"
Những Cái Bóng Sống PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Cái Bóng Sống PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Những cái bóng sống
Tác giả: Cornelia Funke
Phát hành: Nhã Nam
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2016 —★—
Mọt Truyện Group
Vui lòng quét mã QR để truy cập
Dành tặng Ben, nguồn cảm hứng cho tôi sáng tạo nên Jacob và Will.
Tặng Paula, người luôn bên cạnh ủng hộ tôi.
1
CHỜ ĐỢI
A
nh vẫn chưa trở lại.
Anh sẽ không ở lại đó lâu. Cáo lau nước mưa trên mặt. Với Jacob, câu này chỉ có ý nghĩa tương đối. Đôi khi anh ở lại đó hằng tuần. Đôi khi hằng tháng.
Khu thành cổ đổ nát vẫn nằm đó, hoang tàn như mọi khi, và sự tĩnh lặng giữa những bức tường cháy sém làm cô thấy lạnh lẽo không kém những hạt mưa ngoài kia. Làn da con người chẳng thể giữ ấm nhiều cho cô, dù vậy cô vẫn ngày càng ít khoác lên mình bộ lông cáo. Cô cảm nhận quá rõ bộ lông ấy đã bào mòn những năm tháng thanh xuân của mình như thế nào - thậm chí không cần Jacob phải nhắc nhở.
Anh ôm siết cô vào lòng trước lúc ra đi, như thể anh muốn
mang hơi ấm của cô trở về thế giới nơi mình sinh ra. Có điều gì đó làm anh sợ hãi, nhưng vốn dĩ anh chẳng bao giờ thừa nhận. Anh vẫn như một cậu bé con, luôn ngây thơ tin rằng có thể chạy thoát khỏi cái bóng của chính mình.
Họ đang trên hành trình lên phương Bắc, đến Sveriga và Norga, nơi những cánh rừng vẫn còn ngập tuyết và cái đói xua hàng đàn sói nhằm về các thành phố. Trước đó họ đã đi rất xa xuống phía Nam, đến nỗi bây giờ đây cô vẫn còn cảm thấy những hạt cát sa mạc bám trên bộ lông cáo. Hàng ngàn dặm... qua những thành thị và những miền quê mà cô chưa từng nghe tên, qua tất cả những nơi chốn ấy, để tìm một chiếc đồng hồ cát. Nhưng Cáo hiểu Jacob quá rõ để có thể tin vào điều đó.
Dưới chân cô, những bông anh thảo dại đầu tiên đã xuyên lên giữa đá phiến nứt vỡ. Cô ngắt một cành mềm, giọt sương lấp lánh vương trên nụ hoa vẫn còn lạnh buốt. Đó là một mùa đông rất dài, và những tháng đông giá đã qua còn để lại cảm giác băng lạnh trên làn da Cáo. Rất nhiều thứ đã xảy ra kể từ mùa hè trước. Nỗi lo lắng cho đứa em trai của Jacob... và cho anh nữa. Quá nhiều sợ hãi. Quá nhiều yêu thương. Tất cả đều quá nhiều.
Cô ấp nhẹ một bông hoa vàng vào trong ve áo. Đôi bàn tay... chúng bù đắp cho cái lạnh giá mà cơ thể người của cô phải chịu đựng. Khi khoác trên mình bộ lông cáo, Cáo nhớ da diết cảm giác được cảm nhận thế giới này dưới những ngón tay.
Anh sẽ không ở lại đó lâu.
Nhanh như chớp, cô tóm được một tên quỷ lùn[*] đang cố thò bàn tay bé tí xíu vào túi áo khoác cô. Hắn chỉ chịu bỏ lại đồng tiền
vàng khi bị cô lắc mạnh, theo cách một con cáo lắc con chuột nhắt. Tên trộm nhỏ cắn phập vào tay cô trước khi chạy bắn đi, miệng lầm bầm nguyền rủa. Jacob luôn nhét một vài đồng tiền vàng vào túi xách cho cô trước khi anh rời đi. Anh vẫn chưa quen với sự thật rằng giờ đây cô đã có thể hòa nhập vào thế giới loài người - thậm chí không cần anh bên cạnh.
Anh sợ hãi điều gì?
Cáo đã từng hỏi anh câu ấy, sau nhiều ngày cùng lang thang từ làng quê nghèo này đến làng quê nghèo khác, để rồi cuối cùng thấy mình đứng dưới gốc cây lựu chết khô của một vị Sultan[*] đã qua đời. Cô lại hỏi Jacob lần nữa, khi anh uống say khướt ba đêm liên tiếp sau khi bọn họ chỉ tìm thấy một giếng nước cạn khô trong khu vườn um tùm cỏ dại. “Không có gì. Em đừng lo lắng.” Một nụ hôn phớt trên má, và nụ cười mỉm vô tư mà cô đã thấu hiểu từ năm mười hai tuổi. “Không có gì…”
Cô biết anh nhớ cậu em trai, nhưng dường như vẫn còn điều gì đó khác nữa. Cáo nhìn lên ngọn tháp trong khu thành cổ hoang tàn. Những phiến đá ám đen thì thầm một cái tên. Clara. Lẽ nào là như thế?
Tim cô vẫn thắt lại mỗi khi nghĩ đến dòng suối nhỏ phơi xác đôi sơn ca. Jacob lùa tay vào tóc Clara, môi anh áp trên môi cô. Khao khát.
Có lẽ đó là lý do cô suýt thì cùng đi với anh. Cô thậm chí đã theo chân Jacob lên tháp, nhưng rồi không còn chút can đảm nào khi đứng trước tấm gương đó. Tấm gương như một mặt băng tăm tối khiến trái tim cô đông cứng.
Cáo xoay lưng về phía ngọn tháp. Jacob nhất định sẽ trở lại. Anh luôn trở lại.
2
THẾ GIỚI PHÍA BÊN KIA
H
ội trường buổi đấu giá nằm trên tầng ba mươi. Những bức tường ốp gỗ, một tá dãy ghế, gã canh cửa cười bâng quơ đánh dấu những cái tên trên bản danh sách đăng ký. Jacob cầm
cuốn catalog gã đưa rồi bước tới đứng bên cửa sổ. Những tòa nhà chọc trời chen chúc vươn lên như cánh rừng, phía sau là Hồ Lớn lấp loáng ánh bạc như gương.
Anh mới từ New York đến Chicago sáng nay, đoạn đường mà anh lẽ ra phải mất hàng tuần nếu đi bằng xe ngựa. Dưới chân anh, ánh nắng phản chiếu lấp lánh trên các tường kính và những mái nhà dát vàng. Thế giới này cũng tươi đẹp hệt như thế giới sau gương, vậy mà giờ đây Jacob cảm thấy nhớ nhà.
Anh ngồi xuống ghế, quan sát người xung quanh. Rất nhiều
khuôn mặt quen thuộc: những tay buôn đồ cổ, các quản lý viện bảo tàng, các nhà sưu tập nghệ thuật. Giống như anh, bọn họ đều săn lùng báu vật, cho dù mọi báu vật trong thế giới này không có phép màu nào khác ngoài dấu ấn thời gian và vẻ đẹp.
Cái chai mà Jacob đã theo dấu đến tận nơi này được giới thiệu trong cuốn catalog, nằm giữa chiếc ấm trà của một hoàng đế Trung Hoa và cái lục lạc bằng bạc của một hoàng tử Anh quốc. Vẻ ngoài của nó chẳng lấy gì làm nổi bật, đủ để Jacob hy vọng rằng nó sẽ không lọt vào mắt xanh bất cứ một tay đấu giá nào. Lớp bao da đã sờn bảo vệ thủy tinh sẫm màu bên trong, một con dấu bằng sáp đóng trên cổ bình.
“Xuất xứ: Scandinavi, đầu thế kỷ 13,” dòng chú thích dưới ảnh tiết lộ. Đó chính xác là những gì Jacob đã giới thiệu về cái chai, khi anh bán nó cho một tay buôn đồ cổ ở London. Lúc ấy Jacob nghĩ rằng sẽ thật hài hước nếu làm cho kẻ đang trú ngụ trong chai trở nên vô hại bằng cách này. Trong thế giới sau tấm gương, tự do cho hắn sẽ là nguy hiểm chết người, nhưng trong thế giới này, hắn vô hại như không khí bị nút kín trong chai. Hắn không là gì sau lớp thủy tinh nâu sẫm.
Cái chai đã qua tay nhiều chủ nhân kể từ khi bị Jacob bán đi. Anh mất ròng rã gần tháng trời truy tìm lại dấu vết của nó. Thời gian, anh không có nhiều. Quả táo quyền năng chữa lành mọi vết thương, giếng nước tuổi trẻ vĩnh hằng... anh đã phung phí nhiều tháng trời để tìm kiếm những thứ sai lầm. Cái chết vẫn ngày ngày giăng tổ trên ngực anh. Đã đến lúc phải thử một liều thuốc nguy hiểm hơn.
Con bướm ma in dấu trên ngực trái anh mỗi ngày một đậm nét hơn: con dấu của bản án tử hình mà Hắc Tiên đã tuyên cho kẻ nào dám nói ra tên nàng. Em gái nàng đã thì thầm cái tên đó vào tai Jacob giữa hai nụ hôn họ trao nhau. Bản án tử ngọt ngào nhất. Tình yêu bị phản bội... Màu đỏ máu viền quanh dấu con bướm ma nhắc nhớ tội trạng mà vì nó anh phải chết.
Một phụ nữ mỉm cười với Jacob từ hàng ghế đầu tiên, đó là người nhiều năm về trước anh đã bán một bình đựng rượu tuyệt đẹp bằng thủy tinh màu (mà bà ta tưởng là thủy tinh Ba Tư). Trước đây Jacob từng mang rất nhiều thứ từ bên kia gương trở về, để trang trải học phí cho Will và thuốc thang cho mẹ. Không khách hàng nào ngờ nổi anh bán cho họ những phẩm vật mang về từ một thế giới khác.
Jacob liếc đồng hồ và nôn nóng ngước nhìn người chủ trì cuộc đấu giá. Sắp đến lúc rồi. Thời gian đã mất. Anh không đếm được mình đã mất bao nhiêu thời gian. Nửa năm, hay có lẽ ít hơn....
Cái ấm trà của hoàng đế Trung Hoa được bán với mức giá cao nực cười, nhưng cái chai, như mong đợi, không mấy gây hào hứng khi được đặt lên bàn đấu giá. Giữa lúc Jacob khá chắc chắn rằng mình là người duy nhất trả giá cho cái chai, thì ở phía sau anh vài hàng ghế, một cánh tay giơ lên.
Người vừa giơ tay có vóc dáng thanh mảnh như một đứa trẻ. Chiếc nhẫn kim cương trên ngón tay ngắn ngủn của hắn giá trị bằng toàn bộ các món được mang ra đấu giá ở đây cộng lại. Mái tóc ngắn đen sì như lông quạ đối lập với khuôn mặt già nua. Nụ cười mỉm của hắn dành cho Jacob dường như ngụ ý rằng hắn ta
biết điều gì đó.
Vô ích thôi, Jacob.
Jacob đã đổi hẳn một vốc lớn tiền vàng để đến buổi đấu giá này. Bó tiền mà anh đổi được xem chừng quá đủ. Nói cho cùng thì anh chẳng kiếm được nhiều lúc bán cái chai. Dù vậy, mỗi lần anh nâng mức giá tay lạ mặt kia cũng giơ cao tay, và Jacob thấy tim anh mỗi lúc một đập dồn trong cơn giận dữ, khi người chủ trì xướng lên giá mới. Tiếng xì xầm vang khắp khán phòng khi giá đã vượt qua mức bán chiếc ấm của hoàng đế Trung Hoa. Một tay đấu giá khác nhảy vào, và mức giá ngày càng leo thang.
Từ bỏ đi, Jacob!
Sau đó thì sao? Anh không biết mình nên tìm kiếm điều gì nữa, cả trong thế giới này lẫn trong thế giới bên kia gương. Ngón tay anh bất giác chạm nhẹ vào tấm khăn Vàng-ơi-rơi-ra trong túi, nhưng ở đây phép mầu của nó cũng vô hiệu như phép màu đang bị giam cầm trong cái chai kia. Đừng bận tâm, Jacob. Đến khi họ nhận ra người không đủ tiền để trả, người đã thoát thân sang thế giới bên kia gương lâu rồi.
Anh giơ tay lần nữa, dù mức giá người chủ trì vừa xướng lên khiến anh buồn nôn. Anh quay sang nhìn đối thủ. Đôi mắt nhìn lại anh xanh như màu cỏ mới cắt. Hắn chỉnh cà vạt, mỉm cười với Jacob lần nữa - rồi hạ bàn tay đeo nhẫn xuống
Tiếng búa của người chủ trì vang lên, và Jacob choáng váng đầu óc bởi gánh nặng được trút bỏ, tìm đường bước tới giữa những hàng ghế. Ở hàng đầu tiên một nhà sưu tập trả mười ngàn đô la cho chiếc lục lạc bạc. Báu vật, ở cả hai thế giới.
Người thu ngân mồ hôi đầm đìa trong chiếc áo khoác đen, thoa quá nhiều phấn bột trên làn da nhão.
Jacob nở nụ cười thân thiện nhất và đẩy mớ tiền về phía cô ta. “Tôi hy vọng số tiền này đủ để đặt cọc chứ, thưa cô?” Anh đặt thêm ba đồng vàng xuống. Dĩ nhiên là ở thế giới này, những đồng vàng cũng được ưa chuộng không kém. Hầu hết những người tham gia đấu giá đều nghĩ anh bị điên, không hiểu giá trị của những đồng tiền cổ, và với những kẻ tò mò về hình nữ hoàng trên đồng tiền vàng, anh cũng chuẩn bị sẵn một câu chuyện phiêu lưu để kể. Nhưng cô gái thu ngân ném một cái nhìn đầy nghi ngờ về phía những đồng vàng và gọi một trong những người chủ trì đấu giá đến giúp đỡ.
Cái chai chỉ còn cách Jacob khoảng hai bước chân, nằm giữa những món đồ đã được trả giá cao ngất khác. Kể cả từ khoảng cách gần như thế này cũng khó đoán biết được đằng sau lớp thủy tinh sẫm màu kia là gì. Trong một thoáng Jacob đã muốn bất chấp đám gác cửa để mang chiến lợi phẩm đi, nhưng một tiếng đẳng hằng nhỏ cắt đứt ngay dòng suy nghĩ viển vông của anh.
“Những đồng vàng hết sức thú vị, thưa ông... Xin hỏi quý danh của ông là...”
Gã mắt xanh. Gã chỉ đứng tới vai Jacob. Tai bên trái của gã đeo một hạt ruby nhỏ xíu.
“Reckless. Jacob Reckless.”
“À vâng.” Kẻ lạ mặt cho tay vào trong chiếc áo vest được cắt may khéo léo của hắn và mỉm cười với người chủ trì buổi đấu giá. “Tôi đảm bảo cho ông Reckless đây,” hắn nói, đồng thời đưa danh
thiếp của mình cho Jacob. Giọng gã khàn khàn, âm vực mỏng nhẹ khiến Jacob nghe không rõ.
Người chủ trì buổi đấu giá gật đầu, tỏ vẻ kính trọng. “Xin theo ý ngài, thưa ngài Earlking.” Ông ta nhìn Jacob dò hỏi. “Cái chai sẽ được gửi đến đâu, thưa ông?”
“Tôi sẽ mang nó theo!”
“Dĩ nhiên rồi.” Earlking mỉm cười. “Nó đã ở sai chỗ quá lâu rồi, không phải sao?”
