"
Nhà Giả Kim: Bí mật của Nicholas Flamel bật tử PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nhà Giả Kim: Bí mật của Nicholas Flamel bật tử PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
NHÀ GIẢ KIM
Bí mật của Nicholas Flamel bất tử
Tên truyện: THE ALCACHEMYST
Tác giả: Michael Scott
Người dịch: Hoàng Dạ Thi
Thể loại: Văn học nước ngoài
Nhà xuất bản: NXB Trẻ
Năm xuất bản: 2007
Đánh máy & sửa chính tả: Nutuongcuop
Chuyển sang ebook: Nutuongcuop
Ngày hoàn thành: 23/8/2007
http://www.thuvien-ebook.com
Lời giới thiệu
Chương1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 22 Chương 23 Chương 24 Chương 25 Chương 26 Chương 27 Chương 28 Chương 29 Chương 30 Chương 31 Chương 32 Chương 33 Chương 34 Chương 35 Chương 36 Chương 37 Chương 38 Chương 39 Chương 40 Chương 41
Lời giới thiệu
NHÀ GIẢ KIM
Nicholas Flamel là một nhà giả kim, sinh vào năm 1330, nhờ học được phép thuật bất tử từ cuốn sách Codex của pháp sư Abraham, ông sống đến đầu thế kỷ XXI và gắn liền định mệnh của mình với sự tồn tại của Codex. Bọn Elder Đen Tối, thông qua tiến sĩ John Dee muốn đoạt lấy để đẩy loài người vào thời đại hồng hoang.
Cuộc chiến đấu giữa Flamel Bất Tử và Dee Đen Tối diễn ra giữa thời đại của wifi, iPod, internet, laptop và điện thoại di động đã vô tình lôi cuốn sự tham gia của hai chị em sinh đôi Josh và Sophie Newman. Sự xuất hiện của 2 chị em khá trùng hợp với lời tiên đoán trong Codex đã có từ hàng nghìn năm trước của Abraham. Trong cuộc chiến đấu giữa Flamel Bất Tử và Dee Đen Tối, hai chị em, mà trước mắt là cô chị Sophie đã được đánh thức những năng lực tiềm ẩn. Nhờ sự đánh thức, Sophie đã hỗ trợ đắc lực cho Flamel trong việc chống lại bè lũ Elder Đen Tối thông qua bàn tay của Dee . Cuộc chiến đấu không cân sức giữa các thiện và điều ác, bước đầu trên đất Mỹ, phe thiện đã dành được thắng lợi và mở ra cuộc chiến đấu mới ở Paris , châu Âu.
Đây là cuốn sách lần đầu tiên Nhà xuất bản Trẻ mua bản quyền từ bản thảo và sẽ phát hành bản tiếng Việt cùng với bản tiếng Anh và các ngôn ngữ khác đồng thời với 29 nước trên thế giới.
Tôi là một huyền thoại.
Cái chết không thể quật ngã tôi, bệnh tật không thể chạm vào tôi.
Hãy nhìn tôi và bạn sẽ nhận ra rằng rất khó để đoán biết tuổi của tôi. Và đúng thế, tôi sinh ra vào năm 1330 dương lịch tức là hơn sáu trăm bảy mươi năm trước.
Tôi đã từng đóng rất nhiều vai trong cuộc đời mình: một bác sĩ và một đầu bếp, một người bán sách và một người lính, một giáo viên ngôn ngữ và hóa học, cả một nhân viên văn phòng luật sư lẫn một tên ăn cắp.
Nhưng trước khi nhập vào các vai trò đó tôi là một nhà giả kim. Tôi là Nhà Giả kim.
Tôi được biết đến như Nhà Giả kim vĩ đại nhất mọi thời đại, được những
ông vua và hoàng tử, những hoàng đế và chính Đức Giáo hoàng cất công tìm kiếm.
Tôi có thể biến những kim loại bình thường thành vàng, tôi có thể biến những viên đá bình thường thành những viên đá quý. Hơn thế nữa: tôi đã khám phá ra bí mật của Sự sống Bất tử được giấu kín trong một quyển sách chứa đầy ma thuật cổ đại.
Giờ đây vợ tôi là Perenelle đã bị bắt cóc và quyển sách đã bị đánh cắp. Mất đi quyển sách, cả tôi và cô ấy đều sẽ già đi. Chỉ trong một vòng tròn trăng, chúng tôi sẽ khô héo và sẽ chết. Và nếu như chúng tôi chết đi, những ma quỷ và thế lực hắc ám mà chúng tôi từ lâu vẫn luôn chiến đấu chống lại chúng sẽ chiến thắng. Những Giống loài Elder sẽ lại thống trị Trái đất, và chúng sẽ quét sạch loài người trên hành tinh này.
Nhưng tôi sẽ không gục ngã mà không chiến đấu.
Vì tôi là Nicholas Flamel bất tử.
Viết vào hôm nay, thứ Năm, ngày 7 tháng Sáu tại San Francisco, thành phố mà tôi xem như là quê hương.
Chương1
“OK - bồ hãy nói cho mình nghe đi: tại sao người ta lại muốn mặc áo bành tô ở San Francisco giữa mùa hè nóng nực này?” Sophie Newman vừa nói vừa ấn những ngón tay của mình vào cặp tai nghe không dây Bluetooth. Ở phía bên kia châu lục, cô bạn gái mê thời trang Elle của cô hỏi lại, “Đó là kiểu áo bành tô gì vậy?”
Chùi mạnh tay vào tấm vải tạp dề, Sophie bước ra từ đằng sau quầy tính tiền của quán cà phê vắng vẻ và đứng nhón chân bên cửa sổ, nơi cô nhìn thấy những người đàn ông nhô lên từ chiếc xe hơi đậu bên kia đường. “Những chiếc áo khoác len đen nặng nề dày cộp. Ngay cả găng tay của họ cũng toàn màu đen. Cả mấy cặp kính râm nữa.” Cô tì mặt mình vào tấm kính cửa. “Ngay cả trong thành phố này, thì chuyện này trông cũng thật kỳ quặc.”
“Có lẽ họ là những người làm dịch vụ lễ tang, há?” Elle phán đoán, giọng nói của cô nghe rè rè qua chiếc điện thoại cầm tay. Sophie có thể nghe thấy những âm thanh ồn ào và ảm đạm của nhạc rock làm nền cho giọng nói của Elle - có thể là ban nhạc Lacrimosa hay Amorphis. Elle vốn chưa bao giờ vượt qua thể loại Goth ưa thích của mình.
“Có thể bồ nói đúng”, Sophie nói với vẻ hoài nghi. Cô đã tán gẫu một lát với bạn mình trước khi hình ảnh chiếc xe hơi kỳ lạ làm cô vụt để ý. Đó là một chiếc xe dài bóng mượt, trông như xe trong phim cổ điển đen trắng. Khi chiếc xe lướt ngang qua cửa sổ, ánh mặt trời phản chiếu vào những ô cửa kính xe màu đen, rồi từ đó thoáng soi sáng phía bên trong quán cà phê với ánh sáng vàng lấp lánh và ấm áp làm cô chói mắt. Sophie vội chớp mắt để xua tan đi những đốm đen đang nhảy múa trước mắt mình và cô nhìn thấy chiếc xe chạy về phía cuối của ngọn đồi rồi chậm rãi quay lại. Không hề ra tín hiệu, chiếc xe đỗ xịch ngay trước cửa Tiệm Sách Nhỏ ngay phía bên kia đường.
“Có lẽ họ là mafia,” Elle phỏng đoán với vẻ hồi hộp. “Ba của mình biết một tay vốn là mafia. Nhưng ông ta chạy một chiếc Prius,” cô nói thêm.
“Chiếc này chắc chắn không phải là Prius rồi,” Sophie nói. Cô nhìn chiếc xe thêm lần nữa cùng với hai người đàn ông bó chặt mình trong những chiếc áo khoác, găng tay và mũ nặng nề đang đứng trên đường. Đôi mắt của họ giấu kín đằng sau những đôi kính đen to quá cỡ.
“Có thể họ bị lạnh,” Elle lại nói. “Dạo này ở San Francisco trời có lạnh không?”
Sophie Newman liếc nhìn lên đồng hồ và chiếc nhiệt kế treo trên tường ngay phía quầy tính tiền đằng sau cô. “Bây giờ ở đây là 2 giờ 50 phút... với nhiệt độ là tám mươi mốt,” cô nói. “Tin mình đi, họ không lạnh đâu. Họ có thể đến chết ngốt mất. Mà, đợi đã,” cô nói, đột ngột cắt ngang chính mình, “có một điều gì đó đang xảy ra.”
Cửa sau của chiếc xe hơi bật mở và một người đàn ông khác cao lớn hơn cả hai người đàn ông trước đó, bước ra khỏi xe một cách cứng nhắc khó nhọc. Khi ông ta đóng cửa xe, ánh mặt trời khẽ chiếu sáng khuôn mặt ông ta và Sophie lờ mờ nhìn thấy một làn da trắng xám xanh xao trông đầy vẻ bệnh hoạn. Cô điều chỉnh âm lượng của cặp tai nghe. “Nghe này. Bồ nên nhìn thấy cái gì vừa chui ra khỏi chiếc xe. Một người đàn ông to lớn với làn da xám ngoét. Xám xịt. Đó chính xác là những gì mình thấy, có lẽ họ có một loại da đặc thù nào đó.”
“Mình từng xem một bộ phim tài liệu trên kênh National Graphic nói về những người không thể đi ra ngoài dưới ánh sáng mặt trời...” Elle bắt đầu, nhưng Sophie không còn nghe bạn mình nói gì nữa.
Một người đàn ông thứ tư bước ra khỏi xe.
Ông ta là một người nhỏ bé, trông hoạt bát hơn nhiều so với ba chiến hữu. Ông mặc một bộ đồ lớn gọn gàng màu than chì trông hơi có vẻ lỗi thời nhưng Sophie có thể đoán chắc bộ đồ này được may đo cho riêng ông. Mái tóc xám ánh kim của ông được cột lại thành một chiếc đuôi ngựa ôm lấy khuôn mặt góc cạnh xương xẩu trong khi bộ râu hình tam giác màu đen điểm những sợi xám phủ lấy miệng và cằm ông. Ông rời khỏi chiếc xe và tiến tới dưới mái vòm kẻ sọc che phủ phía trên những kệ sách để phía ngoài cửa tiệm. Khi ông ta nhặt lên một cuốn sách bìa mềm màu sắc sặc sỡ và lật qua lật lại nó trên tay mình, Sophie để ý ông ta đeo một đôi găng tay màu xám. Một hột nút ngọc trai ở cổ tay áo sáng lóe lên dưới ánh mặt trời.
“Họ đang tiến vào bên trong tiệm sách,” Sophie nói vào chiếc điện thoại cầm tay của mình.
“Josh có đang làm việc ở đó không?” Elle vội hỏi ngay lập tức.
Sophie phớt lờ vẻ quan tâm đột ngột trong giọng nói của bạn mình. Chuyện cô bạn gái thân nhất đâm ra thích người em sinh đôi của cô nghe có
vẻ lạ đời. “Nó đang làm ở trong đó. Mình sẽ gọi điện cho nó coi có gì đang xảy ra. Mình sẽ gọi lại cho bồ liền nha.” Cô tắt máy, gỡ cặp tai nghe ra và lơ đãng vuốt vuốt chiếc tai đang nóng của mình trong khi mắt vẫn quan sát một cách thích thú người đàn ông nhỏ thó. Có một điều gì đó về ông ta... một điều gì đó thật kỳ quặc. Có lẽ ông ta là một nhà thiết kế thời trang, cô nghĩ, hay là một nhà sản xuất phim, hay là một nhà văn: cô để ý thấy nhiều nhà văn rất thích ăn mặc kỳ dị khác thường. Cô sẽ để cho ông ta một vài phút để đi vào bên trong cửa tiệm, và rồi cô sẽ gọi cho đứa em sinh đôi của mình để yêu cầu cậu tường thuật về những gì đang xảy ra.
Sophie sắp sửa quay đi thì đột nhiên người đàn ông da xám ngoét xoay người lại và có vẻ như nhìn thẳng vào cô. Vì đang đứng dưới mái hiên tiệm sách, khuôn mặt ông ta mờ khuất trong bóng râm, và chỉ trong khoảnh khắc, đôi mắt của ông có vẻ như đang lấp lánh.
Sophie biết rằng - cô chỉ biết - rằng không có cách nào khiến người đàn ông nhỏ người xám ngoét có thể nhìn thấy cô: cô đứng phía đối diện của con đường đằng sau một tấm kính sáng lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời của buổi chiều. Cô có thể trở nên vô hình dưới sự che chở của vùng tối ảm đạm đằng sau tấm kính.
Và rồi...
Và rồi trong khoảnh khắc ngắn ngủi khi mắt họ gặp nhau, Sophie cảm thấy những sợi lông li ti nơi mặt sau bàn tay và cánh tay mình nhói lên nhè nhẹ và có cảm giác như một luồng khí lạnh chạy dọc phía đằng sau cổ và mắc kẹt lại trong những lọn tóc vàng loăn xoăn ôm lấy má cô. Sự va chạm của hai ánh mắt nhìn chỉ kéo dài một giây trước khi người đàn ông nhỏ bé quay đi, nhưng Sophie có một ấn tượng rất mạnh rằng ông ta đã nhìn thẳng vào cô.
Trong giây phút trước khi người đàn ông xám ngoét và ba chiến hữu ăn mặc nặng nề của ông ta biến mất đằng sau cánh cửa tiệm sách, Sophie quyết định là cô không hề thích ông ta.
O O O
Mùi bạc hà cay.
Và trứng thối.
“Thật ghê tởm.” Josh Newman đứng ngay giữa hầm chứa đồ của tiệm sách và hít thở thật sâu. Những mùi đáng tởm này đến từ đâu mới được? Cậu nhìn xung quanh những chiếc kệ cao chất đầy sách và tự hỏi mình lẽ nào một vật
gì đó đã bò vào phía sau những dãy kệ và chết ở trong đó? Cái gì đã gây ra một mùi hôi thối khó ngửi đến như vậy? Chiếc hầm chứa khá nhỏ và tù túng nên nó thường xuyên có mùi khô mốc. Không khí trong hầm trĩu nặng đủ loại mùi từ mùi của giấy cũ đến hương vị dày đặc của bìa da trộn lẫn với những chiếc mạng nhện dơ bẩn. Josh ưa thích mùi vị pha trộn đó; cậu luôn cho rằng mùi đó rất ấm áp và dễ chịu, như hương vị quế và những hương liệu thường làm cậu nhớ đến lễ Giáng sinh.
Bạc hà nồng cay.
Sắc bén và đậm đặc, mùi bạc hà đâm thẳng vào bầu không khí cô đặc của hầm chứa. Đó là mùi của một loại kem đánh răng mới hay các loại trà thảo mộc mà chị của Josh phục vụ cho khách trong tiệm cà phê phía bên kia đường. Như một lá dao sắc, mùi hương nồng cay xuyên qua lớp mùi dày đặc của da và giấy. Nó mạnh đến nỗi làm cho xoang mũi của cậu bị kích thích dữ dội và cậu cảm giác như mình sẽ hắt xì hơi vào bất cứ lúc nào. Cậu nhanh chóng tháo cặp tai nghe của chiếc iPod ra khỏi tai. Hắt hơi với headphones dù sao cũng không phải là một điều hay lắm, nó làm tai bạn ù đi.
Trứng.
Hôi thối và ghê tởm, cậu nhận ra mùi lưu huỳnh có trong trứng thối. Nó phủ lên mùi bạc hà một cách thô bạo và mãnh liệt... Tất cả thật kinh khủng. Cậu có thể cảm thấy cái mùi hôi thối đó đang bò lên, luồn lách vào khắp lưỡi, môi và da đầu của mình và dính chặt vào đó. Josh luồn những ngón tay vào mớ tóc vàng dày xù xì và rùng mình. Đã đến lúc sửa chữa lại ống dẫn nước và hệ thống cống rãnh.
Bỏ mặc cho cặp tai nghe đeo lủng lẳng trên vai, cậu cầm bút kiểm tra danh sách các cuốn sách, rồi nhìn các kệ sách thêm một lần nữa: Toàn tập Dickens, ba tập, bìa da màu đỏ. Bây giờ cậu có thể tìm thấy nó ở nơi nào?
Josh đã làm việc ở tiệm sách trong suốt gần hai tháng và hiện cậu vẫn chưa có một ý tưởng rõ ràng về vị trí của các đồ vật. Ở đây không có hệ thống phân loại và sắp xếp... hoặc có thể đã có một hệ thống nào đó nhưng nó chỉ được thấu hiểu bởi Nick và Perry Fleming, các chủ nhân của Tiệm Sách Nhỏ. Nick hay vợ của ông ấy có thể đặt tay lên bất kỳ cuốn sách nào ở phía trên lầu hay dưới hầm chứa để rồi lấy ra đúng cuốn sách cần thiết.
Một làn sóng của hương bạc hà ngay lập tức theo sau bởi mùi trứng thối, lại xộc vào không khí thêm lần nữa. Josh ho sặc sụa đến chảy nước mắt. Không thể tin được! Nhét chặt danh sách cần tra cứu vào một túi quần jeans
và bộ tai nghe iPod vào túi bên kia, cậu bắt đầu di chuyển một cách có kế hoạch từ những chồng sách đến những chiếc thùng đóng kín dẫn lên cầu thang. Cậu không còn có thể chịu đựng mùi hôi thối thêm một phút nào nữa ở dưới hầm chứa. Cậu chà xát lòng bàn tay lên mắt mình trong mùi hôi nồng nặc. Chộp lấy tay vịn cầu thang, cậu nhấc bổng thân mình tiến lên. Cậu cần một luồng không khí tươi mát hay là cậu sẽ ngã vật. Nhưng rồi, thật kỳ quặc, càng đến gần đoạn đầu của cầu thang, mùi hôi thối càng trở nên mạnh mẽ.
Cậu thò đầu ra khỏi cánh cửa hầm chứa đồ và nhìn xung quanh.
Và trong giây phút đó, Josh Newman nhận ra rằng thế giới sẽ không bao giờ như trước nữa.
Chương 2
Josh ló đầu ra khỏi rìa cửa hầm chứa, đôi mắt cậu cay xè bởi mùi lưu huỳnh và bạc hà. Ấn tượng đầu tiên của cậu đó là tiệm sách thường ngày vốn vắng vẻ nay bỗng chen chúc người: năm người đàn ông đang đứng đối mặt với Nick Fleming, chủ tiệm.
Bốn người trong số họ có vóc dáng to lớn khổng lồ. Người thứ năm nhỏ con hơn và có vẻ bề ngoài nham hiểm. Bỗng nhiên, Josh chợt nghĩ rất có thể cửa hàng đang bị cướp.
Ông chủ của cậu, Nick Fleming, đang đứng ngay giữa tiệm sách, mặt đối mặt với những kẻ lạ mặt. Trông ông có một vẻ gì đó hơi khác biệt một chút so với một người bình thường. Với chiều cao và vóc dáng trung bình cùng khuôn mặt không có đường nét gì thật nổi bật, điểm khác thường nhất nơi ông chính là đôi mắt - một đôi mắt xanh xám đến nỗi trông chúng gần như không màu. Mái tóc đen của ông được cắt sát đầu và dường như cằm ông luôn nằm trong tình trạng lởm chởm, như thể ông đã không hề cạo râu trong suốt một vài ngày qua. Ông ăn mặc như thường ngày: quần jeans đen đơn giản, áo thun rộng in hình quảng cáo về một buổi hòa nhạc đã diễn ra cách đây hai mươi lăm năm, và một đôi bốt cao bồi mòn vẹt. Ông đeo một chiếc đồng hồ điện tử rẻ tiền trên cổ tay trái và một chiếc vòng bạc dày nặng bên cạnh hai chiếc vòng tình bạn sặc sỡ trên cổ tay phải.
Đứng đối diện với ông là người đàn ông nhỏ bé có làn da xám ngoét trong bộ trang phục được may cắt một cách khéo léo.
Đột nhiên Josh nhận ra rằng tất cả bọn họ đều không ai nói gì cả... và vẫn có một điều gì đó đang xảy ra giữa bọn họ. Cả hai người đàn ông đều đứng im phăng phắc, cánh tay họ ép sát vào thân hình, cùi chỏ cũng ép sát, lòng bàn tay mở rộng hướng lên trên. Nick đứng ngay giữa tiệm sách trong khi người đàn ông xám ngoét đứng ở sát cửa ra vào, và ba chiến hữu mặc áo choàng đen đứng tỏa rộng xung quanh ông ta. Thật lạ lùng, tất cả ngón tay của những người đàn ông đều co giật, nhảy múa, như thể họ đang gõ nhịp một cách dữ dội, ngón cái cọ vào ngón trỏ, ngón út duỗi thẳng chạm vào ngón cái. Những dải khói xanh lá cây bao quanh lòng bàn tay của Fleming, rồi uốn xoắn thành những mẫu hoa văn nhỏ giọt xuống sàn nhà, nơi chúng vặn vẹo quằn quại như những con rắn lục. Những cụm khói vàng hôi hám
cuộn tròn và nhỏ giọt xuống từ đôi găng tay của người đàn ông xám ngoét, và bắn vung vãi xuống sàn gỗ như một thứ chất lỏng bẩn thỉu.
Mùi hôi thối thoát ra khỏi đám khói, nung dày bầu không khí bằng mùi bạc hà và lưu huỳnh. Josh cảm thấy dạ dày của mình quặn lên nôn nao và cậu nuốt nước bọt một cách khó nhọc. Mùi trứng thối xông lên làm cậu muốn ói mửa.
Bầu không khí giữa hai người đàn ông mờ ảo bởi những cuộn khói xanh vàng và khi khói chạm đến đâu lập tức ngay chỗ đó phát ra những tiếng xèo xèo. Ngón tay của Fleming khẽ nhúc nhích, và một lọn khói dày đặc màu xanh lá cây xuất hiện từ lòng bàn tay của ông. Ông thổi phù một hơi vào đó, và lọn khói bay cuộn vào không khí, xoắn vặn uốn éo trong khoảng không cao ngang đầu giữa hai người đàn ông. Những ngón tay lùn mập mạp của người đàn ông xám ngoét cũng gõ nhịp điệu riêng của chúng, và rồi một quả bóng tròn bằng khói vàng trượt khỏi bàn tay ông ta, trôi bồng bềnh vào giữa thinh không. Nó chạm vào cuộn khói xanh lá cây, và ngay lập tức bọc lấy quả bóng màu xanh đó. Một tiếng nổ lách tách kèm ánh sáng lóe lên... và cú nổ vô hình đẩy vọt hai người đàn ông băng ngang qua căn phòng, va thẳng vào những chiếc bàn chất đầy sách. Những bóng đèn nổ lốp bốp, huỳnh quang bắn tóe ra và một trận mưa bột thủy tinh rơi rào rào xuống nền nhà. Hai khung cửa sổ nổ tung trong khi hơn một tá các ô kính bị đập vỡ, rơi loảng xoảng.
Nick Fleming khẽ trườn trên sàn nhà, gần sát với cửa hầm chứa nơi Josh đang đứng như hóa đá trên bậc cầu thang. Đôi mắt cậu mở to vì choáng váng và kinh hoàng. Khi Nick gượng để đứng lên, ông ấn cậu thụt lùi xuống bậc thang phía dưới. “Hãy ở dưới đó, dù cho bất kỳ chuyện gì xảy ra đi nữa, hãy ở dưới đó,” ông thì thầm, giọng Anh của ông vang lên với trọng âm không rõ ràng. Ông duỗi thẳng người trong lúc quay đi và Josh nhìn thấy ông ngửa lòng bàn tay phải lên, đưa nó gần đến khuôn mặt và thổi vào đó. Rồi ông vươn tay ném mạnh về phía giữa phòng như thể ông đang ném một quả banh.
Josh rướn cổ lên để theo dõi cú ném. Nhưng không có chuyện gì xảy ra... Và rồi tưởng chừng như tất cả không khí đã bị hút sạch ra khỏi phòng. Những cuốn sách đột nhiên rách toạc trên những giá sách gần đó, đổ ập thành đống lộn xộn ngay chính giữa phòng. Những bức tranh đóng khung trên tường bị kéo lê xuống đất trong khi một tấm thảm len nặng trịch xoắn cuộn lên trên và cũng bị hút ra phía giữa phòng.
Rồi đống sách nổ tung.
Hai người đàn ông to lớn mặc áo choàng đen hứng trọn cú nổ. Josh nhìn thấy những cuốn sách, một số cuốn nặng và cứng, một số khác mềm và sắc cạnh, bay xung quanh họ như những con chim giận dữ. Cậu nhăn mặt vẻ thông cảm khi một người đàn ông bị cuốn từ điển dày cộp bay thẳng vào giữa mặt, cuốn phăng chiếc mũ và kính râm... hé lộ ra một khuôn mặt có làn da xám xịt như xác chết với đôi mắt như những viên đá xám lấp lánh. Một kệ gỗ chất đầy tiểu thuyết lãng mạn bay vào mặt người đàn ông thứ hai, bẻ gãy chiếc kính râm rẻ tiền ra làm đôi. Josh khám phá ra rằng người đàn ông này cũng có đôi mắt lấp lánh như đá xám.
Và cậu đột nhiên nhận ra rằng đó đúng là những viên đá.
Cậu quay về phía Nick Fleming, đôi môi mấp máy một câu hỏi. Ông chủ cậu liếc nhìn Josh. “Ở nguyên dưới đó,” ông ra lệnh. “Hắn ta mang bọn Golem đến đây.” Fleming ngụp xuống né tránh khi người đàn ông xám ngoét ném ba lưỡi dao dài bằng khói lấp lánh như dát ngọc của năng lượng màu vàng băng ngang qua căn phòng. Chúng trượt qua các kệ sách và đâm xuyên qua sàn gỗ. Khi chúng đâm vào đâu, ở đó bắt đầu mục nát. Những tấm bìa da vỡ răng rắc và nát vụn, giấy cháy đen thui, ván sàn và kệ gỗ khô queo và tan thành bột.
