"
Nguồn Gốc Dịch Bệnh: Động Vật, Con Người Và Đại Dịch Toàn Cầu Tiếp Theo PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nguồn Gốc Dịch Bệnh: Động Vật, Con Người Và Đại Dịch Toàn Cầu Tiếp Theo PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
NGUỒN GỐC DỊCH BỆNH
—★—
Nguyên tác: Spillover: Animal Infections and the Next Human Pandemic
Tác giả: David Quammen
Dịch giả: Kiên Lưu, Hiền Nguyễn
Thể loại: Y Học, Khoa Học
Bản quyền: Medinsights
NXB: Dân trí
Năm xuất bản: 2012/Vn2021
—★★★—
Style: huydat | 11-03-2022
�� 24hmoney.vn
NHỮNG LỜI KHEN TẶNG
“David Quammen [là] một nhà báo khoa học với khả năng kết hợp giữa khám phá với tài tổng hợp và kể chuyện.” – Nathan Wolfe, Nature
“Một cuốn sách lôi cuốn với đầy những chuyến phiêu lưu… được kể lại từ nơi tiền tuyến chống đại dịch.”
– Lizzie Wade, Wired
“[Quammen] không chỉ nằm trong số những nhà văn khoa học giỏi nhất, mà còn là một trong số những cây bút giỏi nhất của chúng ta, chấm hết… Việc ông chưa từng dành được Giải thưởng Sách Quốc gia hay giải Pulitzer cho dòng sách phi hư cấu thật là một sự thiếu sót… Người miệt mài diễn giải và Một người diễn giải kiên trì và một nhà quan sát hàng đầu. Khiếu hài đen của ông thật xuất sắc.”
– Dwight Garner, New York Times
“Quammen giống một người thầy hơn Jeremiah. Cho nên ông có thể bình tĩnh khi có thể; nhưng thẳng thắn khi cần thiết.”
– Jeffrey Burke, Bloomberg
“Quammen cân bằng những thuật ngữ chuyên môn với những mô tả chính xác đến rùng rợn và những cảnh tượng từ các hành trình đầy dung cảm của chính mình… Nhưng tài năng thật sự của ông nằm ở tài viết lách, với sự cân bằng tốt giữa sự tôn kính và kỳ quái.”
– Chloë Schama, Smithsonian
“Lôi cuốn như The Hot Zone (Vùng nóng) của Richard Preston… [Quammen là] một trong những nhà văn khoa học xuất sắc nhất.”
– Seattle Times
“Đây là một tuyệt tác báo cáo khoa học đáng sợ và hấp dẫn được viết như một câu chuyện trinh thám. David Quammen dẫn chúng ta đi theo hành trình tìm hiểu AIDS, Ebola, và những căn bệnh các có một điểm chung đáng sợ: chúng đều truyền từ động vật hoang dã sang người. Với việc giải thích xu hướng đang lên này, Quammen không chỉ đem tới một lời cảnh báo về những căn bệnh chúng ta sẽ gặp trong tương lai, ông còn khiến chúng ta suy ngẫm lại vị trí của mình như là loài người trong hệ sinh thái của hành tinh này.”
– Walter Isaacson, tác giả của Steve Jobs
“Một đỉnh cao văn chương.”
– April Dembosky, Financial Times
“Gọi David Quammen là một trong những nhà văn khoa học lỗi lạc nhất của chúng ta là đang coi thường ông. Ông ấy là nhà văn lỗi lạc nhất, chấm hết… [Spillover (Lan truyền)] là một câu chuyện kinh dị y học gói gọn trong lối hành văn tao nhã bậc nhất và cách tư duy tinh vi bậc nhất mà bạn có thể bắt gặp.”
– Hampton Sides, sử gia kể chuyện có sách bán chạy nhất và biên tập viên chủ chốt ở tạp chí Outside
“David Quammen lại thành công một lần nữa. Hấp dẫn và đáng sợ, Lan truyền là một câu chuyện kinh dị đời thực với một kết cục có ảnh hưởng tới tất cả chúng ta.”
– Elizabeth Kolbert, tác giả của Field Notes from a Catastrophe (Những Ghi chép Thực địa từ một Thảm họa)
“David Quammen có thể là nhà văn khoa học tôi ưa thích nhất; dễ mến, uyên bác, chưa được coi trọng đúng mức, cực kỳ hài hước, nhân đạo một cách sâu sắc.”
– Kathryn Schulz, tạp chí New York
“[Lan truyền] đi ngược lại xu thế của những thứ hời hợt một chiều, ăn sẵn, quá đỗi gọn gàng, chuộng-TED-quá-mức trên thị trường.”
– Ed Yong, người sáng tác của blog Not Exactly Rocket Science(Không hẳn là Khoa học Tên lửa) thuộc National Geographic
“Vô cùng cuốn hút… Những lời kể [của Quammen] tạo nên một cuốn sách đầy màu sắc… Chúng thật sự lôi cuốn và đáng sợ.”
– Alan Sipress, Washington Post
“Cuốn sách đáng sợ nhất mà bạn sẽ đọc trong năm nay.” – Daily Beast
“Đây không phải kiểu chuyện kinh dị giật gân tiêu biểu… [Lan truyền] pha trộn sự nghiêm ngặt của một cuộc điều tra với sự hồi hộp của một tiểu thuyết thần bí, tạo nên một cuốn sách hấp dẫn mà khiến cho người đọc phải suy ngẫm về câu trả lời trước cả khi câu hỏi được đặt ra… Một thành tựu đáng chú ý.” – Science
“Xuất sắc.”
– Florence Williams, New York Review of Books
“Quammen là một nhà văn linh hoạt và một thám tử giỏi, theo dấu các căn bệnh từ nơi nó xuất hiện đầu tiên ngược về nguồn gốc của chúng – trong một vài trường hợp, vẫn chưa được xác định.
– Economist
“[Một] chuyến du hành táo bạo và … Ông Quammen làm rất tốt việc cho thấy rất nhiều tri thức khoa học chỉ mang tính tạm thời, cùng với rất nhiều điều bí ẩn về những căn bệnh truyền nhiễm.”
– Richard Preston, tác giả của Vùng nóng
“Một bậc thầy của việc biến những tri thức khoa học phức tạp trở nên dễ tiếp cận mà không cần đơn giản hóa chúng, Quammen phơi bày những điểm cơ bản của hệ sinh thái động vật và dịch tễ học với sự rõ ràng đầy mê hoặc.”
