"Nhà Tình Báo Vĩ Đại Nhất Thế Kỷ XX PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nhà Tình Báo Vĩ Đại Nhất Thế Kỷ XX PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo 5 Mục lục 1. Thay lời tựa 2. Người “công dân quốc tế” 3. Từ giảng đường đại học đến chính trường 4. Trên những nẻo đường châu Âu 5. Những ngày tháng âm thầm ở Thượng Hải 6. Về Đức, sang Mỹ để đến Nhật Bản 7. Tiếng nói có trọng lượng đáng nể 8. Mạng lưới hình thành 9. Mát-xcơ-va mùa hè 1935 10. Những năm tháng thử thách khốc liệt 11. Ngồi ở Tokyo hiểu thấu tình hình ở Berlin 12. Điện đài đã phát tín hiệu 13. Tai họa bất ngờ 14. Trong chảo lửa 15. Hitler quay súng! 16. Năm định mệnh 17. Mộ chí người anh hùng 18. Richard Sorge - anh hùng Liên Xô 19. Một số hình ảnh cuộc đời hoạt động của Richard Sorges Thay lời tựa Richard Sorge là nhà tình báo vĩ đại nhất thế kỷ XX. Đã có hàng chục quyển sách của tác giả nhiều nước viết về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Tuy vậy, cho đến nay, khi loài người bước vào thế kỷ XXI, cuộc đời và chiến tích của ông - điệp viên số 1 thế kỷ XX - vẫn còn là bí ẩn đối với thế giới. Người ta vẫn tiếp tục săn tìm bí ẩn ấy. Richard Sorge là “sản phẩm” của hai dân tộc Nga và Đức. Cha ông là người Đức, mẹ là người Nga. Ông từng sống và lớn lên ở quê mẹ và tham gia cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất trong bộ quân phục lính chiến Đức trong các chiến hào. Sorge bị thương trong cuộc chiến tranh này và từ thời điểm ấy đánh dấu bước ngoặt cơ bản trong cuộc đời ông. Là người thông minh, học rộng, Richard Sorge nhanh chóng nhận rõ bản chất phi nghĩa của các cuộc chiến tranh xâm lược mà kẻ chủ xướng là chủ nghĩa tư bản - đế quốc và nỗi thống khổ của các dân tộc, vật hy sinh của các cuộc chinh phạt ăn cướp ấy. Qua đó, từng bước Sorge ý thức vị trí và sứ mạng của một trí thức chân chính trong cuộc chiến đấu lâu dài chống áp bức bóc lột và bất công. Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917 đã mang lại niềm tin và hy vọng cho ông. Bằng cách riêng, ông đã chọn cho mình con đường trở thành người chiến sĩ quốc tế chiến đấu cho sự nghiệp cao cả của nhân loại theo gương cuộc Cách Mạng Tháng Mười Nga. Từ một nhà báo, một phóng viên mặt trận, Richard Sorge trở thành nhà tình báo lớn, đóng góp cực kỳ quan trọng, góp phần đập tan chủ nghĩa phát xít Hitler - Mussolini và chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản trong cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai. Ông đã hy sinh anh dũng trong khi thực hiện những nhiệm vụ tuyệt mật - nửa năm trước khi phe trục Đức-Ý-Nhật bị đập tan trên chiến trường châu Âu và châu Á. Richard Sorge được Nhà nước Liên Bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết chính thức truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô năm 1964. Liên Xô đã xây dựng phần mộ của ông tại Nhật Bản và dựng tượng đài tôn vinh chiến công thầm lặng nhưng vô cùng hiển hách của ông tại Matxcơva. Các nhà văn và điện ảnh Xô viết đã dựng bộ phim nhiều tập tôn vinh một phần sự nghiệp to lớn của “Người tình báo vĩ đại” này. Bộ phim mang tựa đề “Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân”, được người xem ở Liên Xô và trên thế giới hâm mộ đặc biệt. Nhưng đó chỉ là một phần nhỏ trong sự nghiệp rất lớn của Richard Sorge. Tác phẩm nghệ thuật dù đã được xây dựng công phu với nhiều trường đoạn ngẫu hứng dựa trên chất liệu thật của đời hoạt động của Richard Sorge, nhưng những gì người ta khám phá và mới biết về ông, về đời tư và về những chiến công thầm lặng của ông còn hấp dẫn hơn nhiều so với những gì đã được đưa lên màn ảnh. Qua đó đủ biết cuộc đời và sự nghiệp của Richard Sorge rất phong phú và cũng uẩn khúc hơn nhiều so với những gì các tác giả biết và hư cấu về ông. Năm 1996 một nhà văn Anh, Robert Whymant, “được phép lục lọi” kho tư liệu và hồ sơ khổng lồ tuyệt mật về hoạt động của Sorge trong những năm ở Nhật Bản của cơ quan An ninh Liên Xô (KGB), của CIA, của Cục Mật vụ Nhật Bản và Cơ quan phản gián Anh, tập hợp những tư liệu quan trọng nhất và Nhà xuất bản Châu Âu đã ấn hành dưới tiêu đề “Richard Sorge - người mang ba bộ mặt”. Cũng như mọi cuốn sách khác viết về con người cụ thể trong lịch sử, nhà văn, nhà viết chân dung nào cũng “đứng trên lập trường giai cấp” của họ để “phán xét các nhân vật”. Tuy họ có thể bình luận các sự kiện theo cảm quan chính trị của mình, nhưng không ai có thể bóp méo hoặc xuyên tạc lịch sử, bởi vì họ không phải là những người giữ độc quyền kho tư liệu sống ấy. Richard Sorge không là ngoại lệ đối với Robert Whymant. Đối với Richard Sorge thì quyển sách của Robert Whymant không phải là quyển cuối cùng. Whymant chỉ mới có tư liệu trong 8 năm hoạt động của Sorge ở Nhật Bản mà sách đã dày 500 trang. Cuốn sách cung cấp cho bạn đọc nhiều tư liệu rất mới, trong đó có những chi tiết chưa từng được công bố và hơn 30 bức ảnh, trong đó có những bức mới được công bố lần đầu tiên. Một trong những chi tiết rất mới, rất hấp dẫn được công bố lần đầu là mối tình đặc biệt giữa nhà tình báo vĩ đại và một phụ nữ lao động Nhật Bản bình thường nhưng có lòng tin sắt son vào sự nghiệp của người nàng ngưỡng mộ, người có tấm lòng vàng thủy chung son sắt cho đến khi người tình không còn trên cõi đời này và cho đến tận hôm nay, hơn nửa thế kỷ sau khi người yêu khuất bóng trên cõi đời. Nhà văn Robert Whymant may mắn được diện kiến bà Miyake Hanako và được bà cung cấp cho nhiều tư liệu hết sức quý giá về “người đàn ông tuyệt vời” (câu nói của bà Hanako mỗi lúc nhắc đến Richard Sorge). Trường đoạn cảm động này làm bạn đọc thắt tim rơi lệ. Cũng chính Hanako là người xây mộ, dựng bia cho người anh hùng bên cạnh các đồng chí của ông đã hy sinh vì sự nghiệp cao cả. Tất cả họ đã hy sinh cho ngày chiến thắng tháng Tám năm 1945 lịch sử ấy mà dường như đã có không ít người lãng quên dù cố ý hay vô tình. Từ những tư liệu lịch sử, từ nhiều quyển sách và kịch bản điện ảnh viết về cuộc đời hoạt động tình báo của Richard Sorge, từ hồi ký của bạn bè, người thân và chiến hữu của ông và từ nhiều tư liệu mới nhất được công bố trong cuốn sách của Robert Whymant, chúng tôi xin trân trọng gửi đến bạn đọc bản biên dịch những trang đời sôi động và những chiến công thầm lặng nhưng vô cùng hiển hách của nhà tình báo vĩ đại, “Điệp viên số 1 thế kỷ XX”! Loài người được sống trong hòa bình hôm nay ghi nhớ công lao xuất sắc của ông, cảm ơn ông đã hy sinh cả sinh mạng của mình trong cuộc chiến đấu chống các thế lực tàn bạo, kẻ thù của nền văn minh nhân loại. TS. Trần Nhu NGƯỜI “CÔNG DÂN QUỐC TẾ” Richard Sorge sinh năm 1895 trong một gia đình khá giả. Baku, thủ đô Azerbaizan - là mảnh đất khai sinh của Richard. Hồi ấy cha ông là chuyên gia khoan dầu hỏa của Đức làm công cho Công ty dầu mỏ Thụy Điển của anh em nhà Nobel. Kỹ sư Sorge là một trong những kỹ sư được trả lương hậu trên công trường khai thác dầu mỏ hai bên bờ biển Caspie. Ngôi nhà sang trọng của gia đình Sorge không khác gì biệt thự của các “quan thuộc địa” da trắng ở các nước thuộc địa, tách hẳn khu nhà lụp xụp của cu li nội địa và lao động từ nhiều nước khác đến làm thuê cho Công ty Kapkaz của nhà Nobel, bất kể họ là người Đức, người Thụy Điển, người Mỹ hay người Nga. Cuộc sống đầy đủ, sung túc thường để lại những hoài niệm trong lòng chàng trai này suốt hàng chục năm bôn ba khắp các chiến trường, các vùng lãnh thổ châu Âu, châu Á, châu Mỹ. Khi Richard lên hai tuổi gia đình chuyển về Berlin, thủ đô của đế chế Đức thời Wilmhelm đệ nhị. Richard Sorge nhớ lại cuộc di chuyển về Berlin như là đến vùng đất lạ. Cảm giác này được Richard ghi lại trong nhật ký của mình: “Cuộc đời tôi bỗng thay đổi. Tôi sinh ra ở Kapkaz và bây giờ đến Berlin lúc mới hai tuổi”. Gia đình sống tại một biệt thự đầy đủ tiện nghi trong khu phố của tầng lớp trung lưu khá. Vào thời gian này bố của Sorge bắt đầu nghề nghiệp mới, trở thành người quản lý một ngân hàng nhập khẩu hàng hóa từ Nga. Thời ấy nước Đức đang sống trong hòa bình. Trong hồi ký, Richard Sorge viết: “Cho đến khi nổ ra chiến tranh (đại chiến thế giới lần thứ nhất - TN) tuổi thơ và những năm niên thiếu của tôi trải qua trong lòng giai cấp tư sản giàu có, đầy đủ mọi thứ. Chúng tôi không phải lo lắng đến vấn đề kinh tế. Đời sống của chúng tôi khác hẳn so với giai cấp trung lưu trung bình Đức”. Bố của Sorge từng làm việc nhiều năm ở nước ngoài. Khi ở Azerbaizan ông yêu một phụ nữ Nga, bà Nina, và họ đã trở thành bạn đời của nhau. Năm 1905 Richard lên chín tuổi và từ năm đó đến năm 1914 - năm nổ ra đại chiến thế giới lần thứ nhất - là học sinh trường nội trú ở Lich-tơ-phen. Cậu được giáo dục và dạy dỗ theo ý chí và tinh thần kỷ luật Đức, phục tùng chế độ quân chủ vô điều kiện theo tinh thần Đông Phổ. Nhưng như Richard nhớ lại thì cậu là một học sinh tồi, thường chống các quy định hà khắc. Nhiều ngày cậu chỉ im lặng cả khi thầy hỏi. Tuy thế, đối với những môn học cậu ưu thích Richard đã không giấu nổi, không kìm hãm nổi tính cách trẻ con của mình. Richard học khá môn văn, lịch sử, triết học, chính trị học và dĩ nhiên là thể thao. Ở môn thể thao Richard hơn hẳn các bạn đồng học một hai cái đầu. Những môn còn lại cậu chỉ đạt điểm trung bình và thường là trung bình yếu. Richard cho biết trong các năm 1912-1913 cậu đã luyện tập theo chỉ dẫn của các huấn luyện viên tài năng nhằm chuẩn bị cho Thế vận Hội năm 1916 ở các môn chạy tốc lực, nhảy xa và nhảy cao. Thế vận hội năm 1916 đã không được tổ chức do đại chiến thế giới lần thứ nhất. Thay vì chứng minh tài năng trên đường piste, số phận đã đưa Richard đến các chiến hào trên mặt trận châu Âu để rồi trở thành “người thọt” sau khi được giải phẫu do xương chân bị gãy vì lựu đạn của đối phương. Lên 15 tuổi Richard tìm được niềm say mê văn học Đức, tìm được những người bạn lý tưởng trong các tác phẩm kinh điển của những nhà văn lớn Đức, đặc biệt là Wolfgang von Goethe và Friedrich Schiller. Những vở kịch của Schiller như cởi tấm lòng chàng trai trẻ này. “Âm mưu và tình yêu”, “Don Carlos” và “Những tên cướp” đã thức tỉnh trong cậu ý thức xã hội sâu sắc mà giới trẻ Đức thời đó tìm kiếm. Và Richard Sorge đã cố gắng hết sức mình để tìm hiểu lịch sử và nhất là để hiểu triết học của Kant. Không phải ngẫu nhiên mà cuộc cách mạng Pháp đã thật sự biến những thông điệp sôi động trong những vở kịch bốc lửa thành hành động và đã chắp cánh cho những ước mơ và hoài bão giàu trí tưởng tượng của chàng trai Richard Sorge. Chàng thích thú những tên cướp, trong số đó người anh hùng Karl Moor đã trở thành kẻ sát nhân và thủ lĩnh của băng cướp khi hắn ta không còn tìm được con đường nào khác để có thể sửa đổi những bất công tràn ngập xã hội. Đó là chuyện không chỉ gây sự quan tâm của chàng trai trẻ Sorge mà cũng đã ảnh hưởng suốt cả cuộc đời anh, cho đến khi bị hành quyết. Chiến đấu và chiến thắng bất công đòi hỏi hy sinh tinh thần và cơ thể. Sống trong lòng xã hội náo động ấy, chàng trai Richard tỏ ra rất quan tâm mọi chuyện. Cậu đã đọc tất cả báo chí để mong hiểu được, nắm bắt được diễn biến chính trị đang diễn ra hối hả. Anh từng viết: “Tôi hiểu những vấn đề thời sự của nước Đức hơn hẳn những người lớn tuổi... Trong trường học, bạn đồng học gọi tôi là “ngài thủ tướng...”. Một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất đến cảm quan thời cuộc của Richard Sorge là Friedrich Adolf, chiến sĩ cách mạng tiên phong và là chiến hữu của Karl Marx. Richard Sorge viết về ông như sau: “Tôi biết những cống hiến của ông nội cho phong trào công nhân đức”. Thật ra Friedrich Adolf Sorge không phải ông nội mà là bác ruột của cha cậu. Ông là nhà tổ chức có tài của giai cấp công nhân Đức cùng thời với Karl Marx và Friedrich Engels. Sau khi hai lãnh tụ của phong trào công nhân Đức và quốc tế qua đời, Friedrich Adolf Sorge sang Mỹ và trở thành nhà tổ chức giỏi của giai cấp công nhân công nghiệp Hoa Kỳ. Ông qua đời năm 1906. Richard Sorge đã đọc tất cả những bài báo, những bài bút chiến của “ông nội” và tìm được vô số kiến thức trong những trang viết đầy nhiệt huyết ấy. Trái lại, người cha bảo thủ của cậu chẳng chút quan tâm những gì đang diễn ra sôi động ngay trên quê hương mình. Richard từng lý giải chuyện này như sau: “Không nghi ngờ gì nữa rằng cha tôi là một người dân tộc chủ nghĩa, một tư sản. Với những khoản thu nhập lớn kiếm được trong những năm làm việc ở nước ngoài, ông chỉ lo việc củng cố vị trí xã hội của mình một cách đầy ý thức. Và ông càng giàu lên với năm tháng”. Richard gia nhập phong trào thanh niên, tham dự các hoạt động sôi nổi của tuổi trẻ, đi cắm trại và hát những bài tôn vinh “sự tinh túy của nhân dân Đức”. Sorge tỏ ra là người yêu nước nhiệt thành thế hệ mình. Buồn thay, vào lúc những đức tin mãnh liệt của anh còn chưa được định hình ổn định thì chiến tranh do chính vua Đức phát động bùng nổ và cùng với chiến tranh, thế hệ của Sorge phải xếp bút nghiên ra trận và... vỡ mộng vàng. Vua Wilhelm đệ nhị phát động cuộc chiến tranh chống nước Nga của Sa hoàng khi Richard tròn 18 tuổi. Vào thời điểm đó Sorge và bạn bè đang chu du ở Thụy Điển. Theo tiếng gọi của đất nước, họ đã nhanh chóng đáp chuyến tàu thủy muộn, trở về quê nhà ngay trong đêm. Trên cảng họ gặp những đoàn quân rầm rộ ra trận. Một phong trào yêu nước rầm rộ khuấy động toàn nước Đức. Tuổi trẻ cùng trang lứa với Richard Sorge “xếp bút nghiên” và khoác súng lên vai thay cho bút sách. Người Đức ra trận như đi trẩy hội, bởi vì theo họ thì đó là “niềm vui của cuộc đời mới!” Richard Sorge không là ngoại lệ. Người ta đăng lính như đi hội, không cần giấy triệu tập, khỏi cần lệnh động viên. Richard Sorge đưa đơn đăng lính về cho mẹ. Bà Nina là một người Nga điển hình, chịu thương chịu khó, có tấm lòng bao dung và từng hết mực tự hào về con, đặc biệt là về cậu út Richard. Richard yêu mến mẹ hết mực, về tất cả những gì liên quan đến mẹ. Vào đúng lúc nhận từ tay con trai tờ giấy đăng lính, bà Nina đã như đổ gục xuống sàn. Bà không thể tưởng tượng được trong những ngày tới thằng con bé bỏng, ương bướng của mình sẽ đối mặt với rừng súng đạn trên các chiến hào! Trái lại, nhà dân tộc chủ nghĩa, Sorge Jenior, đã ủng hộ quyết định của con. Chỉ tiếc rằng ông ta không bao giờ còn được nhìn con trai trong bộ quân phục kiêu hãnh. Ông đã qua đời khi chưa tròn 60 tuổi. Ông mất đi nhưng đã để lại cho vợ con một gia tài khá và vị trí xã hội cao. Chỉ có điều không bình thường là Richard Sorge hầu như không nhắc đến tên người cha trong suốt hơn 30 năm hoạt động sôi nổi của mình. Về quyết định của mình vào thời điểm lịch sử này, Richard viết: “Điều gì thúc giục tôi đi đến quyết định ấy chính là đòi hỏi phải tìm kiếm kinh nghiệm mới cho cuộc đời. Đó cũng là mong muốn của tôi giải thoát khỏi những ngày chán ngán trên ghế nhà trường và khỏi cuộc sống vô nghĩa của một thanh niên mười tám tuổi. Đương nhiên là còn có lý do và sự kích thích tính ngông cuồng của tuổi trẻ vào cuộc chơi... bằng súng đạn thật trên chiến trường!” Richard Sorge trở thành pháo thủ Trung đoàn pháo binh số 3. Tháng 9 năm 1914 - một tháng sau ngày nhập ngũ - đơn vị của anh xuất hiện tại mặt trận bên dòng Yser xứ Flander (thuộc Hà Lan). Ngày 11-11-1914 Richard phát hỏa lần đầu tiên trong đời lính. Đơn vị của anh phải tấn công hai tiền đồn của quân Pháp và Bỉ. Hỏa lực của đối phương đã kìm chặt tiểu đoàn sinh viên Đức. Cùng với tiểu đoàn sinh viên, các tiểu đoàn khác của trung đoàn và nhiều đơn vị khác của Đức đã bị đánh phủ đầu ác liệt. Hàng ngàn lính ngã xuống miệng vẫn còn hô to “Vì tổ quốc, thề hy sinh tất cả!” Trong nhật ký của mình, Sorge từng ghi về “sự điên khùng của những sinh viên học sinh tình nguyện, tự đưa mình ra làm đích ngắm của các loại súng đạn, trở thành ‘thức ăn cho đại bác’ của Erich von Falkenhayn.” (Bộ trưởng chiến tranh Đức hồi đó - TN). Nhưng những cơn ác mộng của Richard Sorge còn ở phía trước. Trong những chiến hào ngập ngụa bùn và máu ở Flander Richard Sorge bắt đầu tự vấn về sự vô nghĩa của chiến tranh. Trên mảnh đất này các cuộc chiến tranh diễn ra liên tiếp trong nhiều thế kỷ qua. Vì sao chứ? Ai được hưởng lợi trong những cuộc chém giết này? “Không một đồng đội nào của tôi hiểu được mục đích của cuộc chiến tranh này. Phần lớn những người lính đều trẻ măng, tuyệt đại bộ phận là công nhân và thợ thủ công. Hầu như tất cả bọn họ là đoàn viên công đoàn, trong đó có rất nhiều đảng viên xã hội chủ nghĩa. Đơn vị tôi chỉ có một tên cực đoan - thợ đá ở Hamburg - từ chối mọi chuyện trò và liên hệ với người khác khi đám lính bàn về chính trị. Chúng tôi trở thành bạn tốt của nhau. Anh ta kể cho tôi về cuộc sống của mình ở Hamburg trong cảnh thất nghiệp và bị truy lùng. Đầu năm 1915 anh đã ngã xuống trên chiến lũy, ít lâu trước khi tôi bị thương lần đầu tiên.” Đầu hè 1915 Sorge bị thương do một quả đạn pháo của quân Bỉ, được cấp cứu tại trạm xá dã chiến và sau đó được đưa về bệnh viện quân đội ở Berlin. Trong thời gian điều trị ở đây, Richard đã tận dụng thời gian để học tập. Anh tham dự các giờ giảng của khoa y trường đại học tổng hợp Berlin. Những ngày ở hậu phương anh thương binh Richard chứng kiến những hậu quả của chiến tranh: hàng hóa khan hiếm, giá cả leo thang chóng mặt, chợ đen làm chủ thị trường và những người nghèo không làm cách nào đủ tiền tối thiểu để nuôi sống gia đình. Đàn ông mạnh khỏe “tràn trề sức sống” nghe theo lý tưởng rỗng tuếch về một châu Âu tốt đẹp đi tìm cái chết trên chiến trường để mong “có chỗ đứng xứng đáng trong lòng nước mẹ Đức”. Nhưng nước Đức mà Sorge đang đối mặt chỉ còn là một bãi lầy của bọn tham quan, của những tên thực dụng và của bọn tham nhũng, lừa đảo. Richard Sorge bắt đầu hiểu được những mô-típ chiến tranh của người Đức và cảm thấy tức giận khi anh nhận ra rằng sự thật là những kẻ cầm quyền chỉ thực hiện chính sách giành bá quyền ở châu Âu. Biết vậy, nhưng sau khi lành vết thương anh lại trở về đơn vị. Lần này Sorge được điều về mặt trận phía Đông. Một lần nữa Sorge bị thương và được đưa về chữa trị ở Berlin. Trong thời gian này Richard đã tranh thủ thi lấy bằng Tú tài. Lễ phát bằng diễn ra ngày 19-1-1916. Sorge đạt điểm khá các môn Lịch sử, Địa lý, Toán, Vật lý và Hóa học. Sorge dự thi trong khi bị thương nặng, đang điều trị. Vì vậy kết quả không thâỳt xuất sắc âu cũng là chuyện không khó hiểu. Với bằng tú tài, Sorge được phong hàm