"Nguyên Soái Zhukov - Người Chiến Thắng Hitler - Albert Axell full prc pdf epub azw3 [Tiểu Sử] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nguyên Soái Zhukov - Người Chiến Thắng Hitler - Albert Axell full prc pdf epub azw3 [Tiểu Sử] Ebooks Nhóm Zalo NGUYÊN SOÁI ZHUKOV - NGƯỜI CHIẾN THẮNG HITLER Tác giả: Albert Axell Dịch giả: Việt Linh Năm XB 2007 Nhà xuất bản:Công an nhân dân Nguồn: Giangtvx GIỚI THIỆU Georgi Zhukov là một trong những vị tướng vĩ đại trong cuộc chiến tranh tàn khốc nhất lịch sử. Theo lời tướng Eisen Hower: thế giới này mắc nợ Zhukov nhiều hơn bất kỳ một quân dân nào khác trong chiến thắng phát xít Đức. Khả năng lãnh đạo quân sự của Zhukov được thể hiện qua những chiến thắng vang dội ở Matxcơva, Leningrad, Stalingrad, Kursk và Berlin.Ông là một trong những nhân vật quan trọng và có ảnh hướng nhất, nhưng thường bị bỏ quên trong chiến tranh Thế giới thứ hai. Nguyên soái Zhukov qua đời năm 1974..Chính quyền Xô-viết đã cử hành lễ tang trọng thể theo nghi lễ quốc gia Rất đông người tham dự khoảng một triệu người Cuốn sách của Albert Axell mang tên: “Nguyên soái Zhukov - Người chiến thắng Hitler” ra mắt năm 2003, được viết với sự giúp đỡ của hai con gái ngài Đại tướng. nhà quân sự thiên tài Của đất nước Xô-Viết kiên cường và vĩ đại. Ờ Ả LỜI CẢM ƠN Trong suốt 25 năm cuối thế kỷ XX, tác giả đã phỏng vấn hơn 30 vị tướng lĩnh, đô đốc, nguyên soái không quân Nga, những người đã chiến đấu chống quân phát xít của Adolf Hitler. Nhiều người trong số họ đã sát cánh chiến đấu bên cạnh hoặc dưới quyền chỉ huy của Nguyên soái Georgi Zhukov trong những năm 1941 - 1945; một số người từng tham gia các cuộc nội chiến ở Nga, Tây Ban Nha và cuộc chiến chống quân Nhật năm 1945; có những người, giống như Zhukov, từng là lính kỵ binh; khi chiến tranh kết thúc, nhiều tướng lĩnh này còn ở lại Berlin. Có thể nêu tên họ như: Nguyên soái không quân Sergei Rudenko, Thuỷ sư Đô đốc Sergei Gorshkov, các tướng Ivan Shavrov, Afanasy Beloborodov, M.ỉ. Belov, LG. Pavlovsky, L.s. Skvirsky, Semyon Krivoshein, Alexei Zheltov, David Dragunsky, s.p. Vasiagin, Boris Vyashin và Đô dốc M.M. Ivanov. Cũng như trong mọi cuộc chiến tranh, nhiều người trong số các tướng lĩnh này đã đổ xương máu nơi chiến trường, bị thương một, hai, ba, thậm chí bốn lần; nhiều người có kiến thức uyên bác và ham học hỏi. Sáu hoặc bảy người đã mời tác giá tới nhà riêng có phòng đọc với những giá đầy sách, trong đó có nhiều bộ sưu tập những tác phẩm văn học kinh điển của các đại thi hào văn học Nga như Pushkin, Gogol, Dostoievsky, Tolstoy, Turgenev và Chekhov. Năm 2002, hai thành viên của Viện hàn làm khoa học Nga đã nhiệt tình giúp đỡ tác giả trong quá trình nghiên cứu, thu thập tài liệu cho cuốn sách này. Đó là Giáo sư Oleg Rzhcshevsky. Chủ tịch uỷ ban Quốc gia các nhà sử học Nga, Chủ tịch Hiệp hội các nhà sử học nghiên cứu về Chiến tranh thế giới II và nhà sử học, Tiến sĩ Mikhail Myagkov. Xin gửi lời cám ơn đặc biệt chân thành tới hai người con gái lớn của Nguyên soái Zhukov, Ella và Era, đã sẵn sàng phúc đáp mọi điều liên quan đến cha họ khi tác giả tới Mátxcơva; hai người còn cung cấp cho tác giả hàng chục tấm ảnh của gia đình, thậm chí đã tháo một số tấm trên tường phòng khách xuống cho tác giả chụp lại. Thái độ của người Đức đối với những chiến thắng quan trọng của Zhukov chủ yếu được biết tới qua báo chí và những cuốn hồi ký của một số tướng lĩnh Đức đã chiến đấu trên chiến trường Nga, như các tướng Heinz Guderian, Hasso von Manteufel, Kurt von Tippelskirch, Franz Haider, Gunther Blumentritt và Hans Doerr. Quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về cuộc đời của Zhukov cần rất nhiều tư liệu ở các cơ quan lưu trữ và các thư viện. Tác giả muốn gửi lời cám ơn tới những cán bộ Cục Lưu trữ Quân sự quốc gia Nga và Cục Lưu trữ Trung ương thuộc Bộ Quốc phòng Nga, các cán bộ Thư viện Anh quốc ở Luân Đôn (gồm cả Thư viện báo), Bảo tàng Chiến tranh, Hiệp hội vì sự hợp tác và nghiên cứu Xô viết, Thư viện Cottage Thụy Sĩ và Thư viện Tây Hampstead đã giúp đỡ tác giá hoàn thành cuốn sách. Cám ơn các chuyên gia Anh, Ireland, Nga và Đức đã giúp dọc bản thảo, nhận xét và đóng góp ý kiến cho tác giả hoàn thiện cuốn sách này. Tác giả củng xin gửi lời cám ơn sâu sắc tới bạn bè và đồng nghiệp, những người đã luôn ủng hộ và khích lệ tác giả. Có thể kể tới một số người như: v.v. Makarov, Ann Pavett, Janet Q. Treloar, John Hale White, Nicolas Gibbs, Ronald James Wren, Barry Holmes, Dmitry Shaklanoff, Jay Axelbank, Dominique Le Frapper, Martin Blakeway và Paul Colston - Biên tập viên tạp chí Tấm gương Nga (Russian Mirror). Cuối cùng, tác giả xin được chân thành cám ơn Casey Mein, Ann Vinegrad và Magda Robsson - các thành viên có chuyên môn cao của Ban biên tập Nhà xuất bản Longman (Pearson Education) ở Luân Đôn và trợ lý biên tập riêng Pendleton Campbell. Zhukov và cháu gái Alexandra sau chiến tranh LỜI GIỚI THIỆU ĐI TÌM CHÂN DUNG MỘT ZHUKOV ĐÍCH THỰC “Suốt thời thơ ấu và trai trẻ, cha tôi đã phải chịu đựng nhiều gian khổ và nghèo túng. Nhưng cuộc đời đã dạy ông rất nhiều và đã tôi luyện ông.” Maria Zhukova Người đã có công đánh bại chế độ Quốc xã của Hitler nhiều hơn bất cứ ai khác, nhưng cũng là người được ít biết đến nhất ở phương Tây. Một cuộc khảo sát tại các thư viện gần đây cho thấy: có hơn 65 cuốn sách viết về cuộc đời của Montgomery, 190 cuốn viết về Eisenhower, 79 cuốn về MacArthur, trên 20 cuốn về Alanbrooke, 30 cuốn về Wavell và 54 cuốn về Patton; ngay cả ở Đức cũng có tới 16 cuốn viết về Guderian, hơn 50 cuốn về Rommel. Thế nhưng, chỉ có 3 cuốn sách viết về cuộc đời của Georgi Zhukov, vị Nguyên soái Nga đã khiến tướng Mỹ Dwight “Ike” Eisenhower (sau trở thành Tống thống Mỹ) phải thừa nhận ông là người mà Liên Hiệp Quốc mắc nợ lớn hơn bất cứ nhân vật quân sự nối tiếng nào khác trên thế giới vì những chiến công chống phát xít Đức. Vậy người mà phương Tây mắc nợ là ai? Georgi Zhukov ít dược biết đến ở phương Tây, bởi vì nhiều năm trước, ngay trên chính quê hương mình, ông là nhân vật không được tôn vinh, không được nhắc đến trên các phương tiện thông tin đại chúng, vai trò to lớn của ông trong chiến thắng chống nước Đức của Hitler bị chính sử làm lu mờ hoặc cố tình bỏ qua. Nhà sử học Vasily Morozov cho rằng, Zhukov đã phải trải qua một giai đoạn “lịch sử bị bóp méo thảm thương do sự bất công lớn" bởi những thế lực chính trị. Một nhà sử học khác là Victor Anfilov coi đó là thời đại của “những điều xấu xa tạo dựng nên sự kiểm soát chính trị” dưới thời Stalin và Khrushchev. Tuy nhiên, giờ đây, Nguyên soái Zhukov (1896 - 1974) đã được thừa nhận là “anh hùng của nhân dân” như các anh hùng dân tộc Minin và Pozharski của thế kỷ XVII, anh hùng Suvorov của thế kỷ XVIII và Kutuzov ở thế kỷ XIX của đất nước. Zhukov thường bị đánh giá là một người khắt khe... và ông đúng là người như vậy. Dưới dây là nhận xét của nhà sử học Victor Anfilov: Ông thực sự là một người khắt khe, luôn đòi hỏi và nghiêm khắc. Quyết tâm chiến thắng kẻ thù không chỉ in đậm trong suy nghĩ mà cả trong trái tim của ông. Ông không sợ phải đối mặt với cái chết. Ông thường mong muốn binh lính phải vững vàng không chỉ bằng mệnh lệnh nghiêm khắc mà còn bằng cả yêu cầu. Ngày 21 tháng 10 năm 1941, khi những trận đánh bảo vệ thị trấn Rogachov đang diễn ra, ông đã gửi cho Tư lệnh Lữ đoàn tăng số 8, P.A. Rotmistrov bức điện: “Tỏi yêu cầu đồng chí phải giữ được Rogachov ít nhất là 24 giờ nữa"1. Đó còn hơn cả một lời yêu cầu. “Đây chính là một bài học cho chúng ta về nghệ thuật chỉ huy và cần phải thật am hiểu về tâm lý con người", Anílilov nói. Trong suốt cuộc đòi binh nghiệp của mình, Zhukov luôn bị công kích là hay đòi hỏi quá khắt khe, bị cáo buộc là hay "sách nhiễu quá đáng”. Zhukov vẫn giữ tính cách này khi nắm giữ những cương vị cao nhất trong quân đội. Nhưng nhà sử học N. Badiakin cho rằng, chính vị Nguyên soái đã đặt ra cho mình những tiêu chuẩn cao nhất và “chính nó cho ông quyền được đòi hỏi người khác cũng phải có được tiêu chuẩn như thế". Badiakin nhấn mạnh việc Zhukov tập trung chú ý tới từng chi tiết trong công việc. Badiakin kể lại quãng thời gian hồi ông là một sĩ quan trẻ, có nhiệm vụ viết các báo cáo năm về công tác huấn luyện gửi lên Zhukov, khi đó là Tổng tư lệnh Quân khu, duyệt: “Thường thường, sau hai tuần, chúng tôi nhận lại các bản báo cáo và các bạn khó có thể hình dung được... Chúng đầy rẫy những bút tích, nhận xét và chỉ thị của Zhukov. Và đã có vô số báo cáo như vậy được chuyển tới Zhukov”. Badiakin cho rằng, Zhukov không giao nhiệm vụ đó cho ai, ông coi đây là “một phần công việc của mình”. Zhukov là người rất trung thành với những sự thật lịch sử. Tờ báo quân sự Krasnaya Zvezda (Ngôi sao đỏ) đã trích dẫn lời Zhukov như sau: “Thời gian sẽ đặt mọi thứ vào đúng chỗ của nó và thời gian sẽ phán quyết, đánh giá mỗi người... Chỉ có bằng cách nói lên sự thật và chiến đấu vì điều dó bạn mới có thể thực sự cống hiến hết mình cho nhân dân”. Nhà sử học Anfilov giải thích: “Điều Zhukov muốn nói là chúng ta phải dám nhìn thẳng vào sự thật; không được xấu hổ khi thừa nhận rằng vào thời kỳ đầu cuộc chiến chống phát xít Đức, kẻ thù của chúng ta mạnh hơn, nhiều kinh nghiệm hơn chúng ta, đồng thời được chuẩn bị, huấn luyện và vũ trang tốt hơn chúng ta”. Và ông thừa nhận, sự thực là khi đó quân đội của chúng ta nên “nhanh chóng rút lui" để bảo toàn lực lượng chứ không nên gọi là "buộc phải rút quân". Zhukov không phải là người chịu đầu hàng số phận. Maria Zhukova, con gái út của ông kể rằng cha cô đã dạy các con gái của mình không bao giờ được lùi bước trước khó khăn, vì “một cuộc sống khó khăn chính là trường học tốt nhất của cuộc đời”. Sự bàng quan chính là điều đáng sợ nhất. Suốt thời thơ ấu và trai trẻ, cha tôi đã phải chịu dựng nhiều gian khổ và nghèo túng. Nhưng cuộc đời đã dạy ông rất nhiều và đã tôi luyện ông”. ------------------- 1. Victor Anfilov, Báo Krasnaya Zvezda (Ngôi sao đỏ), ngày 26 tháng 12 năm 2001; Harry Shukman, Những tướng lĩnh của Stalin, 1993; W.J.Spahr, Zhukov - Những bước thăng trầm của nhà chỉ huy vĩ đại, 1993. Zhukov thường bị buộc tội là “nướng quân”... Đây không phải là một vấn đề dễ lý giải bởi vì không có Luật Queensberry1trên mặt trận phía Đông (châu Âu) và bọn phát xít Đức xâm lược chính là những kẻ nhẫn tâm, tàn ác nhất trong lịch sử. Một tên tướng của Hitler là Franz Haider đã ghi câu nhận xét cay độc trong nhật ký của hắn: “Mặt trận phía Đông, sự tàn nhẫn lại chính là sự nhân đạo đối với tương lai”. Không còn nghi ngờ nhiều nữa, trong chiến tranh, bất cứ một vị tướng nào cũng có thể bị chỉ trích là không quan tâm tới sự tổn thất về sinh mạng. Và Zhukov chính là người châm ngòi cho sự chỉ trích này. Chẳng hạn, ông chấp nhận “thiệt thòi” khi đấu tranh nhằm bảo vệ tính mạng cho những người lính như lúc ông tranh luận với Stalin về việc tính toán thời gian mở chiến dịch hoặc đưa ra đề nghị huỷ bỏ vì nhận thấy nếu thực hiện chiến dịch đó sẽ dẫn đến nhiều thương vong (Xem Chương 15). Xét về vấn đề này còn phải đặt trong bối cảnh chiến trường trải rộng trên lãnh thổ Liên Xô. Riêng chiến trường Stalingrad đã có hàng triệu binh lính tham chiến, kéo dài trên một phạm vi tương dương với quãng đường từ New York tới Florida hay gấp hai lần khoảng cách từ Luân Đôn tới Aberdeen. Có dáng người đậm, chắc nịch, điển trai, cặp mắt màu xanh xám dưới đôi kính không gọng, “tửu lượng” khá, khiêu vũ giỏi, không hút thuốc lá, nhưng Georgi Konstantinovich Zhukov lại bị nhiêu đồng đội nhận xét là cục cằn, thô lỗ, ngạo mạn, kiêu căng và trần tục. K.K. Rokossovky (sau trơ thành một nguyên soái), biết Zhukov rất rõ, đã miêu tả ông hồi năm 1930 là “người kiên quyết, cứng cỏi và quyết đoán”, nhưng cũng hay “đòi hỏi khắt khe” và “thiếu nhạy cảm”. Một năm sau, Zhukov bị S.M. Budenny, một sĩ quan cấp cao, người anh hùng Côdắc nổi tiếng thời Nội chiến, quy kết là người khắt khe quá đáng và thô lỗ. Những lời chỉ trích tương tự - quá nghiêm khắc - thường xuyên chĩa vào ông trong suốt cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại (cách người Nga gọi chiến tranh thế giới thứ hai). Không còn nghi ngờ gì, Zhukov thực sự rất thô lỗ, khắt khe và nghiêm khắc. Trước những chỉ trích như vậy, Zhukov thừa nhận và cho rằng những điều đó được phản ánh đúng. Ông cũng luôn công nhận mình là người rất thẳng thắn, nhưng ông tự tha thứ cho mình khi nói rằng trong lúc vận mạng của hàng ngàn người đang bị thách thức và một chiến dịch lớn đang diễn ra thì không thể có thời gian cho “sự lịch thiệp”. Zhukov có những hạn chế riêng và bị chỉ trích, công kích trong các cuốn sách, tạp chí ở cả trong và ngoài nước là người hay gắt gỏng, kiêu căng, ngạo mạn. Một nhà văn phương Tây cho rằng, Zhukov là người “khắc nghiệt” và “đầy lòng hận thù”, nhưng không một đồng nghiệp phương Tây hay những người Nga yêu nước nào, những người hiểu ông tường tận, lại nhận thấy những điều xấu xa đó ỏ con người ông. Nhưng có một sự chỉ trích rất gay gắt của một người Anh, Ngài David Kelly, nguyên Đại sứ Anh ở Mátxcơva. Ông ta viết về Zhukov như sau: “Ông chính là hiện thân cho học thuyết quân sự của Hồng quân Liên Xô... dựa trên nên tảng nền kinh tế kê hoạch tập trung cao độ, nghệ thuật quân sự là thực hiện đường lối của Đảng trong lĩnh vực này và một điều chắc chắn là mọi cuộc chiến tranh đều xuất phát từ lợi ích giai cấp, vì vậy chiến tranh hoàn toàn không thế tránh khỏi cho đến khi xã hội tư bản chủ nghĩa cuối cùng bị xoá sổ”2. Đặt mọi lời chỉ trích trên sang bên cạnh là một Georgi Zhukov gần gũi hơn, thân thiện hơn, nhân văn hơn. Một viên tướng của nước Anh, Ngài Francis de Guingand, Tham mưu trưởng của Thống chế Montgomery miêu tả Zhukov là một người “thân thiện và vui vẻ”3. Nhà văn Mỹ John Gunther sau khi gặp ông vài lần sau chiến tranh đã miêu tả Zhukov là người có “nụ cười thân thiện, vui vẻ, chân thật nhất, hơn bất cứ một nhà lãnh đạo Nga nào mà chúng tôi đã gặp”. Và John, con trai của tướng Mỹ Dwight Eisenhower, đã gọi Zhukov là người “tâm đầu ý hợp” với mình, thậm chí là rất “sôi nổi”. Khi không ở ngoài chiến trường, Georgi Zhukov là một người cha yêu thương con cái. Mỗi khi có điều kiện được về thăm nhà một hay hai ngày (thường là sau mỗi cuộc tấn công thắng lợi vào phòng tuyến của quân thù), ông thường dành thời gian nghi ngơi, vui đùa, thư giãn cùng vợ và các cô con gái hoặc tấu lên một giai điệu vui nhộn và chơi một bản nhạc Nga truyền thống bằng cây dàn accordion. Điều khác biệt giữa Zhukov với những người Nga khác chính là tinh thần độc lập, tự chủ mạnh mẽ, am hiểu lịch sử và khát vọng hòa bình, hữu nghị lâu bền sau chiến tranh, thậm chí ông còn ủng hộ sự đoàn kết giữa các nước Đống minh đã tham chiến nhằm ngăn chặn những mối đe dọa đối với hòa bình của thế giới có thể xảy ra. Zhukov qua đời năm 1974 ở tuổi 77. Nước Nga sẽ mãi ghi nhớ đến ông, chứ không như đã từng quên lãng ông, một người Cộng sản, cho đến tận nhiều năm sau này. Tướng Eisenhower đã làm việc gần gũi với Zhukov một năm trong khuôn khổ Hội đồng Kiểm soát ở Đức sau chiến tranh, nói rằng, những khác biệt trong niềm tin của hai người là chủ đề mà họ có thể nói chuyện một cách thắng thắn, chân thành khi làm việc cùng nhau - điểu mà họ không thể có được khi đứng trên cương vị công tác chính thức của mình. Trong thời kỳ hậu chiến, có lần đã có người nói Zhukov chính là “người xuất sắc nhất ở Liên bang Xô viết”. Khi nói chuyện với các nhà báo, một nhà ngoại giao nước ngoài tại Mátxcơva nhận xét rằng, điều làm cho vị Nguyên soái khác với những người khác là: “Zhukov là người duy nhất đánh giá cao người dám nói lên sự thật. Ông có thể né tránh các câu hỏi, nhưng ông sẽ không bao giờ nói dối”4. ----------------------- 1. Luật tiêu chuẩn, đặt ra nhằm tôn vinh Hầu tước vùng Queensberry, Anh, năm 1867, quy định đeo găng, thời gian các hiệp đấu ngắn và cấm sử dụng các đòn vật trong môn Quyền Anh - ND. 2. Báo Observer, ngày 7 tháng 7 năm 1957. 3. Thiếu tướng, Ngài Francis de Guingand, Các danh tưống trong chiên tranh, Luân Đôn, 1972. 