"
Nhà Băng - Arthur Hailey PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nhà Băng - Arthur Hailey PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
NHÀ BĂNG
Dịch theo bản gốc tiếng Anh “The Money changers” của Athur Hailey
Người dịch Vũ Đình Phòng
Nhà xuất bản Hà Nội
1996
Nếu anh giàu tӭc là anh nghèo
Bởi anh sẽ giống như con lừa còng lưng Dưới những thỏi vàng đè nặng
Anh phải vác tiền bạc của cải
Nhưng chỉ trên một quãng đường
Rồi cái chết sẽ giải tỏa cho anh khỏi nỗi nhọc nhằn đó.
MỤC LỤC
Phần thӭ nhất Phần thӭ hai Phần thӭ ba
Phần thứ nhất
I
Nhiều người vẫn còn giữ lại ấn tượng lo âu, dai dẳng trong hai ngày hôm đó của tháng Mười. Hôm ấy là thӭ Ba, Ben Rosselli, chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ, đồng thời là cháu nội của cố sáng lập viên nhà băng này đã công bố một tin ghê rợn. Tin này lập tӭc loan truyền khắp các phòng ban và ra cả bên ngoài.
Hôm sau, thӭ Tư, người ta phát hiện ra một vụ ăn cắp ngay tại chi nhánh chính của Ngân hàng đóng ngay ở trung tâm thành phố, sӵ kiện này mở đầu cho một loạt sӵ kiện nối tiếp nhau như phản ӭng dây chuyền, đầy bất ngờ, dẫn đến một thảm họa tài chính, đến một bi kịch con người, đến một cái chết.
Khi Tổng giám đốc Ben Rosselli gọi điện cho một số các quan chӭc thân cận dưới quyền, chưa ai đoán được ông định nói điều gì. Một số nhận được lời triệu tập trong lúc họ ăn sáng ở nhà, số khác vào lúc họ bước vào phòng giấy. Dĩ nhiên đó là những quan chӭc cấp cao nhất nhà băng, nhưng Ben Rosselli còn triệu tập cả một số nhân viên kỳ cӵu mà ông vẫn thường coi là bạn bè thân thiết. Tất cả đều nhận được câu triệu tập y hệt nhau:
"Mời đến hội trường họp lớn trong Tòa nhà cao ốc vào mười một giờ sáng nay."
Đó là tên gọi trụ sở công khai của Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ. Đúng giờ quy định, khoảng hai chục người đã tề tӵu trong phòng họp. Trong lúc chờ đợi, họ vẫn đӭng bàn tán xôn xao, không ai quả quyết kéo ghế ra ngồi.
Đột nhiên một tiếng nói to làm mọi người ngừng trò chuyện:
- Ai cho phép bác làm chuyện này? Các cặp mắt quay cả lại nhìn người vừa nói câu đó: Roscoe Heyward, Phó tổng giám đốc, đặc trách khu vӵc các tài khoản. Ông ta quát hỏi bác quản lý nhà ăn dành cho các quan chӭc cao cấp của nhà băng, lúc này đang rót rượu Xeres ra ly.
Đây là thӭ rượu quý đặc biệt của Tây Ban Nha. Là cấp lãnh đạo cao, Roscoe Heyward nổi tiếng là người nghiệt ngã trong công việc theo đúng các khuôn phép của nhà băng.
- Sao lại được uống rượu trong giờ làm việc. Mà mới sáng ra như thế này?
Một số người đã chìa tay định cầm ly rượu vội rụt tay lại. Bác quản lý mặc áo vét chế phục trắng đáp:
-Tôi theo lệnh của Ngài Tổng giám đốc. Thậm chí Ngài còn yêu cầu lấy loại Xeres quý nhất. Alex Vandervoort vốn tính thoải mái, nói chen:
- Giờ giấc đâu phải điều quan trọng? Rượu ngon ta , cӭ uống, tội gì?
Vóc lӵc lưỡng, mặc bộ âu phục mầu ghi nhạt rất sang, mắt xanh biếc, tóc vàng lốm đốm bạc ở thái dương, ông ta cũng là Phó tổng giám đốc. Vẻ ngoài dễ dãi và thái độ hồn nhiên khiến ít ai biết ông là người có nghị lӵc sắt đá.
Heyward và Vandervoort cùng là Phó tổng giám đốc, vị trí quan trọng ngang nhau. Tuy xung khắc về nhiều quan điểm nhưng họ vẫn có đủ thiện chí và kinh nghiệm để cộng tác với nhau trong công việc. Dù sao thì mỗi người cũng có những tay chân riêng.
Các quan chӭc thấp hơn và nhân viên gần như chia thành hai phái đối lập. Vandervoort nhấc hai ly rượu Xeres, đưa một cho Edwina d’Orsey, một phụ nữ tóc đen, có thân hình nở nang, nữ giám đốc chi nhánh chính của nhà băng này. Bà thấy cặp mắt khó chịu của Heyward nhìn mình nhưng vẫn nhận ly rượu. Những người
khác do dӵ một lát rồi ngượng nghịu bắt chước Edwina, cũng nhấc ly. Mặt Roscoe Heyward cau lại. Ông ta định nói gì đó nhưng cố ghìm.
Trưởng Ban bảo vệ Nolan Wainwright, người da đen, thân hình vạm vỡ và khuôn mặt hệt như của nhân vật Othello, cùng một trong hai thành viên da đen của ủy ban điều hành có mặt, đӭng cạnh cửa. Đột nhiên Wainwright lớn tiếng nói:
- Thưa bà d’Orsey, thưa các ông, Ngài Tổng giám đốc đã tới. Tất cả mọi người ngừng bặt.
Ben Rosselli bước vào, ông khẽ mỉm cười, đưa mắt nhìn lần lượt tất cả mọi người. Vẻ đầm ấm như của một người cha toát ra trên khuôn mặt và toàn bộ con người ông, nhưng ông lại có một vẻ bình thản, tӵ tin là thӭ xưa nay ông vẫn có và chính vẻ tӵ tin đó đã truyền lòng tin đến cho hàng ngàn khách hàng, những người phó thác tài sản của họ cho ông. Tính cách song đôi trong con người vị Tổng giám đốc được phản ánh vào cách ăn mặc: bộ âu phục đen giản dị thích hợp cả với nhà chính khách lẫn nhà tài phiệt, áo gi-lê của Ben Rosselli cài sợi dây chuyền bằng vàng của chiếc đồng hồ quả quít.
Ben Rosselli giống một cách lạ lùng ông nội ông, Giovanni Rosselli, người đã có công sáng lập nhà băng này trước đây một trăm năm, bấy giờ còn đóng trụ sở dưới tầng hầm của một hiệu tạp hóa. Cũng khuôn mặt đôn hậu với mái tóc hoa râm rất dầy, cũng hàng ria mép rất rậm, y hệt chân dung vị sáng lập viên của nhà băng ngày xưa, nay được in trên bìa các cuốn sổ tiết kiệm của nhà băng trao cho khách hàng các tấm séc du lịch, và được tạc thành pho tượng bán thân dӵng trên quảng trường Rosselli trước cổng vào tòa cao ốc, nơi đóng trụ sở chính chú Ngân Hàng Thưpng Mại số một Hoa Kỳ.
Nét mặt của cả hai người đều ngay thẳng, chân phương, ít ai đoán được là cả hai đều khôn ngoan và có ý chí sắt thép, hai phẩm chất tạo nên sӵ phồn vinh của Ngân hàng này. Tuy nhiên hôm nay
Ben Rosselli không có được vẻ nhanh nhẹn hoạt bát mọi khi. Mọi người đều ngạc nhiên thấy ông chống cây can, dáng mỏi mệt. Ben Rosselli đưa tay định kéo ghế ngồi, nhưng Trưởng ban bảo vệ Wainwright đã nhanh tay hơn ông. Vị Tổng giám đốc vừa ngồi xuống vừa mấp máy lời cảm ơn. Rồi ông giơ tay chào mọi người. Ông nói:
- Tôi không giữ các vị lâu đâu, nhưng vị nào muốn, xin cӭ ngồi xuống. Ôi! Cảm ơn!
Câu cuối cùng này ông nói với hầu bàn vừa đưa ly rượu Xeres cho ông và lập tӭc lui ra. Một người nào đó kéo ghế mời Edwina d’Orsey. Vài người nữa lục tục ngồi xuống, trong khi đa số vẫn đӭng . Alex Vandervoort nâng cao ly rượu, nói:
- Hình như Tổng giám đốc triệu tập chúng tôi để ăn mừng điều gì đó. Xin hỏi, điều gì vậy? Một nụ cười khẽ lướt trên môi Ben Rosselli. Ông nói:
- Tôi lấy làm tiếc, đây không phải một cuộc ăn mừng. Tôi chỉ nghĩ, chút rượu sẽ làm chúng ta điềm tĩnh hơn. ông ngừng nói. Mọi người đều hiểu, đây là cuộc họp đặc biệt. Tất cả đều lộ vẻ lo lắng.
Vị Tổng giám đốc nói tiếp:
- Tôi đã sắp từ giã cõi đời. Các bác sĩ khẳng định là tôi không còn sống được bao lâu nữa. Tôi nghĩ cần báo điều này với tất cả các vị. Ben Rosselli nâng cao ly Xeres, ngắm nghía chất lượng trong ly rồi nhấp một ngụm.
Tất cả sững người lại, không ai thốt lên được một lời. Phòng họp lặng lẽ đến mӭc nghe rõ các tiếng động bên ngoài: tiếng máy chữ lách cách, tiếng máy điều hoà nhiệt độ chạy rì rì, tiếng một chiếc máy bay phản lӵc rú lên xé tai lúc cất cánh.
Tổng giám đốc Ben Rosselli dướn người về phía trước: - Xin các vị đừng làm bộ mặt như thế kia. Để tránh cho các vị khỏi phải đặt câu hỏi, tôi xin nói cho rõ là không còn hy vọng gì nữa. Nếu
thấy vẫn còn hy vọng, tôi đã chưa nói ra với các vị : ung thư phổi. Chắc chắn là tôi sẽ ra đi trước lễ Thiên chúa Giáng sinh năm nay. Ông lại ngừng lần nữa. Mọi người thấy rõ bệnh hiểm nghèo kia đã làm ông sa sút sӭc khoẻ đến mӭc nào.
Ben Rosselli hạ giọng, nói tiếp:
-Bây giờ các vị đã biết, xin hãy báo cho những người khác cùng biết.
Pop Monroe, người nhân viên kỳ cӵu của ngân hàng lên tiếng: - Thưa ông chủ, ông chủ đã cho biết, chúng tôi chẳng biết phải nói thế nào bây giờ.
Tiếng xì xào lan khắp phòng họp vẻ tán thành.
Roscoe Heyward lên tiếng, giọng như bӵc tӭc là Monroe đã tranh nói trước ông ta.
-Tôi lại nghĩ chúng tôi cần phải nói và có điều để nói:Tất nhiên tin này làm chúng tôi choáng váng và rất đau buồn, nhưng chúng tôi có thể cầu nguyện Chúa Trời, hoãn lại cho Tổng giám đốc ít nhất cũngtrong một khoảng thời gian nào đó. Chúng ta đều biết, các bác sĩ nhiều khi vẫn nhận định sai. Khoa học hiện đang có những bước tiến nhảy vọt và làm được những kỳ tích.
Vị tổng giám đốc khó chịu cắt ngang lời người phó của ông: - Roscoe! Không có chút hy vọng nào hết. Còn về phần các bác sĩ thì tôi đã khám những bác sĩ giỏi nhất. Ông hãy tin là như thế. - Tất nhiên rồi, nhưng chúng ta cần nhớ rằng có một sӭc mạnh còn vượt lên trên khả năng của các thầy thuốc. Và bổn phận của chúng tôi là phải cầu nguyện đӭc Chúa Trời.
Trong khi nói câu đó, Roscoe Heyward đưa mắt nhìn một vòng cử tọa, như thể buộc họ phải tuân theo ý chí ông ta.
Người bệnh mệt mỏi gượng cười, đáp:
- Tôi e Chúa Trời đã quyết định rồi. .
Phó tổng giám đốc Alex Vandervoort lên tiếng:
- Tất cả chúng tôi đều choáng váng và tôi hết sӭc xin lỗi là đã nói câu ngu ngốc lúc nãy.
Ben Rosselli khẽ cười:
- Lúc đó ông đã biết đâu? Vả câu của ông không hề sai. Tôi đã được hưởng một cuộc đời sung sướng. Trên cõi đời này đâu phải nhiều người được hưởng cuộc sống như tôi. Đấy cũng là điều đáng để ta tổ chӭc ăn mừng lắm chӭ, Alex thân mến. .
Vị Tổng giám đốc lục túi áo vét rồi năm xung quanh: - Ai có thuốc lá không? Mấy ông bác sĩ hành hạ tôi khốn khổ. Họ bắt tôi không được hút.
Lập tӭc rất nhiều bao thuốc chìa ra, về phía ông.
Roscoe Heyward nói:
-Nhưng ông có nên hút hay không?
Vị Tổng giám đốc nheo cặp mắt chế giễu nhìn Heyward nhưng không nói gì. Mọi người đều biết mặc dù ông thừa nhận trình độ nghiệp vụ của Roscoe Heyward , nhưng không có cảm tình với ông này. Alex Vandervoort bật lửa , châm điếu thuốc cho Ben Rosselli. Giống rất nhiều người khác, mắt Vandervoort cũng ướt đẫm.
- Nói cho cùng, mọi điều bất hạnh đều có mặt tốt. Tôi may mắn biết trước chuyện này, cho nên còn có thời gian để sắp xếp lại mọi công việc của tôi. Tất nhiên mặt khác cũng có vài điều không may. Xin các vị hãy suy nghĩ kӻ về những điều ấy cho.
Ben Rosselli không cần nói cụ thể là những điều gì Nó là chuyện ông không có người nối nghiệp. Con trai duy nhất của ông đã hy sinh trong cuộc Đại chiến thế giới thӭ hai. Và gần đây, cháu đích tôn của ông, một chàng trai đầy triển vọng cũng lại bỏ mạng trong cuộc chiến tranh phi lý và sa lầy ở Việt Nam.
Một cơn ho rũ rượi làm rung chuyển thân hình ông già Ben Rosseni. Nolan Wainwright vội dằng điếu thuốc ông đang kẹp giữa các ngón tay, dập tắt điếu thuốc vào gạt tàn . Đến lúc này mọi người đều hiểu vị Tổng giám đốc nhà băng yếu sӭc đến mӭc nào, và hôm nay ông đã phải cố gắng một cách vượt bӵc. Nhưng chưa ai biết, đây là lần cuối cùng ông có mặt tại đại bản doanh của nhà băng. Mọi người lần lượt đến nắm chặt tay ông già sắp chết, lúng búng một
câu gì đó. Đến lượt Edwina d’Orsey, bà cúi xuống đặt cái hôn lên má Ben Rosselli. Ông nháy mắt thân thiện với bà.
II
Phó tổng giám đốc Roscoe Heyward là người trong tốp rời khỏi phòng họp đầu tiên. Tin vừa được thông báo khiến ông thấy cần phải nhằm ngay lập tӭc hai mục tiêu. Trước tiên, cần chuẩn bị để nắm quyền một cách vững chãi khi Ben Rosselli qua đời. Hai là vận động cách sao để lên được chӭc Tổng giám đốc. Khả năng này của ông ta ngang với khả năng của Alex Vandervoort. Nếu Vandervoort chinh phục được đa số quan chӭc trong nhà băng, thì ông ta sẽ thắng phiếu Heyward trong cuộc bầu cử của Hội đồng Quản trị.
Vốn thành thạo các mưu kế trong hệ thống thang bậc quyền hành của nhà băng, Roscoe Heyward đã phác qua kế hoạch vận động ngay từ lúc ngồi trong phòng họp. Ra khỏi đó ông ta lập tӭc đi về phía khu vӵc các phòng giấy của mình bao gồm rất nhiều phòng, tường lát gỗ, bầy những ghế bành êm ái và các cửa sổ đều trông ra phong cảnh toàn thành phố.
Vừa ngồi xuống ghế, Roscoe Heyward liền gọi một trong hai nữ thư ký riêng, bà Callaghan và ra các mệnh lệnh. Trước tiên là bắt liên hệ bằng điện thoại với các thành viên của Hội đồng quản trị nhà băng, Heyward muốn gặp riêng từng người để bàn bạc. Mệnh lệnh thӭ hai là cửa phòng giấy cũng như đường dây điện thoại của ông ta cấm không được để ai quấy rầy. Điều này trái với truyền thống xưa nay của Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ. Ngài cố sáng lập viên đã buộc mọi người làm việc tại đây, kể cả Tổng giặm đốc phải để cửa ngỏ cho bất cӭ ai. Các đời con cháu Ngài tiếp tục làm Tổng giám đốc đều tuân theo tác phong đó. Heyward dӵ định sau này sẽ phải huӹ bỏ cái nguyên tắc đó. Nhưng trước mắt, ông ta cần phải thӵc hiện ngay để khỏi bị ai quấy rầy. Buổi họp sáng nay, Tổng giám đốc Ben Rosselli chỉ triệu tập có hai thành viên trong Hội đồng quản trị mà cả hai đều không trӵc tiếp làm giám đốc điều hành hộ phận nào trong nhà băng. Tất nhiên hai người đó là bạn lâu năm của Ben Rosselli. Như thế có nghĩa mười lăm thành viên khác trong Hội đồng quản trị, vẫn chưa biết tin về cái chết sắp đến của Tổng giám đốc.
Roscoe Heyward tính sẽ đích thân báo tin đó cho họ. Ông ta nhằm hai mục đích. Một là cái tin ghê gớm bất ngờ kia, sẽ lập tӭc tạo nên một sợi đây đồng cảm giữa người báo tin và người nghe. Hai là rất có thể một số thành viên hội đồng quản trị tӵ ái. Vì không được Tổng giám đốc mời dӵ cuộc gặp gỡ báo tin hôm nay, nhất là tại cuộc họp một số quan chӭc và nhân viên dưới quyền họ lại được mời. Roscoe Heyward tính sẽ khai thác nỗi bӵc tӭc đó.
Chuông điện thoại reo. Heyward nhấc máy, bắt đầu nói. Rồi ông gác máy, lại nhấc lên nói chuyện với một người khác. Vài thành viên Hội đồng quản trị lúc này vắng mặt trong thành phố, nhưng bà Dora Callaghan là nữ thư ký lâu năm, giàu kinh nghiệm, biết cách bắt liên lạc được với họ. Sau khi nói chuyện điện thoại mất chừng nửa giờ, Roscoe Heyward trịnh trọng nói với Huân tước Harold Austin:
Dĩ nhiên chúng tôi trong nhà băng đều rất sầu não. Điều đó tưởng như không thể lại là sӵ thật được.
Lạy Chúa tôi? - giọng Huân tước Harold Austin vẫn còn mang nỗi choáng váng vừa rồi. Dòng họ Huân tước đến lập nghiệp tại thành phố này đến nay là sang thế hệ thӭ ba. Trước đây khá lâu ông được bầu làm Nghị sĩ và tuy chỉ làm một khoá ông vẫn được mang cái tên hiệu là Huân tước và rất lấy đó làm vinh dӵ. Ông là chủ hãng quảng cáo lớn nhất của bang, được coi là thành viên hàng đầu của Hội đồng quản trị nhà băng này, và có uy tín với các thành viên khác của Hội đồng. Ông nói tiếp trong máy:
-Vậy mà ông ta có đủ gan để đích thân báo tin cho các ông.
Câu nói của Huân tước Austin thốt ra đúng với mong ướccủa Phó tổng giám đốc Roscoe Heyward. Ông này nói:
-Tôi đồng ý với Huân tước, Tổng giám đốc của chúng ta quả là dũng cảm. Nhưng thú thật, tôi thấy dùng cách báo tin dữ kiểu đó là không đúng. Bởi lẽ ra những người cần được ông ta báo tin đầu tiên phải là các thành viện của Hội đồng. Làm như thế kia là rất bất tiện. Cho nên tôi nghĩ phải sửa chữa cách làm đó của ông ấy, bằng cách trӵc tiếp thông báo với từng thành viên trong Hội đồng quản trị. Khuôn mặt diều hâu của Roscoe Heyward căng thẳng suy nghĩ, và sau cặp mắt kính mặt ông ta cau lại lạnh lùng.
Huân tước Harold Austin nói:
Tôi thấy cách làm của ông rất đúng, Roscoe. Xin cảm ơn ông đã nghĩ đến chúng tôi .
- Trong hoàn cảnh rối ren như thế này lòng dạ còn đang rối bời, tôi chưa biết phải làm như thế nào mới là đúng. Vì thế câu tán thành của ông làm tôi rất yên tâm. Dù sao tôi thấy cũng phải đặt ra một vấn đề: phải có ai đó thâu tóm quyền điều hành nhà băng. Ông tán thành không, ông Harold?
Roscoe Heyward dùng cách xưng hô thân mật, bởi dòng họ nhà ông rất danh giá và ông tӵ hào là con cháu trӵc hệ của một người thời cách mạng, đã đặt bút ký vào bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ. Ông ta nói tiếp :
- Tôi thấy có bổn phận thông báo cho tất cả các thành viên của Hội đồng quản trị còn vì một nguyên nhân nữa. Cái tin khủng khiếp về bệnh trạng Ben Rosselli sẽ nhanh chóng lan ra khắp nơi và gây tiếng vang rất lớn.
- Đúng thế,- Harold Austin nói.- Giới báo chí sẽ biết tin và ngày mai thôi, họ sẽ đặt ra cho chúng ta không biết bao nhiêu câu hỏi. - Ông nói rất chí lý. Và tôi e báo chí làm rùm beng sẽ ảnh hưởng tai hại đến trị giá các cổ phiếu của ta.
- Đúng thế. Roscoe Heyward cố vắt óc xem lúc này vị Huân tước Harold Austin kia đang nghĩ gì. Hãng quảng cáo mà Harold Austin là đại điện, sở hữu rất nhiều cổ phiếu của Ngân hàng Thương Mại số Một Hoa Kỳ, Heyward bèn ném hòn đá thăm dò:
- Nếu Hội đồng quản trị quyết định ngay những biện pháp khẩn thiết và kiên quyết, thì mới trấn an được các cổ đông và khách hàng, cũng như dân chúng nói chung. Thiếu những biện pháp đó tình tình hình sẽ rất nguy hiếm.
- Nhưng bạn bè gần gũi của Ben Rosselli thì làm sao có thể an tâm được mà làm chuyện đó?- Harold Austin bác lại. - Xin ông tin cho rằng tôi cũng đau xót không kém bất cӭ ai. Vừa rồi tôi nói chỉ là vì tôi lo cho số phận của nhà băng chúng ta. Cụ thể
ông nghĩ sao, Roscoe?
- Tôi nghĩ phải làm cách nào để công việc điều hành ngân hàng không bị đút quãng. Cụ thể là ghế tổng giám đốc không được để trống, dù chỉ một ngày. Tất cả chúng ta đều yêu quý và kính trọng Ben Rosselli, nhưng phải thừa nhận ông ấy đâu phải là chủ cái nhà băng này. Đúng hơn là đã từ nhiều năm rồi, chủ nhà băng không phải riêng mình Rosselli, mà là một tập thể. Nếu nhà băng này là sở hữu riêng của một người, thì nó đã không phát triển được để trở thành một trong hai mươi ngân hàng lớn nhất của Hoa Kỳ. Khốn nỗi người bên ngoài vẫn tưởng như nhà băng là sở hữu của riêng Ben Rosselli. Vì vậy tôi nghĩ rằng hung tín vừa rồi chính lại có mặt tốt, tạo điều kiện cho những người lãnh đạo nhà băng đập tan điều huyền thoại kia.
Roscoe Heyward cảm thấy người ở đầu dây kia đang cân nhắc thận trọng trước khi phát biểu. Heyward như hình dung thấy dáng dấp của Harold Austin: một tay điển trai, ăn chơi đang hết thời, bộ âu phục may cắt hết sӭc công phu, mái tóc hoa râm bồng cao. Nhưng ông ta không khờ dại, thậm chí Harold Austin còn nổi tiếng là nhà kinh doanh cӭng rắn và thâm hiểm. Cuối cùng vị Huân tước nói:
- Tôi thấy ý kiến ông về chuyện tìm người thay chӭc Tổng giám đốc là hợp lý. Tôi cũng tán thành là ta cần cử ra một người làm quyền tổng giám đốc thế chân cho Ben Rosselli, và chúng ta phải công bố tên người đó ngay bây giờ, chӭ không phải đợi đến khi Ben Rosselli nhắm mắt. Roscoe Heyward chăm chú lắng nghe. Harold Austin nói tiếp:
-Thật ra vấn đề này tôi đã nghĩ đến từ lâu. Tôi cho rằng người thích hợp nhất thế chân Ben Rosselli là ông đấy, Roscoe. Ông có năng lӵc, giàu kinh nhiệm và có đủ uy tín cần thiết. Tóm lại tôi sẵn sàng ủng hộ ông. Tôi hy vọng sẽ thuyết phục được các thành viên khác trong Hội đồng dồn phiếu cho ông ông thấy được chӭ, Roscoe?
-Tất nhiên là tôi rất biết ơn ông, Harold!
-À nhân tiện tôi muốn ông giúp lại nói vài việc nhỏ.
- Tôi nghĩ như thế là hợp lý.
-Tốt lắm. Vậy là chӭng ta hiểu biết lẫn nhau. Lúc gác máy, Roscoe Heyward rất vui về cuộc đàm thoại vừa rồi. Harold Austin vốn nổi
tiếng là người giữ lời hӭa. Các cuộc đàm thoại trước đó cũng làm Heyward hài lòng. Lát sau, trong khi nói chuyện với Philip Johannsen, Tổng giám đốc công ty cao su miền Trung, một thành viên khác của Hội đồng quản trị nhà băng lại một hy vọng nữa mở ra trước mắt Heyward. Johannsen thú thật với Heyward là không ưa Vandervoort vì thấy một số quan điểm của ông này nhiều khi vượt ra khỏinguyên tắc. Rồi Heyward nói:
-Vandervoort là người không chính thống. Tất nhiên chúng ta phải tính đến những khó khăn về đời tư của ông ta. Tôi không biết có được phép nói ông ta như thế không?
- Cụ thể là khó khăn nào?
- Tôi thấy nói ra đâm nhỏ nhen, vì đụng đến quan hệ nam nữ của Vandervoort.
- Xét một giám đốc nhà băng là phải xét mọi khía cạnh. Vả lại đây là câu chuyện riêng giữa ông và tôi, Roscoe. Cho nên ta cӭ nói thật ra với nhau. Ông nói tiếp đi.
- Thôi được. Vandervoort đang gặp bế tắc trong quan hệ vợ chồng. Ông ta dan díu với một phụ nữ khác, cô này lại là người quan điểm chính trị khuynh tả, tên tuổi luôn xuất hiện trên báo chí và chuyện đó rất bất lợi cho hoạt động của nhà băng chúng ta. Đôi khi chính tôi cũng thắc mắc, không biết quan điểm chính trị của cô ta liệu có ảnh hưởng đến Vandervoort không Nhưng như tôi đã nói, chuyện này nói ra nghe nhỏ nhen quá.
- Nhưng ông nói ra với tôi là rất đúng,- Johannsen nói.- Đấy là những thӭ các thành viên Hội đồng quản trị cần biết. Vậy ra cô ta có quan điểm chính trị khuynh tả? Tên cô ta là gì?
- Margot Bracken.
À, cái tên ấy tôi có đọc thấy và thú thật là tôi không ưa cái giọng của cô ta trên báo chí. Lát sau, Roscoe Heyward "cӭng rắn” mỉm cười gác máy. Một trong những cuộc đàm thoại tiếp sau không làm cho ông ta hài lòng lắm. Đấy là khi Roscoe Heyward nói chuyện với Leonard Kingswood,- chủ tịch hội đồng điều hành công ty thép Northam, đồng thời là thành viên Hội đồng quản trị nhà băng này. Kingswood này xuất thân từ thợ giác luyện dưới chân lò cao, nói năng ấp a ấp úng. Khi Roscoe Heyward nói với ông ta rằng, lẽ ra
các thành viên trong Hội đồng quản trị phải được báo cái tin kia đầu tiên thì Kingswood đáp:
- Nói vớ vẩn! Nếu ở địa vị Ben Rosselli, tôi cũng làm như thế. Trước tiên là những người thân cận nhất, sau đấy mới đến các thành viên Hội đồng và cuối cùng là người khác. Còn chuyện khả năng sụt giá các cổ phiếu của nhà băng, thì Kingswood không băn khoăn gì hết. Ông ta nói:
- Dĩ nhiên khi tin kia lan ra, cổ phiếu có thể sụt vài điểm, bởi những người có cổ phiếu đều nhát gan. Nhưng rồi giá sẽ lại lên, chỉ sau một tuần lễ thôi, bởi giá trị thӵc của nó đâu có thay đổi. Nhà băng rất vững chãi và chúng ta đều biết rõ là như thế. Lát sau, Kingswood còn gay gắt cắt ngang lời Roscoe Heyward và nói bằng giọng như sau:
- Ông bạn Roscoe ơi, cái trò vận động ma mãnh của ông lộ liễu quá đấy. Tôi nói rõ quan điểm của tôi cho ông nghe để ông khỏi phí thời giờ. Ông lãnh đạo khu vӵc tài khoản thì tuyệt giỏi rồi, tôi không thấy có ai hơn được ông. Nếu lúc nào đó ông muốn làm việc cho công ty thép Northam, thì tôi xin mở rộng cửa, dang hai tay đón ông, trả ông lương rất cao và tạo điều kiện để ông mua được nhiều cổ phiếu ở đây. Tôi sẽ thay đổi nhân sӵ, để mời ông đảm trách hoàn toàn khâu tài chính của công ty. Tôi hӭa như thế và sẽ giữ đúng lời...Không, ông đừng cảm ơn, tôi chỉ nói ra những điều bụng tôi nghĩ. Mặc dù tài ba của ông lớn đến đâu, tôi cũng thẳng thắn nói với ông rằng, ông không có cái chất của một tổng giám đốc nhà băng và hôm này họp Hội đồng, tôi sẽ trình bày quan điểm của tôi và cố thuyết phục để mọi người tán thành. Tôi nói thêm là tôi đã dӵ kiến sẽ đề cử ai thế chân Ben Rosselli rồi. Đó là Alex Vandervoort.
- Cảm ơn ông đã nói thật, Kingswood,- Heyward bình thản đáp. - Tốt lắm. Còn nếu như lúc nào đó ông quan tâm đến đề xuất của tôi mời ông về đây, thì ông cӭ gọi điện thẳng cho tôi, bất kỳ tôi đang ở đâu, bất kể vào giờ giấc nào, đừng do dӵ gì hết. Roscoe Heyward hoàn toàn không có ý nghĩ đến làm cho công ty thép Northam. Được tăng lương thì cũng tốt, nhưng câu nói vừa rồi của Kingswood làm
ông tӵ ái.. Roscoe Heyward đang sắp làm tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ kia mà. Ông ta tin chắc là như thế.
Chuông điện thoại lại reo. Heyward nhấc máy. Nữ thư ký Dora Callaghan báo tin đã bắt liên lạc được với một thành viên khác của hội đồng:Floyd Leberre.Roscoe Heyward nói ngay bằng giọng trầm và trịnh trọng:
- Chào ông Leberre. Tôi rất đau đớn báo ông biết một tin vô cùng đau buồn...
III
Tất cả những ai dӵ cuộc họp sáng hôm đó đều không rời khỏi phòng họp nhanh như Roscoe Heyward. Tâm trạng sầu não, họ chưa muốn về màcòn đӭng túm năm tụm ba trao đổi ngoài hànhlang. Ông nhân viên già lâu năm Pop Monroe thầm thì vào tai Edwina d’Orsey:- Hôm nay là một ngày đáng buồn. Rất đáng buồn?
Bà gật đầu tán thành, bởi Edwina không sao thốt lên được lời nào lúc này. Ben Rosselli không phải chỉ là sếp mà còn là người bạn, đã tin cậy giao phó cho bà một vị trí quan trọng trong nhà băng:giám đốc chi nhánh chính tại đây. Alex Vandervoort dừng lại bên Edwina, trỏ cửa phòng giấy của ông hỏi:
- Bà vào với tôi một lát không, Edwina?
Có, bà đáp, giọng biết ơn.
Phòng giấy của quan chӭc cao cấp nhà băng đều nằm trên cùng một tầng với hội trường lớn:tầng ba mươi sáu của toà cao ốc dùng làm trụ sở giao dịch chính thӭc của Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ. Giống các phòng giấy khác, phòng của Alex Vandervoort chia làm hai ngăn, một dùng làm việc, một là phòng khách để nghỉ ngơi hoặc tiếp chuyện bình thường. Vừa vào đến phòng, Edwina ấn nút máy pha cà phê, rót ra một tách. Vandervoort thì châm tẩu thuốc. Edwina ngắm vẻ nhanh nhẹn của ông. Hai bàn tay Vandervoort cũng to bè và ngắnnhư thân hình ông ta. Các móng tay đều sửa rất cẩnthận.
Giữa hai người có một tình bạn lâu năm. Là giám đốc chi nhánh chính của nhà băng, Edwina ở vị trí thấp hơn Alex Vandervoort, nhưng ông đối xử với bà bình đẳng, ngang hàng và khi cần có việc
với bà, luôn đến gặp bà làm việc trӵc tiếp chӭ không thông qua các khâu hành chính.
Edwina d’Orsey nói:
- Đây chính là lúc tôi muốn nói với anh, rằng anh gầy đi đấy. Một nụ cười nở rộng làm tươi nét mặt Vanđervoort:
- Ch ị thấy thế à?
Vốn thích ăn thӭc ngon, uống rượu ngon, Vandervoort đang có khuynh hướng phì ra, mặc dù ông đều đặn tuân theo chế độ kiêng khem nghiệt ngã.
Cả hai đều muốn tránh đề tài đang làm họ buồn rầu!
- Chỗ chị công việc vẫn chạy đều đấy chӭ?
- Chạy rất tốt là đằng khác. Tôi đang lạc quan tin rằng sang năm tình hình sẽ còn thuận lợi hơn.
-Thế anh Lewis thì nhận định tình hình sang năm thế nào? Lewis d’Orsey là chồng Edwina, là chủ kiêm tổng biên tập một thӭ báo tài chính phạm vi hẹp, chỉ phát hành đến tay những độc giả đặt mua dài hạn, dưới hình thӭc những bӭc thư, và rất có uy tín trong giới kinh doanh.
- Anh ấy thì chuyên bi quan. Lewis dӵ đoán một sӵ mất giá của đồng đô la, lần thӭ nhất nhẹ thôi, nhưng lần thӭ hai sẽ rất nặng, như đã từng xảy ra với đồng Bảng Anh.
- Tôi cũng nhìn nhận giống Lewis, nhất là về chuyện đồng đô la.
- Alex Vandervoort nói.
- Chị biết không Edwina? Một trong những sai lầm lớn nhất của hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ, là không bao giờ vận động khách hàng của chúng ta đưa tiền tệ nước ngoài vào tài khoản tiền tệ của họ, chẳng hạn đồng frăng Thuy Sӻ, mác Đӭc vân vân, như các nhà băng đồng nghiệp của chúng ta tại châu Âu thường làm. Tất nhiên
chúng ta vẫn thu xếp chuyện đó cho những hãng có yêu cầu và chúng ta hưởng những khoản lợi nhuận rất lớn qua việc chuyển đổi đó, nhưng hầu như không bao giờ chúng ta làm chuyện đó cho các khách hàng loại nhỏ và loại trung. Giá như trước đây mười năm, hoặc chí ít là năm năm, chúng ta khuyên khách hàng giữ một phần tài khoản của họ tại nhà băng chúng ta bằng ngoại tệ, thì có phải vừa rồi họ được hưởng lãi do sụt giá đồng đôla không? Trong khi như thế này họ bị thiệt khá nhiều.
- Nhưng kho bạc Liên bang sẽ nhận định về chuyện này thế nào? - Tất nhiên họ phản đối, nhưng cuối cùng trước sӭc ép dư luận họ sẽ phải im tiếng. Xưa nay đềunhư thế.
- Đã lần nào anh đưa ý kiến đó ra ở cấp cao chưa?
- Một lần, nhưng tôi bị họ chặn họng ngay. Họ bảo đối với chúng ta, các chủ nhà băng Hoa Kỳ thì đồng đôla bao giờ cũng là thiêng liêng, mặc dù nó cũng mặt yếu kém của nó . Đây là một chính sách đàđiểu, tӵ huyễn hoặc mình! Chúng ta tuyên truyền trong dân chúng quan niệm đó và cuối cùng làm thiệt hại cho họ. Chỉ một số ít ỏi nhà băng HoaKỳ khôn ngoan mở tài khoản tại các nhà băng Thuy Sĩ , Trước khi đồng đô la mất giá.
Edwina nói:
- Tôi nhiều lúc đã suy nghĩ về chuyện này. Mỗi lần ông đô la sụt giá, các chủ nhà băng đều biết trước vậy mà không báo cho khách hàng biết để họ đề phòng mà chúng ta chỉ báo cho một số khách hàng được đặc biệtưu đãi.
- Điều này trái với lợi ích của Tổ quốc. Ngay cả Ben Rosselli... Vandervoort vội ngưng bặt và cả hai đều im lặng một lúc lâu. Thành phố công nghiệp này của miền Trung - Tây Hoa Kỳ, trải rộng bên dưới cửa sổ phòng giấy của Alex Vandervoort. Gần đó những phố buôn bán hẹp và sâu như những khe núi, rải rác chốc chốc lại có một toà cao ốc, chỉ thấp hơn Toà Cao ốc của Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ này đôi chút. Xa xa dòng sông uốn cong chữ S chen chúc các loại tầu thuyền. Nước sông xám xịt, lúc nào cũng bị ô nhiễm nặng.
Ngay liền dưới chân toà cao ốc họ đang ngồi là khu dân nghèo với những đường phố cổ xưa, những hẻm những ngõ chằng chịt. Giữa khối nhà cửa lộn xộn đó nổi bật lên vài toà nhà mới xây và bộ khung của một toà nhà nữa in hình trên nền trời.
Edwina trỏ hai toà nhà, một vừa xây xong và một đang xây dở, nói:
- Nếu tôi gặp phải hoàn cảnh như Ben Rosselli hiện giờ và tôi muốn lưu lại một kӹ niệm trên thế gian này, tôi sẽ gắn họ tên tôi vào khu phố cổ Forum East kia. Alex Vandervoort đưa mắt theo hướng mắt của Edwina, nói:
- Tôi hiểu ý chị, Edwina. Nếu không có Ben Rosselli nhúng tay vào thì cái đề án kia sẽ còn trên giấy. Đề án Forum East có tham vọng thành thị hoá khu phố cổ này ở trung tâm thành phố. Tổng giám đốc nhà băng Ben Rosselli đã đưa vốn của nhà băng này, đầu tư vào việc thӵc hiện nó. Alex Vandervoort được ông giao trách nhiệm coi sóc phần công việc này, và Edwina với tư cách giám đốc chi nhánh nhà băng, có nhiệm vụ vận động khách gửi tiền để xây dӵng và góp những khoản vay tín chấp.
Edwina nói:
- Sắp tới nhà băng sẽ có nhiều thay đổi . . .
Bà suýt nói thêm câu “sau khi Rosselli qua đời, nhưng đã kịp ghìm lại.
- Dĩ nhiên là sẽ có nhiều thay đổi, thậm chí có những cải tiến lớn, nhưng tôi vẫn hy vọng là tất cả nhữn thӭ đó sẽ không tổn hại đến việc tiến hành đề án Forum East –
- Ôi, ông Ben Rooselli còn nói năng với chúng tamới cách đây một tiếng đồng hồ, - Edwina thở dài nói.
- Vậy mà chúng ta đã bàn đến tương lai nhà băng của ông ta, trong khi ông ta vẫn chưa rời khỏi thế gian này. Chị định nói thế chӭ gì? NhưngEdwina ạ, sӵ đời là như thế. Ben Rosselli xưa nay vẫn mong muốn như thế. Sau đây chúng ta sẽ phải quyết định một số điều cӵc kỳ quan trọng.
- Chẳng hạn chọn một tổng giám đốc mới.
- Chẳng hạn điều ấy.
- Rất nhiều người trong nhà băng hy vọng chӭc ấy sẽ vào tay anh đấy, Vandervoort.
- Bản thân tôi cũng mong như thế.
Cả hai đều không nhắc lại chuyện, cho đến ngày hôm nay Alex Vandervoort vẫn được coi là người trong tương lai sẽ kế nghiệp, người được Ben Rosselli lӵa chọn vào chӭc tổng giám đốc sau ông. Nhưng không ai ngờ khả năng đó lại xuất hiện quá nhanh như thế này. Alex Vandervoort làm việc ở nhà băng này mới được hai năm. Trước đó ông làm việc ở Kho Dӵ trữ Liên bang và Ben Rosselli đã đích thân mời Vandervoort về cộng tác với ông. Trong lúc thuyết phục Vandervoot, Ben Rosselli đã ló ra ý định của ông là sau này Vandervoort sẽ thay chân ông làm tổng giám đốc nhà băng này.
Hôm đó Ben Rosselli đã bảo Alex Vandervoort:
“Sau đây năm năm hoặc khoảng thời gian đó, tôi muốn bàn giao việc điều hành nhà băng, cho một người nào đủ sӭc đảm nhiệm những khoản tiền khổng lồ, mà vẫn đem lợi nhuận lại cho nhà băng. Bởi nghề ngân hàng đòi hỏi người điều hành phảiluôn đӭng trên thế mạnh. Tôi cần một người không chỉ giỏi nghiệp vụ, mà còn biết cách làm lợi cho các khách hàng loại nhỏ và trung, bởi chính loại khách hàng này tạo nên nền tảng cho sӭc mạnh của chúng ta . Sai lầm của các chủ nhà băng lớn trên thế giới ngày hôm nay, chính là họ quá ít quan tâm đến lợi ích của loại khách hàng đông đảo này.
Ben Rosselli không hӭa hẹn điều gì cụ thể, nhưng ông già đã nói:"Vandervoort, tôi có cảm tưởng ông chính là người tôi mong ước. Chúng ta làm việc với nhau một thời gian và khi đó ta sẽ quyết định."
Alex Vandervoort rời Kho bạc Dӵ trữ quốc gia Iiên bang, đem khả năng và kinh nghiệm cùng những kiến thӭc tiền tiến nhất, phục vụ Ngân hàngthương mại số Một Hoa Kỳ này. Những kiến thӭc mớí nhất đã giúp ông phát huy tài năng. Ông còn hợp với Ben Rosselli cả trong cách nhìn triết học đối với hoạt động kinh doanh.
Thủơ trẻ, Vandervoort đã biết đến ngân hàng thông qua cha ông, một người Hà Lan nhập cư, sang Hoa Kỳ làm một chủ trại nông dân tại bang Minnesota ông Pieter Vandervoort, cha của Alex Vandervoort đã vay ngân hàng một khoản tiền. Để trả tiền lãi cho ngân hàng, cha ông đã phải làm lụngvất vả đêm ngày. Cha ông thӭc
dậy từ lúc mặt trờichưa mọc và chỉ khi mặt trời lặn cụ mới về nhà nghỉ ngơi. Ông cụ lao động mỗi tuần đủ bảy ngày, cuối cùng chết vì kiệt sӭc và trong nghèo khổ. Ngân hàng chủ nợ của cụ đã rao bán toàn bộ tài sản của cụ, để bù vào số tiền cụ nợ họ, bao gồm cả vốn lẫn lãi. Thӵc tế đó giúp Alex Vandervoort hiểu ra rằng, đӭng bên phía nhà băng hơn là đӭng bên phía khách hàng. Nhờ một học bổng, ông được theo học trường Đại học tổng hợp Harvard, tốt nghiệp khoa kinh tế chính trị hạng ưu.
Edwina nói:
- Những chuyện đó sẽ được giải quyết thôi. Hội đồng quản trị sẽ bầu Tổng giám đốc mới.
- Đúng thế, - Alex Vandervoort lơ đãng đáp.
Ông đang hồi tưởng lại cha ông ngày xưa. Những kӹ niệm về Ben Rosselli và kӹ niệm về cha ông, Pieter Vandervoort, bỗng nhiên chập chờn, quấn quít nhau một cách kỳ lạ.
Edwina nói:
- Tiêu chuẩn thâm niên không phải tiêu chuẩn duy nhất. - Nhưng cũng là một tiêu chuẩn quan trọng.
Alex Vandervoort thầm cân nhắc các khả năng. Ông biết ông có đủ trình độ nghề nghiệp và kinh nghiệm mới mẻ để lãnh đạo nhà băng, nhưng rất cóthể các thành viên Hội đồng quản trị thích bầu người nào họ quen biết lâu năm hơn, như Roscoe Heyward chẳng hạn. Ông ta làm việc ở nhà băng ấy đã gần hai chục năm. Mặc dù có những mâu thuẫn giữa Ben Rosselli và Roscoe Heyward, đa số thành viên Hội đồng vẫn tín nhiệm Heywarđ hơn Vandervoort. Từ hôm qua trở về trước, vị trí Vandervoort thuận lợi hơn Heyward, nhưng bây giờtình thế đã đảo ngược.
Ông đӭng dậy, gõ tẩu để rũ tàn thuốc ra gạt tàn:
- Tôi phải vào làm việc thôi.
- Tôi cũng vậy.
Tuy nhiên, sau khi Edwina ra khỏi phòng, Vandevoort còn lại một mình, ông vẫn ngồi yênghế bành, suy nghĩ vẩn vơ.
Edwina dùng thang máy tốc hành nối tầng nhà của văn phòng nhà băng thẳng xuống tầng trệt. Bàbước ra tiền sánh của Toà Cao ốc. Kiến trúc của toà nhà này tuyệt đẹp, kết hợp nghệ thuật của toà cao ốc Trung tâm Lincoln ở New York với của nhà thờ Sixtine. Các nhân viên nhà băng, khách hàng và khách tham quan đi lại chen chúc trong toà nhà.
Bác nhân viên bảo vệ đӭng canh ngoài cửa lớn cấttiếng chào và Edwina thân ái đáp lại.
Ra khỏi cổng lắp kính hình vòng cung, Edwina ra đến ngoài. Bà đưa mắt nhìn bao quát quảng trường Rosselli gần như một công viên lớn, với những cây cao vút, các ghế băng, những tác phẩm điêu khác và một vòi phun nước lớn. Mùa hè, rất nhiều nhận viên nhà băng ra ngoài này ăn bữa trưa theo cách đơn giản. Nhưng vào mùa này, Edwina cảm thấy khung cảnh nơi đây sao mà ảm đạm đến thế. Gió thổi mạnh làm bay lên những lá vàng rụng và bụi. Những khách bộ hành co ro rảo bước. Edwina chui vào đường ngầm, nối toà cao ốc, đại bản doanh nhà băng với chi nhánh chính, nơi bà làm giám đốc. Chi nhánh của Edwina chỉ là một toà nhà hai tầng nhẹ nhõm.
IV
Tại chi nhánh chính của Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ, ngày làm việc Thӭ tư đã bắt đầu từ lâu và đang diễn ra theo nhịp điệu bình thường mọi khi. Ban giám đốc thay phiên nhau làm thường trӵc điều hành và tuần này đến lượt bà.
Edwina đến cơ quan bao giờ cũng đúng tám giờ rưỡi, nửa giờ trước khi tấm lưới thép nặng nề được kéo lên. Là giám đốc, bà không phải đến trước giờ mở của, nhưng bà muốn làm mọi thӭ để tỏ ra rằng bà khước từ mọi ưu đãi dành cho người lãnh đạo. Mười lăm năm qua, từ khi bắt đầu đến làm cho nhà băng này, Edwina chưa bao giờ nề hà việc gì , kể cả những việc phụ nữ có quyền từ chối.
Lúc đến cửa phòng tổ chӭc nhân sӵ, Edwina mở xắc tay, lấy ra chùm chìa khoá lẫn trong mớ son môi, ví tiền, các thẻ tín dụng cùng
nhiều thӭ lặt vặt khác. Trước khi tra chìa khoá vào ổ, bà kiểm tra lại ám hiệu "an toàn”. Đó là một mảnh bìa cӭng mầu vàng kín đáo trước một ô kính cửa sổ. Nhân viên gác cổng, người đầu tiên đến cơ quan, sau khi đi một vòng kiểm tra không thấy có hiện tượng nào khả nghi, sẽ gài mảnh bìa cӭng đó để báo rằng mọi sӵ yên ổn. Còn nếu bác ta thấy hiện tượng ban đêm có kẻ lạ lọt vào tất nhiên bác ta không cài mẩu bìa cӭng màu vàng kia, để mọi người cảnh giác, kiểm tra lại mọi thӭ.