hạ sĩ thuộc Trung đoàn pháo binh 43. Richard Sorge luôn trong tâm trạng chán ngán. Lòng tin vào chiến thắng đã biến mất. Kinh tế suy sụp. Nhiều gia đình lính lâm vào cảnh bần hàn, đã có những người vợ lính góa chết đói. Giai cấp trung lưu của anh cũng đã nghèo đi trông thấy. Người ta vẫn còn chờ đợi “sự vượt trội trí tuệ của người Đức” làm chất liệu an ủi. Richard Sorge căm thù sự ngạo mạn của “các đại diện chủng tộc Đức”. Những nhà cầm quyền chủ trương chiến đấu cho một “châu Âu hài hòa” ngày càng vỡ mộng. Cũng như Anh, Pháp, nước Đức cũng đã không có được một tầm nhìn làm cách nào cho thế giới tốt đẹp hơn. Trong sự ngờ vực khôn cùng này, Sorge còn đủ tỉnh táo để khẳng định: “Từ nay bất kể người ta thuộc chủng tộc nào đều đáng bị phỉ nhổ khi nhân danh một dân tộc nào lấy chiến tranh làm phương tiện phục vụ lợi ích của họ.” Những gì Sorge mục kích, chiêm nghiệm trong thời gian điều trị ở Berlin đã buộc anh nhất thiết phải thẩm định những quan điểm về giá trị của giai cấp trung lưu xuất thân của anh và lý tưởng yêu nước mà anh đã theo đuổi bất chấp sinh mạng của mình. Dù vậy, trong bối cảnh bế tắc khi đi tìm lối ra, mùa xuân 1916 Richard Sorge đã trở lại mặt trận phía Đông. Sorge giải thích hành động này là “tôi có cảm giác tốt nhất là mình nên có mặt ở đó còn hơn là vùi sâu trong đống rác rưởi tại quê nhà.” Trở lại quân ngũ lần này anh nhận ra rất rõ ràng tinh thần của đồng đội đã suy sụp thảm hại. Rất nhiều người nhận ra sự bế tắc và vô nghĩa của cuộc chiến tranh và sự cần thiết của một sự thay đồi cực đoan về chính trị và xã hội. Anh viết: “Dần dần xuất hiện lòng tin rằng một cuộc đảo chính chính trị bằng bạo lực là khả năng duy nhất để thoát khỏi thảm cảnh này.” Trong những giờ yên tĩnh trên chiến trường quanh Minsk anh được nghe những lời tâm huyết của các chiến sĩ cánh tả cùng với những phương án của họ. Vấn đề không chỉ đơn giản là chấm dứt chiến tranh mà hơn thế, phải tìm cho được nguyên nhân đích thực dẫn đến những cuộc chiến tranh triền miên như không bao giờ dứt ở châu Âu. “Tôi chăm chú nghe những cuộc thảo luận và đặt những câu hỏi dù mình chưa đủ lòng tin và cũng không biết tìm giải đáp như thế nào. Tuy thế, thời gian đã chín muồi để chấm dứt vai trò người chầu rìa của mình, tham gia trực tiếp vào công việc cụ thể. Lần thứ ba tôi lại bị thương. Lần này tôi bị thương nặng. Nhiều mảnh đạn trái phá găm vào người tôi làm gãy nát hai khúc xương.” Tại bệnh viện dã chiến ở Koenigsberg (vùng Đông Phổ nay thuộc Ba Lan - TN) Richard Sorge gặp một nữ y tá trẻ, xinh đẹp. Chính nàng đã mở mắt cho anh để nhìn vào một thế giới đầy những ý tưởng tốt đẹp. Cũng như cha nàng - là một bác sĩ - nàng là chiến sĩ xã hội dân chủ cấp tiến. Hai cha con nàng trở thành “người bảo trợ” chàng lính trẻ. Anh viết: “Họ là những người đầu tiên giải thích cặn kẽ cho tôi về tình hình phong trào cách mạng hiện đang diễn ra ở nước Đức... Lần đầu tiên tôi nghe tên Lênin.” Người đàn bà xinh đẹp và quả cảm đã kiên trì truyền cho anh từng giọt lý luận xã hội chủ nghĩa khi điều trị vết thương và nâng giấc cho anh. Đáng tiếc hậu thế đã không biết tên nàng. Sorge nhắc đến nàng với sự trân trọng yêu thương và cảm phục, nhưng đã không viết tên của nàng. Nàng nói đến một thế giới công bằng hơn, tốt đẹp hơn và đề cập làm cách nào để có một thế giới như thế. Bên giường bệnh của Richard xuất hiện những trước tác của Marx, Engels và Kant, Schopenhauer. Những cuốn sách đã kích thích trí tò mò của tuổi trẻ. Những “tác phẩm khô khan” ấy đang có sức cuốn hút và hấp dẫn hơn nhiều so với sách kinh tế, lịch sử và nghệ thuật mà nàng y tá thông minh và xinh đẹp sở hữu và cho Sorge mượn đọc. “Lớp học” kéo dài nhiều tháng trời, chỉ biết tạm gác trong những lần giải phẫu gắp xương vụn từ đôi chân gần như đã nát của Richard. Đó là quãng thời gian cực kỳ đau đớn và cũng đặc biệt êm dịu đối với anh. Chưa bao giờ Richard Sorge cảm thấy hạnh phúc như những ngày tháng ấy, bất chấp cơ thể bị sự đau đớn hành hạ. Các thầy thuốc tài năng đã cứu được đôi chân cho anh. Chỉ có điều khi vết thương lành hẳn, chân trái ngắn hơn chân phải hai xăng-ti mét. Sorge trở thành “chàng thọt” và không bao giờ còn khả năng đi lại bình thường nữa. Hàng chục năm sau mỗi khi trái gió trở trời vết thương cũ lại làm tình làm tội anh. Nhưng cũng như những người bị khuyết tật cơ thể, Sorge đã phải chứng minh mình là người bình thường như mọi người và đủ khả năng làm mọi việc như mọi đấng nam nhi bình thường khác. Con đường trở thành điệp viên có lẽ đã được hoạch định từ những ngày điều trị ở bệnh viện dã chiến. Những vết thương trên cơ thể trong những năm chiến tranh là bằng chứng về tinh thần dũng cảm của anh và tấm Huân chương Chữ thập ngoặc hạng Hai là chứng chỉ nữa về sự hy sinh của Sorge cho “Tổ quốc Đức”. Trong hình hài như thế có quan chức nào nghi ngờ chất lượng con người của Sorge? Richard Sorge được giải ngũ sau khi hoàn thành nghĩa vụ đối với tổ quốc Đức. Anh trở lại đời thường. Những cuộc phiêu lưu chiến trận còn để lại dấu ấn dài dài trong anh. “Vào thời gian này - từ mùa hè đến mùa đông năm 1917 - tôi nhận ra hết sức rõ ràng không chút ngờ vực là cuộc đại chiến hoàn toàn vô nghĩa ngoài sự đổ nát và hoang tàn. Nhiều triệu người của các phía đã ngã xuống trên các mặt trận, trong các chiến hào. Và ai có thể dự báo trước bao nhiêu triệu người nữa sẽ chung số phận hẩm hiu như thế?” Ý thức chính trị của Sorge được củng cố. Người phụ nữ trẻ đã giúp anh nhận thức được thế giới quan sau những sự kiện làm đảo lộn gần như tất cả những giá trị thực của con người. Sorge thi vào trường đại học Berlin, tham dự các chuyên ngành y, chính trị và kinh tế. Anh đi tìm câu trả lời từ trong các nguyên lý xã hội chủ nghĩa cho các vấn đề nóng bỏng của thời đại mình, nhất là khi tình hình Đức đang có chiều hướng thay đổi thiên tả. Bộ máy kinh tế khổng lồ đã sụp đổ trong cuộc đại chiến, hệ thống tư bản chủ nghĩa đã và đang phơi bày những rạn nứt trong khi sự bần cùng ngự trị trên cả nước. Cũng như nhiều gia đình trung lưu khác, gia đình Sorge cũng lâm vào cảnh khó khăn. Lạm phát phi mã đã gần như hủy hoại toàn bộ tài sản do người cha để lại. Cuối cùng thì bà Nina đã buộc phải bán căn biệt thự sang trọng, tìm nơi thuê mới khiêm tốn trong ngõ. Kinh nghiệm đường đời chưa dài nhưng cũng đã đủ để Richard căm thù chiến tranh và đó là cái mầm cho đoạn đường gần ba mươi năm tiếp theo của anh. Lòng tin của anh định hình ngay cả trong những cơn ác mộng mà chính anh đã trải qua và trong bi kịch lớn mà nước Đức trình diễn, dẫn đến sự cáo chung. “Cuộc đại chiến thế giới 1914-1918 tác động đến toàn bộ cuộc đời tôi từ gốc rễ. Loại trừ những sự kiện và tính toán khác thì chỉ riêng cuộc chiến tranh này đã biến tôi trở thành đảng viên cộng sản.” Richard Sorge không phải là ngoại lệ. Rất nhiều đồng ngũ của anh trở thành những người cấp tiến sau thảm bại 1914-1918. Mùa thu năm 1918 nước Đức lại đứng trước một cơn đại chấn động. Cuộc sống đã đến bước cùng cực, cộng với dịch cúm hoành hành khắp hang cùng ngõ hẻm. Người thất nghiệp đầy đường, đầy chợ. Chiến binh trở thành hàng đàn phế binh mất hết cơ hội sống. Tình hình như trong nồi súp-de được đun nóng. Đầu tháng 11-1918 các chiến sĩ thủy quân chiếm các quân cảng, thương cảng, miệng ca vang những bài ca đấu tranh. Cuộc cách mạng nổ ra khắp nơi đã quét nền quân chủ cuối cùng ở nước Đức vào sọt rác của lịch sử. Cuộc khởi nghĩa do Karl Liebknecht và Rosa Luxemburg lãnh đạo, theo gương cuộc Cách Mạng Tháng Mười Nga, tiến tới thành lập chính quyền của công nông. Ngày 9-11-1918 vua Wilhelm đệ nhị buộc phải thoái vị. Hai ngày sau một chính phủ xã hội dân chủ tuyên bố đầu hàng đồng minh vô điều kiện. Nước Đức đã phải ký bản Hiệp ước ngừng bắn nhục nhã mà lẽ ra mọi tội lỗi phải đổ lên đầu bọn tướng tá quân phiệt và bọn thủ lĩnh dân sự chóp bu, là những kẻ gây ra cuộc chiến tranh dẫn đến thảm cảnh này. Một trong những “người hùng” trong những ngày u ám này là thượng sĩ Adolf Hitler - lúc ấy đang điều trị tại một bệnh viện dã chiến của quân đội, do bị bỏng vì cuộc tấn công chất đốt lỏng của quân đồng minh. Lúc này y mới 29 tuổi. Hitler coi “thất bại dân tộc” này là sự sỉ nhục đối với cá nhân y. Điều lạ lùng nhưng cũng dễ hiểu là y đã đổ tội về thảm bại này cho những người mác-xít và người Do Thái, rằng “chính họ là những người làm gãy xương sống của nhân dân Đức bằng các cuộc nổi dậy ở hậu phương trong khi các chiến binh thiếu mọi thứ ở chiến trường!” Hitler đã viết trong quyển tự sự mang tên “Cuộc chiến đấu của tôi” như sau: “Chúng ta đã chiến đấu một cách vô ích. Hơn hai triệu người đã ngã xuống một cách oan uổng!” Sự kích động bịp bợm của Hitler đã thuyết phục được bọn tướng đầu bò và hàng triệu người dân quá khích đang trở thành lưu manh trên đường phố. Bọn này đã tổ chức những đội quân khủng bố khát máu, dìm cuộc cách mạng vào biển máu. Từ một tên lính ngỗ ngược, Hitler quyết định bước lên vũ đài chính trị. Richard chào đón sự cáo chung của chế độ quân chủ với bộ máy quân phiệt Phổ. Chàng trai Sorge cho rằng chủ nghĩa quân phiệt chỉ có thể bị đập tan bằng cuộc tấn công toàn diện và triệt để. Richard từng cầu mong những lực lượng cách mạng Đức có thể làm nên chiến thắng như những người Bôn-sê-vích ở nước Nga. Tiếc rằng số đông người Đức chưa chia sẻ với anh - chí ít là vào thời điểm đó - và một cuộc cách mạng theo định hướng dân chủ theo tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã không thành công. Về phần mình, Richard Sorge đã tìm được cho mình con đường nhất quán, đoạn tuyệt với quá khứ đau buồn, nhục nhã. TỪ GIẢNG ĐƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẾN CHÍNH TRƯỜNG Cuộc cách mạng do Đảng cộng sản Bôn-sê-vích Nga lãnh đạo thành công rực rỡ tháng 11-1917 vào lúc Richard Sorge kỷ niệm ngày sinh thứ hai mươi mốt. Cuộc cách mạng long trời lở đất làm rung chuyển cả thế giới tác động mạnh mẽ đến chàng trai trẻ đầy nhiệt huyết đang đi tìm đường đi có thể tin cậy này. Người chiến sĩ kiên trung này đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong cuộc đời hoạt động của mình rằng đây là sự kiện lần đầu tiên trong lịch sử lâu dài của cuộc đấu tranh giai cấp trên phạm vi toàn thế giới, giai cấp cần lao chặt bỏ xiềng xích và trở thành những người chiến thắng. Chẳng phải đó chính là phương tiện thần kỳ chữa trị nỗi nhục của xã hội, phương pháp giải quyết triệt để các vấn đề nghèo khổ, bất công và bất bình đẳng mà cả thế giới kỳ vọng và chờ đợi? Richard Sorge xúc động từ trong sâu thẳm của tâm hồn. Cách mạng Tháng Mười Nga là bước ngoặt của cuộc đời chàng. Nó chỉ cho anh con đường đứng vào hàng ngũ chiến đấu của giai cấp thợ thuyền ở ngay quê hương mình. Sorge ghi: “Tôi quyết định không chỉ nghiên cứu trong trường đại học mà còn tham gia trực tiếp vào phong trào cách mạng được tổ chức ở Đức.” Ngay sau khi giải ngũ đầu năm 1918, Sorge bắt đầu thực hiện lòng tin của mình bằng hành động. Anh thi vào trường đại học Kiel. Ngay tại đây anh đã tham gia những bài học vỡ lòng đầu tiên của hoạt động tình báo. Thủy thủ Kiel đã kéo cờ khởi nghĩa trong cuộc cách mạng tháng 11-1918, bắt giam bọn sĩ quan chỉ huy trong cao trào cách mạng theo gương cách mạng Tháng Mười Nga. Sorge đã phân phát truyền đơn kêu gọi khởi nghĩa đến các thủy thủ, phối hợp với cuộc nổi dậy của công nhân trong cả nước chống lại chế độ tư bản bạo tàn. Anh tham gia diễn thuyết trước các thủy binh, kêu gọi họ tham gia cuộc chiến đấu chống áp bức, bóc lột, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giáo sư Kurt Gerlach và vợ ông Christine, từng tổ chức “bàn tròn chính trị” trong nhà mình cho các chiến sĩ cách mạng trẻ, đã rất chú ý đến Richard Sorge. Bà Christine nhớ lại: “Ông nhà tôi dạy học ở Anh nhiều năm, rất có cảm tình với cách mạng Đức. Vào khoảng cuối mùa thu năm 1918, mùa đông năm 1919, trong khi các diễn giả “bàn tròn” bàn về nghệ thuật tạo hình, về thơ ca Đức và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Giéc manh thì có một chàng trai im lặng, đầy suy tư trong đám cử tọa. Người đó là Richard Sorge, con của một gia đình khá giả, bố người Đức và mẹ người Nga. Anh từng tham gia cuộc đại chiến 1914- 1918 và bị thương nhiều lần trong các cuộc đấu pháo, bị thọt một chân. Trong giờ giảng ở giảng đường, trong các buổi thảo luận anh hăng hái hơn nhiều là tại nhà chúng tôi, bên các cuộc thảo luận bàn tròn. Chồng tôi có cảm tình đặc biệt với anh. Chúng tôi trở thành bạn bè thân thiết của nhau. Kurl và tôi gọi anh bằng biệt danh “Ika”. Khi chồng tôi chuyển về trường đại học kỹ thuật Aachen, ông đã nhận anh làm trợ lý cho mình.” Richard, “Ika” - như bà Christine viết - có khuôn mặt khác thường, đôi mắt xanh trong, ánh mắt sắc luôn hướng về nơi rất xa xăm và không giấu nổi sự cô đơn. Những năm tiếp theo đã diễn ra nhiều sự kiện khác thường trong mối quan hệ giữa Sorge và gia đình Gerlach. Năm 1919 Sorge chuyên tâm nghiên cứu tại đại học Hamburg. Anh viết luận văn Tiến sĩ về đề tài “Tiền lương và chính sách tiền lương” của hệ thống ngân hàng cổ phần. Luận văn của anh đạt hạng ưu. Ngày 8 tháng 8 anh bảo vệ luận văn Tiến sĩ môn Khoa học về tổ chức nhà nước với điểm tối ưu (summa cum laude - theo tiếng La tinh). Cũng trong thời gian này Sorge tổ chức “Nhóm thanh niên xã hội chủ nghĩa”. Anh đã theo lời đề nghị của giáo sư Gerlach, chuyển về Aachen và trở thành trợ lý của giáo sư. Ngày 16-10-1919 anh trở thành đảng viên Đảng cộng sản Đức. Để thử thách trong thực tế, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu quyết liệt mà Richard Sorge ý thức một cách nhất quán, anh đã “vô sản hóa” bằng cách gia nhập đội quân lao động cơ bắp trong một hãng sắt thép ở Aachen, lao động như một thợ mỏ thực thụ trong các đường lò thuộc vùng công nghiệp Bắc sông Rhein. Anh đã tổ chức các chi bộ đảng tại những nơi lao động thực tế. Những cuộc thử thách trong hầm lò là rất nguy hiểm, vì lẽ Sorge đã bị thương nhiều lần trong chiến tranh, trên cơ thể còn nhiều vết thương và thường hành hạ anh những lúc thay đổi thời tiết. Sorge nói: “Tôi không hề hối tiếc về quyết định của mình. Kinh nghiệm khi làm thợ mỏ quý báu không kém những gì tôi thu được khi là lính chiến ngoài mặt trận. Đảng cần những hoạt động của tôi trong hàng ngũ những người vô sản và sống như những người vô sản.” Tháng 3 năm 1920 bọn sĩ quan quân phiệt đầu bò đứng đầu là tướng Kap tiến hành cuộc đảo chính quân sự hòng thu tóm quyền lực vào trong tay chúng. Đảng cộng sản tổ chức tổng bãi công phản đối cuộc đảo chính. Richard Sorge có chân trong Ủy ban điều hành Aachen. Anh cũng là thành viên ban chỉ huy tự vệ đỏ vùng Ruhr trong cuộc chiến đấu kiên cường trên đường phố chống bọn quân phiệt cực đoan. Như lịch sử đã ghi: cuộc chiến đấu của công nhân Ruhr đã có bước khởi đầu đặc biệt thành công. Lực lượng hùng hậu của công nhân công nghiệp Đức chứng tỏ sức mạnh của mình, đủ sức đánh bại bọn đảo chính. Tuy nhiên cuộc kháng chiến đã thất bại sau nhiều tuần chiến đấu ác liệt trên các đường, góc phố, trong các hầm lò... là do sự phản bội của ban lãnh đạo đảng xã hội dân chủ thỏa hiệp với bọn đảo chính, quay súng tiến công vào lực lượng công nhân. Vết nhơ trong lịch sử năm 1920 đã buộc những người xã hội dân chủ phải trả giá rất đắt. Những chiến hữu thời đó khẳng định Richard Sorge đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của một nhà cách mạng và sự quả cảm phi thường của một chiến binh. Về sau, trong đời hoạt động tình báo của mình, khi bị bắt... Richard Sorge dường như không nói một dòng nào, một chi tiết nào về những năm sôi động tại trung tâm công nghiệp Ruhr. Một chuyện tình của Sorge trong thời gian ở Aachen được chính Christine kể lại tỉ mỉ: “Vào một đêm đầu năm 1919 Ika đứng trước cửa nhà chúng tôi. Tôi cảm thấy như bị một tia chớp xuyên suốt cơ thể. Trong giây phút này tôi run lên như có cái gì đó thức tỉnh con tim mình mà lâu nay dường như nó ngủ quên. Một cái gì đó thật nghiêm trọng, khó nói thành lời. Ika không bao giờ lỗ mãng. Anh không cần ve vãn ai, trái lại, người ta tự nguyện và vui sướng khi đến với anh, đàn ông cũng như đàn bà. Hình như anh có sức hấp dẫn của ma lực - có sức mạnh làm mềm lòng người khác!” Là giáo sư, Kurt Gerlach nhanh chóng hiểu tất cả. Ông đã tự nguyện chia tay vợ, mở đường cho Christine đến với thần tượng của nàng. Christine và Richard Sorge trở thành bạn đời của nhau mà không có giấy giá thú. Vào khoảng tháng 2 năm 1920 Sorge và Christine chuyển về Solingen. Anh làm việc tại tòa báo “Tiếng nói thợ mỏ” của Đảng cộng sản Đức. Từ ngày đó cảnh sát chìm nổi để ý đến anh suốt ngày đêm. Chúng tìm cách trục xuất anh ra khỏi thành phố với bất cứ lý do nào chúng có thể nghĩ ra. Và bọn chúng đã tìm được lý do: Sorge và Christine không có giấy giá thú. Để chống lại bọn mật vụ, Christine và Sorge đã đăng ký kết hôn. Sorge gọi sự kiện này là “đành phải cắn quả táo chua”. Trong thâm tâm anh dành cho nàng và cho mình sự tự do, không bị ràng buộc vào gia đình, bởi vì Sorge đã hiến thân cho sự nghiệp cao cả anh đã chọn. Người cách mạng trong những năm đen tối ấy nhà tù là nơi rộng mở nhất để đón họ. Sorge không muốn người thân yêu phải liên lụy vì mình. Năm 1922 chính giáo sư Kurt Gerlach đã tạo điều kiện cho Richard làm việc tại viện nghiên cứu xã hội do chính giáo sư sáng lập. Trong thời gian hai năm 1920-1922 Đảng cộng sản Đức bị cấm hoạt động theo các giai đoạn, Richard Sorge giữ những vị trí quan trọng của tổ chức và hoàn thành mỹ mãn những nhiệm vụ được giao. Một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng là giữ liên lạc giữa đảng bộ Frankfurt với Trung ương ở Berlin; chăm lo quỹ đảng và soạn thảo tài liệu tuyên truyền của đảng. Năm 1924 một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của Richard Sorge đưa anh trở thành chiến sĩ tình báo vĩ đại nhất thế kỷ XX. TRÊN NHỮNG NẺO ĐƯỜNG CHÂU ÂU Tháng 4 năm 1924 Đảng cộng sản Đức chuẩn bị đón tiếp đoàn cán bộ cao cấp của Quốc tế cộng sản đến Đức. Phải chọn một vệ sĩ toàn năng bảo vệ các cán bộ cao cấp - Dmitri Manuilski và Salomon Rosovski - đến Frankfurt tham dự Đại hội 9 Đảng cộng sản Đức. Richard Sorge được tin cậy vào nhiệm vụ này. Anh không chỉ bảo vệ chu đáo các cán bộ cao cấp của quốc tế cộng sản, tìm nơi ở an toàn cho họ và tạo điều kiện cho các ông tìm hiểu cuộc sống của người lao động và giai