– Annie Gottlieb, tạp chí Scientist
I —★— TỬ MÃ
1
Loại virus được biết đến với cái tên Hendra không phải loại vi sinh vật nguy hiểm mới đầu tiên. Hiển nhiên cũng không phải loại đáng sợ nhất. Thậm chí, so với một số khác, nó còn là thứ yếu. Số lượng tử vong do loài virus này gây ra ngay từ đầu đã rất nhỏ, và vẫn duy trì ở mức thấp như vậy; phạm vi địa lý của virus chỉ thu hẹp ở mức địa phương, và những đợt bùng phát sau đó cũng không đưa căn bệnh lan rộng hơn bao nhiêu. Virus Hendra xuất hiện lần đầu tiên ở gần Brisbane, Úc vào năm 1994 với có hai ca nhiễm bệnh và một trong số đó tử vong. Hay chính xác hơn: hai người mắc bệnh, một trong hai đã tử vong. Những sinh vật khác cũng mắc bệnh và tử vong, bao gồm hơn chục con ngựa, và chúng cũng là một phần của câu chuyện này. Đề tài dịch bệnh trên động vật và dịch bệnh trên người, như chúng ta sắp được tìm hiểu, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau như những sợi dây trong một bện thừng.
Đợt bùng phát đầu tiên của virus Hendra dường như không mấy đáng sợ hay mang tính thời sự, trừ khi bạn sống ở miền đông nước Úc. Nó không thể sánh với một trận động đất, một cuộc chiến tranh, một vụ xả súng ở trường học hay một cơn sóng thần; nhưng đầy kỳ lạ và ma quái. Dù hiện nay người ta đã biết nhiều hơn về nó, ít nhất là trong giới bệnh lý học, nhưng virus Hendra, dù có bớt ma quái hơn, dường như vẫn rất kỳ lạ. Một nghịch lý hoàn toàn: cận biên, lẻ tẻ, nhưng ở một góc độ lớn hơn lại mang tính đại diện. Chính vì lý do đó, Hendra là dấu mốc quan trọng hướng tới hiểu được sự xuất hiện của những
thực thể chết người trên hành tinh này – cũng như sự thật là chúng mang đến cái chết của hơn 30 triệu người kể từ năm 1981. Những câu chuyện đó liên quan tới hiện tượng mang tên Bệnh Lây truyền từ Động vật.
Sở dĩ có cái tên như vậy bởi đó là những căn bệnh có khả năng lây truyền sang người. Và chúng có số lượng nhiều hơn bạn nghĩ. AIDS là một căn bệnh như thế. Và cúm là cả một phân nhóm cho những bệnh còn lại. Xem xét tổng thể những căn bệnh này dường như củng cố nhận định từ lâu của Darwin (nhận định đen tối nhất của ông – được nhiều người biết đến và thường xuyên bị cố ý bỏ quên) rằng loài người là một loài động vật, có liên hệ mật thiết với những loài động vật khác: từ nguồn gốc cho đến tiến hóa, khi ốm đau lẫn khi khỏe mạnh. Còn khi xét một cách riêng rẽ, đơn cử trường hợp mơ hồ này ở Úc, đây là lời nhắc nhở vững vàng rằng mọi thứ, bao gồm cả dịch bệnh, đều phải bắt đầu từ đâu đó.
2
Tháng Chín năm 1994, một tai họa khủng khiếp giáng xuống những con ngựa ở vùng ngoại ô phía bắc của Brisbane: những con vật thuần chủng, bóng bẩy và chăm chút, được sinh ra chỉ để chạy đua. Vùng ngoại ô cổ kính với cái tên Hendra, là một khu dân cư lâu đời với các trường đua và những người đam mê đua ngựa; những căn nhà gỗ mà sân sau được cải tạo thành chuồng ngựa; các sạp báo đầy tờ rơi hay những quán café góc đường với cái tên như The Feed Bin (Tạm dịch: Máng ngựa). Con ngựa đầu tiên nhiễm bệnh là một con ngựa cái với lông màu nâu đốm đen tên là Drama Series, đã được cho nghỉ đua vì mang thai, và sắp đẻ. Drama Series bắt đầu biểu hiện những dấu hiệu của vấn đề trong một chuồng ngựa trên đồng cỏ nghèo nàn vài dặm về phía tây nam Hendra, nơi mà những con ngựa được đưa tới để nghỉ ngơi giữa các cuộc đua. Đáng ra Drama Series sẽ ở lại đó cho tới trước lúc sinh nở, nếu nó không bị ốm. Tuy vậy, tình trạng của con ngựa cái không quá xấu – ít nhất là tại thời điểm đó. Nó chỉ có vẻ không được ổn, và người huấn luyện cho rằng nó sẽ khỏe lại. Người huấn luyện tên là Vic Rail: một người đàn ông từng trải với dáng người nhỏ bé, áp đặt nhưng dễ mến, với mái tóc nâu vuốt ngược và nổi tiếng với phương pháp luyện tập cứng rắn trong giới đua ngựa địa phương. “Cứng rắn nhưng dễ mến”, có thể tóm gọn Vickie bằng một câu như vậy. Một số người có thể không ưa gì anh ta, nhưng không ai phủ nhận rằng anh biết rất rõ về những con ngựa.
Bạn gái của Rail, Lisa Symons, là người đã đem xe kéo ngựa tới để đón Drama Series. Con ngựa cái miễn cưỡng di chuyển. Chân của nó có vẻ bị mỏi. Quanh vùng môi, mi mắt và hàm có những vết sưng. Trở về khu chuồng nhỏ của Rail ở Hendra, Drama Series đổ mồ hôi đầm đìa và tỏ ra uể oải. Với hi vọng chăm nom ngựa mẹ và cứu lấy con con, anh ép nó ăn cà rốt bào và mật mía nhưng không thành. Sau nỗ lực, Vic Rail đi rửa hai bàn tay và cánh tay, dù sau này khi ngẫm lại, có vẻ như điều đó không đủ.
Hôm đó là thứ Tư, ngày 7 tháng Chín năm 1994, Rail gọi cho bác sĩ thú y Peter Reid, một người đàn ông cao lớn, nghiêm túc và chuyên nghiệp, để đến khám cho Drama Series – lúc này đang được nhốt trong ô riêng tại khu chuồng bê tông với sàn phủ cát, gần với những con ngựa khác của Rail. Bác sĩ Reid không tìm thấy dịch quanh mũi hay mắt của nó, hay bất kỳ dấu hiệu nào của sự đau đớn. Tuy vậy, con ngựa chẳng còn giữ được chút nào vẻ vạm vỡ trước đây. “Suy nhược thể chất” là kết luận của ông. Thân nhiệt và nhịp tim của nó đều cao. Reid để ý thấy những vết sưng trên mặt. Khi mở miệng con ngựa ra để kiểm tra lợi, ông thấy những mẩu cà rốt bào mà nó chẳng buồn hoặc chẳng thể nuốt. Sau cùng, ông ta tiêm cho nó thuốc kháng sinh và giảm đau, rồi ra về. Khoảng sau bốn giờ sáng ngày hôm sau, Reid nhận được cuộc gọi thông báo: Drama Series đã ra khỏi chuồng của nó, đổ gục trên sân, và đang hấp hối.