Vào đến trong, Edwina bước đến mở tấm bảng gắn vào tường. Bên trong là một nút điện. Bà ấn vào đó theo ám hiệu quy định: hai tiếng dài, ba tiếng ngắn và thêm một tiếng dài nữa. Chuông sẽ vang lên tại phòng bảo vệ của Toà cao ốc và khi nghe thấy ám hiệu trên, bộ phận bảo vệ nhà băng biết là tình hình yên ổn. Nhân viên bảo vệ chi nhánh của Edwina khi đến cơ quan cũng làm ám hiệu với bộ phận bảo vệ của nhà băng trong toà cao ốc. Hình thӭc "báo tin" này được áp dụng cho tất cả các chi nhánh của Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ.
Nếu Edwina hay nhân viên bảo vệ không làm ám hiệu đó, bộ phận bảo vệ của Toà Cao ốc lập tӭc báo cảnh sát và liền sau đó chỉ vài phút, toàn bộ ngôi nhà sẽ được lӵc lượng cảnh sát bao vây. Cũng như mọi biện pháp an toàn khác, hình thӭc "bấm chuông” này cũng luôn phải được thay đổi. Khi ban bảo vệ ở đại bản doanh của nhà băng tại Toà Cao ốc nhận được tín hiệu "yên ổn” họ yên tâm và sẽ không phải thi hành biện pháp nào để đối phó.
Lúc này, các nhân viên của chi nhánh đang lũ lượt tới . Nhân viên bảo vệ đӭng ở cửa, trong bộ đồng phục quy định, kiểm tra và ngăn lại những người không thuộc cơ quan.
- Chào bà Giám đốc!
Người vừa chào Edwina là một ông già tóc bạc trắng, khuôn mặt xương xẩu và đầy nếp nhăn, trông giống như mặt con chuột túi. Ông Tottenhoe này là trưởng phòng tổ chӭc nhân sӵ kiêm phụ trách những vụ việc thường ngày của chi nhánh. Vẻ mặt u sầu của ông chӭng tỏ ông sắp đến tuổi về hưu, như thể ông ghen với tuổi trẻ của những người khác.
Edwina cùng Tottenhoe đi qua hành lang tầng dưới, theo một hành lang trải thảm đi lên tầng hai, rồi lại xuống gian hầm nơi để các két sắt đӵng tiền. Sau khi vặn các núm theo mã số, họ đợi cho các dây cót hoạt động rồi mới mở cửa.
- Nghe đồn ngài Rosselli nguy kịch lắm phải không, thưa bà? – Tottenhoe rầu rĩ hỏi.
- Đúng thế, thật đáng buồn!
Tottenhoe lúng búng câu gì Edwina nghe không rõ. Lát sau vào tám giờ bốn mươi lăm, một tiếng rắc trong hệ thống cửa thép vang lên chӭng tỏ hệ thống báo động đã gài tối hôm qua, bây giờ thôi làm việc, và người ta có thể mở cửa thoải mái. Edwina bèn ấn vào nút chuông lắp trong tường, báo cho bộ phận bảo vệ ở Toà Cao ốc biết là mọi sӵ yên ổn. Đúng lúc đó, Miles Eastin, một nhân viên trẻ tuổi bước đến, anh ta đẹp trai, ăn mặc bao giờ cũng rất sang và nụ cười luôn trên môi, trái ngược với bộ mặt âu sầu rúm ró của ông già Tottenhoe. Cùng đi với Eastin là chánh thủ quӻ, chuyên kiểm tra tiền nhập và xuất vào két hàng ngày. Trong sáu tiếng đồng hồ làm việc mỗi ngày, trung bình khoảng một triệu đô la tiền mặt lướt qua cặp mắt tinh tường của anh ta. Nếu tính cả ngân phiếu, chi phiếu thì số tiền trung bình hàng ngày phải lên đến khoảng hai chục triệu đô la.
Edwina lùi lại nhường chỗ cho chánh thủ quӻ và Miles Eastin. Hai người này mở rộng tấm cửa thép nặng nề. Tấm cửa này sẽ mở ra như thế cho đến hết giờ buổi chiều. Eastin nói với ông già Tottenhoe:
- Tời vùa nhận được điện thoại. Hôm nay hai nhân viên giao dịch nữa nghỉ việc.
Mặt ông già lộ vẻ bӵc bội.
- Cúm à? - Edwina hỏi.
Hiện giờ dịch cúm đang lan tràn trong thành phố và nhân viên giao dịch luôn phải trӵc tiếp với khách nên dễ bị lây nhất. - Vâng, thưa bà giám đốc. - Eastin đáp.
Tottenhoe lẩm bẩm:
- Thế này thì làm việc sao được? - ông ta quay sang Edwina:- Bà giám đốc quyết định vẫn mở các cửa giao dịch chӭ?
- Tất nhiên rồi. Khách hàng đang cần đến chúng ta.
- Nếu vậy tôi phải điều vài người trong văn phòng ra đӭng ở các cửa giao dịch bị trống vậy. Eastin, cậu nhận một cửa giao dịch nhé? Cậu biết tính toán chӭ?
- Vâng, đến số hai mươi, - Eastin nói.
Edwina bật cười. Anh chàng Eastin này rất tháo vát hầu như giao việc gì anh ta cũng làm được ngay. Bà đã nghĩ đến chuyện sang năm ông già Tottenhoe nghỉ hưu, bà sẽ đề bạt Eastin lên chӭc trưởng phòng tổ chӭc nhân sӵ, đồng thời theo dõi công việc hàng ngày.
Eastin có một trò giải trí mà anh say mê nhất, nhưng đồng thời trò đó lại có ích cho nhà băng. Eastin sưu tầm các loại tiền. Anh được giao việc đào tạo nhân viên mới tuyển cho nhà băng, và trong bài giảng, Eastin luôn chen vào đủ các giai thoại lịch sử. Chẳng hạn giai thoại sau đây: tiền giấy là do người Trung Hoa nghĩ ra đầu tiên, và cuộc lạm phát đầu tiên xảy ra vào thế kӹ XIII, khi vua Mông Cổ Hốt Tất-Liệt nhà Nguyên in tiền giấy bằng bản khắc gỗ, để trả lương cho binh lính của ông ta hết sӭc đông đúc. Không may là số tiền giấy in ra lớn đến mӭc nó mất giá hầu như hoàn toàn. Khi kể lại chuyện đó cho học viên nghe, Miles Eastin đã nói đùa: "Một số người đang lo đồng đô la bị Mông Cổ hoá mất !"
Do hiểu biết sâu sắc về các loại tiền, Miles Eastin còn được ngân hàng sử dụng làm chuyên gia kiểm tra tiền giả. Thường xuyên các quầy giao dịch gửi những tờ giấy bạc khả nghi đến cho anh xem, có phải tiền giả hay không.
Edwina cùng Eastin và Tottenhoe quay lên tầng một, ra gian phòng lớn. Lúc này đang diễn ra việc giao tiền của nhà băng chi nhánh chính. Hai nhân viên bảo vệ mang vũ khí đӭng canh xe tải chở tiền. Thông thường việc giao tiền diễn ra từ sáng sớm. Tiền nhà băng nhận của Kho bạc Dӵ trữ Liên bang xong, bèn phân phát cho các chi nhánh và cơ sở.
Tiến hành chuyển giao tiền như thế là có nguyên nhân rất đơn giản: không nên để tiền đọng với số lượng quá lớn trong kho nhà băng vì chúng không mang lại lợi ích nào hết. Chưa kể còn có nhiều nguy cơ bị mất mát, ăn cắp. Tài ba các giám đốc chi nhánh và cơ sở
giao dịch, còn thể hiện ở chỗ họ biết giữ trong két chỉ vừa đủ số tiền mặt cần thiết, để khỏi bị tồn đọng. Một chi nhánh loại quan trọng như chi nhánh này cũng chỉ giữ trong két đến nửa triệu đô la tiền mặt mà thôi.
Số lượng tiền được chuyển đến sáng nay là hai trăm rưởi ngàn, vừa đủ bù số thiếu hụt do các vụ giao dịch hôm qua, để con số trong két của chi nhánh giữ ở mӭc nửa triệu, dùng cho ngày giao dịch hôm nay.
Tottenhoe càu nhàu với nhân viên giao tiền:
- Hôm nay tiền có sạch sẽ hơn những lần gần đây không đấy? - Thưa ông Tottenhoe, tôi có nói với người giao tiền ở bên kia, tại văn phòng trung tâm, là ông kêu tiền nát quá. Thì ra ông ta đã biết rồi. Chắc hẳn ông đã gọi điện sang cho họ. Còn tôi chỉ là thằng vận chuyển. Người ta giao cho tôi thӭ gì thì tôi chở đến đây thӭ ấy.
Tất cả các ngân hàng đều yêu cầu Kho bạc dӵ trữ Liên bang chuyển cho họ tiền mặt bằng giấy do Nhà máy in tiền mới in ra, bởi nhiều khách hàng không chịu nhận tiền cũ, nát hoặc bẩn. Để đỡ gặp rắc rối, các nhân viên ngân hàng được lệnh dành tiền cũ, bẩn cho những khách hàng nào dễ tính. Một nhân viên áp tải tiền nháy mắt với nhân viên thӭ hai, nói:
-Hiện đang lưu hành vô số tiền giả trông rất mới. Chúng tôi có thể dành cho ông cả một bao tải toàn tiền mới tinh loại đó. Edwina nói:
-Ôi thӭ đó thì chúng tôi thiếu gì, đã có quá nhiều là khác. Nguyên trong tuần lễ vừa rồi, chi nhánh của bà đã nhận lầm gần một ngàn đô la tiền giả. Không thể biết được người nào đã giao tiền đó cho các quầy. Theo dӵ đoán thì nhiều khách hàng gặp phải tiền giả bèn tìm cách đẩy lại cho ngân hàng. Cũng có thể bản thân họ không biết đó là tiền giả, bởi những tờ đô la giả này được làm rất tài tình. Những nhân viên cảnh sát đặc biệt phụ trách điều tra các vụ làm tiền giả, đã nhiều lần nói với Edwina và Miles Eastin: "Gần đây nạn tiền giả bành trướng quá lớn. Những tờ tiền giả chúng tôi thu thập được bắt chước rất khéo tiền thật".
Người ta phát hiện thấy chỉ trong một năm ngoái, số tiền giả lưu hành trên thị trường tiền tệ lên tới con số ba mươi triệu đô la và đại đa số không phát hiện ra được. Hình như đô la giả được in chủ yếu tại Anh và Canada. Cảnh sát đặc nhiệm phát hiện thấy tiền đô la giả lưu hành rất nhiều tại Châu Âu. Nguyên nhân rất đơn giản, việc kiểm tra ở đó khó khăn hơn ở trên đất Hoa Kỳ. Các cảnh sát viên đặc nhiệm bảo Edwina: “Nếu bà có người thân hoặc bè bạn sang Châu Âu bà nên khuyên họ đừng nhận tiền Hoa Kỳ ở đó vì rất dễ gặp phải tiền giả. Một nhân viên áp tải tiền vừa vác bao tải tiền lên vai vừa nói:
- Xin các vị đừng lo, chúng tôi mang đến toàn tiền thật thôi. Đợi nhân viên thӭ hai vác bao tải tiền lên vai, cả hai cùng đi vào phía gian hầm đặt các két tiền. Edwina đến ngồi bàn giấy của bà kê trên một cái bục cao. Các cửa ra phố đã mở rộng và những khách hàng đầu tiên đang lục tục vào. Tất cả các cửa giao dịch, các ngăn làm việc đều sôi động hẳn lên. Bộ phận lãnh đạo ngồi trên bục cao. Riêng bàn của Edwina, giám đốc, kê chính giữa. Bục trải thảm đỏ. Bàn giấy của bà to và trông trịnh trọng, hai bên cắm hai lá cờ, một lá cờ sao vạch của Hoa Kỳ, một lá cờ nhỏ của bang. Nhiều lúc, ngồi ở bàn giấy, Edwina có cảm giác như đang có camera tivi hướng vào bà và bà sắp phải tuyên bố một điều gì long trọng.
Toà nhà này được sửa sang lại toàn bộ cách đây hai năm. Các kiến trúc sư và trang trí nội thất đã thay đổi hoàn toàn. Họ không tiếc gì gỗ quý để lát tường và tăng thêm rất nhiều chỗ dát vàng. Tất nhiên chi nhánh này trở nên sang trọng và cách bố trí rất thuận tiện cho nhân viên cũng như khách hàng. Dù sao Edwina vẫn cảm thấy nó quá diêm dúa.
Ngồi vào bàn, việc đầu tiên là Edwina là mở cặp đӵng các đơn xin vay. Số tiền khách hàng xin vay gửi đến chi nhánh của bà, vượt lên trên tất cả các chi nhánh khác vì đây là chi nhánh chính, cơ sở giao dịch trung tâm của Ngân hàng Thương mại số Một Hoa kỳ. Quyền hạn của Edwina là được đồng ý cho vay một khách hàng không quá một triệu đô la, tất nhiên khi khoản cho vay lên đến mӭc này, cần phải có hai trưởng phòng của chi nhánh không phản đối. Thật ra rất ít xảy ra trường hợp này. Nếu khách xin vay trên một triệu đô la, Edwina phải chuyển lên Hội đồng xét cho vay của văn phòng trung tâm ở Toà Cao ốc bên cạnh.
Tại Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ cũng như ở mọi ngân hàng khác, số tiền quan chӭc nào được phép đồng ý cho một khách hàng vay, thể hiện vị trí của quan chӭc đó trong thang bậc quyền lӵc. Người ta dùng cụm từ "giá trị của chữ ký tắt” bởi mỗi khi một quan chӭc đồng ý cho vay, người đó đều ký chữ ký tắt lên góc đơn của khách hàng.
“Giá trị chữ ký tắt" của Edwina khá cao vì trách nhiệm của bà, giám đốc chi nhánh chính, chi nhánh lớn nhất của nhà băng, là một trách nhiệm rất nặng nề. Một số giám đốc chi nhánh chỉ được quyền cho vay từ mươi ngàn đến năm trăm ngàn, tuỳ theo khả năng và thâm niên của họ.
“Giá trị chữ ký tắt" còn thể hiện cả trong điều kiện làm việc của từng quan chӭc nhà băng. Loại quan chӭc "chữ ký tắt" trị giá tối đa năm mươi ngàn đô la thì chỗ làm việc chỉ là một bàn giấy kê trong một ngăn che bằng kính. Một kiểm soát viên "chữ ký tắt” trị giá tối đa là nửa triệu đô la thì có phòng giấy riêng sang trọng, cửa ra vào và cửa sổ, trên tường treo một bӭc hoạ bằng sơn dầu hẳn hoi, phong bì và giấy viết thư có in tiêu đề riêng và được cung cấp đều đặn hàng ngày báo Phố Wall. Ngoài ra ông ta còn được người phục vụ đánh xi giày thường xuyên. Kiểm soát viên cỡ “chữ ký tắt" trị giá tối đa một triệu đô la thì có phòng làm việc lớn, bố trí ở góc toà nhà, nghĩa là có hai cửa sổ trông ra hai mặt, có hai bӭc tranh sơn dầu treo trên tường và có một thư ký riêng. Phong bì và giấy viết thӭ in tên riêng bằng chữ chìm. Ông ta được cung cấp nhiều thӭ báo hàng ngày và tạp chí, và được sử dụng xe, được ngồi ăn trong phòng ăn dành cho quan chӭc cấp cao của nhà băng.
Edwina thuộc loại này. Bà được hưởng mọi ưu đãi kể trên, chỉ trừ chuyện đánh xi giày. Sáng nay bà xem xét hai đơn xin vay tiền. Đơn thӭ nhất bà ký tắt đồng ý, đơn thӭ hai bà ghi vào một số câu hỏi, đơn xin vay thӭ ba thì bà rất ngạc nhiên. Edwina nhận ra đơn này giống hệt đơn xin vay bà đã nhận được hôm qua. Bà đọc kӻ lại hồ sơ rồi cho gọi nhân viên đã chuẩn bị hồ sơ xin vay này. Anh ta ngồi xuống ghế trước mặt Edwina nói ngay:
- Tôi biết bà gọi tôi đến là vì chuyện gì. Có một số khách hàng tâm thần, bà công nhận không?
Anh ta vóc thấp, mặt tròn, đỏ hồng, nụ cười kín đáo và tên là Cliff Castleman. Anh ta rất được lòng khách hàng vì luôn tỏ thái độ niềm nở, thông cảm, thật ra anh ta rất có năng lӵc và xét đoán bao giờ cũng chính xác. Edwina nói:
- Tôi hy vọng đây là một trò đùa cho vui, và như thế thật thì đúng là không nên.
- Thưa bà giám đốc, đúng là như thế. Có vẻ như đùa, nhưng đây lại là chuyện hoàn toàn nghiêm túc. Tôi đã đoán trước là thế nào bà cũng muốn biết thêm chi tiết, về những gì có trong hồ sơ và tôi đã ghi ý kiến của tôi.
- Vậy là ông cho rằng nên cho khách hàng này vay nhằm mục đích ghi trong hồ sơ chăng? Và những ngần này tiền? - Đúng thế. Ý định của khách có vẻ phi lý nhưng tôi cho rằng bà nên đồng ý. Quả là mọi chi tiết đều có cả trong tập hồ sơ. Một người đàn ông, bốn mươi ba tuổi, tên là Gosbume, làm chân bán hàng cho một hiệu dược phẩm trong thành phố. Ông ta xin vay hai mươi lăm ngàn đô la. Gosbume lấy vợ mười bảy năm trước đây và đã tậu được một ngôi nhà riêng ở ngoại ô. Trong bảng kê tài khoản ông ta mở tại nhà băng này cách đây tám năm, không có một vi phạm nào. Trước đây hai vợ chồng ông có vay của nhà băng một khoản nhỏ và đã hoàn trả sòng phẳng. Về mặt công việc và đời tư, Gosbume không hề sai phạm gì. Nay hai vợ chồng ông ta xin vay nhà băng hai mươi lăm ngàn đô la, là nhằm mua một cỗ quan tài bằng thép không rỉ, để đӵng thi hài đӭa con gái mười lăm tuổi vừa chết vì bị ung thư thận. Từ hôm đó, thi hài đӭa trẻ được giữ trong phòng đӵng tuyết nhân tạo cacbonic tại một hãng dịch vụ tang lễ. Ngay sau khi đӭa trẻ tắt thở, người ta đã rút hết máu của nó, thay bằng một chất lỏng chống đông tên là dimethylsulfoxyde. Quan tài bằng thép không rỉ có đặc điểm là đӵng nitơ lỏng ở nhiệt độ dưới không. Thi hài đӭa con gái sẽ được bọc trong những tấm nhôm rồi đặt vào trong chất nitơ lỏng đó.
Nhũng quan tài kiểu như thế, thӵc chất là những cái chai khổng lồ được bán với cái tên là cryo-crypte tại Los Angeles, và sẽ được chở bằng máy bay đến thành phố này, nếu nhà băng đồng ý cho họ vay tiền. Khoảng một phần ba số tiền vay sẽ được trả trước cho hãng
bảo quản quan tài để họ giữ và cӭ bốn tháng thay chất nitơ lỏng trong đó một lần.
Castleman hỏi Edwina:
- Bà có nghe nói đến những hội cryonic rồi chӭ?
- Có nghe loáng thoáng. Nhưng tôi cho đó là chuyện hão huyền, một thӭ khoa học hồ đồ mà tôi không tin.
- Tôi cũng không tin. Nhưng các hội cryonic ấy có rất nhiều hội viên. Một số hội viên đó thuyết phục hai vợ chồng Gosbume rằng sau này, đến lúc khoa học tiến bộ cao, khoảng năm mươi hoặc một trăm năm nữa chẳng hạn, người ta sẽ có thể lấy thi hài đӭa trẻ ra khỏi chất lỏng lạnh, hồi sinh cho nó và chữa nó khỏi căn bệnh hiểm nghèo. Những người tán thành giả thuyết đó nêu lên khẩu hiệu: làm lạnh, chờ đợi và hồi sinh lại.
- Khủng khiếp ! - Edwina kêu lên.
- Đúng thế, tôi đồng ý với bà đấy là chuyện phi lý. Nhưng xin bà hãy thử đӭng vào vị trí của hai vợ chồng Gosbume. Họ tin tưởng vào lý thuyết đó. Họ đều là người lớn, đều trí óc lành mạnh và đều hết sӭc mộ đạo. Những người làm ngân hàng chúng ta có quyền gì để phán xét họ? Theo tôi, chúng ta chỉ nên đề ra câu hỏi: liệu gia định Gosbume có khả năng hoàn trả số tiền họ vay không? Tôi đã nghiên cӭu kӻ tình hình của họ và tin rằng họ sẽ trả và trả được. Ông Gosbume kia tuy có cách suy nghĩ hồ đồ nhưng ông ta rất nghiêm túc trong chuyện tiền nong, không thiếu của ai một xu bao giờ.
Edwina khó chịu nhưng cố nén lòng đọc lại những con số ghi trong cột chi thu của gia đình Gosbume. Bà nói:
- Nhưng khoản nợ này quá lớn và muốn trả được, họ sẽ phải vất vả ghê gớm.
Gosbume biết thế, nhưng ông ta bảo sẽ tìm được cách kiếm thêm tiền. Ông ta đã xin được việc làm thêm buổi tối và chủ nhật. Vợ ông ta cũng đang kiếm việc để làm.
- Họ còn bốn đӭa con nhỏ nữa, đúng không nhỉ?
- Vâng, đúng thế.
- Castleman đáp.
- Phải có ai đến gặp họ và nói cho họ hiểu rằng bốn đӭa con nhỏ kia cần phải có tiền để may mặc, học hành và bao nhiêu khoản chi phí khác cho chúng để chúng nên người.
- Chính tôi đã nói điều đó với họ. Tôi đã trao đổi rất lâu với Gosbume. Ông ta cho biết cả gia đình ông ta đã bàn bạc rất kӻ vấn đề và tất cả nhất trí tán thành. Bốn đӭa con kia hӭa vài năm nữa, đủ lớn, chúng sẽ đi làm kiếm tiền và chăm sóc thi hài của chị chúng.
Edwina chợt nhớ lại cuộc họp chiều hôm qua tại phòng họp ở trụ sở trung tâm của nhà băng. Ông Ben Rosselli sẽ từ giã cõi đời một cách tӵ trọng. Giá như ông ta trông chờ vào cái hội cryonic thì cái chết của ông sẽ tầm thường biết bao. Liệu bà, Edwina có quyền đem tiền của ông dùng vào một thӭ việc hàm hồ như lý thuyết cryonic kia không?
Castleman nói:
- Thưa bà giám đốc, tôi nhận được bộ hồ sơ xin vay tiền này đã được hai ngày. Mới đọc, tôi cũng thấy vô lý giống như bà đã nghĩ. Nhưng sau suy nghĩ lại, tôi đã thay đổi ý kiến. Tôi cho rằng việc cho vay này là một mạo hiểm có thể chấp nhận được.
SΉ mạo hiểm có thể chấp nhận được. Edwina hiểu rằng, nói cho cùng thì Castleman nghĩ đúng, bởi trong nghề ngân hàng chỉ có một diều duy nhất cần cân nhắc: khả năng rủi ro đến đâu và có thể chấp nhận được hay không? Bên cạnh đó có một nguyên tắc đã được quy định trong ngành là ngân hàng không được quyền phán xét những chuyện thuộc đời tư của khách hàng. Dĩ nhiên việc cho vay này có phần mạo hiểm. Nhưng nếu trường hợp rủi ro thì cũng không thể khiển trách được Castleman. Hồ sơ nhân sӵ của ông ta chӭa đӵng nhiều ưu điểm hơn khuyết điểm, nhiều thành công hơn thất bại. Một hồ sơ nhân sӵ chỉ toàn thành công chưa phải đã là một hồ sơ tốt, bởi làm nhân viên ngân hàng phụ trách việc cho vay bao giờ cũng phải chấp nhận một số rủi ro đôi khi thất bại. Một người chỉ toàn thành công, không bao giờ thất bại, có nghĩa anh ta quá thận trọng và như vậy anh ta khó làm tốt công việc. Máy tính sẽ chỉ rõ với giám đốc cách đánh giá con người đó như thế.
Edwina nói:
- Được Tuy ông ta có cách suy nghĩ tôi thấy ghê tởm nhưng tôi chấp nhận đề xuất của ông. Bà ký tắt lên góc tờ đơn xin vay tiền. Castleman quay về chỗ.