4. John Gunther, Bên trong nước Nga ngày nay, Luân Đòn. 1957. Trong quãng thời gian nghỉ hưu đầy khó khăn, Zhukov đã phải đấu tranh yêu cầu Ban lãnh dạo điện Kremlin không được cắt xén nội dung cuốn hồi ký đồ sộ của ông. Đó là những cuốn sách cho đến nay vẫn được coi là những hồi ký chiến tranh có giá trị nhất trong số những tác phẩm tương tự của các tướng lĩnh và nguyên soái nổi tiếng đã được xuất bản. Thật chẳng bao giờ dễ dàng cho ông khi bảo vệ sự thật. Chẳng có gì phải đáng ngạc nhiên khi quá trình Ban kiểm duyệt của Đảng duyệt bản thảo ban đầu cuốn hồi ký của Zhukov vô cùng chặt chẽ (cuốn sách được xuất bản lần đầu tiên ở Nga vào cuối những năm 1960), một số nhà quan sát đã được nhắc đến nhân vật người Anh Cả trong cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1984 của tác giả người Anh George Orwell (xem Chương 17). Sự giống nhau rất có thể xảy ra. Trong cuốn tiểu thuyết của Orwell có một “Bộ Sự thật” với nhiệm vụ chuyên “làm sạch” những phần viết về quá khứ để làm vừa lòng nhân vật Anh Lớn. người có một mục đích lớn lao trong suy nghĩ là: Bằng cách kêu gọi nói dối về sự thật, bằng cách viết lại lịch sử, người Anh Lớn có thể duy trì được ít nhất là một vài thời kỳ hoàng kim của lịch sử. Georgi Zhukov là ai? Trong chiến tranh thế giới thứ hai, con số thương vong mỗi ngày của phía Hồng quân là gần 10.000 sĩ quan, binh lính và con số này là gấp đôi nếu tính cả dân thường. Zhukov thường được cử đến những khu vực chiến trường đang trong tình trạng nguy kịch. Và nhờ tài tháo gỡ thế bí đưa quân đội thoát khỏi những tình huống gay cấn đó, ông liên tục được thưởng các loại huân, huy chương. Có vô số những câu chuyện không hồi kết về những ngôn từ hoa mỹ của vị Nguyên soái và thói quen đưa ra tối hậu thư đối với các chỉ huy cứng đầu của ông. Có người kể rằng, một ví dụ điển hình cho tính cách này là câu ông nói với các sĩ quan chỉ huy ở tiền tuyến: “Hoặc là đến sáng mai phải thực thi mệnh lệnh hoặc là các anh sẽ bị bắn vì tội phản bội”. Một chiến thuật của Zhukov là đưa ra những mệnh lệnh có vẻ như là không thể thực thi được qua điện thoại và gác máy mà không để cho các sĩ quan chỉ huy có cơ hội được bàn cãi. Zhukov không bao giờ mủi lòng trước những kẻ hèn nhát và những kẻ gây hoang mang, dao động trong binh lính; trong những trường hợp nghiêm trọng, ông có đầy đủ khả năng lập một đội hành quyết những phần tử đó. Tháng 9 năm 1941, khi Leningrad đang bị bao vây, ông đã ra lệnh nếu bất cứ ai rời bỏ vị trí chiến đấu mà không được sự cho phép bằng văn bản sẽ bị bắn bỏ. Năm 2002, một cuốn sách bán chạy của tác giả người Anh, Antony Beevor, có những luận điệu xuyên tạc về binh lính Nga ở Đức năm 1945 được xuất bản tại Luân Đôn (Berlin sụp đổ, 1945). Cuốn sách này ngay lập tức bị Đại sứ Nga tại Luân Đôn Grigory Karasin và sau đó là Giáo sư, Tiến sĩ Joachim Fest, một nhà sử học có tiếng của Đức chỉ trích mạnh mẽ. ông Karasin đã gọi việc xuất bản cuổn sách là “một hành động báng bổ, chống lại không chỉ nước Nga và nhân dân chúng tôi mà còn chống lại tất cả các quốc gia và hàng triệu người đã phải chịu sự thống trị của Chủ nghĩa phát xít”. Tiến sĩ Fest, một chuyên gia về Hitler và Berlin ở thời điểm kết thúc chiến tranh, đã miêu tả cuốn sách trên là sự “chắp vá lịch sử” và gieo rắc những sai lệch về sự thật lịch sử. Hàng loạt hành dộng hãm hiếp phụ nữ, cướp phá, trả thù, hành động tàn bạo là những nội dung trọng tâm được miêu tả trong cuốn sách của Beevor và tác giả khẳng định tất cả những hành động này xảy ra dưới sự chỉ huy của Nguyên soái Zhukov, trong suốt một năm đầu sau khi chế độ Hitler sụp đố và khi đó Georgi Zhukov là Tổng Tư lệnh các lực lượng Xô viết ở Đức. Có một câu (ở trang 413 cuốn sách trên) nói rằng, “nhiều người” nghĩ lính Xô viết được phép có hai tuần để làm bất cứ điều gì mà họ cảm thấy thích thú đối với người dân Đức trước khi mọi kỷ luật có hiệu lực. Nhưng Beevor vẫn không hiểu gì về Zhukov cả, đặc biệt là phản ứng nhanh nhạy của ông đối với sự thiếu kỷ luật của binh lính. Đọc cẩn thận, kỹ càng và phát hiện những khiếm khuyết hoặc những tuyên bố sai lệch trong cuốn sách là 5 - 6 vị tướng hàng đầu của Nga và một số người khác (trong đó có cả Zhukov). Họ là những người đã có mặt tại Berlin vào tháng 5 năm 1945 - quãng thời gian mà cuốn sách tuyên truyền là có những hành động phi đạo đức, thậm chí ám chỉ những hành động tàn bạo, vô nhân đạo ở mọi cấp đối với chê độ Đức Quốc xã; và họ là những người đã trực tiếp nói với người Đức về an ninh và kỷ luật, họ đã ghi lại những cuộc nói chuyện trên trong các cuốn hồi ký1. (Về đề tài tội ác của quân chiếm đóng - dù là có thật hay chỉ những lời đồn thối - còn có một cuốn sách khác xuất hiện sớm hơn nhiều (năm 1958) không chỉ đề cập đến những hành động hãm hiếp phụ nữ và cướp bóc của binh lính Nga ở Đức mà còn vu cáo Nguyên soái Zhukov có dính líu tới những hành động này. Cuốn sách khẳng định, Nguyên soái Zhukov đã “ra lệnh” (nguyên văn tác giả) cho Hồng quân được phép có những hành động truy lạc đối với dân Đức trong vòng 3 tuần. Cuốn sách do một tổ chức tôn giáo ở Mỹ tái bản tới 14 lần). ------------------ 1. Về những đánh giá sai lệch của tác giả trong cuốn sách, xem Chương 12. Tuy nhiên, có một điều mà tác giả bỏ sót xin được trích dẫn ra đây: Hệ thống các trại tập trung với các lò thiêu và phòng gây ngạt lớn của bọn phát xít. Nếu có ai đặt câu hỏi về tội ác tương tự vào tháng 5, 6 năm 1945, thi hãy xem những chi tiết về “những cỗ máy giết người" của Hitler được coi là biểu hiện sinh động, rõ ràng nhất của chủ nghĩa phát xít (các trại tập trung đó, chủ yếu ở Đức và Ba Lan, được giải phóng vào tháng 4 năm 1945). Chẳng hạn, nhiều trại tập trung có những lò nấu kim loại đặc biệt để nấu chảy những chiếc răng làm bằng vàng lấy trong miệng những tù nhân đã chết. Chúng thu được trung bình mỗi ngày 12 kg vàng. Gác mái của những lò thiêu được sử dụng làm nơi sấy khô tóc của những người chết; tro của họ được dùng để lấp các đầm lầy hay làm phân bón cho những vườn bắp cải; một số trại có những nghĩa địa lớn nhất thế giới. Hanson w. Baldwin, chuyên gia người Mỹ về các vấn để quân sự, biên tập viên tờ New York Times đặc biệt chú ý tới tài năng chiến lược của Zhukov. Baldwin cho rằng, trong suốt quãng thời gian thực thi nhiệm vụ quan trọng đầu tiên được giao là đánh bại quân xâm lược Nhật Bản ở Mông cổ mùa hè năm 1939, lần đầu tiên trong một trận đánh thực sự, Zhukov đã chỉ huy, bố trí lực lượng thiết giáp áp đảo, ông đã chứng minh được tài áp dụng những chiến thuật kỵ binh của mình vào việc chỉ huy lực lượng tăng thiết giáp là thâm nhập sâu, bố trí đội hình rộng, bao vây sát sườn kẻ địch, bất ngờ tấn công, huy động và tổ chức hỏa lực áp chế kẻ thù1. Tháng 6 năm 1945, Zhukov được chọn là người chào đáp lễ trên lưng con ngựa trắng trong Lễ duyệt binh kỷ niệm Chiến thắng ở Quảng trường Đỏ - Mátxcơva (theo nghi thức truyền thống, người chiến thắng sẽ cưỡi một con ngựa màu trắng). Nhớ lại ngày ấy, Zhukov gọi đó là “một ngày không thể nào quên” trong cuộc đời. Hàng nghìn sĩ quan dưới quyền Zhukov, gồm cả các phi công, lính lái xe tăng, tự hào khi Nguyên soái ra lệnh cho họ diễu hành qua mà không cần có kiếm, đinh thúc ngựa hay các trang bị khác. Nhiều người xem lại buổi lễ trên phim nói rằng, có lẽ đây là một trong những lễ duyệt binh chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử. Khi buổi lễ gần kết thúc, 200 quân nhân kỳ cựu, xuất sắc trong những bộ đồng phục mới, sáng loáng ném 200 lá cờ của Hitler xuống chân bức tường trước Lăng Lênin. Nhiều nhà sử học Anh và Mỹ (trong đó có William J. Spahr và Otto Preston Chaney của Mỹ và Antony Beevor của Anh) kể lại: ban đầu, Stalin muốn là người chào đáp lễ, cưỡi con ngựa trắng giống A-rập mà Zhukov cưỡi, nhưng khi Stalin nhảy lên yên, con ngựa lồng lên, ném Stalin xuống đất, hất vào đầu và vai ông, khiến ông phải từ bỏ ý định và nói “Zhukov nguyên là một lính kỵ binh, hãy để đồng chí ấy đáp lễ trong buổi duyệt binh”. Đó có phải là một câu chuyện có thực hay không? Liệu có phải Stalin (khi đó ở tuổi 66, không thể cưỡi ngựa, do sức khoẻ yếu nên không thể cưỡi ngựa nêu không có ai giúp đỡ), đã mạo hiểm leo lên lưng ngựa và ngã trước hàng chục nghìn nam, nữ quân nhân và hàng nghìn khán giả? Các nhà sử học đã sử dụng cùng nguồn tin từ con trai của Stalin là Vasily, người không phải là một nguồn tin đáng tin cậy cho lắm. Nguyên soái không quân Sergei Rudenko cho biết, Vasily chỉ đôi lúc là một sĩ quan giỏi, còn “thường xuyên là một kẻ say rượu mù quáng”. Nguyên soái cũng tiết lộ, Vasily có thói quen “dễ bị kích thích khi say sưa và không kiềm chế được sự buông thả”. Một chuyên gia người Nga, Roy Medvedev, còn chỉ trích mạnh mẽ hơn, miêu tả Vasily là kẻ “thô lỗ, một kẻ nghiện rượu gần như thiếu văn hoá”. Không g g g chỉ vì con trai của Stalin hay uống rượu, mà còn bởi vì tính tình hung bạo của anh ta và những câu chuyện tầm phào anh ta thêu dệt nên (theo lời của Rudenko) “đã huỷ hoại cuộc đời của rất nhiều người”. Thói quen uống rượu và chơi bời phóng đãng đã khiến anh ta chết sớm vào năm 1962 ở tuổi 4221. Sau chiến tranh, ở bất cứ nơi nào ông đến trên quê hương mình, Georgi Konstantinovich đều được mọi người chào đón. Tuy nhiên, ngay sau đó, Stalin (và sau này là Khrushchev) đã không thể kìm nén được lòng ghen tỵ với sự yêu mến của người dân dành cho Zhukov. Có lẽ họ còn lo sợ về ảnh hưởng to lớn của ông trong lực lượng vũ trang. Một khuyết điểm khác của ông trong mắt giới lãnh đạo Đảng là việc ông phản đối quyết liệt chính sách duy trì các quan chức chính trị nắm quyền ở mọi cấp trong quân đội. Những đồng sự người Anh, Mỹ và Pháp của ông trong Hội đồng Kiểm soát quân Đồng minh ở Đức thấu hiểu được gánh nặng đè trên vai ông, đã cố gắng hợp tác với các bạn bè nước ngoài của ông, ngay cả khi những quan hệ vô hại này bị các tình báo viên của Beria coi là những bằng chứng khả nghi buộc ông vào tội phản quốc. --------------------- 1. New York Times, ngày 20 tháng 6 năm 1974. 2. Phỏng vấn Nguyên soái Không quân Sergei Rudenko trên tờ Người lính Xô viết, số 6 năm 1990 và bài phỏng vấn Rudenko năm 1985 của A.Axell trong cuốn Chiến tranh ở Nga từ năm 1941 đến 1945, Luân Đôn, 2001. Sau khi bị triệu hồi từ Berlin về và nắm cương vị Thứ trướng Bộ Quốc phòng một quãng thời gian ngắn, Zhukov thường xuyên bị “đày ải” tới nhiều quân khu không quan trọng, đầu tiên là tới Quân khu Odessa ở Ukraina, sau đó tới Quân khu Urals. Thời gian này, kẻ thù của Zhukov chinh là những sĩ quan mật của Stalin - trong đó có cả Lavrenti Beria và Victor Abakumov - những kẻ đang cố gắng buộc ông vào tội âm mưu “phản quốc”, bắt tay VỚI người Anh và Mỹ. Hai mươi hoặc hơn hai mươi năm cuối đời. Zhukov sống trong khó khăn, rất ít niềm vui. Trong một vài năm, tên tuổi của người anh hùng chiến tranh hầu như hoàn toàn biến mất khỏi báo chí; ông còn bị căn bệnh đau tim hành hạ. Cũng trong quãng thời gian này, ông bắt đầu viết cuốn hồi ký nối tiếng của mình với tựa đề Nhớ lại và suy nghĩ. Cái tên Zhukov gắn liền với nhiều chiến công lẫy lừng, sáu trong số đó được đề cập trong cuốn sách này. Zhukov luôn dành chiến thắng; kẻ thù của ông, bọn phát xít Đức, sau khi dành được những lợi thế lớn ban đầu, giờ đã lúc phái chịu những đòn tấn công trừng phạt, phải lui về phòng ngự để bảo toàn lực lượng. Tuy nhiên, ít nhất một chuyên gia người Mỹ, nghi ngờ tất cả những điều mà mọi người đã biết, cố dưa ra bằng chứng chứng minh rằng Zhukov đã thua một “trận lớn” có tên là Chiến dịch Sao Hoả ở Mátxcơva mùa xuân năm 1942. Nghiên cứu của một chuyên gia lịch sử và quân sự khác đã khẳng định rõ ràng những tranh cãi của tác giả trên (David Glantz trong cuốn Thất bại lớn nhất của Zhukov, xuất bản năm 1999) là không có cơ sở, tác giả đã sử dụng những số liệu quá cường điệu, phóng đại. Chính Zhukov đã giải thích rõ ràng rằng, khi đó hoàn cảnh khách quan đã buộc ông phải tạm thời chuyển từ chiến trường Stalingrad sang một mặt trận khác ở Mátxcơva. Các nhà sử học khác, trong đó có hai nhà sử học Nga là Giáo sư Oleg Rzheshevsky và Tiến sĩ Mikhail Myagkov, đã bác bỏ hoàn toàn những luận điểm trong cuốn sách này. Nói một cách ngắn gọn, Chiến dịch Sao Hoả chỉ là một đòn tấn công mang tính chiến thuật nhằm đánh lạc hướng quân Đức; tại đây, Zhukov có nhiệm vụ ngăn không cho bọn Đức điều lực lượng lớn quân từ Phương diện quân Trung tâm sang Phương diện quân Stalingrad, nơi mà một trong những trận đánh vĩ đại nhất của mọi thời đại đang manh nha. Cả Hồng quân lẫn quân Đức đều biết, kết quả diễn biến tại Stalingrad sẽ có ảnh hưởng quyết định tới cục diện chiến tranh. Zhukov, lúc này giữ vai trò chỉ đạo hiệp đồng tác chiến giữa hai Phương diện quân trong Chiến dịch Sao Hỏa ở phía Tây Mátxcơva, đồng thời cũng là người chịu trách nhiệm chính cho các chiến dịch phản công tại Stalingrad mà ông đã góp phần xây dựng kế hoạch1. ------------------- 1. Phản bác lại những tuyên bố của nhà sử học quân đội Mỹ David Glantz cho rằng Zhukov đã thất bại nặng trong Chiến dịch Sao Hoả ở ngoại ô Mátxcơva mùa thu năm 1942, một học giả được quốc tế công nhận về các nghiên cứu về Chiến tranh Xô - Đức, Giáo sư Rzheshvsky, Chủ tịch Hiệp hội các nhà sử học Chiến tranh thể giới II, cho biết: “Chiến dịch Sao Hoả nhằm hai mục đích: một là, ngăn chặn quán Đức chuyển lực lượng từ khu vực trung tâm sang phía Nam; và hai là, phòng ngừa khả năng quân Đức bất ngờ tấn công từ mũi đất Rzhev (cách Mátxcơva 250km về phía Tây) vào thủ đô. Hai mục tiêu này có thể thay đổi và quyền ưu tiên cho từng mục tiêu sẽ thay đổi trong quá trinh vạch kế hoạch và chuẩn bị cho Chiến dịch Sao Hoả. Năm 1942, Mátxcơva sẽ không bao giờ rơi vào tình trạng nguy hiểm như hồi mùa thu năm 1941; và Stalingrad chính là chiến thắng vĩ đại nhất của nhân dân Nga". Để kết luận vấn đề này, Giáo sư Rzheshevsky cho rằng, cuốn Thất bại lớn nhất của Zhukov (1999) và nhận định của nó vẫn tồn tại nhiều hạn chế về khoa học lịch sử. Tiến sĩ Myagkov cũng chỉ ra rằng, Chiến dịch Sao Hoả không chỉ tạo điều kiện thuận lợi để Chiên dịch Uranus (mật danh của cuộc phản công ở Stalingrad) giành thắng lợi mà tự bản thân nó còn là một thành công vĩ đại vì nó đã ngăn chặn được một cuộc tấn công bất ngờ của quân địch nhằm vào Mátxcơva. Hơn nữa, Chiến dịch Uranus và Chiến dịch Sao Hoả đều là những bộ phận trong một chiến dịch tổng thể nhằm làm thay đổi căn bản cục diện chiến trường Xô - Đức năm 1943. Cả hai nhà sử học đều trao cho tôi các tư liệu khi tôi gặp họ ở Viện hàn lâm khoa học Nga tại Mátxcơva năm 2002. Chính Zhukov củng khẳng định rằng kế hoạch của Bộ Tư lệnh tối cao trong mùa hè và mùa thu năm 1942 thực sự là để đánh lạc hướng kẻ địch, làm cho chúng tin rằng một chiến dịch lớn vào mùa đông sẽ bắt đầu ở mặt trận Mátxcơva theo hướng tấn công từ phía Tây của Hồng quân nhằm vào Cụm tập đoàn quân trung tâm của Hitler. Vì vậy, vào tháng 10, Bộ chỉ huy quân phát xít bắt đầu tập trung một số lượng lớn các lực lượng tới khu vực này. Các chuyên gia phương Tây và phương Đông đã nỗ lực đánh giá đúng tài năng quân sự của Zhukov. Nhà sử học Anh, John Keegan cho rằng, Zhukov là sự kết hợp mọi phẩm chất của một vị tướng vĩ đại, đó là khả năng tư duy chiến lược, kỹ năng chiến thuật xuất chúng, lòng dũng cảm cao nhất, tài chỉ huy xuất sắc và ảnh hưởng chính trị. Cũng như các tác giả khác, John cũng đề cập đến “tính không nhạy cảm rõ ràng” của Zhukov đối với vấn đề thương vong. Một chuyên gia khác, nhà sử học quân đội Ấn Độ, Đại tá A.L. Sethi, cho rằng, những chiến dịch do Zhukov chỉ huy từ năm 1939 đến 1945, trong đó có các cuộc phản công quân Nhật (ở Mông CỔ), ở Mátxcơva, Stalingrad, Vòng cung Kursk và Berlin đã minh chứng cho “tài năng quân sự’ của ông. Theo Sethi, Zhukov không chỉ “xuất sắc” trong lĩnh vực của mình mà còn xứng đáng được xếp cao hơn những nhà chỉ huy quân sự khác ở nghệ thuật chỉ huy những trận đánh vĩ đại trong thế kỷ XX. Sethi cho rằng, có thể có nhiều nhà quân sự khác nối tiếng hơn ở bên ngoài nước Nga như: Montgomery, Rommel, Guderian, Eisenhower, MacArthur, Patton, de Gaulle, Võ Nguyên Giáp. Nhưng Sethi gọi sự vươn lên của Zhukov từ con trai một người thợ đóng giày lên vị trí cao nhất trong quân đội Nga là “sự vươn lên phi thường nhất” mà một người có thế đạt tới được1 chắc chắn, lòng quyết tâm cao độ và chí khí mạnh mẽ” và Zhukov hội tụ cả bốn đức tính đó.. Dưới con mắt của một nhà văn, chuyên gia người Mỹ Phil Grabssky, tác giả cuốn Những nhà chỉ huy vĩ đại (năm 1993) cho rằng, trong khi Alexander Đại đế chỉ huy đội quân gần 100.000 người thì Zhukov chỉ huy một lực lượng lên tới hàng triệu sĩ quan, binh lính. Theo Phil, một “vị tướng tài ba phải có một chiến lược rõ ràng, nguồn cung cấp hậu cần đảm bảo. Ngay từ những thất bại thảm hại đầu tiên trước Hồng quân, chẳng phải mất nhiều thời gian đế tiếng tăm của Zhukov lan truyền trong giới lãnh đạo Đức. Các sĩ quan Xô viết cho biết, khi hỏi điểu gì là đặc trưng tiêu biểu nhất về những người đã chiến thắng họ, các tù binh Đức thường trả lời: sự kiên cường của người Nga và... Nguyên soái Zhukov. Đôi khi, các tù binh cũng nhắc đến xe tăng T-34, loại xe tăng được các chuyên gia đánh giá là một trong những phương tiện bọc thép mạnh nhất trong chiến tranh. Nhưng có một điều rõ ràng là người đứng sau mọi chiến thắng vĩ đại của người Nga chính là cựu lính kỵ binh Georgi Zhukov. Trong bài phát biểu năm 1945, tướng Eisenhower đã nói về bản chất của chiến tranh chống chế độ phát xít Hitler. Ông kết luận: “Đây là một cuộc thánh chiến và phải dành được chiến thắng bằng bất cứ giá nào”. Từ khi Hitler và các tướng lĩnh của y thực thi chính sách sẵn sàng diệt chủng đối với các dân tộc Slav, trong đó có người Nga, Zhukov cùng các đồng đội đã quyết tâm chiến đấu tới cùng chống việc thực thi các chính sách san bằng hàng nghìn ngôi làng và thiết lập các trại tập trung và các lò hỏa thiêu của chúng. Sau đây là những gì mà Zhukov đã viết về những tội ác của bọn Đức Quốc xã: “Chúng tôi không bao giờ có ý nghĩ trừng phạt những người lao động Đức vì những tội ác mà bọn Đức Quốc xã đã gây ra trên đất nước chúng tôi. Nhân dân Nga giữ lập trường kiên định đối với những người Đức bình thường là: họ cần được giúp đỡ để nhận thức về sai lầm của họ và diệt trừ tận gốc mọi tàn dư của chủ nghĩa phát xít”. --------------------- 1. Năm 1987, tác giả đã gặp một nhóm tướng lĩnh tại một hội nghị bàn tròn ở Mátxcơva (tất cả đều tham gia cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại) và hỏi họ đánh giá như thế nào về Zhukov. Tướng lục quân I.G.Pavlovsky trả lời: “Zhukov là một nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại, chúng tôi chỉ có thể nói rằng ông là người xuất sắc nhất trong số những người xuất sắc nhất". Và ông bổ sung thêm: “Nhưng chúng tôi có 12 vị Tư lệnh Phương diện quân vào cuối cuộc chiến, tất cả đều là những vị chỉ huy quăn sự xuất chúng. Tuy nhiên, Zhukov nổi bật trong số họ. Chính các Tư lệnh cũng thừa nhận điều này". Một nhà sử học quân sự Nga, tướng, tiến sĩ Mikhail Belov, người đã viết hàng chục bài báo về Zhukov nói: “.Không thể so sánh Nguyên soái như một tư lệnh quân sư". Ông nói với tác giả về nhận định của ông đối với khả năng chỉ huy xuất chúng đặc biệt của Zhukov đó là khả năng chuẩn bị một chiến dịch lớn và triển khai nó trong điều kiện cực kỳ khó khăn, khả năng phán đoán ý đồ của kẻ thù và nhanh chóng có phản ứng thích hợp để ngăn chặn ý đồ đó, sử dụng chiến thuật nghi binh ở những giai đoạn quyết định để đánh lừa kẻ thù Chẳng có gì bất ngờ, rằng, trong suốt thời gian Zhukov tiếp quản Beclin, mọi khó khăn đều xảy ra, đòi hỏi ông phải hết sức tỉnh táo. Dưới đây là một trong những cách giải quyết khôn ngoan của Zhukov mà đã làm hài lòng một và rất nhiều người. Một hôm, trong khi lái xe qua một vùng ngoại ô Berlin, Nguyên soái nhìn thấy một đám đông trong đó có cả một vài người lính Hồng quân. Có rất nhiều phụ nữ và trẻ em ở đó. Zhukov lệnh cho người lái xe dừng lại, ra khỏi xe và tiến lại gần đám đông. Có lẽ Nguyên soái nghĩ rằng, đó là những người Nga đã trốn khỏi trại tập trung của Đức Quốc xã, nhưng họ lại là những người dân Berlin. Zhukov kể: “Khi đứng đó quan sát, tôi nghe tiếng một anh lính Nga, người đang bê một cậu bé tóc vàng khoảng 4 tuổi trong tay nói: “Tôi đã mất vợ, một cô con gái và một cậu con trai nhỏ khi gia đình tôi sơ tán khỏi Konotop. Họ đã chết khi tàu lửa bị đánh bom. Chiến tranh sắp kết thúc rồi, làm sao tôi lại phải sông cô đơn một mình kia chứ? Hãy giao đứa bé này cho tôi. Lính của ss đã bắn chết cha mẹ nó”. Ai đó nói: - Cũng được đấy, đứa bé trông rất giống anh. Một phụ nữ đứng cạnh anh ta nói bằng tiếng Đức: - Không, tôi không thể trao nó cho anh được. Nó là cháu tôi và tôi sẽ tự nuôi dưỡng nó. Ai đó đã dịch lời người phụ nữ và người lính xịu mặt xuống. Tôi bèn chen ngang: - Hãy nghe tôi, anh bạn, khi anh trở về nhà anh sẽ tự tìm được cho mình một đứa trẻ, hiện nay, chúng ta có rất nhiều trẻ em mồ côi. Sẽ tốt hơn nếu anh có một đứa bé với cả mẹ của nó! Những người lính cười phá lên và đứa bé người Đức mỉm cười. Lính của chúng tôi mở túi quân trang và phân phát bánh mỳ, đường và thịt hộp cho phụ nữ và trẻ em. Cậu bé nhỏ mà anh lính của tôi ôm trên tay còn được cho thêm sôcôla. Anh lính hôn cậu bé và thỏ dài buồn bã.” Zhukov tới gần người lính và bắt tay anh ta. Mặc dù, Zhukov không đeo quân hàm và chỉ mặc một chiếc áo khoác da, nhưng mọi người nhanh chóng nhận ra ông và ông đã phải ở lại thêm nửa tiếng để trả lòi rất nhiều câu hỏi. “Tôi ước gì mình có thể viết ra được tên của những người lính này. Tất cả những gì tôi có thể nhớ được là họ thuộc Tập đoàn quân xung kích số 5 của tướng Nikolai Berzarin.” (Berzarin, người trỏ thành Tư lệnh đầu tiên ở Berlin, đã nói về quãng thời gian ông chiến đấu ở các mặt trận như thể này: “Trong suốt bốn năm qua, tôi vẫn không thế quen được với sự tàn phá, nước mắt và xác người chết trên lãnh thổ của cả chúng ta và kẻ thù.”) Trong quá trình tìm hiểu về Zhukov, tác giả đã phát hiện ra rất nhiều điểm tương đồng giữa Zhukov và Alexander Suvorov, vị Nguyên soái thế kỷ 18, người đã được coi là “niềm tự hào của nước Nga”. Người ta cho ràng Suvorov đã chiến đấu 60 trận và chiến thắng cả 60. Chắc chắn là chưa ai thống kê được Zhukov đã đánh thắng bao nhiêu trận cả lớn lẫn nhỏ, nhưng các chuyên gia phương Tây, trong đó có cả Eisenhower, đều bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với những chiến thắng lớn của ông. Khi được hỏi về bản thân, Suvorov đã từng trả lời như thế này: “Tôi là một người lính. Tôi không hề quan tâm tới xuất thản hay danh tiếng của mình”. Zhukov đã dành những trang trong hồi ký của mình viết về nhũng người lính, những người đã chiến đấu dưới quyền ông, những người “biết phải đối mặt với sự nguy hiểm về tính mạng như thế nào, và đã thể hiện lòng dũng cảm lớn lao và chủ nghĩa anh hùng”. Zhukov cũng ca ngợi những người lính của ông, khi hòa bình trở lại, lại gánh vác nhiệm vụ nặng nề là xây dựng lại hàng nghìn thị trấn, làng mạc đã bị san bằng trong chiến tranh. Binh sĩ của Suvorov đã học hỏi được một kinh nghiệm là họ càng được huấn luyện nghiêm khác bao nhiêu thì càng dễ dàng cho họ khi tham chiến bấy nhiêu. Tương tự như vậy, Zhukov không cho phép các sĩ quan và binh lính của ông được nghỉ ngơi trong khi huấn luyện, phải hàng ngày, hàng tuần luyện tập cùng với các chỉ huy và hạ sĩ quan cho đến khi ông hài lòng với tinh thần sẵn sàng chiến đấu của họ. Sovorov luôn thể hiện tính nhân văn dối với người dán thường và các tù binh chiến tranh và ông thường phạt binh lính nêu có hành dộng cướp bóc. Ông có câu nói nối tiếng là: ‘Tấn công kẻ thù bàng hành động đối xử nhân đạo cũng đạt hiệu quả như sử dụng vũ khí”. Zhukov cũng khẳng định: “Không nên có ý nghĩ trừng phạt những người dân Đức vì những tội ác mà phát xít Đức đã gây ra trên đất nước chúng ta”. Cho đến tận cuối những năm 1990, một số quan sát viên phương Tây mới miêu tả Georgi Zhukov đơn thuần là một “bức tranh bị cắt bỏ” về một người anh hùng, như một người bị thiêu “chiều thứ ba”. Kể từ đó, đã xuất hiện những tài liệu đánh giá tích cực hơn về Zhukov trong các cuốn sách, tạp chí, bài báo, nguồn tư liệu và từ chính các con gái của Zhukov. Cuốn sách này bổ sung một cách nhìn còn thiếu về con người Zhukov và mở ra một hướng quan tâm mới về một người con của đất nước Nga, nổi tiếng song ẩn chứa đầy mâu thuẫn. CHƯƠNG 1 NHỮNG NĂM THÁNG TRƯỞNG THÀNH Chàng thanh niên Zhukov sớm thể hiện năng khiếu đọc và tự giáo dục. PHIL GRABSY, Những vị Tư lệnh vĩ đại Georgi Konstantinovich Zhukov sinh năm 1896 khi nưóc Nga vẫn dưới chế độ Sa hoàng tại ngôi làng lụp xụp Strelkovka, cách Mátxcơva khoảng 160 km về phía Nam. Ngôi nhà nhỏ của cha mẹ ông thật chật chội, chỉ đủ để vừa ở vừa nấu nướng cho gia đình 4 người gồm bố mẹ, người chị gái và ông. Miêu tả về ngôi nhà chật chội của mình, Zhukov đã trích dẫn một câu thành ngữ Nga: “Chen chúc không có nghĩa là bị chôn vùi”. Cha ông, Konstantin, một thợ đóng giày (ông chỉ kiếm được một số tiền công ít ỏi từ công việc này), được nhận làm con nuôi từ một trại trẻ mồ côi khi mới lên hai tuổi. Mẹ của Zhukov, bà Ustinia cũng sinh ra trong một gia dinh nghèo khó, nhưng bà là người có sức khoẻ, có thể vác được một bao lúa mỳ nặng 90 kg. Ngay từ khi còn nhỏ, Zhukov đã thể hiện sức khỏe cùng những nét tính cách sau này như: “sự bướng bỉnh” và ý chí quyết tâm vươn lên hơn người. Zhukov còn quá nhỏ để biết tường tận mọi sự việc, năm 1905 khi cha ông đang đóng giày ở Mátxcơva, thì những cuộc nổi dậy nổ ra. Cha ông cùng nhiều công nhân khác bị “sa thải và trục xuất” khỏi thành phố vì tham gia biểu tình. Trong năm đó, những người nổi dậy và những người bất mãn bị chính quyền Sa hoàng đối xử rất hà khắc, thường bị đày tới Siberia lao động trong các hầm mỏ, công trường khai thác muối hay trên tuyến dường sắt xuyên Siberia. Một số người bị kết án, trong đó có cả phụ nữ, bị xích lại cùng với nhau. Nam phạm nhân thường bị đánh đập. Đây được coi như là một biện pháp trừng phạt tội phản loạn. (Đôi khi, các phạm nhân bị bắt mặc những chiếc áo bó, tẩm những chất liệu mà khi khô đi, chúng sẽ thít chặt lại, gây đau đớn không thể chịu đựng được.) Zhukov nhớ lại quãng thời gian mùa thu năm 1902, lúc ông lên 6 tuổi, hoàn cảnh gia đình ông cực kỳ khó khăn: “Mùa màng thất bát và chúng tôi chỉ còn đủ lúa mỳ cầm cự đến giữa tháng 12. Tất cả số tiền bố mẹ tôi kiếm được chỉ vừa đủ mua bánh mỳ, muối và trả nợ. Chúng tôi biết ơn những người hàng xóm đã giúp đỡ rất nhiều cho chúng tôi những nồi súp cải bắp, cháo yến mạch. Sự giúp đỡ của hàng xóm láng giềng không chỉ là hiện tượng cá biệt đối với gia đình tôi mà đó chính là truyền thống tương thân tương ái của những người Nga nghèo khổ.” Tới mùa xuân, cuộc sống của họ trở nên thoải mái hơn nhờ bắt được cá pecca và cá tinea ở sông gần nhà. Vào “những ngày may mắn đó”, Zhukov có thể trả ơn những bát súp hay cháo yến mạch của hàng xóm bằng những con cá bắt được. Để tới những khúc sông có nhiều cá phải đi qua một khu rừng nhỏ đầy cây cam dại và các lùm cây bulô nhỏ, mọc rất nhiều dâu tây và nấm vào cuối mùa hè. Dân làng quanh vùng thường tới đây bóc vỏ cây làm chỉ khâu giày, người dân thường gọi đó là “khâu cuối cùng trong một công việc đầy khó khăn”. Hai mươi năm sau chiến tranh, khi Zhukov viết về quãng thời gian này, những vạt rừng và những lùm cây đã biến mất. Bọn phát xít của Hitler đã đốn hạ chúng trong chiến tranh và sau chiến tranh, một hợp tác xã đã khai hoang khu đất này đế trồng trọt. Chàng thiêu niên Zhukov phải giúp gia đình cắt cỏ khô và giặt lúa. Tuy nhiên, ông vẫn theo học ở một trường dòng cách nhà một dặm. Hồi đó, Zhukov thấy một số bạn bè có những chiếc cặp da mua ở cửa hàng để đựng sách vở và các đồ dùng khác, còn ông chỉ có một túi bằng vải bao bì khâu tay. Georgi kể: “Tôi nói với mẹ tôi rằng, đó là loại túi mà những người ăn xin thường dùng, tôi sẽ không đến trường với những cái túi đó” và nhận được câu trả lòi: “Khi nào kiếm đủ tiền, bố mẹ sẽ mua cho con một chiếc túi đeo vai của học sinh. Bây giờ con vẫn phải dùng chiếc túi mẹ khâu”. Mặc dù rất kính trọng cha mình, nhưng Zhukov vẫn thường bị cha phạt theo cách “cổ điển”. Cha ông thường đánh Zhukov bằng thắt lưng và bắt ông phải xin lỗi. Nhưng Georgi nói: “Tôi rất bướng bỉnh và thật khó để ông bắt tôi mở miệng. Ông không bao giờ bắt tôi xin tha thứ được”. Có lần, vào một ngày sương mù, ông bị cha đánh đòn đau đến mức phải chạy ra khỏi nhà và trốn trong túp lều ngoài đồng của người hàng xóm trong ba ngày. Chỉ có người chị gái biết ông trốn ở đâu. Chị ông đã giữ kín bí mật đó và mang thức ăn ra cho ông. Cuối cùng, có người cũng phát hiện và đưa ông về nhà. “Bố tôi đánh tôi một trận nữa rồi tha thứ cho tôi”. Trong quãng thời gian đó, một người phục vụ ở quán rượu tên là Prokhor, là anh họ bà mẹ đỡ đầu của Zhukov, tỏ ra rất thích cậu thiếu niên và thường cho cậu cùng đi săn vịt trời vào mùa hè và săn thỏ vào mùa đông. Georgi tỏ ra rất nhanh nhẹn trong việc lùa thỏ và nhặt những con vịt bị bắn rơi xuống nưóc. Một ngày nọ, cha ông lại lên Mátxcơva. Trước khi đi, ông nói với vợ rằng các công nhân ở các nhà máy tại Mátxcơva và St Petersburg rơi vào tuyệt vọng vì thất nghiệp và chuẩn bị tiếp tục tổ chức biểu tình, đình công. “Tốt nhất hãy tránh xa những nơi đó, không thì cảnh sát sẽ lại bắt anh”, Georgi nhớ những lời mẹ nói với cha khi đó. Trong một thời gian dài, gia đình họ không nhận được tin tức gì của cha Zhukov và luôn sông trong lo lắng. Nhưng họ cũng sớm nghe được tin. Ngày 9 tháng 1, tại St. Petersburg, cảnh sát và binh lính Sa hoàng đã nổ súng vào đoàn biểu tình hòa bình của công nhân Công xưởng quốc phòng Putilov, do Cha Gapon, một linh mục Chính thông giáo dẫn đầu đang tiến về Cung điện Mùa Đông. Họ yêu cầu Sa hoàng phải cải thiện điều kiện lao động. Zhukov nhớ lại, những người lạ mặt đến làng, đó là những người âm mưu nổi dậy, kêu gọi người dân hãy đứng lên giành lại pháp luật “chosng lại những kẻ giàu có và chế độ chuyên chế Sa hoàng”1. Năm 1906, Zhukov kết thúc ba năm học ở trường dòng với điểm các môn học rất cao và được nhận phần thưởng. Mọi người trong gia đình đều rất vui. Mẹ ông đã thưởng cho ông một chiếc áo mới, còn cha khâu cho ông một đôi giày da. Thời gian đó, vào mùa đông, cậu Georgi tự rèn luyện sức khỏe, thích các trò chơi ngoài trời như câu cá, trượt băng (bằng giầy trượt băng tự làm) và trượt tuyết trên những ngọn đồi gần nhà. Mặc dù cậu có dáng người thấp bé, nhưng hai vai cậu khá rộng. Khi lên 11 tuổi, cậu bé Zhukov được gửi đi học việc kinh doanh da thú với người bác ở Mátxcơva. Rất nhanh chóng, Zhukov đã biết được thế nào là “đòn roi” trong công việc khó khăn này. Ngay ngày đầu tiên học việc ở Mátxcơva, cậu đã bị đánh vào đầu vì đã không tuân theo những quy định bất thành văn: cậu đã thẳng tay “múc thịt ra khỏi nồi súp cải bắp”. Bạn học cùng cậu, Kuzma, nói với Georgi cách chịu đựng: “Hãy mỉm cười và biết chịu đựng khi cậu bị đánh. Người bị đánh còn giá trị hơn hai lần người không bị đánh”, Georgi không bao giờ nói lên suy nghĩ của mình về lời khuyên này. Vào các thứ 7, Kuzma dẫn cậu đi lễ nhà thờ và Chủ nhật thì tới các buổi cầu kinh sáng tập trung đông con chiến. Georgi kể: “Vào những ngày lễ lớn, ông chủ của chúng tôi dẫn chúng tôi tới các buổi lễ đông đảo con chiến ở Nhà thờ Đức mẹ tại Kremlin hoặc thỉnh thoảng tối Nhà thờ Chúa Jesus. Chúng tôi không thích đi nhà thờ, luôn tìm cơ hội để trốn tránh. Tuy nhiên, đến Nhà thờ Đức mẹ đồng trinh là một ngoại lệ, vì chúng tôi rất thích dàn xướng ca tuyệt vời, đặc biệt là thích thú nghe Deacon Rozov, người có giọng hát như tiếng đàn trumpet”. Tuy Zhukov tiến bộ rất nhanh trong công việc, nhưng vẫn thường xuyên bị đánh. “Ông chủ đánh chúng tôi rất tàn nhẫn vì những lỗi nhỏ nhất. Chúng tôi còn bị những thợ thủ công nam, nữ và bà chủ nhà đánh đập. Bất cứ khi nào thấy ông chủ thấy khó chịu, tốt hơn là nên tránh xa ông ta, bởi vì nếu không ông ta lại đánh chúng tôi dã man đến nỗi mà mỗi chúng tôi còn cảm thấy ong ong ở tai cho đến tận giờ nghỉ.” Ông chủ của cậu tuyên bố, quyền của ông ta là “không ai có thế yêu cầu ông ta phải có nghĩa vụ” đối xử nhân đạo với bọn trẻ và chẳng có ai quan tâm tới điều kiện làm việc của chúng tôi, chúng tôi ăn cái gì và chúng tôi sống như thể nào. Quan tòa tối cao của chúng tôi chính là ông chủ. Vĩ vậy, chúng tôi làm việc như nô lệ, đổ mồ hôi sôi nước mắt, thậm chí đến người lớn cũng không thể chịu đựng được”, Zhukov kể. Thời gian dần trôi qua, cậu bé đã bước sang tuổi 13. Mặc dù công việc khiến cậu “không thể nhấc nổi chân lên nữa”, nhưng Georgi lại tìm thấy một niềm vui mới đó là đọc sách. Cậu rất biết ơn người bạn cùng học việc, Sergei Nikolaievich Remizov, “người đã đem đến cho tôi niềm ham mê đọc sách”. Con trai lớn của ông chủ, Alexander, cũng giúp đỡ Georgi duy trì thói quen này. Cậu đã đọc trọn bộ Pinkerton và Sherlock Holmes và nhiều truyện trinh thám khác. “Chúng tôi ngày càng quan tâm hơn tới các sách nghiên cứu về người Nga, toán học, địa lý và đọc các cuốn sách khoa học thường thức. Chúng tôi thường đọc cùng nhau vào hầu hết các buổi chủ nhật và khi ông chủ đi vắng. Mặc dù chúng tôi tìm mọi cách giấu, nhưng ông ta vẫn phát hiện ra. Tôi đã nghĩ ông ta sẽ đuổi cổ hoặc đánh đòn tôi, thế nhưng vì một số" lý do nào đó - tôi cũng không biết tại sao - ông ta lại khen ngợi chúng tôi đã làm được một điều bổ ích.” ----------------------- 1. Cảnh sát đã xả súng bắn chết hàng trăm người biểu tình ở St Petersburg. Sự kiện này đã được ghi nhận trong sử sách là Ngày Chủ nhật đẫm máu. Hưởng ứng và đáp lại sự hy sinh đó, đến cuối tháng 1 năm 1905, có tới gần 400.000 công nhân đã tham gia vào cuộc biểu tình phản đôi chính quyền với quy mô lớn. Georgi đã tự học các môn học trên trong hơn một năm và sau đó theo học ở một lớp buổi tối, chương trình ở đây cũng tương đương với nội dung học ở trường phổ thông của thành phố. Lúc này đã là năm 1911, Zhukov đã kết thúc ba năm học việc, cậu muốn tiếp tục học nhưng cậu thậm chí không có một cơ hội nhỏ nhoi nào cả. Tuy vậy, cậu vẫn cố gắng giữ thói quen đọc sách. “Tôi đọc báo... Alexander cho mấy cuốn tạp chí và tôi tự mình mua sách bằng tiền tiết kiệm” (Hai người con gái lớn của Zhukov, Era và Ella đã nói với tác giả khi họ gặp nhau ở Mátxcơva năm 2002 rằng, những năm sau chiến tranh, cha họ có một thư viện trong ngôi nhà ở nông thôn với khoảng 20.000 cuốn sách). Georgi cũng tiết kiệm tiền từ vé xe điện. “Thỉnh thoảng ông chủ tôi sai tôi đi gửi bưu kiện ở đâu đó xa và đưa cho tôi hai xu để đi xe điện. Tôi đã đi bộ một quãng đường dài để dành tiền”. Một năm sau, có một hội chợ được tổ chức ở thị trấn Nizhni Novgorod, bên bờ sông Volga. Ồng chủ cậu đã thuê một gian hàng để bán những bộ lông thú. “Nhiệm vụ của tôi ở hội chợ hầu như chỉ là cho lông thú đã bán vào sọt và gửi chúng cho những người ký gửi hàng hóa theo đường sông Volga hoặc theo tàu chở hàng”. Đây là lần đầu tiên Zhukov được chứng kiến vẻ đẹp hùng vĩ của dòng sông Volga. “Lần đầu tiên tôi được ngắm nhìn dòng sông Volga, sóng lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời. Tôi đứng đó dán chặt mắt vào dòng sông, không thể chú ý đến gì khác nữa. Giò đây, tôi mới hiểu tại sao lại có nhiều bài hát về con sông này đến vậy và tại sao nó