Tới khi Reid đến nơi, con ngựa đã chết. Mọi thứ diễn ra nhanh và khủng khiếp. Bị kích động do tình trạng sức khỏe xấu đi, con ngựa lết ra ngoài, ngã xuống một vài lần khiến chân rách toạc đến xương, đứng dậy, rồi đổ gục ở sân trước. Người trông coi chuồng ngựa đã phải đè nó xuống đất. Con ngựa cố gắng vùng vẫy trong tuyệt vọng và va vào một chồng gạch. Lần này để giữ nó nằm xuống, người coi chuồng cần đến cả sự hỗ trợ của Rail. Để giúp Drama Series thở, Rail đã chùi đi chỗ bọt trên mũi của con ngựa – một nỗ lực hoàn toàn vô ích. Reid kiểm tra cái xác và phát hiện một chút bọt vẫn còn sót lại trong lỗ mũi,
nhưng không khám nghiệm tử thi bởi Vic Rail không có vẻ hứng thú đến thế, và, cũng không ai đoán trước được tình trạng khẩn cấp sắp xảy để, khi mà mọi chi tiết dù là nhỏ nhất cũng có thể trở nên vô cùng quan trọng. Xác của Drama Series cứ thế được một chiếc xe tải hợp đồng chở tới bãi tập kết của vùng Brisbane.
Nguyên nhân gây ra cái chết của con ngựa vẫn chưa được xác định. Liệu có phải nó bị rắn cắn? Hay ăn phải loại cỏ độc nào đó trong cái chuồng bụi bặm, xập xệ đó? Những giả thuyết đó nhanh chóng sụp đổ sau 13 ngày, khi những con ngựa khác trong chuồng nối tiếp nhau bị ốm. Đây không thể là do rắn cắn hay thức ăn độc.
Phải là thứ gì đó truyền nhiễm.
Những con ngựa còn lại bị sốt, suy hô hấp, mắt đỏ ngầu, co giật, và lờ đờ; một số có bọt máu sùi ra từ lỗ mũi và miệng, số khác lại bị sưng ở mặt. Reid chứng kiến thấy một con ngựa sục miệng điên cuồng vào một xô nước, trong khi một con khác điên cuồng đập đầu vào bức tường bê tông. Mặc cho nỗ lực của Reid và những người khác, chỉ trong vài ngày đã có thêm 12 con ngựa tử vong. Reid sau đó thừa nhận rằng: “tốc độ lây lan giữa những con ngựa thật khó tin,” nhưng tại thời điểm đó, không ai hiểu được vấn đề là gì . Thứ gì đó lây lan qua những con ngựa. Thời điểm tồi tệ nhất, chỉ trong 12 giờ, họ phải chứng kiến bảy con ngựa chết trong đau đớn quằn quại, đến mức một số trường hợp họ phải thực hiện an tử . Bảy con ngựa chỉ trong mười hai giờ – đó là một thảm kịch, ngay cả với một bác sĩ thú y dày dạn kinh nghiệm. Một trong số chúng, con ngựa cái có tên Celestial Charm, đã vùng vẫy và thở hổn hển một cách tuyệt vọng đến lúc tắt thở, khiến Reid không thể tới gần để cho nó mũi tiêm nhân đạo. Con ngựa thiến 5 tuổi mà Rail gửi tới một chuồng ngựa phía bắc phát bệnh ngay khi đến, và người ta cũng phải kết thúc sự sống của nó không lâu sau đó. Một bác sĩ thú y đã khám nghiệm tử thi con ngựa thiến và phát hiện tình trạng xuất huyết trên toàn bộ nội tạng. Chuồng ngựa ở góc đường lân cận chuồng ngựa của Rail ở Hendra, cùng lúc đó, một con ngựa
g gự g ộ gự thiến khác cũng đổ bệnh với triệu chứng tương tự, và cũng bị buộc phải cho an tử.
Điều gì gây nên tình trạng hỗn loạn này? Làm thế nào nó có thể lây lan từ con ngựa này qua con ngựa khác, hay đồng thời tiếp cận được nhiều ngựa đến thế cùng một lúc? Có khả năng là một tác nhân độc hại nào đó trong nguồn cung thực phẩm. Hay thuốc độc, từ những kẻ thù hằn. Ngoài ra, Reid cũng bắt đầu tự hỏi liệu đây có thể do một loại virus lạ, giống như loại virus gây ra bệnh ngựa châu Phi (AHS), loại bệnh được truyền do ruồi cắn ở vùng Hạ Sahara châu Phi. Virus AHS tác động lên các con la, lừa và ngựa vằn cũng như ngựa nhà, nhưng chưa từng được phát hiện ở Úc, và cũng không lây lan trực tiếp từ ngựa sang ngựa. Hơn nữa, ruồi mang bệnh ở Queensland thông thường không cắn ngựa vào tháng Chín, khi thời tiết mát mẻ. Do đó AHS không phải là câu trả lời hợp lý. Hay nguyên nhân có thể là một loại mầm bệnh lạ? “Tôi chưa từng thấy virus nào gây ra tình trạng như vậy trước đây,” Reid nói. Một người có xu hướng nói giảm nói tránh, ông ta gọi thời điểm đó là “một khoảng thời gian tương đối hoảng loạn.” Reid tiếp tục chữa cho những con ngựa bị bệnh với tất cả các phương tiện cũng như phương pháp ông có, dựa trên chẩn đoán vẫn còn không chắc chắn –kháng sinh, truyền dịch, thuốc chống sốc.