Ngày Thӭ tư đó khởi đầu giống mọi ngày khác. Công việc chạy đều đặn, chỉ có chuyện cho vay tiền để ướp lạnh xác một đӭa trẻ gái là hơi khác thường. Edwina tiếp tục giải quyết công việc cho đến đầu buổi chiều.
Mỗi khi ăn trưa một mình, Edwina thường vào tiệm ăn xoàng xĩnh ở dưới tầng hầm của Toà Cao ốc. Nơi đó ồn ào, thӭc ăn cũng không ngon, nhưng được cái có thể ăn chóng vánh, mười lăm phút là xong. Nhưng hôm nay bà mời ăn một khách hàng, cho nên bà đưa ông ta lên nhà ăn dành cho quan chӭc cao cấp của nhà băng trong Toà Cao ốc, trên tầng gần chót.
Khách là thủ quӻ một hãng thương mại lớn của thành phố. Ông ta xin vay nóng ba triệu đô la để bù khoản thiếu hụt do mùa thu vừa rồi thời tiết xấu, doanh thu giảm sút, và để tiếp tục cất hàng tiêu thụ cho lễ Noel.
Vừa lấy món măng tây trong đĩa, ông ta vừa nhăn nhó: - Vụ lạm phát quá tai hại ! Nhưng chỉ hai tháng nữa chúng tôi sẽ khôi phục được tình hình kinh doanh. Ông già Noel bao giờ cũng rất tốt với hãng chúng tôi.
Hãng thương mại của ông ta là khách quen và tốt của nhà băng. Tuy nhiên Edwina cũng không buông tha. Bà vặn vẹo đủ điều, đề ra những điều kiện khá khắt khe có lợi cho nhà băng. Khách cố tӵ vệ nhưng cuối cùng đành nhượng bộ. Ba triệu là con số vượt ra ngoài quyền hạn của Edwina, bà chỉ có quyền đề nghị và phải được Ban lãnh đạo ở văn phòng trung tâm chấp thuận. Nếu cần nhanh, bà có thể trӵc tiếp với Alex Vandervoort và trong những trường hợp như thế này, thông thường Vandervoort vẫn ủng hộ bà.
Lúc ăn tráng miệng và uống cà phê, một cô hầu bàn bước đến nói với Edwina:
- Ông Tottenhoe muốn nói chuyện với bà. Ông ấy bảo có việc cần kíp.
Edwina xin lỗi khách rồi sang phòng bên cạnh. Đầu dây kia, ông già trưởng phòng tổ chӭc nhân sӵ phàn nàn:
- Tôi tìm bà mãi mà không thấy.
- Thì bây giờ ông đã thấy rồi. Chuyện gì vậy?
- Trong một cái két tiền bị hụt. Tottenhoe trình bầy đầu đuôi. Cách đây nửa giờ, một nữ nhân viên giao dịch báo tin bị mất tiền. Ngay lúc đó người ta đã tiến hành kiểm tiền lại.
Edwina nhận thấy có nỗi hoang mang trong giọng nói của ông già Tottenhoe. Bà hỏi độp ngay:
-Mất bao nhiêu?
Giọng nghèn nghẹn của ông già và câu đáp:
- Sáu ngàn đô la.
- Tôi sẽ về ngay bây giờ. Liền sau đấy bà xin lỗi khách rồi theo thang máy cấp tốc xuống dưới tầng trệt.
V
Ông già Tottenhoe rầu rĩ nói:
- Theo tôi hiểu thì chúng ta chỉ biết được chắc chắn một điều: sáu ngàn đô la tiền mặt không còn ở vị trí của nó. Ông già ngồi trước mặt Edwina, cùng với Eastin và một nữ giao dịch viên trẻ tên là Juanita Numez. Chính sáu ngàn đô la bị mất là trong ngăn kéo tiền của cô.
Edwina đã về cơ quan trước đó nửa giờ. Sau khi nghe Tottenhoe trình bày, bà nói:
- Ông đã tóm tắt chính xác tình hình, nhưng tôi muốn nghe ông thuật lại tỉ mỉ từ đầu và cố đừng bỏ sót chi tiết nào dù nhỏ. Và kể chậm thôi.
Lúc đó đã hơn ba giờ chiều. Các cửa ra phố đều đã đóng. Khách đã không còn ai. Mọi người tiếp tục làm việc như mọi khi, nhưng Edwina cảm thấy thỉnh thoảng họ lại đưa mắt về phía nơi bà ngồi, bởi họ đã cảm thấy có xảy ra chuyện gì quan trọng.
Edwina cố gắng giữ bình tĩnh để đánh giá từng chi tiết của sӵ việc. Bà đặc biệt chú ý đến thái độ của cô Juanita. Bà biết sẽ phải thông báo chuyện này cho văn phòng trung tâm nhà băng, cho cơ quan cảnh sát và có thể cho cả Cục cảnh sát Liên bang F.B.I nữa.
Tuy nhiên bà rất muốn tӵ giải quyết được vấn đề này tại đây mà không cần đến "trọng pháo” bên ngoài nã vào.
- Thưa bà d’Orsey, - Miles Eastin lên tiếng và vẻ vui tươi trên khuôn mặt anh ta đã biến đâu mất. – Nếu bà cho phép tôi xin nói trước, bởi người đầu tiên biết chuyện này là tôi. Cô Juanita phát hiện ra là báo cho tôi biết trước tiên.
Edwina gật đầu. Miles Eastin nói tiếp:
- Sau hai giờ vài phút, cô Juanita Numez đến nói với tôi rằng hình như trong két nhỏ đӵng tiền của cô ấy thiếu mất sáu ngàn đô la. Bà đã biết rồi, hôm nay tôi làm thay chân giao dịch vì quá nhiều nữ giao dịch viên bị cúm nghỉ. Cửa tôi ngồi cách cửa Juanita một cửa, có một giao dịch viên ngồi. Trước khi đӭng dậy, Juanita đã khoá két nhỏ cẩn thận, và nghe xong tôi cũng khoá két nhỏ đӵng tiền của tôi, để đi báo ông Tottenhoe.
Mặt rầu rĩ, ông già trưởng phòng tổ chӭc nhân sӵ đỡ lời ngay. Sau khi biết tin, ông đã hỏi lại Juanita Numez. Thoạt đầu ông không tin một số tiền lớn như thế lại có thể mất. Thậm chí nếu có sӵ mất mát thì theo lô gích, Juanita không thể biết ngay được là mất bao nhiêu.
Ông già Tottenhoe cho biết, sáng nay lúc bắt đầu làm việc, Juanita có trong két nhỏ của cô trên mười ngàn đôla vào lúc chín giờ sáng, tӭc là lúc chi nhánh mở của đón khách.Trong thời gian năm tiếng đồng hồ, trừ đi trong quãng đó có bốn mươi lăm phút nghỉ ăn trưa, cô ta liên tục thu tiền và phát tiền cho khách. Hôm nay lại đột nhiên khách rất đông, vượt mọi ngày. Tất nhiên, đây chỉ là chuyện ngẫu nhiên. Thông thường, không tính chi phiếu và ngân phiếu, Juanita phải có hai mươi đến hai mươi lăm ngàn đô la trong ngăn kéo lúc hai giờ chiều, tӭc là giờ đóng cửa. Tottenhoe kết luận như sau: làm sao cô ta biết là mất tiền? Và làm sao cô biết chính xác mất số tiền là sáu ngàn đô la?
Edwina gật đầu tán thành, bởi chính bà cũng đang suy nghĩ đúng như thế. Trong lúc lắng nghe ông già Tottenhoe thuật lại, bà vẫn chăm chú nhìn cô gái trẻ giao dịch viên: Juanita tóc đen, da nâu, bé nhỏ, mảnh mai, không đẹp nhưng có duyên. Cô ta có nét dễ ưa của một nữ thuӹ thần. Toàn bộ con người Juanita toát lên gốc gác Porto Rico của cô.
Cách nói tiếng Anh của cô cũng mang âm sắc nặng vùng đó. Từ đầu đến giờ cô không nói gì mấy, chỉ trả lời vắn tắt những câu người ta hỏi. Thái độ như vậy nghĩa là sao? Edwina thầm nghĩ: "Rõ ràng cô ta không thành thật. Juanita hầu như không nói gì thêm ngoài điều cô ta nói từ lúc đầu: "Tôi thấy hụt sáu ngàn đô la”. Edwina thấy vẻ mặt cô ta lúc nào cũng rầu rĩ và bướng bỉnh. Thậm chí đôi lúc Juanita còn như nghĩ tận đâu đâu, như thể cuộc thẩm vấn này chỉ làm mất thời giờ của cô. Tuy nhiên cũng thấy rõ là cô ta lo lắng, bởi cô ta luôn tay xoay chiếc nhẫn trên ngón tay thӭ tư. Điều này chӭng tỏ ruột gan cô ta đang bồn chồn.
Edwina đã xem qua lý lịch của Juanita và biết rằng cô ta năm nay hai mươi lăm, đã có chồng nhưng hai người chia tay nhau và cô ta hiện nuôi đӭa con gái nhỏ lên ba. Juanita đến làm chân giao dịch viên ở nhà băng này đã hai năm. Edwina còn nghe nói cô ta phải một mình nuôi con, rằng lúc chia tay, chồng cô ta đã để lại cho vợ những món nợ chồng chất khiến cô phải trả thay, do đó cô ta rất túng bấn, lúc nào cũng thiếu tiền.
Mặc dù còn nghi ngờ, tại sao cô giao dịch viên Juanita lại biết được chính xác số tiền cô mất là ngần ấy , Tottenhoe vẫn phải tạm đình chỉ công tác của cô ở quầy giao dịch và "nhốt” cô lại, cùng với két nhỏ đồng tiền và sổ sách. Biện pháp nhốt này vẫn thường được áp dụng trong những trường hợp như thế này, nhằm mục đích bảo vệ cho nhân viên. Khi ngồi trong phòng kín, một mình với két tiền và sổ sách, nhân viên "bị nghi ngờ" đó có thể kiểm tra lại toàn bộ chi thu trong ngày.
Trong khi Juanita ngồi trong phòng "nhốt", Tottenhoe đợi ngoài hành lang. Lát sau, Juanita mở cửa, mời ông già trưởng phòng tổ chӭc nhân sӵ vào, báo cáo là sau khi kiểm tra lại, cô vẫn thấy đúng là mất sáu ngàn đô la.
Tottenhoe bèn gọi Miles Eastin là phó phòng đến và hai người soát lại sổ sách của Juanita trong ngày hôm nay, cùng với số tiền trong két nhỏ của cô. Họ thấy đúng như lời cô gái báo, nghĩa là hụt sáu ngàn đô la.
- Liền sau đó tôi đã gọi điện báo bà biết, thưa bà giám đốc. Edwina hỏi:
- Nghĩa là chúng ta vẫn chưa tiến thêm được bước nào so với phát hiện của chị Juanita lúc đầu tiên. Vậy các vị còn muốn nói thêm điều gì nữa không?
Miles Eastin nói:
- Nếu bà giám đốc cho phép, tôi xin được đặt vài câu hỏi với cô Juanita, tất nhiên là nếu cô cũng bằng lòng cho tôi hỏi. Edwina liếc nhìn Juanita và cô gái gật đầu bằng lòng.
Miles Eastin hỏi:
- Cô thử nhớ lại xem, Juanita, cô có đi trao đổi TX với một giao dịch viên nào trong ngày hôm nay không?
Cả bốn người ngồi đó đều hiểu TX nghĩa là gì. Đó là sӵ mượn tạm lẫn nhau giữa hai giao dịch viên. Trong quá trình chi thu với khách hàng, rất hay xẩy ra trường hợp một nhân viên giao dịch nào đó thiếu tiền trả lại khách. Đúng ra người đó phải xuống hầm đӵng két để lấy nhưng nếu số tiền không lớn, họ thường hỏi vay tạm nhân viên giao dịch bên cạnh, và ký nhận vào một mảnh giấy gọi là TX. Tuy nhiên đôi khi vì vội vã, hoặc vì khoản tiền quá nhỏ, họ cho vay miệng mà không ký nhận bằng văn bản. Những khi đó, cuối ngày, rất dễ xảy ra trường hợp là họ phát hiện trong két hụt hoặc dôi ra một khoản tiền nào đó. Tất nhiên nhân viên thu ngân này thấy hụt thì nhân viên thu ngân khác lại thấy dôi ra. Nhưng những trục trặc này đều xảy ra với số tiền nhỏ, chưa bao giờ lên đến con số vài ngàn đô la.
Juanita nói:
- Không. Hôm nay tôi không hề vay của ai cũng như cho ai vay. Eastin vẫn hỏi tiếp:
- Trong ngày hôm nay có lúc nào cô thấy có người lạ ở bên cạnh cô không? Người nào có khả năng mở két nhỏ của cô và ăn cắp số tiền?
- Không.
- Lúc cô vẩy tay gọi tôi lại, báo tin mất tiền thì cô đã phát hiện thấy được bao lâu rồi?
- Chỉ vài phút thôi.
Edwina chen vào hỏi:
- Lúc đó là sau khi ăn trưa về bao nhiêu phút?
Juanita ngập ngừng rồi nới, vẻ không tӵ tin lắm:
- Khoảng hai mươi phút.
Edwina nói tiếp:
- Bây giờ ta trở lại thời gian trước khi chị đi ăn trưa. Lúc đó chị đã biết là chị mất tiền chưa?
Juanita lắc đầu.
- Tại sao chị dám quả quyết như vậy?
- Tôi biết chӭ.
Giọng trả lời gắt gỏng của cô gái làm Edwina bắt đầu thấy khó chịu. Bà thấy cô thu ngân này rõ ràng không muốn khai thật. Ông già Tottenhoe nhắc lại câu hỏi cơ bản:
- Sau giờ nghỉ ăn trưa, làm sao cô biết mất tiền và lại biết chính xác mất bao nhiêu?
Juanita nhìn thẳng vào thắt ông già trưởng phòng, nói như thách thӭc:
- Tôi biết chӭ.
Không khí im lặng nặng nề và chӭa đầy ngờ vӵc.
- Hay cô đã chi cho khách hàng nào sáu ngàn đô la rồi quên không ghi vào sổ?
Cô gái gốc Porto-Rico lắc đầu:
- Không.
Miles Eastin hỏi:
- Lúc nghỉ đi ăn trưa cô có đem cất két nhỏ đӵng tiền của cô xuống hầm không, có khoá lại và vặn mã số của khoá không?
-Có.
- Cô tin chắc là có khoá cẩn thận chӭ?
- Tin.
- Cửa vào kho mà ông chánh thủ quӻ giữ chìa khoá có được đóng không?
- Không. Cửa đó vẫn mở.
Mà như thế là bình thường. Vì sau khi chánh thủ quӻ mở cửa gian hầm đӵng các két tiền vào buổi sáng, ông ta bao giờ cũng để ngỏ như thế cho đến hết giờ làm việc buổi chiều.
- Lúc cô đi ăn trưa về, két nhỏ đӵng tiền của cô vẫn nằm trong ngăn của cô dưới hầm và ngăn đó vẫn khoá cẩn thận chӭ? - Đúng thế.
- Có ai biết mã số để mở ngăn két của cô không, ngoài cô? - Không.
Cuộc thẩm vấn kết thúc.
Edwina cảm thấy mọi người ngồi dӵ họp đều tuân thủ đúng những nguyên tắc bảo vệ của ngân hàng. Cái gọi là “két nhỏ" của nhân viên thu ngân mà Eastin nói đến, thật ra là một thӭ hộp sắt nhỏ để dễ mang đi mang lại. Két này đặt trên một xe đẩy. Trên xe cũng như trên "két nhỏ" đều sơn con số rất to, con số của cửa sổ giao dịch mà nhân viên thu ngân làm việc. Ngoài ra còn một số "két nhỏ" mang số đặc biệt dành cho những trường hợp nhân viên giao dịch nào đó nghỉ việc và phải cử người khác tạm thay, như trường hợp hôm nay Miles Eastin làm thay cho một nhân viên giao dịch bị cúm phải nghỉ việc.
Viên chánh thủ quӻ ngồi trӵc dưới gian hầm đӵng tiền, mỗi khi thấy nhân viên giao dịch nào đi xe vào để cất “két nhỏ", hoặc đẩy xe ra để tiếp tục làm việc, đều ghi lại số của két nhỏ trên. Cho nên không thể có tình trạng nhân viên giao dịch đem cất hoặc lấy ra két nhỏ đӵng tiền của mình mà không ai biết, nhất là lấy ra két nhỏ của nhân viên giao dịch khác, do đãng trí hoặc do cố tình. Ban đêm và ngày nghỉ cuối tuần, kho tiền dưới hầm đều được đóng chặt nghiêm ngặt như hầm mộ của Vua Ai cập Pharaon thời cổ đại.
Mỗi két nhỏ đӵng tiền đặt trên xe đẩy đều bố trí hai khoá với hai mã số khác nhau. Nhân viên giao dịch chỉ biết một mã số, mã số kia chỉ trưởng phòng tổ chӭc biết. Hàng sáng, đầu giờ làm việc mỗi két
nhỏ đӵng tiền đó đều được hai người cùng mở để kiểm tra:nhân viên giao dịch và trưởng phòng tổ chӭc nhân sӵ.
Tất nhiên, người ta căn dặn các nhân viên giao dịch không để lộ mã số khoá của mình cho bất cӭ ai, kể cả trưởng phòng chӭc. Để đề phòng trường hợp nhân viên giao dịch đột nhiên quên mất mã số của mình, người ta ghi mã số đó vào một tờ giấy, bỏ vào phong bì niêm phong có hai chữ ký chӭng thӵc của nhân viên giao dịch và chánh thủ quӻ. Tất cả các phong bì này đều cất trong một cái két. Chỉ khi nhân viên giao dịch chết, đột nhiên đau ốm hoặc thôi việc người ta mới lấy phong bì đó ra, huӹ niêm phong.
Nhờ biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt như vậy nên ngoài nhân viên giao dịch ra, không ai có thể mở được két nhỏ đӵng tiền của anh ta hay chị ta.
Thêm nữa còn có cả một hệ thông báo động được bố trí trong mỗi két nhỏ đӵng tiền. Khi nhân viên giao dịch đem đặt két nhỏ đó dưới quầy, anh ta hay chị ta đều cắm phích của két nhỏ vàn một ổ cắm đặc biệt, để lỡ có chuyện gì xảy ra, hệ thống báo động lập tӭc làm việc. Lại còn một nút điện được đặt dưới một tập tiền, gọi là "bẫy”, để “lơ đễnh" trên mặt quầy. Bất cӭ ai nhấc tập tiền đó lên là lập tӭc hệ thông báo động báo ngay về phòng bảo vệ trung tâm và cơ quan cảnh sát, đồng thời máy ghi hình đã bố trí sẵn lập tӭc chạy, quay quang cảnh tại chỗ. Khi được báo động, cảnh sát và nhân viên bảo vệ của nhà băng sẽ đến ngay, chỉ trong vòng vài phút đồng hồ. Số xêri của tập tiền "làm bẫy" đã được ghi lại từ trước và người ta sẽ phát hiện nhanh chóng kẻ ăn cắp, ngay cả trường hợp hắn kịp lẩn trốn.
Edwina hỏi ông già Tottenhoe:
- Liệu sáu ngàn đô la bị mất kia có nằm trong số tiền làm bẫy không?
- Không. Tập tiền bẫy đó vẫn y nguyên. Tôi đã kiểm tra rồi. Edwina thấy dӵ đoán của bà không đi đến đâu.
Miles Eastin lại lên tiếng hỏi cô giao dịch viên Juanita: - Cô có nghi ngờ ai có thể lấy số tiền ấy không?
- Không, - Juanita đáp.
Đến lúc này thì Edwina chợt nhận thấy cô giao dịch viên có vẻ sợ hãi. Bà không lấy gì làm lạ, bởi không một nhà băng nào bỏ qua việc mất mát một khoản tiền lớn như vậy. Đây rõ ràng không phải sӵ thiếu hụt do sơ xuất mà là một sӵ “ăn cắp" hẳn hoi. Cô gái da nâu gốc Porto-Rico này đã ăn cắp số tiền đó. Chỉ có một khả năng đó mà thôi. Bây giờ vấn đề là tìm xem cô ta đã ăn cắp theo cách nào.
Cô ta có thể đưa lén sáu ngàn đô la đó cho một kẻ đồng loã. Giả thuyết này xem chừng có lý. Vì nếu cô ta làm như thế thì không thể lộ được. Cử chỉ đưa tiền của cô ta giống hệt mọi cử chỉ đưa tiền khác, mà cô ta làm hàng chục lần trong mỗi ngày ngồi quầy. Khả năng khác là Juanita đem số tiền đó ra khỏi cơ quan lúc đi ăn trưa. Nhưng nếu làm như thế thì sẽ rất nguy hiểm cho cô ta. Cho dù cô ta viện lý do gì đi nữa thì chắc chắn là cô ta sẽ bị mất việc.
Tất nhiên không phải mỗi khi nhân viên phạm một sơ suất nhỏ nào là nhà băng đã đuổi việc, bởi không ai hoàn toàn không có sơ suất. Mỗi năm, mỗi nhân viên giao dịch trung bình bị tám lần phát hiện mình thừa hoặc hụt tiền. Nếu khoản thiếu hụt hoặc dư thừa đó không vượt quá hai mươi lăm đô la, vụ việc kể như cho qua. Nhưng nếu khoản thiếu hụt lớn hơn, nhân viên giao dịch dӭt khoát sẽ bị đuổi. Mọi người đều biết như thế. Chắc hẳn Juanita đã phải tính đến khả năng này. Rất có thể cô ta nhẩm tính, được sáu ngàn đô la thì dù có mất việc cũng chịu được. Tất nhiên tìm được việc làm khác sau đó là hết sӭc khó khăn. Đột nhiên Edwina thấy thương hại cho cô gái này. Chắc chắn cô ta phải đang trong tình trạng bế tắc đến cùng cӵc, cần tiền đến mӭc không thể không làm liều để có tiền .
Bà nói:
- Tôi nghĩ rằng chúng ta chẳng thể làm gì hơn, đành phải báo cáo Văn phòng trung tâm nhà băng thôi. Ban bảo vệ của nhà băng sẽ tiếp tục điều tra. Lúc ba người kia lục tục đӭng dậy, Edwina nói thêm:
-Chị Juanita vui lòng nán lại đây một chút.
Cô gái gốc Porto-Rico lại ngồi xuống. Đợi cho hai người đàn ông đi đủ xa để không nghe thấy, Edwina thân tình khẽ nói với cô gái giao dịch viên:
- Juanita, đã đến lúc ta nên nói thật với nhau, như giữa hai người bạn...
Edwina phải cố nén cảm giác khó chịu trước thái độ lạnh nhạt của cô gái. Juanita nhìn chằm chằm vào mắt nữ giám đốc của cô ta. Edwina nói tiếp:
- Chị thừa biết là sau đây sẽ ra sao rồi. Không phải chỉ Ban bảo vệ của nhà băng tiến hành điều tra, mà sẽ cả Cục điều tra Liên bang F.B.I., bởi nhà băng chúng ta mua bảo hiểm của Liên bang Hoa Kỳ. Chị sẽ bị người ta nghi ngờ, Juanita. Tất nhiên là như thế. Tôi nói thẳng điều đó ra với chị và tôi hy vọng chị hiểu được.
- Tôi hiểu. Nhưng tôi không lấy số tiền đó.
Edwina nhận thấy cô nhân viên giao dịch vẫn tiếp tục xoay chiếc nhẫn. Bà cố không nói câu nào mang tính chất kết tội, để tránh sau này cô ta có thể kiện nhà băng.
Bà nói tiếp:
- Cuộc điều tra có thể kéo dài nhưng cuối cùng nhất định người ta sẽ tìm ra thủ phạm vụ lấy cắp này. Điều đó đã rõ ràng, bởi họ đều là những người điều tra giầu kinh nghiệm. Chưa tìm ra, họ kiên quyết chưa chịu thôi.
Juanita vẫn khăng khăng khẳng định:
- Tôi không ăn cắp số tiền đó.
- Tôi không nói chị ăn cắp, nhưng tôi chỉ nghĩ rằng chị chưa nói hết. Đến lúc này thì chị không nên giấu tôi điều gì nữa. Chỉ có hai chúng ta với nhau. Nếu lúc này chị không nói hết thì sau này có muốn nói ra cũng muộn mất rồi.