lại được gọi là mẹ của các dòng sông.” Đó là vào năm 1912, Zhukov đã gần 16 tuổi. Cậu nói, thật may mắn khi được phép nghỉ 10 ngày về thăm gia đình đúng vào mùa thu hoạch cỏ khô, mà cậu gọi là “công việc thích thú nhất trong các việc nhà nông”. Dân làng và bọn trẻ đi bán hàng rong ở thành phố trở về nhà giúp đỡ bố mẹ nhanh chóng thu hoạch cỏ khô dự trữ cho mùa đông. Tôi rời làng khi còn là một đứa trẻ và trở về khi đã là một chàng trai bước vào tuổi 16, sắp kết thúc thời gian học việc. Tôi không thể nhớ hết mọi người, một số đã mất, một số đã đi học việc ở xa hoặc ra thành phố kiếm việc làm. Tôi đã nhận lầm một vài người và cũng có người nhận lầm tôi. Một số người bị cột chặt trong cuộc sống khó khăn, già đi rất nhanh, bạn bè tôi đã trở thành người lớn cả. Mẹ tôi ra tận ga xe lửa đón. Bà thay đổi rất nhiều và đã già... Tôi không thể cất nên thành lời và không thể ngăn được nước mắt. Mẹ tôi cứ khóc mãi, nắm chặt tôi trong đôi bàn tay chai sạm vì làm việc nặng nhọc và nói: - Con trai yêu quý, mẹ đã nghĩ sẽ chẳng bao giờ được gặp con nữa. Tôi an ủi bà: - Mẹ, hãy nhìn xem, con đã lớn và mẹ sẽ đỡ vất vả hơn. - Chúa ban tặng cho mẹ con mình điều đó. Khi hai mẹ con về đến nhà thì trời đã tối. Cha và chị gái tôi đang đứng chờ ở cổng. Chị tôi đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, còn cha tôi đã già, lưng đã còng. Ông đã xấp xỉ 70 tuổi. Chúng tôi ôm hôn nhau và có lẽ khi nghĩ về bản thân mình, ông nói: “Thật là may cha còn sống để được nhìn thấy con trưởng thành và khỏe mạnh thế này”. Còn nhiều thứ hay mà tôi muốn cha mẹ và chị gái tôi được thấy, tôi mở túi xách, chia quà cho mọi người. (Georgi biếu mẹ 3 rúp, hai cân đường, một cân kẹo và nửa cân chè). - Cảm ơn con rất nhiều - mẹ ông rất vui và nói - đã quá lâu rồi chúng ta chưa được uống chè phà đường. Georgi còn biếu bố 1 rúp để uống rượu. Mẹ ông làu bàu: - Hai mươi côpếch là quá đủ với bố con rồi. - Tôi đã chờ thằng con mình suốt 4 năm, bà đừng phá vỡ niềm vui này với câu chuyện kể khổ của chúng ta - cha ông nói. Hôm sau, mẹ, chị gái và Georgi ra đồng cắt cỏ. “Tôi rất vui khi gặp lại những người bạn cũ và cậu bạn nối khố Alexei”. Georgi kể, cậu vẫn cố làm bằng mọi người mặc dù cổ họng và miệng khát khô và khi được giải lao, cậu cảm thấy rất sung sướng. Bác Nazar xem cậu làm, vòng tay lên đôi vai đẫm mồ hôi của cậu và nói: - Tốt lắm, Georgi, làm nghề nông không phải là một g g g g p cuộc píc-níc. - Chắc chắn là vậy rồi - Georgi đáp. Một thanh niên trẻ mà cậu không biết nói: - Người Anh đã sử dụng máy móc để cắt cỏ. - Đúng vậy - Nazar nói - thế mà ở đây chúng ta vẫn bám chặt vào cây cày gỗ và chiếc liềm. Georgi hỏi ai là người đã nói về những chiếc máy. - Đó là Nikolai, con trai lớn của người làng này đấy. Anh ta bị trục xuất khỏi Mátxcơva vì đã tham gia vào các cuộc biểu tình năm 1905. Anh ta có cái lưỡi sắc và thậm chí còn dám báng bồ cả Sa hoàng. - Có sao đâu - Alexei thừa nhận - miễn là cảnh sát và bọn chỉ điểm không nghe thấy là được. Georgi nhớ lại những buổi tối, khi đã quên đi những mệt nhọc ban ngày, đám thanh niên làng lại tụ tập quanh kho thóc chơi đùa vui vẻ. Chúng tôi cùng hát những bài hát trữ tình. Các cô gái hát giọng cao, trong trẻo, các chàng trai thì hát bắt theo các đoạn điệp khúc bằng giọng nam trầm còn non choẹt của mình. Sau đó, chúng tôi nhảy múa đến mệt lử. Chúng tôi chia tay nhau thì trời đã gần sáng, chỉ cố gắng chợp mắt được một chút trước khi bị đánh thức và tiếp tục ra đồng cắt cỏ. Ngay khi màn đêm buông xuông, thì cuộc vui lại bắt đầu. Thật sự khó mà có thể nói chính xác được chúng tôi đi ngủ lúc nào. Trong quãng thời gian nông nổi của tuổi trẻ, một thanh niên có thể thậm chí không ngủ. Tuổi trẻ thật sung sức làm sao! Kỳ nghỉ trôi qua nhanh chóng và Georgi phải trở lại Mátxcơva. Đêm trước khi cậu đi, một đám cháy xảy ra ở ngôi làng gần Kostinka. Ngọn lửa lan sang các nhà láng giềng, các chuồng gia súc và các quán rượu. Georgi kể: “Chúng tôi vẫn còn thức và bị dựng dậy. Tất cả chạy ra, mang theo các thùng dập lửa tới Kostinka trước cả khi đội cứu hỏa địa phương có mặt. Khi mang thùng nước dập lửa chạy qua một ngôi nhà, tôi nghe thấy tiếng kêu cứu, liền lao vào và kéo được một số em nhỏ đang rất hoảng sợ và một cụ già ôm yếu ra khỏi ngôi nhà”. Cuối cùng thì đám cháy cũng được dập tắt. Georgi chứng kiến rất nhiều người dân làng bị mất nhà cửa và mất hết tài sản. Cậu nói, một số người thậm chí không còn đến một mẩu bánh mỳ nữa. Trở lại Mátxcơva, Georgi tự tìm phòng trọ để có nhiều thời gian đọc sách vào các buổi tối. Giờ đây, cậu đã là một thợ thủ công độc lập và có thể kiếm được tiền lương trên mức trung bình. Giữa năm 1910 và 1914, khi Chiến tranh thể giới lần thứ nhất nổ ra, tinh thần cách mạng tăng cao và các cuộc biểu tình nổ ra ngày càng nhiều và thường xuyên ở Mátxcơva, St Petersburg và các thành phó) công nghiệp khác. Sinh viên tập hợp lực lượng và các cuộc biểu tình cũng nổ ra ngày càng thường xuyên hơn. Ở vùng nông thôn, người nông dân trở nên tuyệt vọng vì hậu quả của nạn đói năm 1911. Georgi nói, tình trạng này cũng ảnh hưởng tới việc buôn bán lông thú. Mặc dù những người công nhân không phải là “mục tiêu chính trị”, nhưng họ cũng được biết về một số trường hợp công nhân bị bắn ở khu khai thác vàng Lena ở Siberia. Và người nông dân hay công nhân thì cũng không khác gì nhau. Georgi đã ghi lại trong hồi ký của ông về cuộc Chiến tranh thể giới lần thứ nhất rằng, lần đầu tiên ông biết về cuộc chiến này là do những cuộc bố ráp các cửa hàng của người nước ngoài ở Mátxcơva. Ông cũng nhớ những lần cảnh sát mật và lính của đơn vị Hắc vệ1 đã cướp phá các công ty của người Đức và người Áo. Nhưng vì là người dân thường không biết tiếng nước ngoài nên họ cũng tấn công luôn cả những công ty của người Pháp và người Anh. Chính phủ kích lệ tinh thần yêu nước của người dân, nhiều thanh niên, đặc biệt là những người ở các gia đình khá giả, tình nguyện ra mặt trận. Anh họ Georgi là Alexander muốn nhập ngũ và cố gắng thuyết phục Georgi, khi đó mới 19 tuổi cùng đi. Georgi nói: “Tôi thích ý tưởng này”. Nhưng cậu quyết định hỏi ý kiến một người bạn là Fiodor Ivanovich, người mà cậu rất kính trọng để cho cậu một lời khuyên. Người bạn này đã nhạo báng ý tưởng của cậu và nói: “Cậu đúng là một tên ngốc! Tôi có thể hiểu được vì sao Alexander muốn đi. Cha cậu ta rất giàu và vì vậy cậu ta có lý do để mà chiến đấu. Nhưng còn cậu - cậu sẽ chiến đấu vì điều gì?” Vì cha cậu đã bị xua đuổi khỏi Mátxcơva à? Vì mẹ cậu đang phải gồng mình với nạn đói hay sao? Cậu sẽ trở về với một cái chân què và chẳng còn ai cần cậu nữa”. Lời khuyên này đã thuyết phục được Georgi. Nhưng ông anh họ cậu, sau khi mắng mỏ Geogri, đã gia nhập quân đội và bị thương nặng và trở về nhà hai tháng sau đó. Bây giờ hãy nói về tình yêu đầu tiên trong đời của cậu thanh niên Zhukov. Cậu bị con gái của một quả phụ, mà cậu thuê nhà hút hồn. Họ đã tính chuyện kết hôn. Nhưng chiến tranh đã phá tan dự định của họ vì thanh niên ở tuổi cậu bị bắt nhập ngũ. Cậu đã không còn nhiệt tình ra chiến trận, nhất là kế từ khi cậu chứng kiến nhiều người lính không may bị thương từ mặt trận trở về. Nhưng Zhukov vẫn cảm thấy nước Nga đang trong cơn nguy khốn và cậu quyết tâm: “Khi nào đến lượt tôi, tôi sẽ chiến đấu hết mình, trung thành vì đất nước tôi”. ------------------------- 1. Hắc vệ (Black Hundreds) là nhóm những người yêu nước cực đoan, chống lại người Semitic, ủng hộ chế độ quân chủ, chuyên tiến hành cách hoạt động bạo lực, trong đó có cả hoạt động tàn sát người Do Thái, trong những năm đầu thế kỷ XX. CHƯƠNG 2 ANH LÍNH KỴ BINH DƯỚI CHẾ ĐỘ SA HOÀNG Xuất thân trong một gia đình nông dân... Ông đã phục vụ trong một đơn vị kỵ binh của Sa hoàng năm 1915. New York Times, ngày 20 tháng 6 năm 1974. Mọi người xung quanh tôi đều lạ lẫm, tất cả đểu mặc quân phục màu xanh và đều có vẻ non nớt như tôi. Trước khi trời tối, chúng tôi lên tàu và thẳng tiến trại lính ở Kaluga, phía Nam Mátxcơva. Đó là vào ngày 7 tháng 8 năm 1915 và Chiến tranh thế giới thứ nhất đã bước vào giai đoạn ác liệt nhất. Nỗi cô đơn gặm nhấm tôi. Tuổi thanh niên của tôi đã chấm dứt. Liệu tôi đã thực sự chuẩn bị đầy đủ tinh thần để đảm trách nhiệm vụ nặng nề của một người lính và sẵn sàng ra trận nếu cần thiết hay chưa? Sẽ là những khó khăn gian khố như tôi đã từng trải qua trước đây và tôi hy vọng rằng tôi sẽ hoàn thành trách nhiệm của mình vì danh dự. Zhukov đã bắt đầu cuộc đời binh nghiệp bằng việc phục vụ trong lực lượng kỵ binh của Sa hoàng. Vào thời gian đó, những quân nhân kỳ cựu có tham vọng chính trị trong quân đội đã chỉ trích Sa hoàng Nicholas II vì đã liều lĩnh đẩy nước Nga vào cuộc chiến, khiến cho đất nước suy sụp và đẩy đất nước vào cuộc chiến tranh phi nghĩa. Có đến hơn một minh chứng thực sự cho sự chi trích này. Cuối tháng 7 năm 1914, chiến tranh nố ra ở khắp nơi. Hoàng tử Áo bị ám sát và nước Áo tuyên chiến với Serbia, một đồng minh thân cận của Nga. Sa hoàng, muốn giúp đỡ Serbia, ra lệnh tổng động viên quân đội, trắng trợn khiêu khích nước Áo. Trong khi đó, Hoàng đế Kaiser Wilhelm II của Phố gửi điện cho “người anh em” Sa hoàng Nga (mà ông ta gọi là “Nicky”) ràng, ông ta muốn Áo và Nga là những người hạn thân thiết của nhau. Nhưng “Willy” (biệt danh Sa hoàng gọi Kaiser - họ thường có thói quen trao đổi thư từ với biệt danh là Willy - Nicky) đã không ngăn cản được nguy cơ chiến tranh ngầm đối với “người anh em thân thiết” của mình. Trong bối cảnh đó, Sa hoàng có lẽ cũng dự cảm thấy hiểm họa chiến tranh lan rộng khắp châu Âu nên đã quyết định chuyên lệnh từ “tổng động viên” sang “động viên từng phần”. Tuy nhiên, quyết định của Sa hoàng vẫn không làm yên lòng một số bộ trưởng hiếu chiến của ông, những người này đã ép Sa hoàng phải sử dụng quân đội để thiết lập nên một trật tự mới và cuối cùng Sa hoàng đã chấp thuận theo ý kiến trên. Ngay từ đẩu, Zhukov đã được phân về lực lượng kỵ binh, điều này làm anh cảm thấy phấn khích, bởi vì trong anh luôn chất chứa những ý tưởng rất lãng mạn về binh chủng này. Hầu hết bạn bè anh được phân vào các dơn vị bộ binh nên họ nhìn Georgi với con mắt ghen tỵ. Những người lính trẻ bị dồn lên những toa xe chơ hàng. 40 người chen chúc trên một toa, vốn không được dùng để chở người. Vì thế, mỗi chàng tân binh phải chọn hoặc là đứng suốt chặng đường hoặc là ngồi trên sàn toa bẩn thỉu. Một vài người thì hát, một vài người thì chơi bài, có người còn gục đầu vào vai người ngồi bên cạnh khóc thổn thức, một vài người ngồi cắn chặt răng, cặp mắt vô hồn và hình dung về tương lai đời lính của họ. Chúng tôi tới Kaluga vào ban đêm và nhận được lệnh xếp hàng dọc theo những thùng hàng, sau đó hành quân rời khỏi thị trấn. Ai đó đã hỏi viên hạ sĩ là chúng tôi đang đi đâu? Anh ta đúng là một đồng đội tốt bụng vì đã cho chúng tôi lời khuyên như sau: “Nghe đây, các chàng trai, đừng bao giờ hỏi cấp trên những câu hỏi tương tự như vậy. Người lính phải phục tùng những gì anh ta được ra lệnh và không được quyền hỏi. Anh ta đi đâu thì chỉ có cấp trên của anh ta biết.” Và như để khẳng định điểu đó, một tiếng quát vang lên từ đầu hàng quân: - Không được nói chuyện trong hàng! Nicolai Sistsov, đồng đội mới của Zhukov huých vào sườn anh và thì thầm: - Này anh bạn, chúng ta đang ở trong quân đội đấy. Các chàng trai cất bước khó nhọc khoảng 3 tiếng đồng hồ thì mới có lệnh tạm nghỉ. Lúc đó đã gần đến giờ nghỉ trưa và các anh lính trẻ ngả mình trên nền đất và hầu hết ngay lập tức ngáy vang. Họ lại nhanh chóng được lệnh tập hợp đội hình và khoảng một tiếng sau đã tới trại lính, ở đó, họ được xếp vào những chỗ trống trong một cái lều đã chứa khoảng một trăm người. Zhukov nhớ lại, gió lùa qua khe hổng đập vào khung cửa sổ và không khí khó chịu kinh khủng. Chúng tôi được lệnh có thể nghỉ tới 7 giờ. Sau bữa ăn sáng, chúng tôi được tập hợp và được thông báo là chúng tôi được biên chế vào Tiểu đoàn bộ binh dự bị 189 thuộc Trung đoàn kỵ binh dự bị số 5. Trước khi nhận nhiệm vụ, chúng tôi được huấn luyện cơ bản. Sau đó, chúng tôi được huấn luyện cách sử dụng súng. Hạ sĩ Shakhvorostov, chỉ huy tiểu đội của chúng tôi truyền đạt các quy định, nội quy và nhiệm vụ. Anh ta cảnh báo với chúng tôi rằng, chúng tôi không được rời khỏi hàng ngũ, trừ khi cần đi vệ sinh, nếu chúng tôi không muốn bị phạt đứng ngoài hàng rào. Mỗi từ anh ta ra lệnh, anh ta đều nhấn mạnh bằng cách vung nắm đấm. Cặp mắt ti hí của anh ta hấp háy một cách đầy đe dọa như thế chúng tôi là kẻ thù không đội tròi chung của anh ta. Zhukov nghe ai đó nói rằng: - Đừng có trông chờ điều gì tốt đẹp từ anh ta. Viên hạ sĩ quan cấp trên xuất hiện và viên hạ sĩ của chúng tôi hô to: - Nghiêm! Viên hạ sĩ quan cấp trên nói: - Tôi là Malyavko, chỉ huy trung đội của các anh. Tôi hy vọng tất cả các anh đã hiểu những gì mà tiểu đội trưởng của các anh đã nói, và các anh sẽ phục vụ trung thành Sa hoàng và Tổ quốc. Tôi sẽ không tha thứ cho hành vi bất tuân lệnh. Ngày huấn luyện bộ binh đầu tiên bắt đầu. Mọi người đểu phải luyện tập tốt, nhưng không dễ gì làm hài lòng những viên chỉ huy. Để phạt một người lính làm sai động tác, viên trung đội trưởng bắt tất cả tân binh phải tập thêm. Kết quả là, Georgi nói, bữa tối của họ (anh gọi là “cám lợn”) đã lạnh ngắt khi họ ngồi vào bàn ăn. Tôi hoàn toàn thất vọng, tất cả những gì tôi mong muốn đểu sụp đổ. Tuy nhiên, dường như là đọc được suy nghĩ của chúng tôi, viên trung đội trưởng ra lệnh cho chúng tôi tập hợp đội hình và thông báo đêm mai chúng tôi sẽ điểm danh buổi tối vì tối mai chúng tôi sẽ phải học hát bài quổc ca “Chúa cứu rỗi Sa hoàng”. Chúng tôi phải tập hát tới tận khuya. Và 6 giờ sáng, chúng tôi đã bị đánh thức dậy tập thể dục buổi sáng. Ngày lại ngày trôi qua đơn điệu một cách nhàm chán. Và ngày chủ nhật đầu tiên của chúng tôi đã đến. Chúng tôi nghĩ sẽ được nghỉ ngơi và có thời gian tắm táp, nhưng chúng tôi lại phải tập hợp để dọn dẹp vệ sinh. Việc này kéo dài tối tận bữa trưa. Sau khi nghỉ trưa, chúng tôi phải lau chùi vũ khí, vá và mạng lại quần áo và viết thư về nhà. Viên tiểu đội trưởng cảnh cáo chúng tôi không được phàn nàn gì trong thư bơi vì những phần đó sẽ bị người kiểm thư cắt bỏ với bất cứ lý do gì. Thật khó cho Zhukov có thể làm quen được với đời sống quân đội, nhưng cũng đã chẳng có gì dễ dàng với anh từ trước tới nay và sau hai tuần, hầu hết các tân binh đều cảm thấy rất thất vọng. Sau hai tuần huấn luyện, trung đội của chúng tôi bị Đại đội trưởng Volodin, tập hợp kiểm tra. Mọi người nói ông ta là một tay nghiện rượu nặng và tốt hơn là nên tránh xa ông ta khi ông ta uống rượu. Mặc dù, nhìn bề ngoài, ông có vẻ chẳng khác gi các sĩ quan chỉ huy khác. Tuy nhiên, các chàng tân binh nhận thấy ngay rằng, đối với ông việc kiểm duyệt binh lính chẳng có gì là thú vị cả. Sau một bài phát biểu ngắn, ông đã làm tổn thương lòng nhiệt tình của những tân binh khi thúc giục họ: “Chúa trả công cho sự cầu xin của các bạn còn Sa hoàng thì trả công cho sự phục vụ của các bạn”. Trước khi các chàng tân binh được điều về Trung đoàn kỵ binh dự bị số" 5, họ còn được gặp vị Đại đội trưởng một vài lần và lần nào ông ta cũng có vẻ đang say rượu. Vì là lính của Trung đội dự bị số 189, họ không bao giờ được nhìn thấy ông trong thời gian huấn luyện. Tháng 9 năm 1915, Zhukov được điều đến một trung đoàn mới đóng tại thị trấn Balakleya, tinh Kharkov ở Ukraina. Họ di vòng qua thị trấn và tới ga Savintsy, nơi tập hợp những binh sĩ được điều dộng cho Sư đoàn kỵ binh số 10. Lần đầu tiên, họ được gặp những sĩ quan kỵ binh mặc quân phục rất sáng sủa. Mỗi loại quân phục khác nhau cho biết họ thuộc lực lượng Hussars, Uhlans hay Dragoons1. Nhóm của chúng tôi, hầu hết đến từ Mátxcơva, và một vài người đến từ tỉnh Voronezh, phía Nam thủ đô được phân về Đại đội Dragoons. Chúng tôi rất thất vọng không chỉ vì không được phân về đội Hussars mà còn vì đội Hussars có quân phục chải chuốt hơn. Người ta nói với tôi rằng các hạ sĩ quan ở dó tử tế hơn. Mà trong quân đội Sa hoàng, toàn bộ cuộc sống của người lính phụ thuộc vào các chỉ huy của họ. Một ngày sau, họ được phát quân phục kỵ binh và các quân trang quân dụng kèm theo và được giao ngựa. Zhukov cưỡi một con ngựa cái màu xám đen hung dữ tên là Chashechneya. Mặc dù phục vụ trong lực lượng kỵ binh thì thú vị hơn trong lực lượng bộ binh, nhưng họ phải luyện tập vất vả hơn. Bên cạnh việc huấn luyện chung, lính kỵ binh phải học cách điều khiển ngựa và sử dụng vũ khí đeo cạnh sườn và chải lông ngựa ba lần một ngày. Họ bị đánh thức từ lúc 5 giờ sáng chứ không phải 6 giờ như lính bộ binh và phải tắt đèn đi ngủ sớm. Zhukov nói, công việc khó khăn nhất là luyện tập cách điều khiển ngựa và sử dụng kiếm, giáo. Nhiều anh lính bị phồng rộp tay chân và chảy cả máu nhưng vẫn bị chỉ huy trách mắng. Chúng tôi được lệnh phải lạc quan chịu đựng và chúng tôi đã cố gắng hết mức có thể tới tận khi chúng tôi có thể ngồi thẳng trên yên ngựa. Trung đội trưởng của chúng tôi, thượng sĩ Durakov (mặc dù tên anh có nghĩa là “ngốc nghếch”) là một người khá thông minh. Mặc dù yêu cầu đòi hỏi cao, nhưng anh rất công bằng và kín đáo. Tuy nhiên, tiểu đội trưởng