Fleming quăng thêm một quả banh vô hình nữa về phía góc phòng. Josh Newman nhìn theo đường đi của cú vung tay. Khi quả banh vô hình bay xuyên qua bầu không khí, một tia nắng mặt trời chiếu vào đó, và cậu nhìn thấy quả banh sáng lên màu xanh lấp lánh như một hình cầu làm bằng ngọc lục bảo. Rồi nó thoát khỏi vùng sáng của tia nắng và biến mất trở lại. Lần này, khi quả banh chạm xuống sàn nhà, tác động của nó còn dữ dội hơn. Không có âm thanh nào vang lên, nhưng cả tòa nhà rung lên bần bật. Những chiếc bàn chứa các cuốn sách bìa mềm rẻ tiền tan rã thành đám vỏ bào và các trang giấy bay tung lên không trung như những vụn confetti kỳ quái. Hai người đàn ông mặc đồ đen - bọn Golem - bị ấn sát vào dãy kệ, nơi các cuốn sách đổ nhào xuống đầu họ. Trong khi đó, người đàn ông thứ ba - gã cao to nhất, bị ấn thật mạnh vào cánh cửa đến mức hắn bị hất bắn ra ngoài đường.
Và rồi trong không khí yên lặng đó vang lên tiếng vỗ bôm bốp của hai bàn tay bọc trong găng. “Ông đã sử dụng kỹ thuật đó một cách hoàn hảo, Nicholas.” Người đàn ông xám ngoét nói tiếng Anh với một vẻ tò mò du dương trong giọng nói.
“Tôi vẫn thường luyện tập, Josh à,” Nick Fleming nói. Ông lướt đến cánh cửa hầm chứa đang hé mở, đẩy mạnh Josh Newman thụt sâu xuống bậc cầu thang. “Tôi biết là không sớm thì muộn ông cũng sẽ đuổi theo tôi.”
“Chúng tôi đã tìm kiếm ông suốt một thời gian dài, Nicholas. Ông cất giữ một vật gì đó của tụi này. Và chúng tôi muốn lấy lại nó.”
Một mảnh khói vàng bay lên đụng trần nhà ngay trên đầu Fleming và Josh. Những mảnh vữa màu đen vỡ vụn và rơi xuống như những bông hoa tuyết.
“Tôi đã đốt nó,” Fleming nói, “đốt từ rất lâu rồi.” Ông đẩy Josh xuống sâu hơn, rồi đóng cánh cửa trượt lại, đóng kín cả hai đầu. “Đừng hỏi,” ông nhắc Josh, đôi mắt xanh xám của ông lóe lên trong ánh sáng mờ mờ. “Không phải là ngay bây giờ.” Ông dùng tay nắm lấy Josh và kéo cậu vào trong góc tối nhất của căn hầm chứa, rồi cầm lấy một chiếc kệ bằng cả hai tay, xoắn mạnh nó. Một tiếng “cách” vang lên, và chiếc kệ sách đu đưa, hé lộ những bậc thang phía đằng sau nó. “Đi nhanh lên ngay lập tức, nhanh và im lặng,” ông cảnh báo. Ông đi theo Josh vào cửa và kéo chiếc kệ đóng lại sau lưng ông, vừa đúng lúc cánh cửa phòng chứa chảy tan ra thành một thứ chất lỏng màu đen chảy xuống các bậc thang với mùi hôi thối nồng nặc của lưu huỳnh.
“Đi lên phía trên.” Giọng nói của Nick Fleming ấm áp sát ngay bên tai Josh. “Lối đi này sẽ dẫn lên cửa tiệm bỏ không sát ngay tiệm chúng ta. Chúng ta phải đi nhanh lên. Chỉ sau vài giây là Dee đã có thể biết được chuyện gì đang xảy ra.”
Josh Newman gật đầu. Cậu biết cửa tiệm bỏ không đó. Tiệm giặt tẩy vẫn bỏ không suốt cả mùa hè. Hàng trăm câu hỏi nhảy nhót trong đầu cậu và không có câu trả lời nào thoáng qua trong óc có thể làm cho cậu hài lòng khi mà phần lớn chúng đều chứa đựng một từ kinh khủng: ma thuật. Cậu đã chứng kiến hai người đàn ông thảy những quả banh chứa đầy năng lượng vào nhau. Cậu đã nhìn thấy sự tàn phá mà những năng lượng đó gây ra.
Josh nhận ra cậu vừa chứng kiến sức mạnh của ma thuật. Nhưng tất nhiên, ai cũng biết rằng ma thuật đơn giản là không hề và không thể tồn tại trên cõi đời này.
Chương 3
Cái thứ mùi kinh tởm này từ đâu đến vậy cà? Sophie Newman ngập ngừng khi cô chuẩn bị đeo bộ tai nghe Bluetooth vào tai mình. Cô hít thở thật sâu với hai cánh mũi nở rộng. Một mùi kinh khủng vừa ập tới. Cô đóng máy điện thoại và nhét cặp tai nghe vào túi quần, rồi đứng tì người vào sát trên miệng một lọ trà xanh mở nắp và hít vào thật sâu.
O O O
Cô đã làm việc ở tiệm Tách Cà phê kể từ kỳ nghỉ hè vừa qua. Công việc cũng tàm tạm, không có gì đặc biệt. Phần lớn khách hàng dễ thương, một vài người bất lịch sự và một số ít khá thô lỗ. Thế nhưng thời gian làm việc khá thoải mái, tiền thù lao hậu hĩnh, tiền “bo” còn tốt hơn và thêm một điều tuyệt vời nữa đó là ngay phía bên kia đường đối diện với tiệm cà phê chính là tiệm sách mà Josh, cậu em sinh đôi của cô, đang làm việc. Dù cả hai vừa mới tròn mười lăm tuổi, họ đã bắt đầu để dành tiền để sắm xe hơi. Cả hai cho rằng thời gian chuẩn bị cho vụ tậu xe này sẽ là khoảng hai năm - nếu như chúng nhịn không mua CD, DVD, đĩa game, quần áo hay giày, mà mua sắm vốn là điểm yếu của Sophie.
Thường thì cùng làm việc với Sophie còn có thêm hai người nữa nhưng một người vừa xin được về nhà nghỉ ngơi trong khi Bernice, chủ tiệm, vừa tranh thủ giờ ăn trưa để đi mua hàng lốc trà và cà phê tươi. Bà hứa sẽ trở lại trong vòng một tiếng đồng hồ. Dù sao, nói gì thì nói, Sophie biết thời gian đó sẽ kéo dài gấp đôi.
Suốt mùa hè, Sophie đã dần quen với nhiều mùi vị lạ lùng khác nhau từ những loại trà và cà phê nhập từ nước ngoài được bày bán trong tiệm. Cô có thể phân biệt sự khác nhau giữa trà Bá tước Xám và trà Darjeeling đến từ Ấn Độ, hay giữa cà phê Java và cà phê Kenya . Cô thích ngửi mùi thơm của cà phê dù không hề thích vị đắng của nó. Nhưng cô đặc biệt thích trà. Chỉ trong vòng vài tuần qua, cô đã lần lượt nếm tất cả các loại trà, nhất là những loại trà thảo mộc với vị trái cây và mùi thơm lạ lùng.
Thế nhưng lúc này đây có một mùi ghê tởm đang tràn ngập. Gần như là mùi trứng thối.
Sophie cầm một hộp trà lên gần khuôn mặt và hít thật sâu. Mùi trà Assam nồng đậm xông lên làm cổ họng cô se lại: mùi hôi thối kia không hề đến từ đây.
“Cháu nên uống thay vì ngửi nó.”
Tiếng nói của Perry Fleming khiến Sophie quay lại. Perry Fleming là một phụ nữ cao thanh nhã ở trong bất kỳ độ tuổi nào trong khoảng từ bốn mươi đến sáu mươi. Rõ ràng là bà đã từng rất đẹp và đến bây giờ trông bà vẫn còn quyến rũ. Đôi mắt của bà ngời sáng màu xanh lá cây và là đôi mắt đẹp nhất mà Sophie từng trông thấy, và cô đã tự hỏi mình trong suốt một thời gian dài là liệu có phải Perry Fleming đeo kính áp tròng màu xanh lá cây hay không. Trước đây, mái tóc của Perry có màu đen huyền nhưng bây giờ nó được cắt ngắn hơn với nhiều dải bạc cột thành một chiếc đuôi ngựa nằm dọc theo chiều của xương sống. Bà có một hàm răng rất đẹp với những chiếc răng nhỏ đều tăm tắp và xung quanh đuôi mắt của bà đã thấy xuất hiện những “vết chân thời gian” nhỏ li ti. Perry luôn ăn mặc kiểu cách và lịch lãm hơn chồng bà. Và hôm nay bà mặc một chiếc áo đầm không có tay màu xanh bạc hà hợp với màu mắt của bà. Sophie đoán rằng có lẽ chiếc áo được may bằng vải lụa mềm.
“Cháu chỉ nghĩ là mùi của nó rất kỳ lạ,” Sophie nói. Cô hít những lá trà thêm lần nữa. “Mùi cũng hay đấy chứ,” cô nói thêm, “thế mà vừa mới đây thôi, cháu đã nghĩ mùi của nó giống như là... như là... như là mùi trứng thối vậy.”
Sophie nhìn Perry Fleming khi bà nói. Cô bé giật mình khi nhìn thấy đôi mắt màu xanh lá cây sáng ngời của Perry chợt mở to và bà xoay người nhìn qua phía bên kia của con đường... ngay vừa khi những ô kính nhỏ cua tiệm sách vỡ vụn và có hai ô cửa nổ tan thành bụi. Những cuộn khói màu vàng và màu xanh lá cây bò ngoằn ngoèo trên mặt đường và không khí sặc mùi trứng thối. Sophie ngửi thấy một mùi lạ khác, một thứ mùi sắc bén và nồng nàn của bạc hà.
Đôi môi của Perry mấp máy, và bà khẽ thì thầm, “Ồ, không... không phải bây giờ... không phải ở đây.”
“Bà Fleming... Perry?”
Người đàn bà quay về phía Sophie. Đôi mắt bà mở lớn đầy vẻ kinh hoàng và tiếng Anh trôi chảy hằng ngày của bà bây giờ vang lên với những trọng
âm lạ lẫm đến lạc giọng. “Hãy ở đây, dù cho bất kỳ chuyện gì xảy ra, hãy cứ ở đây và ngồi thấp xuống.”
Sophie mở miệng định hỏi thì cô chợt nghe lỗ tai mình nổ “bốp”. Cô nuốt nước bọt một cách khó nhọc... Rồi cánh cửa tiệm sách bật mở, và một trong những người đàn ông to lớn mà Sophie vừa trông thấy hồi nãy bị hất văng ra ngoài đường. Giờ đây hắn ta đã bị bay mất mũ và kính nên Sophie thoáng nhìn thấy màu da nhờn nhợt như da xác chết cùng đôi mắt lạnh băng bằng đá cẩm thạch của hắn ta. Người đàn ông bò lết trên đường trong giây lát, rồi ông ta đưa tay lên che mặt khỏi ánh sáng mặt trời.
Và Sophie cảm thấy một cái gì đó lạnh lẽo và rắn chắc nhói lên trong dạ dày.
Lớp da trên bàn tay của người đàn ông bắt đầu động đậy. Nó tan chảy một cách chậm rãi thành một thứ chất lỏng sền sệt nhểu xuống tay áo của ông ta. Dường như là những ngón tay cũng đang bắt đầu tan chảy. Những giọt chất lỏng như bùn xám nhểu bê bết xuống mặt đường.
“Golem,” Perry hổn hển. “Lạy Trời, ông ta đã tạo ra bọn Golem.”
“Gollums?” Sophie hỏi, miệng cô đặc quánh và khô đắng, lưỡi cô đột nhiên như phình lớn ra trong miệng. “Gollum, trong Chúa tể những chiếc nhẫn?”
Perry tiến lại gần cửa ra vào. “Không, Golem,” bà nói một cách lơ đãng, “Đó là những gã đàn ông làm bằng đất sét.”
Cái tên đó nghe chừng như vô nghĩa đối với bà, nhưng bà nhìn ra ngoài với vẻ mặt pha trộn giữa sự kinh hoàng và bối rối khi sinh vật kia - gã Golem - đang bò lết trên đường cố thoát khỏi ánh nắng thiêu đốt để vào ẩn náu dưới bóng râm của mái hiên. Như một con ốc sên khổng lồ, hắn để lại một vết bùn dài ở phía đằng sau và vết bùn lập tức khô rang dưới ánh mặt trời khắc nghiệt. Sophie kịp nhìn thấy khuôn mặt của hắn trước khi hắn lảo đảo lết vào trong tiệm sách. Thân thể của hắn tan chảy như sáp ong và làn da xám ngoét bây giờ như được bao phủ bởi một lớp màng với những vết rạn nứt đau đớn. Nó gợi cho Sophie nhớ đến mặt đất nứt nẻ và rạn vỡ của vùng sa mạc khô cằn.
Perry chạy ào ra phía con đường. Sophie nhìn thấy bà mở tung sợi dây buộc tóc và để cho mái tóc bà buông xõa. Nhưng thay vì nằm ép sát dọc theo lưng của Perry, mái tóc bà bây giờ bao phủ lấy bà, hệt như nó được thổi tung
bởi một làn gió nhẹ. Thế nhưng thực tế lúc đó không hề có một ngọn gió nào.
Sophie thoáng ngần ngừ, rồi cô chụp lấy cây chổi và chạy băng qua đường tiếp sau lưng Perry. Josh đang làm việc ở trong tiệm sách!
O O O
Cảnh tượng bên trong tiệm sách thật hỗn loạn.
Những kệ sách vốn rất ngăn nắp trước đây cùng những chiếc bàn ngay ngắn nay bị xô đẩy và quăng quật thành từng đống lộn xộn trên sàn nhà. Các giá sách bị xé nát, những kệ gỗ gãy làm đôi, tranh ảnh treo tường và bản đồ bị quăng xuống sàn nhà. Mùi hôi thối của những vật bị phá hủy tràn ngập căn phòng: giấy và gỗ khô queo và mục rữa, thậm chí cả trần nhà cũng bắt đầu rạn nứt và tan nát, lớp vữa thạch cao rơi lả tả để lộ những chiếc dầm nhà bằng gỗ cùng mạng lưới dây điện bên trong.
Người đàn ông nhỏ bé xám ngoét đứng ngay chính giữa căn phòng. Ông ta chùi vội lớp bụi trên cánh tay của chiếc áo choàng trong khi hai gã Golem còn lại đang mò mẫm ở tầng hầm. Gã Golem thứ ba, thương tích đầy mình và vẫn còn bị tan rửa bởi ánh mặt trời gay gắt đứng dựa lưng loạng choạng vào một kệ sách gãy đổ. Trên bàn tay tàn phế của hắn, những giọt bùn vẫn tiếp tục nhỏ giọt theo hình xoắn ốc.
Người đàn ông xám ngoét quay về phía Perry khi bà và Sophie xông thẳng vào tiệm sách. Ông ta khẽ nghiêng người để cúi chào. “À, xin chào bà Perenelle. Tôi đang tự hỏi không biết bà ở nơi nào.”
“Nicholas đâu rồi?” Perry hỏi. Bà đọc thành Nicola. Sophie nhìn thấy một làn sóng điện lăn tăn chạy dọc theo mái tóc bà, lóe lên màu xanh da trời và trắng bạc.
“Dưới cầu thang, tôi tin là như vậy. Những sinh vật của tôi đang tìm kiếm ông ta.”
Giữ chặt cây chổi trong cả hai tay, Sophie lướt nhẹ băng qua Perry và đảo qua phía bên kia của căn phòng. Josh. Bây giờ em đang ở đâu? Cô không hề biết chuyện gì đang xảy ra và thật sự không quan tâm. Tất cả những gì cô cần đó chính là tìm ra cậu em mình.
“Trông bà vẫn đáng yêu như dạo nào,” người đàn ông xám ngoét nói, mắt ông ta dán chặt vào Perry. “Bà không hề già đi, dù chỉ là một ngày.” Ông ta cúi chào lần nữa, một cử chỉ tán tỉnh lỗi thời xưa cũ mà ông ta thể hiện không
chút cố gắng. “Được nhìn thấy bà luôn luôn là một niềm vui đối với tôi.”
“Tôi ước gì mình cũng có thể nói như vậy đối với anh, Dee ạ.” Perry tiến sâu hơn vào căn phòng, mắt bà lục soát từ bên này sang bên kia của căn phòng. “Tôi nhận ra mùi hôi thối của anh.”
Dee nhắm mặt lại và hít thở thật sâu. “Tôi thích mùi của lưu huỳnh hơn. Nó nghe rất...” ông ta ngừng lại, “rất kịch tính.” Và rồi đôi mắt xám của ông ta mở lớn và nụ cười dần tắt lịm. “Chúng tôi đến đây vì Cuốn sách, Perenelle. Và chớ có nói rằng bà đã hủy hoại nó rồi,” ông ta nói tiếp. “Vẻ mạnh khỏe và tươi trẻ của bà chính là một bằng chứng cho thấy sự tồn tại của nó.”
Quyển sách nào nhỉ, Sophie tự hỏi, vừa đưa mắt liếc quanh căn phòng. Cửa tiệm chất đầy những quyển sách.
“Chúng tôi là những người canh gác - bảo vệ cuốn sách đó,” Perry nói và một vẻ gì đó trong giọng nói của bà khiến Sophie quay sang nhìn về nơi bà đứng. Miệng và mắt cô mở to vì kinh hoàng. Một màn sương mỏng lấp lánh ánh bạc đang bao phủ lấy Perry Fleming, tỏa ra từ làn da của bà như một lớp tơ mỏng. Xanh xao và trong suốt, những sợi tơ cứ dần dày và cứng lên xung quanh bàn tay Perry, y hệt như bà đang dệt những chiếc găng tay bằng kim loại. “Ông sẽ không bao giờ có được nó,” Perry nói đanh thép.
“Chúng tôi sẽ lấy được nó,” Dee nói. “Tụi này đã tích lũy nhiều thứ quý giá khác trong nhiều năm qua. Chỉ còn có mỗi Cuốn sách đó mà thôi. Bây giờ, bà hãy ngừng việc tự làm khó cho mình và nói cho tôi biết chỗ của nó...”
“Không bao giờ!”
“Tôi biết là bà sẽ nói như vậy,” Dee trả lời, và rồi một gã Golem to lớn tiến đến sát ngay bên cạnh Perry. “Con người thật dễ đoán trước.”
O O O
Nick Fleming và Josh mở cánh cửa của tiệm giặt ủi khi họ nhìn thấy Perry cùng với Sophie đi theo ngay sát bà và cả hai chạy băng qua đường để lao vào tiệm sách. Nick chụp lấy một vật gì đó khi ông luồn tay vào dưới vạt áo. Từ một túi vải nhỏ đơn giản treo quàng quanh cổ, ông lấy ra một vật trông giống như một cuốn sách màu đồng.
Josh mở chốt cửa, kéo mạnh cửa ra vào và Nick chạy thoát ra đường. Vừa chạy, những ngón tay ông vừa vội vã lướt qua rìa những trang sách như thể ông đang tìm kiếm một điều gì đó. Josh thoáng trông thấy những mẫu hoa
văn trang trí lộng lẫy và những hình vẽ hình học trong những trang sách dày màu vàng khi cậu theo Nick chạy trở vào bên trong tiệm sách.
Nick và Josh chạy vào ngay đúng lúc tên Golem to lớn chạm vào Perry. Và nổ tung.
Một thứ bột lổn nhổn sạn tràn ngập thinh không và chiếc áo choàng nặng nề màu đen bị quăng mạnh xuống nền nhà. Chỉ trong giây phút, một cơn gió lốc ào tới, thổi cuộn tung lớp bụi và cuốn chúng đi xa.
Nhưng sự có mặt thình lình của Nick và Josh ở trong căn phòng làm cho Perry mất tập trung. Bà hơi xoay người lại... và chớp lấy giây phút xao lãng đó, Dee giơ tay trái lên ngang mắt và ném một quả banh pha lê nhỏ gọn ra phía giữa phòng.
Tất cả diễn ra hệt như mặt trời đang nổ tung ngay giữa căn phòng.
Ánh sáng thay đổi một cách kỳ lạ. Những tia sáng chói lòa sắc nhọn bao phủ toàn bộ căn phòng, và đi cùng với làn sóng ánh sáng chói lóa đó là mùi hôi thối đến ngạt thở: mùi tóc cháy và thức ăn cháy khét, mùi kim loại và lá cây nấu chảy pha trộn với mùi dầu diesel cay xè gay gắt.
Josh thoáng nhìn thấy chị gái mình ngay khi Dee vừa ném quả banh ra. Cậu được che phủ một phần đằng sau Nick và Perry, mà cả hai giờ đây đang cúi sát xuống nền nhà bởi thứ ánh sáng chói lòa. Những hình ảnh trước mắt Josh giờ đây như là những hình đen trắng trong một chiếc kính vạn hoa khi ánh sáng chói lòa quét ngang đôi mắt cậu. Cậu trông thấy Nick thả cuốn sách màu đồng xuống sàn nhà... cùng với hai bóng đen vây quanh Perry và cậu mơ hồ nghe tiếng thét của bà... Cậu cũng trông thấy Dee chộp lấy cuốn sách với những âm thanh đắc thắng trong khi Nick đang mò mẫm loạng choạng trên sàn nhà.
“Ông đã thua, Nicholas,” Dee rít lên khe khẽ, “như là ông vẫn luôn luôn thua cuộc. Bây giờ, tôi phải lấy đi những thứ mà ông quý nhất: bà vợ yêu quý Perenelle và cuốn sách của ông.”
Josh cử động trước cả khi cậu kịp nhận thấy điều đó. Cậu tiến thẳng đến chỗ của Dee và chụp lấy gã đàn ông nhỏ bé đó trong nỗi ngạc nhiên cao độ. Dù chỉ mới mười lăm, Josh đã rất cao lớn so với tuổi: cậu đủ cao lớn để làm tiền vệ cho đội bóng đá. Cậu đánh Dee gục xuống sàn nhà, văng cả cuốn sách ra ngoài trong hơi thở hào hển. Josh cảm thấy chiếc bìa cứng bằng kim loại của cuốn sách ngay dưới những ngón tay mình và cậu chộp lấy nó - vừa đúng
khi cậu bị nhấc bổng lên khỏi nền nhà và bị quăng mạnh về phía góc phòng. Cậu ngã đè lên trên một đống sách. Những đốm đen và tia sáng màu cầu vồng nhảy múa tán loạn mỗi khi cậu chớp mắt.
Hình dáng xám ngoét của Dee hiện ra lù lù sát gần hơn trước mắt cậu, rồi bàn tay đeo găng của ông ta chạm đến cuốn sách đang nằm đó. “Đây là cuốn sách của ta.”
Josh giữ chặt cuốn sách, nhưng Dee lấy nó ra khỏi tay cậu một cách đơn giản.
“Ông. Hãy. Để. Em. Tôi. Yên.” Sophie Newman dùng chiếc chổi đánh mạnh sáu lần vào lưng Dee, mỗi nhát tương ứng với mỗi chữ trong câu nói.
Dee trố mắt nhìn cô. Một tay cầm chặt cuốn sách, một tay còn lại của ông ta đỡ lấy chiếc chổi. Miệng ông ta lẩm bẩm một từ gì đó, và ngay lập tức cây chổi khô queo rồi vỡ vụn thành bột nhão trong tay Sophie. “Mi thật may mắn vì ta đang ở trong tâm trạng vui vẻ hôm nay,” ông ta thì thầm, “còn nếu không thì ta sẽ làm giống như vậy với chính mi.” Rồi Dee và hai tên Golem còn lại biến ra khỏi tiệm sách bị tàn phá xác xơ, mang theo Perry Fleming và đóng sầm cánh cửa ra vào. Một khoảng im lặng dài dằng dặc trôi qua và rồi chiếc kệ sách nguyên vẹn còn lại đổ ầm xuống sàn nhà.
Chương 4
“Theo cháu thì chúng ta không thể bàn đến chuyện liên lạc với cảnh sát được.” Sophie Newman đứng dựa vào một giá sách lung lay và lấy hai tay ôm lấy thân mình, cố gắng kiềm chế để không run lên bần bật. Cô ngạc nhiên khi nghe giọng mình vang lên đầy vẻ bình tĩnh và hợp lý. “Chúng ta sẽ phải nói với họ là Perry vừa mới bị bắt cóc...”
“Perry chưa gặp nguy hiểm gì đâu.” Nick Fleming ngồi trên bậc thấp của một chiếc thang ngắn. Ông đang đưa tay ôm lấy đầu và hít thở sâu, thỉnh thoảng lại ho khúc khắc để làm sạch phổi mình khỏi đám bụi và vụn gỗ. “Nhưng cháu nói đúng, chúng ta sẽ không tìm đến cảnh sát.” Ông cố nở một nụ cười nhợt nhạt. “Chú không biết chắc về những gì chúng ta nên nói với cảnh sát để làm cho họ nắm bắt được tình hình và tin lời chúng ta.”
“Cháu cũng không chắc là ngay chúng ta có thể hiểu và tin được,” Josh nói. Cậu đang ngồi trên chiếc ghế còn nguyên vẹn duy nhất còn lại trong tiệm sách. Dù không bị gãy một chiếc xương nào, cả người cậu trầy xước và thâm tím và cậu biết rằng những vết bầm này sẽ trở nên thâm tím một cách tệ hại chỉ trong vài ngày tới. Lần gần đây nhất mà cậu cảm thấy “nỗi đau bầm tím” đó là khi cậu bị một hậu vệ của đội đá banh qua mặt. Thực sự, cảm giác rất đau đớn. Ít ra thì khi anh chàng hậu vệ va vào cậu, cậu biết ngay là điều gì đang xảy ra. Một cảm giác rất mạnh!
“Chú nghĩ là rất có thể gas đã bị rò rỉ và tràn vào cửa tiệm,” Nick nói một cách chăm chú, “và tất cả những gì mà chúng ta trải qua và chứng kiến không có gì ngoài một chuỗi những ảo giác cả.” Ông ngừng lại, lần lượt liếc nhìn phản ứng của Sophie và Josh.
Cặp chị em sinh đôi ngẩng đầu lên và nhìn ông. Nét mặt của chúng đồng loạt biểu lộ sự nghi ngờ. Những đôi mắt xanh sáng vẫn còn mở to vì choáng váng. “Không thỏa đáng,” cuối cùng thì Josh nói.
“Rất không thỏa đáng,” Sophie đồng tình.
Nick nhún vai. “Thực sự, chú nghĩ đó là một lời giải thích khá ổn thỏa. Nó giải thích cho những mùi hôi, vụ nổ trong cửa tiệm và bất cứ... bất cứ chuyện khác thường kỳ lạ nào mà hai đứa nghĩ rằng mình đã trông thấy,” ông kết thúc câu nói một cách vội vã.