Trong khi đó, bản thân Vic Rail cũng bắt đầu đổ bệnh. Người trông coi chuồng ngựa cũng vậy. Thoạt tiên có vẻ họ đều bị cúm – một cơn cúm nặng. Rail tới bệnh viện, nơi tình trạng của ông tiếp tục xấu đi, và qua đời sau một tuần chăm sóc đặc biệt. Nội tạng của ông ngừng hoạt động. Rail cũng không thở được. Khám nghiệm tử thi cho thấy phổi của ông chứa đầy máu, các loại dịch, và (sau khi kiểm tra bằng kính hiển vi điện tử) một loại virus nào đó. Ray Unwin, người coi chuồng, đã về nhà và tự chịu đựng qua cơn sốt, lại sống sót. Peter Reid, dù phải chăm sóc những con ngựa bị bệnh đến mức sùi bọt máu, vẫn khỏe mạnh. Ông và Unwin đã kể cho tôi câu chuyện của mình khi gặp được
họ nhiều năm sau đó, sau khi hỏi han xung quanh Hendra và gọi một vài cuộc điện thoại
Ở Máng ngựa có người nói rằng: Ray Unwinhả, nhiều khả năng anh ta sẽ ở chỗ của Bob Bradshow. Tôi đi theo chỉ dẫn tới chuồng ngựa của Bradshaw và gặp Unwin ngay ở lối vào với xô cám trong tay. Thời điểm đó, ông ta đã đứng tuổi với mái tóc đuôi ngựa màu đỏ cát với đôi mắt u ám nỗi buồn. Ông hơi ngại khi được từ một người lạ sự chú ý, thứ ông đã nhận đủ từ các bác sĩ, cán bộ y tế công cộng và phóng viên địa phương. Ngay khi ngồi xuống nói chuyện, ông thừa nhận ông không phải là một kẻ hay than vãn, nhưng sức khỏe của ông đã kém đi rõ ràng từ khi chuyện đó xảy ra.
Khi số ngựa chết đạt tới đỉnh điểm, chính quyền Queensland buộc phải can thiệp bằng cách gửi đến các bác sĩ thú y, các cán bộ liên quan từ Ban Công nghiệp Cơ yếu - DPI (chịu trách nhiệm về gia súc, động vật hoang dã và nông nghiệp trên toàn bang) cũng như nhân viên thực địa từ Ủy ban Sức khỏe Queensland. Các bác sĩ thú y của DPI bắt đầu khám nghiệm tử thi – hay nói cách khác, là xẻ những con ngựa ra để tìm kiếm manh mối. Chẳng mấy chốc, khoảng sân nhỏ của Vic Rail la liệt đầu ngựa và các chi bị cắt rời; máu và dịch bị đổ xuống cống, còn các mẫu nội tạng và mẫu vật bị nghi ngờ được thu vào túi. Peter Hulbert, một người hàng xóm khác của Rail và cũng nuôi ngựa, nhớ lại cảnh tượng hãi hùng đã diễn ra khi mời tôi uống cà phê trong bếp. Khi tiếng nước trong ấm reo, Hulbert nhớ lại những thùng rác được DPI sử dụng. “Những thùng rác đó chất đầy chân và đầu ngựa… – ông có dùng đường không?”
“Không, cảm ơn. Đen thôi.” Tôi trả lời.
“...chân, đầu, nội tạng – tim, gan, phèo, phổi – đổ tất vào trong những thùng rác đó. Nó – thật – khủng khiếp.” Tới giữa buổi chiều hôm đó, ông bổ sung, tin tức đã lan đi và cánh truyền hình xuất hiện với đầy đủ máy quay cho bản tin thời sự. “Mọi thứ thật sự tệ hại.” Rồi cảnh sát cũng tới và quấn băng keo
quanh nhà của Rail như thể đó là hiện trường phạm tội. Liệu chuyện này có phải do kẻ thù của anh ta gây ra không? Giới đua ngựa cũng có đầy những góc khuất như bất cứ ngành kinh doanh khác, thậm chí còn nhiều hơn. Peter Hulbert thậm chí còn được phỏng vấn rằng liệu có khả năng Vic tự đầu độc chính những con ngựa của mình và rồi cả bản thân ông ta không.
Trong khi cảnh sát còn đang băn khoăn giữa phá hoại hay lừa đảo bảo hiểm, các chuyên gia sức khỏe cũng có những giả thiết khác cần lưu tâm. Một trong số đó là hantavirus – một nhóm virus được các nhà khoa học biết tới từ lâu sau những đợt bùng phát ở Nga, bán đảo Bắc Âu và những nơi khác, nhưng mới tái xuất hiện một năm trước đó: Năm 1993, một chủng hantavirus mới đã bùng phát và cướp đi sinh mạng của 10 người ở vùng Four Corners✽ phía tây nam nước Mỹ. Úc hoàn toàn có lý do chính đáng để lo ngại về những căn bệnh lạ có khả năng xâm nhập vào lãnh thổ của họ, và việc hantavirus xuất hiện trong nước thậm chí sẽ là một tin xấu hơn (dù không thể tệ hơn với lũ ngựa) so với bệnh ngựa châu Phi. Do đó các bác sĩ thú y của DPI đã đóng gói các mẫu máu và biểu mô từ những con ngựa đã chết, và gửi các mẫu đông lạnh tới AAHL (phát âm như cách viết) – Phòng thí nghiệm Sức khỏe Động vật Úc, một cơ quan được bảo vệ nghiêm ngặt đặt tại thị trấn Geelong, phía nam Melbourne. Một nhóm các nhà vi sinh và bác sĩ thú y ở đó đã thực hiện hàng loạt thử nghiệm trên các mẫu vật, nhằm nuôi cấy và tìm ra loại vi sinh vật là nguyên nhân khiến những con ngựa phát bệnh.
Thứ họ tìm được là một loại virus. Không phải hantavirus. Cũng không phải virus AHS. Đó là loại virus mới – một loại mà các nhà quan sát kính hiển vi của AAHL chưa từng nhìn thấy trước đó, nhưng từ kích thước và hình dáng của nó, tương đồng với nhóm paramyxovirus, điểm khác biệt duy nhất là mỗi phân tử loại virus mới này mang hai mép gai. Các nhà nghiên cứu khác ở AAHL giải trình tự một đoạn gen của virus, và khi đối chiếu với cơ sở dữ liệu virus lớn, tìm thấy một điểm tương đồng
yếu với một phân nhóm của loại virus này. Điều đó dường như đã xác nhận những phán đoán dựa trên quan sát kính hiển vi. Phân nhóm tương đồng là nhóm morbillivirus, bao gồm virus gây bệnh dịch hạch gia súc và virus gây bệnh sài sốt (trên nhóm động vật không phải người) và bệnh sởi (ở người). Vậy là sinh vật đến từ Hendra được phân loại và đặt tên, dựa trên nhận dạng tạm thời đó: morbillivirus ở ngựa (EMV), hay gọi cách khác là sởi ngựa.