Gã đàn ông nhỏ thó cúi chào trước khi Jacob kịp trả lời. “Chào em trai cậu hộ tôi nhé,” gã nói. “Tôi biết em trai và mẹ cậu khá rõ.” Rồi gã quay lưng đi và biến vào trong đám đông ăn vận đẹp đẽ.
Jacob liếc nhìn tấm danh thiếp trong tay. Norebo Johann Earlking. Không thêm thông tin nào khác.
Người chủ trì buổi đấu giá trao cho anh cái chai.
3
ÁC MA
T
hế giới phía bên kia. Tay nhân viên an ninh ở sân bay kiểm tra cái chai rất kỹ, đến mức Jacob chắc hẳn đã chĩa súng vào ngực áo đồng phục của gã, nếu anh đang ở thế giới sau gương.
Chuyến bay chở anh hạ cánh muộn ở New York, và taxi kẹt cứng trong dòng xe cộ ban đêm, khiến Jacob ước gì mình đang ngồi trong một chiếc xe ngựa băng qua những con đường ngái ngủ của Schwanstein. Ánh trăng chiếu xuống vũng nước tù đọng bẩn thỉu trước khu chung cư cũ kỹ, trên bức tường gạch ngay lối vào là những khuôn mặt đá xấu xí trừng trừng nhìn xuống, ngày bé Will rất sợ chúng, cậu luôn cúi đầu bước thật nhanh mỗi khi qua cổng. Từ đó đến nay khí thải đã tàn phá rất nặng nề, khiến giờ đây chúng
gần như lẫn vào rất khó phân biệt giữa đám dây leo bám quanh trên tường.
Dù vậy Jacob vẫn cảm thấy cái nhìn chằm chằm của những khuôn mặt kia rõ ràng hơn bao giờ hết khi anh bước lên các bậc thang dẫn đến cánh cửa ở lối vào, và không nghi ngờ gì em trai anh cũng sẽ cảm thấy hệt như vậy. Từ khi làn da của Will dần hóa đá, những khuôn mặt méo mó này mang đến một nỗi sợ hoàn toàn mới.
Người gác cửa bên lối vào vẫn là ông gác ngày xưa thường túm cổ hai thằng nhóc Jacob và Will lôi ra khỏi thang máy vì thói nghịch ngợm ưa bấm thang chạy lên chạy xuống nhiều lần. Ông Tomkins. Ông đã già đi và béo hơn. Trên quầy nơi ông giữ các bưu phẩm vẫn là lọ thủy tinh đầy kẹo mà ông hay dùng để dỗ hai anh em làm những việc vặt cho mình. Có lần Jacob đã thuyết phục được Will tin rằng ông Tomkins là kẻ ăn thịt người, và nhiều ngày liền em trai anh không chịu đến trường mẫu giáo vì sợ hãi khi đi qua chỗ người gác cửa.
Thời gian trôi đi. Nó giăng tổ ở mọi ngóc ngách trong tòa nhà cũ. Phía sau hàng cột trong tiền sảnh, nơi Will và anh hay chơi trốn tìm, trong hành lang, nơi khung cửa tò vò tối đen anh lần đầu chơi trò săn lùng kho báu (nhưng không thành công), hay trong thang máy bọc lưới sắt, tùy theo ý thích của hai đứa trẻ mà biến thành tàu vũ trụ hay cái chuồng của một mụ phù thủy. Thật lạ lùng khi viễn cảnh về cái chết của chính mình có thể gợi lại quá khứ - đột nhiên từng khoảnh khắc sống động hiển hiện và thì thầm: có lẽ đó là tất cả những gì ngươi nhận được, Jacob.
Cánh cửa thang máy vẫn kẹt khi người ta nhấn nút đi lên. Tầng bảy.
Will để lại lời nhắn cho anh ở cửa vào căn hộ. Bọn em ra ngoài mua sắm. Thức ăn trong tủ lạnh. Chào mừng anh trở về nhà! Will.
Jacob nhét mảnh giấy vào túi áo khoác trước khi đóng cửa lại. Anh đã trả giá bằng cả mạng sống của mình để được nghe lời chào mừng trở về này, và nếu phải trả giá thêm lần nữa anh vẫn sẽ không ngần ngại, để lại một lần nữa được cảm nhận rằng mình có một đứa em trai. Họ đã không còn gần gũi như trước, khi đêm nào Will cũng bò vào giường anh và vẫn tin rằng ông gác cửa thỉnh thoảng ăn thịt người. Tình yêu thật quá dễ mất đi, dễ dàng một cách khủng khiếp.
Bóng tối chờ đợi Jacob phía sau cánh cửa vừa xa lạ vừa thân thuộc. Will đã sơn lại hành lang, mùi sơn mới hòa quyện với mùi sơn cũ của tuổi thơ họ. Ngón tay anh lần tìm được công tắc đèn trong bóng tối. Đèn đã được thay mới, chiếc tủ có ngăn kéo cạnh cửa cũng thế. Tấm ảnh gia đình cũ không còn ở đó, lớp giấy dán tường phai bạc mà sau nhiều năm trời vẫn còn nhìn ra được dấu vết chỗ từng treo bức ảnh của cha họ, nay đã được thay màu sơn trắng.
Jacob đặt túi xuống sàn nhà lát gỗ.
Chào mừng trở về nhà.
Có thật anh đã trở về nhà, sau từng ấy năm khi mà tất cả những gì anh muốn tìm kiếm ở đây là tấm gương. Một bình hoa
hồng vàng đặt trên nóc tủ. Dấu hiệu của Clara. Viễn cảnh gặp lại cô làm anh lo lắng, từ trước khi anh trở về từ bên kia gương. Anh không rõ trái tim anh đập loạn nhịp chỉ vì những kỷ niệm, hay nước suối sơn ca vẫn còn tác dụng. Dù thế nào thì mọi sự rồi cũng ổn. Thật tốt khi gặp lại cô và Will, trong thế giới này, thế giới mà từ lâu anh đã không còn thuộc về. Rõ ràng cô không muốn kể cho Will nghe câu chuyện về suối sơn ca.
Nhưng Jacob vẫn cảm thấy những ký ức chung đã kết nối họ với nhau, như thể họ đã cùng lạc lối trong rừng, và cùng nhau, họ đã tìm được đường về.
Căn phòng của mẹ anh được Will gần như giữ nguyên, phòng làm việc của cha cũng thế. Jacob khẽ mở cửa. Cạnh giường là mấy thùng gỗ đựng sách của Will, tấm ảnh gia đình trước đây treo trong hành lang giờ dựa vào tường bên dưới cửa sổ.
Căn phòng vẫn vương mùi hương của mẹ. Tấm khăn trải giường bà tự may ghép từ những mảnh vải nhỏ sắc màu sặc sỡ. Những mụn vải từng rải rác khắp trong nhà. Hoa lá, muông thú, nhà cửa, thuyền buồm, mặt trăng và những vì sao. Dù tấm khăn trải giường muốn kể điều gì về mẹ anh đi nữa, Jacob cũng không bao giờ đoán ra. Ba mẹ con vẫn thường ngồi trên tấm khăn trải giường ấy, khi bà đọc truyện cho hai anh em nghe. Ông của họ vẫn kể những câu chuyện cổ tích đã cùng ông lớn lên ở châu Âu, trong đó đầy những phù thủy và những nàng tiên - mà sau này Jacob đã gặp gỡ ở sau tấm gương. Còn chuyện của mẹ, dù vậy, lại là những câu chuyện Mỹ. “Kỵ sĩ không đầu”,“Johnny Hạt Táo”,
“Người anh sói”,“Bà tiên phép thuật” và “Người khổng lồ Seneca”. Jacob vẫn chưa khám phá ra dấu vết của những nhân vật ấy đằng sau tấm gương, nhưng anh tin họ vẫn tồn tại - như những nhân vật cổ tích của ông mình.
Trên chiếc bàn cạnh đầu giường của mẹ là bức ảnh chụp bà, anh và Will trong công viên. Nom bà hạnh phúc rạng rỡ. Và rất trẻ. Cha anh chụp tấm ảnh đó. Khi ấy, hẳn ông đã khám phá ra thế giới sau gương.
Jacob lau bụi trên mặt kính. Rất trẻ. Và rất xinh đẹp. Cha anh đã tìm kiếm điều gì mà ông nghĩ mình sẽ không thể tìm thấy khi ở bên cạnh mẹ anh? Anh nhiều lần tự hỏi như thế khi còn là một đứa trẻ. Anh đã nghĩ mẹ hẳn đã làm sai điều gì đó - và oán giận. Oán giận vì sự yếu đuối của bà. Oán giận vì bà không thể ngừng yêu cha anh, vẫn chờ đợi ông trở về, bất chấp bao lý lẽ khôn ngoan hơn. Hay có lẽ bà chờ đợi đứa con trai lớn của mình một ngày nào đó sẽ tìm ra cha và mang ông trở lại? Chẳng phải anh đã tự vẽ vời ra viễn cảnh ấy trong tâm trí mình suốt những năm tháng đó sao? Rằng một ngày nào đó anh sẽ mang cha trở về và gột sạch những buồn đau trên gương mặt mẹ?
Ở thế giới sau tấm gương có chiếc đồng hồ cát có thể làm thời gian ngừng lại. Đã từ rất lâu Jacob tìm kiếm nó cho nữ hoàng. Ở Lombardy có một vòng quay ngựa gỗ có thể biến trẻ con thành người lớn và ngược lại, biến người lớn thành trẻ con. Ở Varangia có một lãnh chúa sở hữu chiếc hộp nhạc có thể mang người ta trở về quá khứ chỉ bằng cách lên dây cót. Jacob thường tự hỏi, liệu những đồ vật đó có làm thay đổi mọi thứ, hay con người ta rốt cuộc vẫn
sẽ hành động như cách họ đã lựa chọn trong quá khứ: cha anh rốt cuộc vẫn sẽ du hành qua tấm gương. Anh vẫn sẽ theo chân cha, rồi Will cũng vậy, mẹ anh vẫn bị bỏ lại một mình.
Thiên đàng, Jacob! Viễn cảnh về cái chết của chính mình làm anh thấy yếu lòng.
Trong những tháng gần đây anh cảm tưởng như trái tim mình hết lần này đến lần khác bị quẳng vào lò luyện kim, bị nung chảy thành một thử méo mó không hình dạng. Nếu cái chai cũng vô hiệu như quả táo và giếng nước, mọi nỗ lực của anh sẽ là dã tràng xe cát, và anh rồi cũng giống như mẹ, chẳng còn là gì ngoài một bức ảnh lồng trong chiếc khung bạc nhem nhuốc. Jacob đặt bức ảnh của mẹ trở lại trên bàn ngủ rồi vuốt phẳng khăn trải giường, như thể chỉ sau giây lát bà có thể bước vào phòng.
Có tiếng gõ cửa căn hộ.
“Jacob đang ở đây, Will.” Giọng của Clara vang lên quen thuộc như giọng của em trai anh. “Túi của anh ấy ở đây này.” “Jake?” Giọng Will nghe không còn nhuốm màu mầm đá, thứ màu đã nhuộm da anh. “Anh trốn ở đâu?”
Jacob nghe thấy tiếng em trai anh bước dọc hành lang, và trong một khoảnh khắc anh lỉnh sang một hành lang khác, đứng phía sau khuôn mặt biến dạng của Will. Tất cả đã kết thúc rồi, Jacob. Không, nó sẽ không bao giờ kết thúc, và tốt hơn là như vậy. Anh không muốn quên mình đã có thể mất Will dễ dàng như thế nào.
Will đứng đó ngay ngưỡng cửa, không còn ánh vàng kim trong mắt, làn da cũng mềm mại như da anh, chỉ hơi nhợt nhạt hơn một
chút. Dù sao thì Will cũng đâu phải trải qua cuộc hành trình nhiều tuần liền trong sa mạc chết tiệt.
Will ôm anh thật chặt, y như trước đây, khi anh bảo vệ cậu trên sân trường trước một thằng oắt học lớp bốn chuyên bắt nạt bạn bè. Đúng, cái giá phải trả rất xứng đáng, miễn là em trai anh không biết giá cao đến mức nào.
Những ký ức của Will về thế giới sau gương như những mảnh thủy tinh vỡ mà cậu nỗ lực hàn gắn trong vô vọng. Nói cho cùng, không ai muốn sống với ký ức trắng trơn về những tuần lễ quyết định sinh tử của đời mình.
Mỗi lần Will kể cho Clara và anh nghe về những nơi chốn và những khuôn mặt từng gặp, anh càng cảm nhận rõ hơn em trai anh đã một mình trong thế giới sau gương như thế nào. Như thể Will có thêm một chiếc bóng, nó theo cậu như một kẻ lạ mặt - và làm cậu đôi lúc sợ hãi.
*
Đã đến lúc Jacob phải quay về, anh không thể chờ thêm được nữa, nhưng Clara nài anh ở lại ăn bữa tối, ai mà biết được khi nào anh mới có thể gặp lại cô và Will. Anh ngồi xuống bên chiếc bàn trong bếp, chiếc bàn mà khi còn nhỏ anh đã dùng con dao đầu tiên của mình khắc những chữ cái viết tắt tên anh lên đó, cố gắng ra vẻ thản nhiên nhất có thể. Nhưng rõ ràng anh đã đánh mất khả năng bịa chuyện và khiến Will tin sái cổ. Jacob nhiều lần bắt gặp ánh mắt suy tư của em trai, khi anh giải thích về lý do của chuyến đi Chicago với một ông chủ nhà máy ở Schwanstein và sự hứng thú của ông ta đối với những ác ma trong chai.
Với Cáo anh thậm chí sẽ không cố kể câu chuyện bịa đặt này. Sau hết thảy những nỗ lực không ngừng nghỉ tìm kiếm những thứ sai lầm của họ, anh gần như đã muốn nói sự thật với Cáo, nhưng nghĩ đến cảnh phải thấy nỗi sợ của chính mình in trên gương mặt cô thì anh chùn lại. Anh yêu thương Will, đối với cậu, trước hết anh luôn là một người anh trai lớn. Với Cáo anh đơn giản chỉ là anh. Cô nhìn thấu rất nhiều thứ mà anh che giấu với những người khác - cho dù anh không mấy thích điều này, và cả hai hiếm khi nói ra những điều họ hiểu về nhau.
“Em có biết một gã tên là Norebo Earlking không, Will?” Em trai anh nhăn trán. “Khá nhỏ con? Giọng nói rất kỳ lạ?? “Chính hắn.”
“Mẹ đã bán cho hắn một vài món đồ của ông ngoại lúc túng tiền. Em nghĩ là hắn có vài cửa hàng đồ cổ ở đây và cả ở châu Âu. Sao anh lại hỏi?”
“Hắn nhờ anh chuyển lời chào em.”
“Em ư?” Will nhún vai. “Mẹ không bán cho hắn tất cả những gì hắn muốn. Có lẽ bây giờ hắn muốn thử vận may với chúng ta. Hắn là một tay kỳ quặc khôi hài. Em không chắc mẹ có ưa hắn không.” Will xoa nhẹ cánh tay. Anh hay sờ lên da mình như để chắc chắn rằng lớp da đá đã thực sự biến mất. Clara cũng để ý thấy động tác ấy. Những ác ma... Will đứng dậy và tự rót cho mình một ly rượu.
“Em nên làm gì nếu nhận được một lời đề nghị từ hắn? Hành lang chất đầy đồ đạc phế thải cũ kỹ. Cứ như thể chúng ta không hề vứt đi thứ gì từ khi ngôi nhà này được xây lên. Không còn nhiều chỗ trống cho những tấm ảnh trên tường. Clara cần một phòng
làm việc và...” Will bỏ lửng câu nói, như thể linh hồn cha mẹ họ đang chăm chú lắng nghe từ những căn phòng bỏ trống. Jacob sờ tay lên những chữ cái viết tắt tên mình khắc trên bàn ăn. Anh đã bí mật mua con dao ấy.