Người lớn, Sophie đã đưa ra kết luận từ lâu, họ thật tệ khi cố tìm cách bịa đặt ra những lý do nghe có vẻ thỏa đáng để che phủ cho một sự thật kinh khủng nào đó. “Tụi cháu đã không hề tưởng tượng ra những thứ đó,” cô nói một cách rắn rỏi. “Tụi cháu đã không hề tưởng tượng ra bọn Golem.”
“Bọn gì?” Josh hỏi.
“Mấy gã đàn ông to lớn chính là Golem; bọn họ được làm bằng bùn đất,” chị gái cậu nói. “Perry đã nói với chị.”
“Ồ, bà ấy đã nói thật sao?” Flamel thì thào. Ông nhìn quanh tiệm sách tan hoang và khẽ lắc đầu. Chỉ trong vòng bốn phút, tất cả đã biến thành rác rưởi. “Chú rất ngạc nhiên vì hắn đã mang bọn Golem đến nơi đây. Thường thì Golem rất dễ bị tan rã ở những nơi có khí hậu ấm áp. Nhưng bọn họ phục vụ cho mục đích của hắn ta. Hắn đã lấy được cái mà hắn muốn và quyết đi tìm.”
“Cuốn sách?” Sophie hỏi. Cô đã thoáng thấy cuốn sách nơi tay Josh trước khi gã đàn ông nhỏ thó lấy nó đi. Mặc dù cô đang đứng trong một cửa tiệm chất đầy sách, và cha của hai chị em cô có cả một thư viện đầy sách cổ, cuốn sách đó trông khác hẳn những cuốn cô từng trông thấy. Nó trông như được bọc bởi một lớp kim loại mờ.
Fleming gật đầu. “Hắn ta đã tìm kiếm nó suốt một thời gian dài,” ông nói thì thầm, đôi mắt xanh xao không màu của ông ánh lên nét trống vắng xa xôi, “một thời gian rất dài.”
Josh chậm chạp đứng lên, lưng và vai cậu đau nhừ. Cậu chìa ra hai trang sách nhàu nát về phía Nick. “Ồ, thật sự ông ta đã không lấy được toàn bộ cuốn sách. Khi ông ta giật cuốn sách ra khỏi tay cháu, cháu nghĩ là cháu phải giữ lại một cái gì đó.”
Fleming đón lấy những trang giấy từ tay Josh với một tiếng reo khe khẽ. Cúi sát xuống sàn nhà, ông phủi sạch những cuốn sách bị xé rách cùng các kệ gỗ gãy vụn ra xa và đặt hai trang giấy sát cạnh nhau trên mặt sàn. Nhữg ngón tay dài của ông run lên nhè nhẹ khi ông vuốt ve nhẹ nhàng lên bề mặt những trang giấy. Cặp sinh đôi quỳ xuống sàn nhà ngay cạnh bên ông, đôi mắt chúng dán chặt vào hai trang giấy... và chúng cố gắng nắm bắt những gì đang diễn ra ngay trước mắt mình.
“Và tất nhiên là chúng ta không hề tưởng tượng ra cái này,” Sophie thì thầm, cô dùng ngón tay trỏ sờ lên trang sách.
Mỗi trang sách dày có chiều rộng khoảng 16 cm và chiều dài khoảng 24
cm và có vẻ như được làm bằng da nén. Những thớ sợi và gân lá vẫn hiện rõ ràng trên bề mặt giấy và cả hai trang giấy đều đầy ắp những chữ viết gai góc, nhiều góc cạnh. Chữ cái đầu tiên bên phía góc trái ở trên cùng của mỗi trang được tô điểm đẹp đẽ bằng mực đỏ và vàng óng ánh trong khi các chữ còn lại được viết bằng một loại mực đen hơi ánh đỏ.
Và những dòng chữ rõ ràng là đang chuyển động.
Sophie và Josh trố mắt nhìn những con chữ đang “bò” trên trang giấy như những con bọ hung nho nhỏ, liên tục tạo ra những ý nghĩa khác nhau. Chúng chuyển động từ những câu bằng tiếng Latin hay tiếng Anh cổ sang những biểu tượng của thời cổ đại nhưng không phải là biểu tượng của người Ai Cập hay Celtic Ogham.
Fleming thở dài. “Không, tụi con đâu có tưởng tượng ra những chuyện này,” ông nói. Ông thò tay vào phía cổ áo và lôi ra một cặp kính kẹp mũi được treo trên một sợi dây màu đen. Đây là một cặp kính không có gọng đã lỗi thời được thiết kế để người đeo đặt thẳng lên trên sống mũi. Nick dùng chiếc kính như một “vũ khí phóng đại” khi ông đặt nó dò theo những dòng chữ đang uốn éo nhảy múa. “AHA!”, ông nói.
“Có tin tốt lành gì sao?” Josh hỏi.
“Quá tuyệt vời. Vậy là hắn ta đã bỏ sót phần Hiệu triệu Cuối cùng.” Ông siết chặt bờ vai bầm tím của Josh khiến cậu nhăn nhó vì đau. “Nếu như cháu đã muốn lấy đi hai trang từ cuốn sách thì cháu không thể chọn hai trang nào tuyệt vời hơn hai trang này.” Nụ cười rộng mở dần tắt trên khuôn mặt ông. “Và khi Dee phát hiện ra sự mất mát, hắn ta sẽ trở lại, và chú dám cá chắc rằng lần trở lại này hắn sẽ không chỉ mang theo những gã Golem không đâu.”
“Gã đàn ông xám ngoét đó là ai?” Sophie hỏi. “Perry cũng gọi ông ta là Dee .”
Thu lượm lại những trang sách, Nick đứng lên. Sophie quay sang nhìn ông và cô nhận ra rằng ông đột nhiên trông già nua và mệt mỏi, mệt mỏi đến mức không thể tin được. “Người đàn ông xám ngoét đó là Tiến sĩ John Dee, một trong những người đàn ông đầy quyền lực và nguy hiểm nhất thế giới.”
“Cháu chưa bao giờ nghe nói về ông ta,” Josh nói.
“Có một điều luôn tồn tại trong thế giới hiện đại này nhưng chẳng có ai biết đến, đó chính là quyền năng thực sự. Dee là một nhà giả kim, một pháp sư, một phù thủy và là một thầy đồng gọi hồn, và tất cả những thứ đó đều rất
khác nhau.”
“Ma thuật?” Sophie hỏi.
“Em nghĩ rằng những cái đó không phải là ma thuật,” Josh nói một cách mỉa mai và rồi cậu bỗng nhiên thấy mình thật ngu ngốc, sau những gì cậu đã trải nghiệm và chứng kiến.
“Quả là cháu đã vừa chiến đấu chống lại những sinh vật tạo ra từ ma thuật: Golem là những người đàn ông được làm bằng bùn và đất ướt. Chúng được “thổi hồn” thành sinh vật sống với chỉ bằng một từ duy nhất của thần chú năng lượng ma thuật. Trong thế kỷ này, chú dám cá chắc rằng có chưa tới một nửa tá người có dịp nhìn thấy một Golem, không kể đến những ai có dịp chạm trán chúng và sống sót.”
“Có phải Dee đã “thổi hồn” vào những sinh vật này và mang chúng hòa nhập và cuộc sống quanh ta?” Sophie hỏi. “Nhưng bằng cách nào mới được?”
“Tạo ra Golem khá dễ dàng; còn câu thần chú thì xưa như trái đất. Đem sức sống đến với chúng thì khó hơn và điều khiển được chúng là một việc không thể.” Ông thở dài. “Nhưng điều đó không đúng với Tiến sĩ John Dee.”
“Ông ta là ai?” Sophie thắc mắc.
“Tiến sĩ John Dee chính là thầy Phù thủy Hoàng gia dưới triều đại của Nữ hoàng Elizabeth đệ Nhất ở Anh quốc.”
Sophie cười đến mức cả người cô khẽ rung lên, và cô không dám chắc mình có nên tin lời của Nick hay không. “Nhưng triều đại đó đã cách đây hàng thế kỷ, còn người đàn ông xám ngoét kia trông chưa đến năm mươi tuổi kia mà.”
Nick Fleming bò trên sàn nhà, lướt qua những cuốn sách cho đến khi ông tìm thấy cuốn mà ông muốn tìm. Nước Anh trong Thời đại của Elizabeth . Ông mở nó ra: trên trang sách đối diện với tấm hình của Nữ hoàng Elizabeth đệ Nhất là hình ảnh một người đàn ông có nét mặt sắc cạnh ăn mặc lỗi thời với một bộ râu hình tam giác. Dù trang phục có khác nhau, nhưng chẳng còn nghi ngờ gì nữa, đó chính là người đàn ông xám ngoét mà họ vừa đối mặt.
Sophie cầm lấy cuốn sách từ tay Nick. “Sách cho biết rằng Dee sinh năm 1527,” cô nói thì thầm. “Có nghĩa là đến lúc này đây ông ta đã gần năm trăm tuổi rồi.”
Josh đến đứng bên cạnh chị gái. Cậu nhìn chăm chú vào tấm hình, và rồi
nhìn quanh tiệm sách. Nếu cậu hít thở thật sâu, cậu vẫn có thể cảm nhận được mùi vị kỳ dị của... ma thuật. Đó là những gì mà cậu vẫn luôn ngửi thấy - không phải là bạc hà và trứng thối, mà là mùi của ma thuật. “ Dee biết chú,” cậu nói, “ông ta biết chú rất rõ,” cậu nói thêm.
Fleming đi vòng quanh tiệm sách, nhặt lấy những cuốn sách cũ xưa và lại quăng chúng rơi trên sàn nhà. “Ồ, hắn biết chú mà,” ông nói. “Hắn cũng biết cả Perry. Hắn biết tụi chú từ rất lâu rồi... rất lâu rồi.” Ông nhìn hai đứa trẻ, đôi mắt gần như không màu của ông bây giờ trông tối tăm và lo lắng. “Bây giờ thì hai đứa cháu đã vào cuộc, thật đáng tiếc. Giai đoạn của những lời nói dối và sự lẩn tránh đã qua rồi. Nếu hai cháu muốn sống sót, hai cháu sẽ cần phải biết sự thật...”
Josh và Sophie đưa mắt nhìn nhau. Tự nhiên cả hai cô cậu bé đều thốt lên cụm từ, “Nếu hai cháu muốn sống sót...”
“Tên thật của chú là Nicholas Flamel. Chú sinh ra tại Pháp vào năm 1330. Tên thật của Perry là Perenelle: cô ấy lớn hơn chú 10 tuổi. Nhưng đừng bao giờ nói với cô ấy là chú đã nói điều này nhé,” ông nói một cách vội vàng.
Josh cảm thấy bụng mình co thắt và sôi lên ùng ục. Cậu sắp nói không thể được và cười phá lên và cảm thấy bị quấy rầy vì câu chuyện hoang đường của Nick. Nhưng cậu bị thâm tím đầy mình và bị quăng mạnh ngang qua căn phòng bởi... bởi cái gì? Cậu nhớ lại rằng một tên Golem đã tiến đến cạnh Perry - Perenelle - và lập tức hắn đã bị tan rã bởi sức mạnh từ bà.
“Chú là... là gì?” Sophie hỏi câu hỏi đã nằm sẵn trên môi hai đứa. “Chú và cô Perenelle là gì?”
Nick mỉm cười, nhưng nụ cười trông lạnh lẽo không một chút hài hước và trong khoảnh khắc, ông có nụ cười lành lạnh giống như Dee . “Chúng tôi là huyền thoại,” ông nói đơn giản. “Đã có một thời - rất lâu rồi - cô chú là những người giản dị, nhưng rồi chú mua một cuốn sách, Cuốn sách của Pháp sư Abraham, thường được gọi là Codex (Bộ luật chép tay). Từ giây phút đó, mọi chuyện thay đổi. Perenelle thay đổi. Chú thay đổi. Chú trở thành Nhà Giả kim.
Chú trở thành Nhà Giả kim vĩ đại nhất mọi thời đại, và được rất nhiều vua chúa, hoàng tử, hoàng đế và ngay cả Đức Giáo hoàng tìm kiếm. Chú khám phá ra bí mật của hòn đá của nhà triết gia chôn giấu sâu kín trong cuốn sách ma thuật cổ xưa đó. Chú học được cách biến những kim loại thông thường thành vàng, biến những viên đá bình thường thành những viên đá quý. Nhưng
hơn tất cả, trên tất cả, chú đã tìm ra công thức pha chế giữa dược thảo và các câu thần chú để từ đó giữ mình tránh xa khỏi bệnh tật và cái chết. Perenelle và chú trở thành những kẻ bất tử.” Ông cầm những trang sách bị xé trên tay. “Bây giờ tất cả những gì còn lại của Codex là hai trang giấy này. Dee và những kẻ giống như hắn đã lùng sục Cuốn sách của Pháp sư Abraham trong nhiều thế kỷ. Giờ đây bọn họ đã có nó. Và có cả Perenelle nữa,” ông nói thêm một cách cay đắng.
“Nhưng chú đã nói là Cuốn sách sẽ không hiệu quả nếu thiếu đi những trang giấy này mà,” Josh nhắc ông một cách nhanh chóng.
“Đúng là như vậy. Có nhiều thứ trong cuốn sách làm cho Dee phải săn lùng nó trong nhiều thế kỷ, nhưng những trang giấy này mới chính là giá trị sống còn,” Nick đồng ý. “ Dee sẽ sớm trở lại để lấy hai trang giấy.”
“Vẫn còn một điều gì khác nữa, phải không chú?” Sophie vội hỏi. “Một điều gì đó khác.” Cô biết rằng Nick vẫn giữ lại một cái gì đó thay vì nói hết tất cả. Người lớn hay làm như vậy. Cha mẹ của cô đã “nhịn” đến hàng tháng trời trước khi nói cho Josh và cô biết rằng cả hai đứa sẽ được trải qua kỳ nghỉ hè ở San Francisco .
Nick liếc nhìn cô với tia nhìn sắc bén và một lần nữa ánh nhìn ấy gợi cô nhớ đến tia mắt lạnh lùng của Dee trước đó: có một cái gì đó thật lạnh lẽo và tàn nhẫn ở trong đó. “Đúng, vẫn còn thêm một điều nữa,” ông nói ngập ngừng. “Không có cuốn sách, cả chú và cô Perenelle sẽ già đi. Công thức của sự bất tử phải được pha chế lại trong mỗi tháng. Chỉ sau một vòng tròn trăng, cả chú và cô đều sẽ héo hắt và chết. Và nếu tụi chú chết đi, thì bọn quỷ dữ mà bọn chú đã chống lại trong rất nhiều năm sẽ chiến thắng. Giống loài Elder sẽ ngự trị và chiếm hữu trái đất này thêm lần nữa.”
“Giống loài Elder?” Josh hỏi, giọng nói của cậu nghe vút cao và rạn vỡ. Cậu khó nhọc nuốt nước bọt, nghe tim mình đập thình thịch trong lồng ngực. Bỗng nhiên, một buổi chiều thứ Năm bình thường bỗng trở nên kỳ lạ và khủng khiếp với những kết cục tàn khốc. Cậu đã từng chơi rất nhiều game trên máy vi tính, đọc nhiều sách tiểu thuyết kỳ ảo và trong tất cả những thứ đó, Elder luôn có nghĩa là một giống loài cổ xưa và nguy hiểm. “Elder, có phải là già không?”
“Rất già,” Flamel gật đầu.
“Ý của chú là sẽ còn có rất nhiều kẻ giống như Dee hay như chú?” Josh nói, và cậu khẽ nhăn mặt khi bị Sophie đá vào hai ống quyển.
Flamel quay nhìn về phía Josh, đôi mắt không màu của ông bây giờ vụt tối sầm vì giận dữ. “Có nhiều kẻ giống như Dee, đúng, và nhiều kẻ giống như ta, nhưng Dee và ta không giống như nhau. Chúng ta chưa bao giờ giống nhau,” Flamel nói thêm đầy cay đắng. “Chúng ta đã chọn lựa những con đường khác nhau, và hướng đi của Dee đã đưa hắn ta đến những nẻo đường thật tăm tối. Hắn cũng bất tử, mặc dù ta không biết bằng cách nào mà hắn giữ được tuổi trẻ. Nhưng cả hai chúng ta đều là người.” Ông quay về phía hộc đựng tiền đang nằm mở nắp trên sàn nhà và bắt đầu lấy tiền ra. Khi ông quay sang nhìn hai chị em sinh đôi, chúng giật mình khi nhìn thấy vẻ nhẫn tâm trên nét mặt của ông. “Những kẻ mà Dee phục vụ không phải và không bao giờ xuất thân từ loài người.” Nhét những đồng tiền vào túi, ông chụp lấy một chiếc áo khoác bằng da nằm lăn lóc trên sàn nhà. “Chúng ta phải ra khỏi đây thôi.”
“Chú sẽ đi đâu? Chú sẽ làm gì?” Sophie hỏi.
“Còn bọn cháu thì sao?” Josh hoàn tất câu hỏi của bà chị, như cách cô bé vẫn thường tiếp lời cậu.
“Đầu tiên chú phải đưa hai cháu đến một nơi chốn an toàn trước khi Dee nhận ra rằng có hai trang sách quan trọng đã bị mất. Rồi chú sẽ tìm kiếm Perenelle.”
Cặp sinh đôi nhìn nhau. “Tại sao chú phải đưa tụi cháu đến một nơi an toàn...?” Sophie hỏi.
“Một khi Dee đã phát hiện ra cuốn sách chưa hoàn hảo, hắn sẽ trở lại để tìm kiếm các trang bị mất. Và chú đảm bảo rằng, hắn sẽ không để cho bất kỳ nhân chứng nào sống sót trên trái đất này.”
Josh cười phá lên, nhưng tiếng cười tắt lịm trong cổ họng cậu bé khi cậu nhận ra rằng chị mình thậm chí không hề nhếch mép. “Chú nói là...” cậu liếm đôi môi đột nhiên khô khốc. “Chú nói là hắn sẽ giết hai đứa cháu?”
Nick Fleming nghiêng đầu qua một bên, vẻ chăm chú. “Không,” cuối cùng ông lên tiếng, “không phải là giết bọn cháu.”
Josh thở ra với vẻ nhẹ nhõm.
“Tin chú đi,” Fleming nói tiếp. “ Dee có thể làm những việc kinh khủng hơn nhiều đối với hai đứa cháu. Kinh khủng hơn rất nhiều.”
Chương 5
Hai chị em Sophie đứng nơi vỉa hè bên ngoài tiệm sách, những mảnh thủy tinh rơi xuống từ mấy ô cửa sổ vỡ kêu lạo xạo dưới chân chúng. Hai chị em nhìn Nick rút ra một chiếc chìa khóa. “Nhưng chúng ta không thể bỏ đi ngay được,” Sophie nói dứt khoát.
Josh gật đầu. “Chúng ta sẽ không đi bất cứ nơi đâu hết”.
Nick Fleming - hay còn gọi là Flamel như là chúng bắt đầu nghĩ về ông với cái tên mới đó - đút chìa khóa vào lỗ khóa cửa và xoay vòng cho nó kêu lách cách. Phía bên trong tiệm sách, họ có thể nghe thấy tiếng những cuốn sách trượt dài trên nền nhà. “Chú thực sự yêu cửa tiệm này,” Flamel nói nhỏ, “nó gợi chú nhớ đến công việc đầu tiên chú làm trong cuộc đời.” Ông liếc nhìn Sophie và Josh. “Hai cháu không còn chọn lựa nào khác nữa. Nếu muốn sống sót cho đến hết ngày hôm nay, hai cháu phải rời khỏi nơi đây ngay tức khắc.” Rồi ông quay đi, khoác vào người chiếc áo da sờn cũ trong lúc ông băng qua đường để tiến đến tiệm Tách Cà phê. Hai chị em Sophie nhìn nhau, rồi vội vã chạy theo ông.
“Cháu có chìa khóa để mở cửa không?”
Sophie gật đầu. Cô lôi ra chùm hai chìa khóa được dính nơi chiếc móc khóa có in hình chiếc cầu Cổng Vàng nổi tiếng của San Francisco . “Nhìn nè, nếu Bernice trở về và thấy tiệm đã đóng cửa, bà ấy có thể sẽ gọi điện cho cảnh sát hay làm một điều gì đó...”
“Ý hay đấy,” Flamel nói. “Hãy để lại một mảnh giấy,” ông nói với Sophie, “viết một câu gì ngắn gọn thôi - là cháu có việc đột xuất phải đi gấp, vì một việc hết sức cấp bách. Nói là cháu cùng đi với chú. Viết vội vào, trông như có vẻ cháu đã phải đi một cách vội vã. Mà cha mẹ cháu có vẫn còn làm công việc khai quật ở Utah không?” Cha mẹ của chị em Sophie là những nhà khảo cổ học, hiện tại họ đang làm việc cho trường Đại học San Francisco .
Sophie gật đầu. “Họ sẽ còn ở đó ít nhất là trong sáu tuần lễ nữa.”
“Hiện tại tụi cháu vẫn đang ở với dì Agnes ở Pacific Heights ,” Josh nói thêm. “Dì Sầu thảm (Agony) thì đúng hơn.”
“Tụi cháu không thể khi không mà biến mất. Dì Agnes hẳn đang chờ tụi
cháu về nhà trong bữa ăn tối,” Sophie nói. “Chỉ cần về muộn năm phút thôi, dì sẽ làm nhặng xị lên. Tuần trước đó, khi chiếc xe điện bị hỏng và tụi cháu về nhà trễ hơn lệ thường một tiếng đồng hồ, dì đã gọi điện thoại cho ba mẹ tụi cháu trước khi hai đứa ló mặt về nhà.” Dì Agnes năm nay đã tám mươi tư tuổi và mặc dù bà hay làm cho hai đứa trẻ nhiều phen rối trí về sự ồn ào om sòm từ những chuyện không đâu, chúng vẫn rất thích bà.
“Vậy thì tụi cháu cũng cần phải nghĩ ra lý do để giải thích cho bà dì đó nữa,” Flamel nói một cách thẳng thắn, và ông bước vào tiệm cà phê vắng vẻ. Sophie theo sát sau lưng ông.
O O O
Josh thoáng chần chờ trước khi cậu bước vào không gian mát mẻ tràn ngập các mùi thơm ngọt ngào của tiệm Tách Cà phê. Cậu đứng thẫn thờ nơi vỉa hè, ba lô đeo trên vai, đầu nghiêng ngó lên xuống. Nếu không để ý đến những vụn kính vỡ nằm tung tóe lấp lánh trên vỉa hè của tiệm sách, mọi vật chiều nay trông cực kỳ bình thường. Chỉ là một buổi chiều bình thường như mọi buổi chiều khác trong tuần. Con đường vắng lặng và im ắng, không khí nóng bức nhiệt độ của tháng Sáu, và đâu đây thoang thoảng hơi thở của đại dương. Xa xa phía bên kia vịnh, vượt quá bến cảng Fisherman, vọng đến hồi còi dài của một con tàu. Âm thanh thăm thẳm của tiếng còi nghe lạc lõng và cô đơn trong khoảng không. Mọi vật trông cũng chẳng có gì khác biệt so với nửa giờ đồng hồ trước đó.
Và rồi...
Và rồi chẳng có gì là như trước nữa. Sẽ chẳng bao giờ mọi thứ còn y nguyên như trước. Chỉ trong vòng ba mươi phút vừa qua, thế giới vốn trật tự của Josh đã đổi thay mãi mãi, không bao giờ có thể trở lại như xưa. Cậu là một học sinh cấp hai rất bình thường, không quá thông minh, nhưng cũng không quá ngu ngốc. Cậu chơi bóng đá, hát dở tệ trong ban nhạc của mấy đứa bạn họp lại, có để ý đến một vài cô gái nhưng chưa hề có một cô bạn gái thật sự nào. Cậu chơi những trò chơi thịnh hành trên máy tính, cực khoái những trò đầy tính hành động như Quake và Doom và Unreal Tournament, nhưng lại không thể xoay xở với trò chơi đua xe và đã thua cuộc trong trò Myst. Cậu thích xem Simpsons và có thể đọc thuộc lòng hàng đống câu hay ho trong đó. Cậu thật sự mê phim Shrek mặc dù thấy nó xạo kinh khủng. Và cậu cho rằng phim Batman mới xem cũng được trong khi X-Men thì trên cả tuyệt vời. Thậm chí cậu yêu thích anh chàng Siêu nhân mới mặc dù thiên hạ chê bai
nhân vật Superman mới này ầm ĩ. Tóm lại, cậu là một người rất bình thường.
Nhưng những cô cậu bé mới lớn bình thường không thể chứng kiến cuộc chiến đấu đầy ma thuật giữa hai thầy phù thủy cổ xưa với năng lực phi thường.
Làm gì có ma thuật trên thế giới này. Ma thuật chỉ là những kỹ xảo trên phim. Ma thuật là những màn biểu diễn trên sân khấu khi những con thỏ và chim bồ câu và thỉnh thoảng cả cọp nữa bỗng nhiên xuất hiện hay là khi David Copperfield cưa người ta ra làm đôi và bay qua đầu đám đông khán giả. Chẳng có gì là ma thuật thực sự trên cõi đời này.
Nhưng rồi cậu làm sao lý giải về những chuyện lạ lùng vừa mới xảy ra trong tiệm sách? Cậu vừa mới tận mắt nhìn thấy những chiếc giá sách trở nên mục nát, những cuốn sách tan ra thành bột giấy. Cậu vừa tận mũi ngửi thấy mùi trứng thối bay ra từ những câu thần chú của Dee và mùi bạc hà thanh khiết khi Fleming - hay Flamel - thực hiện ma thuật của mình.
Josh Newman run lên trong ánh mặt trời chói chang và chạy vào bên trong tiệm Tách Cà phê. Cậu mở ba lô và lấy ra chiếc laptop cũ. Cậu cần sử dụng mạng lưới truy cập Internet không dây có trong tiệm cà phê để truy tìm dấu vết của những cái tên cậu tò mò muốn biết: Tiến sĩ John Dee, Perenelle và đặc biệt là Nicholas Flamel.
O O O
Sophie viết vội một vài dòng nhắn gửi trên mặt sau của một tấm khăn giấy, rồi cô vừa gặm đuôi bút chì vừa đọc lại mảnh giấy.