Cũng vào khoảng thời điểm đó, các nhà nghiên cứu AAHL đã kiểm tra một mẫu biểu mô thận của Vic Rail từ khám nghiệm tử thi. Mẫu đó cũng mang loại virus giống hệt trên những con ngựa, xác nhận rằng loại virus này không chỉ gây bệnh trên ngựa. Sau đó, khi mức độ đặc biệt của nó được nhận thức rõ ràng hơn, cái tên “EMV” bị loại bỏ và tên của virus được lại theo nơi mà nó xuất hiện: Hendra.
Nhận diện loại virus mới chỉ là bước đầu tiên trong việc lý giải sự bí ẩn của Hendra, chưa nói đến hiểu căn bệnh trong bối cảnh rộng hơn. Bước thứ hai là truy dấu virus: Nó tồn tại ở đâu trước khi gây tử vong cho người và những con ngựa? Bước thứ ba là giải đáp hàng loạt câu hỏi sâu xa hơn: Làm thế nào loại virus này thoát ra khỏi nơi ẩn náu bí mật của nó, cũng như tại sao lại là ở đây và bây giờ?
Sau những trao đổi đầu tiên tại một quán café ở Hendra, Peter Reid lái xe chở tôi đi vài dặm về phía đông nam, ngang qua sông Brisbane, tới nơi Drama Series phát bệnh. Cannon Hill, một thời là đất chăn nuôi, giờ đây trở thành khu ngoại ô sầm uất ngay sát đường cao tốc M1. Thế chân những chuồng ngựa khi xưa là từng dãy nhà phân lô xếp hàng thẳng tắp. Quang cảnh cũ chỉ còn duy nhất cây đa tía đại thụ, đứng sừng sững giữa bùng binh Calliope Circuit nơi cuối phố. Đây là chỗ những con ngựa cái thường tìm đến để nghỉ ngơi và tránh khỏi ánh nắng cận nhiệt đới chói chang của miền đông nước Úc.
“Chính là nó,” Reid nói. “Chính cái cây chết tiệt đó.” Ý của ông là, đó là nơi lũ dơi tụ tập.
3
Bệnh truyền nhiễm có mặt ở mọi nơi, một thứ vữa tự nhiên kết dính sinh vật này với sinh vật khác, loài này với loài khác, trong khối công trình phức tạp mà chúng ta gọi là hệ sinh thái. Bệnh truyền nhiễm là một trong những quá trình cơ bản được các nhà sinh thái học nghiên cứu, cùng với săn mồi, cạnh tranh, phân hủy và quang hợp. Thú săn mồi là những con vật to lớn ăn thịt con mồi từ bên ngoài; còn mầm bệnh (tác nhân gây bệnh, như virus) là những con vật bé nhỏ cắn nuốt con mồi từ bên trong. Tuy bệnh truyền nhiễm có thể mang lại cảm giác ghê rợn và khủng khiếp, dưới điều kiện bình thường, chúng vẫn hoàn toàn là một phần của tự nhiên, như những gì sư tử làm với linh dương đầu bò và ngựa vằn, hay cú làm với chuột.
Nhưng mọi chuyện không phải lúc nào cũng bình thường.
Cũng giống như thú săn mồi có con mồi quen thuộc – những mục tiêu ưa thích, mầm bệnh cũng vậy. Nhưng cũng giống như sư tử đôi khi có thể săn bò thay vì linh dương đầu bò, hay con người thay vì ngựa vằn, mầm bệnh cũng có thể chuyển sang mục tiêu mới. Tai nạn vẫn có thể xảy ra. Những điều bất thường vẫn có khả năng xuất hiện. Điều kiện thay đổi, cùng với đó là nhu cầu và cơ hội cũng thay đổi. Khi mầm bệnh thành công trong việc truyền từ động vật sang người và có thể gây bệnh hay tử vong, kết quả có được là một bệnh lây truyền từ động vật.
Đây là một thuật ngữ có phần chuyên môn, bệnh lây truyền từ động vật, có thể không được quá nhiều người biết đến, nhưng
lại giúp làm sáng tỏ những điểm phức tạp về sinh lý đằng sau những bản tin đáng lo ngại về cúm lợn, cúm gia cầm, SARS, hay những căn bệnh mới nổi nói chung, cũng như nguy cơ về một đại dịch toàn cầu. Nó giúp chúng ta hiểu được vì sao y học và các chiến dịch y tế công cộng đã có thể đánh bại những bệnh dịch khủng khiếp như đậu mùa và bại liệt, nhưng không thể chiến thắng những đại dịch khủng khiếp khác như sốt xuất huyết và sốt vàng. Điều nói lên một điều gì đó mấu chốt về nguồn gốc của AIDS. Một thuật ngữ dành cho tương lai và chắc chắn sẽ được sử dụng rất nhiều trong Thế kỷ 21.
Ebola là một bệnh lây truyền từ động vật. Dịch hạch cũng vậy. Cúm Tây Ban Nha thời kỳ 1918-1919 cũng thế: Dịch bệnh bắt nguồn từ một con chim biển hoang dã, sau khi lây lan qua một vài loài vật nuôi (vịt ở miền nam Trung Quốc và lợn ở Iowa?), cuối cùng xuất hiện trên người và lấy đi 50 triệu mạng sống trước khi chìm vào bóng tối. Tất cả những bệnh cúm ở người đều bắt nguồn từ động vật từ động vật. Thủy đậu, lao bò, bệnh Lyme, sốt Tây sông Nile, sốt Marburg, bệnh dại, hội chứng hô hấp do hantavirus, bệnh than, sốt Lassa, sốt thung lũng Rift, bệnh ấu trùng di chuyển ở mắt, sốt phát ban, sốt xuất huyết Bolivia, bệnh rừng Kyasanur, và cả căn bệnh viêm não Nipah kỳ lạ mới xuất hiện, thứ tàn sát những con lợn cũng như người nông dân tại Malaysia. Điểm chung của tất cả những căn bệnh này là đều có sự lây truyền mầm bệnh từ các động vật khác sang người. AIDS – căn bệnh do virus gây ra, có nguồn gốc từ động vật và truyền sang người qua những phơi nhiễm tình cờ ở miền tây và trung Phi, giờ đây lây từ người sang người với số bệnh nhân lên đến hàng triệu. Kiểu lây truyền khác loài này không hề hiếm gặp, trái lại vô cùng phổ biến; khoảng 60% các bệnh truyền nhiễm đã được biết tới ở người thường xuyên lây truyền chéo hoặc gần đây mới lây truyền giữa chúng ta và các động vật khác. Rất nhiều căn bệnh trong số đó – tiêu biểu là bệnh dại – vô cùng quen thuộc và phổ biến; chúng vẫn có khả năng đe dọa và cướp đi tính mạng của hàng nghìn người, bất chấp những cố gắng kéo dài hàng thế kỷ, các nỗ lực quốc tế nhằm kiểm soát hay
xóa sổ chúng, cũng như kiến thức khoa học rõ ràng về cách thức những căn bệnh này hoạt động. Những căn bệnh khác lại mới và lẻ tẻ một cách khó hiểu, chỉ lây cho số người bệnh từ một vài (như virus Hendra) cho đến vài trăm (Ebola) ở đây đó, và rồi biến mất trong nhiều năm.