“Bán đi, bất cứ thứ gì mà em muốn,” anh nói. “Dọn sạch tất cả đi. Cứ dùng phòng của anh nếu bọn em muốn. Anh có thể ngủ trên ghế sofa, vì anh hiếm khi ở đây mà.”
“Đừng ngốc thế. Phòng của anh vẫn ở đó.” Will đẩy một ly rượu đến trước mặt anh. “Khi nào anh đi?”
“Hôm nay.” Không dễ làm ngơ trước vẻ thất vọng hiện lên trên gương mặt em trai anh như trước kia nữa. Anh sẽ rất nhớ cậu. “Mọi thứ ổn chứ?” Will nhìn anh lo lắng. Đúng, không dễ đánh lừa Will như trước đây nữa rồi.
“Chắc chắn rồi. Thật khó khi phải sống cùng lúc ở cả hai thế giới.” Jacob cố làm giọng thật hài hước, nhưng mặt Will vẫn lộ nét căng thẳng. Giống hệt khuôn mặt của mẹ. Cách Will nhăn trán thậm chí cũng y hệt như mẹ.
“Anh nên ở lại đây. Việc này quá nguy hiểm!”
Jacob cúi đầu để Will không thấy anh mỉm cười. Việc này chỉ trở nên nguy hiểm vì em, em trai bé bỏng. “Anh sẽ sớm trở lại,” anh nói. “Chắc chắn.”
Dù sao anh vẫn là một tay nói dối siêu đẳng. Cơ hội một phần nghìn để kẻ trú ngụ trong chai cứu anh thay vì giết anh. Một phần nghìn, Jacob. Anh đã từng thắng ván cược còn khó hơn.
4
ĐỘC DƯỢC
T
rở lại. Mưa gió quất từng cơn vào mặt Jacob khi anh leo lên tháp cổ. Anh thoáng tưởng như thấy lại những giọt mưa lăn dài trên kính cửa sổ ở nhà mẹ anh ngày trước. Mắt anh dõi tìm
bóng Cáo giữa những bức tường đổ nát như lúc họ cùng ở đây dạo cuối đông, nhưng chỉ có một người tí hon giúp việc lao qua dưới chân anh, ốm yếu và đói meo. Cô đâu rồi? Thật kỳ lạ vì Cáo không chờ anh. Cô vẫn thường dự cảm được thời điểm anh trở về trước nhiều ngày. Dĩ nhiên anh nghĩ ngay đến những chiếc bẫy thú hay nòng súng săn của một nông dân muốn bảo vệ lũ gà của bác ta. Vô lý, Jacob. Cô biết tự chăm sóc mình tốt hơn cả anh. Anh nhất định không muốn cô ở bên cạnh khi anh mở cái chai.
Sau hết thảy ồn ào trong thế giới phía bên kia, sự tĩnh lặng đang vây quanh anh dường như phi thực hơn cả một người tí hon
giúp việc, như mọi khi, mắt anh cần một vài giây để quen với bóng đêm đen thẫm. Trong biển ánh sáng của thế giới phía bên kia, người ta nhanh chóng quên rằng đêm có thể tối đến nhường nào. Anh quay nhìn xung quanh. Anh cần một chỗ để giữ kẻ trú ngụ trong cái chai không trốn thoát lên những tầng mây. Ngoài ra anh không được phép mạo hiểm làm hư hại ngọn tháp và tấm gương ngự trong đó.
Nhà nguyện cũ trong lâu đài.
Nhà nguyện, cũng như ngọn tháp, vẫn nguyên vẹn trong ngọn lửa đã phá hủy lâu đài, nằm sau khu vườn hoang phế trải suốt sườn đồi. Jacob phải dùng thanh kiếm có lưỡi cong của mình mở đường xuống đó. Những bậc thang rong rêu, những tượng đá vỡ toác, những đài phun nước với bể cẩm thạch ngập lá rụng rữa nát từ mùa đông. Trước nhà nguyện, những ngôi mộ đá thấp thoáng trong vạt cỏ cao không cắt: Arnold Fischbein, Luise Moor, Kaethchen Grimm. Mộ của những người quản gia vẫn nguyên vẹn sau cơn hỏa hoạn, nhưng nhà mộ của chủ nhân lâu đài chỉ còn là một vòng đá cháy đen.
Tấm gỗ cửa nhà nguyện nở dày vì khí ẩm, khiến Jacob mở ra rất khó nhọc. Cảnh tượng bên trong tiêu điều. Các ô kính cửa sổ nhiều màu sắc vỡ tan, những băng ghế gỗ bị đem làm củi sưởi ấm các căn lều lạnh lẽo, nhưng mái nhà thì vẫn còn tác dụng - không gian trong nhà thờ cao không quá bốn mét. Bấy nhiêu là đủ.
Một tên quỷ lùn từ trên rìa bể chứa nước thánh cạn khô ló nhìn đầy lo lắng khi Jacob gỡ vỏ da bọc ngoài cái chai. Lớp thủy tinh nâu lạnh buốt đến mức suýt làm bỏng tay Jacob. Kẻ trú ngụ
trong đó không đến từ phương Nam, nơi người ta có thể tìm thấy những ác ma trong chai ở bất cứ khu chợ trên sa mạc nào. Thứ thần dược mà Jacob cần chỉ có ở những ác ma phương Bắc. Chúng hiếm gặp hơn rất nhiều lần và đặc biệt nguy hiểm, vì vậy những kẻ săn đuổi chúng còn đáng sợ hơn lão Chanute nhiều. Ác ma mà Jacob định thả ra đã làm kẻ đi săn hắn thương tích trầm trọng sau khi cầm cự cuộc chiến chỉ được vài giờ. Jacob đã tự tay chôn kẻ xấu số.
Anh đuổi tên quỷ lùn ra ngoài trước khi trí tò mò giết chết hắn, rồi đóng cánh cửa lại.
“Tất cả bọn chúng đều là kẻ sát nhân, Jacob, đừng bao giờ quên điều đó.” Chanute đã cảnh báo anh hơn một lần về những ác ma trong chai đến từ phương Bắc. “Bọn chúng bị giam giữ vì rất thích giết chóc, và chúng nhận hình phạt phải làm tôi tớ cho bất cứ tên ngốc nào sở hữu cái chai suốt cuộc đời bất tử của chúng. Điều duy nhất chúng bận tâm là làm thế nào giết được chủ nhân và tự mình làm chủ cái chai.”
Jacob bước đến giữa nhà nguyện.
Họa tiết khắc trên bề mặt thủy tinh của chai cũng chính là sợi dây xích thật trói các linh hồn lại bên trong chai. Jacob vẽ lại mẫu họa tiết trên lòng bàn tay trước khi rút con dao ra. Thả linh hồn lũ ác ma này ra lần nữa còn khó khăn hơn bắt giữ chúng. Nhưng anh còn gì để mất?
Con dấu niêm phong trên cổ chai được đóng bởi tòa án nơi đã tuyên cho các linh hồn bản án chung thân sau lớp thủy tinh nâu. Jacob dùng dao cạy sáp, đặt cái chai xuống gạch lát nền và bước
lùi lại thật nhanh.
Khói dâng lên từ cổ chai màu xám bạc như vảy cá. Ngón tay, rồi cánh tay và vai dần dần hiện hình. Những ngón tay quờ quạng trong khí lạnh, thu lại thành nắm đấm, rồi từ vai trồi lên một cái gáy, trông như gáy thằn lằn.
Cẩn thận, Jacob!
Anh cúi nhìn luồng khói vẫn bốc lên từ miệng chai. Phía trên anh, bộ xương có vầng trán thấp tịt và mớ tóc rối bù ngang vai đang thành hình. Một cái miệng há ra giữa đám thịt màu bạc. Hơi thở dốc tuôn từ đó làm những bức tường nhà nguyện rúng động như khung xương sườn của một con thú. Cửa sổ nứt toác, bụi thủy tinh cuộn lên xộc thẳng vào mũi Jacob. Hàng ngàn mảnh vỡ đủ màu sắc trút như mưa xuống đầu anh trong khi ác ma từ từ mở mắt trên cao. Chính giữa con mắt trắng dã như lòa trồi lên một con ngươi đen ngòm như họng súng. Khi cặp mắt ném cái nhìn sốt ruột vào Jacob, anh đang nắm cái chai trong tay, những ngón tay siết chặt quanh cổ chai.
Thân hình khổng lồ cúi xuống trong tư thế một con mèo sửa soạn chồm lên.
“Nhìn xem.” Giọng ác ma trong chai vang lên khàn đục, như thể hắn đã quên mất cách nói năng sau từng ấy năm bị giam cầm trong ngục thủy tinh. “Ngươi là ai? Tên kia đâu, kẻ đã bắt giam ta đâu?”
Hắn nghiêng người về phía Jacob. “Hắn chết rồi phải không? Ta vẫn nhớ đã bẻ gãy xương sườn của hắn thế nào. Nhưng thế vẫn chẳng nhằm nhò gì với chuyện ta sẽ làm với lão quan tòa. Bao
nhiêu năm nay ta luôn nghĩ đến cảnh này. Ta sẽ vặt hắn như vặt một bông hoa, xỉa răng bằng xương của hắn, và xì mũi lên da hắn…”
Nhà nguyện ngập tràn giọng nói khào khào giận dữ của hắn. Họa tiết trên lòng bàn tay Jacob phủ một lớp băng tinh. “Đừng huênh hoang nữa!”, anh ngước lên bảo ác ma. “Ngươi sẽ không làm điều gì giống vậy cả. Ngươi phải phục vụ ta cho đến khi nào ta hết muốn, nếu không ta sẽ nhốt ngươi vào cái chai mà người ta mang quẳng vào kho không hơn gì một chai rượu tầm thường.”
Ác ma trong chai hất nùi tóc rối trước trán. Chúng được làm từ thủy tinh dẻo, thứ thủy tinh đáng giá cả gia tài ở bất cứ vương quốc nào sau gương.
“Láo xược!”, ác ma lầm bầm. Khuôn mặt hắn nom rất ghê sợ, tai trái nát bươm. Nơi quê hương lạnh lẽo của mình, những ác ma như hắn thường được sử dụng trong các cuộc chiến.
“Tốt thôi. Vậy chủ nhân mới của ta ước gì?”, hắn gầm gừ. “Như mọi khi? Vàng. Quyền lực. Đối thủ bị giẫm bét như ruồi dưới chân?”
Cái chai thủy tinh lạnh đến mức tay Jacob đã mất cảm giác. Giữ nó thật chắc, Jacob.
“Đưa nó cho ta!” Ác ma trong chai cúi thấp đến mức những sợi tóc thủy tinh của hắn chạm vào vai Jacob. “Đưa ta cái chai, rồi ta sẽ hoàn thành điều ngươi muốn. Ngươi mà giữ nó, ta sẽ suốt đêm ngày tìm cách giết ngươi. Lớp thủy tinh nâu bao lâu nay khiến ta không nhìn được, và tiếng gào của ngươi sẽ thổi bay bụi bẩn trong
lỗ tai ta.” Viễn cảnh đó vẽ nên nụ cười đắc ý trên khuôn mặt xảo quyệt của hắn. Lũ ác ma trong chai thích tán chuyện y hệt như thích giết người.
“Để lấy cái chai,” Jacob nói vọng lên. Mùi lưu huỳnh hôi thối từ lớp da xám xịt xộc mạnh làm anh buồn nôn. “Hãy đổi bằng một giọt máu của ngươi.” Ác ma nhe những chiếc răng cũng xám xịt y như màu da của hắn. “Máu của ta?” Hắn cười chế giễu, vẻ hí hửng trước nỗi đau của kẻ khác lộ liễu không che đậy. “Ngươi đang bị thứ gì hủy hoại? Thuốc độc. Bệnh tật? Hay một lời nguyền?”
“Không phải việc của ngươi,” Jacob đáp. “Có đồng ý không?” Nụ cười chế giễu chuyển sang tàn bạo. Thông thường ác ma sẽ tìm cách cắn đứt đầu của nạn nhân ngay khi kẻ xấu số đưa chai cho chúng. Jacob biết số phận của hai tay săn kho báu đã kết thúc như thế. Răng lũ ác ma trong chai cực kỳ khỏe. Phải hành động thật nhanh, Jacob. Cực nhanh.
Ác ma chìa tay về phía anh. “Nhất trí.” Ngón tay ngắn nhất của hắn còn dài hơn cả cánh tay của người thường. Jacob siết chặt cái chai, dù thủy tinh lạnh bỏng tay anh. “Không. Ta cần có giọt máu của ngươi trước.” Ác ma nhe răng nghiêng mình nhìn xuống Jacob đầy nhạo báng. “Sao ngươi không tự đến đây mà lấy?”
Jacob chỉ chờ có thế.
Anh nắm một sợi tóc thủy tinh và bật nhảy lên cao. Ác ma vồ lấy anh, nhưng Jacob nhanh tay cắm phập cái chai vào mũi hắn. Ác ma rống lên, dùng hết sức bình sinh giằng cái chai ra khỏi lỗ mũi bằng những ngón tay cục mịch. Làm ngay, Jacob. Anh nhảy
qua vai hắn, vung dao chém nát bươm tai hắn. Máu đen phụt mạnh. Jacob xoa máu lên da, trong khi ác ma hoài công cố kéo cái chai ra khỏi mũi. Các tinh thể băng nhảy múa trong không trung theo nhịp thở hổn hển và tiếng rên của hắn. Jacob nhảy khỏi vai ác ma. Anh suýt gãy chân khi đáp xuống nền gạch phủ băng. Đứng dậy, Jacob! Trên đầu anh mái nhà nguyện bắt đầu rung chuyển khi ác ma dựa lưng vào tường trong cơn thịnh nộ. Anh trượt nhanh ra cửa.
Chạy đi, Jacob.
Anh chạy về hướng cây thông cao mọc sau nhà nguyện, nhưng trước khi có thể an toàn dưới lùm thông thì đã bị những ngón tay lạnh buốt tóm lấy nhấc bổng lên cao. Jacob cảm thấy xương sườn như bị bóp nát. Độc dược.
“Lấy nó ra!”
Jacob hét lên đau đớn khi ác ma siết chặt thêm. Những ngón tay khổng lồ đưa anh lên cao hơn, cho tới lúc tay anh ngang tầm với hai lỗ mũi khổng lồ.
“Nếu mày để nó rơi,” ác ma thì thào,“tao vẫn thừa thời gian bẻ gãy từng cái xương của mày!”
Đúng thế. Nhưng hắn cũng sẽ giết Jacob dù lấy được cái chai. Không còn gì để mất. Những ngón tay của Jacob nắm cổ chai và tóm thật chắc lớp thủy tinh lạnh buốt.
“Lấy... nó... raaaaaaaaaaaaa.” Ác ma gào lên, giọng hắn bủa vây quanh anh trong cơn khát máu lạnh lẽo.
Jacob không vội. Đây có thể là những khoảnh khắc cuối của đời anh. Cao cao trên đồi anh nhìn thấy ngọn tháp từ đống đổ nát
vươn thẳng lên bầu trời tối đen, bên dưới một con chồn đang gặm những chồi non vừa nhú. Mùa xuân đang đến. Sống sót hay là chết, Jacob. Một lần nữa thôi.
Anh rút cái chai ra khỏi lỗ mũi ác ma, ném thật lực về phía nóc nhà nguyện.