cấp công nhân Đức trong những ngày lưu lại ở Đức. Đoàn cán bộ cao cấp của quốc tế cộng sản đánh giá cao khả năng của Sorge và có ý mời anh sang Mát-xcơ-va làm việc trong cơ quan lãnh đạo của Quốc tế cộng sản. Năm 1923 cuộc khởi nghĩa của những người cộng sản ở Sachse và Thuerigen (ngày 23-10) một lần nữa thất bại. Sự thật này nói lên rằng đảng chưa đủ sức để phát động một cuộc cách mạng trong thời gian gần. Đó là nhận định của Richard Sorge. Quả là chua chát khi phải nhìn nhận sự thật lịch sử ấy. Trong cơn thất vọng, Richard Sorge đã nảy ra ý kiến táo bạo: đến một nơi nào đó cống hiến cho phong trào cách mạng đang sục sôi. Nhớ lại lời của Manuilski và Rosovski, vào một buổi sáng hạ tuần tháng 10 năm 1924 Richard và Christine đã lẳng lặng vượt qua biên giới Liên xô. Những nhiệm vụ sôi động đang chờ đợi anh! Mát-xcơ-va đang trong những năm tháng buồn. Lenin qua đời để lại niềm tiếc thương vô hạn cho giai cấp cần lao. Nền kinh tế suy sụp sau những năm nội chiến chưa có thời gian khắc phục. Sự nghèo đói, thiếu thốn bao trùm lên từng góc phố, căn hộ. Richard Sorge không coi đó là điều phải ngạc nhiên. Nước Cộng hòa non trẻ mới trải qua cơn đại hồng thủy mà! Anh đến trụ sở Ban chấp hành Quốc tế cộng sản và bắt tay vào công việc. Sorge được phiên chế vào Phòng phối hợp quốc tế OMS mà sau này, trong nhà giam của kẻ thù, anh gọi là “Phòng Thông tin của Quốc tế cộng sản”. Richard có nhiệm vụ tổng hợp các tin tức từ các nguồn khác nhau: từ báo chí trong và ngoài nước, từ báo cáo của các điệp viên ở nhiều nước gửi về và những báo cáo của các đảng về phong trào công nhân và xã hội cũng như điều kiện chính trị - kinh tế ở các nước tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là Đức. Bản phân tích và tổng hợp của anh sau đó được chuyển đến các cán bộ lãnh đạo cao nhất của tổ chức quốc tế này: Otto Kuusinen, Josif Pjatnizki - lúc ấy là Tổng bí thư Komintern, trưởng phòng OMS và Dmitri Manuilski. Một số bài phân tích của Sorge được công bố trong tạp chí lý luận của Komintern. Bút danh của Sorge trong những năm làm việc ở Matscơva là “R.Sonter” và “J.K.Sorge”. Anh sống ở khách sạn Lux, địa điểm gặp mặt của các cán bộ lãnh đạo Komintern và các chiến sĩ cộng sản quốc tế, các đại biểu công đoàn nước ngoài lưu lại trong thời gian dừng chân ở Liên Xô. Vợ chồng Sorge hầu như không tiếp xúc với xã hội bên ngoài. Mỗi tuần một lần họ đến Câu lạc bộ Đức đọc sách và trò chuyện với khách đến từ Đức. Ít lâu sau Richard Sorge được bầu làm chủ tịch câu lạc bộ. Nhờ có khả năng tổ chức giỏi, Richard đã biến câu lạc bộ thành nơi hoạt động sôi nổi suốt ngày đêm, thu hút được rất nhiều người đến sinh hoạt. Năm 1926 anh thành lập Đội thiếu niên gồm các trẻ em Đức sinh sống ở Matscơva. Vào thời gian này Christine bỗng nhận ra rằng cuộc sống chồng vợ với Sorge không nhẹ nhàng như nàng tưởng. Dường như sự có mặt của nàng không làm vơi đi sự cô đơn trong tâm hồn sâu thẳm của anh. Trong một chuyến thăm Bacu - nơi Richard chào đời năm 1895 - thăm nơi chôn nhau cắt rốn của mình, vợ chồng tìm đến ngôi biệt thự gia đình Sorge sống trong những năm yên bình. Biệt thự nay là nhà an dưỡng. Từ Bacu họ đến Sotchi - khu nghỉ mát nổi tiếng bên bờ biển Đen - và sống những ngày vui vẻ, thoải mái ở đó. Richard Sorge lao vào công việc, quên hết mọi thứ riêng tư. Anh làm gì, đi đâu, liên hệ với ai Christine không biết và Sorge cũng không nói nửa lời, Nàng lo lắng bồn chồn và cảm nhận được rằng trong con tim, trong bộ não của Richard chỉ có công việc, ngoài ra không còn gì khác. Christine tìm dịp hiếm hoi, nói với chồng rằng tốt hơn cả là cho nàng trở lại quê hương. Richard dành cho nàng quyền quyết định cuối cùng. Đối với anh sự gắn bó gia đình giờ đây không còn là tất cả của cuộc đời. Anh còn những nhiệm vụ lớn hơn, quan trọng hơn nhiều so với cuộc sống vợ chồng. Richard Sorge dường như hiểu được và cũng không muốn Christine chịu rủi ro trong cuộc đời khi gắn chặt đời nàng với đời anh. Cuộc chia tay diễn ra trên sân ga Mát-xcơ-va vào một chiều mùa thu năm 1926 đầy lưu luyến, chí ít là qua những biểu lộ bên ngoài của cả hai người. Christine nhớ mãi buổi chia tay ấy: “Chúng tôi làm như là sẽ nhanh chóng gặp lại nhau. Nhưng khi con tàu chuyển bánh tôi không còn có thể giữ được những giọt nước mắt dâng trào. Tôi ý thức được rằng đó là sự kết thúc cuộc sống chung hơn năm năm nay. Richard chắc chắn cũng hiểu thấu điều đó.” Richard lao vào công việc với ý chí phi thường. Không, công việc bên bàn giấy quá nhàm chán với anh. Chân trời của anh bao la lắm chứ không thể khuôn trong bốn bức tường. Và cơ hội cho cánh chim bằng bay xa, bay cao đã đến. Năm 1927 Komintern cử anh đến bán đảo Scandinavi. Sorge được giao trọng trách: hỗ trợ việc xây dựng các đảng cộng sản ở Bắc Âu theo tinh thần của Komintern: khảo sát và báo cáo về phong trào công đoàn và phân tích tình hình chính trị - kinh tế các quốc gia trên bán đảo này. Công việc đã đưa anh đến Anh năm 1929. Sorge có nhiệm vụ khảo sát và báo cáo về cuộc bãi công của công nhân mỏ, vị trí của công đoàn Anh trong đời sống xã hội và thực lực của Đảng cộng sản Anh... Cơ quan tình báo phương Tây khẳng định: một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Richard Sorge trong chuyến sang Anh hồi đó là thành lập màng lưới điệp viên Liên Xô ngay trong lòng cơ quan mật vụ M16 của Anh để thu thập những tin tức cần thiết. Suốt trong thời gian bị bắt và bị thẩm vấn liên tục nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng ở Nhật Bản, Richard Sorge đã nói nhiều chuyện, khai nhiều việc, tuy nhiên anh không nói một lời nào về chuyến công du sang Anh năm ấy. Cho đến nay người ta vẫn không biết vì sao Christine biết việc Richard Sorge đến nước Anh. Trong thời gian ấy nàng cũng sang Anh và họ đã sống chung với nhau. Hơn thế, họ đã cộng tác với nhau trong nhiệm vụ chung. Christine đã kể lại những ngày nguy hiểm ở Anh và cho rằng Richard là điệp viên quan trọng. Nàng kể lại rằng hai người thường cùng nhau đến gặp ai đó, theo những địa chỉ có sẵn. Khi họ nói chuyện với nhau thì Christine được phân công “làm cảnh giới” từ xa và ra hiệu khi có triệu chứng không bình thường. Những nhà phân tích có chung quan điểm là Richard Sorge đến Anh vì những nhiệm vụ đặc biệt, vì lẽ nếu anh được cử đến Đảng cộng sản Anh thì cơ quan cảnh sát Anh phải biết và không thể bỏ qua. Trong những “chuyến công vụ đặc biệt” ấy, Richard mang nhiều tên khác nhau trong hộ chiếu. Giới tình báo gọi đó là “trò chơi mèo vờn chuột” thịnh hành khắp toàn cầu. Một bạn gái thời tuổi trẻ của Richard ở Frankfurt, Hede Massing, viết: “Trong hoạt động tình báo, Sorge như cá trong đại dương!” Họ gặp lại nhau vào năm 1929 và Massing nhận ra Richard Sorge gần như không thay đổi sau 4 năm ở Matscơva. Họ chỉ nói chuyện tầm phào. Sorge không hé môi về những công việc trong bốn năm qua và hiện tại của mình. Dù vậy anh vẫn có đủ thứ chuyện vui đùa để kể cho bạn. Anh vốn là người hết sức lưu loát và có quá nhiều đề tài để phục vụ bạn bè! Ví như nói về chuyến đi Bắc Âu, anh kể về những triền núi tuyết trắng và những đàn cừu vô tận, những người bạn thực sự của anh trong những ngày lưu lạc miền cực Bắc ấy. Nhưng đấy là ở đâu, nước nào và anh đến đó làm gì thì Sorge không nói nửa lời. Đó là việc của anh, của mình anh. Khả năng phát hiện của Sorge rất tuyệt vời. Từ thực tế công việc anh rút ra kết luận: quan hệ với những người đã có tên ở bất cứ nước nào cũng sẽ là “lời khai báo tự nguyện” cho cảnh sát và mật vụ các nước. Năm 1929 Richard đã gửi Komintern một báo cáo ngắn gọn chưa từng có: anh đề nghị tách công tác tình báo khỏi các mối liên hệ với các đảng cộng sản. Một sự kiện quan trọng trong đời hoạt động của Sorge xảy ra năm 1929: Richard Sorge rời Komintern sang phục vụ cho bộ phận thông tin của Hồng quân Liên Xô. Trong tất cả tư liệu, lời khai khi bị thẩm vấn, Richard Sorge không hề đề cập đến chuyện này. Trong hồ sơ của mật vụ Nhật Bản còn lưu lại bản khai của Richard Sorge, những người đi tìm sự thật về việc này đã không bỏ quên một hàng chữ rất nhỏ của anh viết ngoài lề tờ giấy: Komintern không quan tâm nhiều đến những thông tin chính trị của tôi! Lục lại những sự kiện lịch sử, người ta dựng lại tình hình những năm đó như sau: năm 1929 Nicolai Buchanin (giữ chức chủ tịch Komintern từ năm 1926 - TN) bị bãi chức trong Komintern và mất luôn chức vụ Ủy viên Bộ Chính trị Đảng cộng sản Liên Xô. Buchanin là người đào tạo và giữ mối liên hệ với các chiến sĩ cộng sản nước ngoài làm việc ở Quốc tế cộng sản - trong đó có Richard Sorge. Ông là người “bảo vệ” họ nhất quán. Lo bị đổ tội cùng “phe” với Buchanin, nhiều người đã chuyển công tác. Richard Sorge là người đầu tiên nhận ra tình hình. Những ai đã giới thiệu anh đến với Vụ 4 - Vụ tình báo đối ngoại của Hồng quân Liên Xô? Hóa ra trong hơn 4 năm làm việc ở Komintern, những bản báo cáo và phân tích của anh rất được Hồng quân chú ý và đánh giá cao. May mắn cho anh là tướng Jan Karlovitsch Bersin, người đứng đầu cơ quan tình báo Hồng quân Liên Xô, muốn có Sorge trong hàng quân của ông. Richard Sorge gặp thời cơ tốt nhất để phát huy tài năng thiên bẩm của mình. Các cơ quan tình báo phương Tây còn cho rằng trong các chuyến công tác của Sorge đến các nước Bắc Âu, đến Anh và Đức, đều có bàn tay sắp đặt của tướng Bersin. Sorge trở thành thành viên của Vụ 4 vào năm 1929, đúng thời điểm cơ quan tình báo Hồng quân hướng hoạt động chính của mình sang vùng Viễn Đông. Trong con mắt của những nhà chiến lược Nga lúc ấy thì Trung Quốc là điểm khởi đầu cho một cuộc cách mạng trên vùng đất Châu Á và Thái bình dương rộng lớn. Chủ nghĩa đế quốc quốc tế và Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc cũng đã nhìn ra nguy cơ này. Và tên tướng thổ phỉ này đã hành động trước. Quốc dân đảng tuyên bố cắt đứt mọi sự hợp tác với đảng cộng sản vốn tạo ra sức mạnh của Trung Quốc trong thời “Quốc cộng hợp tác”. Hơn thế bọn Quốc dân đảng đã hèn hạ tàn sát hàng ngàn cán bộ cộng sản, buộc hàng ngàn cán bộ lãnh đạo phải rút vào bí mật. Quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc của Tưởng Giới Thạch và Liên Xô bị cắt đứt sau khi Tưởng buộc tội Liên Xô sử dụng cơ quan ngoại giao để hoạt động gián điệp. Trung Quốc rơi vào cuộc nội chiến thảm khốc mà Liên Xô lại không có những thông tin về những vấn đề cốt lõi, đặc biệt là thực lực quân sự của Tưởng và tình trạng chính quyền Nam Kinh. Tướng Jan Bersin quyết định xây dựng lại mạng lưới tình báo ở Trung Quốc. Ông quyết định điều động đại tá Alex Borovitsch từ Ban Viễn Đông cùng một nhân viên điện đài đến thành phố Thượng Hải. Richard Sorge là nhân vật thứ ba của mạng lưới mới này. Do biết năng lực khác thường của Sorge cũng như lòng trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của anh, Bersin yêu cầu Sorge thường xuyên gửi báo cáo về thực lực quân đội Nam Kinh cho ông, cũng như tình hình Đảng cộng sản Trung Quốc. Đường dây liên lạc đã được nhanh chóng thiết lập. Sorge đề nghị với cấp chỉ huy cao nhất của Vụ 4 là anh cũng sẽ gửi những báo cáo cụ thể, chi tiết về tình hình chính trị và kinh tế của quốc gia “trung tâm thế giới” này. Jan Bersin tán thành đề xuất của Richard Sorge. Sorge viết: “Tôi quyết định nhận nhiệm vụ mới phần vì công việc phù hợp với tôi như là chuyện đương nhiên, phần vì những mối quan hệ thực sự đặc biệt tại một vùng đất mới kích thích trí tưởng tượng của tôi.” Mùa thu năm 1929 Richard Sorge chính thức trở thành sĩ quan thông tin của Hồng quân Liên Xô. Sorge tiếp nhận thông tin về “chiến trường mới” một cách cặn kẽ qua các phòng, ban và vụ chuyên môn hữu quan. Anh được dự lớp đào tạo khóa mật mã rất cơ bản và chu đáo, trong đó kỹ thuật giải mã được quan tâm đặc biệt. Richard Sorge mang biệt danh “Ramsay” trước ngày lên đường. Biệt danh này anh giữ đến năm 1941. Tháng 11-1929 Sorge trở lại Đức và công bố sẽ thực hiện loạt bài viết cho một Tạp chí nông nghiệp và loạt bài viết cho tạp chí Xã hội. Richard Sorge “trở lại quê nhà” và đăng ký chính thức nghề phóng viên. Là người học rộng, am tường nhiều lĩnh vực xã hội, là những điều kiện lý tưởng cho nghề mới của anh. Trong vai trò của phóng viên báo chí, Sorge dễ dàng tạo cho mình lớp vỏ bọc khá an toàn. Richard Sorge được cấp Hộ chiếu Đức “chính hiệu” với đầy đủ tên họ khai sinh RICHARD SORGE và tháng 12-1929 anh lên chiếc tàu Nhật Bản ở cảng Marseille, hướng sang vùng Viễn Đông. Cùng với hai đồng ngũ, Richard Sorge đặt chân lên Thượng Hải vào một ngày nào đó đầu năm 1930. NHỮNG NGÀY THÁNG ÂM THẦM Ở THƯỢNG HẢI Ba chiến sĩ tình báo Liên Xô không gặp khó khăn đáng nói nào khi đến Thượng Hải. Họ vào biển người thuộc hàng trăm dân tộc trên thế giới. Thượng Hải vào những năm 1930 là thành phố sôi động nhất Châu Á, với những tòa nhà cao tầng, đường phố rộng rãi và nhan nhản người phương Tây. Hơn một nửa Thượng Hải nằm trong quyền quản lý của nước ngoài với Hội đồng đô thị, cảnh sát và cơ quan thế vụ riêng. Người Anh đang thực sự làm chủ Thượng Hải. Chín mươi năm trước những người Anh đầu tiên đã từng biến vùng đầm lầy dài 16 km dọc theo cửa sông Trường Giang - sông lớn nhất Trung Quốc - thành một thành phố cảng. Năm 1930 người nước ngoài đến Thượng Hải “mục sở thị” một trung tâm thương mại sầm uất tầm cỡ thế giới với đủ “mọi thú vui” phục vụ các ông chủ và người nhiều tiền lắm của. Người ta không có đủ từ ngữ để mô tả Thượng Hải ngoài chữ đặc biệt và đặc biệt. Mà Thượng Hải đặc biệt, không giống bất cứ nơi nào ở Trung Quốc và trên thế giới thật. Phần lớn trí thức nước này lại sống trong các “khu nhượng địa” của nước ngoài. Họ là những người thất cơ lỡ vận và những chiến sĩ cách mạng bị săn lùng. Những nhượng địa ấy là nơi ẩn nấp tốt và an toàn nhất trước bọn mật vụ Quốc dân đảng. Tổ chức cơ sở bí mật của Đảng cộng sản Trung Quốc cũng có trụ sở trong khu nhượng địa. Thượng Hải trở thành khối nam châm lớn kích thích những kẻ phiêu lưu, những kẻ săn lùng siêu lợi nhuận và điệp ngầm từ mọi quốc gia. Năm 1930, vào thời điểm Richard Sorge đến Thượng Hải, Trung Quốc đang trong tình cảnh gần như hỗn loạn. Tưởng Giới Thạch tự phong là tổng tư lệnh tối cao, nhưng một phần lãnh thổ rộng lớn lại nằm dưới sự hoạt động và cai quản, khai thác của các loại băng nhóm. Hàng ngày có hàng ngàn người Trung Quốc bị giết hại nếu không phải do bàn tay của bọn cướp thì là do bị cảnh sát tra tấn dã man trong nhà tù và ngã xuống trên chiến trường trong cuộc nội chiến đẫm máu. Đối với người ngoại quốc và tầng lớp tư sản, quý tộc nội địa thì Thượng Hải là hành tinh khác, nơi an toàn cho việc săn tìm lợi nhuận, nơi hưởng thụ và trác táng của họ. Agnes Smedley, phóng viên thường trú tờ “Báo Frankfurt” của Đức, đã từng viết: “Cuộc sống ở thành phố lớn này diễn ra hết sức bình thường, hầu như không liên quan gì đến những sự kiện nóng bỏng đang xẩy ra khắp Trung Quốc. Những cuộc đón tiếp phù phiếm, những đêm khiêu vũ thâu đêm, các hoạt động khai trương nhà băng, những khóa đào tạo chuyên gia tài chính, những vụ hợp nhất, cuộc chơi trên thị trường chứng khoán, buôn lậu thuốc phiện và những cuộc thóa mạ nhau giữa người nước ngoài và người bản địa, nhà thổ mọc lên dày như nhà hàng, các câu lạc bộ đủ loại, sân tennis sang trọng... Nhiều người gọi Thượng Hải là nơi ra đời thời đại mới, địa điểm khai sinh một nhà nước mới. Thượng Hải dưới mắt người Trung Hoa bình thường, là một ổ dịch!” Sorge là một trong những người hâm mộ Agnes Smedley và người đầu tiên Richard tìm đến là Smedley. Làm quen với một người như Smedley trong một thành phố lớn như Thượng Hải vốn còn rất xa lạ là việc quan trọng và cần thiết đối với người hoạt động tình báo như anh. Sorge mang theo thư giới thiệu của Văn phòng Bộ Ngoại giao ở Berlin gửi Tổng lãnh sự Đức ở Thượng Hải với lời chú: nhà báo Richard Sorge thực hiện những thiên phóng sự và bài nghiên cứu về tình hình nông nghiệp Trung Quốc. Agnes Smedley đã giúp anh trong những bước đi đầu tiên này. Nhưng chính Smedley cũng là đối tượng mà Sorge cần lập mối quan hệ khắng khít. Về sau, trong nhà tù Nhật Bản, Sorge đã viết về người nữ phóng viên này như sau: “Hồi ở châu Âu tôi đã nghe tên chị. Tôi cho rằng dù chưa gặp nhau nhưng có thể tin cậy ở người phụ nữ này. Trong việc xây dựng tổ công tác ở Thượng Hải, tôi có thể nhờ cậy sự giúp đỡ của chị trong việc giới thiệu các cộng sự Trung Quốc.” Smedley là người phụ nữ đầy quả cảm và kiên nghị. Từ một gia đình thợ mỏ nghèo khổ ở Colorado, Agnes đã vươn lên đỉnh cao của nghề nghiệp và sự quý trọng của tầng lớp cầm quyền bằng sức lực, lao động không mệt mỏi và bằng chính trí tuệ của mình. Smedley là người bảo vệ không mệt mỏi những người bị áp bức, công khai bày tỏ thiện cảm và ủng hộ sự nghiệp giải phóng của Ấn Độ và sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Agnes nổi tiếng trên thế giới hồi đó qua cuốn tiểu thuyết tự thuật mang tựa đề “Một người phụ nữ cô đơn” xuất bản năm 1929 mà Richard Sorge đã rất thích thú. Cũng năm đó chị được tờ “Báo Frankfurt” cử làm phóng viên thường trú tại Thượng Hải, một thách thức mới ở nơi xa lạ. Người Phụ nữ Trung Quốc thời ấy không khác gì kẻ nô lệ, là trò chơi và vật hy sinh của đàn ông. Còn người nông dân Trung Quốc thì bị bóc lột đến tận xương tủy. Smedley ủng hộ nhiệt tình cuộc chiến đấu giải phóng giai cấp và giải phóng phụ nữ ở Trung Quốc. Vào thời điểm Sorge đến thăm Smedley, người phụ nữ quả cảm này đã thiết lập được những mối liên hệ với Đảng cộng sản Trung Quốc đang hoạt động bí mật. Richard khâm phục Agnes Smedley, đặc biệt nghiệp vụ báo chí. Cả hai đều là đảng viên cộng sản, đều có lòng tin và lý tưởng giải phóng những người bị bóc lột, áp bức bất kể họ thuộc dân tộc nào, ở nước nào trên hành tinh. Agnes Smedley không thuộc những phụ nữ xinh đẹp. Tóc cắt ngắn và cằm hơi dô làm cho chị giống đàn ông hơn là một phụ nữ đẹp. Chính chị cũng cho rằng mình cố gắng tìm cách khắc phục sự không hấp dẫn bên ngoài bằng... khả năng trí lực. Theo lời của một người cùng thời thì “Agnes Smedley trông giống như một nữ công nhân trí thức”. Chị ăn mặc giản dị, tóc nâu hơi thưa, người đậm, mắt to màu xanh. Nhìn toàn diện chị không thuộc loại người đẹp, nhưng lại có một khuôn mặt được chăm sóc cẩn thận. Mỗi khi hất mái tóc ra phía sau người ta nhận ra cái trán hơi dô và khá bướng bỉnh. Smedley hơn Richard 3 tuổi. Dư luận cho