Bệnh đậu mùa, một ví dụ cho trường hợp đối lập, không phải là bệnh lây truyền từ động vật. Đậu mùa do variolavirus gây ra, và trong điều kiện thông thường chỉ lây cho người. (Phòng thí nghiệm là một câu chuyện khác. Các nhà khoa học tiêm virus vào các sinh vật linh trưởng không phải người hay các động vật khác để phục vụ mục đích nghiên cứu, thường là vắc-xin.) Điều đó giúp lý giải tại sao một chiến dịch toàn cầu do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khởi xướng đã thành công xóa sổ bệnh đậu mùa vào năm 1980. Đậu mùa có thể bị xóa sổ, bởi loại virus đó không có khả năng trú ngụ và sinh sản ở bất kỳ đâu ngoài cơ thể người (hay một con vật được theo dõi cẩn thận trong phòng thí nghiệm), và vì thế không còn nơi nào để trốn. Bại liệt cũng tương tự, một căn bệnh do virus gây ra đã lây nhiễm trên người hàng nghìn năm, nhưng đã (do những nguyên nhân phản trực quan có liên hệ tới việc nâng cao vệ sinh và hạn chế cho trẻ em tiếp xúc với virus) trở thành một đại dịch nguy hiểm trong nửa đầu của Thế kỷ 20, đặc biệt là ở châu Âu và Bắc Mỹ. Ở Mỹ, bại liệt đạt đỉnh vào năm 1952 với một đợt bùng phát giết chết hơn 3.000 người, trong đó có rất nhiều trẻ em, và khiến 21.000 người bị liệt ít nhất một phần cơ thể. Không lâu sau đó, vắc-xin do Jonas Salk, Albert Sabin và một nhà virus học tên là Hilary Koprowski (người có sự nghiệp đầy tranh cãi mà chúng ta sẽ bàn kỹ hơn ở các phần sau) phát triển đã được sử dụng rộng rãi, sau cùng đã loại bỏ được bệnh bại liệt ở hầu hết mọi nơi trên thế giới. Năm 1988, WHO và một số đối tác đã khởi động một nỗ lực quốc tế nhằm xóa sổ căn bệnh này, tính tới nay đã thành công trong việc giảm tới 99% số ca bại liệt. Nước Mỹ đã tuyên bố không còn bệnh bại liệt, cũng như châu Âu và Úc. Theo số liệu báo cáo năm 2011, trên thế giới chỉ còn năm quốc gia dường như vẫn tồn tại những ca bệnh nhỏ lẻ: Nigeria, Ấn Độ, Pakistan,
Afghanistan và Trung Quốc. Tại sao chiến dịch xóa sổ bệnh bại liệt có thể thành công? Bởi việc tiêm chủng vắc-xin cho hàng triệu người tương đối dễ dàng, không tốn nhiều chi phí và có tác dụng vĩnh viễn. Nhưng quan trọng hơn cả, ngoài con người, virus bại liệt không có nơi nào khác để trốn – nó không thể lây truyền qua động vật.
Các mầm bệnh lây truyền qua động vật có thể trốn. Đó là điều khiến chúng trở nên thú vị, phức tạp và đặc biệt rắc rối.
Đậu mùa khỉ – một căn bệnh tương tự như đậu mùa, do một virus có mối liên hệ gần gũi với variolavirus gây nên – tiếp tục là một mối nguy cho con người ở vùng trung và tây Phi. Căn bệnh này khác với đậu mùa ở một điểm mấu chốt: khả năng gây bệnh trên linh trưởng không phải người và một số động vật có vú khác như chuột đồng, chuột nhắt, sóc, thỏ và chó thảo nguyên châu Mỹ. Bệnh sốt vàng, cũng lây nhiễm cho cả khỉ lẫn con người, do virus có khả năng lan truyền giữa các cá thể mang bệnh, đôi khi từ khỉ sang người, nếu bị một loại muỗi nhất định cắn. Điều đó khiến vấn đề trở nên phức tạp hơn, và cho phép sốt vàng có khả năng tiếp tục lây sang người – trừ khi WHO loại bỏ được toàn bộ muỗi có khả năng lây bệnh, hay toàn bộ những con khỉ có khả năng mang bệnh ở vùng nhiệt đới châu Phi hay Nam Mỹ. Tác nhân gây bệnh Lyme, một loại vi khuẩn, có thể trú ngụ trong chuột chân trắng và những loài bò sát nhỏ khác. Dĩ nhiên, những mầm bệnh này không trốn tránh một cách có chủ đích. Nơi chúng trú ngụ và cách chúng lây nhiễm là những phương án từng ngẫu nhiên xảy ra, nhưng mang tới cơ hội sống sót và sinh sản. Và đúng như học thuyết của Darwin về chọn lọc tự nhiên, tiến hóa biến ngẫu nhiên trở thành chiến lược.
Chiến lược kín đáo nhất là ẩn nấp bên trong một nơi được coi là vật chủ dự trữ mầm bệnh. Vật chủ dự trữ mầm bệnh (hay còn được một số nhà khoa học gọi là “ổ chứa”) là những sinh vật sống mang mầm bệnh trong một khoảng thời gian, mà gần như hoặc thậm chí không phát bệnh. Khi một căn bệnh dường như biến mất giữa các đợt bùng phát (tương tự như virus Hendra
g ợ g p g ự
sau năm 1994), tác nhân gây bệnh hẳn phải còn lại ở đâu đó? Tất nhiên, có thể nó đã biến mất toàn hoàn khỏi Trái Đất – nhưng chắc chuyện đó khó có thể xảy ra. Hoặc có lẽ tất cả đã chết sạch tại vùng đó, chỉ xuất hiện trở lại khi những cơn gió và định mệnh đưa nó trở lại từ một nơi nào khác. Hay có lẽ nó vẫn lẩn khuất đâu đây bên trong một ổ chứa nào đó.
Một loài gặm nhấm? Chim? Bướm? Hay dơi? Trú ngụ kín đáo trong một vật chủ dự trữ dễ dàng xảy ra nhất ở những khu vực có độ đa dạng sinh lý cao và hệ sinh thái không bị can thiệp nhiều. Và đương nhiên điều ngược lại cũng đúng: Sự bất ổn sinh thái khiến cho các bệnh dịch xuất hiện. Khi rung một cái cây, chắc chắn sẽ có gì đó rơi xuống.