Bà Fleming không được khỏe. Gas bị rò rỉ trong cửa tiệm. Đã đi bệnh viện. Ông Fleming đi cùng tụi cháu. Mọi việc khác đều OK. Sẽ gọi lại sau.
Khi Bernice trở về và nhận thấy cửa tiệm đóng cửa sớm hơn so với thường ngày, chắc chắn bà sẽ rất không hài lòng. Sophie đoán là rất có thể cô sẽ bị mất việc. Thở dài, cô ký tên vào mảnh giấy với một nét bay bướm kéo dài rồi dính nó vào quầy thu ngân.
Nicholas Flamel nhìn qua vai cô và đọc mảnh giấy. “Rất tốt, và nó cũng giải thích vì sao tiệm sách đóng cửa.” Flamel nhìn về phía Josh khi đó đang gõ như điên trên bàn phím của chiếc máy tính xách tay. “Đi thôi!”
“Cháu chỉ muốn check mail thôi,” Josh thì thầm, ngắt điện khỏi máy và đóng nắp máy lại.
“Vào lúc này ư?” Sophie hỏi một cách hoài nghi.
“Cuộc sống cứ trôi đi. Và email không chờ đợi ai.” Cậu cố nở một nụ cười nhưng không thể.
Sophie chụp lấy túi xách của mình và chiếc áo khoác jeans kiểu cổ điển, vừa nhìn lướt nhanh qua toàn bộ tiệm cà phê. Bỗng nhiên cô nghĩ rằng cô sẽ không còn gặp lại khung cảnh dấu yêu này trong một thời gian rất dài, nhưng dù sao thì ý nghĩ đó xem ra cũng thật kỳ quặc. Cô tắt đèn, dẫn em trai và Nick Fleming đi ra ngoài qua cánh cửa lớn. Rồi cô đóng cửa lại, đút chìa khóa vào ổ và thả xâu chìa khóa vào trong hộp thư.
“Bây giờ mình sẽ làm gì?” cô hỏi.
“Bây giờ chúng ta sẽ cầu viện đến một sự giúp đỡ và đi trốn, cho đến lúc chú xác định rõ sẽ làm gì với hai cháu,” Flamel mỉm cười. “Tụi chú rất giỏi trong việc trốn chạy; Perry và chú đã từng làm chuyện đó trong hơn một nửa thiên niên kỷ.”
“Còn Perry thì sao hả chú?” Sophie hỏi. “Liệu Dee có... làm hại cô ấy không?” Cô biết và bắt đầu thích người phụ nữ cao, thanh nhã trong một vài tuần vừa qua khi bà đến tiệm cà phê. Cô không muốn bất cứ chuyện gì xảy đến với bà.
Flamel lắc đầu. “Hắn ta không thể. Cô ấy quá mạnh mẽ. Chú chưa bao giờ học về Nghệ thuật Phù thủy nhưng Perry nghiên cứu rất sâu về nó. Hiện tại tất cả những gì Dee có thể làm đó là canh giữ cô ấy, ngăn cản không cho cô ấy sử dụng sức mạnh của mình. Nhưng chỉ trong vài ngày tới cô ấy sẽ bắt đầu già và yếu đi. Có thể là trong một tuần, chắc chắn là trong hai tuần, hắn có thể dùng phép thuật để khuất phục cô ấy. Từ đây đến đó, hắn sẽ rất cảnh giác. Hắn sẽ giam giữ cô ấy dưới các câu thần chú Canh giữ (Wards) và Con dấu Niêm phong (Sigils)...” Flamel nhìn thấy vẻ bối rối hiện lên trên nét mặt của Sophie. “Đó là những rào cản ma thuật,” ông giải thích. “Hắn sẽ chỉ tấn công một khi hắn biết chắc mình sẽ chiến thắng. Nhưng trước tiên hắn sẽ cố khám phá kiến thức rộng lớn đầy các bí mật nhà nghề của cô ấy. Khả năng tìm hiểu và nghiên cứu kiến thức luôn là thế mạnh vượt trội của Dee ... và cũng là điểm yếu của hắn.” Ông lơ đãng vỗ nhẹ túi áo khoác. “Perry của chú có thể chăm sóc chính bản thân mình. Nhớ có lần chú đã kể với cháu rằng cô ấy từng đối mặt với một cặp Nữ yêu Hy Lạp.”
Sophie gật đầu, mặc dù cô không hề biết cặp Nữ yêu Hy Lạp đó là gì.
Khi đi bộ dọc theo con đường, Flamel chợt nhớ ra cái mà ông đang tìm kiếm: một cặp kính râm tròn nhỏ. Ông đeo chúng vào, thọc hai tay vào túi của chiếc áo khoác da sờn cũ và bắt đầu huýt gió một cách ngẫu hứng như thể ông hoàn toàn không quan tâm gì đến thế giới này. Ông liếc nhìn ra sau. “Nhanh lên nào.”
Hai chị em sinh đôi nhìn nhau một cách trống rỗng, rồi chúng vội chạy theo ông.
“Em đã tìm thấy thông tin về chú ấy ở trên mạng,” Josh thì thào, liếc nhanh về phía chị mình.
“À thì ra đó là những gì em làm. Chị không nghĩ là mấy cái email lại quan trọng đến mức đó.”
“Tất cả những gì chú ấy nói đều được em tìm thử: thông tin về chú ấy ở trên Wikipedia và có gần hai trăm ngàn kết quả về chú ấy trên Google. Có đến hơn mười triệu kết quả về John Dee. Ngay cả Perenell cũng nằm trên mạng và nhiều thông tin đề cập đến cuốn sách và tất cả mọi thứ khác. Mạng Internet cũng cho biết là khi chú Flamel chết, rất nhiều người đã đến đào bới mộ của chú ấy để tìm của cải quý giá và họ phát hiện ra mộ trống rỗng - không có ai và cũng chẳng có đồ vật gì. Hình như, nhà của chú ấy vẫn ở Paris .”
“Trông chú ấy chẳng có vẻ gì giống một thầy phù thủy bất tử cả,” Sophie nói nhỏ.
“Em không chắc là mình biết một phù thủy thì trông như thế nào,” Josh thì thầm. “Hai phù thủy duy nhất mà em biết đó là Penn và Teller.”
“Chú không phải là thầy phù thủy,” Flamel nói mà không nhìn hai đứa. “Chú là nhà giả kim, một người đàn ông của khoa học, mặc dù đó không phải là khoa học mà hai cháu từng quen thuộc.”
Sophie cố đi nhanh để bắt kịp Flamel. Cô vươn tay chạm lấy tay của Flamel để làm cho ông đi chậm lại, thế nhưng một luồng điện bỗng chạy thẳng vào các đầu ngón tay cô. “Á... .” Cô vội rút mạnh tay lại, các ngón tay nóng ran. Chuyện gì tiếp theo đây?
“Chú rất tiếc,” Flamel giải thích. “Đó chính là tác động còn lại của... của những gì mà cháu gọi là ma thuật. Những tinh hoa phát tiết ra ngoài của chú - luồng điện tỏa ra quanh cơ thể chú - vẫn còn. Nó đã phản ứng khi nó chạm vào luồng điện của cháu.” Ông mỉm cười, để lộ hàm răng nhỏ đều hoàn hảo.
“Điều đó cũng có nghĩa là luồng điện của cháu cũng rất mạnh.” “Luồng điện, hay tinh hoa phát tiết, đó là gì?”
Flamel sải chân trên vỉa hè một vài bước mà không nói gì, rồi ông quay sang chỉ về phía một chiếc cửa sổ. Từ TATTOO (hình xăm) nổi bật trong ánh sáng huỳnh quang. “Nhìn thấy không... có một quầng sáng lấp lánh bao quanh những chữ cái?”
“Cháu thấy rồi,” Sophie gật đầu, hơi liếc mắt về hướng Flamel chỉ. Mỗi một chữ cái đều được tô nổi bật bằng ánh đèn vàng lấp lánh.
“Mỗi một con người đều có một quầng sáng tương tự bao quanh cơ thể. Trong quá khứ xa xưa, người ta có thể nhìn thấy nó một cách rõ ràng và gọi nó là “luồng điện”. Từ này có xuất xứ từ tiếng Hy Lạp chỉ hơi thở. Khi con người tiến hóa, phần lớn họ mất đi khả năng nhìn thấy được luồng điện. Tất nhiên là, một số khác vẫn còn khả năng này.”
Josh khịt mũi vẻ chế nhạo.
Flamel liếc nhìn ra sau qua vai mình. “Đó là sự thật. Một cặp vợ chồng người Nga là Kilians đã chụp hình được luồng điện. Đó là luồng điện bao quanh bất kỳ sinh vật sống nào.”
“Trông nó như thế nào?” Sophie hỏi.
Flamel gõ nhẹ vào cửa sổ của cửa hiệu. “Như thế này: một quầng sáng bao quanh cơ thể. Luồng điện của mỗi người đều đặc biệt, mang nhiều màu sắc khác nhau, nhiều sức mạnh khác nhau. Một số vòng sáng rực rỡ ổn định, một số rung rinh xao động, một số vòng bao quanh người, một số khác bao phủ cơ thể như chiếc bì thư. Cháu có thể rút ra nhiều điều khi quan sát luồng điện của một người: họ đang đau ốm hay không hạnh phúc, giận dữ hay sợ hãi điều gì đó.”
“Và chú có thể nhìn thấy những luồng điện đó chứ?” Sophie hỏi.
Flamel lắc đầu khiến bọn trẻ rất ngạc nhiên. “Không, chú không thể. Perry có thể nhìn thấy. Nhưng chú biết cách khơi thông và điều khiển hướng đi của năng lượng. Đó chính là những gì mà hai cháu nhìn thấy hôm nay: năng lượng thuần khiết của luồng điện.”
“Cháu nghĩ là cháu sẽ học cách làm giống như chú vậy,” Sophie nói.
Flamel liếc nhanh về phía cô. “Hãy cẩn thận vì những cái mà cháu đang ao ước. Tất cả sự sử dụng năng lượng đều có giá của nó.” Ông chìa tay ra.
Sophie và Josh bước nhộn nhịp trên còn đường vắng. Bàn tay của Fleming run lên bần bật. Và khi Sophie nhìn vào mắt ông, cô thấy chúng ngầu đỏ. “Khi sử dụng năng lượng luồng điện, cháu sẽ đốt cháy lượng calori ngang bằng với lượng calori mất đi khi chạy marathon. Hãy nghĩ việc này cũng giống như xài cạn kiệt một cục pin vậy. Chú rất nghi ngờ không biết mình còn có thể trụ được bao lâu trong cuộc chiến với Dee .”
“ Dee có mạnh giống như chú không?”
Flamel mỉm cười một cách tàn nhẫn. “Chắc chắn rồi.” Đút tay trở lại vào túi chiếc áo khoác da, ông tiếp tục nện bước trên con đường. Sophie và Josh giờ đây bước bên cạnh ông. Từ phía xa xa, chiếc cầu Cổng Vàng dần hiện ra trên những nóc nhà cao. “ Dee đã trải qua cả năm thế kỷ để phát triển sức mạnh của mình. Chú cũng trải qua ngần ấy thời gian để che giấu đi năng lượng của mình, chỉ tập trung vào một vài chuyện nhỏ chú cần phải làm để giữ cho chú và Perenelle còn sống. Dee luôn luôn đầy sức mạnh và chú thấy kinh hãi khi nghĩ rằng hắn đang rất mạnh trong lúc này.” Khi đến cuối ngọn đồi ông dừng lại, nhìn sang phải sang trái, rồi đột nhiên rẽ sang trái và thẳng tiến về hướng đường California . “Rồi sẽ có thời gian cho những câu hỏi sau. Lúc này, chúng ta cần phải đi gấp lên.”
“Chú biết Dee đã lâu chưa?” Josh nài nỉ, nhất quyết chờ đợi câu trả lời.
Nicholas Flamel mỉm cười đen tối. “John Dee là một người đàn ông trưởng thành khi chú nhận hắn vào học nghề. Thời đó, chú vẫn thường nhận học trò, và có rất nhiều người khiến chú tự hào. Chú quyết đào tạo ra một thế hệ kế tiếp bao gồm các nhà giả kim, nhà khoa học, nhà chiêm tinh học và nhà toán học. Đó sẽ là những người đàn ông và đàn bà tạo ra một thế giới hoàn toàn mới. Có lẽ Dee là người học trò xuất sắc nhất mà chú từng có. Vì vậy hai cháu có thể nói rằng chú biết Dee đã gần năm trăm năm - dẫu rằng mối quan hệ giữa chú và Dee đã trở nên không thường xuyên trong một vài thập kỷ gần đây.”
“Điều gì đã khiến ông ta trở thành kẻ thù của chú?” Sophie hỏi.
“Sự tham lam, lòng ghen tỵ... và quyển Codex, Cuốn sách của Pháp sư Abraham,” Flamel nói một cách tàn nhẫn. “Hắn đã dò tìm nó một thời gian dài, và bây giờ hắn đã có nó.”
“Không phải là có trọn vẹn,” Josh nhắc.
“Ừ, không phải là có trọn vẹn,” Flamel mỉm cười. Ông ta tiếp tục tiến
bước với hai chị em Sophie đi bên cạnh. “Khi Dee vẫn còn theo học nghề chú ở Paris , hắn khám phá ra sự tồn tại của cuốn Codex. Chú đã nhìn thấy quả tang hắn cố gắng đánh cắp cuốn sách và chính khi đó chú cũng phát hiện ra rằng hắn kết nối chính mình về phía bọn Elder Đen tối. Chú từ chối chia sẻ những bí mật trong cuốn sách với hắn. Dee và chú đã có một cuộc tranh cãi rất gay gắt. Đêm hôm đó hắn cho những sát thủ đầu tiên đến để tiêu diệt chú và Perry. Những kẻ sát thủ là người nên cô chú xử lý họ một cách dễ dàng. Đêm tiếp theo sau đó, những kẻ sát thủ không còn là người nữa. Vì thế chú và cô Perry cầm lấy cuốn sách, thu dọn ít đồ đạc và rời khỏi Paris . Từ đó hắn cứ đuổi theo cô chú mãi.”
Họ dừng lại ở một ngã tư đèn đỏ. Ba khách du lịch người Anh đang đứng đợi đèn xanh và Flamel đột nhiên im lặng. Ông liếc nhanh hai chị em Sophie ngầm ý chúng đừng nói gì cả. Đèn chuyển sang xanh và họ băng qua đường. Những khách du lịch rẽ phải. Nicholas Flamel và hai đứa trẻ rẽ sang trái.
“Cô chú đã đi đâu sau khi rời khỏi Paris ?” Josh hỏi.
“ London ,” Flamel nói vắn tắt. “ Dee suýt nữa đã bắt được cô chú ở đó vào năm 1666,” ông tiếp tục. “Hắn thả ra tên Lửa Hung tàn để săn lùng bọn chú, một sinh vật không có trí óc, rất man rợ và gần như hắn đã hủy hoại cả thành phố. Lịch sử gọi đó là Đám Cháy lớn.”
Sophie nhìn sang Josh. Chúng đều đã từng học qua về Đám Cháy lớn ở London trong phần Lịch sử Thế giới. Cô cảm thấy ngạc nhiên về thái độ bình tĩnh của mình: cô đang đứng đây, lắng nghe một người đàn ông cho biết ông ta đã hơn năm trăm tuổi, gợi nhớ lại các sự kiện lịch sử như thể là ông ta đang có mặt tại thời điểm sự kiện đó diễn ra. Và cô tin ông ta!
“Dee lại suýt bắt được tụi chú tại Paris vào năm 1763,” Flamel tiếp tục, “và thêm một lần nữa vào năm 1835, khi cô chú đang ở Rome và làm việc ở tiệm bán sách. Tiệm sách luôn luôn là nơi trú ẩn ưa thích của chú,” ông nói thêm. Ông im bặt khi họ đến gần một nhóm du khách người Nhật đang chăm chú lắng nghe người hướng dẫn du lịch ẩn mình dưới một cây dù màu vàng tươi. Khi ba người đi xa khỏi đám du khách, Flamel tiếp tục. Những sự kiện xảy ra hơn một thế kỷ rưỡi trước vẫn luôn tươi nguyên và dày vò ký ức của ông.
“Tụi chú chạy đến Ireland , nghĩ rằng hắn sẽ không bao giờ tìm ra một khi mình đã đến trốn nơi một hòn đảo nằm về phía tận cùng của châu Âu. Nhưng rồi hắn tìm ra manh mối. Hắn đã tìm cách điều khiển bọn Wights và mang
theo hai tên đi cùng hắn để lần tìm dấu vết của hai cô chú: tên của hai sinh vật này là Bệnh tật và Đói khát. Dù sao, hắn đã không làm chủ được hai sinh vật quái ác kia. Nạn đói và bệnh tật tràn ngập hòn đảo tội nghiệp: một triệu người đã chết trong Nạn đói Tàn khốc ở Ireland vào năm 1840.” Khuôn mặt của Nicholas Flamel đanh lại như một chiếc mặt nạ. “Chú hoài nghi về việc liệu Dee có bao giờ ngừng lại để nghĩ về điều đó. Hắn luôn luôn khinh miệt con người.”
Sophie liếc nhìn em mình thêm lần nữa. Qua nét mặt chăm chú của em mình, cô có thể đoán được cậu đang tập trung cao độ, cố gắng tiếp thu lượng thông tin tràn ngập. Cô biết là Josh sẽ lại muốn lên mạng để kiểm tra lại các thông tin chi tiết. “Nhưng hắn chưa bao giờ bắt được chú,” cô nói với Flamel.
“Không, cho đến hôm nay.” Ông nhún vai và mỉm cười buồn bã. “Đó là điều không thể tránh được. Trong suốt Thế kỷ Hai mươi, hắn đeo bám bọn chú ngày một gần hơn. Hắn đang trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ, và tổ chức của hắn đã kết hợp được ma thuật cổ xưa và kỹ thuật hiện đại. Perry và chú đã ẩn nấp ở Newfoundland trong một thời gian dài cho đến khi hắn thả bọn Sói Hung hãn ra săn bọn chú. Bọn chú đã trôi nổi từ thành phố này sang thành phố nọ khởi đầu từ vùng Bờ biển Đông của New York vào năm 1901 và dần dần đi về hướng Tây. Chú cho là việc bắt được cô chú đối với hắn chỉ là vấn đề thời gian mà thôi,” ông nói thêm. “Camera, video, điện thoại và mạng Internet khiến ngày nay người ta càng lúc càng khó ẩn náu hơn.”
“Quyển sách... quyển Codex mà hắn đang tìm kiếm...” Josh bắt đầu. “Cuốn sách của Pháp sư Abraham,” Flamel nói.
“Có gì đặc biệt về nó?”
Nicholas Flamel dừng lại đột ngột ở giữa vỉa hè đến nỗi cặp sinh đôi đi vượt qua ông. Chúng quay lại phía đằng sau. Người đàn ông bình thường đang giang rộng đôi cánh tay, như thể ông ta sắp cúi đầu chào. “Hãy nhìn chú. Nhìn chú mà xem! Chú già hơn cả nước Mỹ. Đó chính là điều đặc biệt của cuốn sách.” Flamel hạ giọng và nói tiếp một cách gấp gáp. “Nhưng các cháu biết không - bí mật của cuộc sống bất tử có lẽ là phần ít bí mật nhất của cuốn Codex.”
Sophie chạm tay trượt qua vai người em sinh đôi của mình và nắm lấy tay cậu. Josh siết chặt tay cô, và dù cậu không nói gì, cô vẫn biết là cậu đang hoảng sợ giống như cô vậy.
“Với cuốn Codex, Dee có thể tái sắp xếp lại và thay đổi thế giới.”
“Thay đổi ư?” Giọng của Sophie trở nên thì thào và bỗng nhiên bầu không khí nặng trĩu của tháng Sáu trở nên giá lạnh.
“Thay đổi ư, bằng cách nào?” Josh hỏi.
“Tái lập lại nó,” Flamel nói nho nhỏ. “ Dee và bọn Elder Đen tối mà hắn phục vụ sẽ tái tạo lại thế giới này giống như nó đã từng có vào thời quá khứ cổ xưa theo một cách mà không ai có thể tưởng tượng ra được. Và vai trò duy nhất mà loài người có thể tồn tại trong đó chính là nô lệ. Hay là thức ăn.”
Chương 6
Mặc dù có rất nhiều phương tiện để truyền đạt thông tin khác nhau cho phép người sử dụng được thoải mái chọn lựa, Tiến sĩ John Dee vẫn ưa thích điện thoại di động hơn tất cả. Đây là thành quả rực rỡ của thế kỷ và cũng là sự chọn lựa hàng đầu của hắn ta. Ngồi dựa lưng vào chiếc ghế bọc da êm mát của chiếc Limousine, hắn mở nắp trượt chiếc điện thoại cầm tay, hướng nó về phía Perenelle Flamel đang nằm im bất động giữa hai tên Golem đang nhỏ giọt lộp bộp, và chụp nhanh một tấm hình.
Bà Perenelle Flamel. Tù nhân của hắn. Vậy là đã có thể bắt đầu album hình ảnh của hắn được rồi đây.
Dee bấm một con số và nhấn nút gởi đi. Rồi hắn nghiêng đầu, ngắm nhìn người phụ nữ thanh nhã đang ngồi phía đối diện. Việc bắt được Perenelle là một phần thưởng phi thường của vận may đến với hắn, nhưng hắn hiểu rằng vận may đó chỉ xảy ra bởi vì Perenelle đã phung phí quá nhiều năng lượng vào việc hủy hoại tên Golem của hắn. Hắn vuốt nhẹ bộ râu mỏng hình tam giác. Hắn sẽ phải sớm tạo ra thêm vài tên Golem nữa. Hắn liếc nhìn hai tên Golem đang ngồi đối diện: chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi xuất hiện dưới ánh mặt trời mùa hè, bọn chúng đã bắt đầu rạn nứt và tan chảy. Tên Golem to lớn ngồi bên trái Perenelle đang nhỏ những giọt bùn đen quánh dưới sông xuống mặt ghế da.
Có lẽ hắn sẽ phải chọn lựa một cái gì đó khác hơn bọn Golem vào lần tới. Cái bọn vũ phu ngu đần ấy tỏ ra được việc ở những nơi có khí hậu mát mẻ, nhưng hoàn toàn không phù hợp với mùa hè nóng bức vùng biển tây. Hắn tự hỏi liệu mình có thể chế tạo ra một con ma cà rồng hay không.
Ngay chính Perenelle cũng trở thành một vấn đề thách đố, hơn thế nữa, một vấn đề nghiêm trọng: đơn giản là hắn không thể biết chắc về sức mạnh của bà ta.
Dee luôn luôn kính sợ người phụ nữ Pháp cao ráo và thanh nhã này. Lần đầu tiên khi hắn gặp gỡ và học nghề với Nicholas Flamel, nhà giả kim, hắn đã sai lầm khi đánh giá thấp về khả năng của Perenelle. Rồi hắn nhanh chóng nhận ra rằng Perenelle Flamel ít nhất cũng mạnh ngang bằng với người chồng của bà ta - và, thực tế, còn có nhiều lĩnh vực mà bà hoạt động mạnh mẽ hơn.
Chính những đặc điểm khiến Flamel trở thành một nhà giả kim xuất sắc - sự chú ý của ông đến từng chi tiết nhỏ, những hiểu biết của ông về ngôn ngữ cổ đại, sự kiên nhẫn tột độ của ông - tất cả đã biến ông trở thành một phù thủy vụng về và một thầy đồng gọi hồn yếu kém. Đơn giản là, ông ta thiếu đi khả năng tưởng tượng, mường tượng cần thiết để trở thành phù thủy. Perenelle, ngược lại, là một trong những nữ phù thủy hùng mạnh nhất mà Dee từng chạm trán.
Dee cởi bỏ một chiếc găng tay màu xám và thả nó rơi xuống bên chiếc ghế ngồi bên cạnh. Ngồi dựa lưng đối diện với Perenelle, hắn nhúng sâu một ngón tay vào vũng nước bùn đen nằm phía dưới một trong hai tên Golem đang nhỏ giọt và vẽ ra một hình xoắn vào mặt sau bàn tay trái của bà. Rồi hắn vẽ thêm một hình phản chiếu của biểu tượng xoắn đó vào bên tay phải của bà. Hắn lại nhúng bàn tay mình vào vũng bùn lép nhép và vạch ba đường cong lượn sóng lên trán bà đúng vào lúc bà mở rộng đôi mắt màu xanh lá cây của mình. Dee vội vàng ngồi dựa lưng vào ghế.
“Bà Perenelle, thật không thể diễn tả nỗi vui mừng của tôi khi được gặp lại bà.”
Perenelle mấp máy môi để nói nhưng không hề có lời nói nào thoát ra ngoài. Bà cố gắng cử động, nhưng không chỉ bị bọn Golem giữ chặt lấy hai cánh tay, những cơ bắp của bà cũng không hề nhúc nhích.
“A, xin lỗi bà nhé, nhưng tôi đã cho phép mình quyền giam giữ bà phía dưới câu thần chú Canh giữ. Một câu thần chú đơn giản, nhưng nó sẽ đáp ứng việc kiểm soát bà cho đến lúc tôi có thể sắp xếp được một cái gì đó lâu dài.” Dee mỉm cười, nhưng chẳng có nét gì hài hước trong nụ cười của hắn. Điện thoại di động của hắn rung lên trong điệu nhạc chủ đề của phim X-files, và hắn bật nắp trượt. “Xin lỗi nhé,” hắn nói với Perenelle.
Một giọng nói the thé vang lên trong chiếc điện thoại từ đầu dây phía bên kia.
“Bà nhận được tấm hình rồi hả?” hắn hỏi. “Đúng vậy, tôi nghĩ nó sẽ làm bà thích thú: Perenelle Flamel huyền thoại giờ đây đang nằm trong tay chúng ta. Ồ, tôi tin chắc là Nicholas sẽ đến tìm bà ta. Và chúng ta sẽ sẵn sàng để nghênh tiếp hắn. Lần này hắn sẽ không trốn thoát được nữa đâu.”
Perenelle có thể nghe thấy rõ ràng tiếng cười khúc khích phía bên kia đầu dây điện thoại. “Ờ, tất nhiên rồi.” Dee thò tay vào túi và lôi ra cuốn sách màu đồng lấp lánh. “Chúng ta đã có quyển Codex. Cuối cùng thì nó thuộc về
chúng ta.” Hắn bắt đầu lần giở những trang sách trong khi nói chuyện. Giọng của hắn trở nên thầm thì, không rõ là hắn đang nói với người bên kia đầu dây hay với chính hắn nữa. “Mười nghìn năm của các bí mật nhà nghề nay đã tích tụ tất cả trong một...”