rằng Smedley và Sorge đã có mối quan hệ hơn cả thân tình trong những ngày hai người sống âm thầm ở Thượng Hải. Một bạn cũ của Smedley kể lại rằng hai người đã có chuyến đi dài ngày xuống Quảng Đông và lưu lại trong cùng một khách sạn ở thành phố Quảng Đông. Chị rất thú vị về nhân vật mới đến này. Họ dường như đã có mối tình đầy thơ mộng trong những ngày êm đềm ấy. Một bức thư Smedley gửi cho bạn gái có đoạn: “Tôi là người đã lập gia đình và đã có một con. Nhưng anh ta lại là một mẫu đàn ông rất đàn ông. Chúng tôi đã hỗ trợ nhau trong công việc cùng sống và sẽ cùng chết với nhau. Một tình bạn hai chiều đẹp, rất mạnh mẽ. Tôi không biết tình bạn ấy dài được bao lâu. Điều này không phụ thuộc vào chúng tôi. Nhưng tôi sợ là nó không được lâu. Dù vậy, những ngày này là những ngày đẹp nhất trong cuộc đời tôi. Chưa bao giờ mọi chuyện êm dịu đến thế, chưa bao giờ tôi cảm thấy nhẹ nhõm đến thế - cả trong tâm hồn lẫn cơ thể!” (thư viết ngày 28-5-1930). Có thể trong công việc của mình những mối tình như vậy là cần thiết và là “nơi trú ẩn tốt nhất” cho những điệp viên sống và hoạt động trong lòng kẻ thù và những thế lực thù địch hiện diện khắp nơi. Smedley có nhiều mối quan hệ rộng rãi cần thiết cho sự đứng chân và hoạt động tiếp theo của Sorge. Chị có thể “mở mọi cánh cửa vốn đóng kín” cho anh bước vào một cách dễ dàng, sở hữu nhiều tài liệu quý báu rất cần cho công việc của anh. Trong nhà tù bọn quân phiệt Nhật Bản, có lần Richard Sorge khẳng định: “Ở Thượng Hải nàng là thành viên của nhóm tôi và nàng đã có những đóng góp vô cùng quý giá.” Thế nhưng chính Smedley lại phủ nhận chưa bao giờ là thành viên của nhóm điệp viên nào. Nàng biết Sorge làm việc cho Mat-xcơ-va, nhưng không rõ là cho Komintern hay Hồng Quân. Nhưng dù làm cho ai thì hoạt động của Sorge phù hợp lý tưởng của nàng. Nàng đã hết sức giúp đỡ và cộng tác với Sorge, nhưng khẳng định vẫn giữ độc lập với các tổ chức, nghĩa là nàng không là thành viên của bất cứ tổ chức nào, nhóm nào. Nàng không giấu thiện cảm với những người cộng sản và ủng hộ hết mình phong trào cộng sản Trung Quốc. Tuy nhiên Agnes Smedley lại nói chưa bao giờ là đảng viên cộng sản. Tháng 5-1930 họ đáp tàu đến Quảng Châu, lúc ấy dưới quyền kiểm soát của Anh. Ba năm trước - năm 1927 - Tưởng Giới Thạch đã gây tội ác khủng khiếp ở Quảng Đông, giết hại hàng vạn đảng viên cộng sản Trung Quốc và thủ tiêu cả những viên chức tòa Tổng Lãnh sự Liên Xô ở Nam Kinh mà chúng gọi là “những tên gián điệp”. Sorge có nhiệm vụ liên hệ với những nhà lãnh đạo còn sống, trợ lực cho họ xây dựng lại tổ chức và phong trào. Sorge còn mong dùng Quảng Đông làm bàn đạp thâm nhập các vùng quan trọng trong vùng, đặc biệt là Hồng Kông - thuộc địa của Anh. Chỉ trong thời gian ngắn, với sự giúp đỡ lớn lao của Agnes Smedley, Richard Sorge đã đúc kết được những báo cáo và phân tích toàn diện, khá trung thực và chính xác, phản ánh nhiều mặt tình hình Trung Quốc và các thế lực nước ngoài ở Trung Quốc những năm đầu thập niên ba mươi. Nhận định chính xác về tương quan lực lượng giữa Tưởng Giới Thạch và đối thủ của y làm hài lòng cơ quan lãnh đạo Vụ 4. Bộ ba Alex Borovitsch, Richard Sorge và Seppel Weingarten có nhiệm vụ cấp bách cải thiện sóng liên lạc giữa Thượng Hải và Mát xcơ-va và đón tiếp những thành viên mới. Max Clausen - bạn lâu năm của Weingarten ở Vụ 4 - từng được cử sang Trung Quốc năm 1928, chuyên giữ đường dây tín hiệu từ Hạ Long về Mát-xcơ-va - nay đến hỗ trợ cho nhóm Thượng Hải. Chỉ trong một thời gian ngắn, đường dây liên lạc Thượng Hải - Hạ Long - Vladivostock - Mát-xcơ va đã được khai thông. Năm 1930 Clausen 31 tuổi và là một đảng viên cộng sản kiên trung. Anh sinh ra ở miền Đông Bắc Đức trong gia đình nghèo khổ. Cha mẹ anh chỉ có thể cho con trai học hết cấp tiểu học. Clausen gia nhập giới thương thuyền, tham gia cuộc cách mạng tháng 11-1918 ở Đức và được cơ quan phản gián Liên Xô đưa về Matscơva đào tạo chuyên về thông tin. Nhắc tỷ mỷ tên Max Clausen là vì số phận của Clausen-Sorge gắn chặt với nhau trong những năm cực kỳ sôi động ác liệt trong miệng hùm hang sói của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản. Đến Thượng Hải Clausen gặp người đàn bà góa Nga, Anna Wallenius, chạy loạn từ Nga sang Trung Quốc. Chồng bà, một người Bạch Nga, đã thành lập trạm thiên văn ở Thượng Hải và qua đời ở đó. Anna đem lòng yêu thương Max Clausen mà không hề biết anh là đảng viên cộng sản, điệp viên Liên Xô. Hai người sống chung với nhau không có giá thú trong nhiều năm cho đến khi Vụ 4 cho phép cưới chính thức. Mới đến Thượng Hải được vài ngày thì tổ trưởng, đại tá Borovitsch phải nhanh chóng rời thành phố. Mật vụ Tưởng đã phát hiện và theo gót ông. Sorge trở thành người đứng đầu tổ công tác. Ngoài Vụ 4, không ai biết Richard Sorge là ai, có sứ mạng gì ở Thượng Hải. Đó cũng là một thành công rất có ý nghĩa của nhà tình báo tài năng này. Sorge đã tạo được hai chân dung hoàn hảo: một Richard Sorge đích thực hoàn chỉnh chỉ có điều khác là “xanh vỏ đỏ lòng” và một chân dung ngụy trang công khai. Những kẻ khiêu khích Quốc dân đảng Trung Quốc chỉ biết anh là ngài Johnson, một nhà báo Mỹ hoàn chỉnh và cho rằng ông ta làm việc cho Komintern. Có một tiến sĩ Sorge tác giả của những bài viết về “Mùa thu hoạch đậu tương ở Mãn Châu”, “Vụ vừng bội thu ở Trung Quốc” và “Kim ngạch xuất khẩu lạc của Trung Quốc tăng lên không ngừng” xuất hiện đều đặn trên “Báo ngũ cốc” ở Đức. Đó là nhân vật mà những người Đức ở Thượng Hải biết rất rõ và chấp nhận. Nguồn thông tin dồi dào rất có giá trị về sức mạnh quân sự của Tưởng Giới Thạch Richard Sorge moi rất đều đặn từ các hồ sơ tin cậy của hơn 50 sĩ quan Đức vốn đang là cố vấn quân sự của Tưởng. Là cựu binh từng nhiều lần bị thương trên chiến trường với đôi chân thọt là bằng chứng đủ thuyết phục lòng tin của những “đồng bào Đức”. Đức đang cố gắng hết sức ủng hộ việc tổ chức lại quân đội của Tưởng, qua đó bán được nhiều vũ khí, khí tài để cải thiện uy tín của họ ở châu Á. Sự bành trướng của Đức sang phương Đông làm đau đầu Liên Xô. Nhưng nguy cơ thực sự ở Trung Quốc chính là cuộc tấn công của Nhật Bản đánh vào đại lục, mới thực đáng quan tâm. Sự kiện năm 1931 càng khẳng định mưu đồ này của quân phiệt Nhật Bản: đêm 18 rạng ngày 19 tháng 9, một bọn khủng bố đã đặt bom đánh đường sắt Nam Mãn Châu Lý. Bộ tư lệnh đội quân Quan Đông đóng ở Mãn Châu đổ trách nhiệm cho những người Trung Quốc gây ra vụ khiêu khích này và lập tức đưa hàng đoàn máy bay oanh tạc vào các vị trí đóng quân của Trung Quốc ở tả ngạn sông Ô Tô Lý, rồi đưa quân thủy đánh bộ chiếm đóng vùng rộng lớn này. Một tháng sau quân phiệt Nhật Bản đã chiếm toàn bộ Mãn Châu của Trung Quốc. Ngày 1-3-1932 cái gọi là “Nước cộng hòa Mãn Châu” ra đời. Một người Mãn Châu tay sai của Nhật Bản được đặt lên ghế toàn quyền! Hành động hiếu chiến này của Nhật Bản là tín hiệu báo trước một đám cháy lớn 10 năm sau đó trong toàn bộ khu vực Thái Bình Dương làm rung chuyển thế cân bằng chiến lược và gây ra cuộc đối đầu không tránh khỏi giữa Liên Xô và quân phiệt Nhật Bản. Richard Sorge đã viết về sự kiện này như sau: “Sau khi chiếm trọn Mãn Châu, Nhật Bản được kích thích cao độ, mơ ước trở thành kẻ thống lĩnh vùng Đông Á rộng lớn. Ngoài ra, với hành động chiếm đóng này Nhật Bản muốn thể hiện vai trò bá chủ của mình hơn lúc nào. Tác động trực tiếp của “vụ Mãn Châu” bỗng đưa Nhật Bản trực tiếp đối diện với Liên Xô trên một đường biên giới dài hàng ngàn ki-lô-mét mà cho đến lúc ấy vì những nguyên nhân khác nhau Liên Xô coi nhẹ việc phòng thủ.” Thế giới lên án vụ Mãn Châu, nhưng các cường quốc phương Tây lại lên tiếng bảo vệ Nhật Bản rằng họ có những quyền lợi và vai trò đặc biệt ở đó. Người ta đã tránh khiêu khích quân phiệt Nhật Bản. Trung Quốc tức giận trước phản ứng hèn nhát của các cường quốc phương Tây. Khắp nơi ở Trung Quốc nổ ra các cuộc biểu tình tuần hành chống Nhật. Ở Thượng Hải làn sóng chống Nhật Bản lên đến điểm sôi sục khi người Nhật đòi trừng phạt “sự láo xược” của người Trung Quốc. Cuối năm 1932 diễn ra các cuộc đụng độ quân sự. Hải quân Nhật Bản đổ bộ vào một quận chỉ có người Trung Quốc sinh sống và sau một tuần đánh nhau, quân đội Tưởng đã buộc phải rút lui khỏi nơi đóng quân cũ của họ. Tại “khu quốc tế” người ta quan sát các cuộc đấu súng giữa hai bên qua cửa sổ và thậm chí đứng trên gác thượng của các khách sạn, cao ốc. Những đám khói đen kịt bốc lên khi những căn hộ tồi tàn của người Trung Quốc bị bom đạn Nhật Bản thiêu cháy. Với Sorge thì các trận đánh này là một thử thách mà anh không thể cưỡng lại được. Theo Sorge thì khi nổ ra các trận đánh, anh đang ở trong khu phố nghèo ấy, giữa hai làn đạn của hai đối thủ. Sorge chứng kiến sự dũng cảm của những người lính Trung Quốc được trang bị kém hơn hẳn đối phương nhưng được nhân dân - nhất là sinh viên tiếp sức, hỗ trợ - anh đã rất kiềm chế mới không lao vào cuộc chiến đấu trong hàng ngũ những người Trung Quốc. Cố vấn quân sự người Đức của Tưởng - vốn đã trở thành bạn của Richard Sorge - nhận định rằng một binh nhì Nhật Bản có giá hơn từ 5 đến 10 lính Tưởng. Không chỉ lòng dũng cảm trong chiến đấu mà ở chỗ họ có kỷ luật hơn hẳn, có tổ chức tốt hơn hẳn và đương nhiên được trang bị áp đảo. Tất cả đã tạo cho họ ưu thế tuyệt đối trên chiến trường. Phần mình, Richard Sorge có ấn tượng rất tốt về cách thức phòng thủ của người Trung Quốc. Binh đoàn 19 của Trung Quốc phòng thủ Thượng Hải là đội quân tinh nhuệ nhất của Tưởng Giới Thạch. Đơn vị này đã làm cho quân Nhật Bản không thể nào phát huy được ưu thế mọi mặt của họ. Từ những quan sát trực diện các cuộc chiến đấu trong các khu phố, Sorge rất lấy làm lạ là Trung Quốc - tức Tưởng Giới Thạch - dường như đã không vũ trang để đánh lại quân xâm lược Nhật Bản. Mà cuộc chiến tranh thì đã trở thành hiển nhiên. Sự kiện Thượng Hải đã giúp Sorge dự báo là quân phiệt Nhật Bản sẽ thực thi cuộc chiến tranh tổng lực nhằm chiếm đóng các nước láng giềng, trước hết là lãnh thổ rộng lớn Trung Quốc. Quân phiệt Nhật Bản đã trở thành mối đe dọa Trung Quốc lớn hơn nhiều so với các nước phương Tây. Từ những kết luận rất logic này, Richard Sorge đã đề ra nhiệm vụ nghiên cứu kỹ hơn nữa những tên xâm lược này để hoàn thiện một phương án khả thi ngay trong thời gian anh đang ở Trung Quốc. Từ kế hoạch này Sorge đi sâu vào nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lịch sử và những vấn đề con người và đức tin của người Nhật Bản. Sorge đã chọn cách làm đúng. Một lần nữa Agnes Smedley đã giúp anh giới thiệu những người Trung Quốc am hiểu Nhật Bản trong nhiệm vụ mới, có tính đột xuất này. Sorge đã có điều kiện tiếp xúc với nhiều người Trung Quốc giàu ý chí trong cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Từ những người này Sorge lọc ra được những người cung cấp thông tin và người đưa thư cho nhóm. Cũng trong dịp này qua những người bạn Trung Quốc mới - và qua Smedley - Sorge tiếp cận với một số người Nhật Bản chống lại chính sách bành trướng của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản. Một số đã gia nhập mạng lưới của anh. Một trong những người Nhật Bản mà Smedley giới thiệu cho Richard là Ozaki Hotsumi, là phóng viên thường trú ở Thượng Hải. Sau những cuộc gặp với Sorge, Ozaki Hotsumi nói với Agnes Smedley rằng anh chia sẻ quan điểm của chị “Johnson là một con người tinh tế” (Johnson là một trong hai tên của Richard Sorge khi hoạt động ở Thượng Hải - TN). Hotsumi kém Sorge 6 tuổi, có cái mũi hơi dài không như hầu hết người Nhật Bản, đôi mắt rất vui và hay cười. Hotsumi tự hào là phóng viên thường trú của tờ Osaka Asahi, tờ báo lớn nhất của Nhật Bản thời đó. Hotsumi là một chuyên gia Trung Quốc học. Hai người đàn ông hiểu nhau rất nhanh. Họ khâm phục kiến thức của nhau và nhanh chóng nhận ra là cùng chung những quan tâm về thời cuộc. Ozaki đã có vợ và con gái. Anh đã đưa ảnh vợ con khoe với Sorge ngay trong lần gặp gỡ đầu tiên. Nhưng Ozaki cũng có “tật xấu”: rất thích nhìn người đẹp trên đường phố. Ozaki bắt đầu nói cho “nhà báo Mỹ Johnson” về mục tiêu của Nhật Bản ở Trung Quốc cũng như chính sách của chính phủ Nam Kinh (tức chính phủ Quốc dân đảng của Tưởng). Là nhà báo có uy tín, anh có những mối quan hệ rất tốt với các quan chức, nhà buôn “trong khu Nhật Bản” ở Thượng Hải. Anh cũng đã giúp đỡ Đảng cộng sản Trung Quốc xây dựng các chi bộ bí mật ở Thượng Hải. Nhưng Ozaki cũng nói thật bụng rằng anh từng từ chối gia nhập Đảng cộng sản Nhật Bản cũng như khước từ lời giới thiệu trở thành đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc. Lý giải việc này Ozaki Hotsumi nói rằng mình muốn được hoạt động nghề nghiệp thật hiệu quả khi tên họ không có trong bất kỳ danh sách của một “hội kín” nào. Qua Ozaki Sorge làm quen với hai người Nhật Bản nữa ở Thượng Hải. Hai người này tuyên bố và trong thực tế đã sẵn sàng cung cấp những thông tin chính trị và quân sự cho Richard. Mizuno Shigeru “nhà tư tưởng trẻ” có đôi mắt sáng. Thời gian làm việc cho nhóm của anh không lâu, bởi vì anh bị buộc tội là tuyên truyền kích động trong sinh viên Nhật Bản ở Thượng Hải và do đó bị đưa về nước. Kawai Teikichi - người thứ hai - là một nhà báo không có chính kiến rõ ràng, một người ưa phiêu lưu, rời Nhật Bản sang Trung Quốc để tìm vận may. Cuộc hội ngộ với hai nhà báo phương Tây đã làm thay đổi cuộc đời Ozaki. Sau ngày bị bắt, đưa về nước quản thúc, anh nói: “Tôi suy nghĩ chín chắn thì có thể khẳng định đó là số phận của tôi vậy. Agnes Smedley và Richard Sorge đã thay đổi đời tôi, đã chỉ cho tôi rời con đường nhỏ hẹp, tăm tối để đi trên con đường lớn, rộng thênh thang.” Sorge mua một chiếc xe mô tô phân khối lớn. Bao giờ anh cũng phóng với tốc độ nhanh trên đường phố đông nghẹt người của Thượng Hải. Tháng 9 năm 1931 đã xảy ra điều phải xảy ra: Sorge mất thăng bằng khi phóng nhanh, ngã xe và gãy một chân. Vào viện bó bột mà Sorge vẫn cười: “Chiến tranh đã ghi “đủ dấu ấn” trên cơ thể tôi. Bây giờ thêm hay bớt một cái sẹo quả thật không có nghĩa lý gì!” Đó là một con người ưa mạo hiểm, rất trái ngược với tư duy trí não khi phân tích và đánh giá các vấn đề nan giải của thời cuộc. Đến thăm anh tại bệnh viện có cả Ruth Kuczynski mang họ Werner, một đảng viên cộng sản trẻ, con gái một nhà khoa học và là đảng viên cộng sản có tên tuổi của Đảng cộng sản Đức, người theo lời đề nghị của Sorge sang Trung Quốc tham gia màng lưới hoạt động của anh. Ruth kính trọng người chỉ huy trẻ của mình, làm hết sức mình cho anh và “theo Sorge sang Nhật Bản” hoạt động. Bà từng viết cuốn “Những báo cáo của Sonja” viết về một phần giai đoạn hoạt động sôi nổi của mình trong màng lưới điệp viên của Richard Sorge trên đất Nhật Bản. Ruth có chồng và có con. Chồng nàng là kiến trúc sư làm việc ở Tòa Thị chính Thượng Hải. Như hồi ký của Ruth thì trong thời gian ở Thượng Hải, nàng đã ngưỡng mộ và rất mực yêu thương Sorge. Ruth Werner đã “theo nghiệp tình báo” và trở thành một trong những điệp viên xuất sắc của ngành tình báo quân sự Liên Xô. Sau khi đại chiến kết thúc, nước CHDC Đức ra đời, Ruth Werner trở lại quê hương và sống bằng nghề viết văn. Trong những năm cuối cùng ở Thượng Hải, Richard Sorge sống yên bình trong vòng tay những người đồng bào Đức của anh và qua họ - cố vấn quân sự, viên chức ngoại giao và thương nhân - để tiếp cận những nhân vật chóp bu của chính phủ của những người tự xưng là “quốc gia xã hội” (tức Đảng của Hitler, y lên nắm quyền ở Đức năm 1933 - TN). Nguồn thông tin từ họ bao giờ cũng “rất nóng”. Cũng thông qua Smedley Sorge tiếp cận nhiều nhân vật phương Tây khác, trong số đó có Roger Hollis, về sau là giám đốc cơ quan tình báo phòng ngự Anh. Hollis là sinh viên Oxford không có văn bằng tốt nghiệp, năm 1927 đến Thượng Hải tìm cơ may tiến thân trong nghề phóng viên. Một năm sau Hollis tìm được chỗ làm lương hậu ở Công ty thuốc lá Anh-Mỹ (hãng BAT). Năm 1936 anh ta kết thúc nghề nghiệp ở Thượng Hải khi bị ốm thập tử nhất sinh. Hai năm sau Hollis tìm việc ở cơ quan M15 - bộ phận phục vụ hậu cần - sau hai năm gần như nhịn đói nhiều hơn các bữa ăn no. Chẳng hiểu nhờ đâu mà Hollis có thể tiến thân nhanh đến thế. Năm 1956 anh ta trở thành Tổng giám đốc - và đó là chức vụ cao nhất và cuối cùng của điệp viên này. Năm 1973 Hollis qua đời. Thập niên 80 người ta công bố những tài liệu cho rằng Hollis là kẻ phản bội và hoạt động trong màng lưới điệp viên của Liên Xô. Cơ quan tình báo Anh căn cứ vào thời gian làm việc của Hollis ở Thượng Hải, đã nhận định rằng Hollis phản bội nước Anh, gia nhập hàng ngũ những người cộng sản và cùng các đảng viên cộng sản khác thành lập tổ điệp viên: Agnes Smedley, Arthur Ewert và Ruth Kuczinski! Người ta cũng viết là Hollis và Sorge “cùng đi một đường, cùng có những thú vui như nhau...” xem ra rất hấp dẫn và giật gân. Tuy nhiên không hề có một tư liệu hay nhân chứng nào chứng minh được rằng có một điệp viên Liên Xô nào mang quốc tịch Anh cả. Nói rằng Ruth Kuczinski cùng hoạt động trong cùng một tổ điệp viên với Hollis ở Thượng Hải là chuyện đầy mâu thuẫn. Ruth Kuczinski từng là điệp viên hoạt động tại nước Anh, từng xây dựng mạng lưới điệp viên hoạt động rất có hiệu quả ngay trên quê hương Hollis, vào thời điểm anh ta đi tìm cơ may ở Thượng Hải. Richard Sorge biết khả năng phi thường của Ruth, đã mời nàng sang Trung Quốc làm việc. Ở Thượng Hải Ruth được Sorge đào tạo và hướng dẫn và nàng đã trở thành trợ thủ đắc lực và có hiệu quả lớn của anh. Điều này một lần nữa khẳng định: Sorge đã không lầm khi chọn đồng đội cho những nhiệm vụ cực kỳ quan trọng và nhạy cảm. Và ở Thượng Hải không ai ngoài Richard Sorge biết tên Ruth Kuczinski, vì lẽ đơn giản nàng mang bí danh “Sonja” - và là nữ điệp viên thành công nhất trong lịch sử ngành tình báo. Cuối năm 1932 Richard Sorge rời Thượng Hải. Anh tạm biệt những đồng đội thân yêu - trong đó có Ruth Kuczinski, Agnes Smedley (dù chị không trực tiếp hoạt động trong tổ chức) và hai nữ tình báo viên Trung Quốc, tạm biệt Ozaki Hotsumi - người mà những năm hoạt động ở Nhật Bản là cánh tay phải và trợ thủ đắc lực hàng đầu của anh. Những trang đời sôi động nhất của điệp viên Richard Sorge chưa bắt đầu! VỀ ĐỨC, SANG MỸ ĐỂ ĐẾN NHẬT BẢN Tháng giêng năm 1933 Richard Sorge trở về Mát-xcơ-va theo lệnh của tướng Bersin để nhận nhiệm vụ mới. Tướng Bersin đã rất hài lòng về những thành công