Tiếng thét thịnh nộ của ác ma làm con chồn bất động. Những ngón tay xám ngoét siết chặt hơn quanh thân Jacob, khiến anh ngỡ như nghe tiếng từng khúc xương đang gãy. Trong cơn đau, thoáng vọng đến tiếng thủy tinh vỡ choang. Những ngón tay khổng lồ buông lơi - Jacob rơi xuống.
Anh rơi rất lâu.
Cú chạm đất rút cạn kiệt hơi thở của anh, trên cao ác ma nổ tung như thể bị nhồi chất nổ đầy trong thân. Thịt xương xám xịt của hắn bắn tung muôn ngàn mảnh, rơi xuống đầu Jacob như cơn mưa bùn tuyết nhầy nhụa, anh nằm đó và liếm máu đen chảy tràn trên môi. Nó ngọt, và làm lưỡi anh bỏng rát.
Jacob đã có thứ anh muốn.
Và anh vẫn còn sống.
5
ALMA
T
rên những con đường được chiếu sáng bằng đèn khí gas của Schwanstein từ lâu đã vắng bóng phù thủy. Các phù thủy là một phần của quá khứ, còn cư dân Schwanstein tin vào tương
lai. Họ thích được chữa trị bởi các bác sĩ từ Vena chuyển đến hơn là tin vào phép thuật và thảo dược đẳng nghét. Chỉ khi nào các loại thuốc hiện đại không hiệu nghiệm, họ mới tìm về ngôi làng nằm ở phía Đông ngọn đồi nơi lâu đài tọa lạc.
Nhà Alma Spitzweg nằm ngay sát nghĩa trang, nhưng bà thường có cách giữ cho bệnh nhân không bị chuyển hộ khẩu vào đó quá sớm. Dưới mắt chính quyền, bà điều hành một phòng mạch
bình thường. Alma có thể chữa trị gãy xương chân tay như bất cứ bác sĩ nào ở thành phố lớn. Đôi lúc bà thậm chí kê đơn thuốc viên giống họ, nhưng Alma cũng chữa cho bò và người lùn với sự cẩn trọng y như chữa cho các bệnh nhân người của mình, trang phục của bà đổi màu theo thời tiết, và đồng tử mắt bà hẹp y chang mắt của con mèo bà nuôi.
Phòng mạch của Alma vẫn còn đóng khi Jacob gõ cửa sau. Mất khá lâu sau bà mới mở cửa. Hẳn bà vừa qua một đêm mệt mỏi, nhưng khuôn mặt sáng lên vui mừng khi thấy anh. Sáng nay nom bà giống hệt mụ phù thủy mà anh hình dung khi còn nhỏ, nhưng anh đã có dịp thấy Alma dưới nhiều diện mạo và bộ dạng khác nhau.
“Giá như tối qua có con giúp ta,” bà nói, trong khi con mèo của bà gừ gừ chào đón anh. “Lão người nhện trên khu thành đổ nát cố bắt cóc một đứa trẻ. Con không thể đuổi lão đi sao?”
Lão người nhện... sinh vật đầu tiên mà anh gặp sau tấm gương. Jacob vẫn còn mang những vết sẹo gây ra bởi bộ răng vàng khè của lão trên tay. Anh đã hàng tá lần cố bắt lão, nhưng lão người nhện láu cá là tay chơi trốn tìm bậc thầy.
“Con sẽ cố lần nữa.” Con hứa. Jacob ẵm con mèo vẫn kêu gừ gừ lên tay và theo Alma bước vào căn phòng trống trải, nơi bà bào chế các loại thuốc cả cũ lẫn mới. Bà lắc đầu mệt mỏi khi trông thấy vết máu đen trên sơ mi lúc anh cởi áo khoác ngoài.
“Gì nữa đây?” bà hỏi. “Con không thể một lần đến chỗ ta chỉ vì bị cúm hay đau bao tử sao? Ta sẽ còn hối hận cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay vì đã không cản con đến học việc chỗ lão Albert
Chanute.”
Alma chưa bao giờ ưa lão già săn kho báu. Jacob vẫn hay trốn ở chỗ bà mỗi lần lão Chanute đánh đập anh, và cũng như những phù thủy khác, bà không mấy ưa trò săn lùng kho báu. Jacob gặp bà lần đầu ở khu thành cổ đổ nát. Alma đã tuyên bố trước những cây thuốc mọc ở đó. “Bị nguyền rủa ư? Phân nửa thế giới này đều bị nguyền rủa, bà bình luận về câu chuyện lời nguyền ám trên khu thành cổ đổ nát. “Lời nguyền bốc hơi còn nhanh hơn mùi thối. Trên đó chỉ có dăm cục đá cháy sém thôi.”
Bà chưa bao giờ hỏi một đứa con nít mười hai tuổi làm gì một mình giữa những bức tường của một tòa lâu đài bị cháy. Bà không hỏi, có lẽ vì bà hẳn đã biết câu trả lời. Bà mang Jacob về nhà, cho mặc quần áo để tránh ánh mắt tò mò của người khác, và cảnh báo anh về bọn quỷ lùn và quạ vàng. Trong những năm đầu tiên sống sau tấm gương, anh luôn được thưởng thức những bữa ăn nóng sốt, có chỗ ngủ ấm áp trong nhà bà. Alma đã chữa trị khi anh lần đầu tiên bị sói cắn, bó lành cánh tay gãy của anh khi anh cố cưỡi một con ngựa bị yểm bùa, và dạy anh nên tránh xa những kẻ nào trong thế giới sau gương.
Bà quệt chút máu đen trên da anh đưa lên mũi ngửi. “Máu ác ma phương Bắc.” Bà nhìn anh lo lắng. “Con cần thứ này để làm gì?”
Bà đặt bàn tay lên bên ngực có trái tim anh. Rồi bà cởi áo sơ mi của anh ra và sờ vào dấu con bướm ma.
“Đồ ngốc!” Bà đấm ngực anh bằng nắm tay xương xẩu. “Con lại tìm đến ả tiên ấy! Ta chưa bảo con phải tránh xa ả ta ra sao?”
“Con cần cô ta giúp!”
“Thì sao? Tại sao con không đến tìm ta?” Bà mở cái tủ cất giữ dụng cụ dùng trong vài phương pháp chữa bệnh ít hiện đại hơn. “Đó là lời nguyền của tiên. Bà chẳng thể làm gì đâu.” Không phù thủy nào có thể chống lại phép thuật của các nàng tiên. “Nó liên quan đến em trai con,” anh nói thêm.
“Em trai con đáng để con trả giá cả mạng sống của mình sao?”
“Vâng.”
Alma im lặng nhìn anh hồi lâu. Rồi bà mở tủ lấy dao cắt một nhúm tóc của Jacob. Nhúm tóc bắt lửa ngay lập tức khi bà vò nó trong tay. Phù thủy có thể làm bốc cháy hầu hết mọi thứ chỉ bằng tay không.
Alma quan sát nhúm tro bám trên đầu ngón tay - rồi liếc nhìn Jacob. Những ngón tay của bà trắng như tuyết. Bà không phải giải thích cho anh hiểu như thế nghĩa là gì. Một lần anh đã tự mình hóa giải một lời nguyền. Khi anh để Alma kiểm tra liệu anh đã thật sự phá được lời nguyền chưa, nhúm tro trên đầu ngón tay bà hóa thành màu đen.
Máu ác ma trong chai vô tác dụng.
Anh cài lại cúc áo sơ mi. Ngươi là một kẻ đã chết, Jacob. Có phải Hồng Tiên đã theo dõi anh từ nhiều tháng nay, chứng kiến hy vọng nối tiếp hy vọng của anh rốt cuộc chỉ là hão huyền? Những nàng tiên có nhiều cách để biết điều họ muốn. Chắc hẳn nàng đã chờ ngày anh chết, từ khi thì thầm tên người chị gái vào
tai anh. Không, Jacob. Từ khi ngươi rời bỏ nàng.
“Còn bao lâu nữa?”, anh hỏi.
Nỗi đau buồn hiện lên trong mắt Alma lớn hơn cả cơn giận dữ của bà. “Hai, ba tháng nữa, có lẽ ít hơn. Làm sao mà cô ta lại ếm lời nguyền lên con?”
“Cô ta làm con phải thốt ra tên người chị hắc ám của mình.” Con mèo của Alma cọ cọ vào chân anh, như muốn an ủi. Người ta không thể đoán được con mèo có thể trở nên nguy hiểm đến thế nào nếu nó không ưa kẻ viếng thăm.
“Ta đã tưởng con biết về tiên nhiều hơn ta. Con quên họ đã dựng lên bí ẩn gì xung quanh những cái tên của mình sao?” Alma bước đến chỗ tủ thuốc cũ, trong các ngăn kéo tủ chứa đầy đủ thứ mà con người ở thế giới sau gương có thể dùng làm dược liệu.
“Con đã gọi tên Hồng Tiên không biết bao nhiêu lần.” “Thì sao chứ? Với Hắc Tiên thì khác đấy.” Cái rễ cây mà Alma lấy từ một ngăn kéo ra giống con nhện trắng bệch có mấy cái chân buông thõng dưới bụng. “Nàng ta quyền lực hơn các tiên khác rất nhiều, nhưng không giống như họ, nàng ta không sống dưới sự bảo vệ của đảo tiên. Điều đó làm nàng ta dễ bị tổn thương. Nàng không cho phép bất kỳ ai biết tên nàng. Chắc hẳn nàng không nói cả tên mình với người tình!” Bà nghiền nhỏ cái rễ trong cối rồi đổ đầy bột vào một túi nhỏ. “Con đã mang con bướm ma trên ngực bao lâu rồi?”
Anh luồn tay vào dưới áo sơ mi. Khó mà cảm nhận được dấu con bướm ma.
“Ban đầu Hồng Tiên cứu sống con với cái này.”
Alma cười cay đắng. “Cô ta cứu con chỉ để giết con theo cách cô ta muốn. Tiên thích đùa giỡn với chuyện sinh tử của người khác... Và ta chắc rằng báo thù làm cô ta sung sướng vì đã biến người chị quyền lực của mình thành kẻ giúp đỡ bất đắc dĩ.” Bà đưa cho Jacob cái túi nhỏ chứa bột rễ cây nghiền nhuyễn. “Đây. Đây là tất cả những gì ta có thể làm. Uống một ít khi cơn đau ập đến, nó sẽ đến đấy.”
Bà đổ đầy một chậu nước lạnh múc từ dưới giếng sau nhà lên cho Jacob rửa sạch máu của ác ma trên người, trước khi nó ăn mòn da anh. Nước đổi màu xám xịt như màu da của ác ma.
Vào ngày sinh nhật năm ngoái anh đã viết đầy vào tờ giấy tên những báu vật mà anh muốn tìm kiếm trong đời mình. Đó là sinh nhật lần thứ hai mươi lăm của anh. Ngươi không thể già thêm một tuổi nữa rồi, Jacob.
Hai mươi lăm.
Chiếc khăn tay Alma đưa cho anh có mùi bạc hà.
Anh không muốn chết. Anh yêu cuộc sống của mình. Anh không muốn sống một cuộc đời khác, chỉ cần sống lâu thêm cuộc đời này là đủ.
“Bà có thể nói cho con biết nó sẽ xảy ra thế nào không?” Alma mở cửa sổ để hắt nước ra ngoài. Trời hửng sáng dần. “Hắc Tiên dùng con dấu của em gái cô ta để đòi lại tên mình. Con bướm ma trên ngực con sẽ dần dần hồi sinh. Sẽ không dễ chịu đâu. Khi bướm ma tách ra khỏi da thịt con và bay đi, con sẽ chết. Có lẽ
con vẫn sống thêm được vài phút, hay một giờ... nhưng không có thuốc chữa.” Bà đột ngột quay đi. Alma ghét để người khác nhìn thấy bà khóc. “Ta ước gì ta có thể làm điều gì đó cho con, Jacob,” bà nói nhỏ. “Nhưng tiên có nhiều quyền lực hơn ta. Quyền lực ấy sinh ra từ sự bất tử của họ.”
Con mèo nhìn anh. Jacob vuốt ve bộ lông đen của nó. Bảy mạng. Anh luôn tin rằng ít nhất mình phải sở hữu được chừng ấy mạng.
6
GIỜ THÌ SAO?
Ở
nghĩa trang sau nhà Alma có vô số mộ từ thời dân Troll di cư đến Austrien để tránh mùa đông lạnh giá chốn quê nhà. Kỹ thuật khắc gỗ tuyệt diệu khiến rất nhiều người trong họ giàu
sụ, đó là lý do tại sao những tấm bia mộ của họ thường được mạ vàng. Jacob không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua khi anh đứng đó ngắm những bức tranh khắc gỗ miêu tả công việc của một người Troll đã quá cố nào đó. Xung quanh anh đàn ông, phụ nữ, trẻ con đang trên đường đến nơi làm việc. Mấy chiếc xe đẩy dằn xóc trên mặt đường lát đá gồ ghề chạy qua trước cổng nghĩa trang. Một con chó sủa người nhặt đồng nát rách rưới đang quanh quẩn giữa những nếp nhà đơn sơ, còn Jacob chỉ đứng sững nhìn chằm chằm các bia mộ, đầu óc trống rỗng.
Jacob từng đinh ninh anh sẽ tìm được cách nào đó để tự cứu
mình. Nhưng rốt cuộc thì công cốc. Anh đã rất tin tưởng vào điều đó, từ khi trở thành học trò của lão Chanute. Tay săn kho báu số một mọi thời đại... từ khi lên mười ba tuổi - đó là mục tiêu duy nhất của đời anh - là cái danh duy nhất mà anh muốn mang. Nhưng có vẻ như rốt cuộc những thứ anh săn lùng được chỉ là những thứ người khác thèm muốn. Chiếc giày thủy tinh mang đến tình yêu vĩnh cửu, cây gậy đánh đuổi mọi kẻ thù, con ngỗng đẻ trứng vàng, hay con sò có thể nghe lén mọi đối thủ, chúng có nghĩa gì với anh chứ? Anh đã muốn trở thành không gì khác hơn là người tìm ra tất cả những thứ đáng mơ ước ấy. Và anh đã tìm thấy tất cả. Giờ đây đến lượt anh đi tìm thứ gì đó cho chính mình, anh tìm trong tuyệt vọng: đó chính xác là những gì đã xảy ra với cha anh, và giờ đây nó đang xảy ra với phép mầu có thể cứu sống anh.
Xúi quẩy, Jacob.
Anh quay lưng lại các bia mộ và hình chạm khắc vàng trên đó. Phần lớn chúng miêu tả những trận ẩu đả trong quán trọ hoặc những cuộc đọ tửu lượng - các hoạt động mà người Troll rất tự hào, tuy không phải lúc nào cũng là những hoạt động đáng được tôn trọng -, trong khi một số ít trong đó miêu tả những tác phẩm mà người quá cố đã tạc ra từ gỗ: những con rối sống động, những chiếc bàn tự hát và thìa tự khuấy. Trên bia mộ ngươi sẽ khắc những gì, Jacob? Jacob Reckless, sinh ra ở một thế giới khác, bị giết bởi lời nguyền của một nàng tiên... Anh cúi xuống dựng viên đá ốp mộ một người lùn giúp việc lên.
Ngừng than thân trách phận đi.
Em trai anh đã lấy lại được làn da.
Trong một khoảnh khắc anh ao ước một cách mãnh liệt rằng Will chưa bao giờ bước qua tấm gương. Đi tìm cái đồng hồ cát đi, Jacob. Quay ngược thời gian và không tìm đến nàng tiên nào cả. Hoặc đập vỡ tấm gương trước khi Will theo chân mi.