Gần như tất cả các bệnh lây truyền từ động vật đều do sự lây nhiễm của một trong sáu loại mầm bệnh: virus, vi khuẩn, nấm, sinh vật nguyên sinh (một nhóm các sinh vật nhỏ, phức tạp, ví dụ như amip, từng bị hiểu nhầm là động vật nguyên sinh), prion và giun. Bệnh bò điên có nguyên nhân là do một loại prion – một chuỗi protein lệch tâm, có khả năng khiến các phân tử protein khác gặp phải tình trạng tương tự. Bệnh ngủ do một sinh vật nguyên sinh có tên Trypanosoma brucei gây nên, lây truyền qua vector là loài ruồi tsetse, giữa các cá thể động vật có vú hoang dã, gia súc và con người ở khu vực Hạ Sahara châu Phi. Bệnh than do loài vi khuẩn có khả năng ngủ đông trong đất nhiều năm liền gây nên và giờ đây, khi được đào lên, lây nhiễm cho con người qua những con gia súc. Bệnh giun đũa là một bệnh nhẹ lây truyền qua động vật bạn có thể bị lây từ chính chú chó cưng. Nhưng may mắn là bạn có thể tẩy giun, cho cả bản thân và vật nuôi của mình.
Rắc rối nhất có lẽ là virus: tiến hóa nhanh, không bị ảnh hưởng bởi kháng sinh, giỏi lẩn tránh, có khả năng biến đổi cực kỳ khó lường, chưa kể đến khả năng gây tử vong rất cao, với cấu trúc đơn giản một cách quỷ quái, ít nhất là so với những sinh vật sống hay gần như sống khác. Ebola, Tây sông Nile, Marburg, virus SARS, đậu mùa khỉ, dại, Machupo, sốt xuất huyết, tác nhân
ậ ạ p y
gây sốt vàng, Nipah, Hendra, Hantaan (nguồn gốc tên gọi hantavirus, được phát hiện lần đầu ở Hàn Quốc), chikungunya, Junin, Borna, cúm, và HIV (HIV-1, tác nhân chính gây nên đại dịch AIDS, và HIV-2, kém phổ biến hơn) đều có nguyên nhân là virus, và chúng chỉ là một phần của danh sách rất dài các bệnh do virus gây ra. SFV – virus gây bệnh xốp não ở linh trưởng, thường gặp trên khỉ và người châu Á, có khả năng lây truyền chéo loài tại các địa điểm nơi mà con người và những con khỉ nửa thuần hóa tiếp xúc gần với nhau (như đền thờ Hindu giáo hay chùa). Trong số những người khách du lịch tới thăm những nơi này, các du khách quốc tế có khả năng cao phơi nhiễm với SFV khi chìa tay đưa đồ ăn cho những con khỉ. Có thể nói, một số người đã mang về nhiều hơn là những bức ảnh và kỷ niệm. Dẫn lời của nhà virus học nổi tiếng Stephen S. Morse: “Virus không có khả năng tự di chuyển, ấy vậy mà rất nhiều trong số chúng đã chu du vòng quanh thế giới.” Chúng không thể chạy, đi, bơi hay bò, nhưng chúng có thể đi nhờ.
4
Việc phân lập virus Hendra là một trong những nhiệm vụ của các nhà virus học làm việc tại các phòng thí nghiệm có an ninh nghiêm ngặt ở AAHL. “Phân lập” có nghĩa là tìm kiếm các cá thể virus và nuôi cấy thêm để tạo thành một quần thể virus sống được cô lập, tiềm ẩn khả năng gây tai họa khủng khiếp nếu để bất kỳ phân tử nào thoát ra ngoài, nhưng lại vô cùng quan trọng cho việc nghiên cứu. Các hạt virus nhỏ tới mức không thể quan sát được, trừ phi sử dụng kính hiển vi điện tử, và đòi hỏi phải làm chúng chết trước. Do đó, sự tồn tại của chúng trong quá trình phân lập phải được phát hiện một cách gián tiếp. Bắt đầu từ một mảnh tế bào nhỏ, một giọt máu hay các mẫu vật khác từ cá thể mắc bệnh, với hi vọng những thứ này có chứa virus. Mẫu vật này sau đó được thêm vào một tổ chức tế bào được nuôi trong môi trường dinh dưỡng. Sau đó nó được ủ và quan sát. Hầu như sẽ chẳng có gì xảy ra, trừ phi bạn gặp may mắn. Quá trình được coi là thành công khi virus nhân bản đủ nhiều để gây thiệt hại rõ ràng cho những tế bào được nuôi cấy. Lý tưởng nhất là chúng hình thành mảng bám, những lỗ lớn trong tế bào nuôi cấy, mỗi lỗ thể hiện vị trí bị virus tàn phá. Quá trình này đòi hỏi sự kiên nhẫn, kinh nghiệm, và đặc biệt là những công cụ đo lường chính xác vô cùng đắt đỏ, cộng thêm sự cẩn trọng tỉ mỉ nhằm tránh sự lây nhiễm (dẫn tới làm sai lệch kết quả) hay các tai nạn có khả năng làm virus thoát ra (có thể lây nhiễm cho bạn, gây nguy hiểm cho đồng nghiệp xung quanh, và đẩy một thành phố vào trạng thái hoảng loạn). Những nhà virus học trong phòng thí nghiệm thường không phải những người ồn ào.
Bạn sẽ không nhìn thấy họ ở các quán bar, khua chân múa tay khoe khoang về những hiểm nguy trong công việc của họ. Trái lại, những người này thường có xu hướng tập trung, gọn gàng và bình tĩnh, như các kỹ sư nguyên tử.
Việc xác định nơi trú ngụ của virus trong thế giới hoang dã là một công việc hoàn toàn khác. Nó là một công việc ngoài trời với mức độ nguy hiểm khó kiểm soát hơn, như là bẫy những con gấu xám cần di dời. Thực tế, giống như những người đồng sự làm việc trong phòng thí nghiệm, những người tìm kiếm virus hoang dã không hề huyên náo hay bất cẩn, và họ cũng không được phép. Nhưng môi trường họ làm việc ồn ào, đông đúc, và khó đoán định hơn: Thế giới bên ngoài. Nếu có lý do để nghi ngờ một loại virus mới nào đó lây nhiễm lên người có yếu tố lây truyền từ động vật (và phần lớn chúng đều thế), công cuộc tìm kiếm có thể tiến vào các khu rừng, đầm lầy, những cánh đồng hoa màu, những tòa nhà cũ, các ống cống, hang động hay đôi khi là chuồng ngựa. Thợ săn virus là những nhà sinh lý học thực địa, nhiều khả năng đã được đào tạo chuyên sâu về y học, thú y, sinh thái học, hay cả ba ngành trên – những người hứng thú với những câu hỏi mà lời giải chỉ có thể tìm thấy bằng cách làm việc với động vật. Tất cả những yếu tố đó hội tụ trên Hume Field, một người đàn ông gầy gò với giọng nói nhỏ nhẹ, với lần đầu tiếp cận với virus Hendra khi ông mới ngoài 30 tuổi.