lớn, rất hiệu quả của Richard Sorge trong ba năm hoạt động ở Thượng Hải. Ở Mát-xcơ-va, trong khi chờ đợi nhận nhiệm vụ mới và nhất là chuẩn bị hành trang mới cho cuộc chiến đấu gian nan hơn, Richard bắt đầu viết cuốn “Về nền nông nghiệp của Trung Quốc”. Với ấn phẩm này dư luận sẽ quan tâm hơn về con người này, rằng anh là nhà nghiên cứu, nhà báo hết sức năng động, nghiệp vụ hạng siêu. Cũng trong thời gian này một chuyện tình mới lại đến với anh. Để hoàn thiện tiếng Nga, Sorge được một phụ nữ trẻ tên là Yekaterina Maximova “nhận làm gia sư”. Có lẽ không khó khăn lắm để khẳng định Katja - tên âu yếm của cô gái - là người của cơ quan an ninh Liên Xô. Đó là một thanh nữ đẹp, mắt huyền và nụ cười duyên dáng luôn hiện diện trên môi. Katja làm việc tại một trường đào tạo diễn viên. Ba năm nay họ đã quen nhau. Dù chưa nói lời hẹn ước, nhưng suốt ba năm ấy Katja vẫn chờ đợi chàng. Cô đã chuyển sang làm việc tại một nhà máy sản xuất hàng quân sự. Cuộc hội ngộ không ngẫu nhiên này đã củng cố thêm tình yêu và lòng tin của họ với nhau. Họ thuê một căn hộ nhỏ ở tầng trệt và chung sống với nhau trong thời gian anh lưu lại Mát-xcơ-va. Sorge ý thức được rằng trận tuyến của mình không phải ở Mát-xcơ-va. Trước sau gì thì anh cũng sẽ lên đường đến một nơi nào đó trên hành tinh, thực hiện nghĩa vụ mà anh đã thề hy sinh đến hơi thở cuối cùng. Khác với những mối tình đã đi qua đời anh, lần này Sorge đề nghị Vụ 4 chính thức làm thủ tục kết hôn cho hai người. Lý giải về quyết định bất ngờ này của Richard Sorge, dư luận cho rằng Sorge đã suy nghĩ khá chín chắn: là sĩ quan tình báo luôn đối mặt với hiểm nguy, cái chết nhiều hơn sự sống. Vì thế, nếu một khi hy sinh thì vợ con được hưởng đầy đủ các chế độ của Nhà nước, tiền lương của anh trong những ngày hoạt động ở nước ngoài vợ con được lĩnh và anh được quyền nhận thư từ từ tổ ấm của mình. Giấy giá thú đã được hoàn tất ngày 8-8- 1933 khi anh đang lênh đênh trên biển Đại Tây Dương, trên đường đến New York. Tướng Bersin “dành” cho anh quyền lựa chọn địa bàn hoạt động. Sorge đã chọn châu Á, miền đất đầy cám dỗ đối với một điệp viên và một học giả thích đi tìm những kiến thức mới mẻ. Richard nói rằng miền Bắc Trung Quốc hay Mãn Châu, nhưng Nhật Bản cũng không tồi. Hai tuần sau tướng Bersin báo với anh: Chúng ta đang quan tâm đến Tokyo và thể theo nguyện vọng, đồng chí sẽ đến đó. Chọn Sorge cử sang Tokyo là cơ quan phản gián Liên Xô đã tính đến những phẩm chất nghiệp vụ tuyệt vời của anh và những kinh nghiệm thực tế quý báu đã thu được nhiều hơn những gì chờ đợi chỉ trong vòng 3 năm ở Thượng Hải. Vì sao Mát-xcơ-va quan tâm đặc biệt đến Nhật Bản? Đây là lý do tướng Bersin luận giải: “Cuộc xâm lược Mãn Châu của Nhật Bản đã đặt chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc vào một trò chơi nguy hiểm. Và với việc chiếm đóng “vùng ảnh hưởng” này của Liên Xô, quân phiệt Nhật Bản đã tiến sát phên dậu Liên Xô. Một đội quân đông nhiều triệu lính, rất hiếu chiến vốn coi Nga là kẻ thù truyền kiếp và chủ nghĩa cộng sản là nguy cơ to lớn, đang ôm ấp hoài bão bành trướng hơn lúc nào, sẽ là nguy cơ khủng khiếp cho Liên Xô đang trong giai đoạn công nghiệp hóa với muôn vàn khó khăn. Người Nga từng biết người Nhật đã “hạ nhục” họ như thế nào trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật năm 1905. Ngày nay cả thế lực, sự hiếu chiến của quân phiệt Nhật Bản gấp hàng chục lần so với 30 năm trước.” Đội quân Quan Đông thiện chiến đông hàng triệu tên đã xây dựng chiến lũy sau khi tuyên bố Mãn Châu là “lãnh thổ của Nhật Hoàng”, thậm chí đổi tên vùng này mang tên Nhật Bản. Lực lượng của Liên Xô ở vùng Viễn Đông rất mỏng trong khi cơ quan tình báo liên tiếp nhận được qua sóng vô tuyến từ Nhật Bản những thông tin đáng lo ngại về những chuẩn bị của quân đội cho một chiến dịch quy mô chưa từng có nhắm vào lãnh thổ Viễn Đông của Liên Xô và thậm chí cả vùng Xibia rộng lớn. Liên Xô phải biết được những kế hoạch cụ thể của Nhật Bản. Tướng Bersin đã vạch phương án hoạt động của Richard Sorge ở Tokyo sau khi Richard chấp nhận “đi vào hang sói”. “Vần đề trọng tâm là phải biết Nhật Bản có phải thật sự lên phương án tấn công Liên Xô. Có triệu chứng chứng tỏ giới quân sự đang mưu đồ thu tóm quyền lực ở Tokyo. Sau hành động đánh chiếm Mãn Châu của chúng, ta có cơ sở để nhận định chiến thắng dễ dàng ấy đã kích thích chúng phiêu lưu trong những bước tiếp theo nhằm thực thi chủ nghĩa bành trướng từ lâu nay. Người Nhật Bản đang háo hức chờ đợi những lời khẳng định của giới quân phiệt “tìm những khoảng không gian sinh tồn rộng lớn cho nước Nhật Bản quá chật chội mà dân thì quá đông đúc”. Đồng chí hãy tập trung khám phá cho được hướng tấn công của bọn xâm lược. Chúng ta cần những thông tin và số liệu chính xác, tin cậy về lực lượng quân sự của chúng, đặc biệt là phiên chế và lệnh điều động các lực lượng bộ binh và không quân cho các đợt tấn công.” Lo lắng của vị tướng tình báo này là có cơ sở. Tình hình chính trường Nhật Bản sau khi chúng chiếm Mãn Châu đã chỉ rõ một sư đoàn quân Nhật Bản đóng ngoài biên ải có đủ khả năng và quyền lực áp đặt chính sách cho chính phủ Tokyo mà ông gọi là “bối cảnh cái đuôi có thể điều khiển cái đầu con chó”! Trong bối cảnh “nước sôi lửa bỏng” ấy, hồi ấy hầu như không có tổ điệp viên nào hoạt động ở Nhật Bản, ngoại trừ các cơ quan ngoại giao và thương mại, hãng thông tấn Tass. Lẽ đương nhiên nhiều người trong những viên chức này là sĩ quan, là nhà quân sự đã đăng ký công khai trong danh sách đoàn ngoại giao. Tận dụng thời gian còn lại trước khi lên đường, Sorge hầu như lúc nào cũng có mặt trong Thư viện quốc gia. Anh tìm đọc tất cả sách, tạp chí, báo... viết về Nhật Bản. “Quê hương mới” ấy của anh xa lạ quá. Sorge dường như không biết gì về Nhật Bản. Qua nghiên cứu, tìm tòi từ nhiều nguồn thông tin, Sorge hiểu là hầu hết người Nhật Bản đều cho rằng một cuộc xâm lược của Nhật Bản vào đại lục châu Á là không tránh khỏi. Nước Nhật Bản là quốc gia “chẳng có gì cả” (tức là không hề có tài nguyên trong lòng đất, ngoài núi lửa và động đất), mật độ dân số cao gấp 10 lần mức trung bình của toàn thế giới. Chưa có con đường nào đưa Nhật Bản thoát khỏi khó khăn kinh tế ngoài hành động xâm lược, chiếm thuộc địa. Không chỉ những kẻ mang tư tưởng dân tộc cực đoan mà thậm chí nhiều người thuộc giới trí thức cũng chia sẻ quan điểm về “khoảng không gian sinh tồn” cho người Nhật. Dĩ nhiên người Nhật Bản đã tìm được “lý do có cơ sở” cho một chính sách như thế: vì sự sống còn của nước Nhật. Đích ngắm đầu tiên của quân phiệt Nhật Bản là nước Trung Hoa rộng lớn có sức hút lớn hơn cả ma lực. Trung Quốc lại đang bị “chia năm sẻ bảy” với những lãnh địa, nhượng địa của các nước tư bản phương Tây, trong nước cũng lại không đồng tâm nhất trí. Các thế lực chính trị cát cứ nhiều vùng... Một nước Trung Hoa trong bối cảnh ấy là miếng mồi quá ngon lành và dễ nuốt đối với những kẻ xâm lược. Nhật Bản đã từng “thử sức” và thắng Nga trong cuộc chiến tranh 1905-1906, từng đọ sức với Trung Quốc trong cuộc chiến tranh 1894-1895 và đã chiếm Đài Loan làm thuộc địa. Ít lâu sau Nhật Bản đã đánh chiếm Triều Tiên “khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc và là nhà nước do Trung Quốc bảo trợ” và năm 1933 đã không khó khăn khi đánh chiếm toàn vùng Mãn Châu. Chừng ấy đã thỏa mãn “cơn đói” của giới quân phiệt Nhật Bản chưa? Hay là họ sẽ làm tất cả những gì cần làm để lao vào “ổ trứng Kaviar khổng lồ” này? Đó là nội dung nhiệm vụ của điệp viên Richard Sorge. Nói chính xác là: Sorge phải nắm cho được thông tin chính xác về những mưu toan và tính toán của Nhật Bản trong hoạt động “mở rộng biên giới” vào đất liền. Những bước đi của Nhật Bản ở Trung Quốc sẽ có tác động trực tiếp đến chiến lược của các nước khác, trước hết là Liên Xô sát phên dậu với Trung Quốc, nguồn tài nguyên vô tận chưa được khai thác. Chính sách của Nhật Bản đối với Trung Quốc sẽ là chìa khóa giải mã chính sách đối với các nước khác, trước hết là các nước ở châu Á. Dường như nhiệm vụ nặng nề, cực kỳ khó khăn ấy đã kích thích trí tưởng tượng và óc phiêu lưu mạo hiểm của Richard Sorge. Con đường sang Nhật Bản theo lộ trình mà người không am hiểu thời cuộc và nghiệp vụ, cho là kỳ quặc: Trước hết Sorge phải trở lại “quê nhà nước Đức”. Chỉ ở Đức Richard mới có thể thu được những thông tin về những quan chức Đức hiện có mặt ở Nhật Bản. Hơn thế, nếu có được những “thư giới thiệu”, “thư ủy nhiệm” hay “thư bảo đảm”... từ các nhân vật có thế lực ở Berlin thì cửa vào các nơi cần vào khi anh đến Nhật Bản coi như được khai thông từ bên này, cách nơi anh sẽ đến nửa vòng trái đất. Berlin thay đổi khá nhiều kể từ năm 1929, năm cuối cùng Sorge lưu lại dài ngày. Adolf Hitler đã thu tóm quyền hành và cuộc cách mạng quốc gia xã hội đang được thúc đẩy hối hả. Khi tới Berlin vào tháng năm thì nền dân chủ ở Đức đã bị xóa bỏ. Những người cộng sản thoát khỏi nanh vuốt của bọn quốc gia xã hội, phần lớn đã chạy ra nước ngoài. Cơ sở tổ chức đảng còn lại bị khủng bố gắt gao, coi như đã bị vô hiệu hóa. Về Berlin trong bối cảnh này đối với Sorge thật mạo hiểm. Anh ý thức được rằng hồ sơ cảnh sát và mật vụ sẽ không thiếu chi tiết rằng anh đã từng hoạt động trong cơ quan Quốc tế cộng sản. Chuyến trở về quả thật gắn với nhiều rủi ro. Nhưng con người thông minh siêu phàm như Richard Sorge thì sự rủi ro ấy đã được tính trước - cả trong trường hợp xấu nhất. Sorge hiểu rằng ở Đức đang diễn ra một sự thay đổi lớn nghiêng sang chế độ độc tài, bóp nghẹt dân chủ, tuy nhiên bộ máy kìm kẹp - mật vụ Ghét-ta-pô mới hình thành, chưa đủ bản lĩnh và kinh nghiệm và chưa thoát ra khỏi bộ máy quan liêu. Tóm lại tình hình Đức còn trong buổi hỗn loạn. Mặt khác, sau chiến dịch khủng bố phe tả cực kỳ dã man của bọn quốc gia xã hội của Hitler, nhiều người xã hội dân chủ và cộng sản đã buộc phải tuyên bố “trung thành với chế độ mới”. Vì lẽ đó quá khứ của Sorge không nhất thiết biến anh trở thành kẻ thù của chế độ Hitler. Việc đầu tiên là kiếm một chứng minh thư. Ngày 1-6 anh đến đồn cảnh sát báo và đăng ký chỗ ở tại Berlin. Để hợp pháp, Sorge phải làm bản khai báo chi tiết lai lịch và quá trình “hoạt động” của mình. Sorge chứng tỏ cho cảnh sát hiểu là anh từ Thượng Hải thẳng hướng Berlin và như vậy 5 tháng lưu lại Matscơva coi như “biến mất”. Bước quyết định tiếp theo sau khi cân nhắc cẩn thận là làm đơn gia nhập Đảng Quốc gia xã hội. Đó là bước chuẩn bị cần thiết để không gặp trở ngại ở Tokyo sau này do chính phía Đức có thể gây ra. Cho đến năm 1933 những người hành nghề phóng viên chưa nhất thiết phải là đảng viên quốc xã. Ba năm ở Trung Quốc Richard Sorge đã hoàn thành xuất sắc vai phóng viên báo chí. Dù cho đóng vai một thương nhân sẽ thuận lợi hơn cho hoạt động gián điệp, thế nhưng nghề ấy lại không phù hợp với bản chất tự nhiên vốn có của Sorge. Hình như trong huyết quản của anh đã “nhiễm khuẩn phiêu lưu” của nghề tình báo. Nhờ kiến thức uyên bác, Sorge đã trở thành một nhà báo uy tín mà cơ sở của “quyền uy” này chính là những bài báo viết về nông nghiệp và nông thôn Trung Quốc không khác gì một chuyên gia hạng ưu. Ở Berlin Richard Sorge tìm tờ báo phù hợp để hợp tác. Anh đã tìm được tờ “Tạp chí địa chính trị” và người ta đã ký hợp đồng đặt bài về các vấn đề liên quan đến quân đội Nhật Bản, về nông nghiệp và sự phát triển của vùng Mandschurei (tức là Mãn Châu nay mang tên Nhật Bản). Người sáng lập “Tạp chí địa chính trị” là tiến sĩ Karl Haushofer, từng nổi tiếng về lý thuyết tác động của địa lý vào chính sách nhà nước và là chuyên gia về Nhật Bản và cũng là nhân vật ngưỡng mộ những người Phù Tang. Haushofer là bạn thân của nhiều quan chức đầy thế lực trong đảng quốc xã, trong số đó có Rudolf Hess. Sorge đã diện kiến Haushofer với ý định nhờ ông ta giới thiệu. Cuộc thăm viếng đạt kết quả ngoài mong đợi. Tiến sĩ Haushofer có cảm tình với Richard Sorge do anh đã tạo được ấn tượng tích cực ở ông. Sorge đã bỏ ra nhiều ngày đêm miệt mài đọc để hiểu cho thấu đáo tư tưởng và định nghĩa thế giới của bọn quốc xã Đức thông qua cuốn tự thuật của Adolf Hitler: Cuộc chiến đấu của tôi. Tiến sĩ Haushofer thậm chí đã viết thư giới thiệu Sorge với các nhận vật Đức có thế lực ở Mỹ và Nhật Bản. Trong buổi diện kiến Haushofer, Richard Sorge nghe nói đôi ba lần đến một cái tên Eugen Ott. Người này trước ít giờ đã đến chào thầy Haushofer để sang Nhật Bản nhận công tác mới. Vị đại úy này sang Nhật Bản phụ trách mạng lưới thông tin của Đức ở đó. Về sau trong cuộc diện kiến với Tiến sĩ Zeller, chủ bút tờ “Tin vòng quanh thế giới”. Sorge cũng nghe ông nói đến tên Ott. Sorge muốn biết tờ “Tin vòng quanh thế giới” có cần bài gửi từ Nhật Bản. Thay cho lời trả lời, Tiến sĩ Zeller cho hay ông ta đã từng chăm chú theo dõi những bài viết thú vị và sâu sắc của anh về nước Trung Hoa. Thông qua câu chuyện Sorge biết được rằng cũng như mình, Tiến sĩ Zeller đã từng là lính trên các chiến hào trong cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất. Họ như hai đồng ngũ gặp lại nhau, hiểu nhau. Cuối buổi chuyện trò Zeller bỗng nói với Sorge là ông sẽ có thư giới thiệu với một quan chức từng là đồng ngũ của Zeller. Zeller nói thêm: đó là nhân vật anh nhất thiết phải gặp vì anh, vì nước Đức của chúng ta. Người đó đã sang Nhật Bản nhận nhiệm vụ quan trọng cách nay vài ngày. Tên ông ta là Ott. Quan chức đó là chuyên gia pháo binh - sĩ quan trao đổi trong hoạt động hợp tác giữa Đức và Nhật Bản - cầu nối của sự hợp tác Đức Nhật, một trong những mắt xích của sự liên minh ma quỷ giữa quốc xã Hitler và quân phiệt Nhật Bản trong đại chiến thế giới lần thứ hai. Trong thư giới thiệu với Eugen Ott - đương nhiên là thư để ngỏ - Richard Sorge thích nhất câu sau đây: “Cậu có thể tin cậy hoàn toàn vào mọi mặt - chính trị và đời tư - vào Richard Sorge!” Đầu tháng bảy Sorge quyết định đã đến lúc rời Berlin nếu không muốn rơi vào miệng hùm hàm sói. Trước khi rời Berlin sang New York, đến Vancouver để sang Nhật Bản, anh đã liên lạc với Vụ 4 và báo cáo về những gì mình đã làm được trong hai tháng ở Đức. “Tôi không thể nói đã đạt được 100% kế hoạch, nhưng khó có thể đạt được nhiều hơn, vì vậy sẽ là vô nghĩa nếu chần chừ ở lại Berlin lâu hơn nữa. Tôi đã đạt được những gì mình cần cho những đoạn đường tiếp theo. Để làm kẻ lười biếng, chỉ mong hưởng thụ là không thể chịu được. Tôi phải tiếp tục công việc của mình. Hiện tại tôi chỉ có thể nói các tiền đề cho những công việc tiếp theo đã được chuẩn bị chu đáo.” TIẾNG NÓI CÓ TRỌNG LƯỢNG ĐÁNG NỂ 15 giờ ngày 6-9-1933 chiếc tàu khách sang trọng Empress of Russia từ Canada cập bến Yokohama. Trời Nhật Bản trong xanh hơn bất cứ nơi nào trên hành tinh. Hành khách từ phương Tây cảm nhận không khí nóng nực, dù Nhật Bản đã vào mùa thu. Mùi cá khô, cá ươn trộn lẫn với mùi mồ hôi của hàng trăm người trên cảng như đón chào những vị khách từ bên kia đại dương - theo cách nói của người Nhật Bản. Như thông lệ, tờ Japan Advertiser trong số ra hôm sau đăng toàn bộ danh sách hành khách trên tàu. “Cái làng ngoại quốc” nho nhỏ cách xa quê hương vạn dặm đang chờ đợi trong đám hành khách có người thân quen từ quê nhà. Trong danh sách của những tân khách của nước Nhật Bản có tên “Mr.R. Sorge”. Một cái tên chẳng nói lên anh ta là ai nếu người ta không đọc báo trong những năm qua. Richard Sorge đến Nhật Bản với tên thật, hộ chiếu thật. Thế nhưng những gì anh sẽ làm sẽ là “bất hợp pháp”. Sorge không được “miễn trừ ngoại giao” như hàng tá nhân viên sứ quán nước ngoài mang hộ chiếu đỏ và làm... điệp viên. Thành công của anh ở Nhật Bản những năm này hoàn toàn phụ thuộc vào tài năng ngụy trang và trình độ nghiệp vụ đặc biệt mà anh từng thu thập được từ thời làm việc cho Quốc tế Cộng sản trên các trận địa thầm lặng ở Đức, Bắc Âu, Mỹ và Thượng Hải. Nước Nhật Bản vào những năm ấy như thế nào? Người nước ngoài gọi đất nước này là “nhà ảo thuật đại tài”, vì lẽ chỉ trong thời gian không dài Nhật Bản đã từ một nước nông nghiệp của chế độ phong kiến, trở thành một cường quốc với một quần đảo có 4.600 km giáp biển kéo dài từ quần đảo Curin ở phía Bắc đến Đài Loan ở phía Nam (Đài Loan là thuộc địa của Nhật Bản - xem các chương trước). Hiển nhiên là quá trình gia nhập các quốc gia hùng mạnh của Nhật Bản chưa phải đã hoàn thành, song những gì người Nhật đã đạt được kích thích sự hiếu kỳ và tò mò của nhiều người nước ngoài, không chỉ từ phương Tây. Thế giới coi công cuộc duy tân của Nhật Bản là sự thần kỳ. Vào năm đó trên đường phố Tokyo vẫn còn “xe taxi 1 Yên” (tức là loại xe kéo mà dù chạy xa hay gần cũng chỉ trả 1 Yên), nhưng năm sau - 1934 - đã vắng bóng hẳn; trên các đường phố các bà sang trọng mặc Kimono dạo bách bộ trộn lẫn với những moga (thanh nữ hiện đại) mặc váy ngắn, gấu nằm trên đầu gối, là sự lạ mới thấy lần đầu ở đó. Các quán xá chơi nhạc Samisen truyền thống nhưng đã trộn lẫn với âm nhạc Jazz, Tango của phương Tây. Cuộc “Tây hóa” ở Nhật Bản diễn ra với tốc độ cực nhanh. Cũng đã có một chính phủ tuyên ngôn dân chủ nhưng nền dân chủ ấy còn phải mất nhiều công sức nữa. Người ta nói và so sánh khá thú vị rằng Nhật Bản vẫn gác một chân vào quá khứ nhưng chân còn lại đang sống trong hiện thực. Một nhà báo Đức, Friendrich Sieburg đã viết: “Người Nhật Bản vừa là một dân tộc hiện đại vừa là một dân tộc phong kiến. Họ sống ở hai thời đại trong cùng một thời điểm. Nhật Bản đứng trên đôi chân thọt!” Nhà báo này cũng quen biết Richard Sorge. Ông đã quan sát rất kỹ càng phong cách, lối sống và ứng xử của người Nhật Bản. Ông có lần viết như sau: “Người dân nhìn vào cung vua trong tư thế hai tay áp sát vào hai bên hông và cúi đầu xuống... gần tận đất. Những người dạo chơi bách bộ qua khu cung vua cũng phải làm như vậy, học sinh cũng làm như vậy, các bà nội trợ đi mua bán ngang qua cung vua cũng phải làm như vậy; các thành viên của một gia đình đi bát phố qua đó cũng phải làm như vậy; nông dân từ tỉnh lên sau khi xuống tàu hỏa, qua cung vua cũng phải cúi rạp mình. Và những chàng lính được nghỉ phép và trả phép qua đó cũng phải làm như vậy!” Nước Nhật Bản đã và đang có những thay đổi cực đoan. Trong năm 1925 đạo luật kiểm soát gắt gao các phần tử mà họ gọi là những người tìm cách xóa bỏ kokutai - hình thức chính phủ nằm trong lòng xã hội quân chủ Nhật Bản. Đạo luật này không chỉ nhằm vào những người cộng sản mà cả các