Một phụ nữ mở cánh cổng gỉ sét trong bức tường nghĩa trang. Bà đặt hoa lên một ngôi mộ. Ánh mắt của bà làm anh nghĩ đến Cáo, có lẽ vì cô cũng sẽ nhìn mộ anh với ánh mắt hệt như thế. Hẳn Cáo sẽ đặt trên mộ anh một bó hoa dại. Hoa violet hoặc hoa anh thảo. Loài hoa yêu thích của cô.
Anh quay người và bước về phía cánh cổng.
Không. Anh sẽ không đi tìm cái đồng hồ cát nào hết. Kể cả khi anh có thể quay ngược thời gian thì mọi sự vẫn diễn ra như vậy. Tất cả kết thúc tốt đẹp rồi. Ít nhất là với em trai anh.
Jacob mở cổng và ngước nhìn lên phía đồi, tòa tháp trong khu thành cổ đổ nát in bóng trên bầu trời rạng đông. Anh có nên quay về và kể với Will tất cả?
Không. Không phải bây giờ. Anh phải đi tìm Cáo trước. Anh nợ cô sự thật nhiều hơn nợ bất cứ ai khác.
7
VÔ VỌNG
H
ắc Tiên đã nhượng bộ. Jacob Reckless. Nàng không muốn thấy mặt anh nữa. Tất cả những nỗi sợ hãi, và cả nỗi đau... Nàng cảm thấy cái chết từ lời nguyền tên nàng mang đến cho anh như vết thương trên làn da trắng muốt.
Đó không phải ý muốn báo thù của nàng. Dù mặt đầm nước đang soi cho nàng thấy nỗi sợ hãi của anh cũng chính là đầm nước trong vườn thượng uyển, nơi anh biến da nàng thành vỏ cây.
Cô em Hồng Tiên của nàng chắc hẳn đã thấy những hình ảnh này trên mặt hồ nơi hai chị em họ sinh ra. Nó trông đợi gì ở cái chết của anh? Cái chết ấy sẽ xoa dịu nỗi đau bị phản bội, hay chữa lành lòng tự trọng bị tổn thương của nó? Cô em Hồng Tiên của nàng chẳng hiểu gì về tình yêu cả.
Mặt đầm tối sẫm lại như bầu trời đang soi bóng xuống nó, bóng nàng run rẩy trên những con sóng. Mặt nước làm méo mó bóng nàng, như thể sắc đẹp nàng đang dần tàn phai. Rồi sau đó? Kami’en sẽ chẳng bao giờ thèm nhìn mặt nàng nữa. Ông ta chỉ còn nhìn thấy cái bụng ngày càng to ra mà cô vợ người trần của ông đang mang.
Tiếng ồn của thành phố vọng vào màn đêm trong vườn thượng uyển.
Hắc Tiên xoay người lại. Nàng không muốn nhìn thấy bất cứ thứ gì nữa, cả bản thân nàng cũng như người tình phản bội của em gái nàng. Thỉnh thoảng nàng ước ao được trở lại làm lá và vỏ cây như lúc anh hóa phép nàng.
Nom anh hoàn toàn không giống người em trai.
Con bướm ma đậu trên vai nàng, như một vụn đêm trên làn da trắng như tuyết. Giờ đây ngay cả đêm cũng thuộc về kẻ khác. Kami’en ngủ ở chỗ công chúa có khuôn mặt búp bê của ông ta ngày càng thường xuyên hơn.
Em gái nàng muốn gì ở tất cả những nỗi sợ và nỗi đau đó? Chúng chẳng thể mang tình yêu trở về.
8
LÃO CHANUTE
T
rên con đường dẫn đến Schwanstein, công nhân tụ tập chen chúc trước cổng hãng dệt. Còi hiệu báo bắt đầu ca sáng hú vang, và Jacob khó khăn lắm mới ghìm được con ngựa già
mượn của bà Alma giữa tiếng còi inh ỏi và chuông nhà thờ rộn rã sớm mai. Con ngựa cái dỏng tai nghe ngóng đầy âu lo như thể bầy rồng đã trở lại, nhưng những gì lọt vào tai nó chỉ là thanh âm của thời kỳ mới. Tiếng còi hú. Tiếng đồng hồ tích tắc. Những cỗ máy thúc giục thời gian, và nó lồng lên gấp gáp.
Nhiều người trong đám đàn ông đang tê cóng đứng chờ trước cổng nhìn Jacob cưỡi ngựa ngang qua. Kẻ săn tìm kho báu, luôn rủng rỉnh vàng trong túi, kẻ đến rồi đi bất cứ khi nào anh ta muốn, kẻ không bao giờ biết tới lao động khổ sai hay cuộc sống nhàm chán đơn điệu, những thứ đang giết dần giết mòn cuộc đời họ. Nếu là một ngày nào khác Jacob chắc hẳn đã thông cảm với vẻ ghen tị trên những khuôn mặt mệt mỏi, nhưng sáng hôm ấy anh tình nguyện đổi chỗ cho bất cứ ai trong họ, kể cả khi điều đó có nghĩa
là phải làm việc mười bốn tiếng mỗi ngày, kiếm được hai đồng bạc mỗi tiếng. Được sống vẫn tốt hơn là phải chết, đúng không? Buổi sáng hôm ấy trời lại đẹp như trêu người. Cây cối đâm chồi nảy lộc, xanh tươi dịu mát... đến cả bộ lông của con ngựa già cũng thoang thoảng hương xuân. Thật ngu ngốc. Có lẽ mùa đông khiến người ta dễ dàng chấp nhận cái chết hơn, nhưng Jacob ngờ là anh có khi chẳng còn nhiều thời gian đến thế.
Một thằng bé nằm ngủ bên vệ đường, cố ôm chặt cái bọc nhem nhuốc vào ngực, không cho bọn quỷ lùn nẫng mất chút tài sản nhỏ nhoi của nó. Jacob cũng trạc tuổi thằng bé khi lần đầu đặt chân đến Schwanstein - khác chăng là anh được nuôi nấng tốt hơn một chút nhờ có Alma.
Những mái đầu hồi nhọn hoắt như hình minh họa trong các cuốn truyện cổ tích đã ngả màu của ông bà anh, muội than đen lửng lơ trong không khí xem chừng kỳ thú gấp vạn lần khí thải của thế giới phía bên kia. Tất cả đều thấm đẫm mùi vị phiêu lưu: bộ yên cương da trên cỗ xe ngựa, phân ngựa vương vãi trên đá lát đường nhớp nhúa, đống tàn dư của các cuộc ẩu đả mà đám người lùn giúp việc đang bởi móc nhặt nhạnh. Vài tháng sau anh gặp lão Albert Chanute, và trái tim anh đã mãi mãi lạc lối trong thế giới sau gương.
Cửa sổ Quán Ăn Thịt Người còn đóng khi Jacob cột con ngựa của Alma trước cửa quán. Chỉ có cửa phòng anh vẫn mở, y như lúc anh ra đi. Những khi anh đi vắng, thỉnh thoảng Cáo đến ngủ đêm ở đây. Anh đã suy ngẫm suốt dọc đường về những lời sẽ nói với cô.
Nhưng không nghĩ ra được gì có vẻ xuôi tai.
Trong phòng, đầu bếp mới của lão Chanute đang rửa những ly tách bẩn còn sót lại đêm qua. Chanute đã tuyển cựu chiến binh này sau khi có quá nhiều thực khách phàn nàn về đồ ăn do lão nấu. Tobias Wenzel mất chân trái trong trận chiến với quân Goyl và nát rượu, nhưng gã là một đầu bếp thiên tài.
“Ông ấy ở trên tầng,” gã nói khi Jacob bước tới chỗ mình bên quầy bar,“nhưng cẩn thận: ông ấy đang đau răng, mà bọn Goyl lại vừa tăng thuế.”
Goyl đã cai trị xứ Austrien từ hơn nửa năm nay, nhưng dân Schwanstein chẳng ai mà không nghi ngờ chuyện anh em nhà Reckless có dính líu đến sự việc này. Nhưng hiếm ai trong họ có hứng tìm hiểu ngọn ngành. Đàn ông trai tráng từ mặt trận đã trở về (nếu còn sống sót), người Goyl xây nhà máy, mở mang đường sá giúp giao thương thuận lợi, và thị trưởng của họ vẫn tại vị. Ở thủ đô vẫn xảy ra những cuộc đánh bom và nổi dậy, nhưng phần lớn dân chúng đã quy thuận đức vua mới, còn trên ngai vàng của nữ hoàng giờ đây là công chúa con gái bà, đã mang thai đứa con của người chồng có làn da đá.
Lão Chanute gắt gỏng quát “Gì?” khi Jacob gõ cửa. Phòng lão ở chất đồ lưu niệm về những ngày tháng săn tìm kho báu của lão còn nhiều hơn cả trong phòng khách Quán Ăn Thịt Người.
“Xem kìa,” lão lầm bầm và ép lòng bàn tay lên bên má sưng phồng. “Ta đã nghĩ lần này chú mày hẳn là không về nữa.” Đau răng. Không phải thứ người ta muốn mắc phải trong thế giới sau gương. Jacob đã nhổ răng đau một lần ở Vena. Đánh nhau với một
con quỷ ăn thịt người còn cần ít dũng khí hơn.
“Sao?” Chanute nheo mắt nhìn Jacob từ đầu đến chân. “Chú mày đã tìm được cái chai chưa?”
“Rồi.”
“Thấy chưa! Ta đã nói với chú là sẽ không vấn đề gì mà.” Chanute phủi một cọng lông trên bàn tay gỗ của lão và nhìn chằm chằm tờ giấy trước mặt. Lão đang viết hồi ký đời mình, từ khi bị gã thực khách say bét nhồi vào đầu cái ý nghĩ lão sẽ giàu to với cuốn hồi ký đó.
“Tôi đã tìm thấy cái chai, đúng vậy…” Jacob bước đến bên cửa sổ. “... nhưng máu ác ma hoàn toàn vô dụng.”
Chanute đặt cây bút lông ngỗng xuống tờ giấy. Lão cố không tỏ ra lo lắng, nhưng lão chưa bao giờ là một diễn viên giỏi. “Mẹ kiếp,” lão lầm bầm. “Nhưng đừng lo. Chú mày hãy nghĩ đến cái khác. Quả táo thì sao? Quả táo trong khu vườn bị yểm bùa của Sultan ấy, chú mày biết mà.”
Câu trả lời đã chực tuôn ra khỏi miệng Jacob, nhưng nom lão già lo lắng quá mức, anh đành nuốt trở lại. Chanute hẳn sẽ cưỡi ngựa đến bất cứ đâu có thể để tìm một phương thuốc nếu anh nói cho lão biết sự thật. Chanute đã già đi nhiều. Lão ngày càng ít mang cánh tay giả, vì nó làm lão mỗi lúc một đau đớn hơn, đồng thời tai lão kém hẳn đi, đến nỗi lão đã vài lần va phải xe ngựa trên bãi chợ. Jacob vẫn còn nhớ cảm giác những đòn roi từ đôi tay chai sần của lão già quất trên da mình, nhưng mọi thứ anh có được ở thế giới này đều nhờ Albert Chanute và những điều lão dạy anh. Anh nợ lão một lời nói dối.
“Hẳn rồi,” anh nói. “Quả táo. Làm sao tôi quên nó được chứ?” Khuôn mặt xấu xí của lão Chanute dãn ra thành một nụ cười nhẹ nhõm. “Đúng rồi. Chú mày sẽ làm được. Bất đắc dĩ lắm thì vẫn còn cái giếng nước ấy.”
Jacob quay lưng lại phía lão, để tránh bị đọc ra sự thật đang in rành rành trên mặt anh.
“Mẹ kiếp! Ta cứ ước gì con quỷ ăn thịt người cắn mất đầu chứ không phải cánh tay ta. Chanute lại ấn ấn tay lên bên má đau. “Chú mày còn rễ cây đầm lầy không?” Thứ rễ cây ăn để giảm đau, nhưng người ta sẽ bị ảo giác như hàng đàn ma trơi lập lòe trước mặt. Jacob lôi chiếc hộp thiếc tròn trong ba lô ra, nó là nhà thuốc di động của anh: rễ cây đầm lầy, thảo dược giảm sốt, một loại thuốc cao trị thương mà Alma đã bôi cho anh, i-ốt, aspirin và một ít thuốc kháng sinh mang từ thế giới phía bên kia. Jacob lấy trong hộp ra một cái rễ đưa cho Chanute. Nó giống con sâu róm khô quắt, vị rất tởm.
“Cáo đâu rồi? Cô ấy có đây không?”
Từ lâu cô đã linh cảm có gì đó không ổn, nhưng chừng nào anh còn hy vọng, anh vẫn cảm thấy dễ dàng tự thuyết phục bản thân rằng tốt nhất cô không nên biết sự thật. Anh nôn nóng được gặp lại cô.
Nhưng lão Chanute lắc đầu trong khi vẫn đang nhai rễ cây trong cái miệng méo xệch vì đau. “Không,” lão càu nhàu. “Nó bỏ đi mấy tuần nay rồi. Lão lùn Valiant muốn thuê chú mày tìm cho hắn bộ lông thiên nga lai người, nhưng vì chú mày không có ở đây nên nó nhận việc đó. Đừng có nhìn ta kiểu đó! Nó cẩn thận hơn chú
mày nhiều và khôn bằng cả hai chúng ta cộng lại. Nó đã lấy được bộ lông, nhưng con thiên làm cánh tay nó bị thương. Chẳng có gì đáng lo đâu. Nó đang ở chỗ lão lùn chờ vết thương bình phục hẳn. Lão đã dùng số vàng kiếm được từ cái cây của chú mày mua một lâu đài đổ nát nào đó. Cáo có gửi cho chú mày địa chỉ chỗ ấy.”
Lão nhấc hàm răng quỷ ăn thịt người dùng làm đồ chặn giấy lên, đưa cho Jacob một phong bì. Dấu huy hiệu khắc trên đó thếp vàng. Cái cây vàng Jacob bán để đổi lấy đường vào pháo đài của Goyl đã giúp Evenaugh Valiant trở thành một lão lùn giàu nứt đố đổ vách.
“Mang cho nó cái này khi chú mày đến gặp nó.” Chanute đẩy về phía anh một cái gói bọc vải lụa nho nhỏ. “Nói với Cáo cái này của Ludovik Rensman gửi. Cha hắn có một văn phòng luật sư nằm sau nhà thờ. Ludovik là người tốt. Chú mày phải thấy mặt hắn kìa, khi ta kể với hắn rằng bà ấy đã đi rồi.” Lão đảo mắt đầy vẻ mỉa mai. Người phụ nữ cuối cùng mà lão Chanute có dính dáng tới là một bà góa giàu có ở Schwanstein, nhưng bà không ưa mấy cái tiêu bản đầu sói lão mang treo trong phòng khách nhà bà.
“Aahhh!” Lão Chanute như vừa trút được gánh nặng, ngả người xuống giường. “Mấy cái rễ có vị còn tởm hơn mông phù thủy, nhưng công hiệu miễn bàn!” Lão vẫn đắp cái chăn sờn rách mà lão đã ngủ ngáy cùng nó trong những chuyến phiêu lưu nơi hoang dã. Có lẽ nó giúp lão mơ về những ngày tháng phiêu lưu xưa cũ của mình.
Vụn vàng lá dính trên ngón tay Jacob khi anh mở phong bì đựng lá thư của Cáo ra. Chữ viết của cô cơ bản là dễ đọc hơn chữ
anh nhiều, mặc dù chính anh đã dạy cô viết. Trong thư vỏn vẹn một dòng chào hỏi lạnh nhạt và chỉ dẫn đường đi. Anh đi khỏi quá lâu rồi.