Rồi giọng nói của hắn bỗng kéo dài hụt hẫng. Chiếc điện thoại rơi khỏi tay hắn và trượt dài trên mặt sàn.
Ở phía sau cùng của cuốn sách, đã có hai trang sách bị mất, ai đó đã xé chúng đi một cách thô lỗ.
Dee nhắm mắt lại và rồi liếm nhanh môi với chiếc lưỡi nhỏ. “Thằng bé,” hắn rít lên qua kẽ răng, “chính nó đã làm chuyện đó khi nó giằng lấy cuốn sách từ tay ta.” Hắn mở mắt ra và bắt đầu đọc lướt nhanh các trang sách trước đó một cách cẩn thận. “Có thể đó là hai trang sách không quan trọng...” hắn thì thào, môi run run trong khi hắn liếc nhanh qua các dòng chữ đang trôi nổi, nhảy nhót. Hắn nhìn chăm chú vào những con chữ lấp lánh nằm trên đầu mỗi trang sách, hé lộ một phần nội dung của trang. Rồi hắn đột nhiên dừng lại, cầm lấy cuốn sách với những ngón tay run rẩy. Rồi hắn ngẩng đầu lên, đôi mắt rực sáng giận dữ. “Ta đã bị mất phần Hiệu triệu Cuối cùng!” hắn tru lên căm phẫn. Những tia sáng màu vàng tỏa ra xung quanh đầu hắn và ô cửa sổ bên hông chiếc xe đằng phía sau lưng hắn lập tức vỡ ra thành một mạng nhện đầy những vết nứt rạn màu sáng bạc. Những tia màu vàng trắng rơi xuống từ răng hắn như những giọt nước bọt. “Quay trở lại ngay,” hắn gào lên với tên tài xế. “Trở lại ngay. Không, dẹp hết, hủy hết tất cả các việc khác. Flamel đâu có khùng. Bọn nó có thể đã cao chạy xa bay mất rồi.” Hắn cúi xuống lượm chiếc điện thoại lên, tránh ánh mắt của Perenelle, ngừng lại vài giây để định thần. Hắn hít một hơi dài và trông có vẻ như đã lấy lại được bình tĩnh, rồi hắn quay số. “Chúng ta gặp phải một vấn đề nhỏ,” hắn nói quả quyết vào điện thoại, giọng hắn nghe thản nhiên và vô cảm. “Có vẻ như chúng ta đã bị mất một vài trang ở phần sau cùng của cuốn sách. Tôi chắc chắn rằng chẳng có gì quan trọng cả. Có thể bà sẽ ban cho tôi một sự giúp đỡ đặc biệt,” hắn nói một cách tự nhiên, “bà hãy chuyển lời nhắn của tôi đến Morrigan là tôi đang cần sự giúp đỡ của bà ta.”
Dee chú ý rằng đôi mắt của Perenelle mở to vì kinh hoàng khi bà nghe hắn nhắc đến tên gọi đó. Hắn cười nhăn nhở trong niềm vui độc ác. “Nói với bà ấy rằng tôi rất cần đến tài năng và những khả năng đặc biệt của bà ấy.” Rồi hắn đóng nắp chiếc điện thoại lại và nhìn về phía Perenelle Flamel. “Chuyện sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều nếu bọn họ đưa cuốn Codex cho tôi một cách
nhanhchóng. Bâygiờthì,Morrigansẽtới. Vàbàbiếtnhưvậycónghĩalà nhưthếnàorồi.
Chương 7
Sophie là người đầu tiên chú ý đến con chuột. Cặp sinh đôi lớn lên ở New York và trải qua các kỳ nghỉ hè phần lớn ở California , nên việc đối mặt với một con chuột không có gì mới mẻ. Khi sống ở San Francisco , một thành phố cảng, người ta lại càng quen với chuyện “gặp gỡ” những sinh vật này, đặc biệt là vào buổi sáng sớm hay lúc đêm khuya khi chúng bò ra khỏi vùng bóng tối và các cống rãnh.
Sophie không lấy gì làm sợ hãi lũ chuột, mặc dù như rất nhiều người khác cô đã từng nghe những câu chuyện kinh dị, huyền thoại đô thị và những mẩu chuyện dạng BKVB - bạn kể với bạn - về những con thú chuyên ăn xác thối. Cô biết lũ chuột hầu như vô hại chỉ trừ khi chúng bị dồn vào thế bí. Cô nhớ là đã đọc ở đâu đó rằng chuột có thể nhảy rất cao, cao kinh khủng. Cô cũng đã đọc một bài báo trên tờ New York Times phụ trương Chủ nhật là số lượng chuột ở Hoa Kỳ đông bằng với số lượng người sinh sống ở đó.
Nhưng con chuột này trông rất khác lạ.
Bóng láng và đen mượt - thay vì màu nâu dơ dáy thường thấy - nó đứng thu lu, bất động nơi ngõ hẻm và cô bé có thể thề rằng đôi mắt của nó có màu đỏ sáng. Và nó đang nhìn họ chằm chằm.
Có lẽ nó là một con thú cưng bị sổng chuồng chăng?
“À, cháu đã thấy rồi đó,” Flamel thì thầm, ông cầm lấy cánh tay cô kéo đi. “Chúng ta đang bị quan sát.”
“Ai vậy?” Josh vội hỏi đầy bối rối. Cậu lập tức quay nhìn lui, mong đợi nhìn thấy chiếc xe dài màu đen của Dee trên con đường. Nhưng không hề có bóng dáng của chiếc xe hơi và dường như không có ai để ý đến điều đó. “Ở đâu?”
“Con chuột. Ở trong ngõ hẻm,” Nicholas Flamel nói vội vã. “Đừng có nhìn.”
Nhưng lời cảnh báo của ông vang lên quá muộn. Josh đã kịp quay lại và nhìn thấy. “Một con chuột đang quan sát chúng ta ư: chú nói giỡn đó hả?” Cậu nhìn chằm chằm vào con chuột, chờ nó quay đi và bỏ chạy. Nhưng nó chỉ giơ cái đầu nhọn lên cao và nhìn trả lại cậu, miệng nó há to để lộ những
cái răng nhọn hoắt. Josh rùng mình. Rắn và chuột: cậu ghét cay ghét đắng những con vật đó. Ghét ngang nhau. Mặc dù cậu không sợ chúng bằng nhện và bò cạp.
“Chuột đâu có mắt màu đỏ, phải không?” cậu hỏi, vừa liếc nhìn chị gái. Người chị mà như cậu vẫn biết, không hề sợ bất cứ cái gì.
“Thường thì không,” cô trả lời.
Khi cậu quay nhìn lại đằng sau, cậu khám phá ra rằng bây giờ đã có đến hai con chuột màu đen huyền đang đứng nơi ngõ hẻm. Một con thứ ba nữa vừa bò ra khỏi bóng tối và đứng im quan sát họ.
“OK,” Josh nói, “em đã vừa nhìn thấy bọn người làm bằng bùn đất. Em nghĩ là mình có thể chấp nhận mấy con chuột gián điệp. Bọn chúng có biết nói không nhỉ?” cậu thắc mắc.
“Đừng nghĩ nhảm,” Flamel vội nói. “Chúng chỉ là những con chuột.”
Sau những gì vừa chứng kiến, Josh không còn nghĩ câu hỏi đó là kỳ quặc nữa.
“Có phải là Dee đã gởi chúng đến đây?” Sophie thắc mắc.
“Hắn đang dò tìm chúng ta. Mấy con chuột đã đánh hơi và đi theo dấu chúng ta từ cửa tiệm. Một câu thần chú “bói cầu” đơn giản cũng đủ cho phép hắn nhìn thấy những gì mà bọn chuột trông thấy. Bọn chúng là những công cụ thô bỉ nhưng hiệu quả và một khi chúng đã bắt được mùi của chúng ta chúng sẽ đi theo chúng ta cho đến khi chúng ta lội qua dòng nước. Nhưng chú để ý hơn đến những con vật kia kìa.” Ông hất cằm mình lên trên.
Sophie và Josh cùng nhìn lên. Tụ tập trên đỉnh của những tòa nhà xung quanh họ là một số lượng khổng lồ những con chim lớn đen nhánh.
“Quạ,” Flamel nói vắn tắt.
“Mệt rồi đây,” Sophie phỏng đoán. Kể từ giây phút Dee bước chân vào cửa tiệm, đã không hề có một tin tức tốt lành nào xảy đến.
“Rất có thể chuyện sẽ trở nên tồi tệ. Nhưng chú nghĩ chúng ta sẽ OK thôi. Chúng ta sắp đến nơi rồi.” Ông rẽ trái và dẫn hai đứa trẻ đi vào khu trung tâm của phố Tàu của San Francisco . Họ đi ngang qua khách sạn Sam Wong rồi rẽ phải xuống một con đường hẹp, rồi lại đột ngột rẽ vào một đường hẻm chật hẹp hơn nữa. Khác với những con đường chính sạch sẽ và rộng rãi, những con hẻm này chất đầy những chiếc hộp và thùng mở nắp tỏa ra thứ mùi hôi
thối chua chua ngọt ngọt của thức ăn hư thối. Con hẻm nhỏ mà họ vừa quẹo vào ngập ngụa mùi hôi thối, và không khí đen đặc ruồi nhặng trong khi mấy tòa cao ốc vươn mình lên cao đến nỗi lối đi bị phủ mờ trong bóng tối.
“Chị nghĩ là mình phát bệnh,” Sophie lẩm bẩm. Mới vừa hôm qua thôi, cô nói với cậu em sinh đôi là những tuần lễ làm việc trong tiệm cà phê đã “nâng cấp” kỹ năng ngửi và phân biệt mùi của mình như thế nào. Cô khoe là thậm chí cô còn có thể phân biệt được cả những mùi cô chứa bao giờ ngửi qua trước đó. Giờ đây có thấy ân hận vì điều đó: không khí sặc sụa mùi của trái cây và cá thối.
Josh khẽ gật đầu. Cậu đang tập trung hơi sức để thở qua đường miệng, mặc dù cậu tưởng tượng rằng mỗi một hơi thở hôi thối sẽ chạm vào lưỡi và bò xuống họng cậu nhanh chóng.
“Sắp tới rồi,” Flamel nói. Ông có vẻ như không bị ảnh hưởng gì bởi mùi hôi đậm đà đang bao quanh họ.
Cặp sinh đôi nghe tiếng cót két rin rít và quay đầu lại đúng lúc chúng nhìn thấy năm con chuột đen huyền đang bò ngang qua miệng những chiếc thùng để mở ngay sau lưng họ. Một con quạ lớn đậu trên sợi dây điện chăng ngang qua ngõ hẻm.
Nicholas Flamel đột nhiên dừng lại bên ngoài một cánh cửa gỗ nhẵn nhụi có vỏ ngoài đầy cáu ghét đến nỗi hầu như không thể phân biệt nó với bức tường. Nó nằm chìm khuất trên bức tường. Chẳng hề có nắm đấm hay lỗ khóa gì cả. Xòe rộng bàn tay, Flamel đặt những ngón tay lên những vị trí đặc biệt nào đó và ấn nút. Cánh cửa kêu lách cách rồi mở ra. Kéo lấy Sophie và Josh, ông dẫn chúng vào trong vùng bóng tối và khép nhanh cánh cửa phía sau bọn chúng.
Sau mùi hôi thối nồng nặc của con hẻm nhỏ, hành lang nơi ba người đang đứng có hương vị thật tuyệt vời: ngọt ngào mùi hương hoa nhài và những hương thơm tinh tế lạ lùng khác. Cặp sinh đôi hít thở thật sâu. “Cam Bergamot,” Sophie tuyên bố, xác định mùi cam thơm nồng nàn, “và mùi Ylang - Ylang và Patouchli nữa.”
“Thật ấn tượng,” Flamel nói.
“Cháu đã quen thuộc với các loại thảo dược trong tiệm cà phê. Cháu rất thích hương vị của các loại trà nhập từ nước ngoài.” Cô ngừng lời, chợt nhận ra rằng cô đang nói hệt như là cô sẽ chẳng bao giờ còn quay lại tiệm cà phê
và ngửi những mùi vị tuyệt vời ở đó nữa. Giờ này, những người khách đầu tiên của buổi chiều sớm sẽ bắt đầu bước vào tiệm, yêu cầu được uống cappuccinos và latte, trà đá và trà dược thảo. Cô chớp mắt để xua đi giọt lệ vừa ứa ra nơi khóe mắt. Cô thấy nhớ bởi vì tất cả thật bình thường, giản dị và rất thật.
“Chúng ta đang ở đâu đây?” Josh hỏi, vừa nhìn xung quanh khi mà mắt cậu đã bắt đầu quen với ánh sáng lờ mờ. Họ đang đứng giữa một hành lang dài và hẹp, sạch như li như lau. Những bức tường được bọc một lớp gỗ vàng óng mượt mà, và dưới chân họ là những tấm thảm làm bằng các sợi tranh được dệt một cách tinh xảo, cầu kỳ. Một ô cửa đơn giản che phủ lên một khung cửa có vẻ như được làm bằng giấy ở ngay góc cuối của hành lang. Josh sắp sửa tiến tới cánh cửa đó thì bàn tay cứng như sắt của Flamel chộp vào vai cậu như có ý bảo cậu ngừng lại.
“Đừng cử động,” ông thì thầm. “Chờ đợi. Nhìn ngó. Chú ý. Nếu cháu nhớ đến ba từ này trong đầu, cháu có thể sẽ sống sót trong vòng vài ba ngày tới.” Thọc sâu tay vào túi, ông rút ra một đồng 25 xu. Đặt nó lên ngón cái, ông búng nhẹ nó lên không trung. Đồng xu xoay tròn nhiều vòng và bắt đầu rơi xuống ngay chính giữa hành lang...
Một âm thanh rin rít vang lên - và một ngọn phi tiêu mũi nhọn đâm xuyên qua đồng xu kim loại ngay giữa không trung, và đẩy nó về phía bức tường đối diện.
“Các cháu đang sắp bỏ lại sau lưng thế giới an toàn và trần tục mình hằng quen thuộc,” Nicholas Flamel nói một cách trang trọng, đôi mắt ông lần lượt nhìn hai đứa. “Chẳng có gì là như trước nữa. Các cháu phải học cách đặt câu hỏi cho tất cả mọi thứ. Học cách chờ đợi trước khi cử động, nhìn ngó trước khi tiến bước, và quan sát tất cả những gì xung quanh. Chú đã học những cái đó trong thuật giả kim, nhưng tụi cháu sẽ nhận thấy chúng là vô giá trong thế giới mới mẻ mà các cháu không hề có chủ ý tiến vào này.” Ông chỉ tay xuống sàn nhà. “Hãy nhìn ngó và quan sát. Nói cho chú biết: các cháu đang thấy những gì?”
Josh chỉ vào chiếc lỗ nhỏ đầu tiên mà cậu trông thấy trên tường. Nó được trang trí trông giống như một cái gút xinh xắn trên mặt gỗ. Khi đã nhìn ra một cái, cậu khám phá ra rằng có hàng tá những lỗ nhỏ như vậy nằm chi chít trên tường. Cậu thắc mắc không biết có phải là trong mỗi cái lỗ đều có chứa phi tiêu có sức mạnh để đâm xuyên qua kim loại.
Sophie chú ý rằng sàn nhà không hoàn toàn ăn khớp với bức tường. Nằm ở ba chỗ khác nhau - ở cả bên phải và bên trái, gần với lớp gỗ viền chân tường, là ba kẽ hở rõ ràng.
Flamel lần lượt nhìn hai chị em và khẽ gật đầu. “Tốt lắm. Bây giờ thì hãy nhìn cho kỹ. Chúng ta đã nhìn thấy sức mạnh của những chiếc phi tiêu, nhưng vẫn còn có những vũ khí phòng thủ khác...” Ông lấy một chiếc khăn giấy ra khỏi túi áo và ném nó xuống sàn nhà, gần với một trong những kẽ hở. Một tiếng xủng xẻng của kim loại vang lên - và rồi một lưỡi kiếm lớn có hình vầng trăng khuyết thình lình bật ra từ bức tường, cắt vụn chiếc khăn giấy ra thành từng mẩu confetti, và rồi thụt lại ẩn náu ở trong tường.
“Vì vậy nếu như những mũi phi tiêu không chạm được tới chúng ta...” Josh bắt đầu.
“Thì những lưỡi kiếm sẽ làm điều đó,” Sophie tiếp lời cậu. “Ồ, nếu như vậy thì chúng ta làm sao để tiến vào cánh cửa?”
“Chúng ta sẽ không vào bằng cửa đó,” Flamel nói, và ông xoay người ấn vào phía bên trái của bức tường. Một vết cắt nguyên vẹn được mở ra và “cánh cửa” bất ngờ ấy khẽ đung đưa, cho phép ba người tiến vào bên trong một căn phòng rộng lớn thoáng đãng.
Cặp sinh đôi nhận ra căn phòng ngay lập tức. Đó là một võ đường như vẫn thường thấy trong các trường dạy võ. Ngay khi còn nhỏ, hai đứa trẻ đã được học võ Taekwondo trong võ đường như thế này nằm trên khắp nước Mỹ, khi chúng di chuyển cùng với cha mẹ từ trường đại học này sang trường đại học khác. Rất nhiều trường đại học có các câu lạc bộ võ thuật và cha mẹ chúng luôn đăng ký cho các con mình theo học ở những võ đường tốt nhất mà họ có thể tìm được. Cả Sophie và Josh đều đã đạt đến đẳng cấp “đai đỏ”, một đẳng cấp nằm ngay dưới đai đen.
Dù sao, không giống như những võ đường khác, võ đường này bằng phẳng và không trang trí gì. Nó được tô điểm bằng màu trắng và màu kem đơn giản, với những bức tường trắng và những tấm thảm đen nằm trên sàn nhà. Nhưng những gì khiến hai đứa trẻ chú ý ngay lập tức đó là một hình người mặc quần jeans trắng và áo thun trắng đang ngồi ở chính giữa phòng, lưng xoay về phía họ. Mái tóc đỏ suôn thẳng sáng rực chính là điểm màu sắc duy nhất trong toàn bộ khung cảnh võ đường.
“Chúng tôi đang gặp vấn đề,” Nicholas Flamel nói một cách giản dị với
hình dáng kia.
“Ông vừa gặp vấn đề; điều đó không liên quan gì đến tôi.” Hình dáng không quay lại, nhưng giọng nói của nó nghe trẻ và đầy nữ tính đến lạ lùng. Các trọng âm trong giọng nói nghe nhẹ nhàng và mang âm hưởng của vùng Celtic: Ireland hay là Scotland gì đây, Sophie nghĩ.
“ Dee đã tìm thấy tôi hôm nay.”
“Đó chỉ là vấn đề thời gian.”
“Hắn đến chỗ tôi cùng với bọn Golem.”
Một khoảnh khắc im lặng trôi qua. Đến lúc này, hình bóng kia vẫn chưa quay mặt lại. “Hắn lúc nào cũng ngốc nghếch như vậy mà. Không thể dùng bọn Golem ở những nơi có khí hậu khô nóng. Đó là kết quả của tính kiêu ngạo của hắn.”
“Hắn cũng đã bắt giữ Perenelle làm tù binh rồi.”
“À. Chuyện rắc rối đấy. Dù sao hắn cũng sẽ không làm hại được bà ấy đâu.”
“Và hắn đã lấy được cuốn Codex.”
Hình dáng khẽ động đậy, sau cử động của đôi chân là đến khuôn mặt bắt đầu xoay về phía họ. Cặp sinh đôi choáng váng khi phát hiện ra chúng đang nhìn thấy một cô gái không lớn hơn chúng bao nhiêu. Làn da của cô ta trắng xanh xao, lốm đốm tàn nhang và trên khuôn mặt tròn nổi bật đôi mắt xanh biếc màu cỏ. Mái tóc đỏ của cô được cắt ngắn với những đuôi tóc sắc nhọn và màu đỏ của nó trông sáng chói đến mức Sophie băn khoăn không biết có phải là cô ta đã nhuộm nó.
“Cuốn Codex?” Trọng âm này chắc chắn là tiếng Ireland , Sophie quả quyết. “Cuốn sách của Pháp sư Abraham?”
Nicholas Flamel gật đầu.
“Vậy thì ông đã nói đúng, chúng ta thực sự đã gặp vấn đề.”
Flamel lần sờ vào túi áo và lấy ra hai trang sách mà Josh đã xé ra từ cuốn sách. “Ồ, gần như là cả cuốn sách. Hắn đã chỉ sót mất phần Hiệu triệu Cuối cùng.”
Cô gái trẻ hít hà, âm thanh vang lên như tiếng nước đang sôi và một nụ cười vụt nở ra trên khuôn mặt của cô. “Mà hắn ta sẽ rất muốn có, tất nhiên
rồi.”
“Tất nhiên rồi.”
Josh quan sát một cách chăm chú cô gái có mái tóc đỏ sáng chói. Cậu để ý thấy rằng cô hầu như đứng bất động như pho tượng, như phần lớn các võ sư mà cậu biết. Cậu liếc qua chị mình đang đứng sát ngay bên cạnh với một cú nhướng mày ra ý dò hỏi cùng với cú hất cằm nhè nhẹ về phía cô gái. Sophie khẽ lắc đầu. Chúng rất tò mò không hiểu vì sao Nicholas lại cư xử với cô ta với sự kính trọng đặc biệt đến nhường ấy. Sophie cũng đã kết luận rằng đã có một sai sót nào đó trong cách diễn đạt và biểu hiện của cô ta, dù rằng cô không thể chỉ rõ sự bất bình thường đó là gì. Đó là một khuôn mặt bình thường, có lẽ là gò má hơi quá cao, cằm hơi quá nhọn, nhưng sức lôi cuốn của khuôn mặt nằm ở đôi mắt to xanh biếc màu ngọc lục bảo... và rồi Sophie giật mình nhận ra rằng cô gái đã không hề chớp mắt.
Cô gái bất chợt ngửa đầu ra sau và hít thở một hơi dài, cánh mũi của cô nở rộng. “Có phải đó là lý do vì sao tôi có thể ngửi thấy những Đôi mắt?”
Flamel gật đầu. “Chuột và quạ ở khắp mọi nơi.”
“Và ông đã mang bọn chúng đến nơi đây?” Rõ ràng là có một hàm ý kết tội trong giọng nói của cô gái. “Tôi đã mất rất nhiều năm để xây dựng nơi này.”
“Nếu Dee có quyển Codex, cô biết là hắn sẽ làm gì với nó.”
Cô gái gật đầu. Cô hướng đôi mắt xanh mở rộng của mình về phía hai chị em Sophie, “Và cả hai người này nữa?” cô hỏi, cuối cùng thì cũng ghi nhận sự có mặt của chúng.
“Hai đứa trẻ có mặt ngay khi Dee tấn công. Chúng đã chiến đấu vì tôi, và chàng trai trẻ này đã tìm cách xé hai trang giấy từ cuốn sách. Đây là Sophie và đây là cậu em sinh đôi của cô bé, Josh.”
“Sinh đôi?” Cô gái tóc đỏ tiến lên phía trước, và lần lượt nhìn vào mỗi đứa. “Không dễ dàng nhận thấy được, nhưng bây giờ thì tôi có thể nhìn ra những nét tương đồng.” Cô quay nhìn về phía Flamel. “Ông không nghĩ gì sao?”
“Tôi nghĩ đây là một chuỗi những sự kiện thú vị diễn ra liên tục,” Flamel nói một cách bí hiểm. Ông nhìn hai đứa trẻ. “Chú muốn giới thiệu với hai cháu đây là Scathach. Cô ấy có lẽ sẽ không nói nhiều về mình với hai cháu, vậy nên chú sẽ nói cho hai cháu biết rằng cô ấy là một trong những Giống
loài Elder và đã rèn luyện cho nhiều chiến binh và anh hùng huyền thoại trong suốt hai ngàn năm qua. Trong thần thoại, cô ấy được biết đến với cái tên Nữ Chiến binh, Bóng tối, Kẻ Giết quỷ, Người Chi phối việc Bổ nhiệm những Chức vụ Quan trọng, người...”
“Ồ, hãy gọi tôi là Scatty Điên khùng,” cô gái nói, đôi má cô chuyển sang màu giống như màu mái tóc của cô.
Chương 8
Tiến sĩ John Dee cúi mình ở băng ghế sau của chiếc xe hơi và cố gắng hết sức để làm chủ cơn giận dữ của mình một cách không thành công lắm. Không khí nặng trịch mùi lưu huỳnh và những tia lửa màu trắng vàng tóe ra lách tách từ những ngón tay của hắn và bắn tung tóe xuống sàn xe. Hắn đã thấy bại, và trong khi những chủ nhân của hắn tỏ ra rất kiên nhẫn - họ thường lên kế hoạch cho nhiều âm mưu trong vòng nhiều thế kỷ để cho kế hoạch chủ mưu ấy được xây dựng một cách hoàn hảo nhất. Sự kiên nhẫn đó giờ đây đang cạn dần. Và họ không hề biết đến một khái niệm nào gọi là lòng trắc ẩn.
Bất động và tê cứng, bị giữ chặt dưới câu thần chú canh giữ, Perenelle Flamel quan sát hắn, đôi mắt bà sáng rực sự ghê tởm pha trộn với nỗi ghê sợ.
“Chuyện trở nên phức tạp,” Dee lẩm bẩm, “và ta rất ghét những gì phức tạp.”
Dee đang giữ một chiếc đĩa mỏng bằng bạc trong lòng hắn. Hắn đổ một lon soda vào trong đĩa - đó là thứ chất lỏng duy nhất mà hắn có trong lúc này. Hắn luôn luôn muốn sử dụng nước tinh khiết, nhưng về căn bản thì bất kỳ chất lỏng nào cũng có thể dùng để làm phép được. Cúi xuống bên chiếc đĩa, hắn nhìn chằm chằm vào chất lỏng trong đó và cho phép một ít năng lượng dòng điện của mình chảy nhỏ xuống bề mặt đĩa trong khi môi hắn khẽ thì thầm những từ đầu tiên của câu thần chú Bói cầu.