Hình như Juanita định nói gì, nhưng Edwina đã nói tiếp: - Juanita, tôi hӭa với chị một điều. Nếu như chi nhánh của chúng ta thu hồi được số tiền đó trong thời gian từ nay cho đến tối mai chẳng hạn, thì sẽ không có việc điều tra của Ban bảo vệ hay F.B.I. nào hết. Tất nhiên tôi cũng cần nói thật với chị là người lấy số tiền đó dù đã trả lại cho cơ quan, vẫn không được tiếp tục làm việc ở đây. Chỉ có vậy thôi, chӭ người đó không bị truy tố gì hết. Điều này tôi cam đoan với chị. Vậy bây giờ chị có gì nói với tôi không, Juanita?
- Không ! Tôi thề là tôi không lấy số tiền đó, - mắt Juanita rơm rớm, uất ӭc. - Tôi xin nhắc lại lần nữa, rằng tôi không lấy số tiền đó. Chưa bao giờ tôi ăn cắp của ai một xu. Chưa bao giờ, kể cả hôm nay, bà nghe rõ chưa, thưa bà giám đốc?
Edwina thở dài, nói:
- Vậy là xong. Tôi đề nghị chị chưa về nhà vội, nếu chưa hỏi tôi và được tôi cho phép về.
Juanita định phản đối, những ghìm lại. Cô ta đӭng lên, nhún vai rồi đi ra.
Ngồi ở bàn giấy kê trên bục cao, Edwina đưa mắt nhìn bao quát cái thế giới nằm dưới sӵ lãnh đạo của bà. Ở tất cả các bàn, các quầy giao dịch, mọi người đều mải mê tính toán, soát lại các vụ việc trong ngày hôm nay. Bà biết không hy vọng gì tìm ra khoản sáu ngàn đô la kia, bởi ông già Tottenhoe đã tiến hành thăm dò sơ bộ và không thấy có sӵ dư thừa nào lớn của bộ phận nào.
Cách bố trí kiến trúc của ngôi nhà làm giảm mọi âm thanh và Edwina chỉ nghe thấy tiếng rì rầm, tiếng gõ máy chữ và gẩy bàn tính rất nhỏ. Bà thầm nghĩ, tuần này có hai sӵ việc bà sẽ nhớ mãi không bao giờ quên. Chợt nhớ ra, Edwina nhấc điện thoại, quay số.
Một giọng phụ nữ ở đầu kia đáp:
- Ban Bảo vệ đây.
- Cho tôi nói chuyện với ông Wainwright.
VI
Từ hôm qua đến giờ, Nolan Wainwright rất khó tập trung tư tưởng vào công việc. Tổng giám đốc Ben Rosselli và Nolan Wainwright đã trở thành đôi bạn thân thiết từ mười năm nay, sau một cuộc va chạm dữ dội giữa họ.
Lúc rời khỏi phòng hội nghị trở về phòng làm việc của mình, trưởng ban bảo vệ của nhà băng Nolan Wainwright đã yêu cầu người giúp việc không cho ai vào hoặc gọi điện đến ông. Trong phòng giấy giản dị của ông ở tầng trệt, chỉ có một cửa sổ nhỏ mở ra
giếng khí, Nolan ngồi vào bàn mơ màng nhớ lại thời gian ông mới đến đây làm việc.
Chuyện đó xảy ra cách đây đã mười năm. Bấy giờ Nolan Wainwright vừa mới được cử làm cảnh sát trưởng một thị trấn ngoại thành. Trước đó ông đạt nhiều thành tích xuất sắc trên cương vị đội trưởng đội điều tra hình sӵ, tại sở cảnh sát một thành phố lớn. Vì là người da đen, ông có nhiều thuận lợi trong công việc hơn.
Vừa nhậm chӭc cảnh sát trưởng thị trấn chưa được mấy ngày thì ông vấp ngay phải một vụ. Chẳng là Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ lái xe trong địa bàn thị trấn vượt quá tốc độ quy định: một trăm ba mươi cây số giờ ! Một nhân viên cảnh sát chăn xe lại, đưa Ben Rosselli tờ biên bản vi phạm luật giao thông và trát yêu cầu có mặt tại toà án xét xử loại vi phạm này. Có thể Ben Rosselli rất thận trọng trong mọi việc, nhưng riêng việc lái xe thì ông lại mắc cái tật là thích phóng nhanh, lao hết tốc độ cho phép của hãng chế tạo xe.
Đây không phải là lần đầu Ben Rosselli mắc phải điều vi phạm này. Về đến văn phòng nhà băng, ông gọi trưởng ban bảo vệ lên, đưa tờ biên bản và trát gọi ra toà để người đó thu xếp. Sáng hôm sau giám, đốc chi nhánh của nhà băng tại thị trấn kia nhận được tờ biên bản. May thay ông ta đồng thời lại có chân trong Hội đồng thị trấn và chính là người đã đề nghị cử Nolan Wainwright về đây làm cảnh sát trưởng. Ông ta lập tӭc cầm tờ biên bản, đến phòng cảnh sát để thu xếp "nhẹ nhàng" vụ này với Wainwright.
Nhưng viên cảnh sát trưởng là người sắt đá. Ông uӹ viên Hội đồng nói với Wainwright rằng, Wainwright là người mới chân ướt chân ráo đến thị trấn này, cho nên cần xây dӵng quan hệ. Kiểu nguyên tắc như thế sẽ làm cho ông ta cô độc, không ai muốn chơi. Nhưng Nolan Wainwright không hề bị lay chuyển.
Ông kia bèn không lấy tư cách uӹ viên Hội đồng dân biểu nữa, mà dùng tư cách giám đốc chi nhánh ngân hàng. Ông nhắc Nolan Wainwright rằng, ông này đang có đơn xin vay của Ngân hàng Thương mại một khoản tiền tậu ngôi nhà, để đưa vợ con đến thị trấn này sống cho tiện.
- Người vi phạm luật lệ giao thông này chính là Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại mà ông đang cầu cạnh để xin vay tiền đấy.
Nolan Wainwright vẫn bình thản trả lời:
- Tôi không thấy có liên quan gì giữa việc tôi xin vay tiền để mua nhà, với việc ông kia vi phạm pháp luật.
Tất nhiên Ben Rosselli không đích thân ra trước toà mà cử một luật sư đại diện đến đó. Chủ tịch phiên toà tuyên phạt bị can một khoản tiền lớn, và ghi điểm phạt nặng nề lên bằng lái xe của Ben Rosselli.
Tình cờ Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ lại khước từ đơn xin vay tiền của Wainwright.
Vài ngày sau ông này đích thân leo lên tầng ba mươi sáu của Toà Cao ốc, vào phòng giấy của Ben Rosselli, nhờ quy tắc “mở rộng cửa" nổi tiếng của vị Tổng giám đốc.
Thoạt đầu Rosselli nghĩ khách chỉ là một người da đen bình thường, nhưng khi biết ông ta là ai thì vị Tổng giám đốc rất kinh ngạc. Thì ra đây chính là thằng cha cảnh sát trưởng khốn kiếp, đã làm cho bằng lái xe của ông bị ghi điểm xấu, lần đầu tiên ông bị như thế sau bao nhiêu năm lái xe vượt quá tốc độ quy định. Nolan Wainwright trình bày vấn đề của ông ta bằng một giọng nghiêm túc nhưng lạnh lùng. Ben Rosselli hoàn toàn chưa biết chuyện này, bởi những khoản vay ở mӭc này do cấp dưới giải quyết. Nhưng ông linh cảm thấy ở đây có hiện tượng cấp dưới của ông “trả thù". Ông bèn sai thư ký đi lấy hồ sơ xin vay của Wainwright. Sau khi đọc lướt qua các giấy tờ trong đó, Tổng giám đốc nhà băng lơ đãng hỏi:
- Nếu nhà băng chúng tôi khước từ đề nghị xin vay của ông, thì ông sẽ làm gì?
Wainwright lạnh nhạt đáp:
- Tôi sẽ kiện. Tôi sẽ thuê luật sư để đưa vấn đề này ra Toà Dân sӵ. Nếu vẫn không được, tôi sẽ làm toáng vấn đề này lên. Ngài yên tâm là tôi không để cho các Ngài ăn ngon ngủ yên đâu. Vị Tổng giám đốc đáp:
- Tôi không bao giờ khuất phục trước những lời đe doạ. Tôi chỉ đơn giản trả lời câu Ngài hỏi. Có vậy thôi.
Ben Rosselli suy nghĩ một chút rồi ký tắt lên góc tờ đơn sau khi ghi hai chữ "Chấp thuận”. Wainwright đӭng dậy định đi ra. Vị Tổng giám đốc bèn hỏi:
- Thế nếu một nhân viên cảnh sát của ông lại lập biên bản tôi vi phạm luật giao thông, thì lần này ông sẽ xử sӵ ra sao? - Tôi rất tiếc cho Ngài, bởi với lời ghi của Toà án vào bằng lái xe của Ngài, thì nếu Ngài tái phạm, dӭt khoát Ngài sẽ phải ngồi tù. Sau này, khi hai người đã thân nhau, Ben Rosselli thú thật với Nolan Wainwright rằng, khi ông này ra khỏi phòng giấy tổng giám đốc, Rosselli đã rủa một câu: "Đồ khốn kiếp! Ta sẽ không buông tha mi đâu!". Mà quả thật, ông đã không "buông tha" Wainwright, nhưng theo một nghĩa khác. Hai năm sau, khi Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ cần một người làm trưởng ban Bảo vệ, Ben Rosselli đã giới thiệu Wainwright, người mà ông cho là đáp ӭng đúng yêu cầu của ngân hàng: "Tuyệt đối không bao giờ bị mua chuộc". Từ ngày đó Nolan Wainwright không còn hục hặc với Ben Rosselli nữa. Ông ta thi hành phận sӵ một cách mẫn cán và đạt hiệu quả cao. Và để hiểu thêm về lĩnh vӵc ngân hàng, Wainwright ghi tên theo học một lớp buổi tối về lý thuyết và thӵc tiễn của nghề ngân hàng.
Không bao giờ Ben Rosselli đòi Nolan Wainwright nhân nhượng trong bất kể việc gì. Sau mười năm cộng tác, vị Tổng giám đốc và người trưởng ban bảo vệ trở thành đôi bạn thân thiết. Sau khi vợ qua đời, Rosselli luôn mời Wainwright đến nhà ông cùng ăn bữa tối và ăn xong, họ đánh cờ với nhau đến khuya. Những buổi tối đó đồng thời cũng tạo niềm an ủi cho Wainwright, bởi sau đấy ít lâu bản thân gia đình ông ta cũng tan vỡ. Hai người trò chuyện, trao đổi quan niệm về cuộc sống và họ tác động lẫn nhau. Không ai bên ngoài biết được là Nolan Wainwright đã đóng vai trò quan trọng như thế nào, trong việc đẩy ông Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại đến việc bỏ vốn phục hồi và xây dӵng khu phố Cổ Forum East, nơi Nolan Wainwright đã sinh ra và lớn lên giữa những đường phố nghèo khổ.
Chính vì lẽ đó mà cái tin bất hạnh về Ben Rosselli làm mọi người đau buồn, nhưng làm Wainwright đặc biệt đau đớn. Sáng hôm sớm
Thӭ tư, Wainwright ngồi một mình sầu não trong phòng giấy giản dị của mình cho đến giờ nghỉ ăn trưa. Sau đó ông xuống nhà, tìm đến một quán ăn nằm ở tận đầu kia thành phố, nơi ông thường đến mỗi khi muốn tránh xa không khí nhà băng. Ăn xong, Wainwright trở về đúng vào giờ ông hẹn với Alex Vandervoot, Phó tổng giám đốc nhà băng.
Hai người gặp nhau tại gian phòng dành cho Hãng dịch vụ Thẻ Tín dụng Keycharge, nằm ngay trong Toà Cao ốc-Hãng này được Ngân hàng Thưong mại số Một sáng kiến thành lập đầu tiên: Ngay từ đầu, dịch vụ thẻ tín dụng đã tỏ ra đáp ӭng đúng nhu cầu của khách hàng đông đảo và liền sau đấy một loạt nhà băng Hoa Kỳ, Canada và nhiều nӵóc khác cũng tham gia hoạt động. Mạng lưới tín dụng này chỉ nằm dưới hai mạng lưới tín dụng của Bank Americacard và Mastercharge. Khâu quan trọng này được nhà băng giao cho Alex Vandervoort đảm nhiệm làm Giám đốc hãng.
Lúc Wainwright đến, Vandervoort đã có mặt ở đây. Ông nói:
- Tôi muốn xem hệ thống này vận hành. Với tôi đây là một tiết mục biểu diễn xem không mất tiền.
Trong gian phòng rất lớn, kích thước nhu một hội trường, tường và trần bọc lại chất liệu cách âm, giữa một làn ánh sáng xanh đều, khoảng năm chục nhân viên, hầu hết là phụ nữ, đang chăm chú theo dõi những tấm bảng trông giống như màn hình ti vi. Mỗi màn hình này đều được nối tới một ống âm cӵc, bên dưới là những nút bấm giống như nút bấm ở máy chữ. Chính tại trung tâm này, người ta chấp thuận hoặc khước từ những khách hàng muốn thanh toán bằng thẻ tín dụng.
Những khách hàng này xuất trình thẻ tín dụng ở bất cӭ đâu, để thanh toán một món hàng hoặc một dịch vụ, và tại đây người ta trả lời chấp thuận mà không đặt câu hỏi nào thêm nếu khoản tiền không lớn thông thường là dưới hai mươi lăm hoặc năm mươi đô la. Còn nếu khoản tiền khách muốn thanh toán lớn hơn, trung tâm phải hỏi ý kiến văn phòng của nhà băng, nhưng thời gian khách hàng chờ đợi cũng chỉ vài giây đồng hồ.
Những câu hỏi xin ý kiến có chấp thuận hay không như thế tới tấp bay đến Trung tâm hai mươi tư trên hai mươi tư, cả bảy ngày trong
tuần, từ tất cả các bang trong Liên bang Hoa Kỳ và tất cả các tỉnh của Canada. Hơn thế nữa, cả một loạt máy ghi điện báo, vô tuyến liên tục gõ, ghi lại nhưng câu hỏi từ trên ba chục quốc gia trên thế giới tham gia mạng lưới này, trong đó có cả một số nước Đông Âu. Tấm thẻ tín dụng Keycharge đã trở thành quen thuộc với giới kinh doanh quốc tế, mang ba màu xanh lục, xanh lam, vàng.
Quy trình hỏi đáp hoạt động với tốc độ điện tử. Khi một hiệu buôn hay một hãng dịch vụ đánh điện, theo các làn sóng riêng WATS đến Trung tâm Keycharge tại Tháp Cao ốc trụ sở nhà băng, lập tӭc nó đến tay một nhân viên của Trung tâm, người này hỏi ngay " Số thẻ bao nhiêu?"
Nhận được số thẻ, nhân viên này ấn vào bàn phím và trên màn hình lập túc hiện lên số thẻ và khoản tiền khách muốn chi. Người này ấn thêm một nút và lập tӭc trên màn hình máy vi tính hiện lên một chữ trả lời duy nhất: "Được" hoặc “Không”. “Được” có nghĩa khách có quyền chi số tiền đó. “Không" có nghĩa số tiền vượt ra ngoài số tiền khách có quyền chi. Tuy nhiên nếu số tiền vượt không nhiều, trung tâm Keycharge vẫn trả lời "Được", tӭc là đồng ý cho khách vay thêm. Làm như thế chỉ có lợi cho nên đại đa số các câu trả lời đều là “Được". Trường hợp "Không" chỉ chiếm phần ít. Mỗi ngày tung tâm Keycharge nhận được khoảng mười lăm ngàn câu hỏi như vậy.
Vandervoort và Wainwright mỗi người đeo ống nghe vào tai để theo dõi các câu hỏi và trả lời. Đến một lúc, Nolan Wainwright trỏ cho Alex Vandervoort nhìn vào một màn hình trên có dòng chữ "Thẻ ăn cắp”. Ông điều chỉnh nút bấm để nghe cuộc đối thoại diễn ra ở máy đó.
Nhân viên điện đài bình thản nói:
- Tấm thẻ người ta đưa cho ông đã được báo cho chúng tôi biết, đó là thẻ bị ăn cắp. Nếu có thể được xin ông giữ người cầm thẻ lại và báo đồn cảnh sát gần nhất, đồng thời ông thu lấy thẻ. Trung tâm Keycharge sẽ thưỏng ông ba mươi đô la, nếu ông hoàn lại tấm thẻ đó cho Trung tâm.
Wainwright và Vandervoort nghe thấy tiếng thì thào trao đổi rồi tiếng nói to:"Tên gian đã chạy mất, nhưng tôi giữ được tấm thẻ của
gã ở đây và sẽ xin hoàn lại cho trung tâm. Giọng nói của chủ hiệu buôn hoan hỉ vì biết trước sẽ được nhận ba chục đô la tiền thưởng. Đấy cũng là một việc có lợi cho Trung tâm Keycharge, bởi nếu tấm thẻ bị mất cắp kia tiếp tục trôi nổi trên thị trường, thì có nguy cơ gây ra những thiệt hại lớn hơn nhiều cho Trung tâm.
Wainwright và Vandervoort gỡ ông nghe ra khỏi tai.
Viên phụ trách bảo vệ nói:
- Mọi việc suôn sẻ nếu chúng ta phát hiện kịp thời chuyện tấm thẻ bị mất cắp và kịp thời đưa vào máy tính. Nhưng khốn nỗi thông thường chỉ sau khi chúng ta trả tiền rồi, mới biết đó là thẻ bị mất cắp.
- Dù sao, nếu số tiền quá lớn, chúng ta cũng đều được báo trước. - Đúng thế, vì nếu cùng trong một ngày mà người có thẻ sử dụng đến lần thӭ mười, thì máy tính đều gửi tín hiệu báo động. Cả hai đều biết rằng người cầm thẻ tín dụng hiếm khi sử dụng cùng trong một ngày đến bảy tám lần trả tiền. Cho nên khi ai đó sử dụng đến lần thӭ mười trong một ngày, thì máy vi tính lập tӭc báo: “Có khả năng thẻ lậu'.
Tuy nhiên bất chấp mọi biện pháp đó, một tấm thẻ Tín dụng bị mất cắp vẫn gây thiệt hại cho Trung tâm tới hai chục ngàn đô la trong tuần lễ đầu tiên, trước khi bị phát hiện ra đó là thẻ mất cắp. Những tên ăn cắp thẻ tín dụng, thường dùng thẻ đó để mua vé máy bay đường dài đắt tiền, hoặc mua hàng két rượu quý, rồi đem bán lại bằng giá rẻ mạt cốt để lấy tiền mặt. Một thủ đoạn khác của chúng là dùng thẻ đó thuê một xe hơi loại đắt tiền, lái đến một thành phố rất xa, thay biển rồi bán hoặc đưa ra nước ngoài bằng giấy tờ giả mạo. Chủ hãng cho thuê xe tất nhiên sẽ không bao giờ thấy lại được xe cũng như khách thuê. Một thủ đoạn tiêu thụ khác nữa, là mua đồ kim hoàn ở châu Âu bằng thẻ tín dụng ăn cắp và giấy căn cước giả, rồi đem về Hoa Kỳ bán. Những trường hợp này, ngân hàng phát hành thẻ tín dụng buộc phải trả những khoản tiền, thường là rất lớn. Bọn lưu manh dùng trăm phương ngàn kế để kiếm chác.
Nolan Wainwnght nói:
- Tất cả những thủ đoạn gian phi này, làm thiệt hại cho chúng ta những khoản tiền lớn khủng khiếp trong thời gian gần đây. Chính
vấn đề này khiến tôi muốn gặp ông, ta bàn thật tỉ mỉ biện pháp đối phó.
Hai người đi về phía gian phòng nhỏ, Nolan Wainwright bố trí sẵn cho buổi trưa nay. Họ bước vào, đóng cửa lại. Hai người rất ăn ý trong công việc, mặc dù tính tình họ khác xa nhau. Alex Vandervoort thấp, to đang, tóc vàng, trông không có chút nào lӵc sӻ trong khi Nolan Wainwright thì da đen, tóc đen, cao, chắc nịch, bắp thịt cuốn cuộn.
Nolan Wainwright bầy tám tấm thẻ tín dụng Keycharge bằng chất dẻo lên bàn, nói:
- Bốn tấm thật, bốn tấm giả, ông có phân biệt được không?- - Tất nhiên là được, bởi tên người bao giờ cũng được đánh máy bằng kiểu chữ khác. Nhưng ông dừng lại ngay.
- Ôi, nhưng chữ đánh máy ở cả tám tấm thẻ này y hệt nhau . - Đúng thế. Tuy nhiên nếu dùng kính lúp soi thì vẫn phát hiện được chỗ khác nhau.
Vừa nói, Nolan Wainwright vừa gạt riêng những tấm thẻ giả ra để người Phó Tổng giám đốc nhận xét. Bây giờ thì đã nhận thấy sӵ khác nhau rồi. Nhưng dùng tia cӵc tím có phân biệt được thật giả không?
- Không. Phản ӭng của chúng với tia cӵc tím y hệt nhau. - Chà! Gay go nhỉ.
Trước đây vài tháng, Trung tâm Keycharge đã bắt chước hãng American Express in lên thẻ một dấu hiệu đặc biệt, không nhìn thấy dưới ánh sáng bình thường mà chỉ hiện lên khi dùng tia cӵc tím. Thời gian đầu biện pháp này đạt kết quả rất tốt, nhưng chỉ ít lâu sau bọn gian đã khám phá ra và áp dụng cho các thẻ giả chúng sản xuất.
Nolan Wainwright nói:
- Đúng thế. Mấy tấm thẻ giả này chỉ là thӭ làm mẫu. Thời gian qua chúng ta đã phát hiện ra khoảng năm chục tấm thẻ giả, sau khi bọn gian đã sử dụng để mua vé máy bay , hàng két rượu và nhũng thӭ đắt tiền khác. Chúng bắt chước rất giỏi. Chúng ta không có cách nào phân biệt nổi.
- Chúng ta có bắt giữ được một vài tên gian chӭ?
- Cho đến lúc này thì chưa tóm được một tên nào. Bởi khi kẻ gian phát hiện thấy chủ cửa hiệu hoặc nhân viên bán vé máy bay nghi ngờ, là chúng vội chuồn. Giống hệt như trường họp vừa rồi tôi và ông nghe thấy. Vả lại nếu chúng ta tóm được một tên thì cũng chưa thể tìm ra kẻ làm thẻ giả. Bởi nói chung, những thẻ giả đó trôi nổi trên thị trường, qua tay nhiều người, chúng ta rất khó lần ngược lại để tìm ra xuất xӭ ban đầu của chúng.
Alex Vandervoort nhấc bốn tấm thẻ "xanh lam, xanh lục, vàng” lên ngắm nghía:
- Thậm chí chất dẻo chúng dùng cũng y hệt như của chúng ta. - Không phải chỉ giống mà chính là cùng một loại chất dẻo. Cách đây bốn tháng, hãng sản suất thẻ cho chúng ta bị kẻ gian đột nhập, lấy đi một khối lượng lớn chất dẻo hãng dùng để sản xuất thẻ Keycharge, đủ làm ra vài vạn thẻ.
Nolan Wainwright nói tiếp:
- Mà đấy mới chỉ là phần nổi của tảng băng. Tôi nghĩ số thẻ giả trôi nổi trên thị trường có thể làm nhà băng chúng ta mất trắng hàng chục triệu đô la là ít.
- Tôi hiểu.
Alex Vandervoort nói rồi trầm ngâm đi đi lại lại suy nghĩ. Bọn gian ngày càng tinh vi. Thoạt đầu chúng tiến hành ăn cắp, bây giờ chúng sản xuất thẻ giả và thẻ giả của chúng ngày càng tinh vi, khó phát hiện. Alex dừng lại, nhìn người phụ trách bảo vệ của nhà băng hỏi:
- Theo ông nghĩ thì liệu có cả một băng có tổ chӭc tiến hành việc giả mạo này không?
- Theo tôi là có. Mà phải là một tổ chӭc lớn, làm ăn chu đáo, dám bỏ tiền thuê những chuyên gia cỡ lớn. Một tổ chӭc rất mạnh. Ông biết đấy, Alex, tôi đã liên hệ với cảnh sát, bởi cӭ đà này thì rồi cái băng có tổ chӭc kia không chỉ sản xuất thẻ tín dụng giả mà cả tiền giả, séc du lịch giả, các giấy xác nhận cổ phiếu và các loại giấy tờ tài chính khác.
- Đã đi đến kết quả nào chưa?
- Chúng tôi thỉnh thoảng vẫn tóm được người sử đӵng thẻ giả hoặc thẻ mất cắp, nhưng còn rất ít ỏi mà rất khó lần ra được cội nguồn có tổ chӭc. Muốn làm được việc này, đòi hỏi phải có nhiều chuyên gia giỏi và có kinh phí lớn, nhà băng chúng ta khó mà đảm trách nổi.