“Gallberg,” anh lẩm bẩm. “Cách đây hơn mười ngày đường. Lão lùn muốn gì với một tòa lâu đài nơi khỉ ho cò gáy như thế?” “Làm sao ta biết được?” Ánh mắt lão Chanute lờ đờ. “Có lẽ lão muốn gần gũi với mẹ thiên nhiên chăng? Chú mày biết mấy lão lùn nhạy cảm thế nào khi tuổi đã cao mà.”
Đúng là vậy, nhưng nghe chẳng giống Evenaugh Valiant chút nào. Chắc hẳn lão đã khám phá được một kho bạc chôn bên dưới lâu đài. Jacob nhét lá thư của Cáo vào ba lô. Bộ lông thiên nga lai người... một chiến lợi phẩm nguy hiểm, nhưng Chanute đã đúng. Cũng như anh, từ bấy đến nay Cáo đã học được rất nhiều trong nghề săn kho báu.
“Sao chú mày không nhậu đi?” lão Chanute lè nhè, tay huơ huơ mấy con ma trơi tưởng tượng trước mặt. “Quả táo chẳng chạy đi đâu mà sợ!” Lão cười hi hi như trẻ nít với câu đùa của mình. “Ngộ nhỡ nó không công hiệu, chú mày vẫn còn danh sách của ta mà!”
Danh sách của lão Chanute. Nó được treo trong phòng khách bên dưới thanh kiếm lưỡi cong sứt mẻ cũ sì của lão: danh sách những báu vật thần kỳ mà lão lùng sục nhưng không bao giờ tìm ra. Jacob thuộc lòng những cái tên đó, nhưng chẳng có cái tên nào trong số đó có thể cứu mạng anh.
“Chắc rồi,” anh nói và đặt thêm vài rễ cây đầm lầy cạnh gối Chanute. “Giờ thì ngủ đi.” Mười ngày. Lão lùn chết tiệt. Anh chỉ có
thể hy vọng rằng Alma đúng và anh vẫn còn chút thời gian. Nếu anh chết trước khi gặp được Cáo, ngay cả cơ hội vặn cái cổ ngắn ngủn của lão Valiant anh cũng không có.
9
NÚI KHỈ HO CÒ GÁY
M
ười ngày đường trên lưng ngựa... Sau khi nghiên cứu tấm bản đồ lốm đốm vết bẩn của lão Chanute, Jacob quyết định đi bằng xe lửa. Lâu đài của Valiant tọa lạc ở nơi quá hiểm trở
đến nỗi lũ ngựa có thể gãy chân trên đường leo lên đó, và may mắn thay những người lùn trong mấy năm vừa rồi đã cho phá núi đào hầm, nên giờ đây ở gần đó có một nhà ga xe lửa.
Mất bốn ngày bốn đêm đi xe lửa. Một quãng thời gian quá dài với cái chết cận kề làm hành trang. Qua mỗi đường hầm, hơi thở của anh lại càng khó nhọc hơn, như thể có ai đang dùng xẻng đào đất trên ngực anh. Anh cố ép mình nghĩ đến những hồi ức của một tay săn kho báu từng săn chim lửa và trái hồ đào ngọc thạch cho lãnh chúa Varangia, nhưng trong khi Jacob cố hướng ánh mắt
mình vào những chữ cái in trên giấy, anh lại thấy những hình ảnh khác: máu trên áo sơ mi khi anh bị bọn Goyl bắn vào tim, Valiant trước ngôi mộ mới đào, và cứ trở đi trở lại là hình ảnh Hồng Tiên thì thầm tên cô chị vào tai anh. Bốn ngày...
Anh bước xuống thềm ga ngái ngủ, đi tiếp cáp treo lên đỉnh núi đá lởm chởm nơi tòa lâu đài của Valiant tọa lạc. Những bức tường vươn thẳng lên trên lớp tuyết dày, và Jacob nguyền rủa lão lùn thậm tệ khi anh phải trả một đồng tiền vàng cho một nông phu để thuê con lừa cáu kỉnh của gã leo lên đoạn đường dốc dựng ngược còn lại.
Tòa lâu đài trông chẳng ấn tượng chút nào. Tháp bên trái đã bị sập, mấy tòa tháp khác trông xấu xí tan tành như bị nã đạn, vậy mà lão Valiant nhe răng cười đầy tự hào khi đón Jacob trước cổng vào mục nát, như thể lão đã mua được cung điện của nữ hoàng.
“Không tồi, đúng không?” lão vừa bước về phía Jacob vừa nói, trong khi tên người hầu cáu kỉnh đỡ lấy túi xách từ tay anh. “Ta là chủ nhân của một cung điện! Ừ, ta biết mà. Việc sửa sang đang bị đình trệ một chút,” lão nói thêm khi thấy Jacob nhìn khắp một lượt tòa tháp đổ sập. “Không dễ để chở vật liệu xây dựng lên đây. Ngoài ra...,” lão liếc nhanh về phía tên hầu rồi hạ giọng,“... ngoài ra cái cây vàng làm ta tức điên. Gần đây nó chỉ toàn mưa ra phấn hoa vàng hôi thối.”
“Thật sao?” Jacob cố không để lộ vẻ thỏa mãn. Trước đây anh hiếm khi gặp may với cái cây.
Valiant vuốt chỏm râu lão đang nuôi. Nó nằm vắt ngang môi
trên của lão như con rết, nhưng người lùn nào nuôi nhiều râu hơn đều bị cho là cổ lỗ sĩ vô phương cứu chữa. “Chú mày khỏe chứ hả? Có đang đi săn thứ gì không?” Lão ném cho Jacob cái nhìn soi mói. “Trông chú mày nhợt nhạt quá!”
Tốt lắm. Bình tĩnh nào, Jacob. Không thể để cho lão lùn biết anh đang gặp rắc rối.
“Không, tôi ổn cả,” anh đáp. “Tôi đang tìm một thứ nhưng không tìm ra.” Lời nói dối an toàn nhất chính là lời nói dối gần với sự thật hơn cả.
Người hầu mở cửa lâu đài cho họ là một người trần. Không tên lùn nào với tới được tay nắm cửa, và không gì có thể chứng minh sự sung túc của Valiant ấn tượng hơn một người hầu là người trần. Trong khi người hầu đỡ lấy cái áo khoác bám đầy tuyết của Jacob, Valiant thao thao giới thiệu giá của từng món đồ nội thất đặt trong sảnh ở lối vào lồng lộng gió lùa. Tất cả chúng đều được làm ra cho người trần dùng - mấy gã lùn thích nhắm mắt làm ngơ chiều cao khiêm tốn của mình -, nhưng Jacob chẳng buồn để mắt đến mấy cái lọ hoa xứ Mauretanien hay mấy tấm thảm treo tường vẽ cảnh hoàng đế cuối cùng của người lùn làm lễ đăng quang.
“Nó ở trên lầu,” Valiant nói, khi nhận thấy ánh mắt anh. “Hôm qua ta đã gọi bác sĩ đến khám cho nó, dù nó không muốn. Hai đứa bây đã ở cùng nhau quá lâu. Giờ nó cũng cứng đầu hệt như chú mày. Nhưng nó mang về cho ta cái lông tuyệt cú mèo. Chú mày không kiếm ở xó xỉnh nào ra cái tốt hơn đâu!”
Lão Valiant để Cáo ở trong tòa tháp còn nguyên vẹn nhất lâu
đài của lão. Khi Jacob bước vào phòng, cô đang ngủ trên cái giường rộng thênh thang đối với một người lùn, nhưng chỉ vừa đủ dài với cô. Cô đã gặp may. Con thiên nga chỉ làm cô bị thương phần mềm. Jacob nhặt chiếc áo vấy máu rơi dưới sàn cạnh giường lên. Nó từng là của anh. Cáo đã học được từ Clara việc quần áo đàn ông có thể hữu dụng đến chừng nào.
Jacob kéo chăn đắp bên vai bị băng bó của cô. Trong mấy tháng qua cô đã thay đổi quá nhiều. Không còn nhiều dấu vết của cô bé xuất hiện trước mắt anh trong hình dáng người trần lần đầu cách đây năm năm. Cáo đã già đi quá nhanh đến độ anh phải liên tục cảnh báo cô không được biến hình quá thường xuyên. Một ngày nào đó cô sẽ phải lựa chọn giữa bộ lông cáo và cuộc sống dài lâu dưới hình dạng một người trần. Anh luôn tin rằng mình sẽ sát cánh bên cô khi cô phải ra quyết định ấy, nhưng giờ thì không có vẻ gì là anh có đủ thời gian chờ đến lúc ấy.
Anh vén sợi tóc đỏ rủ trên trán cô. Một chiếc lông vũ nằm trên bàn ngủ cạnh giường. Anh cầm nó trên tay và mỉm cười. Cô giữ một cái lại cho riêng mình. Lão Chanute cũng dạy anh hệt như thế: “Bất kể chú mày đi săn thứ gì cho khách hàng, luôn luôn nhớ giữ lại một ít cho riêng mình.” Đó là một chiếc lông vũ đẹp không tì vết. Jacob hiếm thấy cái nào đẹp hơn thế. Trong trường hợp đơn giản nhất là cô đã trộm nó từ tổ thiên nga, nhưng như thế thì quá nguy hiểm. Bọn thiên nga lai người cực kỳ hiếu chiến. Nỗi sầu thương không thể hóa giải được biến chúng thành thiên nga và chỉ có máu của đồng loại mới có thể giải thoát và trả lại chúng hình dạng con người. Jacob đã có lần suýt phải trả giá bằng một bên
mắt khi đi tìm đứa con trai bị hóa thiên nga của vợ một người thợ làm bánh mì. Lông vũ của người lai thiên nga chạm vào bất cứ thứ gì, thứ ấy cũng sẽ biến mất và chỉ xuất hiện trở lại nơi người ta đặt chiếc lông xuống. Lão Chanute dùng cách này để vận chuyển rất nhiều báu vật. Dù vậy không phải lúc nào nó cũng hiệu quả. Một số bị thất lạc trên đường.
“Đừng mơ tưởng. Chiếc lông vũ là của em.” Đôi mắt Cáo vẫn còn lơ mơ ngái ngủ. Cô rùng mình khi chống bên cánh tay bị thương để ngồi dậy.
Jacob để chiếc lông vũ trở lại bàn ngủ. “Từ khi nào em đi săn kho báu không có anh đi cùng thế?” Anh rất nhớ em, anh muốn nói thêm, nhưng ánh mắt cô thật lạnh lùng - vẫn như mọi lần khi anh rời đi quá lâu.
“Nhiệm vụ không mấy khó khăn. Còn em đã quá mệt mỏi vì phải chờ đợi.”
Cô đã trở thành phụ nữ từ khi nào anh không nhận ra. Trong mắt anh cô luôn xinh đẹp, từ lúc cô vẫn còn là một đứa bé gái gầy gò gỡ những quả ngưu bàng bất trị bám trên tóc. Xinh đẹp như những gì vốn hoang dại và tự do. Nhưng giờ đây cô mang vẻ đẹp của cáo trên làn da con người.
“Em lại biến hình quá nhiều rồi,” anh nói. “Nếu không cẩn thận, không chóng thì chầy em sẽ trông già hơn anh đấy.” Cô gạt tấm chăn ra. “Thì sao nào?” Cô đang mặc chiếc váy lông, cô luôn mặc nó mỗi khi ngủ vì sợ bị trộm mất. “Thôi lo lắng cho em đi. Trước giờ anh có như thế đâu.” Đúng vậy, Jacob, ngươi đang làm gì vậy? Ngươi sẽ thấy cô ấy có thể sống tốt biết bao khi
không có ngươi ở bên. Nhưng anh sẽ không được chứng kiến điều ấy.
Anh lấy trong ba lô ra cái gói nhỏ mà lão Chanute đã đưa cho. “Em chưa bao giờ kể với anh rằng ở Schwanstein có một người rất giàu có muốn cầu hôn em.”
Cáo gỡ lớp giấy và mỉm cười. Bên trong là một chiếc khăn choàng. Cô vuốt ve lớp nhung xanh ngọc rồi đặt cái khăn xuống cạnh chiếc lông vũ.
“Anh thì sao?” Cô nhìn anh dò hỏi. “Anh đã tìm thấy thứ cần tìm chưa?”
“Có và không.”
“Thế nghĩa là sao?” Cô kéo tay áo che bên vai bị băng bó. “Cuối cùng thì anh có chịu nói cho em biết anh đang tìm kiếm gì không?”
Nói đi, Jacob. Ngươi muốn nói với cô ấy mà. Cô ấy là người duy nhất ngươi muốn kể sự thật. Anh đã rất nhớ cô. Anh không thể chịu đựng việc phải che giấu nỗi sợ hãi của mình thêm nữa. Anh cởi áo sơ mi.
“Anh đang đi tìm một phương thuốc.”
Viền đỏ quanh dấu con bướm ma trông như thể có ai đó dùng máu vẽ lên.
Cáo hít một hơi thật sâu. “Thế này nghĩa là sao?” Giọng cô nghe khàn đục hơn bình thường.
Cô đọc được câu trả lời trên khuôn mặt anh.
“Thì ra đây là cái giá.” Cô cố giữ giọng thản nhiên. “Em biết
em trai anh không thể lấy lại làn da vô điều kiện như thế mà.” Đôi mắt cô ngấn nước. Mắt Cáo có màu nâu như màu vàng xỉn. Cô không biết liệu mình sinh ra đã có màu mắt ấy hay đó là do bộ lông cáo mang lại cho cô.
“Nàng tiên nào vậy?”
Nói gì đi, Jacob. Nói gì đó dỗ dành cô ấy đi. Nhưng nói gì mới được?
Anh bước đến và lau nước mắt trên má cô. “Người ta phải nhận hình phạt là cái chết khi dám bỏ rơi một nàng tiên, và anh đã làm mích lòng cả hai người bọn họ.”
Cáo vòng tay ôm lấy anh.
“Còn bao lâu nữa?” cô thì thầm.
“Anh không biết. Anh chẳng biết gì nữa hết.” Đó chỉ là một nửa lời nói dối. Jacob vùi mặt vào tóc cô. Anh chẳng muốn nghĩ gì thêm nữa. Anh muốn quay ngược thời gian, khi anh cùng cô đi tìm những phép màu đã mất và sống với niềm tin rằng mình bất tử và làm chủ cả thế giới này. Anh muốn vẽ vời ra mọi điều anh sẽ làm khi đã già như Chanute, mơ mộng sẽ mua một tòa lâu đài ở Etrurien hoặc kéo được mẻ lưới đầy vàng của cướp biển trên Biển Trắng. Những giấc mơ trẻ con. Anh hy vọng mình vẫn có thể mơ những giấc mơ ấy trong sinh nhật lần thứ một trăm. Thay vì vậy, giờ anh phải nghĩ xem mình muốn được chôn cất ở thế giới nào.
Có tiếng gõ cửa.
Valiant không đợi mời vào. Cáo rời vòng tay anh khi lão lùn bước vào phòng. Điều đó chỉ càng kích thích trí tưởng tượng của Valiant, nhưng Jacob không có ý định giải thích cho lão lùn biết lý
do thật sự đằng sau những giọt nước mắt của cô.
“Bữa tối thế nào đây?” Lão Valiant tặng Jacob một nụ cười châm chọc. “Ta có thịt linh dương. Ta biết nghe không có vẻ hấp dẫn lắm, nhưng ta thuê một đầu bếp từ Vena, hắn có thể nấu cả một bữa tiệc thịnh soạn chỉ từ một con lừa!” Lão gật gù với Cáo. “Hỏi nó xem, nếu chú mày không tin ta!”
