờ để cô ấy lê mình sang một bên đường, rồi vẫy tay ra hiệu với một chiếc xe, và cuối cùng cô phải nằm viện bốn ngày. Nhân viên y tế cho biết nếu điều trị trễ hơn chút nữa, cô ấy có thể đã bị “tổn thương thần kinh vĩnh viễn [ảnh hưởng đến khả năng đi lại], và tổn thương cơ có thể dẫn đến tổn thương thận”.
GÓC HỢP THỜI: Quầ n jeans ống bó đã bị buộc tội gây ra tấ t cả các loại bệnh bao gồm: xoắ n tinh hoàn, ợ nóng, vô sinh, và khiến bạn trông giống một kẻ màu mè thô kệch.
Bạn đang thắc mắc làm cách nào tổn thương cơ có thể dẫn đến các vấn đề về thận? Chà, khi mô cơ bắt đầu chết, nó giải phóng một lượng lớn protein có thể gây hại cho thận – một phần lý do khiến người phụ nữ ấy nằm viện quá lâu là để cô ấy được truyền nhỏ giọt tĩnh mạch, nhằm loại bỏ các protein dư thừa ra khỏi cơ thể. Nếu quỵ ngã ở vị trí xa hơn tính từ con đường gần nhất, cô có thể không còn đủ sức lực để lê mình đến làn đi của người đã cứu cô, và có thể chết vì nhiễm độc.
GÓC HỢP THỜI: Quầ n jeans bị cấ m ở một số trường học, nhà hàng và nhà hát trong những năm 1950 vì chúng được coi là một dấ u hiệu của sự nổi loạn. James Dean gầ n như chắ c chắ n đã giúp quảng bá hình ảnh đó khi anh ta mặc quầ n jeans trong bộ phim Rebel Without A Cident (Nổi loạn vô cớ). Nhưng ngày nay, nhà nhân loại học Daniel Miller cho rằ ng hơn một nửa dân số thế giới mặc quầ n jeans, trong hầ u như tấ t cả các nền văn hóa được biết đến.
Vậy là chúng ta đã có: một trường hợp thực tế về chuyện quần jeans ống bó chật khít của một người phụ nữ gần như khiến cô ấy chết yểu, nhưng những người mang quần jeans ống bó còn lại trong chúng ta thì sao? Phân nửa các ban nhạc ở Camden, London (và một trong hai tác giả) cần phải vứt bỏ nửa tủ quần áo của mình chăng? Không hẳn! Lời khuyên của chúng tôi đơn giản thế này: hãy dùng cái đầu của bạn! Nếu đang sắp nghiêm túc
tập luyện các bài squat, nâng vật nặng hoặc cả hai, bạn nên cẩn trọng xem xét lựa chọn chiếc quần rộng rãi hơn. Hãy giữ lại quần ống bó để dùng khi bạn muốn tạo ấn tượng tốt nhất theo kiểu nhóm The Ramones.
Hóa ra thế giới lại thực sự có thể là một nơi đáng sợ, với tất cả những kẻ thái nhân cách, quần jeans ống bó, zombie và những con mèo gây rối loạn tâm thần được thả rông. Nhưng chính bản thân nỗi sợ có thể thực sự giết chết bạn không?
Liệu bạn có thể chết do sợ hãi không?
Tất cả chúng ta đều đã hơn một lần nói điều đó, phải vậy không? Có thể trên tàu lượn siêu tốc, sau khi xem một bộ phim kinh dị, hoặc khi một người bạn nhảy ra hù bạn từ một góc tối:
Sợ chết mất!
Nhưng có sự thật nào đằng sau câu ngạn ngữ cũ xì này không? Có thể sợ hãi đến mức chúng ta thực sự chết không?
Câu trả lời ngắn gọn là: có. Mặc dù – phải nói nhanh trước khi điều này trở thành một lời tiên tri kỳ lạ tự-ứng-nghiệm, và khiến bạn sợ đến chết vì sự thật đó – nó phụ thuộc vào mức độ cường tráng và khỏe khoắn của bản thân và trái tim của bạn, hoặc là không.
Đó là tất cả những gì xảy ra với thứ được gọi là “phản ứng đánh hay tránh”, là phương thức bản năng bảo vệ chúng ta bằng cách giải phóng một liều adrenaline và noradrenaline toàn năng để đối phó với một mối đe dọa tiềm tàng. Sự gia tăng các chất này trong hệ thần kinh và máu là một phản ứng tự động trước những thứ mà chúng ta cho là có thể gây hại. Nó khiến hơi thở trở nên gấp gáp, tim đập nhanh hơn, gan giải phóng đường dự trữ, da trở nên nhợt nhạt, và chúng ta cảm thấy đau nhói trong bụng. Tại sao vậy? Bởi vì tất cả lượng máu đáng yêu giàu glucose và oxygen được hướng ra khỏi các cơ quan nội tạng không hỗ trợ chúng ta trong trường hợp khẩn cấp (như dạ dày và da), và được đẩy sang những cơ quan hỗ trợ là cơ bắp và bộ não – vì vậy chúng ta có thể chạy nước rút, hoặc đứng lại và tung ra những cú đấm.
"""