- Nhưng ông cũng cӭ tính toán và đưa ra con số để chúng tôi bàn - người Phó Tổng giám đốc, đồng thời là giám đốc trung tâm Keycharge nói.
Nolan Wainwright lấy trong cặp ra một tập hồ sờ đưa cấp trên:
- Tôi đã chuẩn bị đầy đủ đây. Trong này tôi có đề nghị tuyển hai thám tử chuyên phát hiện thẻ giả và thẻ mất cắp, một thám tử cải trang, lọt vào bộ phận đầu não của chúng. Chỉ có cách đó mới hy vọng giải quyết được vấn đề.
Alex Vandervoort ngạc nhiên nhìn người Trưởng ban bảo vệ: - Ông đã tìm ra được người nào để làm công việc lọt vào bộ phận đầu não của chúng chưa, Nolan?
Nolan Wainwright mỉm cười nói:
- Loại công việc này không thể tìm theo lối đăng báo mà phải tӵ dò la. Hiện tôi đang tìm và hy vọng sẽ tìm được .
-Tôi giữ mấy tấm thẻ giả này được chӭ?
Ông muốn nói gì thêm nữa không?
- Có. Điều tôi muốn nói là ông đừng lo lắng quá nhiều đến vụ thẻ giả. Bởi thật ra phần thiệt hại do chúng gây ra chỉ chiếm có 0,75 phần trăm doanh số. Hiện nay doanh số của ta vẫn đang tăng nhanh chóng và lợi nhuận cũng tăng theo.
- Con số thiệt hại lên đến trên hai mươi hai triệu đô la! - Alex bӵc dọc nói.
- Tôi nghĩ ta nên nói đến tӹ lệ phần trăm, vấn đề sẽ sáng tỏ hơn. Khi đó chúng ta cũng đỡ lo lắng và các viên chӭc trong Trung tâm cũng đỡ áy náy.
Alex thầm nghĩ, Nolan nói đúng. Nếu chỉ căn cӭ vào con số đơn thuần, thì hai mươi hai triệu đô la là lớn, những thật ra, nó chỉ chiếm chưa đến một phần trăm doanh số. Kinh doanh là phải tính đến lỗ lãi. Đúng là bọn sản xuất thẻ giả đáng căm giận, nhưng nếu tiến
hành cuộc đấu tranh với chúng, sẽ tốn kém vô cùng, tốn hơn nhiều so với khoản tiền chúng biển thủ được của nhà băng. Alex Vandervoot cầm tập hồ sơ, nói:
- Tôi sẽ nghiên cӭu và làm hết sӭc mình, với quyền hạn và trách nhiệm của tôi.
Alex Vandervoort vừa đi khỏi, thì nhân viên điện đài nhắc người phụ trách bảo vệ của nhà băng, gọi điện ngay cho giám đốc chi nhánh chính Edwina d’Orsey.
VII
Tôi đã liên hệ với Cục an ninh liên bang F.B.I. - Nolan Wainwright nói với Edwina. - Mai sẽ có hai thanh tra cảnh sát của họ đến đây. - Tại sao không phải hôm nay?
- Chúng ta đâu có cái xác chết nào để thúc họ phải đến gấp. Nếu như có chuyện đổ máu, hoặc ít ra cũng là một phát súng nổ. Chị nên biết rằng bên họ cũng đang rất thiếu nhân lӵc.
- Giống như chúng ta! Đâu đâu cũng thiếu người.
- Có thể cho mọi người về được không? - Miles Eastin hỏi. - Được Chỉ cần giữ cô giao dịch viên kia ở lại. Tôi muốn hỏi thêm cô ấy một số điều.
Bây giờ là đầu buổi chiều. Nolan Wainwright đã ở đây được hai tiếng, trӵc tiếp hỏi. Để mọi người khỏi chú ý, ông ngồi trong phòng khách nhỏ, lặp lại toàn bộ những gì Edwina đã làm, tӭc là thẩm vấn Juanita Numez, Tottenhoe và anh chàng Miles Eastin. Ngoài ra, ông còn hỏi cả mấy nhân viên giao dịch làm ở các cửa bên cạnh Juanita.
Cuộc thẩm vấn thӭ hai này không đem lại thêm điều gì mới, so với cuộc thẩm vấn lúc trước của Edwina d’Orsey. Vụ mất cắp là rõ ràng. Luật pháp đòi hỏi phải báo cho Cục an ninh Liên bang F.B.I. Nhưng điều quy định này không phải bao giờ cũng được mọi người tôn trọng và Nolan biết như thế.
Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ cũng như các ngân hàng khác, có thói quen coi những vụ mất cắp như thế này là những sӵ
biến mất “bí ẩn", và thường chỉ giải quyết riêng với nhau trong nội bộ nhà băng. Cách đơn giản nhất là sa thải nhân viên có nghi vấn bằng một cái cớ nào đó. Và rất nhiều vụ mất cắp đã bị giấu đi như vậy. Nhưng lần này số tiền mất tương đối lớn và sӵ việc đã lọt ra ngoài thành dư luận nên người ta buộc phải báo cơ quan an ninh.
Tuy nhiên Nolan Wainwright vẫn muốn đạt mӭc tối đa trong việc điều tra trước khi người của F.B.I. đến. Lúc Edwina và Eastin đi ra, anh chàng này nói với Nolan Wainwright:
- Tôi sẽ bảo cô Juanita Numez vào gặp ông.
Lát sau, vóc người nhỏ bé của cô gái da nâu Juanita hiện ra giữa khung cửa phòng khách nhỏ.
- Mời cô vào và khép cửa lại. Nolan lạnh lùng nói.
Ông biết rằng, có giả vờ thân tình cũng chẳng lay chuyển được cô gái này.
- Tôi muốn cô thuật lại cho tôi nghe từ đầu đến cuối, cố gắng đừng bỏ sót một chi tiết nào.
Juanita có vẻ rất mệt mỏi, nhưng cô vẫn khẽ khàng đáp: - Tôi đã kể cặn kẽ, chi tiết với bà giám đốc chi nhánh ba lần rồi. - Rất có thể cô còn bỏ sót một chi tiết nào đó.
- Không. Tôi không bỏ sót một chi tiết nào.
- Nếu vậy thì đây là lần thӭ tư. Lúc nào nhân viên Cục an ninh Liên bang đến đây, cô sẽ còn phải kể lại lần thӭ năm, thậm chí lần thӭ sáu nữa.
Nolan Wainwright nhìn thẳng vào mặt Juanita. Ông biết, ông có lợi thế so với thanh tra cảnh sát nhà nước, ở chỗ ông là người phụ trách bảo vệ của một doanh nghiệp tư nhân, ông có thể hỏi những câu mà nhân viên chính quyền nhà nước không thể hỏi. Họ phải tôn trọng các nguyên tắc về thẩm vấn, về điều tra, về tố tụng.
Juanita nói:
- Tôi biết ông hy vọng trong lời khai lần này của tôi có chi tiết nào mâu thuẫn với lời khai ba lần trước, để ông có cớ nghi tôi là nói dối. - Vậy là cô có nói dối?
- Không.
- Vậy tại sao cô phải lo lắng?
Juanita đáp giọng cả quyết:
- Bởi tôi rất mệt và tôi cần phải về nhà bây giờ.
- Tôi cũng mệt và cũng muốn về nhà. Nếu như không mất sáu ngàn đô la kia thì lúc này tôi đã đang ở nhà tôi. Thôi được, cô cho tôi biết cô có nghi cho ai không?
- Tôi không biết nghi ngờ cho ai được. Sӵ việc xảy ra sau lúc tôi đi ăn hai mươi phút...
Ngay từ đầu Nolan Wainwright đã thấy vẻ khinh miệt hiện lên trong cặp mắt cô gái này, và ông bỗng nhận thấy không đến nỗi ác cảm với cô như với một số người khác. Nolan là người da đen, còn cô gái Juanita này là người Porto-Rico, cũng mang một phần dòng máu đen trong huyết quản. Chắc hẳn cô hy vọng phần nào ở sӵ đồng cảm của ông. Tuy nhiên trong công việc, bao giờ Nolan cũng quên đi chuyện màu da. Đồng thời ông cũng không cho phép mình quan tâm đến đời tư của cô gái. Edwina đã kể cho ông biết hoàn cảnh kinh tế khó khăn của Juanita, nhưng ông không nhìn thấy trong cặp mắt của cô gái có nét biểu hiện gì của sӵ gian dối.
Mặt khác, Juanita cũng không lầm khi nghĩ người phụ trách bảo vệ của nhà băng hy vọng phát hiện thấy ở cô một chӭng cớ của sӵ dối trá. Bởi là người giầu kinh nghiệm điều tra tội phạm, Nolan Wainwright rất biết khi con người ta cảm thấy mệt mỏi là họ thường hay phạm hớ hênh, và lần khai sau đó không hoàn toàn ăn khớp với lời khai trước.
Do vậy ông kiên quyết đòi cô gái khai lại từ đầu.
Cuộc thẩm vấn kéo dài bốn mươi phút. Juanita khai đúng như lời khai trước. Thất vọng thấy không tìm ra được kẽ hở nào của cô gái nhưng Wamwnght không hề bӵc tӭc. Ông biết có thể có hai trường hợp: một là Juanita hoàn toàn thành thật, hai là cô đã chuẩn bị lời khai chu đáo đến mӭc có hỏi bao nhiêu lần, cô ta vẫn khai y hệt như vậy. Nolan Wainwright thiên về khả năng thӭ hai, bởi những người vô tội thường khai có đôi chút khác nhau giữa lần thӭ nhất và lần thӭ hai. Đằng này ở Juanita, các lần khai đều giống hệt nhau đến mӭc khó mà tin được.
Ông nói:
- Hôm nay hãy tạm thế. Mai cô sẽ phải khai trước máy dò sӵ dối trá.
Juanita đỏ bừng mặt, đӭng phắt dậy:
- Không, tôi không khai trước máy đâu.
- Tại sao?
- Bởi đó là một điều sỉ nhục.
- Cô lầm rồi. Mọi người đều phải làm như thế. Vả lại nếu cô vô tội thì máy càng khẳng định chӭ sao?
- Tôi không tin vào máy. Và tôi nghĩ ông cũng không tin. Còn sӵ thật ư? Tôi đã nói rồi nhưng ông không tin. Ông giống như mọi người khác, đều tin là tôi ăn cắp ! Tôi nhắc lại một lần nữa:Tôi không ăn cắp !
Wainwright lẳng lặng đӭng dậy ra mở cửa, nói:
- Bây giờ cô về. Tôi muốn cô suy nghĩ thêm. Và tôi thành thật khuyên cô đừng từ chối không khai trước máy. Làm như thế, người ta càng nghi ngờ cô hơn.
- Vậy khai trước máy là điều bắt buộc hay sao?
- Không hoàn toàn bắt buộc.
- Nếu vậy thì tôi từ chối !
Nói xong, Juanita quay ngoắt, bước nhanh ra ngoài. Một số nhân viên vẫn chưa về. Ánh sáng trong cơ quan cũng thu hẹp lại. Bên ngoài, trời đã xẩm tối, một buổi tối mùa thu u ám. Juanita vào chỗ gởi áo lấy áo choàng rồi quay ra phòng. Cô đi ngang bên cạnh Nolan Wanwright nhưng cố không nhìn ông. Miles Eastin đӭng chờ ở cửa tay cầm chìa khoá. Anh ta lấy chìa khoá tra vào ổ, mở cho Juanita ra, miệng hỏi khẽ:
- Tôi có thể làm gì giúp cô được không, Juanita?
Cô lắc đầu đi nhanh ra hè phố.
Nolan Wainwright nhìn qua cửa kính, thấy cô gái đi vội vã sang bên kia đường, đến chỗ ga xe buýt. Giá như có nhân lӵc, ông đã bố trí người bám theo cô gái, nhưng ông chợt nghĩ, cũng chẳng để làm gì. Nếu Juanita ăn cắp, chắc chắn cô ta không dại gì mang tiền trong người hoặc để trong xắc. Chắc chắn cô ta phải sử dụng một đồng loã nữa.
Thái độ phản ӭng mạnh mẽ lúc nãy có vẻ đóng kịch: cô ta làm như phẩm giá của cô ta bị xúc phạm. Nolan Wainwright nhớ lại cái nhìn khinh bỉ của Juanita và bỗng thấy tӵ ái. Ông muốn ngày mai hai thanh tra của Cục an ninh Liên bang sẽ làm găng và moi ra bằng được sӵ thật. Càng nghĩ Nolan càng thấy cô gái lai đen kia chẳng có gì đáng để ông phải thương cảm.
Khoá cửa xong, Miles Eastin bước vào. Anh chàng nói giọng vui vẻ:
- Tôi phải tắm một cái mới được, cho nước xối từ đầu xuống chân. - Sau một ngày nhơ bẩn, - Nolan nói lửng lơ.
Miles Eastin định nói gì nhưng lại thôi.
Nolan hỏi:
- Cậu định nói gì với tôi, phải không? Eastin ngập ngừng rồi thú thật:
- Vâng, đúng thế. Tôi do dӵ vì tôi chưa dám tin là tôi đoán đúng. - Về chuyện mất tiền vừa rồi?
- Vâng.
- Cậu có bổn phận phải nói ra suy nghĩ của cậu, Nolan nghiêm khắc nói, như ra lệnh.
- Vâng. Bà giám đốc Edwina hình như có nói cho ông biết là Juanita đã có chồng, nhưng anh ta bỏ vợ và cô ta phải nuôi con lấy một mình?
- Chuyện ấy tôi đã biết.
- Hồi hai người chưa chia tay, chồng cô ta thườg đến đây đón vợ vào cuối giờ và tôi có vài lần trò chuyện với anh ta. Tên anh ta là Carlos... .
- Rồi sao nữa, cậu nói tiếp đi.
-Tôi cảm thấy hình như lúc nãy có nhìn thấy anh ta ở ngoài cửa cơ quan.
- Cậu có dám nói chắc không?
- Dám, nhưng nếu ông bắt tôi phải thề thì tôi không dám. Tôi nhìn thấy một người rất giống anh ta và tôi tin chính là Carlos, nhưng
không dám chắc một trăm phần trăm. Hơn nữa, lúc ấy tôi đang mải nghĩ chuyện khác nên không chú ý lắm.
- Lúc mấy giờ?
- Theo tôi nhớ thì vào khoảng mười giờ, nghĩa là vào khoảng giữa buổi làm việc sáng.
- Cậu nhìn thấy anh ta, tӭc là chồng cũ của Juanita ấy, cậu có thấy anh ta bước đến chỗ cửa sổ thu phát tiền của cô ta không? - Không. Miles Eastin nói, vẻ lúng túng. - Tôi đã nói rồi, tôi không chú ý. Nhưng tôi nhìn thấy anh ta có nghĩa anh ta có đến đây, và rất có thể anh ta đến gần chỗ Juanita ngồi giao dịch.
- Cậu còn muốn nói gì nữa không?
- Không. Tôi rất tiếc là lúc đó tôi không để ý kӻ.
- Cậu nói với tôi là đúng. Thậm chí, có khi chi tiết đó đóng vai trò rất quan trọng đấy.
Nolan Wainwright thầm nghĩ, nếu đúng chồng cũ của cô giao dịch viên đến đây, thì điều nghi ngờ của ông có nhiều cơ sở là đúng: Juanita không thể ăn cắp nếu không có đồng loã !
Eastin nói tiếp:
- Hôm nay, ngoài chuyện chi nhánh mất tiền còn chuyện về bệnh tình của Ngài Tổng giám đốc. Chúng tôi được tin Ngài bị bệnh hiểm nghèo và đều rất buồn. Tất cả chúng tôi đều yêu quý Ngài.
Lúc này Nolan Wainwright mới chợt nhớ, mải lo vụ mất tiền, ông quên bẵng mất Ben Rosselli, vừa là sếp vừa là bạn thân thiết. Nolan buồn rầu nghĩ: "Sao một vụ mất cắp tiền lại xảy ra đúng lúc này!”
VIII
Juanita đӭng đón xe buýt ở khoảng giữa Toà Cao ốc của Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ và quảng trường Rosselli. Cô đӭng đó, mảnh mai, yếu đuối. Lòng dạ cô bồn chồn vì biết người trưởng ban bảo vệ của nhà băng đang nhìn cô qua lớp cửa kính. Bây giờ thấy ông ta đi mất, cô thở phào, nhẹ bớt được đôi chút.
Chuyện vừa xảy ra như điềm báo hiệu cô sắp rơi vào những tai hoạ phӭc tạp. Một làn gió lạnh làm bay lên vạt áo măng tô và Juanita rùng mình vì lạnh. Cô chạy đến không kịp chuyến xe trước và bây giờ phải chờ chuyến sau. Juanita rùng mình không phải chỉ vì lạnh, mà vì một cảm giác hoảng sợ đột nhiên xâm chiếm tâm hồn cô. . . Juanita không sao hiểu nổi, số tiền sáu ngàn đô la kia biến mất theo cách nào? Cô không ăn cắp và cũng không chuyển cho một kẻ đồng loã.. Khốn nỗi hình như không ai tin lời cô khai. Thì chính bản thân cô cũng không còn hiểu tại sao lại mất số tiền đó được. Tưởng như đó là chuyện vô lý. Nhưng lại là có thật !
Suốt buổi chiều nay, Juanita đã bao lần điểm lại sӵ việc và không sao hiểu nổi tiền đã biến mất theo cách nào. Cô có một trí nhớ đặc biệt nên không thể quên một chi tiết nhỏ nào. Cô nhớ chính xác đã khoá cẩn thận két nhỏ, trước khi đẩy xe đưa xuống gửi dưới hầm an toàn để đi ra ngoài ăn trưa. Cô cũng nhớ rõ, không hề lộ ra với ai số mật mã để mở khoá két nhỏ đó. Cô cũng không hề ghi nó ra một mảnh giấy nào, mà sợ có người nhìn thấy được.
Chính cái trí nhớ siêu đẳng của Juanita lại đâm làm hại cô, bởi khi thấy cô báo mất tiền, lại mất đúng sáu nghìn, cả bà giám đốc Edwina, trưởng phòng tổ chӭc nhân sӵ Tottenhoe đến Miles Eastin đều !ấy làm lạ và đâm nghi ngờ. Họ cho rằng không ai có thể biết ngay chính xác mình mất bao nhiêu. Họ không biết rằng Juanita có trí nhớ đặc biệt. Để tiền vào chỗ nào trong hộp, số tiền bao nhiêu cô đều nhớ chính xác, không cần kiểm tra lại. Tài ghi nhớ này là khả năng bẩm sinh của Juanita từ nhỏ và xưa nay cô đều không cần cố gắng gì cũng nhớ đầy đủ và tuyệt đối chính xác.
Do đâu Juanita có khả năng đặc biệt đó? Chính bản thân cô cũng lấy làm lạ. Hồi học ở trường cơ sở, Juanita là loại học kém. Ngay môn toán cô cũng không có gì xuất sắc, kể cả sau này khi lên bậc trung học. Nhưng không hiểu do đâu Juanita có tài tính nhẩm rất nhanh, không bao giờ sai. Cô nhớ chính xác từng khoản thu chi đến mӭc hầu như không bao giờ cần mở sổ ra kiểm tra lại.
Xe buýt đến. Juanita theo chân những người khách đӭng chờ lên xe. Xe chật ních, cô phải đӭng, tay nắm sợi dây chằng ngang để khỏi nghiêng ngả. Cô miên man nghĩ đến ngày mai. Các thanh tra cảnh sát của Cục an ninh sẽ thẩm vấn cô. Juanita hoảng sợ. Sӵ việc rồi sẽ diễn biến ra sao đây?
Juanita cảm thấy cuộc sống của cô đang bước vào ngõ cụt. Làm sao cô chӭng minh được là cô vô tội? Mọi chӭng cӭ, mọi người, đều như đồng lòng khép tội cô
Còn cái máy phát hiện dối trá ! Juanita quyết định sẽ không chịu để máy thử. Cô không tin vào các thӭ máy móc. Cô có linh cảm máy sẽ không thanh minh mà chỉ buộc tội thêm vào cho người ta. Không, nhất quyết cô sẽ từ chối. Muốn ra sao thì ra. Xuống xe buýt Juanita chạy đến nhà gửi trẻ . Biết lúc này đã quá muộn, cô cố chạy nhanh. Cô vừa vào phòng đón thì bé Estela đã chạy lon ton ra, lao vào vòng tay mẹ. Vườn trẻ này tuy đặt trong một toà nhà cổ nhưng sạch sẽ, tường các phòng sơn màu sắc tươi vui. Vườn trẻ im ắng, bé Estela là đӭa cuối cùng.
Bà Ferroe, quản lý nhà trẻ bước nhanh vào, cau mặt nhìn đồng hồ đeo tay.
- Bà Numez! Tôi bằng lòng trông cháu muộn hơn trẻ khác một chút, vì thông cảm với hoàn cảnh đi làm của bà, nhưng tôi không thể chờ bà lâu như thế này được.
- Bà tha lỗi cho, nhưng quả thật hôm nay ở công sở có chuyện bất thường, khiến tôi không thể về sớm hơn được.
- Các bậc cha mẹ khác đều tôn trọng giờ đóng cửa của nhà trẻ , và tôi đã phải nán lại chỉ để trông mỗi con gái bà.
- Tôi thề là sẽ không bao giờ để xảy ra chuyện quá trễ như hôm nay nữa, thưa bà Ferroe.
- Thôi được, tôi tin ở bà, nhưng cũng xin nhắc là bà chưa trả tiền gửi cháu tháng trước đấy.
- Tôi hӭa Thӭ sáu này sẽ thanh toán đầy đủ. Hôm ấy tôi được lĩnh lương.
- Tôi rất tiếc phải nhắc bà như vậy. Cháu Estela rất ngoan và tôi rất quí cháu, nhưng bà hiểu cho, bà Numez, tôi cũng có những khoản phải chi.
- Tôi hiểu chӭ, thưa bà Ferroe. Tôi hӭa chắc chắn là Thӭ sáu này. - Đây là lần thӭ hai bà khất.
- Tôi biết. Mong bà thӭ lỗi.
- Thôi đành vậy. Chào cháu nhé, Estela. Chào bà Numez. Juanita thầm nghĩ, Thӭ sáu này lĩnh lương xong, trả tiền thuê nhà, tiền gửi trẻ thì chẳng còn mấy để tiêu. Lương Juanita là chín mươi tám đô la một tuần (chuyện xảy ra khi đồng đô la chưa mất giá như bây giờ. Xin bạn đọc nhớ cho giá đồng đô la khi đó bằng khoảng gấp đôi bây giờ. N.D), trừ tiền thuế và đóng bảo hiểm xã hội, chỉ còn tám mươi ba đô la để hai mẹ con sống. Trong khi đó vẫn còn những món nợ của Carlos để lại, mà cô phải trả cho anh ta.
Do ngây thơ, Juanita đã lấy anh ta theo kiểu thống nhất kinh tế. Carlos may sắm áo quần sang trọng, tậu xe và bây giờ, anh ta bỏ đi, để lại cho cô bao nhiêu khoản nợ nần. Đã một năm nay Juanita một mình vừa nuôi con, vừa dành dụm tiền trả dần các món nợ đó.
Dắt con đi nhanh về nhà, nghe con líu lo, Juanita thấy lòng nhẹ đi. Nhưng ăn bữa tối xong, chơi với con một lúc rồi đặt nó ngủ, Juanita lại lo sợ nghĩ đến lúc mất việc, cô sẽ sống và nuôi con bằng cách nào đây? Mà tình hình này thì rất nhiều khả năng nhà băng sẽ sa thải cô. Khi đó Juanita sẽ tìm việc ở đâu Các nhà băng khác không đời nào chịu nhận một nhân viên giao dịch "có vết" như cô. Nếu lúc đầu họ chưa biết thì sau một thời gian họ sẽ biết và sa thải cô.
Juanita bỗng ngửa mắt nhìn lên cao, lẩm bẩm một câu khấn Chúa Trời. Cầu Chúa phù hộ cho cô, khiến nhà băng tìm ra được thủ phạm vụ mất cắp sáng nay. Nhưng là ai? Juanita có cảm giác không thể tìm ra được.