loại viên chức, cảnh sát, các chính khách, người theo đạo Thiên Chúa một khi họ đòi tự do dân chủ. Trong những năm 20 còn lại của thế kỷ XX, sau ngày ban hành đạo luật này, đã thật sự trở thành “phương tiện vạn năng” đàn áp cái mà người ta gọi là “tội ác trong tư duy” mà thực tế là những ý kiến phản đối chủ nghĩa xâm lược quân sự của Nhật Bản. Vào thời điểm Sorge đến Nhật, nền dân chủ nở sớm của Nhật Bản đã coi như không còn nữa. Các vụ ám sát thủ tướng, bộ trưởng tài chính và các nhà công nghiệp trong năm 1932 đánh dấu sự cáo chung của một chính phủ hoạt động theo hiến pháp. Nhà nước pháp quyền sụp đổ. Những thế lực quân sự nắm thực quyền giành tất cả quyền lực vào tay chúng mà cuộc tấn công chiếm đóng Mãn Châu đã chỉ rõ. Giới quân sự trên thực tế nắm quyền và áp đặt mọi mệnh lệnh cho chính phủ. Nhân vật chính trị có thế lực nhất ở Nhật Bản không còn nằm trong tay vua - cho dù vua vẫn là tổng tư lệnh quân đội - mà nằm trong tay bộ trưởng chiến tranh lúc ấy là tướng Araki Sadao, một nhà tư tưởng cực đoan và thủ lĩnh Schinto theo chủ nghĩa độc đoán. Nước Nhật Bản đang nằm trong tay những kẻ theo chủ nghĩa khủng bố. Việc giới quân sự Nhật Bản thu tóm chính trường đã làm Stalin lo lắng có cơ sở rằng những cái đầu nóng kia sẽ đẩy nhanh cuộc đối đầu với Liên Xô bằng một cuộc chiến tranh tổng lực. Liên Xô chưa sẵn sàng ứng phó với một cuộc tấn công toàn lực như thế từ phía Đông. Ngày 7-9-1933, một ngày sau khi Richard Sorge đến Nhật Bản, đại sứ Mỹ ở Tokyo, Joseph Crew, đã ghi trong nhật ký rằng một cuộc chiến tranh Nhật-Nga đang trở thành hiển nhiên. Đến ngày 8-2-1934 tin tức đã có mùi thuốc súng. Crew viết: “Quân đội hầu như đã hoàn toàn tin rằng Nhật Bản sẽ chiếm Vladivostok, các tỉnh duyên hải và toàn bộ một vùng rộng lớn kéo dài đến tận hồ Bai-can.” Trong tình hình nghẹt thở trong chất nổ này, nước Nga Xô Viết quyết định xây dựng một tổ điệp viên là chuyện sống còn. Và việc này gắn với nhiều rủi ro cho các chiến sĩ tình báo hơn bất cứ nơi nào trên trái đất. Tại Nhật Bản tất cả gaijin (người lạ) đều bị cảnh sát giám sát nghiêm ngặt. Người ta cho rằng người nước ngoài là những kẻ gây rối và là những người “làm hoen ố văn hóa thuần khiết” của Nhật Bản. Một gã da trắng tóc vàng mũi lõ là rất đáng ngờ vực. Trong khu quốc tế ở Thượng Hải chẳng ai quan tâm khi gặp trên đường những người da trắng. Nhưng ở Nhật Bản chỉ có 8.000 người Âu và Mỹ đều bị coi như “quái nhân”. Bất cứ họ đi đâu, ở đâu cũng có những cặp mắt soi mói hướng về họ. Một nhà báo Đức, Albrecht Haushofer - con trai tiến sĩ Haushofer mà Sorge đã được diện kiến trong thời gian trở về Đức - đã viết một cuốn sách về người Nhật Bản. Cuốn sách đó được Rudolf Hess khuyến khích (Hess về sau là phó quốc trưởng của Hitler), trong đó có đoạn như sau: “Khi một người Nhật ra nước ngoài thì họ coi mình là một điệp viên; khi ở trong nước thì họ phải đóng vai người bắt gián điệp. Vì lẽ đó người Nhật luôn luôn lo lắng là lúc, ở đâu, ai đến nước họ cũng đều là gián điệp!” Ở một nước như thế thành công của Richard Sorge dường như chỉ còn phụ thuộc vào việc anh có tạo được chân dung của một người quyền cao chức trọng và rất có uy tín trong giới ngoại quốc và với người Nhật. Bài học này Sorge tiếp thu được ít nhiều hồi ở Thượng Hải, nhất là khi tiếp xúc với chính những người Nhật. Hình thức quan trọng có thể hơn cả nội dung. Sorge có trong tay thư giới thiệu của đại sứ Nhật Bản ở Mỹ, Debuchi Katsuji. Ông này giới thiệu Sorge với Vụ báo chí, Bộ Ngoại giao. Ngày hôm sau Sorge đã đến thăm xã giao Vụ báo chí, đưa thư và trình ủy nhiệm và xin cấp thẻ phóng viên thường trú. Richard Sorge cho rằng các cơ quan Nhật Bản sẽ đánh giá anh theo cách đối xử của đại sứ quán Đức, nghĩa là nếu anh là người gần gũi của đại sứ quán Đức thì mọi chuyện sẽ khác. Sorge tìm thấy ở đại sứ quán Đức là chỗ dựa, là bức thành bảo vệ mình. Kinh nghiệm tiếp cận các loại viên chức Đức ở nước ngoài Richard đã thu thập được ở Thượng Hải. Ở đó Sorge đã thành công đáng kể chính là nhờ vào tổng lãnh sự quán và các chuyên gia quân sự Đức bên cạnh chính phủ Nam Kinh. Richard Sorge quyết định: mục tiêu trước mắt và lâu dài là trở thành người tin cậy của đại sứ quán Đức. Thật ra, trong cuộc gặp tướng Bersin, anh đã nghe cấp trên chỉ thị về việc cần tiếp cận đại sứ quán và các viên chức cao cấp của họ. Người Nga đã biết rằng Đức và Nhật Bản sẽ nhanh chóng thiết lập những mối quan hệ khăng khít và họ cũng đã tính trước là rất có thể phải nằm giữa hai gọng kìm của một liên minh quân sự Đức-Nhật. Sorge có nhiêỳm vụ tìm hiểu và giải mã tất cả những động thái và mưu đồ của Nhật Bản và của Đức thông qua những đại diện ở Tokyo. Chỉ có thể thu được những thông tin đáng tin cậy khi chính anh trở thành người tin cậy của đồng bào mình mà một nhà báo bình thường hoàn toàn bất lực. Theo thông lệ, Sorge đến “ghi danh” báo cáo sự có mặt của một công dân Đức ở Nhật cho sứ quán. Hồi đó đại sứ quán Đức còn khá khiêm tốn: đại biện lâm thời và 5 viên chức phụ trách các bộ phận, hai tùy viên quân sự và nhân viên văn phòng. Đại sứ Herbert von Dirksen mãi tới tháng mười hai mới sang nhận nhiệm vụ thay đại sứ cũ đã hồi hương. Khi đưa thư giới thiệu của tổng biên tập tờ “Tạp chí địa chính trị” Sorge nhận ra ngay hai chức sắc tiếp anh là bí thư và một trong hai người vốn từng là thượng sĩ trong quân đội. Nhân vật này - theo kinh nghiệm của Sorge - sẽ không mấy khó khăn trong việc làm quen khi anh từng là đồng ngũ với viên bí thư kia. Một sự ra mắt khá thuận lợi. Vào một sáng mùa thu Richard Sorge đáp tàu hỏa đến Nagoya, cách Tokyo ba giờ rưỡi giờ đi tàu. Đại úy Eugen Ott đang giữ nhiệm vụ liên hệ với Trung đoàn pháo binh số 3 trong tư cách là sĩ quan cố vấn và liên lạc, đang thực thi nhiệm vụ kiểm tra sức đề kháng của đơn vị trong phòng thủ để giúp cho quân đội Nhật Bản áp dụng trong toàn binh chủng. Ott năm đó 44 tuổi, là quân nhân từ chân đến tóc. Sự nghiêm túc theo điều luật quân đội, cả trong quân ngũ lẫn ngoài đời, với bộ mặt lạnh như đá... là một quân nhân Phổ điển hình, cho dù trong thực tế đời thường anh ta cũng không có gì mạnh mẽ cho lắm. Cuộc gặp gỡ Ott tại văn phòng diễn ra theo nghi thức. Nhưng không khí buồn tẻ nhanh chóng tan đi khi Eugen Ott biết được Richard Sorge là một con người hào hoa, lịch sự, thông minh, hiểu biết rộng nhiều vấn đề và là tay cờ chơi không biết chán. Ott nhanh chóng đưa bàn cờ ra chơi. Song điều Eugen Ott ngạc nhiên và phục Sorge là anh am hiểu tình hình chính trị và thời cuộc Nhật Bản thật chi tiết và sâu sắc. Bức thư giới thiệu của Tiến sĩ Zeller có tác động rất lớn. Tuy nhiên, Richard Sorge thì cho rằng điều làm cho Ott tin cậy và hiểu mình là do những năm Sorge làm lính chiến trên chiến hào châu Âu. Eugen Ott cũng từng là viên sĩ quan trẻ cấp thấp lăn lộn nơi đầu sóng ngọn gió ấy và hiểu thế nào là tư cách và chất lượng của một chiến binh. Sorge tận dụng triệt để mọi thời gian và với nghị lực phi thường từ trong máu, lao vào tìm hiểu nước Nhật Bản, đặc biệt là lịch sử, văn hóa và văn minh lúa nước. Anh mong muốn trở thành chuyên gia Nhật Bản học. Kiến thức rộng và uyên bác của Sorge đã giúp anh có một vị trí quan trọng trong đại sứ quán Đức ở Nhật Bản, cho dù anh không phải là viên chức của tòa đại sứ. Không có kiến thức vượt trội ấy và trí nhớ phi phàm, anh không thể thu phục được những con người máy kia với kỷ luật sắt nghiêm minh, cung cấp cho những thông tin tuyệt mật. Và không ít người trong bọn họ từng cần anh cố vấn cho chuyện nọ, việc kia. Cuối năm 1933 các điều kiện vật chất đã hội đủ để Richard Sorge trình làng loạt bài phân tích chính trị cho tờ “Tin tức toàn cầu hàng ngày”. Loạt bài này đã được nước Đức tiếp nhận nồng nhiệt và uy tín của các nhà ngoại giao Đức tăng rất cao. Sorge quan tâm đặc biệt việc học tiếng Nhật. Khả năng tuyệt vời của Sorge đã giúp anh lý giải những vấn đề tại chỗ đủ sức thuyết phục những viên chức đến Nhật Bản từ nhiều năm nay. Với người Nhật, Sorge làm như “người mù chữ Nhật”. Richard Sorge trở thành “nhà báo cực kỳ năng động và nhạy cảm” chỉ sau một thời gian rất ngắn. Ngay cả ngài đại sứ Herbert von Dirksen cũng đã cần đến những bài phân tích và tư liệu của Sorge. Điều này là không bình thường, bởi lẽ viên chức cao cấp này của Bộ Ngoại giao Đức vốn “không coi bọn nhà báo là đáng tin cậy”. Richard Sorge đã tạo cho mình vị trí đặc biệt trong đại sứ quán, chỉ sau đúng một năm đến Nhật Bản. Thậm chí người ta gọi anh là “người có tiếng nói trọng lượng đáng kể”. Richard Sorge đã tạo được tiền đề tốt nhất để thực hiện nhiệm vụ đặc biệt do Vụ 4 ủy thác. Nói về giai đoạn chuẩn bị rất công phu và những gì làm được, Sorge ghi: “Từ đầu tôi muốn nhấn mạnh rằng nhiệm vụ của mình là tiếp cận đại sứ quán và chiếm toàn bộ sự tin cậy của các viên chức trong sứ quán. Đó là nền tảng cho công việc chính của mình và những công việc này chỉ có thể được tiến hành sau khi tạo được nền tảng chắc chắn ấy.” Một hành động quyết đoán, thông minh của anh là gia nhập Đảng quốc gia xã hội và nhận thẻ đảng viên, số thẻ 2.751.466. Các quan chức trong NSDAP đã kiểm tra chi li quá khứ của anh mà không có điều gì đáng nghi vấn. Vào đảng quốc gia xã hội là bước đi được cân nhắc rất cẩn thận, bởi lẽ trong “làng Đức” ở Nhật Bản không chỉ có những người của Hitler mà còn có nhiều người gốc Do Thái, nhiều người có tư tưởng tự do vốn chống đối Hitler ra mặt. Nhưng NSDAP có “nghĩa vụ và trách nhiệm” cột tất cả cộng đồng vào cỗ xe của dấu chữ thập ngoặc”. Việc đó ngoài đại sứ quán ra thì không còn ai có quyền và có thế lực. Mà trong đại sứ quán thì hầu hết viên chức - và tất cả những kẻ có chức có quyền - đều mang áo nâu - sắc phục của đảng viên NSDAP. Với thẻ đảng và phù hiệu trên ve áo, Richard Sorge được tin cậy đặc biệt. Tuy nhiên ai hiểu Sorge cũng nhận ra rằng con người này cũng đã không chỉ đôi lần phát biểu ý kiến “rất sắc” về NSDAP và thủ lĩnh của họ. Sau này, khi bị bắt, Richard Sorge đã viết đôi điều về những vấn đề liên quan: “Với cách sống của tôi và thế giới quan của mình, dường như đại sứ Ott (viên chức quân sự này về sau được bổ nhiệm làm đại sứ Đức ở Nhật Bản - TN) không coi tôi là một đảng viên Nazi đích thực.” Vì sao Sorge nhận định như vậy? Trong khi các viên chức sứ quán răm rắp tuân theo mọi “lời giáo huấn” của quốc trưởng, một mực tung hô Hitler thì Richard Sorge lại là người khá thoải mái, nhiều khi hơi quá khích. Điều đó cũng là dễ hiểu vì lẽ mọi viên chức trong sứ quán phải “giữ mồm giữ miệng” và giữ cái đầu của họ. Sorge trở thành đảng viên Nazi nhưng nhãn đảng viên phát xít ấy không thể che lấp bản tính tự nhiên vốn có của anh. Cái tài của Sorge là anh đã tạo chân dung mà hầu hết người trong “làng Đức” khẳng định anh là một “đảng viên Nazi tin cậy” và thậm chí nói rằng Sorge xứng đáng làm người đứng đầu đảng Nazi ở Nhật. Richard Sorge có ghi cảm tưởng này của anh về chuyện này như sau: “Tháng 7-1934 đảng trưởng Nazi ở Nhật Bản về nước, do đó tổ chức không có thủ lĩnh trong một thời gian dài. Nhiều đảng viên đề nghị tôi nhận chức vụ ấy. Trong thâm tâm, tôi cho chuyện đó thật nực cười và lố bịch, nhưng tôi đã lập tức đến chỗ Ott - lúc đó là tùy viên quân sự - để bàn với anh ta việc này. Ott báo cáo với đại sứ Dirksen và cả hai cho là tôi nên và xứng đáng nhận nhiệm vụ ấy và như vậy “đảng Nazi có một thủ lĩnh xứng đáng” ở Nhật Bản.” Quả thật như chuyện ngụ ngôn nhưng lại là sự thật. Ott và Dirksen thật sự tín nhiệm Sorge, coi như một nhân vật khác thường. Các viên chức sứ quán, từ ngài đại sứ đến các bí thư đều cho rằng Sorge là phóng viên siêu hạng của tờ “Báo Frankfurt” và là một người cực đoan. Tạo được sự tín nhiệm ấy là nhờ tính cách riêng của Richard, sự thông tuệ của anh và cũng là những điểm yếu - như chính Sorge thừa nhận - để có thể hòa quyện với nhau làm thành một Richard Sorge khác thường, nhận được sự tin cậy đặc biệt của đồng bào có chức có quyền của anh. Có thể ai đó cho rằng anh không nên nhận nhiệm vụ thủ lĩnh. Đảng Nazi đã sử dụng năng lực của anh vào việc khác: mời Richard Sorge làm giảng viên cho các “lớp bồi dưỡng chính trị ban đêm” cho những người Đức sống ở Nhật Bản hồi đó. Một lần Richard Sorge chọn đề tài về Quốc tế cộng sản. May mà những buổi giảng bài này không được phổ biến cho nên Liên Xô không có thông tin. Người ta tin là Sorge chơi trò mỉa mai, mang những lý tưởng của Quốc tế cộng sản giảng giải cho bọn Nazi, một lý tưởng cao đẹp mà anh đang đưa cả tính mạng mình để bảo vệ, bất chấp tất cả. Có thể đó là một trong những cách lựa chọn có cân nhắc của anh. MẠNG LƯỚI HÌNH THÀNH Tháng 10-1933 Vụ 4 đồng ý cử cho mạng lưới ở Tokyo một điện báo viên mang bí danh “Bernhard”. Sorge đón tiếp người cộng sự mới và vợ anh tại khách sạn Imperial, nhắc nhở điện báo viên nhiệm vụ cấp bách thiết lập đường dây điện tín với Mát-xcơ-va. “Bernhard” lúc này phải cải trang thành một nhà buôn và phải tự mình lắp chiếc máy điện báo. Thêm một điệp viên nữa đã đến Tokyo và đang nóng lòng chờ người liên hệ bằng mật mã. Branko Vukelic đến Tokyo sau 6 tuần lênh đênh trên biển cả, xuất phát từ Marseille cùng với vợ người Đan Mạch, Edith, cập cảng Yokohama ngày 11-2-1933. Họ gửi đứa con trai 10 tuổi ở nhà cha mẹ Edith tại Đan Mạch. Vợ chồng Vukelic tính là sẽ trở lại Pháp sau hai năm nữa. Vukelic 29 tuổi, người mảnh, trán dô, người Serbia nhưng sinh ra ở Croatia và cư trú chính trị ở Paris, anh cận thị nặng, mang cặp kính gọng kền, ham thảo luận chính trị và trông chẳng khác gì lớp trí thức vẫn đến nhâm nhi cà phê và bàn thời cuộc tại khách sạn, bàn về việc thiết lập một thế giới tốt đẹp hơn. Một năm trước đây có người đã gặp anh và tạo điều kiện cho anh thực hiện lý tưởng cao cả ấy. Một nữ điệp viên có tên là Olga đã thuyết phục anh làm việc cho Quốc tế cộng sản trong những năm sôi sục cách mạng và phản cách mạng những năm ba mươi này. Lúc đầu Vukelic nói rằng có thể anh sẽ không coi nhiệm vụ đó là “chuyện của trái tim” vì lẽ anh không phải đảng viên cộng sản, và vì vậy có lẽ không thích hợp với nhiệm vụ. Olga - đại úy Hồng quân Liên Xô - đã thuyết phục anh và cho hay mục tiêu của Vukelic ở Tokyo là bảo vệ Liên Xô trước cuộc tấn công của Nhật Bản có thể xảy ra trong thời gian tới, cũng tức là bảo vệ thành trì của Hòa bình thế giới. Vukelic đã bị cuốn hút và bị thuyết phục trước lý lẽ chân chính của Olga. Họ đã lên đường sang Tokyo, một đất nước hoàn toàn xa lạ, nhiều bí ẩn, song thỏa mãn phần nào trí tò mò của anh. Vukelic chỉ biết nhiệm vụ một cách tổng quát, chưa được đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ. Anh học trong thực tế đấu tranh. Một thời gian ngắn sau ngày đến Tokyo, Vukelic nhận ra rằng nguồn tài chính eo hẹp khó đáp ứng cho vai trò một nhà buôn ở phương Tây. Việc chuẩn bị cho chuyến công tác dường như đã không được chuẩn bị chu đáo, lâu dài. Để ngụy trang, Vukelic nhận cộng tác, viết bài cho một tờ báo ảnh Pháp và tờ nhật trình Nam Tư. Nhưng số tiền nhuận bút đã không đủ trang trải tiền thuê nhà. Edith vốn là giáo viên thể dục, đã phải tìm công việc làm trong hai trường cao đẳng và trung học Tokyo. Mười tháng trời họ sống trong cuộc bươn trải ấy, cho đến khi Richard Sorge tìm ra giải pháp dễ chịu hơn. Sorge đã cử “Bernhard” đến gặp vợ chồng Vukelic và bản thân cũng đến gặp họ ngay ngày hôm sau. Về sau Richard Sorge nói rằng mình không hiểu là người nào đã tuyển chọn Vukelic cho nhiệm vụ nặng nề này. Làm sao Vukelic có thể đáp ứng những yêu cầu khắc nghiệt của nhiệm vụ tình báo trong một đất nước chủ nghĩa quân phiệt với lưỡi lê và báng súng luôn nhằm vào “bất kể kẻ nào có tư tưởng chống đối”. Bản thân Vukelic cũng cho rằng mình chưa bao giờ “đứng ở trung tâm” của công việc nặng nề và đầy rủi ro kia. Trước khi Sorge rời Mát-xcơ-va đến Tokyo, tướng Bersin đã chỉ thị cho Sorge cần tìm một đồng minh tin cậy người Nhật Bản cho màng lưới Tokyo. Và đó phải là một người hoàn toàn đáng tin cậy. Đã có một người Nhật sống ở miền Tây Hoa Kỳ khá phù hợp, gia nhập đội quân điệp ngầm. Anh đã được cử đến Yokohama. Tên anh là Miyagi Yotoku, 30 tuổi, từng là nghệ sĩ, chuyên điểm báo Japan Advertiser và truyền các tín hiệu trên mục nhắn tin. Cũng như Vukelic, Quốc tế cộng sản đã tiếp cận Yotoku và tuyển chọn anh cho những nhiệm vụ quan trọng ở Nhật Bản. Yotoku rời quê hương Okinawa sang Mỹ lúc mới 16 tuổi, cùng người cha “đi tìm khoảng không gian sinh tồn” bên kia Tân thế giới. Yotoku say mê nghệ thuật, học tại trường Mỹ thuật San Diego. Năm 1931 anh gia nhập Đảng cộng sản Mỹ với lòng tin chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới có khả năng thiết lập một xã hội công bằng, nhân đạo. Cuộc đời cơ cực của anh dẫn anh đến lòng tin ấy. Người Okinawa bị Nhật Bản coi như là dân nô lệ. Khi đến Mỹ, Yotoku “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa” khi phải đối mặt với chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở cái xứ “tự do nhất thế giới” này! Yotoku bị bệnh lao, vì thế việc chọn Tokyo làm “chiến trường” quả là rất gian khổ đối với anh, nhất là phải hoạt động bí mật, bất hợp pháp. Sau khi nhận được “tin nhắn” trên báo, Vukelic đã được lệnh của Sorge tiếp cận Yotoku - Yotoku sang Nhật từ tháng 7-1933 và đến tháng 12-1933 thì bắt được liên lạc với nhóm công tác Tokyo. Họ gặp nhau và không ai giới thiệu tên thật cho nhau. Họ ghép hai nửa đồng đô la với nhau và trở thành đồng đội. Vài ngày sau Sorge gặp Yotoku tại bảo tàng Mỹ thuật Ueno. Sorge mang cra-vát đen và Yotoku mang cra-vát xanh như đã thỏa thuận. Sorge chăm chú nghe Yotoku nói để hình dung được tính cách của đồng ngũ mới này đặng giao cho anh công việc thích hợp. Tháng 1- 1934 Richard Sorge mới chính thức giao việc cho Yotoku. Dù không được coi là “người Nhật chính hiệu”, Yotoku vẫn không muốn “chống lại người Nhật”. Đến khi Sorge nói rõ rằng nhiệm vụ của “nhóm Tokyo” là ngăn cản một cuộc chiến tranh giữa Nhật Bản và Liên Xô thì Yotoku biết rằng việc anh làm là có ý nghĩa cao cả: chiến đấu cho hòa bình. Nhưng trong thâm tâm, Yotoku biết rất rõ ràng “làm gián điệp” tức là vi phạm luật pháp. Mà vi phạm luật pháp trong thời chiến là đồng nghĩa với án tử hình một khi bị phát hiện. Sorge hiểu tâm sự của Yotoku. Anh vẫn đang tìm “người thích hợp” cho công việc đầy trọng trách của mình. Tháng 12-1933 Richard Sorge thuê căn hộ nhỏ ở