của chúng tôi, hạ sĩ Borodavko lại là người trái ngược hẳn - một người hay quát tháo hăm dọa ầm ĩ, có thể chửi rủa bất cứ ai mà không có lý do gì cả. Những người lính cũ nói rằng, anh ta đã từng đấm vỡ răng binh sĩ nhiều lần. Anh ta đặc biệt đôi xử với chúng tôi tàn nhẫn khi huấn luyện chúng tôi cưỡi ngựa. ------------------------ 1. Ba loại kỵ binh trong quân đội Sa hoàng. Mùa xuân năm 1916, trung đội của chúng tôi đã thành một đơn vị kỵ binh được huấn luyện toàn diện. Binh sĩ nhận được thông báo là họ sẽ sớm nhận được lệnh hành quân, nhưng vẫn phải tiếp tục huấn luyện cho tới khi nhận được lệnh ra mặt trận. Các tân binh nhận nhiệm vụ chuẩn bị di chuyển đến các đơn vị ở làng khác. Khi Trung đội trưởng Durakov nghỉ phép ngắn hạn vì lý do gia đình, Borodavko đã lợi dụng mọi quyền hành có thể để đánh đập chúng tôi. Ban ngày, anh ta chửi mắng chúng tôi, đến khi chúng tôi không chịu đựng được nữa; anh ta đặc biệt thích mắng chửi những người sống và làm việc ở Mátxcơva, vì anh ta cho rằng những người này là những “con mọt sách” và quá tự mãn. Buổi tối, anh ta kiểm tra các lính khác, đánh đập tàn nhẫn những ai mà anh ta bắt được đang ngủ gật. Binh sĩ thực sự quá thất vọng. Một hôm, chúng tôi lôi anh ta vào một góc tối, trùm vải phủ lưng ngựa lên đầu anh ta và đánh anh ta đến khi anh ta bất tỉnh. Chúng tôi chắc chắn đã bị ra tòa án binh, nếu như trung đội trưởng tốt bụng của chúng tôi không quay lại, ỉm sự việc trên đi và sau dó chuyển Borodavko sang một sư đoàn kỵ binh khác. Khoảng 30 người giỏi nhất được lựa chọn tham gia khóa huấn luyện hạ sĩ quan và Zhukov là một trong số 30 người này. Anh nói, anh thực sự không thấy hào hứng lắm, nhưng Trung đội trưởng của anh, người mà anh rất kính trọng vì sự thông minh và cách xử sự thân thiện với binh sĩ, đã khuyên anh nên tham gia khóa huấn luyện này. Ông nói: “Cậu vẫn còn nhiều thời gian để ra mặt trận. Trước tiên, hãy học thêm cách trải nghiệm cuộc đời của một người lính một chút nữa. Tôi chắc chắn cậu sẽ trỏ thành một sĩ quan cừ đấy”. Sau một hồi suy nghĩ, ông nói tiếp: “Bởi vì tôi cũng chính là một người không quá vội vã quay lại mặt trận. Tôi đã ở lại đây một năm và học hỏi được rất nhiều điều. Thật là đáng tiếc cho những binh sĩ đã hy sinh một cách vô nghĩa. Đó là vì cái gì, tôi hỏi cậu đấy?” Ông không nói thêm gì nữa, nhưng Zhukov hiểu rằng điều sâu xa mà ông muốn nói chính là việc ông không muốn tiếp tục phục vụ trong quân đội hay thực sự là ông không ủng hộ chế độ Sa hoàng. “Tôi rất biết ơn ông vì đã cho lời khuyên và chấp nhận tham gia khóa huấn luyện ở thị trấn Isyum ở tỉnh Kharkov. Có khoảng 240 người đến từ nhiều đơn vị khác nhau”. Chúng tôi đóng quân tại một căn cứ riêng biệt và chương trình huấn luyện của chúng tôi bắt đầu ngay sau đó. Thật không may, chỉ huy của chúng tôi là người cực kỳ khắc nghiệt, còn tồi tệ hơn cả Borodavko. Tôi không thể nhớ được tên ông ta nữa, chỉ nhớ biệt danh của ông ta là “Bốn rưỡi” - bởi vì ông ta bị cụt một đốt tay ở ngón út tay phải. Điều này cũng không ngăn cản ông ta đấm gục binh lính. Không hiểu sao, ông ta ghét tôi hơn những người khác, nhưng cũng vì một số lý do nào đó mà ông ta không bao giờ đánh tôi. Nhưng ông ta luôn xét nét, mắng nhiếc tôi vì những chuyện nhỏ nhặt nhất và bắt tôi chịu mọi hình phạt có thể. Rõ ràng là sự tự tin, sức khỏe và tính mạnh dạn của Zhukov đã khiêu khích viên hạ sĩ quan xấu tính này. Zhukov bị giao thêm rất nhiều việc. Tôi cho rằng, tôi đã phải luyện tập nhiều hơn, làm công việc bếp núc và làm thêm nhiều việc vào ngày chủ nhật hơn bất kỳ ai khác. Tôi biết rằng, tất cả đều làm thất bại ý đồ của viên hạ sĩ quan quá xấu xa và đần độn đó. Mặt khác, tôi cảm thấy thích thú khi thấy hắn ta không thể tìm ra được lỗi nào của tôi trong suốt quá trình huấn luyện. Thây không thể vùi dập được tôi, hắn quyết y y g p q y định thay đối chiến thuật, có thể đơn giản chỉ là thay đổi bài huấn luyện mà tôi luôn thực hiện tốt hơn những người khác. Một hôm, “Bốn rưỡi” cho gọi Zhukov tới lều của hắn và nói: “Nghe đây, tôi thấy anh là người cứng cỏi, có giáo dục và tiếp thu nhanh. Anh là người Mátxcơva, một công nhân. Tại sao anh lại phải đổ mồ hôi trên thao trường hàng ngày như vậy? Anh sẽ là thư ký của tôi, làm các công việc liên quan đến giấy tờ, số sách và các việc tôi giao khác.” Zhukov nói với hắn rằng anh tham dự khóa huấn luyện này không phải để trở thành thằng sai vặt của ai đó mà để học lấy một nghề nghiệp thực thụ. Viên hạ sĩ quan đỏ mặt và đe dọa: “Được rồi! Mày sẽ không bao giờ trở thành một hạ sĩ quan đâu! Tao sẽ cho mày thấy điều đó!” Khoá huấn luyện kết thúc vào tháng 6 và các học viên sau đó phải vượt qua các bài kiểm tra. Theo quy định, người đứng đầu sẽ được xếp hạng là phó hạ sĩ quan (chuẩn bị thành hạ sĩ quan), còn những người khác chỉ được phong hạ sĩ. Các bạn đồng môn của Zhukov ai cũng nghĩ Zhukov sẽ đỗ đầu và nhất định sẽ được phong hạ sĩ quan và sẽ sớm trở thành một chỉ huy khi có chỗ thiếu. Nhưng tất cả mọi người đều rất bất ngờ khi hai tuần trước kỳ kiểm tra diễn ra, người ta thông báo trong một buổi điểm danh rằng, Zhukov không được thi vì đã vô kỷ luật và không phục tùng chỉ huy trực tiếp. Tất cả mọi người đều biết “Bốn rưỡi” chính là người trù dập Zhukov. Nhưng dường như không ai còn làm được gì nữa. Thế nhưng, một sự giúp đỡ đã đến với Zhukov, một sự giúp đỡ đầy bất ngờ. Một trong các học viên tên là Skorino, là một lính tình nguyện và không phải “đi nghĩa vụ” như chúng tôi, hóa ra lại là em trai một sĩ quan chỉ huy trong sư đoàn cũ của tôi. Mặc dù anh ta học rất kém và không thích quân đội, nhưng anh ta là một đồng đội vui vẻ, hòa đồng và cũng là người mà “Bôn rưỡi” rất nể sợ. Ngay lập tức, anh ta đã thông báo về việc của tôi lên chỉ huy của khóa huấn luyện. Dĩ nhiên, sự công bằng đã đến với tôi. Bị triệu tập đến gặp chỉ huy khóa huấn luyện này khiến Zhukov rất lo lắng bởi vì từ trước tới giờ ông chưa bao giờ được tiếp xúc với vị chỉ huy này. Tôi nghĩ thể là mình “hết đời” rồi, tôi sẽ bị kỷ luật thôi. Chúng tôi biết rất ít về chỉ huy khóa huấn luyện, chỉ biết rằng ông được thăng cấp vì lòng dũng cảm và đã được tặng thưởng nhiều Huân chương chữ thập Thánh George và các huy chương ở nhiều cấp khác nhau. Trước chiến tranh, ông là hạ sĩ quan nghĩa vụ trong đơn vị Kỵ binh Uhlan. Chúng tôi chỉ thấy ông một vài lần trong buổi điểm danh tối. Có người nói sức khỏe của ông không tốt sau khi bị thương. Zhukov hết sức bất ngờ vì trước mặt ông là một người đàn ông hòa nhã, thậm chí như Zhukov nói “có đôi mắt ấm áp, tốt bụng và một khuôn mặt cởi mở, chân thành”. - Cậu có vẻ không phải là một người may mắn - ông nói và ra hiệu cho Zhukov ngồi xuống. Còn ông thì vẫn đứng trong khi Zhukov vừa ngồi xuống vừa cảm thấy rất sợ hãi. - Ngồi xuống đi. Tôi không ăn thịt cậu đâu mà sợ. Tôi nghe nói là cậu là người Mátxcơva. - Vâng, thưa chỉ huy. Ông nói rất nhẹ nhàng: - Tôi cũng là một người Mátxcơva. Trước khi nhập ngũ, tôi là thợ đóng đồ mỹ nghệ, nhưng tôi đang bị mắc kẹt ở đây, trong quân đội - Sau một chút ngập ngừng, ông nói tiếp - Cậu có vẻ là một đối tượng đáng lưu ý. Họ nói rằng trong bốn tháng huấn luyện, cậu đã mắc 12 khuyết điểm và cậu đã nói xấu trung đội trưởng của cậu sau lưng. Sự thật có đúng như thế không? - Vâng, thưa chỉ huy - Zhukov đáp - nhưng thưa chỉ huy, tôi có thể báo cáo rằng, bất kỳ ai ở vào địa vị của tôi cũng sẽ hành động như thế. Zhukov thuật lại tất cả những gì đã xảy ra. Viên chỉ huy lắng nghe và ra lệnh cho Zhukov: - Quay về trung đội của cậu và chuẩn bị dự kỳ thi ngay. Zhukov rất cảm động. Mặc dù không phải là người xếp thứ nhất, nhưng anh cũng được xếp vào danh sách “các ứng cử viên” như những đồng đội khác. Nhớ về quãng thời gian đó, Zhukov nói rằng, khóa huấn luyện hạ sĩ quan trong quân đội chế độ cũ là một khóa huấn luyện rất tốt, đặc biệt là trong huấn luyện về đội ngũ, kỷ luật quân đội. Mỗi học viên sau khi tốt nghiệp đều trở thành những lính kỵ binh giỏi, thuần thục trong sử dụng vũ khí và giỏi về phương pháp chỉ huy. Ồng nói, không phải ngẫu nhiên mà sau Cách mạng nhiều hạ sĩ quan trong quân đội của Sa hoàng đều trở thành những chỉ huy quân sự giỏi trong quân đội mới. Trong công tác huấn luyện chung, rèn luyện kỷ luật quân đội là quan trọng nhất. Nhưng Zhukov cũng nhấn mạnh một điểu là các hạ sĩ quan tương lai không được dạy bảo về “cách đối nhân xử thế". Kỷ luật được xây dựng trên cơ sở duy trì sự đối xử tàn bạo. Mặc dù theo quy định, không được dùng nhục hình đối với chiến sĩ, nhưng điều này vẫn xảy ra “như cơm bữa”. Zhukov nói, đặc điểm nổi bật của quân đội Sa hoàng cũ chính là sự phân biệt, xa cách hoàn toàn giữa các chiến sĩ và các cấp sĩ quan chỉ huy. Tuy nhiên, trong giai đoạn chiến tranh, đặc biệt là năm 1916 và đầu năm 1917, sau những tốn thất hết sức nặng nề, hàng ngũ sĩ quan chỉ huy được bổ sung thêm các thành phần là lao động, trí thức, công nhân nhà máy và các nông dân có học, vì vậy trong quân đội các đơn vị tối các tiểu đoàn, sự phân chia sâu sắc đó phần nào được giảm bớt. Nhưng các tướng lĩnh và các sĩ quan cấp cao khác vẫn không gần gũi với các binh sĩ và không hiểu được các binh sĩ sống và suy nghĩ như thể nào. Chính tình trạng này và sự yếu kém trong các chiến thuật là nguyên nhân khiến cho hầu hết các tướng lĩnh và các sĩ quan cao cấp khác - chỉ trừ một vài người - không có uy tín đối với các binh sĩ. Trái lại, đặc biệt gần cuối thời kỳ chiến tranh kết thúc, trong hàng ngũ sĩ quan chỉ huy cấp thấp hơn, nhiều người đã gần gũi về tinh thần và tình cảm đối với binh sĩ. Những người này, như Zhukov nói, là “người được binh sĩ yêu quí, tin tưởng và sẵn sàng tuân theo trong mọi việc dù lớn hay nhỏ”. Zhukov nhận thấy, chỗ dựa của quân đội cũ chính là hàng ngũ hạ sĩ quan, những người được huấn luyện và gắn kết đông đảo binh lính lại với nhau. “Nhiều năm thực tiễn trong quân đội của tôi đã minh chứng rằng, cứ ở đâu mà cán bộ chỉ huy thiếu lòng tin vào các hạ sĩ quan, tiếp tục giữ lề thói quan cách với cấp dưới, thì họ sẽ không bao giờ có một hàng ngũ hạ sĩ quan thực thụ và những đơn vị chiến đấu thực sự thiện chiến. Vào đầu tháng 8, trung đoàn có lệnh phân công các học viên vừa tốt nghiệp khóa huấn luyện về đại đội chiến đấu. 15 người được điều thẳng về Sư đoàn Kỵ binh số 10 chiến đấu ngoài mặt trận. Zhukov đứng thứ hai trong danh sách và chảng lấy làm ngạc nhiên vì anh thừa biết ai đứng đằng sau quyết định này. Khi danh sách này được thông báo công khai, “Bốn rưỡi” cười sung sướng, tỏ vẻ như số phận mỗi người chúng tôi đều phụ thuộc vào ông ta. Những người ra trận được đãi một bữa ăn chia tay đặc biệt và nhận lệnh chuẩn bị lên đường. Ba lô nặng trĩu trên vai, mọi người tập trung và hai tiếng sau lên đường tới Kharkov. Đó là một chuyên đi dài, phải chờ hàng giờ ở các ngã tư đường, khi có các sư đoàn kỵ binh hành quân qua ra mặt trận. Các đoàn tàu quân y từ mặt trận về cũng phải chuyển hướng nhường đường cho các đoàn tàu đưa quân ra mặt trận. “Những người bị thương cung cấp cho chúng tôi rất nhiều thông tin. Chúng tôi biết được rất nhiều chuyện, như quân đội của chúng tôi được trang bị rất nghèo nàn, rằng các tướng lĩnh thì có rất nhiều lời đồn đại xấu và có tin đồn lan truyền rộng rãi trong đám lính là ở Bộ Tham mưu tối cao có người bị bọn Đức mua chuộc đã phản bội. Họ cũng kể quân lương thì rất tồi tệ. Tâm lý đè nặng lên chúng tôi, chúng tôi im lặng cất bước trong tâm trạng buồn bã”. Chúng tôi đến ga một vài tiếng sau đó, được bổ sung vào Trung đoàn Kỵ binh Hussars số 10 và khoảng 100 ngựa chiến của Trung đoàn Kỵ binh Dragoons số 10 cũng xuống đây cùng với nhiều quân trang, quân dụng cần thiết khác. Mọi người vừa xuống tàu hết thì chuông báo động vang lên. Mọi người nhanh chóng tìm chỗ ẩn nấp khi một máy bay do thám của địch lượn trên đầu chúng tôi hai vòng, ném một vài quả bom nhỏ và biến mất về phía Tây. Một người lính thiệt mạng và năm con ngựa bị thương. Đó là lần đầu tiên Zhukov phải đối mặt với bom đạn. Binh lính nhanh chóng tập hợp thành hàng ngũ tiến về bờ sông Dniester, nơi đóng quân của sư đoàn, là lực lượng dự bị của Phương diện quân Tây Nam. Khi tới nơi, mọi người nhận được tin Rumani đã tuyên chiến với Đức và sẽ chiến đấu bên cạnh quân Nga chống lại Đức. Tin tức về việc sư đoàn của họ sẽ ra chiến đấu trực tiếp ở mặt trận lan khắp nơi. Đầu tháng 9, sư đoàn của Zhukov hành quân tới vùng rừng núi Bystritsa, trực tiếp giáp chiến với quân địch, nhưng hầu như mọi người phải chiến đấu như lính bộ binh do điều kiện địa hình ở đây rất khó triển khai tấn công bằng kỵ binh được. Các kỵ binh càng ngày càng nhận được nhiều tin dáng lo ngại. Quân đội Nga bị tổn thất rất nặng nề. Trên thực tế, quân đội không còn khả năng tấn công nữa và quân địch đã kiểm soát toàn mặt trận. Quân Rumani cũng gặp rất nhiều khó khăn. Họ chưa được huấn luyện kỹ càng và trang bị nghèo nàn nên khi tham chiến họ đã bị thiệt hại ngay ở những cuộc giao tranh đầu tiên với quân Đức và Áo. Sự bất mãn trong các tầng lớp binh sĩ ngày càng tăng, nhất là sau khi họ nhận được những tin tức về nạn đói và tình trạng mất ổn định ở quê hương. Tình trạng này, họ cũng được chứng kiến ở ngay các làng gần sát mặt trận ở Ukraina, Bukovina và Moldavia. Dưới chế độ Sa hoàng, sự liều lĩnh, táo bạo của Sa hoàng đã đẩy họ vào cuộc chiến tranh đẫm máu, tới mức kiệt quệ. Những người lính cảm thấy họ đã hy sinh quá vô nghĩa. Tháng 10 năm 1916, Zhukov gặp phải một điều không may. Trong khi đi trinh sát, hai đồng đội đã trúng mìn bị thương nặng còn ông bị sức ép của quả mìn hất tung khỏi yên ngựa và bất tỉnh. Ồng phải vào viện quân y nằm 24 tiếng, nhưng do chấn động về thần kinh, ông được chuyển về Kharkov điều trị. Zhukov bị chấn thương nặng nên vẫn rất yếu và mắc chứng nghe không rõ, điểu này vẫn tiếp tục hành hạ ông quãng thời gian một phần tư thế kỷ sau, khi ông chiến đấu chống bọn Đức Quốc xã. Khi xuất viện, Zhukov được các bác sĩ quân y cho phép tới chiến đấu ở một đại đội và gặp lại một số người bạn của mình. Ông cảm thấy rất vui. Zhukov rời đơn vị khi còn là một chàng lính trẻ. Giờ đây, khi trở lại anh lính đó đã mang quân hàm một hạ sĩ quan có kinh nghiệm chiến đấu và được trao tặng hai Huân chương Thánh George chữ thập vì đã bị thương trong chiến đấu và bắt được một sĩ quan Đức1. ----------------- 1. Những sự kiện xảy ra trong những năm đầu của cuộc đời Zhukov và trong những năm đầu trong quăn đội phần lớn dựa vào những hồi ký của Nguyên soái đã được một đồng đội của ông là Nguyên soái A.M.Vasilevsky ghi lại giới thiệu năm 1977 cùng với những cuộc phỏng vấn các con gái của Zhukov. CHƯƠNG 3 CHẾ ĐỘ MỚI Sau Cách mạng Tháng Mười, Zhukov ra nhập Hồng quân (1918) và phục vụ trong quân đội mới trong suốt thời nội chiến với cấp bậc sĩ quan kỵ binh. Ông bị thương năm 1919 và được thưởng Huân chương Cờ đỏ hạng nhất. Sổ khen thưởng hàng năm Gần cuối năm 1916, tin tức về các cuộc đình công xảy ra liên tục trong các nhà máy ở St Petersburg, Mátxcơva và nhiều nơi khác lan truyền trong binh sĩ ngoài mặt trận. Nói chuyện với binh lính, Georgi có cảm nhận nhiệt tình được ra trận chiến đấu của họ hầu như đã tan biến, trong tâm trí họ bây giờ chỉ còn nỗi nhớ gia đình, công việc đồng áng và mong ước được trở về cuộc sông bình yên. Lúc bấy giờ, công tác tuyên truyền của những người Bônsêvích lan rộng trong binh lính, khiến họ ngày càng đồng tình với tư tương chống chế độ Sa hoàng, chống chiến tranh và đòi chia ruộng đất cho nông dân. Nhưng những người lính đó có thể bị bắt, thậm chí phải chịu những hình phạt tồi tệ hơn, nếu họ hào hứng VỚI những tư tưởng chống đối ấy. Lúc này, Zhukov đã trở thành một hạ sĩ quan và được cấp dưới tin tưởng. Họ thường xuyên có các cuộc tranh luận cá nhân về các vấn đề chính trị, dù Zhukov luôn tự nhận là người “vẫn còn rất ngây thơ về chính trị”. Tuy nhiên, càng ngày ông càng nhận thức được rằng, sự thay đối chế độ chính trị do Đảng cách mạng mới chủ trương có thể đem lại điều mà nước Nga mong muốn là nền hòa bình và sự ổn định. Ông nói: “Tôi đã cố gắng hết sức để những binh lính dưới quyền tôi nhận thức được sâu sắc tư tương này và tôi đã được họ tán thưởng”. Sau đây là những gì đã diễn ra: Tảng sáng ngày 27 tháng 2 năm 1917, đại đội kỵ binh của Zhukov được báo động. Mọi người tập hợp gần lều chỉ huy của Đại đội trưởng, đại uý Baron von der Goltz. Không ai biết chuyện gì sắp xảy ra. Zhukov hỏi Trung đội trưởng, trung uý Kievsky: - Thưa trung uý, chúng ta sẽ đi đâu? Kievsky trả lời Zhukov bằng một câu hỏi: - Anh nghĩ chúng ta sẽ đi đâu? Zhukov đáp, những người lính cần phải được thông báo họ sẽ đi đâu và hơn nữa họ đã được phát súng đạn thật. - À, cũng có thề phải sử dụng đến súng đạn. Đúng lúc đó, đại uý Von der Goltz xuất hiện. Mặc dù là một người lính dũng cảm, từng được ban thưởng kiếm vàng, được nhận Huân chương chiến sĩ Thánh George và nhiều huân huy chương quân công khác, nhưng đôi với Zhukov và nhiều chiến sĩ khác, anh ta vẫn là một người đáng ghét, hà khắc với những chiến sĩ mà anh ta không ưa và những người sợ anh ta. Viên đại úy hoan nghênh toàn trung đội, nhập vào đội hình ba hàng sát nhau và dẫn đầu đoàn quân tiến nhanh về phía sở chỉ huy của Trung đoàn Kỵ binh dự bị số 5 ở Balakleya. Tới nơi, chúng tôi thấy các đội Dragoons và Hussars đã dàn quân. Mọi người nhanh chóng nhập vào đội hình; thêm một số đại đội khác cũng phi nước kiệu tới. Tất cả tập hợp ở đây cho tới tận khi trời tối chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra. Mọi việc nhanh chóng sáng tỏ. Từ một góc phố xuất hiện một đoàn biểu tình giương cao những băng rôn đỏ. Viên Đại đội trưởng thúc ngựa, các đại đội trương khác phi nước đại theo sau, nhằm thẳng hướng sở chỉ huy trung đoàn, một nhóm quân nhân và công nhân nhà máy đi ra cũng từ đó đi ra. Với giọng sang sảng, một lính kỵ binh cao lớn diễn thuyết trước đoàn quân rằng, giai cấp công nhân, nông dân và binh lính không còn thừa nhận Sa hoàng Nicolai Đệ nhị, tầng lóp bóc lột và bọn chủ đất giàu có nữa. Anh ta nói, nhân dân Nga muốn chấm dứt cuộc chiến tranh thế giới chết chóc, họ muốn hòa bình, ruộng đất và tự do. Anh ta kết thúc bài diễn văn ngắn bằng cách hô vang khẩu hiệu: “Đả đảo chế độ Sa hoàng và chiến tranh! Hoà bình cho các dân tộc muôn năm! Xô viết, đại diện của Công - Nông - Binh muôn năm! Hoan hô!”