Cáo cố nặn ra một nụ cười trên môi.
“Anh nên thử thịt linh dương đi,” cô nói.
10
ĐÀO SÂU
P
hòng ăn của lão Valiant cũng gió lùa y như những chỗ khác trong tòa lâu đài của lão, và Cáo cảm thấy biết ơn vì Jacob đã khoác chiếc áo jacket lên vai cô. Tất nhiên áo jacket hay ngọn
lửa đang được người hầu của lão Valiant nhóm trong lò với thứ gỗ ẩm ướt đều không thể giúp cô chống đỡ nỗi sợ hãi trong lòng. Bàn, ghế, chén đĩa, ly tách, ngay cả bộ dao nĩa cũng có kích cỡ dành cho người trần dùng, nhưng ghế có gắn những bậc thang cho lão lùn leo lên mà không phải xấu hổ vì phải nhờ người hầu đỡ. Tâm trạng lão đang tốt và may mắn làm sao lão cho rằng sự im lặng của Jacob là vì mệt mỏi sau chuyến đi.
Ngươi sắp mất anh ấy rồi, Cáo.
Những lời đó như chiếc vòng sắt bóp nghẹt tim cô.
Cô xấu hổ vì đã nghĩ rằng anh bỏ đi lâu như thế là vì Clara. Sau từng ấy năm đáng lẽ cô phải hiểu anh rõ hơn. Nhưng cô đã quá mệt mỏi - tình yêu vô vọng, nỗi khát khao anh. Thật tốt khi có thể quay lưng lại với Schwanstein và được một mình trong chốc lát, để cảm nhận sức mạnh của bản thân cô. Sống hạnh phúc mà không có anh. Yêu quá nhiều chẳng bao giờ là tốt cả, đặc biệt là yêu một kẻ cho rằng cảm xúc chẳng có ý nghĩa gì hơn một cơn say mà người ta nên quên đi sau giấc ngủ dài. Đôi lần cô thậm chí đã nghĩ rằng sẽ không quay lại Schwanstein nữa. Nhưng giờ mọi sự đã khác. Làm sao cô có thể bỏ mặc anh một mình được?
Valiant hỏi cô có thích thịt linh dương không.
Làm sao mà cô thích cho được? Ngay cả miếng thịt cũng nhắc cô nhớ đến cái chết. Cô chọc cái nĩa vào miếng thịt và ngước lên nhìn Jacob. Khuôn mặt anh trông rất trẻ, ngay cả khi anh đang sợ hãi. Và dễ tổn thương.
Ngươi đã hứa sẽ bảo vệ anh ấy. Trái tim cô thì thầm mãi những lời ấy. Ngày đó, khi anh ấy cứu ngươi thoát khỏi cái bẫy. Thì sao? Lời hứa trở thành vô dụng khi bị đem ra cân đong với cái chết. Nó giống như một con sói đang đói ngấu trong rừng. Cha ruột của cô bị nó cướp đi chẳng bao lâu sau khi cô chào đời, giờ đây cô chẳng thể nhớ nổi gương mặt ông, rồi ba năm sau đến lượt người chị gái duy nhất của cô cũng trở thành chiến lợi phẩm của nó.
Nhưng không phải Jacob!
Làm ơn, không phải Jacob.
Lão Valiant xúc đầy đĩa lần thứ ba và đánh cuộc với Jacob là
bọn Goyl tiếp theo sẽ tấn công Lothringen chứ không phải Albion. Ai thèm quan tâm điều đó chứ, hay liệu con gái của nữ hoàng có thật sự sinh cho vua Goyl một đứa con không. Ngoài kia gió rít từng cơn như con thú đói khát và đêm trở nên lạnh lẽo như nỗi sợ hãi trong lòng cô.
“Ừ, ta biết mà. Ta đã bỏ phiếu chống trong Hội Đồng Người Lùn!” Valiant đã uống quá nhiều. Cơn say càng làm lão thêm lắm mồm. Dĩ nhiên cái tăm mà lão đang dùng để khều thịt linh dương khỏi kẽ răng cũng được mạ vàng. “Kể ra cũng tham lam khi đào sâu như thế, nhưng cho đến giờ thì không gì mang lại nhiều tiền hơn mỏ sắt.” Lão lùn chờ cho đến khi người hầu dọn sạch mấy cái đĩa bẩn rồi mới chồm người trên bàn về phía Jacob. “Bọn chúng chẳng bao giờ có ý định đào sâu xuống Thành Phố Chết. Lũ ngu đó chỉ nhận ra điều ấy một khi chúng mở cánh cửa!”
“Thật sao?” Jacob ậm ừ.
Anh hầu như không ăn gì.
Cáo ném mấy mẩu xương trên đĩa cho hai con chó giữ nhà nằm trước lò sưởi. Bản năng cáo trong cô mách bảo thịt chúng mới ngon làm sao. Valiant không thích chó. Chúng quá to, lão chỉ cao hơn chúng ngót một gang tay, nhưng chúng được bán kèm với tòa lâu đài.
“Bọn chúng lẽ ra nên đổ cả xe tải đá ở trước cửa và quên phứt đi.” Valiant thả cái tăm xỉa răng vào tay người hầu. “Chú mày biết ta luôn thích những kèo thơm mà. Nhưng chúng muốn bán thứ đó cho ai chứ, trong trường hợp chúng quay trở vào đó?”
Jacob rót nốt chỗ rượu ít ỏi lão Valiant chừa lại trong chai.
“Quay trở vào cái gì?”
Rõ ràng là anh cũng ít để tâm lắng nghe như Cáo.
“Vào hầm mộ! Chú mày nghĩ nãy giờ ta đang nói về cái gì chứ? Nó chưa kể gì với chú mày hả?” Valiant ném cho Cáo cái nhìn đầy trách móc. Lão có lẽ đã kể câu chuyện cả tá lần. Nhưng cô bận rộn với những suy nghĩ của riêng mình và không thể chịu đựng thêm việc phải chăm chú lắng nghe những bài giảng dài vô tận về lịch sử và các vấn đề chính trị của người lùn. Một trong hai con chó đến ngửi ngửi bàn tay cô. Có lẽ nó đánh hơi được mùi cáo dưới lớp da người.
Lão Valiant hạ giọng. “Hầm mộ của đức vua không thể gọi tên ra. Kuesmund hay gì đó. Chú mày biết mà... Kẻ Tàn Sát Phù Thủy.” Jacob uống cạn ly rượu. “Guismund?”
“Ừ. Gì cũng được. Tối mật.” Lão Valiant vẫy một người hầu đến, chỉ chai rượu đã cạn. “Ngươi nghĩ cái này là gì hả?” lão quát. “Mang chai mới lên đây!”
“Gần đây rất nhiều người làm rượu trộn lẫn vang đỏ với bột tiên nhí!” lão thì thầm với Jacob trong khi người hầu vội vã chạy đi. “Ta tự hỏi sao họ không nghĩ ra trò này sớm hơn. Bọn họ nhốt tiên nhí trong lồng. Cả trăm cái lồng. Tuyệt vời.” Lão nâng ly với Jacob. “Uống mừng thời đại mới!”
Jacob nhìn ly của anh, như thể đang có mấy tiên nhí bị nhốt bơi trong đó.
“Hầm mộ có bị cướp phá không?” Giọng anh nghe thờ ơ như thể anh đang hỏi về tay thợ may y phục của lão Valiant.
Lão lùn nhún vai. “Chú mày biết Hội Đồng Người Lùn mà. Tiết kiệm không đúng chỗ. Không một tay săn kho báu nào họ gửi tới đó có thể trở ra. Nhưng ta phải nói là: Tốt thôi! Ai mà thèm thứ vũ khí có thể kết thúc mọi cuộc chiến chỉ với một phát bắn? Giao dịch như thế thì hay ho gì…?”
Lão lùn vẫn tiếp tục nói, và Cáo cảm thấy Jacob đang tìm kiếm ánh mắt cô. Cô không chắc mình sẽ thấy gì trong mắt anh, niềm hy vọng hay nỗi sợ hãi. Kẻ Tàn Sát Phù Thủy. Cô gắng nhớ lại những kẻ săn báu vật có dính líu gì với cái tên đó, nhưng tất cả những gì cô nhớ được là người ta có thể tìm thấy ở mọi nghĩa trang của phù thủy một bia đá nguyền rủa tên ông ta.
“Ông dẫn tôi đến khu hầm mộ được chứ?”
Valiant đang hào hứng nói về lợi nhuận khổng lồ mà người ta có thể thu được trong những cuộc chiến, nhưng câu hỏi của Jacob đột ngột làm lão lùn im miệng. Lão nở nụ cười quỷ quyệt trên môi, để lộ mấy cái răng bọc vàng dưới hàng ria mép khôi hài. “Ta biết mà. Chú mày gần như đã thuyết phục được ta rằng chú mày vẫn còn có lương tâm. Nhưng cuối cùng thứ chú mày quan tâm chỉ là làm ăn, đúng không?”
Jacob lấy ly rượu từ tay lão. “Ông đưa tôi đến đó được không? Tôi cần ông trả lời, trước khi ông ngã khỏi cái ghế đó vì uống quá nhiều.”
Valiant giật lại cái ly. “Chú mày muốn bán thứ đó cho ai? Bọn Goyl chăng? Hay chủ mày muốn thay đổi để làm vui lòng một vị vua người trần với sự giúp đỡ của chú mày và sửa sai những gì chú mày đã làm cho bọn mặt đá trong nhà thờ? Jacob Reckless, tay
săn báu vật, kẻ định đoạt ai sẽ thống trị thế giới.”
Mặt Jacob hơi tái đi. Anh không thích nhớ lại Đám Cưới Đẫm Máu và vai trò của anh trong đó. Giọng anh khàn đi vì giận dữ khi trả lời lão lùn.
“Tôi không giúp bọn Goyl, tôi giúp em trai mình.”
Valiant đảo mắt mỉa mai. “Ừ, ta biết. Chú mày là thánh nhân mà. Dù vậy chú mày nên mừng là bọn Goyl vẫn giữ bí mật về kẻ đã giúp chúng bảo vệ làn da đá trong Đám Cưới Đẫm Máu. Bọn chúng đang bị căm ghét hơn bao giờ hết. Những cuộc tấn công ở Vena chẳng là gì nếu so với sự chống đối mà chúng đang vấp phải ở các tỉnh phía Bắc. Ở Prussia và Holstein các cuộc mưu sát diễn ra hằng ngày, và Albion đang cung cấp vũ khí cho những người nổi dậy. Thế giới này là một thùng thuốc súng. Buôn bán thuốc nổ và đạn dược chưa bao giờ ngon ăn hơn. Hoa bách hợp tiên và kim phù thủy…” lão lùn làu bàu đầy khinh miệt,“Buôn bán mấy thứ đó xưa rồi! Buôn bán vũ khí. Đó mới là tương lai. Đôi tay người lùn làm ra những quả bom siêu hữu dụng!”
Nụ cười lão trông thật điên rồ như đang nhìn thấy thiên đường.
“Có gì trong hầm mộ vậy?” Cáo nhìn Jacob dò hỏi.
Lão Valiant dùng khăn ăn chùi chỏm ria mép ướt rượu. “Cái nỏ có khả năng sát thương ghê gớm nhất từ trước đến nay.” Lưỡi lão líu lại vì say. Cáo phải cố để hiểu được những lời lè nhè của lão. “Một mũi tên vào ngực tướng quân, thế là cả đạo quân sẽ biến thành một núi thây. Không tồi chút nào... chính bọn Goyl cũng chẳng kiếm đâu ra thứ vũ khí lợi hại như thế.”
Cáo nhìn Jacob khó hiểu. Chuyện này có nghĩa gì đây? Không lẽ anh muốn dùng thời gian còn lại của mình đi săn kho báu? “Phần của ta năm mươi phần trăm,” lão Valiant nói. “Không… sáu mươi. Hoặc chú mày quên việc này đi.”
“Tôi sẽ chia cho lão sáu mươi lăm,” Jacob nói. “Nếu chúng ta lên đường ngay sớm ngày mai.”
11
CÙNG NHAU
B
ột tiên nhí và rượu vang đỏ. Khi Jacob đưa Cáo về phòng, lão Valiant còn ngồi trên chiếc ghế to quá khổ của lão, chân gác trên cái bàn cũng quá khổ, đang nói chuyện với mấy bức tranh
treo trên tường, trong tòa lâu đài đổ nát, to lớn nực cười của lão. Lão và những nhân vật trong tranh, tất cả bọn họ đều đang đuổi theo những giấc mơ thời thơ ấu của mình.
Vai Cáo vẫn đau, cả khi cô cố gắng che giấu điều đó, Jacob tìm thấy dưới bếp một người hầu đang ngáp vắn ngáp dài, yêu cầu anh ta nấu cho anh một nồi nước nóng. Cái mỏ của thiên nga lai người chẳng phải là thứ vũ khí sạch sẽ gì, nên anh bôi thêm
thuốc cao mà Alma đã trộn cho anh lên vết thương. Vết cắn, vết dao cắt, những ngón tay cháy nám... Cũng như anh, Cáo chắc cũng không đếm nổi họ đã chữa thương cho nhau bao nhiêu lần trong suốt những năm qua. Jacob đã quá quen thuộc với cơ thể cô như quen với chính cơ thể mình, nhưng lần này anh bắt gặp mình ngượng ngùng khi chạm vào cô. Cô thuộc về anh như hình với bóng. Cô em gái nhỏ, người bạn thân tín nhất. Jacob yêu cô nhiều đến nỗi những thứ tình yêu khác dường như đều là những thứ anh phải bảo vệ cô tránh xa: trò chơi đầy khao khát mà người ta tốt hơn nên kết thúc trước khi đi quá xa. Anh ước gì mình nhận ra được luật chơi của Hồng Tiên sớm hơn.
Cáo không nói lời nào trong lúc anh thay băng cho cô. Thường thì sự im lặng của cô thể hiện niềm tin tưởng không lời, thứ đã kết nối họ với nhau. Nhưng lần này không như thế. Jacob mở cửa sổ hắt chậu nước loang máu ra ngoài trời tối. Gió thổi hoa tuyết bay vào phòng.
Cô bước đến bên cạnh anh, giơ tay ra bắt lấy mấy bông tuyết. “Anh tính sao? Anh muốn trao cây nỏ cho Hắc Tiên để đổi lấy mạng sống sao?” Cô vươn người ra ngoài cửa sổ, hít khí lạnh vào lồng ngực như thể điều đó có thể xua đi nỗi sợ hãi trong cô. “Hàng trăm ngàn cái chết chỉ để đổi lấy làn da cho anh sao? Từ bao giờ em nghĩ về anh xấu như thế?”
Cô nhìn anh. “Vì em trai mình anh có thể làm điều đó. Anh làm mọi thứ vì cậu ấy. Tại sao không làm cho bản thân anh được?”
Phải rồi, tại sao không, Jacob? Vì anh lớn lên với ý nghĩ hiển
nhiên rằng mạng sống của Will đáng giá hơn của anh sao? Gì cũng được.
“Anh không định trao đổi hay buôn bán cái nỏ đâu,” anh nói. Kẻ Tàn Sát Phù Thủy đã sử dụng nó ba lần. Mũi tên đầu tiên giết chết một tướng quân xứ Albion. Ông mang theo năm mươi ngàn người cùng xuống mồ. Mũi tên thứ hai giết chết tướng chỉ huy xứ Lothringen và bảy mươi ngàn binh lính. Vài tuần sau đó Guismund lên ngôi vua của cả hai vương quốc.