Nagasakacho, tại khu yên tĩnh Azabu, trong khu ở của giới trung lưu Tokyo. Láng giềng của anh là một kỹ sư và một viên chức quỹ tín dụng. Đó là căn hộ bằng gỗ hai tầng - một trệt một lầu - trong một khuôn viên nhỏ. Hai nhà hàng xóm sát vách nhà anh. Đối với một điệp viên sống trong bối cảnh đó quả thật khó có thể làm được gì nếu các vị hàng xóm có chút tò mò. Hơn thế, đồn cảnh sát ngay phía trước mặt. Không người lạ hay khách quen nào đến nhà lọt khỏi mắt cảnh sát. Cảnh sát có thể “nhìn sâu vào buồng ngủ”. Có thể Sorge đã tính toán chu đáo khi chọn nơi này cho trạm điện đàm. Ai có thể tin được một trạm điện tín bí mật của màng lưới điệp viên nước ngoài đặt ngay trước mũi cảnh sát! So với người da trắng phương Tây ở Tokyo hồi đó, Sorge là người sống trong khu bình dân - và bất chấp tất cả, anh đã sống tại đó, hoạt động bí mật và làm việc cật lực, hiệu quả tại đó suốt 8 năm trời, cho đến ngày bị bắt. Khách Đức đến thăm đều chê nhà nhỏ, tiện nghi chẳng có gì và quá... đơn sơ. Sorge sống như người Nhật. Anh bỏ giày dép bên ngoài. Lầu trệt có buồng ngủ rộng 8 tấm chiếu tatami, phòng ăn rộng 4 tấm rưỡi và bếp, phòng tắm “theo tiêu chuẩn tối thiểu” của người Nhật, cho dù cũng gọi là “phòng”. Phòng làm việc trên lầu. Cầu thang rất hẹp dẫn từ lầu trệt lên. Phòng làm việc của Sorge đầy sách, báo và cặp tài liệu. Một bộ salon, bàn làm việc bằng gỗ. Duy nhất chiếc giường ngủ “theo tiêu chuẩn châu Âu” (có ga trải giường, có đệm). Ngày đẹp trời ánh nắng chiếu vào tận nơi để máy điện thoại. Một khi mở cái cửa kéo thì người bên ngoài có thể nhìn thấu hết trong nhà. Helma Ott đã nhận ra điều đó khi đến thăm Sorge. Nàng đã cho làm chiếc màn che bằng vải hoa khá diêm dúa. Thời gian biểu hàng ngày của Sorge được thực hiện hết sức nghiêm túc. Anh thức rất khuya và dậy rất sớm. Một phụ nữ đã có tuổi giúp việc hết sức ngỡ ngàng khi thấy chủ nhà chỉ lấy công việc làm nguồn vui không bao giờ chán. Sorge đọc kỹ tờ Japan Advertiser do người Mỹ sở hữu. Sau giờ đọc báo, cả buổi sáng anh ngồi bên chiếc máy chữ. Richard viết cho tờ “Thời đàm thương mại” của Hà Lan sau khi tờ “Tin hàng ngày” bị cấm sau khi Hitler lên cầm quyền. Buổi trưa nào Sorge cũng ngủ đúng 1 giờ, sau đó đến hãng thông tấn Domei - ở đó có văn phòng thường trú Đức. Sorge đến đại sứ quán Đức đều đặn mỗi ngày và bao giờ cũng ghé qua phòng thông tin, nơi người ta có thể lướt qua tất cả các tờ báo xuất bản bằng tiếng Đức. Vào 5 giờ chiều Sorge đến quán bar ở khách sạn Imperial. Thỉnh thoảng anh cũng đến vũ trường, nơi các thương nhân Đức và viên chức ngoại giao hay lui tới. Richard Sorge là người đối thoại tuyệt vời của bất cứ người nào bắt chuyện với anh. Bao giờ anh cũng được đón tiếp niềm nở trong những cuộc vui, những cuộc gặp mặt của các giới thượng lưu. Trong số những người Đức ở Nhật Bản, Sorge được gọi là một người đàn ông khác thường, tửu lượng rất đáng nể, phóng khoáng không giống người Đức. Sorge là khách thường xuyên của các Ginza, nơi các vũ nữ Nhật Bản tiếp khách và phục vụ khách sang trọng trong những bộ y phục Kimono truyền thống rất nghiêm ngặt. Sorge là người có quan hệ rất rộng với phụ nữ và hầu hết những ai tiếp cận anh đều khó có thể hờ hững trong những buổi gặp gỡ sau đó. Một nhà báo Mỹ sau này đã viết rằng một con người như thế mà hoạt động tình báo là không thể tưởng tượng. Sinh hoạt ấy, mối quan hệ ấy tạo cho Sorge nhận thức là chỉ có tầng lớp “trên” của xã hội Nhật Bản mới hiện diện tại những nơi sang trọng như thế, những nơi thuộc giới ăn chơi. Chỉ những nơi đó người ta mới có thể tiếp cận những nguồn thông tin về chính trị, chính trường và đủ thứ chuyện hệ trọng. Đó cũng là suy nghĩ của anh khi đi tìm chọn một cộng sự người Nhật Bản “đủ tiêu chuẩn” cho những nơi sang trọng và “nhiều vấn đề” ấy. Yotoku không thích hợp cho nhiệm vụ ấy. Richard Sorge bỗng nhớ lại thời gian hoạt động ở Thượng Hải. Ở đó anh từng quen biết một người Nhật, Ozaki Hotsumi, nhà báo từng giúp đỡ anh rất nhiều. Hotsumi tốt nghiệp trường cao đẳng vốn dành cho con cái viên chức cao cấp Nhật Bản, rất có trình độ và bản lĩnh, được giới thượng lưu và viên chức Nhật Bản kính trọng, chấp nhận. Anh được coi là chuyên gia về các vấn đề Trung Quốc và được nể trọng do có những ý kiến xác đáng. Đối với Sorge điều còn quan trọng hơn là Ozaki không có ác cảm với những người cộng sản và Đảng cộng sản Nhật đang bị cấm hoạt động, tuy anh không có những mối quan hệ làm cho chính quyền Nhật có thể nghi ngờ, Sorge quyết định tìm và nhờ sự hỗ trợ của Ozaki. Sau 4 năm ở Thượng Hải Ozaki trở về Nhật vào cuối năm 1932 và làm việc tại tòa soạn tờ Asahi rất có uy tín ở Osaka. Anh có chân trong ban lãnh đạo phòng đối ngoại, liên hệ và nắm các phóng viên thường trú ở nước ngoài. Ozaki sống yên bình với vợ và con gái nhỏ tại một khu phố yên tĩnh. Vào ngày cuối tháng 5-1933 Ozaki kỷ niệm sinh nhật lần thứ 33 tại trụ sở tờ Asahi. Một người khách đặc biệt đến chúc mừng sinh nhật và thăm anh vào ngày vui ấy. Người đến thăm chưa hề quen biết Ozaki, tự giới thiệu là Minami Ryuichi. Người đó tự giới thiệu là nhà hoạt động nghệ thuật và đến gặp Ozaki theo sự ủy nhiệm của một người bạn nước ngoài mà Ozaki đã từng quen biết hồi ở Thượng Hải. Người bạn đó nay đang ở Nhật và rất mong hội ngộ với Ozaki. Ozaki bỗng giật mình, nghĩ rằng đó là một mật thám chìm, hay là người của sở cảnh sát. Sau buổi chuyện trò vui vẻ Ozaki nhận ra là “người nước ngoài” muốn gặp mình chắc hẳn là anh chàng “Johnson” người Mỹ (tức là bí danh của Richard Sorge hồi hoạt động ở Thượng Hải - TN). Dự đoán của anh được chứng minh ngay tối hôm đó khi anh theo Minami đến một khách sạn Trung Quốc để hai người có thể nói chuyện kỹ hơn với nhau trong yên lặng. Ozaki nhận ra người có tên Minami là người lịch thiệp, chân thành, có thể tin cậy - như ý thức của anh ta mách bảo - và chính Ozaki đã mời vị khách mới quen này về nhà mình. Anh đồng ý sẽ gặp mặt người lạ như Minami đề nghị. Đầu tháng 6-1934 Richard Sorge và Ozaki Hotsumi gặp nhau ở Nara. Cuộc gặp mặt được bố trí trên cầu thang nhà thờ Kofukuji dẫn xuống hồ Sarusawa-ike. Hai người bạn xa nhau hai năm rồi và chắc chắn buổi gặp mặt này thân tình biết mấy. Ở Ở Thượng Hải họ từng phục nhau về những năng lực đặc biệt của mỗi người. Sorge phục Ozaki về sự nhạy cảm chính trị đặc biệt cũng như kiến thức uyên thâm về Trung Quốc. Về phía Ozaki thì Sorge (tức Johnson) là một người sôi động, chân thành “rất người” và có sức hút người đối thoại mãnh liệt. Ozaki không hề cảm nhận anh chàng da trắng kia như những người da trắng ở Thượng Hải thời ấy coi người châu Á như mẻ! Họ chuyện trò tâm đắc như hai người bạn thân thiết nhiều giờ liền bên hồ hình Oval, cạnh ngôi đền có tới 5 tầng lầu in bóng xuống dưới hồ. Với khách du lịch Nhật Bản đến đền này như một nghĩa vụ thì ít ai gắn bó với thành phố này, với lịch sử của ngôi đền và mảnh đất này như Richard Sorge. Triều đại Nara 1200 năm để lại những dấu ấn Nhật Bản không ở đâu có thể so sánh: Óc thẩm mỹ tinh tế của các nhà tạc tượng, họa sĩ, nhà kiến trúc và các nhà thơ để lại trong tác phẩm Manioschu - “Tuyển tập nghìn trang” mà Sorge đã say mê dịch sau khi tìm hiểu và bị chinh phục hoàn toàn. Hai người đã trải qua những giờ phút tuyệt vời trong khung cảnh thiên nhiên huyền diệu của đất trời, cảnh quan và con người khi đến vùng đất thiêng này. Và cũng chính ở nơi đây Ozaki Hotsumi đã có một quyết định làm thay đổi toàn bộ cuộc đời của anh, một chiến sĩ chân chính vì sự nghiệp của nhân loại. Sorge đi vào vấn đề khi câu chuyện đã đằm thắm và hai tâm hồn như đã hòa quyện vào nhau: “Tôi muốn đề nghị anh giúp đỡ tôi hiểu được thấu đáo hơn tình hình Nhật Bản lúc này. Tôi muốn có được những thông tin của anh về tình hình chính trị, quân sự và kinh tế của Nhật Bản và rất muốn biết quan điểm của anh về những vấn đề đó.” Đáp lời bạn, Ozaki nói: “Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp anh!” Ai hiểu Ozaki biết rất rõ rằng anh không cần thời gian nhiều để cân nhắc khi trả lời ngay đề nghị của Sorge. Về sau, trong nhà tù, anh đã khai một cách cô đọng: “Sorge đề nghị tôi hợp tác trong việc thu thập tin tức tình báo ở Nhật và tôi đã nhận lời và quyết định hợp tác với anh trong hoạt động quan trọng này.” Các nhà nghiên cứu Nhật Bản tỏ ra ngỡ ngàng trước sự đồng ý sẵn sàng cộng tác với Sorge của Ozaki, rằng một người tầm cỡ như Ozaki có vị trí xã hội cao, rất thông tuệ, sao lại không thể ý thức được nguy hiểm để tránh xa chứ!. Nhiều chuyên gia cho rằng chỉ vì cảnh sát ép cung mà Ozaki đã phải nhận là cộng tác với màng lưới gián điệp của Liên Xô. Không hề có chứng cớ nào về chuyện bức cung như thế. Rõ ràng trong khi bị giam Ozaki không bị bức cung cũng như anh không bị gây sức ép hay bất cứ sự mua chuộc nào khi khai nhận lời hợp tác với Richard Sorge, nhất là Ozaki biết làm việc đó sẽ phạm tội phản quốc, phản bội nước Nhật cho dù nước Nhật trong thời gian ấy đang trở thành kẻ thù của nhân loại: nước Nhật của chủ nghĩa quân phiệt khát máu. Quyết định quan hệ đến sinh mệnh của Ozaki đòi hỏi sự dũng cảm cao độ và sự thông tuệ của một tri thức và nhà cách mạng có tầm nhìn xa, vượt qua những hạn chế và hiểu biết bình thường. Vì sao Ozaki Hotsumi có quyết định “nghiêm trọng” ấy? Muốn trả lời câu hỏi ấy người ta cần tìm hiểu quá khứ của anh. Ozaki sinh ngày 1-5-1901 ở Tokyo trong một gia đình nghèo. Ngay sau khi anh ra đời, gia đình đã phải chuyển sang Đài Loan - lúc ấy là vùng chiếm đóng của Nhật Bản - và anh lớn lên ở đó “trong gia đình của quan quân thuộc địa” đặc quyền đặc lợi. Từ năm 1919 anh học tại trường hạng nhất Ichiko (trường Cao đẳng) ở Tokyo và năm 1922 chuyển sang trường Đại học Hoàng Gia. Ý thức chính trị của anh trở nên sắc bén khi các lãnh tụ của Đảng cộng sản non trẻ bị bắt và tống vào nhà giam. Nhiều bản án tử hình vô lý đối với các nhà lãnh đạo cộng sản và công đoàn đã xoáy sâu vào tâm hồn người thanh niên trí thức thông minh này. Là thành viên của một nhóm nghiên cứu khoa học xã hội trong Trường đại học Hoàng Gia Tokyo, Ozaki đã khám phá những tư tưởng lớn của chủ nghĩa Mác. Không nghi ngờ, không chần chừ Ozaki trở thành đảng viên cộng sản kiên trung trong giai đoạn khủng bố trắng những người cộng sản và cảm tình đảng năm 1928 đáng nguyền rủa ấy. Là phóng viên trẻ của tờ Asahi ở Thượng Hải, Ozaki trở thành “người có cảm tình” với Đảng cộng sản Trung Quốc. Việc chiếm đóng Mãn Châu của Nhật Bản, cuộc tiến công Thượng Hải của “các võ sĩ chỉ tin vào lưỡi kiếm võ sĩ đạo” củng cố thêm quyết tâm của anh. Sự khiêu khích của Nhật Bản dọc theo biên giới Mãn Châu - Liên Xô đã xóa tan sự nghi ngờ cuối cùng của anh về chỗ đứng của mình. Vì tin vào cuộc cách mạng thế giới, anh hiểu rằng nhiệm vụ quan trọng lúc này không có gì cao cả hơn là bảo vệ Liên Xô trước sự xâm lăng của kẻ thù: chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản. Sau khi bị bắt anh đã viết rất rành mạch động cơ khi hợp tác với Richard Sorge: “Cuối cùng thì tôi quyết định trong tất cả những vấn đề nóng bỏng lúc này thì việc phải bảo vệ Liên Xô là quan trọng hàng đầu. Và để bảo vệ Liên Xô thì nhiệm vụ đặt ra là phải cung cấp những thông tin chính xác nhất cho Quốc tế cộng sản, đặc biệt là cho Liên Xô về nước Nhật của chủ nghĩa quân phiệt, kẻ thù lớn nhất của Liên Xô, qua đó Liên Xô có những biện pháp chống trả hữu hiệu... Ngoài ra, vào thời gian đó, Đảng cộng sản Nhật Bản bị đàn áp khốc liệt và gần như không còn tồn tại. Thảng hoặc tôi nghĩ từ trong sâu thẳm của lòng mình là người cộng sản Nhật Bản lao vào sự nghiệp đầy khó khăn này - và bị coi là sự phản bội - chính là điều đáng tự hào lắm”. Cũng như Agnes Smedley, hồi ở Thượng Hải Ozaki đã có cảm giác Sorge hoạt động cho Quốc tế cộng sản. Và bây giờ ở Nhật anh cũng có cảm giác y như thế. Trong thời gian hoạt động gián điệp nhiều năm Ozaki không nghĩ là mình làm điệp viên cho Liên Xô. Thậm chí trong khi Sorge về Mát-xcơ-va mùa hè năm 1935, Ozaki được giao đứng đầu màng lưới Tokyo. Tại cuộc gặp gỡ ở Nara, Ozaki biết tên thật của Richard. Anh vẫn cứ nghĩ anh chàng nhà báo kia tên là “Johnson” và là một người Mỹ. Mãi đến năm 1935 Ozaki mới được Sorge cho hay anh là “sản phẩm quốc tế” - một phần người Đức và một phần người Nga. Dù vậy đến năm 1936 - tại một cuộc tiếp tân ở khách sạn Imperial - Ozaki mới biết đầy đủ họ tên Richard Sorge mà không phải do Sorge nói ra. Khi đến dự buổi tiếp tân đó, có ai nói nhỏ vào tai Ozaki đủ nghe và anh nghe rất rõ: Tôi xin được giới thiệu anh làm quen với Tiến sĩ Richard Sorge! Tháng 4-1934 Eugen Ott được bổ nhiệm làm tùy viên quân sự Đại sứ quán Đức ở Tokyo và được phong hàm đại tá. Gia đình cực kỳ phấn khích, nhanh chóng rời Nagoya. Gia đình Ott sống tại một căn hộ không xa nhà ga trung tâm Tokyo. Richard Sorge là khách thường xuyên của gia đình Ott. Vào thời gian này Sorge sử dụng xe mô tô phân khối lớn. Anh và đại tá tùy viên Eugen Ott là bạn chơi cờ và uống rượu cognac tâm đắc của nhau và trong những lúc ngà ngà say, họ bàn về cuộc cách mạng của Hitler đang trong quá trình diễn ra hối hả trên đất Đức. Trong những dịp này họ thường đề cập đến sự lộng hành ngày càng tăng của giới quân phiệt ở Nhật Bản và sự bất lực của chính khách nước này trước sự bành trướng ngày càng mạnh của các thế lực quân phiệt. Ott quen biết nhiều kẻ có thế lực thuộc lớp giữa trong đám sĩ quan, trong số đó có đại tá Oshima Hiroshi, một kẻ tôn sùng Hitler như một bậc thánh, và viên chỉ huy tình báo quân đội, Doiohara Kenij. Ott coi trọng ý kiến của Sorge, đã cung cấp cho anh nhiều thông tin mật. Đổi lại Sorge có những phân tích sắc bén về chính trị và ngoại giao và với những kết luận với thông minh, nhạy cảm dựa vào những phân tích chính xác của Ozaki. Trong con mắt của viên đại tá tùy viên, Richard Sorge không chỉ là một nhà báo sắc sảo mà là một nhà quan sát thời cuộc uyên bác, hiểu biết rất sâu sắc thực trạng chính trường Nhật Bản. Không rõ từ lúc nào viên đại tá này có được cảm giác Sorge sẽ giúp ông ta vén được bức màn tre để nhìn rõ vào thực chất sự phát triển tình hình chính trị nước Nhật. Vào đầu mùa thu 1934, được đại sứ Dirksen cho phép, Ott đã cùng Sorge thực hiện chuyến công du đến Mãn Châu. Đó là một thành công rất quan trọng của Sorge chỉ sau một năm đến Nhật Bản. Chuyến công cán đã cung cấp cho anh thu thập những thông tin quý giá về chính trị, quân sự và kinh tế và công việc tái thiết Mãn Châu mà giờ đây người Nhật đặt cho cái tên mới là Manchukuo. Sorge cũng đã lập được những mối quan hệ hữu ích với một số đảng viên Quốc dân đảng ở Mãn Châu. Sau chuyến công cán Sorge đã cấp cho Ott một bản báo cáo tổng hợp “không thể có báo cáo nào hoàn thiện hơn”. Bản báo cáo ấy được Ott gửi ngay về Tổng hành dinh Berlin cho những ông chủ mới của anh ta. Sau sự kiện này Sorge được Ott giao “nghiên cứu nhiều vấn đề cơ bản” và nhờ đó uy tín của anh ngày càng tăng không chỉ trong tòa đại sứ Đức ở Tokyo mà cả tại Tổng hành dinh ở Berlin. Người trong gia đình Ott đã dần dần chuyển cách xưng hô với Sorge. Giờ đây họ gọi anh là “chú Richard”. Đối với bọn trẻ thì anh như là người nhà. Hai đứa trẻ thích thú và kính phục chú Richard. Còn chú thì không bao giờ quên socola một khi đến chơi gia đình. Tình thân đã có lúc đưa Richard Sorge và Helma Ott quá gần nhau. Tình bằng hữu thân thiết với gia đình Ott như một mỏ vàng ròng cho Sorge khai thác thông tin. Trong tuần đầu của tháng giêng năm 1935 Sorge được tin có thêm nữ điệp viên mang bí danh “Ingrid” từ Nga đến. Anh đến khách sạn Imperial để gặp nàng. Ingrid do Vụ 4 cử đến. Sorge tự hỏi vì sao Vụ 4 lại quyết định cử thêm người đến “lãnh thổ” của anh cho dù Sorge không đề nghị. Người mới đến là Aino Kuusinen, vợ của Otto Kuusinen, người lúc ấy đang giữ nhiệm vụ thành viên Đoàn chủ tịch Quốc tế cộng sản. Kuusinen là người Phần Lan. Cả hai đã sống và làm việc nhiều năm ở Mát-xcơ-va. Aino Kuusinen mang tên “Elisabeth Hansson” trong hộ chiếu do Thụy Điển cấp. Trong tư cách là nhà văn, Ingrid có nhiệm vụ tiếp cận và tạo những mối quan hệ với tầng lớp cao trong hàng ngũ chính khách Nhật Bản. Ingrid được chu cấp quá đầy đủ để sắm vai người phụ nữ trí thức của giới thượng lưu. Nhiệm vụ không thuộc loại cấp bách, vì thế Ingrid có thì giờ tìm hiểu nghệ thuật và học tiếng Nhật Bản. Ingrid được giao nhiệm vụ hoạt động độc lập với nhóm của Richard, nhưng thông qua Sorge để liên hệ với Mát-xcơ-va. Điều ít người biết đến là Ingrid đã trải qua những ngày “lột xác” ở Tokyo không theo chiều thuận cho công việc tướng Bersin giao. Ingrid và Sorge gặp nhau hai lần, ai biết việc của người đó. Trong những tháng tiếp theo Aino triển khai công việc, lập các mối quan hệ với giới báo chí - thông tấn và từng bước tiếp cận giới thượng lưu Nhật. Không một ai chờ đợi nàng cung cấp những thông tin cần thiết trước khi nàng gia nhập vào xã hội đó. Sự căng thẳng trong quan hệ giữa Liên Xô và Nhật Bản trong những tháng đầu năm 1934 khẳng định sự cần thiết, rất quan trọng hoạt động của Sorge. Vấn đề quan trọng bậc nhất là tìm cho bằng được thông tin đáng tin cậy nhất liệu giới quân phiệt Nhật Bản có hoạch định một cuộc tấn công quân sự vào Liên Xô từ vùng Viễn Đông. Theo chỉ đạo của Sorge, Miyagi tổng hợp báo cáo về thái độ của quân đội Nhật Bản đối với Liên Xô. Anh này đã kết luận trong bản báo cáo tổng hợp rằng một cuộc tấn công như vậy đang được chuẩn bị và sắp sửa thực hiện. Tuy nhiên Miyagi không có được thông tin nào từ nguồn trong bộ tư lệnh quân Nhật mà chỉ là căn cứ vào những nhận định rải rác trên báo chí và dư luận trong các phòng trà. Bất chấp “không khí chiến tranh ngày càng nồng nặc”, Sorge tập trung tâm lực vào việc xây dựng màng lưới của mình, tạo điều kiện cần và đủ cho hoạt động thành công của màng lưới điệp viên trong lòng địch. Vào thời gian kết thúc giai đoạn chuẩn bị ban đầu, uy tín của Sorge tại sứ quán đang lên đến điểm đỉnh. Viên chức tòa đại sứ quán gọi anh là “nhà báo đầy năng lực”, “người không thể thay thế”. Mối quan hệ với Eugen Ott, với tùy viên thủy quân Paul Wennecker mới đến Nhật là rất “bền chặt và thân tình”. Chỉ riêng đại sứ Dirksen là còn giữ một “khoảng cách nhất định” đối với anh. Mọi người nước ngoài ở Nhật Bản đều bị cảnh sát chìm và nổi “giám sát suốt ngày”. Sorge ý thức rất rõ mỗi bước đi mỗi cử chỉ của anh đều bị theo dõi, đặc biệt là bọn mật thám