. Mặc dù không có khẩu lệnh, nhưng những người lính cùng hô to và reo mừng, rồi hòa vào đoàn biểu tình. Sau đó, Zhukov mới biết rằng Von der Goltz và một vài sĩ quan khác đã bị ủy ban binh sĩ bắt giữ. Ngay lập tức, binh lính được lệnh trở lại doanh trại và chờ chỉ thị mới của ủy ban, đứng đầu ủy ban là một người Bônsêvích tên là Yakovlev. Sáng hôm sau, một sĩ quan đến lệnh cho các chiến sĩ phải cử đại diện của họ tham gia vào Xô viết Trung đoàn và bầu ủy ban binh sĩ đại đội. Zhukov được mọi người nhất trí bầu làm Chú tịch ủy ban. Trung úy Kievsky, Zhukov và một người lính ở Đại đội 1 được chọn làm đại biểu của Xô viết Trung đoàn. Vào tháng 5, sau khi Yakovlev chuyển đi nơi khác, những kẻ phe Xã hội Cách mạng và bọn Mensêvích thao túng phe Xô viết, quay lại ủng hộ cho Chính phủ lâm thời đang muốn theo đuổi cuộc chiến. Kết quả là, đến đầu mùa thu năm 1917, một số đơn vị kỵ binh đã đứng về phe Petlyura phản cách mạng ở Ukraina. Trong khi đó, ủy ban binh sĩ đại đội giải tán đơn vị kỵ binh của Zhukov - chủ yếu gồm những người đến từ Mátxcơva và Kaluga. Các binh sĩ được cấp giấy chứng nhận giải ngũ, nhưng họ vẫn được khuyên là nên giữ súng và đạn. Sau đó mới biết, đội bảo vệ đường gần Kharkov đã tịch thu vũ khí của hầu hết binh sĩ này. Zhukov đã phải trốn mấy tuần tại một số ngôi làng vì đám sĩ quan chay theo bọn dân tộc chủ nghĩa Ukraina đang săn lùng ông. Ngày 30 tháng 11 năm 1917, Zhukov quay trở lại Mátxcơva, nơi chính quyên đã nằm gọn trong tay những người Bônsêvích từ tháng 10. Zhukov ở nhà với gia đình suốt tháng 12 và tháng Giêng. Sau thời gian nghỉ ngơi, Zhukov quyết định ra nhập đội Cận vệ Đỏ. Tuy nhiên, đầu tháng 2, ông mắc bệnh sốt phát ban (sốt Rickettsia) và tháng 4 bị sốt trở lại. Vì vậy, ông đã không thể gia nhập Hồng quân ngay mà mãi sáu tháng sau, ông mới được đứng trong hàng ngũ của Trung đoàn số 4 thuộc Sư đoàn kỵ binh Mátxcơva số l1. Thời gian đó, Chính quyển Xô viết non trẻ phải đối mặt với một nhiệm vụ dầy khó khăn: giải thể quân đội cũ, đồng thời thành lập quân đội mới, quân đội của những người công nhân và nông dân. Quyền lãnh đạo quân đội mới do các Ủy ban binh sĩ nắm. Binh sĩ có quyền bình đẳng và tất cả các cấp chỉ huy, từ cấp trung đoàn trở xuống do tập thể toàn binh sĩ họp bầu ra. Nhiều sĩ quan và chiến sĩ của quân đội Sa hoàng đi theo chính quyên Xô viết và trở thành những người chỉ huy xuất sắc của Hồng quân. Những đơn vị Hồng quân đầu tiên được thành lập vào tháng Giêng năm 1918. Để được ra nhập, mỗi người tình nguyện phải trình giấy giới thiệu của các ủy ban quân sự, tổ chức Đảng hoặc các tổ chức quần chúng ủng hộ chính quyển Xô viết; Trong trường hợp ra nhập tình nguyện theo nhóm thì phái có giấy giới thiệu tập thể. Mỗi chiến sĩ Hồng quân được nhận 50 rúp một tháng. Sau này, từ giữa năm 1918, tăng lên là 150 rúp đối với các chiến sĩ chưa lập gia đình và 250 rúp đối với người đã lập gia đình. Zhukov cho biết, đến mùa xuân năm 1918, lực lượng Hồng quân đã lên tới gần 200.000 người. Nhưng sau đó, số lượng chiến sĩ tình nguyện bắt đầu giảm xuống. Trong bối cảnh đó, Ban chấp hành Trung ương Đảng toàn Nga đã thông qua sắc lệnh quy định việc huấn luyện quân sự trên toàn quốc, theo đó, đàn ông trong độ tuổi lao động từ 18 đến 40 có nghĩa vụ phải hoàn thành một khóa huấn luyện quân sự 96 giờ mà không phải rời bỏ công việc, đăng ký là lính dự bị và gia nhập Hồng quân ngay khi Chính phủ kêu gọi. Trong khi đó, Đảng Cộng sản cũng chỉ thị cho mọi đảng viên phải ngay lập tức tham gia huấn luyện quân sự. Việc bầu các cấp chỉ huy được bãi bỏ. Cấp chỉ huy do cơ quan quân đội lựa chọn và quyết định trong số các ứng cử viên đã qua huấn luyện quân sự hoặc những người xuất sắc qua chiến đấu. Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ V đã thông qua nghị quyết thành lập Hồng quân và nhấn mạnh sự cần thiết về quyền tập trung lãnh đạo của quân đội và đề cao vai trò quan trọng của “chế độ kỷ luật thép có tính cách mạng” đối với binh sĩ. Nhờ vào những hành động trên, khi Zhukov gia nhập Hồng quân, lực lượng Hồng quân đã lên tới con số trên nửa triệu người. ----------------- 1. Năm 1917, các đơn vị công nhân vũ trang đi theo cách mạng được gọi là các Đội Cận vệ Đỏ. Người Bônsêvích bắt đầu huấn luyện các Đội Cận vệ trong một thời gian ngắn, trước khi Cuộc cách mạnh tháng 10 năm 1917 nổ ra (theo lịch củ). Đáng Cộng sản gây ảnh hưởng rộng rãi à ngoài mặt trận, trong các đơn vị nơi tiền tuyến và vùng biển Baltic. Trong và sau Cách mạng, các Đội Cận vệ Đỏ do các chi khu quân sự của ủy ban Trung ương Đảng thống nhất và lãnh đạo. Ngay sau Cách mạng, Zhukov, giờ đã là một sĩ quan trong lực lượng quân đội của chế độ mới, nhận được lá thư của một người bạn thời thơ ấu có cùng tên họ là Pavel Zhukov. Lá thư này sẽ giúp chúng ta hình dung toàn cảnh về thời kỳ hỗn loạn và đầy ác liệt này. Bạn Georgi thân mến, Kể từ khi cậu gia nhập Hồng quân, gần như tất cả bạn bè và người thân quen của chúng minh đều được gọi nhập ngũ. Một lần nữa, mình lại không may mắn. Thay vì được điều về đơn vị trực tiếp chiến đấu, mình phải tới tỉnh Voronezh phục vụ trong đơn vị quân lương đặc biệt có nhiệm vụ tịch thu gạo của bọn phú nông giàu có. Dĩ nhiên, nhiệm vụ này cũng rất cấn thiết, nhưng minh là một người lính; mình biết chiến đấu như thế nào và mình coi nhiệm vụ của minh ở đây ai chưa ra chiến trận cũng có thể làm được. Nhưng điểu này không phải là những gì mà minh muốn viết cho cậu. Cậu còn nhớ những cuộc tranh luận và bất đồng giữa chúng minh về bọn Cách mạng Xã hội hay không? Khi đó, minh coi chúng là những người bạn của nhân dân, những người đã chiến đấu chống lại chế độ Sa hoàng vi quyền lợi của các dàn tộc và cũng như của người nông dân. Bây giờ thì mình đồng ý với cậu. Chúng là những tên côn đồ. Chúng không phải là những người bạn của nhân dân mà là băng đảng cướp bóc và chống chính quyền Xô viết. Vào một ngày nọ, bọn phú nông địa phương do một tên Cách mạng xã hội cầm đầu phục kích đội vệ binh đoàn xe ngựa chở lương thực và đã tấn công đội áp tải này rất dã man. Chúng đã giết người bạn thân nhất của minh là Kolya Gavrrilov, cậu ấy đến từ một vùng nào đó gần Maloyaroslavets. Chúng móc mắt một người bạn khác của minh là Semyon Ivanishin, chặt tay trái và bỏ cậu ấy trên đường. Cậu ấy ở trong tinh trạng thật tồi tệ, bị hoại tử và gần như là đã chết. Thật đáng xấu hổ. Cậu ấy là một anh chàng đẹp trai và là một tay khiêu vũ giỏi. Đơn vị của chúng minh thề sẽ trả thù bọn ác ôn đó và bắt chúng phải nhận những gì chúng đáng phải nhận, khiến chúng không thể quên cho tới tận cuối đời. Bạn của cậu Pavel Một thời gian dài kể từ khi nhận được lá thư này, Zhukov không nhận được tin tức gì về người bạn Pavel. Mãi đến năm 1922, ông mới biết Pavel đã bị bọn phú nông giàu giết hại ở một nơi nào đó tại tỉnh Tambov. Về bọn phú nông Nga: theo báo chí Xô viết, đó là những kẻ có tư tưởng hiếu chiến, dã man so với đông đảo những người nông dân Nga nghèo khổ. Ví dụ, một bức tranh nối tiếng năm 1930 của họa sĩ Sergei Ivanov vẽ cảnh một nắm đấm thẳng vào một tên phú nông to béo, vẻ mặt càu cau với những câu nói cực kỳ mỉa mai của Lênin ghi bên dưới: “Phú nông là bọn người bóc lột cục súc, thô lỗ và man rợ nhất. Đã hơn một lần trong lịch sử các quốc gia khác, chúng đã bảo vệ quyền sở hữu đất đai, sự hậu thuẫn của Sa hoàng và tha hóa giới tu sĩ”. Khoảng thời gian từ năm 1918 - 1922, Zhukov đã chứng kiến hàng loạt sự kiện trong cuộc Nội chiến đẫm máu ở Nga. Như ông viết, đất nước không chỉ bị phá hủy ở mọi mặt mà tình hình còn ngày càng trở nên trầm trọng hơn khi các vùng kinh tế quan trọng, có ý nghĩa sống còn bị quân can thiệp nước ngoài và lực lượng phản cách mạng Bạch vệ nắm giữ. Mùa xuân năm 1918, quân Đồng minh đổ bộ lên phía Bắc và vùng Viễn Đông. Quân Nhật và sau đó là quân Mỹ, Anh chiếm đóng Vladivostok. Tháng 5, quân Đồng minh kích động Quân đoàn Tiệp Khắc nổi dậy chống chính quyền Xô viết, tiến hành hàng loạt các hoạt động vũ trang nhằm vào lực lượng Hồng quân ở Urals, Siberia và khu vực sông Volga. Cùng lúc đó, bọn Bạch vệ tiếp tục gây chiến khắp nơi. Đôi bên giao tranh không phân định ranh giới rõ ràng. Bọn Bạch vệ tiến hành các hoạt động bắn giết và âm mưu ám sát những nhà lãnh đạo Xô viết, trong đó có cả Lênin. Wiliam Henry (Cuộc cách mạng Nga năm 1917 - 1921, New York, 1935) ước tính, Đội Cận vệ Đỏ tiêu diệt khoảng 50.000 tên Bạch vệ trong suốt ba năm nội chiến1. ------------------ 1. Trong cuốn Quân Bạch vệ ở Nga xuất bản ở New York, năm 1933, George Stewart đã miêu tả đặc điểm của bọn này, dựa trên các nguồn tài liệu chủ yến bằng tiếng Nga, đó là sự tàn bạo của chúng đối với người Bônsêvích ở nơi không có chúng sinh sống trước đây. Trong suốt cuộc Nội chiến, bọn này theo đuối chính sách chính trị đầy thiển cận mà không mang lại bất cứ quyền lợi gì cho những người có quan điểm trung lập, coi tất cả những người không thừa nhận bọn Bạch vệ đều là người Bônsêvich và đều bị xử tội chết. Nước Đức cũng tham chiến chống lại nước cộng hòa Xô viết cách mạng non trẻ, tàn phá các tỉnh ở vùng Baltic, Bolorussia (nay là Belarus) và Ukraina, thậm chí chiếm đóng cả Rostov-on-Don, phía Tây Nam Stalingrad (nay là Volgograd). Tuy nhiên, nước Đức đã thất bại trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất nên cuộc tấn công ngắn ngủi của quân Đức nhanh chóng bị đập tan, chấm dứt sự có mặt của quân Đức ở Nga. Rõ ràng, chế độ cách mạng mới lâm vào thể nghìn cân treo sợi tóc. Năm 1919, các mặt trận lên tới con số sáu với toàn bộ chiều dài giới tuyến là gần 8.000 km. Theo Zhukov, cuộc Nội chiến đã lên tới giai đoạn gay cấn nhất. Đến đầu năm 1919, Hồng quân có 42 sư đoàn bộ binh được trang bị súng trường, súng máy “Maxim”, súng lục ổ quay và lựu đạn. Lực lượng kỵ binh có 40.000 tay kiếm và 1.700 khẩu pháo. Hồng quân được tăng cường các đoàn tàu bọc thép, mỗi chiếc gồm một đầu tàu bọc thép, hai toa có mui chống đạn và hai toa trần bọc thép. Không quân chiến đấu có 450 máy bay, hải quân có 2 tàu chiến, 2 tàu tuần dương, 24 tàu khu trục, 6 tàu ngầm và hàng chục tàu thuyên các loại. Về phía bọn Bạch vệ, đến mùa xuân năm 1919, Đô đốc Kolchak, kẻ mang biệt danh “Người cầm quyền tối cao của nước Nga”, có 300.000 lính được trang bị vũ trang đầy đủ trong tay. Sau khi Mikhail Frunze trở thành chỉ huy Cụm các tập đoàn quân Xô viết ở phía Nam, tình hình cánh quân mới được cải thiện. Dưới đây là những điều mà Frunze, người anh hùng trong cuộc Nội chiến, đã viết trong hồi ký của ông về năm 1919: Các lực lượng của Kolchak đã tiến sát tới sông Volga. Chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn khi quyết giữ vững Orenburg lúc này đã bị bao vây từ ba phía. Quân tự vệ thành phố đã sẵn sàng rút lui. Bọn phản cách mạng Ural Côdắc đã chọc thủng phòng tuyến phía Nam Samara, đang tiến về phía Bắc, uy hiếp Samara và tuyến đường sắt Samara - Orenburg. Chúng tôi rút lui khỏi hầu hết các vị trí. Tôi cũng không thể nói là chúng tôi tự nhận là bên yếu hơn. Bởi vì bọn Bạch vệ giành thế chủ động, liên tiếp tấn công, làm chúng tôi nhụt chí, đẩy chúng tôi vào tình thế cực kỳ khó khăn. Để tiến hành một cuộc phản công đòi hỏi binh sĩ phải có ý chí quyết tâm cao, đồng thời phải có niềm tin tưởng tuyệt đối rằng chỉ có tấn công lại thì mới có thể thay đổi được tình thế. Lúc đó, chúng tôi không chỉ phải đương đầu với tình trạng tinh thần giảm sút, muốn rút lui, mà còn phải chịu áp lực từ cấp trên, Bộ Tư lệnh tối cao, cũng ủng hộ việc rút lui. Tuy nhiên, vượt lên tất cả những khó khăn này, chúng tôi vẫn tiến hành cuộc phản công. Đó chính là sự mở màn của một chiến dịch lẫy lừng tiên tới đánh bại hoàn toàn quân Kolchak. Zhukov đánh giá rất cao Frunze, ca ngợi tình cảm thân mật của ông đối với các chiến sĩ và Zhukov đã tự học hỏi được trong cuộc chiến tranh giữa Liên Xô và phát xít Đức. Zhukov kể: “Frunze dừng lại trên trận địa và nói chuyện với các chiến sĩ trong trung đoàn chúng tôi. Ông quan tâm tới đời sống tinh thần, lương thực và vũ khí của chiến sĩ. Ông hỏi han về những điều mà người thân viết cho chúng tôi. Ông muốn biết chúng tôi có đề xuất gì không. Thái độ thăng thắn, nhã nhặn và vẻ ngoài thân thiện của ông đã thu phục được tình cảm của chiến sĩ.” Zhukov cũng nhấn mạnh tinh thần lạc quan của Frunze: “Chẳng có gì là tồi tệ bây giờ cả”, Frunze nói với cả trung đoàn, “Bọn Bạch vệ Ural Côdắc đã bị đánh tan và chúng ta sẽ nhanh chóng kết thúc cuộc phản công. Chúng ta sẽ đánh bại bọn Côdắc, giải phóng Urals, Siberia và các vùng bị quân can thiệp và bọn Bạch vệ chiếm đóng. Lúc đó, chúng ta sẽ tái thiết đất nước!” Sau khi cánh quân Côdắc bị đánh bại và những đám tàn quân phải rút chạy vào vùng Siberia, quân Đồng minh đặt hy vọng vào tướng Denikin, với đội quân thường xuyên được phương Tây cung cấp súng đạn và lương thực. Theo Zhukov, vào mùa xuân năm 1919, bọn Bạch vệ vẫn còn lực lượng đông và nguy hiểm, tàu thuyền của quân Đồng minh chở hàng viện trợ cho bọn Bạch vệ khi quay về chật cứng lông thú, cá, gỗ và các sản vật quý hiếm của Nga. Năm 1919 đánh dấu một mốc quan trọng trong sự q g g nghiệp chính trị của Zhukov: ông gia nhập Đảng của những người theo Chủ nghĩa Lênin. Thời đó, không có giai đoạn đảng viên dự bị, có nghĩa là tư cách đáng viên không phải chỉ là hình thức và Zhukov thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ của người đảng viên. Sau đây là những gì mà ông viết về thời gian này: "Tôi đã quên rất nhiều điều, nhưng tôi sẽ nhớ mãi cái ngày tôi kết nạp vào Đảng Cộng sản. Kể từ ngày đó, tôi đã cố gắng hết sức hướng mọi suy nghĩ, nguyện vọng và hành dộng của mình đáp ứng yêu cầu của một đảng viên. Và khi chiến tranh nổ ra, tôi không quên nghĩa vụ của một đáng viên phải là tấm gương phục vụ quên mình vì nhân dân”. Trong các trận đánh liên tiếp gần cuối năm 1919, Zhukov bị thương khi một quả lựu đạn nổ, găm những mảnh đạn vào sườn và đùi trái. Tới bệnh viện, ông lại mắc bệnh sốt phát ban. "Tôi ra viện với một tình trạng tồi tệ và tôi phải mất một tháng nghỉ ngơi hồi phục sức khỏe”. Khoảng thời gian một tháng này Zhukov về sống với cha mẹ ở quê nhà. Dân làng ông nghèo khổ nhưng không mất chí khí. Những bần nông thành lập các ủy ban nông dân, tham gia vào việc tịch thu lúa gạo của bọn phú nông giàu có. Những người trung nông, bất chấp khó khăn và gian khổ ngoài mặt trận, ngày càng hiểu rõ và đi theo chế độ mới. Zhukov nói: "Trước khi tôi biết ủy ban này, kỳ nghỉ của tôi cũng kết thúc và tôi đã tới trình diện ủy ban quân sự địa phương, đề nghị họ phân tôi về lực lượng chiến đấu trực tiếp”. Tuy nhiên, do sức khỏe chưa hoàn toàn bình phục nên Zhukov được điểu tới Tiểu đoàn dự bị Tver và sau đó được cử đi học lớp cán bộ chỉ huy của Hồng quân. Khoá kỵ binh Ryazan đầu tiên ông tham dự diễn ra vào tháng Giêng năm 1920, dỏng trên khu đất cũ của một tên địa chủ. Học viên được tuyển lựa chủ yếu trong số lính ky binh có thành tích xuất sắc trong chiến đấu. Zhukov được giao làm tiểu dội trương Đại đội 1, với nhiệm vụ hướng dẫn các học viên sử dụng các vũ khí mang theo bên mình (giáo và kiếm), đâm lê, kỷ luật chiến đấu và rèn luyện thể lực. Đa số các học viên chưa qua quá trình giáo dục phổ thông, nhiều người hầu như không biết đọc, biết viết, nhưng “họ tin tưởng vào việc rèn luyện chăm chỉ, nhận thức được rằng họ phải học hỏi rất nhiều trong một thời gian ngắn đế trở thành những người chỉ huy xứng đáng”, Zhukov nhớ lại. Giữa tháng 7, Zhukov và các chiến sĩ được lệnh lên tàu, không biết đến đâu. Họ đi về hướng Mátxcơva và đóng quân tại doanh trại Lefortovo trong thành phố. “Chúng tôi được phát vũ khí, quân trang, quân phục và yên cương ngựa. Trang phục cho người và ngựa đều rất mới và trông rất đẹp”. Zhukov kể. “Đây cũng là một dịp để chúng tôi mơ mộng”, Zhukov kể: Tôi có rất nhiều bạn ở Mátxcơva và tôi muốn tới thăm họ trước khi ra mặt trận - đặc biệt là một cô gái, người yêu cũ của tôi. Nhưng thật không may, tôi không có cơ hội