Cáo vươn tay ra đón lấy những bông tuyết đang rơi. “Em nghĩ là em biết mọi việc sẽ tiếp diễn như thế nào. Em đã quên mất câu chuyện. Nó luôn làm em sợ hãi.”
Tuyết gieo hoa băng trên da cô. “Một ngày nọ…,” tiếng cô vang lên trong đêm như thể cô bắt được những lời ấy từ trong bóng tối,“... con trai út của Guismund đang hấp hối. Gahrumet. Em nghĩ đó là tên của cậu ta. Một phù thủy đã đầu độc cậu ta để báo thù vì cha cậu đã giết chết hàng trăm anh chị em của bà ta. Con trai của hắn đau đớn quá kinh khủng đến nỗi hắn không thể chịu đựng thêm được nữa. Hắn bắn mũi tên vào tim cậu, nhưng con trai hắn không chết, mà ngược lại được cứu sống. Sau này cậu rất căm ghét cha của mình, nhưng cậu sống rất thọ.”
Cô đóng cửa sổ và quay người lại. “Đó chỉ là một câu chuyện cổ tích không hơn không kém, Jacob.”
“Thì sao? Tất cả mọi thứ trong thế giới này đều nghe như chuyện cổ tích. Anh sắp chết vì đã gọi tên một nàng tiên!” Anh bước đến phủi những bông tuyết bám trên tóc cô. “Tại sao không thể có thứ vũ khí có thể giết người khi được sử dụng với
lòng căm ghét, nhưng có thể cứu sống mạng người khi tình yêu hiện hữu chứ?”
Cáo lắc đầu. “Không có đâu.”
Họ đều biết rõ ai sẽ là người phải bắn ra mũi tên.
Jacob cầm tay cô.
“Em đã nghe lão Valiant nói rồi đó: không ai sống sót quay trở ra khỏi hầm mộ. Em biết là chúng ta sẽ làm được mà. Hay chúng ta cứ cùng nhau ngồi chờ ở đây cho đến khi Thần Chết đến mang anh đi?”
Cô nên nói gì nữa đây?
12
NHỮNG CÁI BÓNG SỐNG
N
hìn thung lũng nơi lão lùn phát hiện ra ngôi hầm mộ, không ai có thể nghĩ rằng trước đây nó từng nổi tiếng với những sườn đồi trải thảm hoa. Những nụ hoa gương có thể giúp ngay cả
bộ mặt xấu xí nhất cũng trở nên quyến rũ trong một vài giờ, nhưng làm giàu bằng buôn bán quặng sắt nhanh hơn thế nhiều. Thung lũng nằm trong dãy núi hiểm trở xứ Helvetia, cách lâu đài của lão Valiant non một ngày đường. Helvetia là một vương quốc quá nhỏ bé đến nỗi phải tốn nhiều công sức và tiền của để cầu hòa những người láng giềng hùng mạnh. Vương quốc này đã từng một lần bị Lothringen chiếm đóng, nhưng giành được độc lập với sự trợ giúp của đội quân người khổng lồ. Từ lúc một gã Stilz[*] cướp mất người thừa kế duy nhất của vị vua cuối cùng, vương quốc nhỏ bé được quốc hội cai trị, giữ gìn hòa bình với bọn Goyl
bằng cách cho quân đội của chúng hành quân qua vùng lãnh thổ này. Khi Jacob hỏi lão lùn đã phải trả bao nhiêu để được phép khai thác quặng sắt trong những thung lũng nở đầy hoa của Helvetia, Valiant chỉ mỉm cười thương hại. Vương quốc này cần nhiều đường hầm nếu họ muốn đưa vào khai thác những tuyến đường xe lửa và giao thông thuận tiện hơn, như những nước láng giềng của mình. Không ai có thể phá núi đào hầm giỏi hơn người lùn.
Ủng Jacob ngập lún vào tuyết khi anh trèo ra khỏi xe ngựa của lão Valiant. Từ mấy căn lều xiêu vẹo xung quanh khu khai thác quặng sắt người ta không thể nghĩ rằng ở đây có cả một gia tài đang được đào bởi lên từ lòng đất, khói bay ra từ ống khói viết một tương lai đen tối lên bầu trời.
Trước mấy cái thang lồng chạy xuống lòng đất, một đám lít nhít con cái của những người lùn đang chờ. Chúng có thể bò sâu xuống hầm mỏ như bao người khác và không hề sợ hãi trước các yêu tinh ở đó, những kẻ khiến cho hầm mỏ ở thế giới sau gương còn nguy hiểm hơn ở thế giới phía bên kia.
“Đây là thứ mà ông gọi là giao dịch hời hả?” Jacob hỏi lão lùn trong lúc họ đi ngang qua đám thiếu niên xanh xao còi cọc. “Trẻ con đi đào hầm mỏ sao?”
“Thì sao? Không có ta thì bọn chúng cũng làm thế thôi,” lão Valiant đáp trả vô cảm. “Cuộc đời này đầy rẫy những điều xấu xí!” Cáo nhìn chăm chú những người phụ nữ đang dỡ quặng từ những xe nhỏ chở hàng chạy ra từ lòng đất. “Ông có nghe nói về vụ một ông chủ hầm mỏ ở Austrien bị công nhân của mình bán cho yêu tinh không?” cô thì thầm với lão lùn.
Valiant ném cho Jacob một cái nhìn cảnh báo. “Chú mày nên chú ý đến nó đi!” lão lầm bầm và ghê tởm xô một trong mấy đứa trẻ lùi lại khi nó giơ bàn tay nhỏ xíu nhem nhuốc chạm vào chiếc áo khoác lông chồn của lão. “Nó nói năng cứ như bọn vô chính phủ chuyên đi bôi trét khẩu hiệu lên tường không sót nhà máy nào vậy.”
“Tôi sẽ thích lão hơn nếu lão ít tiến hành những vụ làm ăn đáng kính này đi,” Jacob nói khi anh đỡ đứa trẻ lên. “Giờ thì, dẫn chúng tôi đến hầm mộ ngay, trước khi một kẻ nào đó giết chúng ta để cướp áo khoác của lão trong cái lạnh căm căm này.”
Ba tòa nhà nằm sau hàng rào mắt cáo gỉ sét, nóc nhà phủ đồng để tránh yêu ma trên núi, đường sắt, ống khói, một kênh đào thoát nước... Không có dấu hiệu nào cho thấy người lùn đã tìm ra thứ gì khác ngoài quặng sắt nơi đây.
Cáo nhìn quanh. “Người ta có thể trông thấy Thành Phố Chết từ đây không?”
Lão Valiant lắc đầu và chỉ về phía Tây. “Nếu cô nhìn xuyên được núi.”
Kẻ Tàn Sát Phù Thủy đã cho xây dựng thành phố sau khi thống nhất cả ba vương quốc Albion, Austrien và Lothringen bằng chiếc nỏ thần và xứ Helvetia trở thành trung tâm của đế chế khổng lồ ấy. Silberthur. Đó là tên ông ta đặt cho nó trước đây, nhưng giờ nó chỉ còn là Thành Phố Chết, vì tất cả cư dân của thành phố đã biến mất cùng với cái chết của Guismund. Có những câu chuyện kể rằng khuôn mặt họ vẫn cúi nhìn từ những bức tường đổ
nát. Jacob chưa bao giờ được tận mắt nhìn thành phố hoang phế, vì lão Chanute luôn tránh xa Thành Phố Chết. Sau hơn bốn thế kỷ, bước trên những con đường bị bỏ hoang của thành phố vẫn được coi là không tốt cho sức khỏe.
Lão Valiant mở cánh cửa nơi hàng rào gỉ sét. Dây xích bị lỏng và nhiều dấu chân trên tuyết bẩn dẫn đến thang nâng của hầm mỏ.
“Tôi tưởng các người đóng cửa mỏ rồi chứ?” Cáo hỏi. Lão Valiant nhún vai. “Một quản đốc thỉnh thoảng ghé qua đây để kiểm tra mọi thứ. Tay thợ săn kho báu cuối cùng đã vào đó được một tuần rồi. Lão nặn ra một nụ cười thỏa mãn trên môi. “Ta cá ba chỉ vàng rằng tên ngốc đó sẽ không trở ra được.” Jacob mở cánh cổng. “Ba chỉ vàng? Nghe không tồi chút nào. Ông đặt cược gì cho tôi nào?”
Nụ cười của lão Valiant ngọt như mật ong. “Chú mày nghĩ ta ngu cỡ nào hả?”
Cáo thắp sáng một chiếc đèn mỏ trong hầm, treo phía dưới mấy cái thang nâng. Lão Valiant cẩn thận nhìn quanh, nhưng không ai trong đám đàn ông đang trông coi công nhân làm việc sau hàng rào chú ý đến họ. “Một lần nữa, để tránh rắc rối,” lão lùn thì thầm. “Ta…”
“... ta chỉ đưa tụi bây tới đây để xin lời khuyên của Jacob.” Cáo leo lên cái lồng lắc lư. “Ông nhai đi nhai lại với chúng tôi nhiều đến nỗi giờ mấy con chó của ông cũng thuộc lòng rồi đó. Nhưng tôi quên phần tiếp theo sẽ như thế nào rồi. Chúng tôi lấy cắp cái nỏ thần, rồi ông bị yêu tinh bắt cóc trước khi kịp ngăn chúng tôi
lại? Hay là yêu tinh ăn cắp nỏ thần và chúng tôi bắt cóc ông?” “Hài quá thể!” Valiant càu nhàu. “Rõ là cô chẳng hiểu ta đã mạo hiểm thế nào! Hội Đồng Người Lùn sẽ xử bắn ta nếu họ nghi ngờ bất cứ điều gì! Không ai bên ngoài hội đồng biết về hầm mộ đâu!”
“Không ai ngoài những thành viên hội đồng, thư ký của họ, vợ con, những công nhân hầm mỏ đã tìm ra khu hầm mộ...” Jacob nâng lão lùn lên thang. “Tôi không tin là bí mật của các người được đảm bảo. Bị xử bắn ư - vớ vẩn, lão luôn giỏi khua môi múa mép mà. Tôi phải hiểu điều đó chứ. Tôi đã muốn bắn lão cả tá lần rồi.”
Thang lồng chìm sâu xuống mãi. Khi nó chạm đất, ánh sáng từ những ngọn đèn của họ soi sáng vách hầm đẽo gọt thô, từ đây tỏa đi nhiều đường hầm khác. Những cột gỗ chống đỡ trần hầm thấp lè tè. Cuốc nhọn và xẻng dựng giữa những đống đá cuội. Trên một phiến đá phẳng là những đồ cống nạp cho yêu tinh còn sót lại: bột cà phê, những mẩu da vụn, mấy đồng tiền xu. Khi bọn chúng biến mất, các công nhân được dễ thở hơn một chút. Khi chúng ở đây, thể nào cũng có những tiếng thét the thé trong bóng tối, những cơn mưa đá và những ngón tay khẳng khiu chọc ngoáy vào mắt, vào mũi.
Đường hầm mà lão Valiant chọn hướng về phía Tây, nơi phía cao trên đầu họ là Thành Phố Chết nằm giữa những ngọn núi. Những chiếc máy khoan nặng trịch mà thỉnh thoảng họ va phải, có lẽ chỉ có ở viện bảo tàng trong thế giới của Jacob, vậy mà lão
Valiant thuyết minh về chúng đầy tự hào như là những thành tựu tối tân nhất của giới kỹ sư người lùn. Máy khoan làm lộ ra trên bức tường đá một cánh cổng tò vò, sau cánh cổng là cầu thang rộng dốc đứng dẫn sâu xuống phía dưới, hai hàng đuốc cháy sáng chạy dọc hai bên cầu thang. Muội than vẫn còn dính trên những giá đỡ bằng sắt. Một căn buồng rộng rãi mở ra phía cuối cầu thang. Mấy cái đèn khí gas nằm chỏng chơ rọi một dòng suối ánh sáng trắng nhợt nhạt lên nền đá, giữa sàn một gã khổng lồ con đang ngủ. Gã mặc đồng phục của quân đội người lùn, loạng choạng đứng dậy khi bị lão Valiant đá vào hông.
“Ngươi gọi thế này là đứng gác sao?” lão lùn quát gã. “Bọn ta trả cho ngươi gấp ba bọn lính gác người trần để làm gì hả?” Gã khổng lồ con nhặt mũ bảo hộ lên, tỏ vẻ sợ sệt mặc dù lão Valiant đứng cao chưa đến đầu gối gã.
“Báo cáo không có gì bất thường ạ!” gã ấp úng, lưỡi vẫn còn líu lại vì buồn ngủ. “Tôi được giao nhiệm vụ không để kẻ nào...” “Được rồi, được rồi, ta biết!” lão Valiant sốt ruột cắt ngang. “Ta đưa một chuyên gia từ xa đến đây. Đây là giấy phép của anh ta.”
Cái phong bì lão rút từ túi xách ra nhỏ xíu đến nỗi những ngón tay to bè khó lòng mà cầm được, lão Valiant nháy mắt xảo quyệt với Jacob khi gã khổng lồ con ngẩn mặt nhìn chăm chú tờ giấy bé xíu.
“Sao nào?” lão Valiant quát gã. “Nhìn ta mà xem! Ta biết với các người thì người lùn nào trông cũng giống nhau, nhưng đáng lẽ ngươi phải nhớ mặt ta kỹ hơn chứ. Ta là một trong những chủ
nhân của khu hầm mỏ này.”
Gã khổng lồ con ngáp một cái và chỉnh lại nón bảo hộ. Đoạn gã nhét cái phong bì vào túi áo đồng phục và bước sang một bên. Cánh cửa lộ ra sau thân hình khổng lồ của gã viền quanh bởi một dãy đầu lâu. Những vết cắt nhỏ trên mũi chứng tỏ tất cả đều là đầu lâu của những phù thủy.
Guismund, Kẻ Tàn Sát Phù Thủy... Lão Chanute đã có lần kể cho Jacob nghe về ông ta trong một nhà nghỉ đầy chấy rận. Lúc ấy lão say khướt đến mức không phát âm nổi cái tên. “Guismund... đúng vậy... không người nào hiểu rõ về pháp thuật hơn hắn. Chú mày biết họ gọi ông ta là gì không?” Jacob nghĩ anh đã nghe thấy giọng nói của chính mình, giọng trong trẻo của một chú bé: “Kẻ Tàn Sát Phù Thủy.” Cái tên ấy chứa đựng tất cả lý do để anh đi theo lão già săn kho báu: sự nguy hiểm, những điều kỳ bí và lời hứa hẹn về những kho báu được phù phép, những thứ có thể dát vàng cuộc đời anh, cuộc đời mà ở thế giới bên kia gương anh chỉ biết đến sự nhàm chán và thèm muốn.
Ngay từ hồi đó lão Chanute đã không phải giải thích với Jacob vì sao Guismund lại có biệt hiệu đó. Trong cả hai thế giới ở hai bên gương, không ai có quyền năng phép thuật bẩm sinh, nhưng trong thế giới này có cách để lĩnh hội được điều đó. Đó là một con đường tàn bạo mà Guismund không phải là kẻ độc hành trên đó: Người ta uống máu phù thủy khi nó vẫn còn ấm. “Ông ta đã giết bao nhiêu phù thủy?” Lão Chanute rót đầy ly lần nữa với thứ rượu cay sè, thứ rượu đã cướp đi của lão một cánh tay và gần như cả sự minh mẫn. “Làm sao ta biết được? Hàng trăm. Hàng ngàn... Chẳng ai
"""