Tokyo (mật thám chìm) và bọn “an ninh quân đội” Kempetei và cả bọn cảnh sát thường. Anh biết rất rõ người đàn bà giúp việc luôn được “săn sóc, thăm hỏi” và anh cũng biết cảnh sát đã khám nhà nhiều lần khi anh đi vắng. Cả trong khách sạn Imperial Sorge cũng cảm nhận những đôi mắt bí mật theo dõi. Sorge nghĩ rằng không chỉ mình anh mà mọi người châu Âu ở Nhật vào thời ấy đều chịu “sự giám sát bí mật” ấy. Sorge có thói quen sưu tập vỏ diêm. Người giúp việc đã phát hiện ra những vỏ diêm ấy và cảnh sát đã biết được anh từng đến vùng nào trong nước Nhật. Sau khi đến Tokyo, Richard Sorge đã gửi điện tín về Matscơva báo tin mình đã có thể giải mã phương pháp theo dõi của cơ quan an ninh Nhật, trong đó anh cho rằng cảnh sát nước này theo dõi quá lộ liễu, ngay trước mắt người bị theo dõi. Khi bị bắt, Sorge viết là nhân viên an ninh Nhật quan tâm quá nhiều vào các chi tiết nhỏ nhặt mà không thấy cả rừng cây. Nhưng rồi những nhận định ấy không còn đứng vững sau khi cơ quan an ninh nước này cất vó một số điệp viên nước ngoài. Tháng 3-1934, một giáo viên New Zealand, William Bickerton, dạy học ở trường Ichiko bị bắt và sau đó suýt bị hành hình chỉ vì “có tư tưởng cộng sản”. Tokko đã tra tấn anh rất dã man nhưng anh nhất định không nhận tội do Tokko buộc. Đến khi sứ quán Anh can thiệp Birketon mới được thả. Sáu mươi năm sau, một nguồn tin từ Matscơva xác nhận “những lời buộc tội của Tokko đối với Birkerton không phải vô căn cứ!” Quả thật Birkerton đã từng giữ đường dây liên lạc giữa Quốc tế cộng sản và Đảng cộng sản Nhật Bản. Vào cuối năm 1934 Sorge được tin Ozaki đến Tokyo và làm việc ở bộ phận nghiên cứu của tờ Asahi, chuyên về các vấn đề Đông Á. Thật là tin tuyệt vời, bởi lẽ Sorge đang rát cần sự trợ lực của Ozaki. Từ đó họ thường xuyên gặp nhau. Đã có dư luận về chuyện Ozaki thường xuyên gặp người nước ngoài. Ozaki đã giải thích rằng các vị cấp trên của anh giao nhiệm vụ hướng dẫn cho các nhà báo nước ngoài khi họ đến Nhật Bản và cộng tác với Asahi. Về sau Ozaki nói là dư luận mà bạn bè báo cho anh quả thật là gánh nặng, thế nhưng “tôi làm sao có thể từ chối các buổi gặp với Sorge!” Sorge hài lòng về sự hình thành một màng lưới theo cách tổ chức và sắp đặt của anh. Tuy nhiên còn một điểm yếu nhất thiết phải khắc phục, ấy là phải tìm phương tiện và phương cách liên hệ điện tín với Trung tâm. Khó chờ đợi ở Vukelic, bởi vì anh này rất sợ bị phát hiện, vì thế chỉ có thể đưa những thông tin không đầy đủ về Mát-xcơ-va. Vì lẽ đó Sorge đã phải đồng thời chọn phương pháp cổ điển: thiết lập mạng lưới liên lạc viên từ Nhật Bản đến những nơi cần thiết. Vukelic được giao nhiệm vụ chụp micro phim những tài liệu, kế hoạch, thông tin quan trọng thu được, cũng như báo cáo của Sorge. Những cuộn phim này khâu vào gáy áo liên lạc viên. Tuy nhiên cách làm này không linh hoạt và kịp thời. Sau khi đến Thượng Hải rồi mới chuyển qua Liên Xô mất quá nhiều thời gian. Nhiều khi liên lạc đã mất cả tháng trời mới chuyển được một chuyến hàng. Màng lưới cần một điện báo viên có thần kinh thép. Đó là thỉnh cầu của Sorge trong một bản báo cáo gửi về Mát-xcơ-va đầu năm 1935. Bước sàng lọc nhân viên đủ tin cậy của anh đã hoàn tất và yêu cầu được về Đại bản doanh báo cáo mọi chi tiết và nhận chỉ thị những công việc trong thời gian tiếp theo. Tháng 5-1935 Richard nhận được chỉ thị “nhanh chóng bằng mọi cách trở về Mát-xcơ-va”. MÁT-XCƠ-VA MÙA HÈ 1935 Sorge đến nhà Ott và báo tin mình sẽ sang Mỹ nghỉ hè và thăm một số bạn thân ở đó. Ngoài ra Sorge nói rằng thỉnh thoảng phải tách khỏi không khí quá ngột ngạt ở Nhật Bản. Sorge đã làm đúng như lời anh nói với gia đình Ott. Trên đường trở về đại bản doanh, anh đã đi đường vòng sang Hoa Kỳ. Như ta biết, Sorge cũng đã trở lại Nhật Bản bằng lộ trình ấy. Anh quả là có những cuộc thăm viếng bạn bè ở Mỹ. Về Mát-xcơ-va Sorge nhận ngay ra rằng một số sĩ quan chủ chốt đã không còn làm việc ở Vụ 4. Trước hết là việc bãi chức tướng Bersin mà anh vẫn gọi là “ông già” với sự kính trọng đặc biệt không hề phải giấu diếm, một sĩ quan có tài và anh rất muốn được đứng dưới quyền. Người kế nhiệm tướng Bersin là tướng Urizki. Khi báo cáo với vị chỉ huy mới, Sorge nhận ra là ông rất quan tâm đến hoạt động của anh và đồng đội ở Tokyo. Anh đã kể tỷ mỷ việc xây dựng màng lưới, đồng thời đề xuất những kế hoạch mới rất quan trọng. Tướng Urizki khích lệ Sorge, đồng tình với kế hoạch của Sorge và nhấn mạnh nhiệm vụ thu nhập và phát hiện cho bằng được những kế hoạch cực mật của Nhật Bản. Ông đặc biệt nhấn mạnh về mối nguy cơ lớn khi Đức và Nhật đang tiến những bước quan trọng, thành lập liên minh chiến lược từ hai bán cầu của hành tinh. Sorge đề nghị được cung cấp cho viên chức sứ quán Đức một lượng thông tin cần thiết mà nhóm của anh thu thập được để chiếm lòng tin của chúng. Sorge cho rằng qua việc làm của mình, phía Đức cũng sẽ cung cấp cho anh những thông tin không kém quan trọng khi hai bên đã “ý hợp tâm đầu”. Tướng Urizki đồng ý và thậm chí cho phép Sorge quyết định nên và cần chuyển những thông tin gì cho sứ quán và các viên chức sứ quán Đức ở Tokyo. Một vấn đề quan trọng khác là việc đại bản doanh chọn và cử cho màng lưới Tokyo một nhân viên điện đài giỏi chuyên môn và lòng dũng cảm, sự trung thành tuyệt đối với sự nghiệp. Sorge đề nghị “rút Bernhard”. Sorge cũng đề xuất một nhân vật có tên là Max Clausen - người từng hoạt động ở Thượng Hải - gánh vác nhiệm vụ quan trọng này. Sở dĩ Sorge đề cử Max Clausen là do khi trở về Mát-xcơ-va anh biết tin Clausen đã được cử đến trường thông tin Hồng quân, nghiên cứu lắp ráp máy truyền tin lưu động. Với sự chấp thuận của tướng Urizki, Sorge đã gặp Clausen và thuyết phục anh sang Nhật. Clausen rất vui mừng trước tin này. Về sau trong nhà tù của quân phiệt Nhật Bản, Max Clausen đã viết: “Tôi tự hào khi Mát-xcơ-va cử sang Nhật Bản phụ trách điện đài và truyền tin cho nhóm điệp viên Tokyo. Tôi đến Nhật Bản như là kẻ thù của chính phủ, nhưng tôi là người bạn của nhân dân Nhật Bản.” Richard Sorge lẽ ra đã có tên trong danh sách đại biểu dự Đại hội VII của Quốc tế cộng sản (năm 1935), nhưng như vậy sẽ rất rủi ro khi nhiều người nhận ra anh, trong đó có các nhà báo đồng nghiệp và kẻ thù. Sorge đã dùng nhiều thời gian làm việc với Vụ Phương Đông về những nghiệp vụ liên quan đến thiết lập và giải mật mã và thành lập khóa mật mã cho màng lưới Tokyo của mình khi truyền tín hiệu cho các cơ quan hữu trách ở quê nhà. Hiển nhiên là Richard Sorge có những cuộc gặp gỡ với bạn bè, chiến hữu trong thời gian lưu lại Mát-xcơ-va. Tuy nhiên anh đã im lặng, không kể gì đến những nhân vật mình gặp, cho đến ngày bị hành hình. Chỉ chừng ấy cũng đã nói lên sự thật: Richard Sorge là người đồng chí chung thủy tuyệt vời. Hai năm chờ đợi của Katja được đền bù. Họ đã sống những tuần tràn trề hạnh phúc kể từ ngày thành vợ thành chồng. Sorge đã vào tuổi bốn mươi, không còn những ham muốn mơ hồ của tuổi thanh niên, chỉ ước ao một cuộc sống gia đình hạnh phúc, yên ấm. Nhưng là một sĩ quan có kỷ luật, anh đã trở lại vị trí chiến đấu vào cuối mùa hè năm ấy với hy vọng hai năm sau sẽ trở lại Mát-xcơ-va và xây dựng gia đình trong niềm ao ước của anh và của Katja. Sorge viết trong nhà tù: “Tôi rời Mát-xcơ-va bằng máy bay sau 14 ngày lưu lại ở đó!” Anh kể với những người lấy cung rằng mình đã qua Hà Lan bằng hộ chiếu Áo và với hộ chiếu này anh đến Matscơva. Sau đó anh mang lại tên của mình là Richard Sorge. Khi sang Mỹ, Sorge đã quên mất điều này khi đến nhận bộ Complé đặt may với cái tên khác hẳn lúc đặt hàng! Sorge không nói gì về những ngày ở Mỹ. Nhưng điều anh nói chung chung rằng đến đó để thăm một số bạn quen là sự thật. Những người mà Richard gọi là “bạn quen” ấy gồm các chiến sĩ tình báo mà anh từng dày công huấn luyện và đưa vào hoạt động. Một nhân vật có tên là Hede Masing đã kể: “Sorge trở thành một người đàn ông mạnh mẽ, một người uống rượu mạnh không biết say. Nét sinh viên vô tư, rất thơ mộng và điển hình trên khuôn mặt anh dường như còn lại rất ít cho dù anh vẫn còn rất điển. Đôi mắt sắc vốn lạnh của anh ẩn chứa một năng lực tiềm tàng. Lông mày hình như chéo nhiều hơn, rậm hơn. Tóc vẫn dày và vẫn màu xám nhưng lưỡng quyền như cao hơn hẳn và cái miệng bướng bỉnh thì vẫn như ngày nào. Mũi hình như nhọn hơn. Người Ika này ngồi bên cạnh tôi năm 1935 trong quán cà phê Brevoort dường như đã trở thành một người khác, không còn nhiều nét của người đàn ông từng dẫn tôi dùng bữa tối tại một khách sạn sang trọng ở Berlin năm 1929!” Sau 4 tháng chu du thế giới, tháng 9-1935 Richard Sorge trở lại Tokyo. Khi các viên chức ngoại giao Đức, các đồng nghiệp trong giới báo chí và bạn bè vây quanh với những câu hỏi tới tấp trong sự vui mừng pha chút hỗn loạn, Sorge nói cho tất cả cùng nghe: “Một ít ở California nằm trong kế hoạch tham quan. Tôi đã vui mừng gặp lại nhiều bạn cũ. Tôi cũng đến Pittsburg thăm “lò luyện kim” của thế giới. Và cơ man nào là người Nhật trẻ khắp nơi...” Và Sorge không quên nói đến những người đẹp bên kia Đại Tây Dương: “Những cô gái bên ấy thật cao lớn! Họ có những đôi chân dài “như vô hạn”, thanh mảnh chứ không như tròn và mập như những cô gái Nhật Bản.” Cho dù những cô gái Nhật Bản không đẹp như Sorge mô tả, thế nhưng một trong những người ấy từng có một “chương trình tuyệt đẹp” với người đàn ông này mà nàng tôn thờ suốt đời, tôn vinh là “NGƯỜI ĐÀN ÔNG ĐÁNG TIN CẬY” nhất trong đời nàng. NHỮNG NĂM THÁNG THỬ THÁCH KHỐC LIỆT Vào một đêm tháng 10 năm 1935 nóng bức, ngột ngạt, khách đến nhà hàng Rheingold khu Nishi-Ginza tấp nập khác thường. Quang cảnh không khác gì một tổ ong. Thôi thì đủ các loại thủy thủ, sĩ quan, viên chức, thương gia, học giả, sinh viên đủ các màu da. Nhà hàng này của Ketel, một thương nhân Đức. Ở đó đặc sản làm hài lòng mọi loại khách khó tính là bia Đức. Thức ăn Đức, Bia Đức, âm nhạc Đức, hầu bàn Đức trẻ măng. Và trong số hầu bàn “đẹp như hoa, nhanh như sóc” ấy có một cô gái Nhật. Đó là người đàn bà Á Đông “của cuộc đời chìm nổi và vinh quang kèm với cay đắng khôn cùng” của Richard Sorge. Cho đến nay người ta vẫn đi tìm những gì ẩn chứa đằng sau mối tình hiếm có ấy. Nói thân tình là bởi vì đó không chỉ là tình yêu đơn thuần của những cặp tình nhân đến với nhau rồi chia tay nhau cũng dễ như khi đến với nhau. Đó là mối tình sâu nặng trọn đời, cho đến khi một người - Richard Sorge - không còn lại trên cõi đời này đã 60 năm nay. Đằng sau mối tình tuyệt đẹp ấy ẩn chứa những điều còn đẹp hơn và mãi mãi vẫn còn là ẩn số cho những kẻ tò mò thiếu cái tâm trong sáng. Họ chẳng thu được gì ở người đàn bà ấy, ngoại trừ những gì cảnh sát đã biết, báo chí đã đăng - cả võ đoán và khách quan. Người đàn bà ấy giữ lại tất cả những gì của họ cho mình, cho hai người, cho tâm linh của người chiến sĩ đã khuất. Buổi tối hôm đó ông Ketel vui hơn ngày thường, chuyện trò rôm rả với những vị khách Đức đến nhà hàng lần đầu mà dường như ông đã quen từ lâu. Cô hầu bàn người Nhật - tên là Miyake Hanako - hỏi một đồng nghiệp trẻ Đức: “Papa nói chuyện với người nước ngoài nào mà vui thế?” Hanako hướng mắt về phía người đàn ông tuổi trung niên có cái trán cao, lưỡng quyền cao, mắt xanh như nước Thái Bình Dương... đầy ấn tượng. Đã từng có bao nhiêu khách châu Âu to lớn, bệ vệ đến nhà hàng mà chẳng gây được ấn tượng gì ở Hanako. Nhưng người đàn ông ngồi sát tường trong góc nhà hàng thì khác hẳn. Dường như lạ trước phản ứng của Hanako, một cô bạn Đức nói: “Khách quen đấy nhưng vắng đã lâu ngày. Ông ấy là người lịch lãm nhưng không nói được tiếng Nhật. Con người ấy rất rộng rãi nhưng không dễ tiếp cận đâu.” Chừng ấy thông tin là đã đủ cho Hanako lắm rồi. Papa Ketel cho hay người khách quen xa nhà hàng lâu ngày kia, hôm nay đến đây để uống mừng sinh nhật 40 tuổi. May thay Hanako đến phiên trực bàn ở góc ấy. Cô nhẹ nhàng bước tới, lễ phép hỏi khách cần những gì. Khách đáp lại nàng bằng một nụ cười rạng rỡ, đầy thiện cảm. Nàng không thuộc loại người xinh đẹp. Thế nhưng người khách kia đã nhìn nàng đầy thiện cảm và khi ánh mắt hai người gặp nhau, nàng đã tỏ ra bối rối. Hanako mập, tròn, mặt như vầng trăng điểm hai lúm đồng tiền và những đường nét thơ ngây như con trẻ làm nổi bật cử chỉ e thẹn vốn có của một cô gái phương Đông. Dù đã làm việc nhiều tháng ở Rheingold nhưng vị khách nào lần đầu tiên gặp nàng cũng có cảm tưởng như cô là nhân viên mới tinh, còn e thẹn và... ấp úng, không giống những cô gái Nhật khác làm tiếp tân ở các khách sạn, nhà hàng khác. Thu vào trong đôi mắt chân dung và cử chỉ của người phụ nữ trẻ ấy, Sorge cảm thấy cô thật đáng yêu và hấp dẫn. Richard ra hiệu mời Hanako ngồi xuống bên cạnh mình, rồi hỏi: - Cô bao nhiêu tuổi rồi? - Thưa, em năm nay 23 tuổi. Thật ra Hanako đã 25 tuổi, nhưng cô vẫn trẻ như 20 vậy. Với phụ nữ phương Đông khó đoán tuổi là vì vậy. - Còn tôi hôm nay tròn 40 tuổi. Nhưng ngày vui này tôi mời em cùng uống Sâm banh mừng cho tôi. Hanako từng khó chịu và mắc cỡ với những vị khách nước ngoài khi họ nhìn chằm chằm mình và thậm chí vuốt má, xoa đầu. Nhưng trước người khách hôm nay mọi chuyện khác hẳn. Dù vẫn lo nhưng Hanako cảm thấy vững tâm dù trên trán vẫn phảng phất điều âu lo, càng làm cho cô có duyên hơn, hấp dẫn hơn. Hanako cảm thấy người khách mới gặp lần đầu này có cái gì đó đáng tin cậy làm sao. Sorge dùng tiếng Đức, tiếng Anh pha với vốn tiếng Nhật ít ỏi để chuyện trò với Hanako. Tiếc thay Hanako không biết hai ngoại ngữ ấy. Nhưng chỉ với những tiếng Nhật “chặt khúc” nàng cũng hiểu được ý người khách kia. Máy hát nổi bản van-xơ và Hanako cảm thấy điều kỳ lạ là mình dường như đập chung nhịp thở với chàng. Cuộc vui diễn ra trong bình lặng giữa hai người rất lạ và lại rất quen. - Tôi rất vui có được buổi tối đáng nhớ như thế này. Tôi muốn tặng em một món quà để tri ân. Hanako lấy hết nghị lực, trả lời: - Nếu ông có lòng bao dung, tặng em quà thì em rất mong ước có một đĩa nhạc cổ điển Đức. Em rất thích nhạc cổ điển. Sorge gật đầu, nói ngay: - Đồng ý. Ngày mai chúng ta đến cửa hàng bán đĩa hát và mua đĩa em ưa thích. Anh rút sổ tay ghi giờ hẹn để khẳng định mình đã hiểu nguyện vọng của Hanako và cũng tin Hanako hiểu những gì anh đã hứa. Sorge không lưu lại thêm nữa. Sau khi thanh toán và “boa” cho Hanako một món tiền khá, anh ra về rất nhanh. Trước cảnh lạ ấy, một đồng nghiệp Đức hỏi Hanako: - Người khách ấy muốn một cô gái Nhật hay một hầu bàn Đức phải không? - Ông ấy không cần cả hai. Hôm sau Hanako đến điểm hẹn theo đúng giờ hẹn, cùng Richard đến cửa hàng ở Ginza. Như đã hứa, Sorge mua cho nàng không phải một đĩa mà là cả hộp đĩa hát của Mozart đủ các thể loại: giao hưởng, Opera, nhạc nhẹ... Chính anh cũng say mê nhạc của thiên tài này, đặc biệt là những bản Xô-nát. Sau đó anh dẫn nàng đến hiệu ăn Đức. Ở đó chủ quán quen biết, chào anh bằng cả họ và tên cùng chữ đệm. Trong bữa ăn vui vẻ này, Sorge đã vận dụng hết kiến thức tiếng Nhật pha trộn với tiếng Anh, tiếng Đức, giải thích cho Hanako biết mình là... một nhà báo. Cuộc vui nào rồi cũng tàn. Khi chia tay, Sorge nói khẽ nhưng rành rọt rằng anh mong muốn gặp lại nàng. 10 giây trôi qua và Hanako cũng nói với âm vực như thế: Em cũng vậy! Hai tháng sau, khi Sorge trở lại Mát-xcơ-va thì Max Clausen cũng đã xuất hiện. Anh đến Tokyo trên chiếc Tatsuta Maru khởi hành từ San Frankcisco và cập bến Yokohama. Trong túi áo Clausen có hai bóng đèn chân không - linh kiện cực kỳ quan trọng để lắp một chiếc máy vô tuyến điện, là công việc đầu tiên nhưng quan trọng cấp trên giao. Clausen phải tự lắp chiếc máy ấy. Trước khi rời Mát-xcơ-va, Sorge và Clausen đã thống nhất với nhau về địa điểm, thời gian, mật hiệu... cho những lần gặp nhau ở Tokyo sau này. Mọi chuyện diễn ra như một cỗ máy chính xác, cực kỳ tinh vi vậy. Clausen lân la khắp các chợ trời để mua từng chi tiết cần thiết cho chiếc máy phát tín hiệu của mình. Clausen không thể mua những linh kiện ấy trong các cửa hàng vì biết rằng ở những nơi đó bóng đêm đang rình rập anh. Sự cần mẫn và cố gắng phi thường của Clausen đã mang lại kết quả: Tháng 2-1936 những tín hiệu đầu tiên được phát đi từ chiếc máy tự tạo của Clausen và ngay sau đó Sorge đã nhận được tín hiệu hồi âm từ Mát-xcơ-va. Niềm vui quả lớn quá, không sao tả xiết. Với chiếc máy phát tin, hạt nhân của mạng lưới đã được hình thành. Từ nay Clausen là nhân viên điện đài, Vukelic làm nhiệm vụ chụp ảnh micro. Hai nguồn thông tin này đều được chuyển về đại bản doanh và đều mang lại những hiệu quả thích đáng. Từ lúc này tổ 5 người hoạt động “hết công suất” và những gì họ làm được là phi thường. Richard Sorge và Max Clausen mang quốc tịch Liên Xô, Ozaki Hotsumi và Miyagi mang quốc tịch Nhật và Vukelic mang quốc tịch Nam Tư trong “đội quân quốc tế” này. Sau khi Max Clausen phụ trách điện đài, Vukelic được giải phóng khỏi một số công việc sự vụ, vì thế anh có thì giờ tiếp cận với tình hình thời sự hơn, nhất là khi Vukelic ký hợp đồng làm việc cho hãng thông tấn Havas của Pháp và qua đó có đường dẫn đến hãng Thông tấn Domei của Nhật. Ozaki Hotsumi là chuyên gia tổng hợp loại siêu. Anh có khả năng tổng hợp từ nhiều nguồn thông tin để đúc kết nhận định mang tính cốt lõi của nội dung vấn đề mà không bị các chi tiết mang nhiều kịch tính làm ảnh hưởng đến nhận định khách quan. Những kết luận của Ozaki là rất đáng tin cậy. Thường thì trước khi báo cáo về đại bản doanh bao giờ Sorge cũng chờ những bản tổng hợp của Ozaki. Từ đó cộng với sự nhạy bén và tinh tường của mình, Sorge cung cấp những báo cáo và nhận định rất hữu ích cho đại bản doanh. Giải thích về những thành công trong việc thu thập thông tin của mình, Ozami nói rất khiêm nhường: “Tôi vốn là người dễ hòa nhập vào xã hội. Tôi rất thích gần mọi người, yêu mến con người và có thể kết bạn chân thành với mọi người thuộc các tầng lớp khác nhau miễn là người đó muốn có tình bạn ấy. Tôi có nhiều bạn tốt và tôi tin cậy một cách chân thành ở những người bạn ấy. Và họ chính là nguồn thông tin, là những người cung cấp cho tôi những gì tôi cần.” Tuy nhiên khả năng siêu phàm của Richard Sorge mới thật là chìa khóa dẫn đến thành công. Anh là người có khả năng tuyệt vời khai thác những khả năng ưu việt nhất của các thành viên của một tập thể bé nhỏ. Anh không chỉ đạo bằng các biện pháp bắt buộc, nghĩa là kỷ luật là do các thành viên tự đặt ra và cũng chính họ là người """