Trong khoảnh khắc đầu tiên, chỉ có hình bóng hắn in lên bề mặt chất lỏng đen tối, rồi mặt nước rung rinh và soda bắt đầu nổi bong bóng và sôi lên sùng sục. Khi chất lỏng đó bắt đầu lắng lại, mặt nước không còn in bóng khuôn mặt của Dee nữa mà là một hình ảnh đáng tò mò có màu xám tím và đen ánh xanh là cây. “Màn hình soda” nằm gần sát sàn xe, lay động và rung rinh một cách mau lẹ đến chóng mặt.
“Bọn chuột,” Dee lầm bầm, đôi môi mỏng cong lên với vẻ chán ghét. Hắn rất ghét dùng chuột làm Đôi mắt Gián điệp.
O O O
“Tôi không thể tin rằng ông đã dẫn bọn chúng đến nơi đây,” Scatty nói, lèn chặt một đống quần áo vào chiếc ba lô dùng đeo sau lưng.
Nicholas Flamel đứng nơi ngưỡng cửa của căn phòng ngủ gọn gàng nhỏ bé của Scatty, hai cánh tay ông khoanh trước ngực. “Tất cả mọi chuyện diễn ra quá nhanh. Chuyện đã tồi tệ khi Dee giành được cuốn Codex, nhưng khi tôi nhận ra rằng đã có hai trang bị xé, tôi biết là cặp sinh đôi sẽ gặp rắc rối kinh khủng.”
Khi từ “sinh đôi” vang lên từ miệng Flamel, Scatty ngước nhìn lên trong khi cô vẫn đang sắp xếp quần áo cho vào chiếc túi. “Chúng chính là lý do thực sự khiến ông đến nơi đây, phải vậy không?”
Flamel đột ngột nhận ra một nhân vật rất thú vị trên tường và ông nhìn chằm chằm vào đó.
Scatty sải bước ra khỏi căn phòng nhỏ, liếc nhìn ra ngoài hành lang để chắc chắn rằng Sophie và Josh vẫn còn đang đứng nơi nhà bếp, và rồi cô kéo Flamel vào trong phòng, và đóng cửa lại.
“Ông vẫn còn đang theo đuổi một việc gì đó, phải không Flamel?” Cô dò hỏi. “Việc không chỉ dừng lại ở sự mất mát cuốn Codex. Lẽ ra ông đã có thể tự mình đánh bại Dee và bọn tay chân của hắn.”
“Đừng đoán chắc như vậy. Tôi đã ngừng việc giao chiến một thời gian khá lâu rồi, Scathach à,” Flamel nói nhẹ nhàng. “Thuật giả kim duy nhất mà tôi làm hiện nay đó là chế ủ một ít chất lỏng trong Viên đá Phù thủy để giữ gìn tuổi thanh xuân cho Perenelle và cho chính mình. Thỉnh thoảng, tôi chế tạo một ít vàng hay trang sức quý hiếm khi chúng tôi cần tiền sinh sống.”
Scatty ho khẽ như một chuỗi cười không chút hài hước, và trở lại với việc thu dọn hành lý. Cô đã thay áo quần và bây giờ cô mặc một chiếc quần chiến đấu màu đen, mang một đôi bốt lớn có mũi bọc thép và một chiếc áo thun màu đen. Ở bên ngoài, cô khoác một chiếc áo vest màu đen có nhiều túi và dây khóa. Cô nhét thêm một chiếc quần thứ hai vào ba lô, tìm thấy một chiếc vớ[1]và đưa mắt tìm kiếm chiếc còn lại ở dưới gầm giường.
“Nicholas Flamel,” cô nói, giọng cô nghèn nghẹt dưới lớp vải phủ giường, “ông là Nhà Giả Kim quyền lực nhất trên thế giới này. Hãy nhớ rằng, tôi đã sát cánh bên ông khi chúng ta cùng chiến đấu chống lại bọn ác quỷ Fomor, và ông là người đã cứu tôi thoát khỏi ngục tối của Chaor Thanach và còn thêm nhiều việc nữa.” Cô chui ra khỏi gầm giường với chiếc vớ còn lại trên tay. “Khi bọn Rusalka khủng bố St.Petersburg, một mình ông đã đánh lui bọn chúng và khi nữ quái Black Annis tàn phá điên cuồng Manitoba, tôi đã nhìn
thấy ông đánh bại mụ ta. Một mình ông đối mặt với Phù thủy Bóng đêm cùng đoàn quân Bất tử của mụ. Ông đã trải qua hơn năm trăm năm để đọc và nghiên cứu cuốn Codex. Không ai ngoài ông có thể nắm vững hơn về những câu truyện, truyền thuyết và huyền thoại chứa trong nó…..” Scatty đột nhiên ngưng lời, đôi mắt xanh lá cây của cô rộng mở. “Đó là tất cả những gì cuốn sách cất giữ,” cô nói một cách phấn khích. “Đó chính là huyền thoại…”
Flamel tiến tới gần và đưa ngón tay trỏ ấn vào đôi môi của Scatty, ngăn cản cô nói thêm một từ khác tiếp theo. Nụ cười của ông trở nên bí ẩn. “Cô có tin tôi không?” Ông hỏi.
Câu trả lời của cô đến ngay tức thì. “Với không một chút do dự.”
“Vậy hãy tin tôi. Tôi muốn cô bảo vệ hai đứa bé sinh đôi. Và rèn luyện cho chúng,” ông nói thêm.
“Rèn luyện cho chúng? Ông có biết là ông đang đòi hỏi chuyện gì không?”
Flamel gật đầu. “Tôi muốn cô chuẩn bị cho chúng để đón nhận những gì sẽ xảy đến.”
“Và đó sẽ là những chuyện gì?” Scathach hỏi.
“Tôi không biết,” Flamel mỉm cười, “chỉ biết rằng đó sẽ là những chuyện thật tồi tệ.”
O O O
“Tụi con ổn cả, mẹ à, thật đó, tụi con rất OK.” Sophie Newman nghiêng chiếc điện thoại về phía Josh để em cô có thể cùng nghe cuộc trò chuyện. “Dạ đúng rồi, cô Perry Fleming không được khỏe lắm.Có lẽ vì một thứ gì đó mà cô đã ăn. Bây giờ cô đã khỏe hơn rồi.”Sophie có thể cảm thấy những giọt mồ hôi đang túa ra lấm tấm trên những chân tóc phía sau gáy. Nói dối với mẹ là một điều làm cho cô cảm thấy cực kỳ không thoải mái- mặc dù mẹ của cô quá bận rộn với công việc đến mức bà không bao giờ có thời gian để kiểm tra những gì cô nói.
Cha mẹ của Sophie và Josh là những nhà khảo cổ học. Họ nổi tiếng trên toàn thế giới với những phát hiện giúp xây dựng lại diện mạo của ngành khảo cổ hiện đại. Họ nằm trong số những nhà khảo cổ đầu tiên khám phá sự tồn tại của giống người lùn mà sau đó được gọi với cái tên phổ biến là Hobbitts ở Indonesia. Josh luôn luôn nói rằng ba mẹ của chúng đã sống đến trăm năm
trong quá khứ và họ chỉ hạnh phúc khi hai mắt cả chân họ dính đầy bùn. Cặp sinh đổi hiểu rắng chúng được bao bọc trong tình yêu thương vô điều kiện, nhưng chúng cũng hiểu rằng cha mẹ mình đơn giản là không hiểu chúng….hay là những gì thuộc về đời sống hiện đại.
“Chú Fleming sắp cùng cô Perry đi thăm ngôi nhà của họ trên sa mạc và họ hỏi liệu chúng con có thích đi tới đó chơi với họ hay không. Tụi con trả lời là hai đứa con phải hỏi ý kiến của mẹ trước tất nhiên rồi. Dạ vâng, tụi con đã nói chuyện với dì Agnes. Dì nói miễn sao ba mẹ cho phép tụi con đi. Vậy mẹ hãy nói “Ờ” đi, con năn nỉ đó.”
Sophie quay sang em trai và giơ ngón tay ra ý chuyện đang đến lúc cao trào. Josh cũng làm hiệu với ngón tay mình. Hai chị em đã bàn bạc rất lâu trước đó về những gì chúng sẽ nói với dì và mẹ trước khi gọi điện thoại cho họ, nhưng chúng hoàn toàn không chắc chắn là mình sẽ làm gì nếu như mẹ không cho phép chúng đi.
Sophie giơ ngón tay cái lên một cách đắc thắng. “Dạ, con được nghỉ một thời gian ngăn ngắn khỏi phải làm việc ở tiệm cà phê. Không, tụi con sẽ không gây ra điều gì phiền phức. Dạ. Dạ, mẹ khỏi lo. Rất yêu mẹ và nhờ mẹ nói với ba là tụi con cũng rất yêu ba.” Sophie lắng nghe, rồi cô đưa may điện thoại ra xa khỏi miệng. “Ba vừa tìm thấy rất nhiều giống Pseudoarctolepis shapi trong tình trạng gần như hoàn hảo,” cô kể lại. Josh không có phản ứng gì. “Đó là một loài giáp xác Campuchia rất quý hiếm,” cô giải thích.
Em trai cô gật đầu. “Nói với ba là điều đó thật cừ khôi. Tụi mình sẽ giữ liên lạc,” cậu nói to.
“Yêu ba mẹ,” Sophie nói và gác máy. “Chị rất ghét phải nói dối mẹ,” cô nói ngay tức thì.
“Em biết. Nhưng chị thực sự không thể nói cho mẹ nghe sự thật mà, đúng không?”
Sophie nhún vai. “Chắc là không.”
Josh quay lại nhìn bồn rửa bát. Máy laptop của cậu đang để tạm gần ống dẫn nước bên cạnh máy điện thoại di động. Cậu phải dùng điện thoại di động để vào mạng bởi vì, thật choáng váng, võ đường này không hề có đường dây điện thoại hay đường dây kết nối mạng Internet nào.
Scatty sống trong một căn hộ gồm hai phòng ở ngay phía trên võ đường. Có một nhà bếp nhỏ ở phía cuối hành lang và một phòng ngủ cùng một nhà
tắm nhỏ ở phía đầu kia. Một ban công nhỏ nối liền hai căn phòng trên với tầm nhìn hướng thẳng về phía bên dưới võ đường. Cặp sinh đôi đang đứng nơi nhà bếp trong khi Flamel kể cho Scatty nghe về chuỗi sự kiện vừa diễn ra cách đây vài giờ đồng hồ ở trong phòng ngủ của cô nằm ở phía bên kia hành lang.
“Chị nghĩ gì về cô ấy?” Josh hỏi một cách ngẫu nhiên, chúi mũi vào chiếc laptop. Cậu cố gắng để nối mạng, nhưng tốc độ đường truyền chậm còn hơn con rùa bò. Cậu gõ địa chỉ của Altavista và đánh hàng tá cụm từ khác nhau của Scathach trước khi cậu cuối cùng gõ đúng chính xác tên của cô gái. “Đây rồi: tất cả có đến hai mươi bảy nghìn kết quả về Scathach, cô gái Bóng tối hay Bóng mờ,” cậu nói, và rồi tiếp theo với vẻ vô tình, “Em nghĩ là cô ấy rất tuyệt.”
Sophie vội trả lời bằng một giọng điệu còn tự nhiên hơn nữa. Cô ngoác miệng cười với đôi lông mày nhướn lên. “Ai? Ồ, ý em muốn nói đến nữ chiến binh hai nghìn năm tuổi đó à? Em không nghĩ là cô ta quả có hơi già một chút so với em hay sao?”
Một vầng đỏ xuất hiện từ cổ Josh rồi lan nhanh đến đôi mà cậu khiến chúng ửng hồng. “Để em thử lên Google xem sao,” cậu thì thầm, các ngón tay gõ lách cách trên bàn phím. “Có sáu mười bốn nghìn từ về Scathach,” cậu nói. “Có vẻ như cô ta có thật. Hãy thử coi Wiki nói gì về cô ấy,” cậu tiếp tục gõ, và nhận ra rằng Sophie thậm chí không ngước nhìn mình. Cậu quay về phía cô và thấy cô đang nhìn chằm chằm xuyên qua khung cửa sổ.
Một con chuột đang đứng trên nóc toà cao ốc phía bên kia con hẻm và nó đang nhìn chừng chừng vào hai đứa trẻ. Khi chúng thấy con chuột, lập tức xuất hiện con thứ hai, rồi thứ ba.
“Bọn chúng đến rồi,” Sophie thì thào.
Dee tập trung cao độ để dằn nén lại bữa cơm trưa đang chực trào lên.
Quan sát sự vật qua “lăng kính” mắt chuột là một kinh nghiệm ghê tởm đến phát nôn mửa. Bởi vì chuột có bộ não rất nhỏ nên việc giữ cho chúng tập trung đòi hỏi một nghị lực phi thường......mà trong một ngõ hẻm đầy ắp thức ăn thối rữa, việc đó hoàn toàn không dễ chút nào. Trong thoáng chốc, Dee lấy làm khoan khoái vì hắn không dùng toàn bộ sức mạnh của câu thần chú Bói cầu. Nếu dùng hết, câu thần chú này sẽ cho phép hắn nghe, nếm - chỉ ý nghĩ này nghe cũng đã quá kinh hãi - và ngửi thấy tất cả những gì trên đường lũ chuột đi qua.
Cảm giác này giống hệt như khi ta đang ngồi xem tivi đen trắng có sóng lòe nhòe. Các hình ảnh trôi nổi bồng bềnh, nhô lên hụp xuống và tròng trành lắc lư theo từng bước chân lảo đảo của bọn chuột. Chuột có thể chạy theo chiều ngang trên mặt đất, rồi dốc ngược lên bức tường, sau đó lại lộn ngược chân chổng lên trời dọc theo một sợi dây thừng, tất cả những trò đảo điên tán loạn ấy chỉ diễn ra trong vòng vài dây.
Và rồi hình ảnh bỗng nhiên ngừng lại và trở nên ổn định.
Ngay trước mắt Dee, hiện lên hình bóng hai đứa trẻ mà Dee đã từng nhìn thấy trong tiệm sách trong “tông” màu xám tím và đen xám. Một trai và một gái - có lẽ khoảng chừng 14, 15 tuổi - và trông dáng vẻ của chúng có một nét gì đó rất tương đồng. Một ý nghĩ đột ngột lóe lên cắt ngang sự tập trung của hắn. Có lẽ bọn chúng là hai chị em.......hay, bọn chúng có thể là một cái gì đó khác hay không? Chắc chắn là không!
Hắn nhìn xuống chiếc đĩa Bói cầu và dùng hết sức lực để tập trung, cố điều khiển lũ chuột đứng yên như tượng đá. Dee nhìn kỹ vào hai đứa trẻ, cố gắng phân biệt đứa nào lớn hơn, nhưng “lăng kính” mắt chuột quá mời tối và méo mó khiến hắn không thể xác định được.
Nhưng nếu như hai đứa trẻ này bằng tuổi nhau....điều đó có nghĩa chúng là một cặp sinh đôi. Thật đáng tò mò. Hắn nhìn vào chúng thêm lần nữa rồi lắc đầu: chúng là người. Bỏ qua ý nghĩ vừa đến, hắn gởi đi một mệnh lệnh truyền như sóng vào từng con chuột lúc này đang đứng cách hai đứa trẻ chỉ nửa dặm. “Hủy diệt tụi nó. Hủy diệt tụi nó ngay.”
Những con quạ bắt đầu tụ tập và kêu ầm ĩ như thể chúng đang tán thưởng. O O O
Josh đứng nhìn, mồm há hốc bàng hoàng trước hình ảnh con chuột to bự đang cố hết sức bình sinh để nhảy qua khoảng cách dài gần hai mét từ nóc tòa nhà đối diện đến căn phòng chị em Josh đang đứng. Miệng của nó hà to và hàm răng nhọn hoắt của nó trông thật độc ác. Cậu kêu lên “Nè...!” và chạy xa khỏi khung cửa sổ ngay vừa lúc con chuột chạm vào khung cửa kính thủy tinh với bàn chân ẩm ướt. Nó trượt dài xuống lối đi ngay tầng dưới và tìm cách chạy vào bên trong nhanh đến mức đáng kinh ngạc.
Josh chụp lấy tau Sophie, kéo cô chạy ra khỏi căn nhà bếp ra phía ban công. “Chúng ta đang gặp rắc rối,” cậu la lớn. Và im bặt.
Ngày phía dưới chân hai đứa là ba tên Golem to lớn làm bằng bùn nứt nẻ, đang cố sức tiến vào bên trong thông qua cánh cửa mở rộng. Và ngay sau lưng bọn chúng, một hàng dài quanh co uốn khúc những con chuột đang nối nhau cùng theo vào.
Chương 9
Ba gã Golem di chuyển một cách kiên quyết vào bên trong hành lang. Chúng nhìn thấy cánh cửa mở nằm ở phía cuối hành lang và xông thẳng đến đó. Các phi tiêu có chiều dài bằng ngón tay bay thẳng vào chúng từ bức tường và đâm sâu vào làn da làm bằng bùn cứng của chúng nhưng không thể làm chúng đi chậm lại.
Các thanh kiếm hình trăng khuyết nằm gần sàn nhà cũng phát huy hiệu lực. Chúng bật ra từ bên dưới lớp vỏ ngụy trang nơi bức tường và chém thẳng vào mắt cá chân của bọn người bùn. Gã Golem đầu tiên ngã đâm sầm xuống sàn nhà với âm thanh nhão nhoẹt của bùn ướt. Gã thứ hai đi loạng choạng trên một bên chân trước khi ngã bổ nhào về phía trước, đâm sầm vào bức tường và trượt xuống để lại một vệt bùn đất kéo dài. Các thanh kiếm hình bán nguyệt tiếp tục “vòng vận động”, tấn công lần nữa và cắt đôi hai sinh vật bùn đất thành hai mảnh và cuối cùng hai gã Golem quay trở lại với “xuất xứ” bùn đất ban đầu. Những tảng bùn dày vương vãi ra khắp mọi nơi
Gã Golem thứ ba, gã to cao nhất trong cả ba dừng lại. Đôi mắt làm bằng hai viên đá màu đen của hắn nhìn một cách đần độn vào đống bùn đất - phần thi thể còn lại của hai chiến hữu. Và rồi hắn đột nhiên quay lại tung một nắm đấm thôi sơn thẳng vào bức tường. Cú đầu tiên giáng vào bên phải, cú thứ hai giáng vào bên trái. Một khoảng trống lớn phía bên phải của bức tường lộ ra, cho thấy không gian ở đằng sau. Tên Golem bước vào võ đường và nhìn ngó xung quanh, đôi mắt đen bất động và trơ cứng.
Bọn chuột trông lúc đó chạy thẳng về phía cánh cửa mở ổ phía cuối hành lang. Phần lớn bọn chúng thoát khỏi các thanh kiếm lưỡi liềm...
O O O
Trên chiếc Limousine đang phóng nhanh vùn vụt, Tiến sĩ John Dee thôi không còn tạo sóng điều khiển trên bọn chuột và bắt đầu tập trung sự chú ý của mình lên tên Golem sống sót còn lại. Điều khiển những các sinh vật nhân tạo như thế này dễ dàng hơn nhiều. Golem là những sinh vật không có trí óc. Chúng được tạo thành bằng bùn đất pha trộn với sỏi đá và được “thổi hồn”
thành sinh vật sống bởi một câu thần chú đơn giản viết trên một tấm da vuông vức được gắn vào trong miệng chúng. Các phù thủy đã tạo thành nhiều
tên Golem với nhiều hình dáng và kích thước khác nhau từ hàng nghìn năm trước: chúng chính là nguồn gốc của tất cả các câu chuyện về thây ma đội mộ sống dậy hay xác chết di động từng được kể. Ngay chính bản thân Dee cũng có một câu truyện về Golem “hoàng tráng” nhất trong tất cả mọi Golem. Đó là câu truyện về tên Golem Màu đỏ của Prague. Hắn đã kể câu truyện này cho Mary Shelley trong mùa đông lạnh lẽo khi mà cô ta, Ngài Byron, nhà thơ Shelley và Tiến sỹ đầy bí ẩn Polidora đến thăm lâu đài của hắn ở Thụy Sĩ năm 1816. Không đấy sáu tháng sau đó, Mary Shelley đã viết lên câu chuyện có tiêu đề Prometheus Hiện đại, cuốn sách mà sau này được biết đến một cách rộng rãi với tên gọi Frankenstein. Con quái vật trong cuốn sách của cô ta giống hệt như một con Golem: nó dược tạo thành bởi những thứ rời rạc dư thừa và tiến thẳng vào cuộc sống bằng khoa học ma thuật. Golem hầu như không thể bị hư hỏng dưới sự tấn công của phần lớn các loại vũ khí, mặc dù một cú rơi hay cú đánh đột ngột có thể làm vỡ nứt lớp da bùn của chúng. Sự thách thức còn đến với Golem đặc biệt ở những nơi có khí hậu khô cằn và khắc nghiệt. Ở những nơi ẩm ướt, lớp da bùn của chúng hiếm khi bị nứt và có thể chịu đựng bất kỳ hình phạt nào, nhưng khí hậu khô nóng làm cho chúng tan chảy - đó là lý do tại sao chúng bị những thanh kiếm hình bán nguyệt đốn ngã dễ dàng. Một số phù thủy dùng thủy tinh hay gươm để làm mắt cho Golem, nhưng riêng Dee ưa thích các viên đá đen nhặn bóng hơn cả. Những đôi mắt đá đen này cho phép hắn nhìn thấy các hình ảnh một cách sắc nét mặc dù chỉ trong một màu.
Dee điều khiển cho tên Golem còn lại ngẩng cao đầu lên phía trên. Ngay trên đầu hắn, hai chiếc ban công chật hẹp nhìn xuống phía võ đường, là hai khuân mặt xanh xao đầy kinh hoảng của hai đứa trẻ. Dee mỉm cười và đôi môi của tên Gloem cũng giãn ra một nụ cười tương tự. Hắn sẽ giải quyết Flamel trước, rồi sau đó sẽ đến lượt hai nhân chứng kia.
Đột nhiên đầu của Nicholas Flamel xuất hiện, tiếp theo vài giây sau đó là mái tóc đỏ của Nữ Chiến binh Scathach .
Nụ cười của Dee vụt tắt và hắn có thể cảm thấy mình nghẹt lại. Tại sao Scathach lại ở đây? Hắn không hề biết rằng nữ chiến binh tóc đỏ lại có mặt ở thành phố hay thậm chí là châu lục này vì sự kiện lúc ban chiều. Lần cuối cùng khi hắn nhìn thấy cô ta, Scathach đang hát trong một ban nhạc ở Berlin.
Thông qua đôi mắt của Golem, Dee quan sát cả Flamel và Scathach khi cả hai nhảy qua hàng rào chắn và đứng đối diện ngay trước mặt gã người bùn. Scathach nói thẳng vào mặt Dee - nhưng tên Golem này không có tai nên
không thể nghe thấy gì - và hắn không biết cô ta đang nói gì cả. Có thể là một lời đe dọa hay hứa hẹn gì đó.
Flamel tiến ra xa về phía cửa ra vào giờ đây đã tối đen và tràn ngập chuột. Ông rời khỏi trung tâm căn phòng, để lại Scatty đứng đối mặt vơi Dee và Golem.
Có thể là cô ta đã không còn cừ khôi như trước, hắn nghĩ một cách tuyệt vọng. Có thể thời gian sẽ làm sức của cô ta yếu dần đi.
O O O
“Chúng ta nên giúp đỡ,” Josh nói .
“Và làm gì?” Sophie hỏi, giọng cô vang lên không có chút gì là chế nhạo. Chúng đều đang đứng trên ban công và nhìn xuống võ đường. Chúng đều đang há hốc mồm nhìn cảnh Flamel và Scatty nhảy qua rào cản và trôi bồng bềnh trên sàn nhà. Cô gái tóc đỏ giờ đây đứng đối mặt với tên Golem, trong khi Flamel vội vã tiến về phía cửa ra vào dày đặc chuột. Những con thú xấu xí đen trũi này dường như ngần ngại không muốn tiến vào sâu trong phòng.
Không hề báo trước, tên Golem tung một nắm đấm dữ dội và tiếp theo sau đó là một nắm đấm dữ dội và tiếp theo sau đó là một cú đá trời giáng về phía Scatty.
Josh há miệng định kêu Scatty hãy coi chừng, nhưng cậu không có cơ hội để nói bất cứ tiếng nào trước khi Scatty cử động. Trong giây lát cô đứng ngay trước mặt tên Golem, rồi cô lập tức tung người về phía trước, cúi sát về phía dưới những đòn tấn công và sát gần đến tên Golem. Cánh tay cô di chuyển thành một vệt dài, và cô tung một cú đấm mạnh mẽ vào ngay giữa hàm của tên Golem. Một thứ chất lỏng lép nhép trào ra, rồi quai hàm của hắn bị tháo rời ra và miệng của hắn há rộng. Trong vòm họng tối đen của hắn, cặp sinh đôi có thể nhìn thấy rõ ràng một miếng giấy hình chữ nhật màu vàng.
Tên Golem vùng vẫy một cách điên dại và Scatty nhảy lùi lại một chút. Hắn tung ra một cú đá không trúng đích và đâm thẳng vào những tấm ván lót sàn nhẵn bóng, bẻ gãy chúng thành nhiều mảnh vụn.
“Chúng ra phải xuống giúp Scatty thôi!” Sophie nói.
“Bằng cách nào?” Josh hỏi to, nhưng chị gái cậu đã chạy thẳng vào nhà bếp, cố gắng tìm kiếm một vũ khí nào đó. Cô ló ra sau vài giây với một cái lò microwave trên tay. “Sophie,” Josh thì thầm, “chị định làm gì với....?”
Sophie cố kéo cái lò microwave ra phía sát rìa của rào chắn. Cái lò rơi thẳng vào ngực tên Golem và mắc kẹt ở đó, khiến cho những giọt bùn bắn tung tóe ra xung quanh. Tên Golem ngừng lại, bối rối và mất phương hướng. Nhân khi hắn đang quờ quạng, Scatty tận dụng cơ hội và tấn công hắn bằng những cú đá và cú đấm từ nhiều góc độ, do đó càng làm cho tên Golem rối trí hơn. Hắm kịp tung ra một cú đấm suýt chút nữa là trúng mái tóc đỏ của Scatty, nhưng cô chụp lấy cánh tay hắn và dùng nó là “điểm tựa” để ném mạnh tên Golem xuống sàn nhà. Các tấm ván lót sàn vỡ ra răng rắc. Rồi cánh tay của cô gái lại vươn ra.....và cô khéo léo giật tấm giấy hình vuông ra khỏi miệng của tên Golem.