gặp được ai cả. Là một thượng sĩ, tôi thường xuyên phải đảm nhận trách nhiệm của đại đội trưởng khi anh ấy phải vắng mặt vì nhiều nhiệm vụ khác. Vì vậy, tôi đành phải viết thư cho những người quen. Có lẽ, đó là lý do Maria và tôi phải chia tay nhau và cô ấy sớm lập gia đình. Tôi không bao giờ gặp lại cô ấy nữa. Mùa hè năm đó, Hồng quân đã có hơn ba triệu người. Quân Đồng minh quyết định mở một cuộc phản công khác chống chính quyền Xô viết bằng đội quân của Baron Wrangel được tuyển mộ từ vùng Crimea. Lúc đó, trung đoàn của Zhukov đang đóng quân ở Krasnodar, phía Đông Crimea, gần Biển Đen. Lực lượng của Wrangel có khoảng 130.000 lính với 4.500 lính kỵ binh. Wrangle nhận được sự hậu thuẫn của tầng lớp phú nông, người Côdắc ở Kuban, g p p g g miền Nam nước Nga. Zhukov cho biết, lúc này, phần lớn người Côdắc ở Kuban nghĩ, bọn Bạch vệ và “Chính phủ tối cao” sẽ giành trợ cấp của quân Đồng minh cho họ. Các chính ủy Xô viết và các chiến sĩ “đã cố gắng hết sức mình” để thuyết phục những người Côdắc cần phải tiêu diệt bọn phản cách mạng càng nhanh càng tốt. Zhukov kể: “Chúng tôi đã giúp đỡ những người Côdắc nghèo khổ và các gia đình chiến sĩ Hồng quân bằng mọi cách có thể. Điều này rất quan trọng vì trước khi Hồng quân đến, bọn Bạch vệ thường cướp bóc đến mẩu bánh mỳ cuối cùng của họ và làm nhục họ bằng nhiều cách khác nhau.” Một tối, Chính ủy trung đoàn tới đại đội Zhukov và đề nghị mọi người dành vài ngày để sửa sang lại nhà cửa, kho thóc và giúp đõ công việc đồng áng cho các gia đình nghèo. Chúng tôi đều nhiệt tình tán thành. Chính ủy V.A Krylov, nhận nhiên vụ nặng nể nhất là dọn dẹp giếng công cộng, nơi bọn Bạch vệ đã đổ đầy rác rưởi xuống. Giếng khá sâu nên khi xuống tới đáy, ông suýt bị ngạt. Chúng tôi kéo ông lên, ông chỉ còn thở thoi thóp, nhưng ngay sau khi thở đều trở lại, ông lại ra lệnh cho chúng tôi thả ông xuống giếng. Vài phút sau, chúng tôi lại phải kéo ông lên một lần nữa. Và chúng tôi cứ tiếp tục thế cho đến khi mọi rác bẩn trong giếng được đưa ra. Tối đến, tinh thần dũng cảm của chính ủy đã trở thành chủ đề bàn tán của cả dân làng. Khi mọi công việc hoàn tất, những người dân Côdắc mời Zhukov và binh sĩ ăn một bữa tối. Vị Nguyên soái tương lai nhớ lại một câu chuyện vui. Một nhóm học viên được giao sửa kho thóc và chuồng ngựa cho một quả phụ Côdắc. Họ hoàn thành nhiệm vụ nhưng lại không phải cho người đàn bà goá đó mà lại đi làm cho một gia đình phú nông trùng tên. Mọi người phì cười còn các anh lính bị nhầm lẫn g g p thì buồn ra mặt. Zhukov cũng tham gia truy kích các nhóm Bạch vệ ở miền Nam nước Nga và Ukraine. Thời gian này. ông và ba người bạn được phân về Trung đoàn kỵ binh số 1 dưới quyền của một chi huy người Côdắc tên là Andreiev, ông nổi tiếng là một người gan dạ và dày dặn kinh nghiệm chiến trường. Bốn người tới trình diện ở Bộ chỉ huy, trình giấy tờ và được viên trung đoàn trưởng tiếp, nhưng ông quan sát và không hài lòng với loại quần ống túm họ đang mặc. Ông nói: - Lính của tôi không thích chỉ huy của họ mặc quần ống túm màu đỏ đâu. Nhưng, Zhukov nói, họ chẳng thể làm thế nào khác, vì các học viên như họ đều chỉ được phát mỗi loại quần như vậy, họ không có bất cứ loại nào khác, vẫn còn một chút ngờ vực, vị chỉ huy nói tiếp: - Chiến sĩ của tôi hầu hết là những người từng trải và chúng tôi không quan tâm nhiều tới lính mới. Sau những thắc mắc này, ông bắt đầu hỏi Zhukov và các bạn cùng đi những câu hỏi như: họ tên là gì, quê quán ở đâu, là đảng viên chưa, đã chiến dấu trận nào chưa, chiến đấu ở dâu. khi nào và nhiều câu hỏi khác. Ỏng ta dường như yên tâm hơn khi đã biết cả bốn người không phải là lính mới, không những thế hai trong số họ từng tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất. Zhukov có buổi gặp đầu tiên với các chiến sĩ của mình. Trong quan hộ với mọi người, thói quen giản dị và thẳng thắn của ông thế hiện rất rõ ràng. Trước tiên, Zhukov ra lệnh cho các chiến sĩ tập hợp cùng với ngựa để ông có thể làm quen với họ. Sau khi chào mọi người, ông nói: - Thưa các đồng chí! Tôi được chỉ định là chỉ huy của các đồng chí. Tôi là một chỉ huy hay dở thể nào, các đồng chí là những chiến sĩ hay dở thể nào rồi chúng ta sẽ biết. Còn bây giờ tôi muốn kiểm tra ngựa và quân trang của các đồng chí và làm quen với từng người. Trong khi kiểm tra, Zhukov để ý thấy, một số người liếc nhìn rất khó chịu với chiếc quần màu đỏ của ông. Vì vậy, ông đã giải thích: - Trung đoàn trưởng Andreiev cũng đã cảnh báo với tôi rằng, các đồng chí không thích quần bó đỏ. Nhưng tôi không có cái quần nào khác. Chính phủ phát cho tôi cái gì thì tôi mặc cái ấy và tôi thấy thoải mái khi mặc chúng. Còn về màu đỏ, như các đồng chí biết đấy, đó là màu của cách mạng, tượng trưng cho cuộc chiến tranh giành độc lập, tự do của giai cấp công nhân. Ngày hôm sau, ông mời cả trung đội tới lều của ông và hỏi binh lính của ông về bản thân họ. Ông nói, sáng kiến của ông không được hưởng ứng lắm. Xạ thủ súng máy Kasyanov nói: “Chúng tôi còn gì mà nói. Trong danh sách trung đội có mọi thông tin - chúng tôi là ai, như thể nào, quê quán ở đâu, có cả trong đấy cả.” Lúc đó, tôi kể cho họ nghe về tất cả những gì tôi biết về cuộc chiến chống lại bọn Bạch vệ và Wrangle ở Bắc Taurida. Các chiến sĩ chăm chú nghe và tỏ ra lo lắng muốn biết liệu quân Đồng minh có đổ bộ lần nữa không. Tôi nói, chính phủ các nước Đồng minh chắc chắn là muốn đem quân của họ vào đất nước ta lần nữa, nhưng chính nhân dân và binh lính các nước Đồng minh lại không muốn gây chiến với chúng ta. Vài ngày sau, Zhukov chỉ huy trung đội truy quét các nhóm tàn dư của bọn Bạch vệ dọc biển Đen. Quân địch bị tiêu diệt và bị bắt hết còn trung đội của Zhukov không bị bất cứ tổn thất nào. “Và quan trọng là: không ai còn để ý tới chiếc quần bó màu dỏ nữa”. Trong các cuộc chiến đấu chống lại các phiến quân phản cách mạng, Zhukov đã gặp nhiều nhà lãnh đạo xuất chúng của quân đội Xô viết như M.N. Tukhachevsky và I.P. Uborevich, mà ông đã đánh giá rất cao trong hồi ký của mình. (Hai nhà chỉ huy này cùng với một số người khác đã bị buộc tội phản bội trong cuộc Đại thanh trừng của Stalin cuối những năm 1930 và bị xử bắn). Zhukov đã tham gia hàng trăm trận đánh sinh tử năm 1921, chủ yếu là với bọn phản loạn của Antonov, lực lượng tấn công của hắn là các trung đoàn có từ 1.500 đến 3.000 tên. Nhiều trận đánh ác liệt với quân của Antonov nổ ra, đặc biệt là trận đánh hồi mùa xuân năm 1921 gần ngôi làng Vyazovaya Pochta, cách ga xe lửa Zherdevka không xa, còn mãi trong tâm trí của tôi. Sáng sớm, trung đoàn của tôi, cùng với một lữ đoàn, đã được lệnh báo động. Các trinh sát báo cáo, khoảng 3.000 lính kỵ binh của Antonov đã tập trung cách làng khoảng 10-15 km. Trung đoàn kỵ binh số 1 của tôi hành quân từ trong làng ra ở cánh trái và Trung đoàn kỵ binh số 2 tiến quân ở cánh phải. Đại đội của tôi có 04 tay súng máy và một khẩu pháo được lệnh di chuyển dọc đường quốc lộ, dẫn đầu. Đơn vị chúng tôi vừa mới đi được khoảng 5 km thì bất ngờ đụng một đơn vị của Anyonov gồm khoảng 250 tay kiếm. Chúng tôi nhanh chóng triển khai đội hình, quét súng máy rồi xông lên tấn công mặc dù quân địch đông hơn. Đòn tấn công nhanh trí của chúng tôi đã hạ gục đám quân của Antonov, chúng buộc phải rút lui với những tổn thất nặng nề. Trong lúc đánh giáp lá cà, một tên lính kỵ binh địch vẩy súng về phía Zhukov và bắn hạ con ngựa của ông. Zhukov kể lại: “Chúng tôi ngã xuống, con ngựa ghìm chặt tôi xuống đất, trong tích tắc, tôi có thể đã bị chém chết nêu không nhờ có Nochevka, chính trị viên của đơn vị, tới cứu. Anh vung kiếm, giết chết tên địch, nắm lấy cương ngựa của hắn và giúp tôi leo lên yên”. Họ nhanh chóng nhận ra rằng, một toán quân kỵ binh địch đang cố đánh vào sát sườn đội hình. Họ lập tức tập trung hỏa lực về phía đó và cử liên lạc đi báo cáo tình hình cho Trung đoàn trương. Khoảng 20 tới 30 phút sau, trung đoàn tiếp viện tới và giao chiến với địch. Trung đoàn số 2 vấp phải lực lượng địch ở phía Đông và buộc phải rút lui. Lợi dụng điều đó, một đơn vị của địch đã tấn công vào sườn chúng tôi. Chúng phải đương đầu với đại đội của Zhukov, lúc này đóng vai trò là lực lượng bảo vệ của Trung đoàn. Trận đánh diễn ra rất ác liệt. Quân địch nhận thấy chúng đang có lợi thể và tin chắc là có thể nghiềên nát được đại đội của Zhukov. Zhukov nói: “Nhưng nói thì luôn dễ hơn làm”. Đại đội chúng tôi có bốn súng máy với rất nhiều đạn và một khấu pháo 76 ly. Bằng cách di chuyến những vũ khí này từ vị trí này qua vị trí khác, chúng tôi nhằm thẳng vào những tên địch xông lên nhả đạn. Từ từ rút lui, chúng tôi thấy trên chiến trường đầy xác quân thù và ngựa của chúng. Tuy nhiên, chúng tôi cũng bị tổn thất lớn hơn. Tôi chứng kiến người bạn tốt của tôi, Trung đội trưởng Ukhach Ogorovich bị thương nặng và ngã khỏi yên ngựa. Anh là một chỉ huy giỏi và có học vấn. Bố anh, một đại tá quân đội dưới chế độ cũ, nhưng đã ủng hộ chính quyển Xô viết từ rất sớm, từng là một giảng viên chính tại các khóa đào tạo cán bộ chỉ huy ở Ryazan của chúng tôi. Trước khi bất tỉnh, Ukhack Ogorovich thì thào: - Hãy viết thư cho mẹ tôi. Đừng để tôi rơi vào tay bọn phiến loạn. Zhukov đặt những người bị thương cạnh những chiến sĩ đã chết lên xe chở súng máy và giá chở họ cùng về, không để bọn Bạch vệ hành hạ cơ thế họ. Cuộc phản công theo dự định của trung đoàn Zhukov không thực hiện được vì lớp băng mỏng khiến họ không thể vượt qua sông được và phải tiếp tục rút lui theo đường khác xa hơn. Tất cả đã về tới làng. Zhukov xông vào tấn công một toán Bạch vệ dang định cướp một khẩu súng máy. Lần thứ hai trong ngày, ngựa của ông bị bắn chết. “Với khẩu súng lục trong tay, tôi bắn những tên dịch đang cố bắt sống tôi. Chính trị viên Nochevka với sự hỗ trợ của Bryksin, Gorshkov và Kovalev một lần nữa lại xuất hiện cứu tôi.” Con số thương vong của đại đội của Zhukov ngày hôm đó là 10 người chết và 15 người bị thương. Hôm sau, ba người bị thương không thể qua khỏi, trong dó có Ukhach Ogorovich, người bạn thân thiết của ông. “Đó là một ngày khó khăn đối với chúng tôi. Chúng tôi hết sức đau buồn vì mất đi những người đồng đội. Chỉ một điểu duy nhất có thể xóa tan nỗi đau của chúng tôi là phải tiêu diệt hết bọn phản cách mạng dù chúng có đông đến mấy”. Sau đó, Zhukov được thương tấm Huân chương Xô viết đầu tiên. Hầu hết các chỉ huy, sĩ quan chính trị và nhiều chiến sĩ tham gia chiến dịch này được tặng thương huân chương và Zhukov là một người trong số họ. Dưới đây là nội dung của Quyết định khen thương ngày 31 tháng 8 năm 1921: Các đơn vị, cá nhân được tặng thướng Huân chương Sao đỏ là Đại đội trưởng đại đội số 2, Trung đoàn Kỵ binh số 1, Lữ đoàn Kỵ binh hỗn hợp, vì đã chỉ huy Đại đội đánh bại được lực lượng lớn kỵ binh địch với khoảng từ 1.500 tới 2.000 tên trong suốt 7 giờ chiến đấu tại làng Vyazovaya Poohta, tỉnh Tambov ngày 5 tháng 3 năm 1921 và sau đó chi huy sáu đợt phản công đánh giáp lá cà tiêu diệt các nhóm phiến loạn phản cách mạng. Zhukov nhớ lại một sự kiện kỳ lạ trong chiến dịch truy quét địch cuôi cùng vào cuối mùa hè năm 1921 như sau: Trong khi truy kích một nhóm phiến quân của Antonov, chúng tôi bất ngờ dụng đầu hai xe bọc thép lao ra từ một ngôi làng gần đó. Vì biết bọn phiến quân không có xe bọc thép, chúng tôi đã không bắn họ. Tuv nhiên, từ một vị trí rất thuận lợi, hai chiến xe bọc thép bỗng xả đạn vào chúng tôi. Điều gì xảy ra vậy? Chúng tôi cử các liên lạc viên tới đó. Hoá ra đó là các xe bọc thép của quân ta do đích thân Tư lệnh nối tiếng Uborevich ngồi trong chiếc dẫn đầu chỉ huy. Vì biết quân địch rút lui về phía khu rừng, ông đã quyết định đón lõng chúng. Điều tuyệt vời là chúng tôi đã làm rõ sự việc, nếu không đã có thảm họa. Đó là lần đầu tiên Zhukov gặp Uborevich. Sau này, vào những năm 1932-1937, họ còn gặp nhau nhiều lần khi Uborevich là Tư lệnh Quân khu Belorussia, còn Zhukov chỉ huy một sư đoàn kỵ binh. Trong hồi ký của mình, Zhukov có trích dẫn lời của g ý tướng Anh Knox, ông ta đã báo cáo Chính phú Anh trong thời kỳ Cách mạng Tháng Mười rằng, có thể nghiền nát một triệu lính Hồng quân, nhưng khi 150 triệu dân Nga ủng hộ Hồng quân và chống lại Bạch vệ, thì thật là phù phiếm nêu bỏ công của ra hậu thuẫn cho chế độ cũ. Zhukov đã dưa ra một vài số liệu thống kê về ảnh hưởng của Đảng trong quân đội như sau: Đến tháng 10 năm 1918, có khoảng 35.000 đảng viên phục vụ trong quân đội; một năm sau, con số này đã vào khoảng 120.000 và đến tháng 8 năm 1920 là 300.000, chiếm 50% tổng số đảng viên lúc bấy giờ. Mặc dù chịu rất nhiều tổn thất trong những năm 1918-1920, nhưng đến cuối năm 1920, lực lượng Hồng quân Xô viết có 5.500.000 người. Trong giai đoạn đó, khoảng 800.000 người hy sinh, bị thương hoặc mất tích và gần 1.400.000 người bị chết vì các bệnh hiểm nghèo do thiếu lương thực và quần áo, giầy dép, thuốc men và chăm sóc y tế khác. Chính sự hy sinh vô cùng cao cả của nhân dân Nga trong suốt thời kỳ hậu chiến cùng sự tập trung quyền lực tuyệt đối của quân đội với kỷ luật thép là nhân tố giúp họ giành chiến thắng. Bằng lòng nhiệt huyết của một chỉ huy quân đội, Zhukov đã nỗ lực hết mình khắc phục những thiếu hụt về trình độ giáo dục. Khi có cơ hội được tham dự các khóa huấn luyện nâng cao, ông đều nhiệt tình tham gia. Ví dụ, năm 1924. ông đã dự khóa học một năm tại Trường huấn luyện kỵ binh cao cấp ở Leningrad. Sau khi hoàn thành khóa huấn luyện, ông được đi phép ngắn ngày và về thăm quê. Mẹ ông tuổi đã cao nhưng vẫn phải làm việc rất vất vả. Chị ông có hai con nhưng nhìn già hơn tuổi. Tình hình rối loạn những năm hậu chiến và nạn đói năm 1921 - 1922 đã ảnh hưởng đến mọi người dân trong làng. Nhiều gia dinh đã mất trắng gia súc trong vụ mất mùa năm 1921. Zhukov cảm thấy thực sự đau lòng khi chứng kiến nơi chôn rau cắt rốn của mình thật quá nghèo nàn. Zhukov nhanh chóng trở thành người bạn của mấy đứa cháu. “Chúng thích lục lọi valy của tôi, lấy ra bất cứ thứ gì mà chúng thích”. Từ năm 1929 đến 1930, Zhukov tốt nghiệp thêm một khóa huấn luyện ở Mátxcơva dành cho các sĩ quan được quy hoạch làm chỉ huy các đơn vị lớn hơn. Trở về trung đoàn cũ, ông được cử làm chỉ huy một lữ đoàn thuộc Sư đoàn Kỵ binh Samara số 7. Dưới con mắt cấp trên, điều kiện để ông được lựa chọn do ông là một đảng viên lâu năm, bởi vì khi đó có nhiều sĩ quan từng phục vụ dưới chế độ Sa hoàng, nhưng do không xuất thân từ tầng lớp nông dân và không là đảng viên nên vẫn còn gây tâm lý nghi ngại. Năm 1931, Zhukov, ở tuổi 34, được đảm nhiệm chức Trợ lý Thanh tra lực lượng Kỵ binh của Hồng quân. Một số cấp dưới của ông tỏ ra vui mừng khi ông ra đi vì cho rằng ông “nghiêm khắc quá đáng và thô lỗ”. Nhưng một số nhà sử học đương đại như William J. Spahr lại cho rằng, tiếng tăm về sự quá nghiêm khắc của Zhukov có khi lại là một lợi thế của ông trong giai đoạn quân đội đang trong quá trình xây dựng. Chính Zhukov cũng hay đề cập đến vấn đề này, đôi khi ông thừa nhận mình có lỗi nhưng ông cũng đưa ra một giải thích. Ông viết trong hồi ký: “...Công việc đời hỏi phải luôn cẩn trọng của một người lính khiến tôi thường xuyên cảm thấy áp lực. Một số người đã không hiểu được rằng bản thân tôi rõ ràng không thể tránh được những khuyết điểm của một con người. Dĩ nhiên, bây giờ tôi nhận thức được rõ ràng những khuyết điểm này hơn và có nhiều kinh nghiệm để học hỏi hơn. Tuy nhiên, thậm chí đến bây giờ (vào năm 1968), tôi vẫn cho rằng, không ai có quyền được hưởng một cuộc sống hạnh phúc nhờ vào sự lao động của người khác. Điều này càng p g g y g đặc biệt quan trọng hơn đối với những người lính, những người sẽ phải ra chiến trận, những người coi thường sự hy sinh tính mạng, họ phải nhận thức được rằng, họ chính là những người tiên phong để bảo vệ Tố quốc”. Năm 1933, Sư đoàn Kỵ binh số 4 cần phải có một chỉ huy mới vì sư đoàn này được coi là có tinh thần chiến đấu rất thấp. Vị lãnh đạo huyền thoại thời Nội chiến S.M. Budenny đã chọn Geogri Zhukov cho cương vị đó. Chỉ trong hai năm dưới sự lãnh dạo của Zhukov. Sư đoàn Kỵ binh số 4 đã được thương một huân chương cao quý và trở thành một trong những sư đoàn xuất sắc trong toàn quân. Nhận xét chung nhất vế những năm trước chiến tranh. Zhukov nói rằng, chính kinh nghiệm đúc rút được từ cuộc Nội chiến và những nguyên tắc cơ bản được xây dựng từ thời dó được áp dụng thành công trong những năm 1930 và đầu những năm 1940 sau này. Suốt những năm 30. nước Nga đã chuẩn bị cho khả năng xảy ra chiến tranh với Đức Quốc xã. Nhưng trước khi tiến hành cuộc chiến tranh vĩ dại này, nước Nga còn phải dương đầu với những cuộc thanh lọc nội bộ cuối những năm 1930, hay còn được biết tới CHƯƠNG 4 CUỘC ĐẠI THANH TRỪNG Zhukov cay đắng nói về những tốn thất mà Stalin đã gảy ra cho đất nước khi sát hại những nhà lãnh đạo cao cấp nhất của quân đội, “Dĩ nhiên, đối với tôi, họ là những nạn nhản vô tội”. ANDREI GROMYKO, Hồi ký, Luân Đôn, 1989 Tháng 6 năm 1937, dư luận nhiều nước phương Tây xôn xao trước những sự kiện xảy ra ở đất nước Xô viết. Cũng giống như đa số người phương Đông và phương Tây ngày nay nói về sự đương đầu với các hoạt động khủng bố, hồi đó người ta bàn tán không ngớt về những tội