IX
Alex Vandervoort cũng rất bối rối. Sau cuộc trao đổi với Nolan Wainwright, ông rất đỗi lo lắng. Rồi lại cái chết sắp tới của Tổng Giám đốc Ben Rosselli, kèm theo những hậu quả tai hại và phӭc tạp cho nhà băng. Ông đi đi lại lại, đầu óc ngổn ngang trăm thӭ. Lâu lâu ông đӭng lại, nhấc tấm thẻ tín dụng giả lên ngắm nghía. Trung tâm phát hành thẻ tín dụng Keycharge được Hội đồng quản trị mà Ben Rosselli làm chủ tịch, giao phó cho ông.
Rồi Alex Vandervoort đӭng lại trước bàn, ngắm nghía những mẫu quảng cáo mà hãng quảng cáo của Austin đem đến. Những mẫu quảng cáo này vận động mọi người sử dụng thẻ tín dụng Keycharge.Trên một mẫu viết: Tại sao ông phải lo âu về tiền bạc? Hãy sử dụng thẻ tín dụng keycharge. Chúng tôi sẽ lo lắng hộ ông ! Một mẫu khác viết: Mỗi lần chi tiền ông hoặc bà sẽ bớt xót nếu ông hoặc bà có thể nói với người bán: Hãy tính vào tài khoản tôi ở keycharge. Mẫu thӭ ba viết: Ông hoặc bà còn chờ gì nữa? Ngay hôm nay ông hoặc bà có thể thӵc hiện ước mơ ngày mai bằng cách sử dụng thẻ tín dụng keycharge.
Có gần một chục mẫu quảng cáo và tất cả đều làm Alex rối ruột thêm. Tất nhiên đây là việc cần làm và Hội đồng quản trị đã thông qua nghị quyết, trích ra một khoản tiền lớn để mở rộng hình thӭc quảng cáo. Tuy nhiên Alex vẫn thấy một loạt băn khoăn xung quanh những mẫu quảng cáo này.
Ông thu tất cả lại định bụng đem về nhà, tối nay nghiên cӭu thêm. Nhất là sẽ nghe thêm ý kiến của Margot.
Hình ảnh Margot hiện ra trong óc Alex, ông lại liên quan đến bệnh tình của Ben Rosselli. Từ hôm qua đến giờ, một ý nghĩ luôn ám ảnh ông: Sao cuộc đời mỏng manh đến thế và ngắn ngủi nữa. Bất cӭ lúc nào ta cũng có thể ra đi. Ý nghĩ ấy gắn với bệnh tình của Ben Rosselli đã đành, nhưng cũng tác động đến suy nghĩ của Alex đối với Margot.
Ý nghĩ đó đặt lại những câu hỏi lâu nay của ông. Có nên quyết định làm lại cuộc đời với Margot không? Hay cố đợi thêm? Nhưng đợi cái gì? Để làm gì? Vì Celia chăng?
Alex Vandervoort ngước nhìn ra cửa sổ phòng giấy. Nơi xa xa, ở đầu kia thành phố, Celia đang nằm ở đó. Nàng lúc này đang làm gì? Tình hình nàng ra sao? Hỏi thăm tin tӭc về nàng đâu có khó khăn gì. Alex quay vào bàn giấy, nhấc máy điện thoại, quay số mà ông đã thuộc lòng. Một giọng nữ trả lời ở đầu dây kia:
- Trung tâm an dưỡng đây.
Alex xưng tên và xin gặp bác sĩ McCartney. Lát sau tiếng đàn ông vang lên ở đầu dây:
- Ông đang ở đâu đấy, Alex?
- Ở phòng giấy của tôi. Tôi đang băn khoăn về tình trạng của vợ tôi.
- Tôi đang định gọi điện cho ông, đề nghị ông đến thăm bà ấy. - Nhưng hôm trước, ông lại khuyên tôi đừng đến.
Người bác sĩ tâm thần thanh minh:
- Hôm ấy, tôi nghĩ rằng trong thời gian này ông đến không có lợi cho bệnh tình của bà nhà. Các cuộc thăm viếng của ông sẽ làm bà nhà bệnh nặng thêm. Chắc ông còn nhớ chӭ?
- Tất nhiên là nhớ. - Alex đáp, rồi im lặng một lát. - Bệnh tình vợ tôi có biến đổi rồi à?
- Có sӵ biến đổi, nhưng tôi e không phải theo hướng tốt. Diễn biến bệnh tâm thần của Celia quá ngoắt ngoéo, đến mӭc Alex đâm đã quen với mọi trạng thái, khi thì thuyên giảm, khi nặng lên. Ông bình thản hỏi:
- Cụ thể là sao?
- Bà nhà ngày càng trầm cảm thêm. Bây giờ bà hầu như thoát ly hoàn toàn khỏi thӵc tế xung quanh. Chính vì vậy, tôi nghĩ ông đến thăm sẽ có tác dụng tốt. Dù sao thì cũng không làm bà trầm trọng hơn.
- Tôi sẽ đến ngay tối nay.
- Lúc nào là tuỳ ông, Alex. Và nhớ ghé vào gặp tôi, ông biết đấy, trung tâm an dưỡng của chúng tôi không có quy định giờ thăm viếng nào hết.
Tính co dãn của giờ thăm viếng ở trung tâm an dưỡng bệnh nhân tâm thần này, là một thuận lợi khiến Alex chọn nó, khi cách đây bốn năm, trạng thái mất trí của Celia bước vào thời kỳ nguy kịch, khiến ông phải thӵc hiện một quyết định hết sӭc đau lòng. Không khí tại trung tâm này hoàn toàn khác bất kỳ một bệnh viện nào. Y tá và nhân viên điều trị không mặc bờ lu trắng. Bệnh nhân được hoàn toàn thoải mái và tӵ thu xếp lấy sinh hoạt của họ. Trừ một số trường hợp đặc biệt, họ hàng thân thuộc đến thăm đều được trung tâm đón tiếp niềm nở. Ngay cái tên cũng không gây ấn tượng xấu. Không phải trại điên hay bệnh viện tâm thần mà là trung tâm an dưỡng.
Bác sĩ Timothy McCartney trẻ tuổi lỗi lạc, đӭng đầu cả một đội ngũ chuyên gia tài ba, tận tụy, đã từng chữa khỏi nhiều bệnh nhân nặng mà các bệnh viện khác chịu không chữa được.
Trung tâm an dưỡng này không bao giờ nhận quá một trăm năm mươi bệnh nhân, và lại có khá đông nhân viên phục vụ. Nó giống như những trường tư, mà mỗi lớp học rất ít học sinh, và các giáo viên được chọn lọc cẩn thận, đều có năng lӵc cao và tận tụy. Tiền bạc sung túc cùng với óc tưởng tượng phong phú của các chuyên gia, đã tạo cho khu nhà này thành nơi nghỉ ngơi tuyệt vời, với những vườn cây trái và hoa cỏ tươi thắm.
Dĩ nhiên, tiền thu của gia đình bệnh nhân rất cao, nhưng Alex quyết định Celia phải được hưởng những điều kiện tốt nhất. Ông thấy không thể tiếc tiền trong việc này, như thế là tội lỗi.
Alex Vandervoort tiếp tục làm việc cho đến sau giờ chiều. Ông xuống nhà, lên xe, dặn lái xe địa chỉ của Trung tâm an dưỡng. Xe chạy chậm. Alex lấy báo ra đọc. Chӭc vụ Phó Tổng giám đốc cho ông cái quyền được sử dụng một chiếc limousine, với lái xe riêng cả trong việc tư. Khi ông đến Trung tâm an dưỡng, một thiếu nữ tóc vàng xinh đẹp mặc áo liền váy bằng vải hoa, duyên dáng mở cửa. Cô đeo trên vai trái một huy hiệu nhỏ để phân biệt với bệnh nhân:
- Bác sĩ đã báo chúng tôi biết ông tới thăm bà nhà, thưa ông Vandervoort. Xin mời ông đi theo tôi.
Alex theo cô gái đi dọc hành lang. Tường hai bên đều sơn màu vàng và xanh lá cây, rải rác treo những lẵng hoa tươi. Ông nói: - Tôi nghe nói vợ tôi bệnh nặng lên.
- Vâng, đúng thế. Thật đáng tiếc, - cô y tá nói.
Cô đӭng lại trước một cánh cửa phòng, nói:
- Bà nhà đang trong phòng. Bà vừa qua một ngày nặng nề. Xin ông chú ý, nếu như bà không được...
Cô không nói hết câu, mở cửa phòng bước vào trước. Ở đây các bệnh nhân hoặc ở riêng một phòng hoặc ở chung hai người tuỳ theo trạng thái bệnh tình, như thế nào có lợi cho họ hơn. Thoạt đầu Celia được bố trí ở phòng hai người, nhưng sau bệnh càng nặng lên, bác sĩ quyết định để vợ ông ở phòng riêng. Mặc dù là phòng bệnh, nhưng căn phòng không có vẻ gì của một phòng dùng cho bệnh nhân. Trên tường treo những bӭc sơn dầu theo trường phái ấn tượng. Giá đӵng sách. Đồ đạc gồm một đi văng rộng có thể dùng làm giường ngủ, một ghế bành nệm êm ái một ghế dài nhỏ và một bàn để chơi bài. Cô y tá dịu dàng nói:
- Thưa bà Vandervoort, ông nhà đến thăm bà.
Người phụ nữ trong phòng không nhúc nhích. Không nói một lời. Không có biểu hiện gì chӭng tỏ Celia nghe thấy câu cô y tá nói. Đã sáu tuần lễ rồi Alex không nhìn thấy vợ. Ông đã chuẩn bị trước tinh thần là thấy Celia thảm hại, nhưng sӵ thật hiện ra trước mắt ông còn khủng khiếp hơn.
Celia thu mình vào góc phòng, trên đi văng, quay mặt vào tường, hai vai xuôi xuống, đầu cúi, tay khoanh lại, bàn tay đặt lên hai vai hai đầu gối khép chặt, co lên đến tận vai, áp chặt vào ngӵc, và nàng hoàn toàn bất động.
Alex bước đến gần, dịu đàng đặt bàn tay lên vai nàng, trìu mến nói:
- Chào em, Celia. Anh đây mà... Alex đây mà. Anh nhớ em nên đến thăm em.
- Vâng.
- Celia nói rất khẽ, chỉ như thở và vẫn không nhúc nhích. Alex ấn mạnh thêm một chút bàn tay lên vai vợ.
- Em quay ra với anh đi, Celia. Rồi vợ chồng ngồi bên nhau trò chuyện nào. Celia không trả lời, co dúm người thêm một chút. Alex nhận thấy nước da vợ vàng vọt và làn tóc vàng bù rối. Những nét thanh tú trên khuôn mặt nàng chưa hoàn toàn mất hẳn, nhưng Alex cảm thấy đang suy thoái nhanh chóng. Ông hỏi cô y tá:
- Vợ tôi bị thế này lâu chưa?
- Từ trưa hôm qua và cả ngày hôm nay bà nhà cӭ ngồi nguyên như thế này, - cô y tá đáp. - Trước đây bà cũng có lần bị như thế. Bà thích giữ tư thế này. Ông nên làm như không để ý gì đến trạng thái đó. Hãy ngồi xuống và trò chuyện, coi như không có chuyện gì xảy ra.
Alex ngồi xuống ghế bành. Cô y tá rón rén đi ra rồi khép cửa lại. Alex nói:
- Tuần vừa rồi anh đi xem vở ba lê của đoàn Coppélia. Hai nghệ sĩ Natalia Macarova và Ivan Nagy biểu diễn tuyệt vời. Tất nhiên âm nhạc thì tuyệt diệu rồi. Anh nhớ là ngày trước em rất thích vở ba lê ấy. Em nhớ không, hồi mới cưới hai vợ chồng mình đi xem vở ba lê này...
Nói đến đây Alex Vandervoort hình dung thấy buổi tối hôm đó Celia mặc tấm áo dài chấm gót mầu xanh lá cây nhạt, đính những vòng bằng vàng lấp lánh. Hồi đó nàng mảnh mai, một sắc đẹp nhẹ nhàng, thanh thoát, như thỉ chӵc bay bổng lên theo gió. Bấy giờ là sau khi cưới sáu tháng, Cẹlia vẫn còn e thẹn khi đӭng trước mặt bè bạn của chồng. Nàng bấu chặt cánh tay chồng. Nàng rất trẻ, kém Alex mười tuổi, và có lẽ tính tình nhút nhát của nàng đã khiến ông yêu? Alex rất tӵ hào thấy vợ dӵa hẳn vào mình, tin cậy, giao phó. Chỉ mãi về sau, tính nhút nhát, hoàn toàn không có lòng tӵ tin nào của vợ mới làm ông thấy khó chịu.
Quả là một sΉ thiếu thông cảm. Lẽ ra Alex phải hiểu rằng, Celia lớn lên trong một khung cảnh hoàn toàn trái ngược với ông, và nàng không được chuẩn bị chút nào để sống một cuộc đời hoạt động năng nổ, ngoài xã hội cũng như trong gia đình. Bước vào cuộc sống chung với chồng, Celia thấy mọi th đều mới mẻ, lạ lẫm, khiến nàng sợ hãi rồi hoang mang, rối trí.
Vốn là con một, cha mẹ sống thầm lặng, không giao thiệp với ai nên nàng không quen giao tiếp xã hội. Lớn lên lại vào học trong một
tu viện, hoàn toàn không phải tiếp xúc với người ngoài. Trước khi quen Alex, nàng không hề quen biết ai và cũng không biết gì về thế giới bên ngoài. Cuộc hôn nhân đã làm nặng thêm căn bệnh nhút nhát và Celia chưa bao giờ phải lo lắng điều gì, chịu trách nhiệm về cái gì, bây giờ đâm ra rất đỗi hoang mang. Cảm giác mình là người có lỗi c trầm trọng thêm, tạo cho nàng không còn tin vào bản thân. Tâm trạng căng thẳng lo âu đã hu hoại trí óc nàng. Cuối cùng thần kinh nàng suy sụp. Alex bấy giờ mới nhận ra, rất ân hận là đã không nâng đỡ vợ, không rèn dần cho vợ lòng tΉ tin; không lΉa lời khuyên giải vợ. Ông quá mải mê công việc, quá nhiều tham vọng về thành đạt...
- Cho nên hôm vừa rồi đi xem mà anh rất tiếc không có em cùng ngồi trong rạp, cùng xem...
Thật ra hôm đó Alex đã đi cùng với Margot. Người phụ n· đã một năm rưỡi nay lấp chỗ trống của Celia để lại trong tâm hồn Alex. Ông cho rằng là con người sung sc và năng động, ông cần một phụ n· như Margot ch không phải một cô gái ẻo lả, nhu nhược, một ngươi mắc bệnh tâm thần. Đôi khi Alex tΉ hỏi, phải chăng ông lý lẽ như thế để lương tâm được thanh thản. Dù sao thì cũng phải giấu đi mối tình đó và không nên thốt lên cái tên Margot trong căn phòng này, trước mặt vợ ông.
- Celia ạ, cách đây ít hôm anh có gặp vợ chồng Harrington. Em nhớ anh John Harrington và chị Elise vợ anh ấy chӭ? Họ vừa đi một chuyến du lịch sang Thụy Điển để thăm gia đình Elise. Vâng, - Celia nói rất khẽ, hờ hững với mọi thӭ.
Nàng vẫn giữ nguyên tư thế co quắp như trước, không hề nhúc nhích. Nhưng nàng tỏ vẻ nghe chồng nói. Vì vậy Alex vẫn tiếp tục nói, trong khi óc ông tӵ nhủ: "Thế nghĩa là sao? Có chuyện gì xảy ra vậy ?
- Hồi này công việc ở nhà băng rất bận, Celia ạ.
Mà rất có thể là công việc đã chiếm hết trí óc Alex. Lúc nào cũng bận rộn, ông không có thì giờ quan tâm đến vợ, trong khi Cela thì lại rất cần đến chồng. Khi Alex hiểu ra, sΉ thể đã quá muộn. Celia không hề trách c việc chồng thường xuyên vắng nhà. Nàng âm thầm chiu đΉng và tΉ tiêu khiển bằng đọc sách, ngắm cây cối hoa cỏ
và chăm sóc chúng. Thế rồi, hình như sΉ lặng lẽ đó đột nhiên bị phá vỡ. Đến thời kỳ Celia nói huyên thuyên, nói suốt ngày, sôi nổi, say sưa. Nh·ng câu nói nhiều khi chẳng ăn nhập gì với nhau. Sau thời kỳ đó nàng trở lại lăng lẽ và còn lặng lẽ hơn trước.
Alex sau này biết mình có lỗi. Đáng lẽ rong thời kỳ vợ đột nhiên sôi nổi, ông phải quan tâm, hỗ trợ thêm thế ông lại khó chịu, bỏ mặc, khiến nàng càng xa vắng hơn. Và sai lầm khủng khiếp nhất của ông là đã lộ ra với vợ ý định ly hôn. Phản ng của Cela khiến Alex hoảng hồn. Nỗi hoang mang của Celia đến độ không ai có thể ngờ.
Chính sau đó tinh thần nàng sụp đổ và Celia trở lại lặng lẽ, và lặng lẽ hơn cả ngày mới cưới.
Thoạt đầu Alex chỉ nghĩ rằng vợ buồn. Ông nghĩ bụng rồi nàng sẽ bình tĩnh trở lại. Nhưng bệnh tình Celia trầm trọng đi rất nhanh, đến mc Alex phải tìm đến bác sĩ tâm thần. Cho đến lúc không thể gi· nàng ở nhà được n·a, ông đã đưa nàng đến trungtâm này. Và cũng t đó, Alex luôn bị mặc cảm tội lỗi dày vò.
Alex vẫn tiếp tục nói, như để tránh không khí lặng lẽ chỉ rình hiện lên, đẩy cả hai vợ chồng vào trạng thái căng thẳng.
- Lúc này tất cả mọi người chỉ lo chuyện tiền nong. Nào tiêu, nào vay, nào mượn, nào kiếm lời. Đấy thật ra cũng chỉ là chuyện thường tình. Nhà băng nào chẳng thế. Gần đây lại thêm một chuyện đau lòng là ông Ben Rosselli, Tổng Giám đốc kiêm Chủ tịch ban quản trị nhà băng anh mắc bệnh hiểm nghèo, chỉ còn chờ chết. Hôm qua, ông ấy triệu tập tất cả bọn anh và...
Alex kể lại diễn biến và không khí của buổi chiều hôm qua trong hội trường lớn trên Toà Cao ốc, và thái độ của mọi người. Đang nói, đột nhiên Alex ngừng lại. Ông thấy Celia bắt đầu rung người. Nàng run bần bật và miệng thốt lên tiếng rên rỉ.
Phải chăng do ông kể chuyện nhà băng mà nàng thành như vậy? Nhà băng đã ngốn hết sinh lΉc của ông và khơi sâu hố ngăn cách gi·a ông và Celia. Thật ra hồi đó là Kho bạc dΉ tr· liên bang, chưa phải Ngân hàng Thương mại số một hiện giờ. Nhưng đối với trí óc của Cela thì nhà băng hay QuΏ dΉ tr· Liên bang chỉ là một, chỉ là hai nơi chất tiền, hai nơi cướp đi mọi sinh lΉc, mọi tư duy cua chồng nàng.
Hay là nàng bị xúc động về bệnh tình trầm trọng, vô hy vọng của Ben Rosselli? Ben sắp chết. Ông ta chẳng sống được bao lâu nữa. Thế còn Celia nàng còn sống bao lâu n·a? Có thể nhiều năm. Rất có thể như vậy.
Alex chợt nghĩ, rất có thể Celia sẽ sống lâu hơn ông. Trông nàng có vẻ như một con vật. Lòng thương cảm trong lòng Alex bỗng biến thành nỗi căm giận, nỗi căm giận đã từng phá vỡ quan hệ giữa họ.
- Celia ! Bình tĩnh lại đi? Vì Chúa, hãy bình tĩnh lại đi? Celia vẫn tiếp tục run rẩy và mỗi lúc một run rẩy nhiều hơn.
Alex bỗng căm ghét con người trước mặt, cô ta không còn gì là của con người, chỉ sống như con vật, đồng thời lại là th chướng ngại cản trở cuộc sống bình thường của ông.
Alex đӭng dậy, ấn mạnh vào một nút điện gắn trên tường rồi đi ra cửa. Trước khi ra hẳn, ông ngoái đầu lại nhìn vợ lần nữa. Cô ta đấy ! Cô gái ông đã từng yêu say đắm. Vậy mà bây giờ cô ta trông thảm hại nhường kia. Alex thấy hố ngăn cách giữa ông và Celia sẽ không bao giờ được lấp. Họ mãi mãi là hai thế giới. Đột nhiên Alex oà khóc. Những giọt nước mắt thương xót, ân hận tuần ra liên tiếp. Cổ họngông nghẹn lại. Nỗi giận dữ ban nãy đã biến đâu mất. Ông quay lại, đến trước đi văng, quỳ xuống, van vỉ:
- Celia! Tha thӭ cho anh. Em hãy tha tội cho anh!
Một bàn tay nhẹ nhàng đặt lên vai ông và giọng nói dịu dàng của cô y tá vẳng đến tai Alex:
- Bây giờ thì ông hãy đi đi ông Vandervoort.
Alex lau nước mắt, loạng choạng đi theo cô y tá. Lát sau ông ngồi trong phòng giấy của bác sĩ McCartney.
- Nước suối có ga hay không có ga?
- Có ga.
Bác sĩ McCartney lấy một cái chai trong tủ lạnh, rót vào cốc đã có sẵn một lượng whisky. Ông bỏ thêm đá vào rồi đưa Alex Vandervoort. Sau đấy ông rót nước suối có ga vào một cốc khác không có rượu.
Alex đỡ cốc rượu pha với lòng biết ơn. Cuộc gặp gỡ với Celia vừa rồi đã gây chấn động mạnh mẽ trong trí óc ông. Những cảm giác lẫn lộn diễn ra trong đầu, khiến ông thấy như đang sống trong một khung cảnh không có thật. Bác sĩ đã quay về chỗ, sau bàn giấy.
- Trước tiên tôi cần nhắc để ông nhớ, rằng nói chung chẩn đoán về căn bệnh của bà nhà vẫn không thay đổi. Đó là bệnh schizophrénie loại catatonic. Tôiđã giảng cho ông rõ về căn bệnh này rồi, đúng không nhỉ?
- Có. Tôi đã nhớ lại cái tên bệnh đó.
Alex Vandervoort lắc cốc để những mảnh nước đá trong đó chuyển động rồi lại uống thêm ngụm nữa.
- Ông cho biết bệnh trạng vợ tôi hiện giờ ra sao?
- Tôi nói thế này có lẽ ông khó chấp nhận, nhưng mặc dù dáng vẻ bên ngoài như vậy, bà nhà đangtrong trạng thái sung sướng tương đối.
- Điều ông nói khó hiểu quá.
Viên bác sĩ tâm thần nói tiếp:
- Sung sướng hoặc hạnh phúc thật ra chỉ là một khái niệm tương đối. Vợ ông đang hưởng cảm giác bình thản và an toàn. Bà ấy không phải lo lắng trách nhiệm gì và cũng không thấy cần thiết đến người khác. Bà có thể hoàn toàn sống với bản thân, đó là điều làm bà thấy dễ chịu và bà muốn được như thế Tư thế bà ấy sử dụng lúc ông vào thăm, cũng là tư thế thường xuyên của bà ấy trong thời gian gần đây. Đó là tư thế của cái bào thai trong bụng mẹ. Ở tư thế đó bà nhà cảm thấy yên ổn, tuy nhiên chúng tôi vẫn phải thuyết phục để bà nhà bỏ cái tư thế đó vì nó có hại cho sӭc khoẻ của bà.
- Vợ tôi có dễ chịu trong cái tư thế ấy hay không là chuyện khác. Nhưng điều tôi nhận xét thấy là sau bốn năm điều trị, bệnh trạng của vợ tôi mỗi ngày một tồi tệ hơn. Tôi nhận xét thế đúng hay sai? - Đáng tiếc là ông nhận xét đung.
- Liệu có chút hy vọng nào vợ tôi bình phục và trở lại cuộc sống như trước đây được không?
- Trong y học, có tất cả mọi khả năng...
- Tôi chỉ muốn biết có nên hy vọng không?
Bác sĩ thở dài, lắc đầu nói:
- Không.
- Ông trả lời thế là đã rõ ràng. Xin cảm ơn... Nếu tôi hiểu không sai thì Celia đã thành một người mất trí, theo nghĩa ông thường dùng. Cô ấy lánh xa cuộc sống của con người, không biết gì về xung quanh và cũng không muốn biết, không cần biết.