Ngay lập tức tên Golem trở lại hình hài nguyên thủy - một đống bung hôi hám nhễu nhão. Nước bẩn và bụi đất chảy tràn lan trên sàn võ đường. Cái lò microwave cũng lăn lóc trên nền nhà.
“Em đoán là sẽ chẳng có ai dùng để nấu nướng gì nữa,” Josh thì thầm.
Scatty đưa tấm giấy hình vuông lên vẫy vẫy về phía hai chị em Josh. “Bất cứ sinh vật tạo nên bằng ma thuật nào cũng được thổi sức sống vào bằng một câu thần chú nằm bên trong cơ thể. Tất cả những gì phải làm đó là lấy nó đi để phá vỡ câu thần chú. Hãy nhớ lấy điều này.”
Josh liếc nhanh về phía chị mình. Cậu biết là cô cũng đang nghĩ giống như mình: nếu như chúng phải lại đối mặt với một tên Golem khác, chúng sẽ không có cách nào tiến đến gần để thò tay vào miệng hắn mà giật tấm giấy ra.
O O O
Nicholas Flamel tiến đến gần lũ chuột một cách thận trọng. Đánh giá thấp bọn này có thể sẽ dẫn đến cái chết. Nhưng dù ông không hề gặp bất kỳ khó khăn nào trong việc chiến đấu và hủy diệt các sinh vật vốn là những vật vô tri được tạo nên bằng ma thuật, ông thường do dự khi hủy diệt các sinh vật sống. Ngay cả khi chúng là lũ chuột. Perry đã chẳng hề ăn năn gì về những điều ông biết, nhưng từ rất lâu ông đã hành động như một nhà giả kim cống hiến đời mình cho việc phục vụ và giữ gìn cuộc sống thay vì hủy diệt nó. Những con chuột hiện đang nằm dưới sự điều khiển của Dee. Những con vật tội nghiệp có lẽ đang hoảng sợ..... dẫu rằng điều đó không ngăn cản chúng từ việc ăn thịt Flamel.
Flamel trườn người trên sàn nhà, lòng bàn tay phải của ông lên trên trong khi ông khum những ngón tay lại. Ông thổi nhẹ vào bàn tay mình và một quả
bóng nhỏ màu xanh lá cây lập tức xuất hiện. Rồi ông đột ngột xoay bàn tay lại và tung quả bóng vào sàn nhà nhẵn bóng. Những ngón tay ông thậm chí chạm rin rít và thọc sâu vào sàn nhà gỗ. Quả bóng chứa đầy năng lượng màu xanh lá cây bắn tóe xuống sàn thành một vệt dài. Thế rồi nhà giả kim nhắm mắt lại và luồng điện của ông tỏa sáng xung quanh cơ thể ông. Hết sức tập trung, ông lái cho năng lượng luồng điện của mình chảy từ những ngón tay xuống sàn nhà.
Sàn nhà gỗ bắt đầu rực sáng.
O O O
Từ nơi Sophie và Josh đang đứng, hai chị em không biết chắc chắn là Flamel đang làm gì. Chúng có thể nhìn thấy luồng điện màu xanh bừng sáng lên quanh cơ thể ông, vươn lên từ ông như lớp sương mờ ảo. Thế nhưng chúng không thể hiểu vì sao đám đông lúc nhúc những con chuột đang tụ tập gần cửa ra vào lại không xộc thẳng vào phòng.
“Có thể có một câu thần chú gì đó giữ không cho chúng tiến vào,” Sophie nói. Theo bản năng, cô tự hiểu là cậu em sinh đôi cũng đang nghĩ như vậy.
Scatty nghe thấy lời của Sophie. Cô đang cẩn thận xé miếng giấy màu vàng lấy ra từ miệng tên Golem thành nhiều mẩu vụn. “Đó là một câu thần chú Canh giữ rất đơn giản,” cô giải thích, “nó được dùng để giữ không cho vật ký sinh hay vi trùng tiến vào trong phòng. Sáng nào tôi cũng đến đây và tìm thấy nhiều con bọ hay bướm đêm rơi vương vãi. Phải mất hàng năm trời mới quét sạch chúng được. Câu thần chú Canh giữ không để cho bọn chuột đến gần hơn.....thế nhưng một khi câu thần chú được phá vỡ thì lũ chuột sẽ tràn tới.”
O O O
Nicholas Flamel rất ý thức rằng John Dee có thể nhìn thấy ông xuyên qua đôi mắt của lũ chuột. Ông cầm lấy con chuột lớn nhất có kích thước bằng cả một con mèo đang đứng bất động trong khi những con chuột khác đang chạy nhảy nhốn nháo xung quanh nó. Với bàn tay phải vẫn đang chôn sâu dưới sàn nhà, Flamel dùng tay trái chỉ thẳng vào con chuột. Con chuột co giật mạnh và trong thoáng chốc, đôi mắt nó lóe lên màu vàng bệnh hoạn.
“Tiến sĩ John Dee, ông đã phạm phải một sai lầm lớn nhất đời mình. Tôi sẽ tìm đến ông,” Flamel nói lớn.
O O O
Dee rời mắt khỏi chiếc đĩa Bói cầu và nhìn thấy Prenelle Flamel đang rất tỉnh táo và chăm chú nhìn hắn ta. “A, thưa quý, bà đã thức dậy kịp lúc để nhìn thấy các sinh vật của tôi đè bẹp chồng bà. Thêm nữa, cuối cùng thì tôi cũng có cơ hội để xử lý kẻ gây rắc rối Scathach, và tôi sẽ lấy lại hai trang đã mất của cuốn sách.” Dee không chú ý đến đôi mắt của Prenelle mở rông khi hắn nhắc đến tên của Scathach. “Tất cả ở cùng trong một chỗ. Thật là một ngày làm việc hiệu quả .” Hắn nói và tập trung chú ý vào con chuột lớn nhất, ra hiệu cho nó bằng hai câu đơn giản. “Tấn công. Tiêu diệt.”
Dee nhắm mắt lại trong khi con chuột duỗi thẳng người và lao thẳng vào phòng.
O O O
Luồng sáng vàng chảy từ các ngón tay của Flamel xuống sàn nhà và phác thảo lên rìa những tấm ván những đương viền màu vàng chói. Đột nhiên, từ sàn nhà gỗ mọc lên những cành, nhánh, lá và cả một thân cây...và một cây khác nữa. Chỉ trong giây lát, một “cánh rừng” đây cây mọc vươn lên từ sàn nhà với các cành nhánh bò dọc lên các bức tường và trần nhà. Một số thân cây chỉ nhỉnh hơn ngón tay một chút, một số khác dày bằng một vòng ôm của một cây gần phía cửa thực sự “cổ thụ” đến mức nó gần như che lấp cửa ra vào.
Lũ chuột quay tới quay lui, kêu chút chít cáu kỉnh trong khi chúng chạy ngược về phía hành lang, cố gắng một cách vô vọng để nhảy qua các thanh kiếm lưỡi liềm đang xé gió vun vút.
Flamel trườn người lui lại và đứng lên bằng hai chân. Ông phủi hai tay vào nhau. “Một trong những bí mật lâu đời nhất của thuật giả kim,” ông tuyên bố trước đôi mắt mở to kinh ngạc của cặp sinh đôi và Scatty, “đó là tất cả các vật thể sống, từ những sinh vật phức tạp nhất đến đơn giản nhất, đều mang những hạt giống sáng tạo ngay trong chính bản thân chúng.”
“DNA - cấu tử cơ bản của tế bào di truyền,” Josh thì thầm, mắt chăm chú nhìn vào cánh rừng rậm vừa trỗi dậy và vẫn đang vươn lên rậm rạp phía sau lưng Flamel.
Sophie đưa mắt nhìn quanh căn phòng từng là võ đường. Sàn nhà giờ đây bẩn thỉu và hôi hám bởi những dòng nước bùn dơ dáy. Những tấm ván lót sàn
bóng loáng đã vỡ vụn bởi những thân cây mọc lên trên chúng. Mùi hôi thối của bùn đất vẫn xông lên từ hành lang. “Có phải ý em là các nhà giả kim cũng biết về DNA?” cô hỏi.
Nhà Giả kim gật đầu một cách đầy phấn khởi. “Chính xác. Khi Watson và Crick tuyên bố là họ đã khám phá ra cái mà họ gọi là bí mật của cuộc sống vào năm 1953, họ chỉ đơn giản là tái khám phá điều mà các nhà giả kim vẫn đã luôn luôn biết.”
“Chú nói là chú đã đánh thức những cây DNA từ những tấm ván lót sàn và thúc ép cho chúng lớn dậy,” Josh nói, chọn lựa từ ngữ một cách cẩn thận. “Bằng cách nào?”
Flamel quay đầu nhìn về phía khu rừng giờ đây đã phủ kín võ đường. “Đó chính là ma thuật,” ông nói một cách vui mừng, “và chú đã không dám tin chắc là mình có thể thực hiện nó được nữa.....cho đến khi Scatty nhắc nhở chú,” ông nói tiếp.
Chương 10
“Để cháu nói rõ điều này nhé,” Josh Newman nói, cố gắng giữ cho giọng nói của mình vang lên hoàn toàn bình thường, “cả chú và Scatty đều không biết lái xe phải không? Cả hai người đều không biết lái?”
Josh và Sophie đang ngồi trên hai ghế trước của chiếc SUV mà Scatty vừa mượn được từ một trong những sinh viên võ thuật của cô. Josh đang lái xe còn Sophie thì trải rộng tấm bản đồ ra trong lòng. Nicholas Flamel và Scathach ngồi ở băng ghế đằng sau.
“Chú chưa bao giờ học lái cả,” Nicholas Flamel nói với một cái nhún vai ra chiều giải thích.
“Chưa bao giờ có thời gian,” Scatty nói ngắn gọn.
“Nhưng Nicholas nói chị hơn hai nghìn tuổi lận mà,” Sophie nói đưa mắt nhìn cô gái.
“Hai nghìn năm trăm mười bảy tuổi, theo như cách loài người đo lường thời gian bằng lịch của họ,” Scatty lầm bầm. Cô nhìn thẳng vào đôi mắt sáng rõ của Flamel, “Và trông tôi bây giờ khoảng bao nhiêu tuổi?”
“Mười bảy, không nhiều hơn một ngày,” ông nói vội vàng.
“Vậy chị không thu xếp được thời gian để học lái xe sao? ” Sophie gặng hỏi. Cô đã từng muốn học lái xe từ khi cô lên mười. Một trong những lý do mà cặp sinh đôi muốn làm thêm trong mùa hè năm nay hơn là di tham gia khai quật khảo cổ với cha mẹ chúng dó là vì chúng muốn kiếm tiền để mua xe hơi cho riêng mình.
Scathach nhún vai. “Tôi cũng có ý muốn học, nhưng cứ bận rộn suốt,” cô giải thích.
“Mọi người biết đó,” Josh nói một cách bâng quơ không với riêng một người nào trên xe , “là tôi đâu có thể lái xe mà trong tay không hề có một mảnh bằng lái xe nào.”
“Chúng tôi vừa tròn mười lăm và chúng tôi đều có thể lái xe,” Sophie nói.
“Hai đứa biết cưỡi ngựa không?”Flamel hỏi, “hay là điều khiển một chiếc xe ngựa với khoảng bốn con ngựa...”
“Ồ, không...” Sophie trả lời.
“Điều khiển một cỗ xe ngựa chinh chiến trong khi vừa bắn cung và phóng thương nữa?” Scatty hỏi thêm, “hay là vừa cưỡi thằn lằn vừa bắn súng cao su?”
“Em không biết loại thằn lằn đó là gì... và em cũng không chắc là mình muốn biết.”
“Vậy đó, thấy chưa, cháu không có chút kinh ngiệm với những kỹ năng như vậy cả,” Flamel nói, “Trong khi bọm chú biết những kĩ năng có thể là hơi xa xưa nhưng cũng không kém phần quan trọng và hữa ích.” Ông liếc nhìn Scathach, “ mặc dù vậy tôi cũng không chắc là loại thằn lằn bay đó có thật hay không.”
Josh ngừng lại ở cột đèn đỏ và rẽ phải, thẳng tiến về hướng cầu Cổng Vàng. “Cháu chỉ không hiểu vì sao chú và Scatty có thể sống qua Thế kỷ Hai mươi này mà không hề biết lái xe. Ý cháu là làm sao hai người có thể đi từ nơi này sang nơi khác được?”
“Dùng phương tiện giao thông công cộng thôi,”Flamel nói với một nụ cười hất hàm. “Phần lớn là tàu hỏa và xe buýt. Chúng là những phương tiện đi lại hoàn hảo mà không phải đòi hỏi người đi phải tiết lộ danh tính, không giống như máy bay và tàu thủy. Làm chủ một chiếc xe hơi sẽ kéo theo hàng lô hàng lốc các thứ giấy tờ liên quan phiền phức. Chính những giấy tờ ấy sẽ làm lộ ra tung tích của bọn chú, dù cho bọn chúng có dùng bao tên gọi và bí danh đi nữa.” Ông ngừng lại và tiếp lời, “Và bên cạnh đó, vẫn còn rất nhiều phương tiện đi lại khác, dù là cổ xưa hơn nữa.”
Josh muốn hỏi thêm hàng trăm câu hỏi, nhưng cậu phải tập trung dữ dội vào việc điều khiển chiếc xe to nặng. Dù cậu biết cách lái xe, thì những chiếc xe duy nhất cậu từng lái chính là những chiếc xe Jeep cũ kĩ khi hai chị em Josh cùng cha mẹ đi khai quật. Cậu chưa bao giờ lái xe như thế này trước đây và cậu cảm thấy hoảng sợ kinh khủng. Sophie gợi ý là cậu nên giả bộ như tất cả chỉ là trò chơi trên máy tính. Điều đó cũng giúp cậu được nhiều, nhưng hiệu quả không dươc bao nhiêu. Trong trò chơi, khi bạn lái xe tông vào ai đó, bạn chỉ cần bắt đầu lại trò chơi một cách đơn giản. Còn bây giờ mà tông xe vào đâu đó thì coi như tiêu đời.
Xe cộ trên cầu đang trong tình trạng mắc kẹt. Một chiếc xe Limo dài màu xám bị hư và đang nằm ì ra giữa một làn đường và tạo thành một chiếc cổ
chai. Khi xe của họ tiến tới, Sophie để ý thấy có hai người đàn ông mặc đồ đen với mũ choàng đầu đang đứng trong khu vực hành khách. Cô nhận ra mình nín thở khi họ đến gần và tự hỏi có phải đó là hai tên Golem hay không. Cô thở phào nhẹ nhõm khi họ đi qua và khám phá ra hai người đàn ông trông giống như những kế toán viên. Josh liếc nhìn cô gái, cố nở nụ cười nhăn nhở, và cô hiểu ngay là cậu cũng đang có ý nghĩ như cô .
Sophie cuộn mình trong ghế ngồi, và quay đầu nhìn Flamel và Scatty. Trong không gian hơi tối có máy điều hòa không khí của chiếc SUV, trông họ giống như những người bình thường: Flamel giống như một hippy lỗi thời và Scatty, mặc cho phong cách ăn mặc rất “nhà binh”, trông giống như cô vừa bước ra từ đằng sau quầy thu ngân của tiệm Tách Cafe. Cô gái tóc đỏ đang ngồi chống tay lên cằm, đôi mắt nhìn chăm chú xuyên qua lớp kính đen hướng về phía Alcaraz.
Nicholas Flamel quay đầu theo hướng nhìn của cô. “Lâu rồi chưa ghé đó,” ông thì thầm.
“Tụi cháu đã đi thăm nơi đó rồi,” Sophie nói.
“Cháu rất thích,” Josh nói ngay,”Sophie thì không.”
“Chỗ đó làm rùng mình.”
“Đúng như thế,” Flamel nói nhỏ,”đó chính là ngôi nhà của nhiều loại ma và linh hồn náo loạn khác thường. Lần gần đây nhất khi chú đến đó là để dẹp yên một gã Người rắn xấu xí kinh khủng. ”
“Cháu không chắc là mình muốn biết Người rắn trông như thế nào,” Sophie thì thào, rồi ngừng lại. “Chú biết đó, chỉ cách đây vài tiếng, cháu chưa bao giờ tưởng tượng là mình sẽ nói những lời như thế này?”
Nicholas Flamel ngả người dựa vào lưng ghế êm ái, hai tay khoanh trước ngực. “Cuộc đời của hai đứa cháu- từ nay đã vĩnh viễn thay đổi. Cháu biết điều đó mà, phải không?”
Sophie gật đầu. “Mọi thứ đang ngấm dần. Mọi chuyện diễn ra quá nhanh đến mức khó mà tiếp thu tất cả ngay được. Bọn người bùn, ma thuật, cuốn sách chứa các câu thần chú, chuột...” Cô nhìn Scathach. “Chiến binh cổ đại...”
Scatty gật đầu ra ý nhận biết.
“Và tất nhiên, một nhà giả kim sáu trăm tuổi...” Sophie ngừng lời, một ý
nghĩ đột ngột lóe lên trong óc. Cô nhìn Flamel rồi đến Scatty rồi lại nhìn Flamel. Rồi cô im lặng vài giây đế sắp xếp câu hỏi của mình. Nhìn chằm chằm vào người đàn ông, cô hỏi : “Chú là người, đúng không?”
Nicolas Flamel mỉm cười. “Đúng thế. Có lẽ là một chút gì đó khác hơn người, nhưng đúng là chú được sinh ra và sẽ thuộc về một trong những giống loài của con người.”
Sophie nhìn sang Scathach. “Còn chị là...”
Scathach mở rộng đôi mắt xanh lá cây của mình, và trong chớp mắt, một vẻ gì đó khó tả hiện lên trên khuôn mặt của cô. “Không”, cô nói rất nhỏ. “Tôi không thuộc về giống loài của con người. Giống loài của tôi thuộc về một thế giới khác, loài Elder. Chúng tôi đã từng thống trị thế giới này trước khi những sinh vật sau này biến thành người trèo xuống mặt đất từ trên cây. Ngày nay, chúng tôi được nhớ đến trong các thần thoại với nhiều chủng loài khác nhau. Chúng tôi là những sinh vật của thần thoại, thị tộc, Ma cà rồng, Khổng lồ, Rồng, Quái vật.Trong các câu chuyện kể, chúng tôi được biết đến như là Bọn Già hay Giống loài Elder. Một số câu chuyện mô tả chúng tôi như những vị thần.”
“Có phải chị từng là một vị thần?” Sophie thì thầm.
Scatty cười khúc khích. “Không. Tôi chưa bao giờ là thần. Nhưng một số trong giống loài của tôi cho phép họ được tôn thờ như những vị thần. Một số khác đơn giản là biến thành thần thánh và con người kể cho nhau nghe về những cuộc phiêu lưu của họ. “Cô nhún vai. “Chúng tôi chỉ là một số giống loài khác, giống loài đó già hơn cả loài người, với những kỹ năng và khả năng trời phú khác.”
“Chuyện gì đã xảy ra?” Sophie hỏi.
“Nạn lụt,” Scatty nói nhỏ nhẹ, “cùng với những cái khác.”
“Trái đất này già hơn rất nhiều so với nhiều người vẫn nghĩ,” Flamel mói nhỏ. “Những sinh vật và giống loài được con người nhắc đến trong thần thoại đã có thời đi lại và sinh sống trên thế giới này.”
Sophie gật đầu một cách chậm rãi. “Cha mẹ của chúng cháu là những nhà khảo cổ học. Họ từng nói cho tụi cháu nghe về những điều kỳ lạ mà khảo cổ học thỉnh thoảng hé lộ. ”
“Chị có nhớ nời mà chúng ta đến thăm ở Texas, tên là Taylor gì đó...” Josh nói, cẩn thận lái chiếc SUV nặng nề vào làn đường chính giữa. Cậu chưa
bao giờ lái một chiếc xe to như thế này trước đây, và rất hoảng sợ khi nghĩ là xe sắp đâm bổ vào cái gì đó. Có vài lần cậu suýt đụng trúng và có vẻ như đã va vào gương bên hông của chiếc xe ai đó, nhưng rồi cậu tiếp tục lái trong im lặng.
“Đường mòn Taylor,” Sophie nói, “cạnh dòng sông Paluxy ở Texas. Đã có những thứ trông giống như dấu chân khủng long và dấu chân người cùng xuất hiện trên một mẫu hóa thạch. Và viên đá hóa thạch đó có đến 100 triệu tuổi. ”
“Chú đã từng thấy nó,” Flamel nói, “và những thứ như vậy nằm khắp trên thế giới. Chú cũng đã nghiên cứu dấu giầy được tìm thấy ở Antelope Springs ở Utah... in trên một tảng đá khoảng 500 triệu năm tuổi.”
“Ba của cháu nói là những thứ như vậy có thể dễ dàng bị bỏ qua hoặc bị xem như là một sự lý giải thực tế sai lầm, ” Josh nói nhanh. Cậu tự hỏi không biết ba mình sẽ nói gì về những chuyện mà chị em Josh gặp phải hôm nay.
Flamel nhún vai. “Đúng là như vậy. Nhưng những gì mà khoa học không thể hiểu nổi thường bị bỏ qua. Không phải mọi thứ đều có thể phân tích rõ ràng. Cháu có thể cho rằng những gì mình nhìn thấy và trải nghiệm hôm nay là một sự diễn dịch sai lầm thực tế hay không?”
Sophie lắc đầu.
Bên cạnh cô, Josh nhún vai một cách không thoải mái. Cậu không thích hướng phát triển của cuộc đàm thoại này. Việc khủng long và con người cùng chung sống trong một thời điểm đơn giản là không thể chấp nhận được. Ý kiến này đã đi ngược lại hoàn toàn với những gì ba cậu đã dạy cho hai chị em và những gì mà họ tin tưởng. Nhưng ở đâu đó trong trí não của Josh, vẫn có một giọng nói nhỏ vang lên nhắc nhở cậu rằng hàng năm vẫn có những nhà khảo cổ học - trong đó gồm có cả ba mẹ cậu- tiếp tục khám phá ra những điều lạ thường. Vài năm trước, điều kì diệu đó chính là giống người nhỏ bé Homo ở Idonesia với tên gọi là Hobbit, tiếp theo đó là những loài khủng long tí hon được phát hiện ở Đức, rồi những dấu vết của loài khủng long đã từng tồn tai cách đây chừng một trăm sáu mươi lăm triệu năm được tìm thấy ở Wyoming. Và chỉ mới đây thôi, đã có đến tám chủng loại tiền sử mới vừa được khám phá ở Israel. Nhưng những gì Flamel vừa nói chứa đầy mâu thuẫn. “ Chú nói rằng con người và khủng long tồn tại trên trái đất cùng một thời điểm,”cậu nói, và ngạc nhiên nhận ra giọng nói của mình chứa đầy giận dữ.
“Chú nói rằng con người đã tồn tại trên trái đất này với những sinh vật rất kỳ lạ và chúng con già hơn loài khủng long rất nhiều ,” Flame nói một cách
nghiêm túc.
“Làm sao chú biết dược điều đó?” Sophie gặng hỏi. Ông ta nói là ông sinh năm 1330, nên ông không thể thấy loài khủng long... có phải thế không?
“Tất cả đều được ghi rõ trong cuốn Codex...và trong cuộc đời lâu dài của mình, chú đã nhìn thấy những quái vật vốn được xem như những thần thoại. Chú đã đánh nhau với những người được xem như là huyền thoại. Chú đã đối mặt với những sinh vật trông như vừa bò ra từ những cơn ác mộng.”
“Bọn cháu vừa học Shakespeare ở trường trong học kì vừa qua... và có một câu từ Hamlet.” Sophie nói, cố gắng nhớ lại. “Có rất nhiều thứ khác hơn nữa trên thiên đường và trái đất...”
Nicholas Flame gật đầu tán thưởng “... mà chúng thường được mơ tưởng đến trong triết lý của ngươi,” ông hoàn thành câu trích dẫn. “Hamlet , hồi một, cảnh năm. Tất nhiên là chú từng biết Will Shakespeare. Bây giờ Will có thể chở thành một nhà giả kim với tài năng phi thường ...nhưng lúc đó ông ta rơi vào nanh vuốt của Dee. Thật tôi nghiêp cho Will. Các cháu có biết là ông ta đã tạo ra nhân vật Prospero trong vở kịch giấc mộng đêm hè dựa trên nguyên mẫu tiến sĩ John Dee hay không?”
“Tôi chưa bao giờ thích Shakespeare cả,”Satty thì thầm. “Ông ta rất thối.”
“Chú biết Shakespeare à? ”Josh không thể che dấu nỗi kinh ngạc tỏ vẻ không tin trong giọng nói của mình.
“Ông ta từng là sinh viên của chú trong một thời gian ngắn, rất ngắn thôi,” Flame nói “Chú sống lâu, chú có rất nhiều sinh viên- một số được lưu danh vào lịch sử, một số khác bị lãng quên. Chú đã gặp rất nhiều người, con người và không phải con người, bất tử và không bất tử. Những người như Scathach,” Flamel kết luận.
“Có nhiều người giống như chị...nhiều người thuộc Giống loài Elder?” Sophie hỏi, mắt nhìn cô gái tóc đỏ.
“Nhiều hơn là cô nghĩ đấy, mặc dù tôi cố gắng không gia nhập cùng với bọn họ, ” Scatty nói với vẻ căng thẳng. “Có rất nhiều kẻ trong Giống loài Elder không chịu thừa nhận rằng thời đại của Elder đã thuộc về quá khứ và thời đại hiện tại đang thuộc về loài người. Họ muốn được nhìn thấy sự trở lại huy hoàng của những ngày xưa cũ, và họ tin rằng con rối Dee của họ cùng những kẻ giống như hắn sẽ có vai trò giúp họ quay trở lại thời hoàng kim đó. Những kẻ đó được gọi là Elder Đen tối.”
“Cháu không biết là có ai để ý thấy không,” Josh nói cách đột ngột , “nhưng mọi người có thấy là có rất nhiều chim đang tụ tập quanh đây?”
Sophie quay lại để nhìn chăm chú xuyên qua kính chắn gió xe hơi, trong khi Flamel và Scatty nhìn chằm chằm xuyên qua ô cửa sổ phía sau.