ác của một chế độ chuyên chế. Thật bất hạnh, Mátxcơva thông báo, một nhóm sĩ quan quân đội cấp cao đã bị bắt giữ và buộc tội phản bội Tổ quốc, hoạt động gián điệp và âm mưu lật do chính quyền; có dấu hiệu cho thấy “âm mưu của quân đội phát xít” chống chế độ của Josef Stalin. Tham gia thực hiện âm mưu này ngoài Leon Trotsky với vai trò là kẻ kích động, xúi giục (sau đó, khi vừa phải sang Mexico sống lưu vong, ông ta bị một kẻ ám sát đánh chết bằng một chiếc cuốc chim) còn có những nhân vật trong Hồng quân Xô viết bị coi là đồng phạm với Trotsky, cá thế giới được biết có một âm mưu ám sát những nhà lãnh đạo ở điện Kremlin. Chắp ghép những thông tin có được, lại hóa ra là chính mật vụ Gestapo của Hitler đã thực hiện cú lừa lớn nhất thời đại này. Lợi dụng bệnh hoang tưởng hay đa nghi nổi tiếng của Stalin, Gestapo đã bố trí để một tài liệu giả rơi vào tay những quan chức cao cấp của Tiệp Khắc, trong đó “chứng minh” rằng một trong các nguyên soái nổi tiếng của Stalin là Mikhail Tukhachevsky đang âm mưu loại bỏ nhà lãnh đạo Xô viết với sự hậu thuẫn của nước Đức. Những người Tiệp Khắc đầy trách nhiệm đã gửi “tài liệu mật” này cho Kremlin; từ đây bắt đầu một cuộc thanh trừng đẫm máu tồi tệ trong Hồng quân. Stalin viện cớ chống “những kẻ thù của nhân dân” đang núp mình trong quân đội nên cần phải diệt trừ tận gốc. Theo cách nói của Stalin thì những kẻ này là những tên tay sai của Đức Quốc xã. Ông ta ám chỉ đến Hitler và các tướng tá của hắn vẫn nuôi ý đồ bóp nát Hồng quân Xô viết khiến họ không thể bảo vệ được đất nước; chúng hy vọng sẽ biến nước Nga thành một “Tây Ban Nha thứ hai”. Mặc dù các phiên tòa quân sự được tổ chức bí mật, nhưng Chính phủ và báo chí do Đảng kiểm soát tuyên bố rằng những sĩ quan bị bắt giữ đã nhận tiền vàng của Đức và Nhật; họ đưa ra tòa, bị kết án tử hình hoặc phạt tù. Sau những phiên tòa quân sự bí mật là một vài phiên tòa quan trọng được mở cửa cho công chúng và người nước ngoài, trong đó có các nhà ngoại giao. Tại những phiên tòa này có cả các lãnh đạo Đảng, giới công chức, ngoại giao và những người khác chứng kiến. Trong một phiên tòa “mở” như thế, người ta đã đưa ra bằng chứng khẳng định Stalin suýt chết trong hai lần ám sát vào năm 1933 và 1935. Liệu những cơ quan mật vụ của Stalin hay của Hitler có đứng đằng sau những âm mưu ám sát có thực hay hoang tưởng này? Theo một tài liệu chính thức của Chính phủ Anh, người đứng đầu lực lượng cảnh sát mật OGPU ở Grudia và hai lính biên phòng đã bắn vào tàu của Stalin trên Biển Đen khi ông đang đi kiểm tra dọc bờ biển mùa hè năm 1933. Âm mưu bị thất bại vì vận tốc của tàu và khoảng cách từ tàu vào bờ khá lớn. Âm mưu ám sát Stalin lần thứ hai bằng một khẩu súng tự động kiểu Đức tại nơi ông ta đang hưởng kỳ nghỉ thất bại do kẻ thực hiện đến muộn. Người ta tuyên bố, các bước thực hiện kế hoạch ám sát này là do Yuri Pyatakov, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nặng chỉ đạo. Ổng ta bị cáo buộc là đã nhận lệnh từ Trotsky đang sống lưu vong ở nước ngoài. Pyatakov sau đó bị buộc tội phản bội Tổ quốc và bị xử bắn. Nhà sử học và tiểu sử gia Dmitri Volkogonov khẳng định những âm mưu chống lại Stalin nói trên là bịa đặt: “Tôi hoàn toàn chắc chắn rằng, không hề có âm mưu hay ý đồ nào nhằm sát hại Stalin thời gian này. Không có cá nhân nào dám âm mưu sát hại ông ta cả”. Và ông cũng nói: “Nếu có thì đó phải là người Mỹ và chắc chắn Stalin đã “bị khử’ bởi vì người Mỹ không dung thứ một kẻ bạo chúa như Stalin... Nhưng thật dễ dàng cho Stalin lãnh đạo người Nga vì lúc đó Mỹ đang coi ông ta là vị Thánh trong khi ông ta lại đang hủy diệt hàng triệu người dân Nga”. Tuy nhiên, cũng không thể nói rằng, Stalin không có đối thủ; nhờ những cuộc thanh trừng trong những năm 1930, Stalin rõ ràng là đã gạt bỏ được những phần tử chống đối ở Nga, chưa tính đến những người ủng hộ Leon Trosky nhiệt thành1. ----------------- 1. Tác giả đã có cuộc phỏng vấn nhà sử học Dmitri Volkogonov năm 1991. Cuộc thanh lọc trong giới quân sự đã ảnh hưởng lớn đến an ninh của đất nước. Trong những người bị bắt giam ngoài Nguyên soái Tukhachevsky, người tiên phong trong việc tổ chức lại quân đội Xô viết, còn có Nguyên soái Vasily Blyukher, ngưòi anh hùng của cuộc Nội chiến, tự nguyện gia nhập lực lượng Hồng quân và Đảng Bônsêvích từ năm 1918 và I.P. Uborevich. một người dũng cảm mà Zhukov rất ngưỡng mộ và học hỏi được rất nhiều điểu. Bị đưa ra tòa án binh còn có nhiều sĩ quan cấp cao khác, tất cả đều bị buộc tội mưu phản. Chủ tịch Tiệp Khắc Kdvard Bones viết trong hồi ký rằng, ông đã được biết về “một bè lũ chống Stalin” liên quan tới Tukhachevsky và gửi những tài liệu chứng minh mà ông tin là xác thực cho Mátxcơva. Một Nguyên soái khác cũng bị buộc tội mưu phản là Jan Gamarnik. Người ta phát hiện thấy ông đã chết, rõ ràng là tự sát. Năm 1989. nhà su học quân sự Dmitri Volkogonov đã kê với tác gia rang, Gamarnik đã được yêu cầu giữ vai trò một trong những thấm phán tại phiên tòa xét xử Tukhachevsky, nhưng ông không thể nhận vì họ là bạn bè của nhau. Và ông cũng biết nếu từ chối tham gia “Bồi thẩm đoàn" ông sẽ bị bắn, vì vậy, Gamarnik đã chọn giải pháp duy nhất để phản đối là tự bắn mình. “Có khá nhiêu trường hợp tương tự như vậy - những sĩ quan đã chọn cách tự sát để thể hiện sự không đồng tình với Stalin. Volkogonov bổ sung. Một trong những vụ việc kỳ dị liên quan là trường hợp Trung tướng A.Y. Lapin, Tư lệnh Không quân vùng Viễn Đông. Được biết, ông đã tự sát trong tù sau khi bị bắt trong cuộc thanh trừng nàv. Theo tờ Times ở Luân Đôn, trước khi chết. Lapin đã viết một bức huyết thư và lén gửi ra ngoài. Bức thư viết: "Tôi đã khai nhận sai sự thật về những vấn đề mà tôi không hê biết và do luôn bị đe dọa dùng các biện pháp tra tấn mới nên tôi đã thừa nhận mọi điều mà người ta quy cho tôi. Tôi không phản bội cách mạng và không hề có bất cứ sự liên hệ nào với những phần tử như vậy dưới bất kỳ hình thức nào”. Phiên tòa xét xử những nhà chỉ huy quân sự kiệt xuất đó rõ ràng đã khiến Zhukov rất đau lòng, vì cá nhân ông biết một vài người trong số những người bị coi là “kẻ thù của nhân dân”. Mặc dù hầu như không đả động gì về các phiên tòa đó trong những bản hồi ký đầu, nhưng sau này ông nói tới nhiều hơn về những người bị thanh trừ, đặc biệt là Tukhachevsky và Uborevich. Ông đề cập tới khoảng 20 trường hợp. Một số nguyên lý cơ bản của chiến tranh mà Zhukov đã rút ra và áp dụng thành công trong chiến dịch có quy mô lớn ở Khalkin Gol, Mông Cổ chính là do Tukhachevsky vào một số người bị buộc tội có mưu đồ làm phản xây dựng lên. Chẳng hạn như: lực lượng thiết giáp phải tấn công độc lập; các chiến dịch phải được thực hiện có chiều sâu; hoạt động trinh sát, quân báo phải luôn được duy trì, có hiệu qua; hoạt động nghi binh và tấn công trước nhằm chiếm lợi thể phải được ưu tiên hàng đầu... Tất cả những điều này đã hình thành nên hạt nhân trong nghệ thuật quân sự của Zhukov. Nhưng trong bối cảnh “đâu đâu cũng thấy gián điệp” thời đó, Zhukov và hàng nghìn người như ông luôn bị thẩm tra về những mối quan hệ của họ với những người đã bị buộc nhiều tội khác nhau và đang bị cầm tù. Trên thực tế, hàng chục sĩ quan cấp cao mà Zhukov quen biết với tư cách cá nhân đã không thoát khỏi cảnh bắt giữ. Người ta ước tính, khoảng 45% sĩ quan cấp cao và sĩ quan chính trị trong lục quân và hải quân đã bị bắn hoặc cho giải ngũ. Trong khoảng 850 sĩ quan chỉ huy, từ cấp Đại tá tới Nguyên soái, có tới 85% bị thanh loại. Nhiều người sau này về sau được phục chức, như K.K. Rokossovsky. Ông bị tù 2 năm từ trước chiến tranh. Trong cuốn Những năm tháng đen tối trong cuộc đời tôi, tướng Gorbatov kể lại việc ông bị bắt giữ và hoàn cảnh đáng thương ở nơi lưu đày - Siberia trước khi được triệu hồi trở về nhận nhiệm vụ ra tiền tuyến chống bọn xâm lược Đức. Đặc biệt là, từ năm 1936 tới năm 1938 đã có tổng cộng 41.200 người bị “thanh lọc”. Các cuộc thanh trừng đã gây hậu quả nghiêm trọng, làm giảm sức chiến đấu của Hồng quân. Các tướng lĩnh Đức có nhận xét rằng, Hồng quân không phải là đối thủ của quân đội Quốc xã. Nhà sử học Richard Overy đã đưa ra một quan điểm thú vị. Theo ông, những lập luận cho rằng các cuộc thanh trừng đã làm suy yếu Hồng quân và Hải quân Xô viết dựa trên đánh giá quân đội Xô viết trước khi xảy ra cuộc thanh trừng có sức chiến đấu cao hơn là không đúng, vì có một khoảng cách lớn giữa lý thuyết và thực tế. Tính hiệu quả trong chỉ huy và kiểm soát của Hồng quân khi đó không cao; công tác huấn luyện, đào tạo kiến thức về quân sự trong sĩ quan và hạ sĩ quan ở mức thấp, chưa kể đến tình trạng sợ trách nhiệm, sợ bị đưa ra “tuyến đẩu” lan rộng trong Hồng quân1. ----------------- 1. Nhà sử học người Anh Jonathan Haslem đã viết rằng, những cuộc thanh trừng của Stalin lại tạo thuận lợi cho chính phủ nhiều nước phương Tây, những kẻ trước chiến tranh “theo hệ tư tưởng thù địch với những người Nga đi theo cách mạng” không có ý định trở thành đồng minh với Mátxcơva. (J. Haslem, Liên bang Xô viết và cuộc chiến đấu vì nền an ninh chung ở châu Âu, 1933 - 1939, New York, 1984.) Zhukov bị một ủy viên trong Hội đồng Quân sự của Quân khu Belorusia, Filipp Golikov, thẩm vấn ở Minsk. Zhukov có biết một số sĩ quan bị bắt từ trước, trong đó có Rokossovsky và Serdich, nhưng ông thẳng thắn nói rằng, cả hai đều là những người yêu nước và Đảng viên trung thành. Zhukov nhận thấy câu trả lời của ông không làm Golikov hài lòng. Golikov nêu ra hai điểm. Một là, có những báo cáo cho biết Zhukov đã đối xử rất khắt khe với chiến sĩ, thậm chí là thô bạo và không đánh giá đầy đủ tầm quan trọng của các chính trị viên. Đáp lại, Zhukov nói rằng ông chỉ gay gắt với những người bê trễ với nhiệm vụ. Hai là, có thông tin về việc vợ của Zhukov đã làm lễ rửa tội cho con gái thứ hai của họ là Ella. Zhukov bác bỏ điều này. Rõ ràng đó không phải là một cuộc thẩm vấn dễ chịu và Zhukov băn khoăn là liệu nó có gây trở ngại cho ông về khả năng trở thành Tư lệnh của Sư đoàn Kỵ binh số 3. Nhưng điểu đó không xảy ra. Và khi đảm nhận cương vị mới, Zhukov nhận thấy ngay, các đơn vị đang rất cần được tăng cường huấn luyện về chiến thuật quân sự lẫn giáo dục chính trị theo từng cấp tương ứng. Ông xác định đó là hậu quả của những cuộc thanh trừng, làm cho tinh thần và kỷ luật trong binh lính giảm sút. Những người chỉ huy bị coi là nghiêm khắc nhất luôn là mục tiêu của những kẻ mị dân, những kẻ cố gắng kết họ vào tội “kẻ thù của nhân dân”. Zhukov không phải là một người chịu sống thu mình, chấp nhận những điều phi lý mà luôn xông xáo. Nhưng ông cũng thừa nhận có sai sót trong nhiều trường hợp. Có lần, một sĩ quan cấp dưới yêu cầu ông giúp đỡ vì anh ta cảm thấy rất lo lắng khi bị triệu tập bất thường và có thể bị khai trừ khỏi Đảng tại một cuộc họp sắp tới, thậm chí có thể bị NKVD (tiền thân của KGB - ỦY ban An ninh nhà nước) bắt giam. Người sĩ quan này đang bị cáo buộc có quan hệ mật thiết với một trong những nhân vật cấp cao đã bị bắt giữ và xử bắn. Zhukov nhận lời tham dự cuộc họp. Anh sĩ quan kia còn bị tố cáo là không có tinh thần đồng đội và quá khắt khe trong chỉ huy chiến sĩ dưới quyền. Gần như chắc chắn anh ta sẽ bị loại ngũ và khai trừ khỏi Đáng. Zhukov phát biểu ý kiến bảo vệ người sĩ quan, để cao sự trung thực và năng lực của anh ta trên cương vị một chi huy. Ông cho ràng, trước khi “những kẻ thù của nhân dân” đó bị bắt thì làm sao người ta có thể biết mình cũng bị như vậy? Những lời tố cáo viên sĩ quan chỉ là thứ yếu so với tầm quan trọng chung. Khi cuộc họp kết thúc, quan điểm của Zhukov thắng thế. Người sĩ quan đó đã cảm ơn Zhukov trong làn nước mắt. Tuy nhiên, một trường hợp khác lại kết thúc trong bi kịch. Zhukov đã nhận lệnh chỉ huy Quân đoàn Kỵ binh số 6 do Tư lệnh Quân đoàn này bị thuyên chuyển tới Quân khu Kiev. Nhưng trong bầu không khí đầy sự trấn áp, khi đối diện với những lời cáo buộc của những kẻ nhỏ nhen trong một cuộc họp Đảng, vị Tư lệnh đã thừa nhận có quan hệ thân thiết với một trong các nguyên soái bị xử tử và lo sợ bị các cảnh sát mật tra khảo, ông ta đã tự tử. Zhukov không đề cập gì đến chuyện này trong cuốn hồi ký xuất bản lần đầu tiên của ông. Zhukov phải đương đầu với nhiều lời chỉ trích, cáo buộc của các tố chức Đảng trong Quân đoàn với không dưới 80 đảng viên khi đó. Chủ đề vẫn là cách xử sự, tác phong chỉ huy và quan hệ của ông với Uborevich, người bị xử tử mới đây (ít nhất họ đã từng có một lần ăn tối riêng với nhau) và “những kẻ thù của nhân dân” khác. Thật không may cho Zhukov khi mà người cáo buộc nhiều nhất lại chính là người phụ trách công tác chính trị của Sư đoàn Kỵ binh số" 4, S.P. Tikhomirov, người đã chiến đấu cùng với Zhukov trong nhiều năm, nhưng họ chưa bao giờ là những người bạn thân thiết của nhau. Trong cuộc họp, kẻ buộc tội ông lẩn tránh trách nhiệm và tỏ ra rất quỷ quyệt, không trả lời thắng thắn trước những câu hỏi trực tiếp của Zhukov. Ông ta không cho Zhukov cơ hội để thanh minh cho mình. Zhukov thừa nhận là có những lúc ông đã thiếu kiềm chế đối với những người thiếu trách nhiệm với nhiệm vụ được giao. Việc ăn tối với Uborevich chỉ là biểu hiện của mối quan hệ thân thiện giữa những người lính với nhau và đó chính là một mục tiêu của mọi đảng viên và họ hoàn toàn không có bất cứ một hành vi phản bội nào. Ông tin tương mạnh mẽ vào kỷ luật và khả năng chiến đấu của đơn vị và điều này càn phải được làm đầu tiên, trước khi có “những lời nói hay và tình đồng chí”. Lời giải thích của Zhukov được chấp nhận, nhưng để được đánh giá chính xác hơn, ông đã gửi điện cho Stalin và Voroshilov ở điện Kremlin. (Ông không bao giờ nhận được câu trả lời). Zhukov vẫn tiếp tục giữ vị trí công tác đó, nhưng không bao giờ tha thứ cho Chính ủy Tikhomirov và cắt đứt quan hệ với ông ta. CHƯƠNG 5 ZHUKOV Ở MÔNG CỔ Tôi đã chứng kiến nhiều chiến công anh dũng vĩ đại của Hồng quân Liên Xô, của những người lính Mông Cổ cùng các chỉ huy của họ. G.K.ZHUKOV, Nhớ lại và suy ngẫm Chiến dịch Khalkin Gol hầu như được biết tới ở phương Tây và dường như thoạt đầu ý nghĩa quan trọng của nó cũng chỉ được đánh giá là có mức độ nhất định. Tuy nhiên, trận chiến lớn giữa quân Nhật và lực lượng Xô viết ở Mông Cô năm 1939 đó còn có ảnh hương vượt ra ngoài phạm vi biên giới các nước tham chiến. Trước hết, chiến thắng của Georgi Zhukov đã giúp ổn định tình hình khu vực Viễn Đông. Thứ hai, thất bại ở Mông Cổ góp phần ngăn Nhật không cùng lúc xâm lược Liên bang Xô viết với quân của Hitler mà thay vào đó, chúng chuyển hướng xuống phía Nam, tấn công Hồng Kông và Singapore sau khi giành chiến thắng ở Trân Châu Cảng. Đối với riêng cá nhân Zhukov, đây chính là điểm khỏi đầu cuộc đời binh nghiệp mà về sau các chuyên gia đã đánh giá ông là một trong những người lính vĩ đại nhất của thế kỷ. Mọi việc bắt đầu từ một cuộc điện thoại ngày 1 tháng 6 năm 1939 từ Mátxcơva. Zhukov khi đó là Phó Tư lệnh Quân khu Belorussia và đang rất bận rộn chỉ đạo công tác diễn tập thì được yêu cầu phải có mặt tại Mátxcơva ngay ngày hôm sau. - Đồng chí có biết vì sao tôi lại được gọi về Mátxcơva đột ngột thể không? - Zhukov hỏi người sĩ quan ở đầu dây kia. - Tôi không biết. Tất cả những gì tôi biết là sáng mai đồng chí phải có mặt ở văn phòng của Nguyên soái Voroshilov. Ngày hôm sau, Zhukov trình diện Nguyên soái Voroshilov, người phụ trách các lực lượng quốc phòng Xô viết. Nguyên soái yêu cầu ông sẵn sàng nhận lệnh bay tới Mông Cổ vì các lực lượng Mông Cổ đang giao chiến với quân Nhật; bọn Nhật đã xâm nhập vào Mông cố từ phía Đông ở cấp sư đoàn. Sáng sớm ngày hôm đó (ngày 2 tháng 1 năm 1939), Zhukov đã được thông báo vắn tắt tình hình và xem bản đồ chiến sự. - Đồng chí hãy nhìn đây - Voroshilov chỉ vào bản dồ và nói - Đây là khu vực quân Nhật từ lâu đã tiến hành các cuộc tấn công khiêu khích vào các chiến sĩ biên phòng Mông cổ, còn đây là vị trí đơn vị đồn trú của quân Nhật ở Hailar đã xâm nhập vào lãnh thổ Mông cổ và tấn công những đơn vị biên phòng đóng quân ở khu vực phía Đông sông Khalkin. Tôi cho rằng, chúng đã tự dấn mình vào một cuộc phiêu lưu quân sự lớn. Dù thế nào đi nữa, giờ mới chỉ là bắt đầu... Đồng chí có thể ngay lập tức bay tới đó và nếu có yêu cầu, đồng chí có thể nhận nhiệm vụ chỉ huy bộ đội được không? - Tôi sẵn sàng đi ngay lúc này. - Rất tốt - Voroshilov, nguyên là lính kỵ binh trong cuộc Nội chiến và một trong những người bạn chí cốt của Stalin nói - máy bay sẽ đón đồng chí tại sân bay trung tâm lúc 16 giờ. Đồng chí phải ghé qua chỗ Smoridonov để nhận những tài liệu cần thiết và trao đổi về công tác liên lạc với Bộ Tổng tham mưu. Một tổ chuyên viên quân sự sẽ bay cùng đồng chí. Tam biệt và chúc đồng chí mọi điều tốt lành! Trước khi Zhukov đi, Voroshilov còn đưa cho ông cam kết của Chính phủ Liên Xô trong việc bảo vệ Mông cổ khỏi bất cứ cuộc ngoại xâm nào theo Hiệp ước ký ngày 12 tháng 3 năm 1936 giữa hai nước. Zhukov đã ghé qua chỗ Ivan Smorodinov, Quyền Tổng tham mưu trưởng. Ông yêu cầu: “Ngay khi tới nơi, đồng chí hãy nghiên cứu những gì đang xảy ra ở đấy và báo cáo về cho chúng tôi. Nhưng đồng chí phải thẳng thắn nêu ý kiến, không được giấu giếm tình hình thực tế ở đó”. """