- Về chữ "mất trí", hoặc còn gọi là aliénée thì ông nói đúng - người bác sĩ nói. - Nhưng ngoài ra thì ông lầm. Bà nhà không hề lánh xa cuộc sống xung quanh, ít nhất thì cũng trong thời điểm này. Bà ấy vẫn nhận thӭc được hoàn cảnh bao quanh. Bà ấy biết bà ấy có chồng. Mỗi lần đến với bà ấy, tôi đều nhắc đến ông. Nhưng bà ấy quan niệm ông có thể sống thoải mái không cần có bà ấy bên cạnh.
- Nghĩa là vợ tôi không quan tâm gì đến tôi?
- Nhìn chung thì đúng như thế.
- Thế nếu vợ tôi được tin tôi ly hôn với bà ấy và lấy vợ khác thì bà ấy sẽ ra sao?
Bác sĩ ngừng một lúc rồi mới đáp:
- Thì sẽ mất nết mối liên hệ ít ỏi còn lại nối bà ấy với thế giới bên ngoài và rất có thể bà ấy sẽ rơi vào trạng thái mất trí hoàn toàn. Họ im lặng. Alex Vandervoort đặt cốc rượu xuống bàn, đưa hai bàn tay ôm mặt một lúc lâu rồi mới ngẩng đầu lên nói, giọng pha chút chua chát:
- Đó là một câu trả lời rõ ràng, sáng sủa.
Bác sĩ gật đầu, nghiêm giọng nói:
- Vì quí ông trọng ông nên tôi mới trả lời thành thật như vậy. Nếu là người khác, tôi sẽ không nói toạc ra như thế. Tuy nhiên tôi cũng cần nói thêm là rất có thể điều nhận định của tôi không chính xác.
- Ôi đó là câu ông không cần nói. Theo ông, tôi phải làm thế nào bây giờ? Nếu ông ở vào địa vị tôi, ông xử sӵ ra sao?
- Ông hỏi tôi hay chỉ là bộc lộ tâm trạng.
-Tôi hỏi thật. Ông có thể viết câu trả lời kèm theo tấm biên lai.
-Tối nay sẽ không có chuyện biên lai, - người bác sĩ nhếch mép cười, nói. - Ông hỏi nếu ở vào địa vị ông tôi sẽ xử sӵ ra sao ư? Tôi sẽ cố tìm hiểu xem mình đang trong tình huống nào. Tôi thấy điều đó ông đã làm. Sau đó tôi suy nghĩ xem xử sӵ cách nào công bằng nhất cho mọi người, kể cả cho tôi. Và trước khi chọn một cách xử sӵ, tôi ghi nhớ hai điều, thӭ nhất người lương thiện bao giờ cũng ân hận về những lỗi lầm của mình hơn người bình thường. Thӭ hai là rất ít người cố giữ cho mình một sӵ thánh thiện.
- Ông không thể nói cụ thể hơn được sao?
Bác sĩ lắc đầu:
- Ông là người phán xét duy nhất mọi hành vi của ông. Và có những thӭ con người phải tӵ chọn lấy không đợi ai khuyên bảo, nhắn nhủ. Ông đành phải tӵ quyết định lấy một mình thôi, Alex.
Alex Vandervoort nhìn đồng hồ đeo tay rồi đӭng lên. Lát sau, hai người bắt tay nhau. Chiếc limousine đợi Alex ngoài cửa. Lái xe đã cho máy nổ nhè nhẹ chờ ông.
X
- Không còn nghi hoặc gì nữa! Đây là cả một mớ bịp bợm, dối trá, đánh lừa những kẻ dại khờ. - Margot Bracken nhận xét như vậy, nhìn những mẫu quảng cáo Alex Vandervoort đem về nhà, bầy lên thảm trải sàn.
Nàng chống tay lên sườn, hai khuӹu tay khuỳnh ra, đầu nghiêng nghiêng, vẻ mặt đanh lại. Dáng điệu Margot lúc này có nét gì đó rất khêu gợi. Ông ngắm nghía cô gái nhỏ thó này với một vẻ thích thú và thèm khát. Tuy cái cằm của Margot vênh lên đanh đá nhưng ông thấy cặp môi nàng lại rất quyến rũ. Đặc biệt cặp mắt to màu xanh lục có ánh vàng, với hàng lông mi rất dầy. Chính vẻ mặt phẫn nộ của Margot lại làm Alex muốn ôm lấy nàng.
- Anh đã đoán trước là những mẫu quảng cáo này em sẽ không thích.
- Không phải chỉ không thích mà làm em ghê tởm.
- Tại sao vậy?
Margot hất làn tóc màu hạt dẻ ra phía sau, bĩu môi:
- Còn tại sao nữa? Ông hoặc bà còn chờ đợi gì n·a? Ông hay bà có khả năng thΉc hiện ngay niềm mơ ước của ngày mai. . . Anh không thấy lời mời chào đó nguy hiểm à? Rõ ràng là để bẫy những người khờ dại: Cái gọi là "ước mơ ngày mai" kia thӵc chất là những thӭ tốn kém, đắt tiền, bình thường họ không dám chi. Họ coi những thӭ đó chỉ là "ước mơ ngày mai". Nhưng khi cầm thẻ tín dụng của các anh trong tay, họ dám chi ngay mà không cần suy nghĩ, để sau này mắc những khoản nợ khủng khiếp!
- Nhưng nhà băng, nói đúng hơn là Trung tâm Keycharge có bắt họ chi đâu?
- Các anh không bắt, nhưng các anh bẫy họ, để họ chi. Em đã bảo đó là những kẻ dại khờ kia mà. Các anh lừa họ, những người không có nghị lӵc, không tỉnh táo suy nghĩ. Khi cầm thẻ tín dụng của các anh trong tay, họ quên mất đấy là tiền vay và họ cӭ tiêu thoải mái, thế là các anh dẫn họ vào chỗ chết.
- Trung tâm Keycharge bọn anh không hề nghĩ đến loại khách hàng khờ dại như vậy.
- Anh nói dối. Kiểu quảng cáo kia của các anh chính là nhằm vào những kẻ dại khờ.
Alex bật cười. Bỗng nhiên ông thấy muốn khích cho cô người tình nổi nóng hơn nữa. Bởi khi phẫn nộ, trông Margot càng khêu gợi, càng ngon lành. Ông nói:
- Ý kiến của em rất đúng. Anh sẽ đưa ý kiến đó ra với nhà băng. Margot được thể lại đùng đùng:
- Điều làm em ghê tởm là tất cả các nhà băng đều kiếm chác rất ghê gớm về chuyện thẻ tín dụng này.
- Điều ấy em đã nói rồi và anh đã thừa nhận.
- Đúng nhưng chưa ai đưa ra được lời giải thích đầy đủ, lời thanh minh nghe lọt tai. Bây giờ thì quá rồi.
Alex chau mày:
- Tại em có chịu nghe ai giải thích đâu.
Trong những cuộc tranh luận như thế này, nhiều khi Margot không giữ được bình tĩnh và vốn tính thẳng thắn, nhiều lúc nàng biến cuộc tranh luận lý thuyết thành cuộc tranh cãi dữ dội. Tuy nhiên Alex nhận thấy những cuộc tranh luận kiểu này về các vấn đề kinh tế và chính trị , càng dữ dội càng bổ ích cho ông. Trong mọi lĩnh vӵc, Margot đều có quan điểm khuynh tả, nhưng với phương pháp tư duy chân thành, ngay thẳng và một tri thӭc về luật pháp sâu sắc nàng đã giúp Alex thấu hiểu thêm một loạt vấn đề . Nghề luật sư giúp Margot tiếp cận với tầng lớp cần lao và nghèo hèn trong xã hội, tầng lớp Alex rất ít am hiểu.
- Em muốn một chút cognac không? - ông hỏi.
- Muốn, - Margot đáp.
Đã gần nửa đêm. Những thanh củi cháy rừng rӵc lúc ban tối, bây giờ đã sắp tàn lụi. Trong phòng khách tại căn hộ cӵc kỳ sang trọng của Alex Vandervoort, cặp người tình chụm đầu ăn bữa tối ngon lành, và Alex còn đặt thêm một chai Gruaud-Larose 1966 nữa. Phòng khách chìm vào một thӭ ánh sáng mờ mờ, chỉ sáng riêng chỗ thảm bầy các mẫu quảng cáo.
Rót rượu vào hai ly xong, Alex nối lại cuộc tranh luận: - Nếu như khách thanh toán tiền với Trung tâm Keycharge, ngay sau khi họ chi bằng thẻ tín dụng, thì họ không phải trả lãi chút nào hết.
- Nhưng là phải thanh toán hết?
- Đúng thế.
- Anh phải nhớ rằng đại đa số khách hàng của anh chỉ thanh toán với nhà băng các anh phần tối thiểu trong biên lai của họ. - Đúng thế. Rất nhiều người làm như thế.
- Và phần còn lại biến thành tiền nợ lưu cữu. Chính là các anh mong họ nợ, đúng thế không nào?
- Đúng thế Alex miễn cưỡng đáp:
- Nhưng đã là nhà băng thì phải kiếm lãi. Nếu không, tổ chӭc ra các ngân hàng làm gì? Em nên nhớ rằng hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh.
- Anh làm như các nhà băng phải kiếm tiền chӭ không thì họ chết đói ấy ! Ôi, tội nghiệp các vị chủ nhà băng !
Cái bĩu môi của Margot làm Alex bật cười. Vẫn nói tiếp, giọng lúc này nghiêm túc hơn:
- Hàng ngàn người nợ chồng chất, chỉ vì họ cầm trong tay thẻ tín dụng của các anh. Sẵn có thẻ đó họ mua cả những thӭ đắt tiền mà họ không cần thiết: đĩa hát, dụng cụ, sách vở đắt tiền, những hàng kӹ niệm chỉ để bầy. Họ dám ăn những bữa cӵc kỳ xa hoa, chỉ bởi họ dễ dàng lấy được thẻ tín dụng của các anh. Kết quả là thế nào, vô số người thiếu tỉnh táo không suy nghĩ chu đáo đã nợ các anh mỗi lúc một nhiều thêm, và sau đấy họ è cổ ra mà trả nợ hết năm này sang năm khác.
Alex nắm chặt ly rượu để sưởi chất nước bên trong cho ấm lên. Lúc này ông đặt ly xuống bàn, bước ra cho thêm củi vào lò sưởi. Vừa khơi bếp lò, ông vừa chậm rãi nói:
- Em quá lo cho họ đấy. Làm gì đến nỗi như em nói.
Tuy nói thế nhưng trong đáy lòng, Alex Vandervoort hiểu rằng Margot nói đúng, nếu không hoàn toàn thì cũng một phần. Ngày xưa thợ mỏ bị nợ nần cột chặt vào các cửa hàng, các sòng bạc của chủ lập ra. Ngày nay, nhiều khách hàng thiếu chín chắn cũng trở thành những con nợ truyền kiếp của các nhà băng. Hình thӭc "thẻ tín dụng" này càng đẩy họ thêm vào tình trạng đó. Bởi ngày xưa, khi chưa có thẻ tín dụng, mối lúc có ai đó đến nhà băng xin vay, các chủ nhà băng đều khuyên can họ là chỉ nên vay đến một chừng mӵc nào đó. Nhưng ngày nay, do có thẻ tín dụng, khách hàng hoàn toàn tӵ quyết định khoản tiền họ vay, không có sӵ khuyên can của nhà băng.
Tuy nhiên hệ thống thẻ tín dụng khiến nhà băng không phải bỏ ra nhiều tiền mà lại thu được lãi lớn. Khách hàng sử dụng thẻ tín dụng, phải trả lãi suất cao hơn nhiều so với lãi suất tín dụng bình thường. Bởi các cửa hiệu nhận tiền qua thẻ tín dụng của khách, đều được hưởng một tӹ lệ từ hai đến sáu phần trăm ngoài số phần trăm ngân hàng thưởng. Các nhà băng kiểu như Ngân hàng Thương mại số Một này đã tăng lợi nhuận bằng cách phát hành thẻ tín dụng. Tất
nhiên lợi nhuận đó không đến ngay mà sẽ đến vào những năm sau. Vì vậy, mặc dù tổ chӭc mạng lưới thẻ tín dụng đòi hỏi nhà băng phải bỏ ra một số vốn ban đầu khá lớn, nhưng họ trông chờ vào khoản lãi to sau này. Các nhà băng còn hy vọng việc mở rộng hệ thống thẻ tín dụng là một phần trong việc thӵc hiện hệ thống STEF - hệ thống điện tử chuyển giao quӻ - và sau đây khoảng mười lăm năm, hệ thống STEF sẽ xoá đi các cuốn séc và sổ tiết kiệm khi đó sẽ trở thành cổ lỗ.
Margot nói:
- Thôi ta không nên bàn chuyện ấy nữa. Anh với em cãi nhau cӭ như trong cuộc họp cổ đông vậy.
Nàng đӭng lên, bước đến gần Alex và hôn lên môi ông. Cuộc tranh luận bao giờ cũng kích động Alex. Tình trạng này diễn ra ngay từ lần đầu tiên hai người quen nhau. Ông có cảm tưởng càng tranh luận, ông càng khao khát tấm thân của đối phương. Alex khẽ đáp:
- Tạm kết thúc cuộc tranh cãi!
Margot lùi lại, ngắm nghía người tình:
- Ta bàn cho dӭt điểm chuyện này! Em hỏi câu cuối cùng: vậy anh sẽ không sử dụng những mẫu quảng cáo này chӭ?
-Tất nhiên rồi, - Alex nói. Chiến dịch quảng cáo này là một việc quan trọng trong chương trình hoạt động của Trung tâm Keycharge, nhưng Alex tính ngày mai sẽ dùng quyền của mình phủ quyết nó. Ý định này ông đã có từ lúc chiều, nhưng bây giờ nghe Margot nói ông càng khẳng định thêm.
Củi đã bén lửa và lại cháy bùng lên, kêu tí tách. Hai người ngồi bệt xuống thảm, tận hưởng niềm sung sướng ngắm ngọn lửa cháy. Margot ngả đầu lên vai Alex, thì thầm:
- Ôi nhà kinh doanh tồi tệ ơi, nhiều lúc anh đáng yêu quá đấy. - Ôi , Margot ! Anh yêu em vô cùng, - Alex ôm ngang lưng nàng. - Thật không? Nhà tài chính nói thật đấy chӭ? Anh thề đi, lấy danh dӵ của một nhà kinh doanh tiền tệ !
- Xin thề.
- Vậy thì yêu em đi, ngay bây giờ. Nàng nói và bắt đầu cởi quần áo. Alex thích thú thì thầm:
- Ngay tại đây à?
- Chӭ còn gì nữa?
- Mà phải rồi. Tại sao lại không ngay tại đây nhỉ? Giọng ông đầy vẻ mãn nguyện.
Lát sau, bao nỗi lo âu phiền muộn hành hạ ông từ sáng đến giờ, bỗng nhiên tan biến sạch trong niềm khoái cảm vô bờ.
Lát sau nữa, họ ôm chặt nhau, tận hưởng hơi ấm của lò sưởi tỏa ra và của thân thể nhau. Cuối cùng Margot vươn vai, nói: - Anh làm tình tuyệt vời. Em sẽ nói câu này không biết chán. - Em cũng vậy, Margot. Em ngủ lại đây đêm nay chӭ? Margot rất hay ngủ lại nhà Alex cũng như ông cũng rất hay ngủ lại nhà nàng. Đôi lúc họ cảm thấy vẫn sống riêng rẽ thì thật là phi lý. Nhưng họ chưa dọn đến sống chung với nhau, bởi Alex muốn phải làm lễ cưới chính thӭc đã.
- Em chỉ ở lại đây một lúc nữa thôi. Sáng mai em phải có mặt ở Toà án từ sớm nên em phải về nhà chuẩn bị. Margot nhận cãi hết vụ này đến vụ khác. Nàng làm việc năng nổ và chính trong một vụ án mà nàng gặp Alex. Chuyện xảy ra cách đây năm rưỡi. Lần ấy Margot bào chữa cho khoảng nửa tá người biểu tình, đã đánh nhau với cảnh sát khi bị cảnh sát ngăn lại. Mục đích cuộc biểu tình là đòi tha bổng những quân nhân Hoa Kỳ phạm tội đào ngũ ở chiến trường Việt Nam.
Lần ấy bản bào chữa hùng hồn và lời cãi say sưa của Margot đã chinh phục toàn thể hội trường và tác động tới Hội đồng xét xử , cuối cùng tất cả các bị can đều được Toà án khoan hồng, tha bổng.
Vài ngày sau đấy, Edwina cùng với chồng là Lewis tổ chӭc bữa tiệc chúc mừng thắng lợi của Margot, có mời cả Alex Vandervoort. Đến bấy giờ ông mới biết Edwina có cô em con ông chú làm luật sư. Tối chiêu đãi đó, Margot được những người hâm mộ bao quanh, hết lời ca tụng. Cũng như Alex, nàng đến dӵ tiệc một mình. Alex đã nghe tiếng Margot và bây giờ mới gặp. Trong bữa tiệc nổ ra một cuộc tranh luận xung quanh quan điểm của luật sư Margot trước
Toà. Alex đã nhập vào phái phản đối nàng. Ông hăng hái phản đối quan điểm của Margot, đến nỗi có một lúc nàng đã nhìn thẳng vào mắt ông, hỏi: “Nhưng xin cho biết ông là ai?"
- Tôi chỉ là một công dân Hoa Kỳ bình thường, một người tin rằng đã là quân đội thì kӹ luật phải nghiêm minh.
- Thậm chí trong một cuộc chiến tranh vô đạo đӭc như chiến tranh Việt Nam?
- Người lính không có quyền bàn về đạo đӭc của các mệnh lệnh, mà chỉ có bổn phận thi hành mọi mệnh lệnh của cấp chỉ huy. Nếu không, chiến trường sẽ hỗn độn, không còn đánh chác gì được nữa.
- Ôi ông nói y hệt giọng của những tên lính phát xít của Hitler. Khi đại chiến thӭ hai kết thúc, chúng ta đã lập phiên toà, kết tội và hành quyết những tên Đӭc có quan niệm như quan niệm của ông đấy. - Hai hoàn cảnh khác nhau.
- Tôi lại cho rằng hai hoàn cảnh hoàn toàn giống nhau. Tại Toà án quốc tế ở Nuremberg, các nước Đồng minh quan niệm rằng quân nhân Đӭc lẽ ra phải bất tuân thượng lệnh, phải tuân theo tiếng gọi của lương tri. Hiện nay, những quân nhân Hoa Kỳ đào ngũ ở chiến trường Việt Nam đã làm đúng như thế, tuân theo mệnh lệnh của lương tri chӭ không phải của cấp chỉ huy.
-Nói thế không được. Quân đội Hoa Kỳ không tiêu diệt người Do Thái.
- Nhưng họ giết hại những người nông dân vô tội như ở Mӻ Lai và nhiều nơi khác trên đất Việt Nam.
- Chiến tranh không thể tránh được những lầm lỡ.
- Nhưng cuộc chiến tranh ở Việt Nam là cuộc chiến tranh bẩn thỉu. Chính vì thế mà nhiều thanh niên Mӻ, mặc dù dũng cảm, vẫn không chịu tham gia. Họ nghe theo tiếng nói của lương tri.
Cuộc tranh luận mỗi lúc một gay gắt, không bên nào chịu bên nào, thì Edwina đến và giới thiệu hai người với nhau. Tan tiệc Alex Vandervoort đề nghị chở Margot về nhà nàng, để tiếp tục cuộc tranh cãi chưa phân thắng bại. Tranh luận trên xe chưa đủ, họ lên nhà Margot tiếp tục. Càng nói hăng, Alex càng thấy bị kích thích và càng thấy Margot "khêu gợi”. Cuối cùng họ lao vào nhau, làm tình cuồng
nhiệt. Cả hai chợt hiểu đã có một "thӭ gì đó" tạo nên bước ngoặt trong cuộc đời họ.
Cũng cần "chú thích" cho cuộc tranh luận đêm hôm đó, là cuối cùng Alex bị đuối lý và thay đổi quan điểm. Thậm chí "hoà bình trong danh dӵ" như Tổng thống Nixon đề ra, cũng làm Alex thấy tởm lợm. Đồng thời ông bị phá nốt những ảo tưởng. Sau này khi vụ "Watergate" bùng ra và một loạt chuyện tồi tệ trong Nhà Trắng bị phanh phui, Alex càng thấy lập luận của Margot là đúng.
Tối hôm nay, sau cuộc tình trên thảm ở phòng khách, họ sang phòng ngủ để ngủ. Margot lӵa tấm áo ngủ Alex để sẵn cho nàng dùng mỗi khi ở lại đây qua đêm. Họ lên giường. Margot với tay tắt đèn. Họ im lặng, sung sướng được bên nhau. Rồi Margot hỏi:
- Hôm nay anh vào thăm Celia phải không?
- Sao em biết? - Alex ngạc nhiên.
- Trông vẻ mặt anh đau đớn là em đoán ra ngay. Ta nói chuyện đó được không?
- Được.
- Anh thấy anh có lỗi phải không?
- Đúng thế.
Alex thuật lại cuộc thăm viếng vợ và câu chuyện trao đổi với bác sĩ. Ông kể rằng, theo ý kiến bác sĩ thì nếu Celia thấy cuộc ly hôn và Alex lấy vợ khác, cô ấy sẽ suy sụp hoàn toàn.
- Vậy thì anh đừng ly hôn, - Margot đáp kiên quyết.
- Không ly hôn thì hai chúng ta không thể chung sống thường xuyên với nhau được.
- Tại sao? Em đã nói với anh rồi, thường xuyên hay không là do chúng ta quyết định. Hoàn toàn tuỳ thuộc vào bản thân hai ta thôi. Coi như đã cưới nhau rồi chӭ sao? Thời đại hôm nay, chỉ còn mấy ông linh mục già nua mới coi chuyện cưới xin là quan trọng.
- Cả anh nữa chӭ, vì thế anh muốn cưới em thật
- Thì ta cưới nhau, theo cách của chúng ta. Alex yêu quý nếu có thӭ gì em cho là vô nghĩa nhất thì đó là tờ giấy kết hôn, là câu ghi trong căn cước "đã có chồng". Làm nghề này, em đã nhìn thấy quá
nhiều giấy tờ xác nhận này và bây giờ em không còn coi trọng chúng nữa. Em sẵn sàng chung sống với anh trong tình yêu và hạnh phúc, mà không cần bất cӭ một giấy tờ xác nhận nào, nhất là thӭ giấy tờ ấy lại đẩy chị Celia vào tình trạng hoàn toàn suy sụp.
- Anh biết, anh biết. Em bao giờ cũng có lý, - Alex nói, nhưng giọng không được quả quyết lắm.
Margot nói thêm, tha thiết:
- Alex! Chưa người đàn ông nào làm em hạnh phúc như anh. Em không cần gì khác ngoài anh, anh mới cần thӭ này thӭ nọ chӭ em thì không.
Alex thở dài rồi thiếp ngủ. Sau khi biết chắc là ông đã ngủ say, Margot dậy, thay quần áo, hôn nhẹ lên trán Alex rồi rón rén ra ngoài.
XI
Nếu Alex Vandervoort chỉ phải cô đơn có một phần thời gian trong đêm đó, thì Roscoe Heyward lại phải vò võ một mình suốt cả đêm. Ông ta ở nhà, trong toà biệt thӵ hai tầng sang trọng ở khu Shaker Heights, ngồi trong ghế bành, sau bàn giấy bọc da bừa bộn giấy tờ và các loại hồ sơ. Phòng làm việc riêng tại nhà của Roscoe nhỏ nhưng được trang bị tӹ mẩn.
Vợ ông, Beatrice, trước đó hai tiếng đã lên gác ngủ và khoá trái cửa lại. Đã mười hai năm nay Beatrice ngủ riêng và khoá trái cửa lại như thế. Thái độ thô bạo và quyết liệt đó, tuy vậy, không hề làm Roscoe Heyward tӵ ái. Hai vợ chồng sống ly thân như vậy được cả hai tán thành. Trước đó quan hệ tình dục của họ trong một thời gian dài đã thưa dần và cuối cùng chấm dӭt hẳn.
Ông đều quy lỗi cho vợ. Ngay khi mới cưới nhau, Beatrice đã không dấu diếm mà nói toạc ra rằng bà ta ghê tởm những động tác trơ trẽn khi làm tình, mặc dù thỉnh thoảng bà ta cũng có nhu cầu. Bà ta thổ lộ ra với chồng là sẽ dùng toàn bộ nghị lӵc của bà, để kiềm chế thӭ nhu cầu “súc vật" đó.
"""