Những trụ cầu, tháp cầu, dây nối, dây thừng và dây điện của chiếc cầu Cổng Vàng đang dần dần được phủ dày bởi những con chim: hàng nghìn con. Phần lớn đó là quạ và chim két. Chúng đậu đen đặc trên tất cả những nơi nào có thể và càng lúc càng kéo đến đông hơn.
“Tụi nó đến từ Alcatraz đó,” Josh nói, cậu cúi đầu nhìn xuống mặt nước bập bềnh xao động hướng về hòn đảo.
Một đám mây đen đã xuất hiện ngay phía trên Alcatraz. Nó hiện lên ngay phía trên khu nhà tù bỏ hoang trong hình thù uốn lượn và bây giờ lơ lửng giữa thinh không như khói, nhưng đám khói này mãi không tan đi: nó chuyển động và xoáy tròn thành một khối đen đặc quánh.
“Những con chim,” Josh nuốt nước bọt một cách khó nhọc ”Phải có đến hàng nghìn con.”
“Mười nghìn con,” Sophie chỉnh lại. Cô quay đầu nhìn Flamel. “Chúng là gì thế?”
“Những đứa con của Morrigan,” ông nói một cách bí ẩn.
“Rắc rối,” Scatty nói tiếp.”Rắc rối to rồi đây.”
Và rồi, như thể đang được điều khiển bởi một mệnh lệnh nào đó, đám đông khổng lồ những con chim bay khỏi hòn đảo và hướng thẳng về phía cây cầu.
Josh bấm cái nút bên cửa sổ và tấm kính màu bắt đầu hạ xuống. Âm thanh của đàn chim vang lên ầm ĩ, tiếng quạ kêu rè rè khàn đặc nghe như một tràng cười đinh tai. Xe cộ trên cầu di chuyển một cách chậm chạp, một số người thậm chí đã chui ra khỏi xe để chùm hình lũ chim bằng máy kỹ thuật số hay điện thoại di động.
Nicholas Flamel chồm lên phía trước và đặt tay trái của mình lên vai Josh. “Cháu nên tập trung lái xe,” ông nói nghiêm túc. “Đừng ngừng lại...dù cho bất kì chuyện gì xảy ra đi nữa, ngay cả khi cháu đụng phải một vật nào đó. Cứ lái. Càng nhanh càng tốt. Phải ra khỏi cây cầu này.”
Có một điều bất bình thường nào đó trong giọng nói cố giữ cho có vẻ bình
thản của Flamel khiến cho Sophie cảm thấy hoảng sợ còn hơn là khi ông hét to lên. Cô liếc nhìn sang phía Scatty, nhưng cô gái trẻ đang lục lọi ba lô của mình. Nữ Chiến binh lôi ra một cây cung nhỏ và một nắm mũi tên và đặt chúng lên ghế bên cạnh. “Kéo cửa kính lên,Josh,” cô nói bình tĩnh, “chúng tôi không muốn bất cứ cái gì lọt vào đây.”
“Chúng ta đang gặp rắc rối, đúng không?” Sophie thì thầm, mắt nhìn Nhà Giả kim.
“Chỉ khi nào bọn quạ bắt được chúng ta mà thôi,” Flamel nói với nụ cười mỉm. “Chú có thể mượn điện thoại di động của cháu được không?”
Sophie rút điện thoại ra khỏi túi áo và mở nắp trượt. “Có phải là chú sắp thực hiện ma thuật không?” cô hỏi một cách đầy hi vọng.
“Không, chú sẽ gọi điện thoại. Hãy hy vọng là chúng ta sẽ không gặp phải một cái máy trả lời tự động.”
Chương 11
Những cánh cửa bảo vệ mở ra và chiếc xe Limousine màu đen của Dee ngoặt vào chỗ cửa vừa mở. Tay tài xế Golem đã khéo léo điều khiển chiếc xe băng qua những cánh cửa lắp chắn song để chui xuống bãi đậu xe dưới tầng hầm. Perenelle Flamel lảo đảo và ngã dựa vào tên Golem sũng nước đang ngồi phía bên phải của bà. Cơ thể hắn kêu lên lép nhép trước cú dựa và những giọt bùn hôi thối văng tung tóe khắp nơi.
Tiến sĩ John Dee, đang ngồi ở trước, nhăn mặt vẻ ghê tởm và cố sức ngồi xích ra xa gã Golem ướt đẫm. Hắn nói chuyện rất khẩn cấp với ai đó trong điện thoại cầm tay bằng một thứ ngôn ngữ đã hơn ba nghìn năm nay không còn được sử dụng trên trái đất.
Một giọt bùn của tên Golem nhỏ lên bàn tay phải của Perenelle. Nó chảy dài trên da thịt của bà ...và xóa đi biểu tượng hình xoắn mà Dee đã vẽ lên trên da bà.
Một phần của câu thần chú giam giữ đã được phá vỡ. Perenelle Flamel nhè nhẹ cúi đầu xuống. Cơ hội của bà đã đến. Để kết nối luồng điện của mình bà thật sự phải dùng đến cả hai tay, và thật không may biểu tượng giam giữ mà Dee vẽ lên trên trán đã ngăn cản không cho bà nói.
Cho đến khi...
Perenelle Delamere luôn luôn yêu thích khám phá phép thuật, ngay cả trước khi cô gặp người bán sách nghèo khổ mà sau đó cô đã lấy làm chồng. Cô là con gái thứ bảy của một bà mẹ cũng là con thứ bảy trong gia đình. Trong một ngôi làng nhỏ thuộc Quimber nằm ở phía tây bắc nước Pháp, nơi cô lớn lên, cô được mọi người xem là đặc biệt. Bàn tay của cô có thể chữa lành vết thương - không những trên người mà còn trên loài vật. Cô có thể nói chuyện với vong hồn người chết và thỉnh thoảng cô còn nhìn thấy chút ít tương lai. Nhưng vì lớn lên trong một thời điểm khi mà những kỹ năng như thế thường được quan sát với thái độ nghi ngờ, cô đã học được khả năng giữ những kỹ năng đó cho riêng mình. Khi cô lần đầu tiên đến Paris vào năm 1334, cô đã nhìn thấy những thấy bói hành nghề ở những ngôi chợ phía sau lưng Nhà thờ Đức Bà Parisc và họ làm ăn rất khấm khá nhờ tài bói toán. Lấy tên là Cat Noir - Mèo Đen - dựa vào mái tóc đen huyền của mình, cô cũng
mở một gian hàng nhỏ cho riêng mình ở ngay cạnh Nhà thờ. Chỉ trong vòng vài tuần lễ cô đã nổi tiếng là một thầy bói tài năng xuất chúng. Những khách hàng của cô thay đổi: không chỉ là những người buôn bán nhỏ hay chủ sạp mà còn có những thương gia và thậm chí cả những nhà quý tộc.
Ngay sát với gian hàng nhỏ của cô là những người đàn ông làm nghề sao lục và phác thảo tài liệu. Họ kiếm sống bằng cách viết thuê cho những người không biết đọc hay biết viết. Một trong số họ là người đàn ông mảnh khảnh tóc đen với đôi mắt ngời sáng màu xanh xám thường bay sách ra bán trên bàn. Và ngay từ khoảnh khắc đầu tiên khi cô nhìn thấy người đàn ông đó, Perenelle Delamere biết rằng cô sẽ lấy người đàn ông này và họ sẽ cùng chia sẻ một cuộc sống hạnh phúc bền lâu bên nhau. Cô chỉ không bao giờ nhận biết được bao lâu mà thôi.
Họ cưới nhau sáu tháng ngay sau lần đầu tiên gặp gỡ. Tính đến nay họ đã sống bên nhau hơn sáu trăm năm.
Giống như phần lớn những người đàn ông có học ở thời đại của mình, Nicholas Flamel rất thích thú tìm tòi thuật giả kim - một sự kết hợp giữa khoa học và ma thuật. Niềm đam mê của Flamel được nuôi dưỡng nhờ việc ông thường nhận được những yêu cầu về sách dạy thuật giả kim hay đồ thị về thuật giả kim để bán hoặc được yêu cầu sao chép một số tác phẩm quý hiếm. Không giống như phần lớn phụ nữ cùng thời, Perenelle có thể đọc - tiếng Hy Lạp của cô tốt hơn so với chồng mình - và ông thường nhờ cô đọc giúp mình. Perenelle nhanh chóng yêu thích hệ thống cổ đại của mà thuật và cô bắt đầu rèn luyện ma thuật bằng những phương pháp nhỏ, phát triển các khả năng của mình, tập trung vào cách bắt nhịp và sử dụng triệt để năng lượng luồng điện của mình.
Vào thời điểm khi mà cuốn Codex đến với vợ chồng Flamel, Perenelle lúc đó đã là một nữ phù thủy, mặc dù cô có ít kiên nhẫn trong việc học toán và các công thức toán của thuật giả kim. Dù sao, chính Perenelle là người nhận ra rằng cuốn sách được viết bằng thứ ngôn ngữ kỳ lạ chưa từng thấy này, không chỉ viết về lịch sử thế giới mà là tập hợp của học vấn, truyền thuyết, khoa học, thần chú và bùa phép. Cô đã từng miệt mài nghiên cứu các trang sách của nó trong một đêm mùa đông lạnh giá, nhìn những dòng chữ bò ngoằn ngoèo trên trang giấy khi mà từng con số kết nối và tái kết nối liên tục và trong một khoảnh khắc, cô đã nhìn thấy công thức cơ bản của Hòn đá Phù thủy, và lập tức nhận ra đó chính là bí mật về sự bất tử của cuộc sống.
Hai vợ chồng Flamel đã bỏ ra hai mươi năm tiếp theo đó để đi đến từng quốc gia ở châu Âu. Họ đi từ phía đông sang miền đất của Rus, phía nam của Bắc Phi, thậm chí cả Ả - rập trong nỗ lực giải mã và diễn dịch cuốn sách đầy bí ẩn kia. Họ liên lạc với các phù thủy, pháp sư trên nhiều vùng đất, và học tập nhiều loại ma thuật khác nhau. Nicholas chỉ quan tâm một cách lờ mờ đến ma thuật, ông thích khoa học giả kim hơn. Cuốn Codex, và những cuốn sách khác giống như nó, hé lộ rằng luôn có những công thức riêng biệt để chế tạo ra vàng từ đá và kim cương từ than. Perenelle, ngược lại, ra sức nghiên cứu càng nhiều càng tốt về nghệ thuật ma thuật. Nhưng, đã lâu lắm rồi bà không rèn luyện nó một cách nghiêm túc.
Giờ đây, bị giam giữ trong chiếc Limo, bà nhớ lại một chiêu thức mà bà đã học được từ Strega - một phù thủy - trên ngọn núi của Sicily. Chiêu này để xử lý các hiệp sĩ mang áo giáp, nhưng với một chút ít điều chỉnh....
Nhắm chặt mắt và tập trung cao độ, Perenelle miết ngón tay út của mình thành một vòng tròn lên trên bề mặt chiếc ghế xe hơi. Dee đang đắm chìm trong cuộc nói chuyện điện thoại và không hề nhìn thấy tia sáng trắng lóe lên từ ngón tay bà xuống bề mặt da đắt tiền. Tia sáng chạy dọc theo lớp vỏ bọc bằng da và cuộn xoáy vào lớp lò xo phía dưới. Có tiếng kêu xèo xèo, xì xì khi tia sáng chạy vào các lò xo rồi đến các bộ phận kim loại của chiếc xe. Nó luồn lách vào máy, các xilanh, cuộn tròn theo các bánh xe và phát ra những tiếng lách tách, phì phì. Một cái vỏ xe bất ngờ nổ tung và văng ra.... và rồi hệ thống điện của chiếc xe hơi bị rối tung một cách đột ngột. Các cửa sổ mở và đóng loạn xạ theo một nhịp điệu riêng, mui xe bật mở rồi đóng sầm lại, những cần gạt nước ở kính chắn gió khua khoắng lung tung trên mặt kính khô ráo với nhịp điệu điên cuồng, còi xe bắt đầu ré lên đinh tai nhức óc. Ánh sáng trong xe chớp tắt liên hồi. Cái tivi nhỏ treo ở phía góc xe bên trái tự nhiên bật mở và màn hình xuất hiện những hình ảnh làm hoa mắt khi tivi nhảy từ kênh này sang kênh khác.
Không khí đột ngột sực nức mùi kim loại. Những tia điện từ nhảy loạn xạ trong xe. Dee quăng máy điện thoại ra xa, xoa lấy xoa để những ngón tay tê cóng. Chiếc điện thoại rơi xuống sàn xe lót thảm và nổ tung thành những mảnh nhựa và kim loại nóng chảy.
“Bà......” Dee gằn giọng, quay về phía Perenelle , nhưng chiếc xe chết máy và ngừng hoạt động hoàn toàn. Lửa bùng lên từ bộ máy , phủ đầy phần sau của chiếc xe những làn khói dày đặc. Dee bấm vào cánh cửa nhưng ổ khoá điện đã khoá cứng cánh cửa. Dee rú lên đầy giận dữ, bàn tay hắn nắm chặt
thành một nắm đấm và hắn để cho cơn giận dữ trào lên sùng sục. Mùi hôi ngột ngạt của khói, của nhựa chảy và cao su nóng chảy trộn lẫn với mùi hôi nồng nặc của lưu huỳnh và trên tay hắn bỗng nhiên xuất hiện một chiếc găng tay màu vàng lấp lánh. Dee đâm thẳng xuyên qua cánh cửa, phá tung bản lề, và hắn tung người nhào ra khỏi xe xuống thẳng nền xi măng bên ngoài.
Hắn đứng giữa bãi đậu xe hơi dưới tầng hầm của công ty Enoch, tập đoàn giải trí lớn nhất mà hắn sở hữu hở San Franciso. Hắn bò lết trở lại về phía chiếc xe có nhiều đặc điểm thiết kế riêng theo ý thích cá nhân hắn với trị giá một trăm năm mươi nghìn đô la nay đã bị ngọn lửa ngấu nghiến. Hơi nóng dữ dội từ mui xe toả vào những khối kim loại, trong khi kính chắn gió chảy như sáp đèn cầy. Tên Golem tài xế vẫn ngồi nơi bánh lái. Hắn không bị sức nóng ảnh hưởng và đang làm râm da mình bằng kim loại rắn.
Lúc đó, hệ thống phun chống cháy tự động của bãi đậu xe bắt đầu hoạt động, và những tia nước lạnh buốt dội thẳng vào đám cháy.
Perenelle!
Ướt sũng, run rẩy và ho khùng khục, Dee đưa tay chùi đôi mắt ràn rụa nước. Hắn duỗi tay và dùng cả hai tay để dập tắt đi ngọn lửa. Hắn kêu gọi một làn gió nhẹ thổi tới để xua tan màn khói, rồi thò đầu nhìn quanh quất vào phía bên trong tối thui của chiếc xe trong nỗi sợ hãi về những gì hắn có thể sẽ nhìn thấy.
Hai tên Golem ngồi sát bên Perenelle giờ đây chẳng còn gì ngoài một đống tro tàn. Nhưng không hề có một dấu vết nào của người phụ nữ - ngoại trừ một vết rách ở cửa ra vào đối diện giống như là ai đó đã rạch nó bằng một chiếc rìu.
Dee cúi đầu sát đất lưng quay về phía chiếc xe bị tàn phá và đưa cả hai tay đào bới đống hỗn độn của bùn đất, xăng dầu, nhựa cháy, cao su nóng chảy. Hắn đã không chiếm được cuốn Codex nguyên vẹn và bây giờ thì Perenelle đã trốn thoát. Ngày hôm nay còn gì có thể tồi tệ hơn?
Có tiếng bước chân đi đến gần.
Từ phía đuôi mắt mình, Tiến sĩ John Dee nhìn thấy đôi giày ống mũi nhọn cao gót màu đen đang tiến đến sát mình. Và hắn biết là câu trả lời cho câu hỏi của hắn đã đến. Ngày hôm nay sắp kết thúc một cách tồi tệ: tồi tệ hơn rất nhiều. Cố nở một nụ cười tê tái, hắn đứng lên một cách khó nhọc trên hai chân và quay lại đối mặt với một trong những kẻ hiếm hoi của Giống loài
Elder Đen tối khiến hắn cực kì khiếp hãi.
“Morrigan”
Những người Ireland cổ đại đã gọi bà ta là Nữ thần Quạ, và bà ta đã được thờ cúng và kính sợ trong các quốc gia của Celtic với cái tên Nữ thần của Chết chóc và Phá hủy. Đã có một thời họ có ba chị em: Badb, Macha và Morrigan, thế nhưng hai nữ chúa kia đã biến mất theo thời gian - Dee có những nghi ngờ của riêng hắn về sự biến mất của họ - và Morrigan giờ đây nắm ngôi vị bá chủ.
Bà ta cao hơn Dee, hầu như ai cũng cao hơn Tiến sĩ, và phủ kín từ đầu đến chân bằng trang phục da thuộc màu đen. Áo chẽn của bà ta được trang trí bằng những chiếc khuy bạc trông như kiểu áo giáp thời Trung cổ, và đôi găng tay da cũng được đính những khuy bạc hình chữ nhật dọc theo phía sau các ngón tay. Đôi găng tay không hề có các ngón tay, để lộ những móng tay dài sắc nhọn như lưỡi mác của Morrigan. Bà ta đeo một chiếc thắt lưng da to bảnvới những cái khiên hình tròn vòng quanh thắt lưng. Phủ choàng qua hai vai với chiếc mũ chùm đầu quấn quanh khuôn mặt Morrigan và có đuôi quét gần sát mặt đất là một chiếc áo choàng không tay làm bằng lông quạ đen nhánh.
Dưới bóng phủ của chiếc mũ trùm đầu, khuôn mặt của Morrigan trông xanh xao một cách khác thường. Đôi mắt bà đen màu hạt huyền hầu như không có tròng trắng, ngay cả đôi môi của bà cũng có màu đen, và những chiếc răng cửa dài quá lố chìa ra phía bên trên môi dưới.
“Cái này là của ông, ta tin là vậy.” Giọng nói của Morrigan vang lên như một tiếng thì thầm the thé, giọng của bà ta nghe rời rạc và trầy xước như tiếng quạ kêu.
Perenelle Flamel bị đẩy về phía trước. Bà tiến tới một cách chậm rãi và cận thận. Hai con quạ to đậu trên vai bà và cả hai con đều hướng cặp mỏ nhọn hoắt như dao cạo về phía gần với đôi mắt của Perenelle một cách đầy đe dọa. Bà mới chỉ trườn ra khỏi chiếc xe bốc cháy với một cơ thể suy kiệt do sử dụng ma thuật thì bọn quạ lao tới tấn công bà.
“Ta muốn nhìn thấy nó,” Morrigan yêu cầu một cách sôi nổi.
Dee thò vào bên trong chiếc áo khoác và lôi ra cuốn sách mạ kim loại Codex. Thật ngạc nhiên làm sao, Nữ thần Quạ không hề với tay ra để chạm vào nó.
“Mở nó ra,” bà ta nói.
Với vẻ bối rối, Dee đua cuốn sách tới gần Morrigan và lật giở các trang giấy. Hắn nâng niu cuốn sách cổ trên tay với vẻ tôn kính cao độ.
“Cuốn sách của pháp sư Abraham,” bà ta thì thầm, hơi chồm người tới trước nhưng vẫn không chạm vào cuốn sách. “Lật cho ta xem phần cuối của nó đi.”
Một cách lưỡng lự, Dee giờ tới phần cuối cùng của cuốn sách. Khi Morrigan nhìn thấy dấu vết lem nhem của những trang sách bị xé, bà ta rít lên trong cơn giận dữ. “Phạm thượng. Cuốn sách này đã tồn tại suốt mười nghìn năm mà không hề bị hư hại chút gì.”
“Thằng bé đó đã giật nó ra từ tay tôi,” Dee giải thích và nhẹ nhàng đóng quyển sách lại.
“Ta sẽ đảm bảo rằng hắn rồi phải trả giá.” Nữ thần Quạ nhắm mắt lại và khẽ nghiêng đầu qua một bên như thể bà ta đang lắng nghe. Đôi mắt đen của bà lóe sáng và rồi đôi môi của bà giãn ra thành một nụ cười hiếm hoi để lộ hàm răng sắc nhọn. “Hắn sẽ sớm phải chịu đựng; những đứa con của ta hầu như đã đuổi kịp bọn chúng. Tất cả bọn chúng đều sẽ phải trả giá,” bà ta hứa hẹn.
Chương 12
Josh để ý thấy một khoảng hờ giữa hai chiếc xe hơi - một chiếc VW Beetle và một chiếc xe Lexus. Cậu đưa chân nhấn mạnh phía dưới sàn và chiếc xe nặng nề lao về phía trước. Nhưng khoảng trống không đủ rộng. Chiếc SUV quệt vào những chiếc kính phía bên hông của hai chiếc xe khác tạo ra một vụ va đụng nhỏ. “Ối...” Josh la lên và ngay lập tức thả chân ra.
“Chạy tiếp đi,” Flamel đề nghị một cách dứt khoát. Ông cầm chiếc điện thoại di động của Sophie trên tay và đang nói khẩn thiết vào đó với một thứ ngôn ngữ lạ lùng mà cặp sinh đôi chưa bao giờ nghe trước đó.
Quyết thôi không còn nhìn vào kính chiếu hậu, Josh cho xe vút lên phía trước, bỏ lơ những tiếng còi xe và những tiếng la hét phía đằng sau. Cậu cứ luồn lách chiếc xe từ phía ngoài vào chính giữa rồi lại ra ngoài, chỉ để xe vượt lên bằng bất cứ giá nào.
Sophie bám chặt vào chiếc đồng hồ chỉ tốc độ, cố quan sát mọi thứ qua đôi mắt khép hờ. Cô thấy họ tông vào gương bên hông của một chiếc xe khác. Nó xoay tròn một cách chậm rãi rồi đâm sầm vào mui chiếc SUV, rạch lên lớp sơn đen một đường dài trước khi văng ra xa. “Đừng nghĩ đến điều đó,” cô thì thào, trong khi một chiếc xe thể thao nhỏ mui trần của Ý cũng nhìn thấy khoảng hở giữa hai chiếc xe mà Josh đã để ý trước đó và đang nhắm đến. Người lái xe thể thao, một người đàn ông lớn tuổi hơn Josh với rất nhiều dây chuyền vàng quấn quanh cổ, nhấn mạnh chân xuống và cho xe đua lên phía khoảng trống. Ông ta đã thất bại.
Chiếc SUV nặng nề đụng mạnh vào rìa trước phía bên phải của chiếc xe thể thao. Cú va chạm tóe lửa! Chiếc xe thể thao văng ra xa, quay tròn một góc ba trăm sáu mươi độ thẳng vào đám xe cộ đông đức trên cầu và phá tan một chuỗi bốn chiếc xe đang nối đuôi nhau đi tới trước. Josh cho xe vượt qua khoảng trống vừa được khai phá rồi lao lên.
Flamel xoay người trên ghế. Ông nhô đầu nhìn ra kính chiếu hậu để quan sát đám đông hỗn loạn mà họ vừa gây ra. “Chú nghĩ là cháu đã nói cháu có thể lái xe,” ông thì thầm.
“Cháu có thể lái,” Josh nói, ngạc nhiên vì giọng nói của mình nghe rất bình tĩnh và điềm đạm, “cháu chỉ không nói là mình lái xe giỏi. Cháu thắc
mắc không biết ai đó có lấy bảng đăng ký chiếc xe ô tô của chúng ta hay không,” cậu nói thêm. Chuyện không giống như trò chơi đua xe trên máy chút nào! Hai lòng bàn tay của cậu ướt đẫm mồ hôi và những dòng mồ hôi chảy dọc theo khuôn mặt cậu. Một cơ bắp trên chân phải của cậu căng nhức sau những nỗ lực đạp chân ga xuống sát sàn xe.
“Chị nghĩ là họ còn nhiều chuyện khác để lo lắng,” Sophie thì thầm.
Những con quạ đã bu đầy cầu Cổng Vàng. Hàng nghìn con. Chúng bay đến từng đàn như những làn sóng đen, cánh đập xoành xoạch, kêu gào ầm ĩ. Chúng bay lượn trên những chiếc xe và mổ lia lịa vào lớp thủy tinh hay kim loại. Những chiếc xe hơi va vào nhau trên suốt chiều dài của chiếc cầu.
“Chúng mất mục tiêu rồi,” Scathach nói, quan sát động thái của lũ chim. “Chúng tìm kiếm chúng ta, nhưng chúng quên mất đặc điểm của chúng ta. Chúng có những bộ óc rất nhỏ bé,” cô đoán chừng.
“Có một điều gì đó đã làm bà chủ đen tối của chúng bị phân tán,” Nicholas Flamel nói. “Perenelle,” ông nói một cách hân hoan. “Tôi tự hỏi không biết cô ấy đã làm gì. Chắc chắn là một cái gì đó rất ly kỳ và kịch tính. Cô ấy luôn luôn nhạy cảm với những điều phi thường kỳ lạ. “
Nhưng trong khi ông nói, bầy chim lại bay lên cao một lần nữa, và rồi, cũng một lúc, đôi mắt đen của chúng đồng loạt hướng về phía chiếc SUV đang chạy trốn của họ. Lần này khi bọn quạ kêu lên, tiếng kêu của chúng nghe như một tiếng gào chiến thắng.
“Bọn chúng đang đến,” Sophie nói vội vã. Cô nín thở.Cô nín thở và nghe thấy tiếng tim mình đập thon thót trong lồng ngực. Cô nhìn Flamel và Nữ chiến binh để tìm kiếm sự hỗ trợ nhưng thái độ câm lặng của họ khiến cô thấy ngột ngạt vô cùng.
Scathach nhìn cô và nói : “Chúng ta gặp rắc rối rồi.”
Một đám quạ đen dày đặc bay đuổi theo chiếc xe hơi.
Hầu hết xe cộ đang lưu thông trên cầu rơi vào trạng thái ngừng trệ. Mọi người ngồi chết lặng kinh hoàng trong xe của mình khi đàn quạ bay qua nóc những chiếc xe, hôi thối và ầm ĩ. Chiếc SUV là chiếc xe duy nhất còn di chuyển. Josh chôn chặt chân mình xuống sàn xe và kim tốc độ chỉ con số gần 80. Cậu đang dần trở nên tự chủ và thấy thoải mái hơn trong việc điều khiển chiếc xe - thực sự cậu nghĩ chuyện bắt đầu giống như trong trò chơi lái xe trên máy tính - và cậu đã không hề va đụng vào bất cứ vật gì trong vòng một
"""