Field lớn lên ở vùng duyên hải Queensland, từ Cairns đến Rockhampton. Một cậu bé yêu thiên nhiên, thích trèo cây, lang thang trong bụi rậm và dành những ngày nghỉ ở trại chăn nuôi của người chú. Cha của Field là một thám tử, phần nào có thể coi là tiền đề cho công việc của con trai mình sau này dưới vai trò người truy lùng virus. Khi lớn lên, Field tốt nghiệp đại học ngành thú y ở Đại học Queensland, Brisbane, và làm tình nguyện ngoài giờ tại một trung tâm bảo trợ động vật, giúp những con thú hoang bị thương tái hòa nhập. Sau khi lấy bằng thạc sĩ năm 1976, ông dành vài năm hành nghề chăm sóc cho các loại động vật khác nhau tại Brisbane, rồi với tư cách bác sĩ
thay thế tạm thời khắp bang. Trong khoảng thời gian này, ông đã chữa trị rất nhiều con ngựa. Nhưng Field ngày càng nhận thức rõ rằng mối quan tâm lớn nhất của bản thân là động vật hoang dã chứ không phải gia súc hay thú cưng. Do đó, vào đầu những năm 1990, Field trở lại Đại học Queensland, lần này để lấy tấm bằng tiến sĩ sinh thái học.
Tại đây, ông tập trung nghiên cứu bảo tồn động vật hoang dã.
Chủ đề luận văn ông lựa chọn là quần thể mèo hoang và những tác động của chúng, do những con mèo hoang (mèo nuôi trong nhà bỏ đi hoang trong vùng) gây thiệt hại đáng kể cho động vật hoang dã bản địa ở Úc: chúng giết những con thú có túi nhỏ và chim chóc, chưa kể còn là nguồn lây bệnh. Thời điểm virus bùng phát trên chuồng ngựa của Vic Rail, ông đang bẫy mèo và đeo cho chúng vòng cổ có thiết bị phát sóng radio để theo dõi. Một trong những người hướng dẫn luận án tiến sĩ cho Field, một nhà khoa học làm việc với DPI, hỏi Field rằng liệu ông có hứng thú đổi đề tài không. DPI cần ai đó nghiên cứu phương diện hệ sinh thái của căn bệnh mới. “Và thế là tôi quên luôn lũ mèo hoang và bắt đầu đi tìm những ổ chứa hoang dã của virus Hendra” Field kể lại, khi tôi tìm tới ông khá lâu sau đó, tại Viện Nghiên cứu Động vật, một cơ quan của DPI ở gần Brisbane.
Ông bắt đầu cuộc tìm kiếm bằng việc quay trở lại với ca bệnh đầu tiên – con ngựa mắc bệnh đầu tiên, hồ sơ và nơi nó sống. Đó là Drama Series, con ngựa cái mang bầu, đổ bệnh trong chuồng ngựa ở Cannon Hill. Manh mối duy nhất ông có tại thời điểm đó là virus này là một chủng paramyxovirus, và một nhà nghiên cứu khác ở Queensland đã tìm thấy một chủng paramyxovirus mới trên động vật gặm nhấm một vài năm trước đó. Do vậy Field đã thiết kế một loạt bẫy ở chuồng ngựa, với mục đích bắt tất cả những động vật có xương sống nhỏ và vừa có thể – các loài gặm nhấm, chồn Possum, thú có túi, bò sát, động vật lưỡng cư, chim, mèo hoang – và thu thập mẫu máu của từng con vật, đặc biệt chú tâm tới các loài gặm nhấm. Ông gửi mẫu máu tới
ặ ệ gặ g g
phòng thí nghiệm của DPI để sàng lọc tìm kháng thể chống lại Hendra.
Việc sàng lọc tìm kháng thể khác hoàn toàn với việc phân lập virus, cũng như dấu chân và dấu giày vậy. Kháng thể là những phân tử do hệ miễn dịch của vật chủ sản xuất ra để đối phó với sự hiện hữu của một tác nhân lạ xâm nhập vào cơ thể. Chúng được hình thành một cách đặc trưng nhằm mục đích bám lấy và vô hiệu hóa một loại virus cụ thể, hoặc vi khuẩn, hoặc những loại bọ khác. Tính đặc hiệu, cũng như sự thật rằng chúng tồn tại trong máu ngay cả khi tác nhân xâm lấn đã bị loại bỏ, khiến chúng trở thành những dấu hiệu vô giá về sự lây nhiễm đã từng hay đang có mặt trong cơ thể. Đó là dấu hiệu mà Hume Field hy vọng tìm thấy. Nhưng các động vật gặm nhấm ở Cannon Hill không hề có kháng thể với virus Hendra. Và cả những con vật khác cũng vậy, khiến ông tự đặt câu hỏi vì sao. Hoặc là do ông tìm sai chỗ, hoặc đúng chỗ nhưng sai cách, hay sai thời điểm. Sai thời điểm có thể là một vấn đề lớn, ông ngẫm nghĩ. Thời điểm Drama Series mắc bệnh vào tháng Chín. Nửa năm đã trôi qua và giờ ông đang tìm kiếm vào tháng Ba, Tư, Năm. Ông ngờ rằng “có thể tồn tại một kiểu xuất hiện theo mùa ở virus hoặc vật chủ” ở chuồng ngựa Cannon Hill, và mùa đã hết tại thời điểm nghiên cứu. Sàng lọc những con mèo, chó và chuột đồng quanh chuồng ngựa của Rail cũng không cho kết quả dương tính nào.
Việc virus xuất hiện theo mùa hoàn toàn là có thể. Một khả năng khác là chúng đến và đi trong một khung thời gian ngắn hơn. Chẳng hạn loài dơi xuất hiện rất nhiều ở chuồng ngựa Cannon Hill vào buổi đêm, nhưng quay về tổ của chúng ở đâu đó để ngủ qua ban ngày. Peter Reid đã nghe những cư dân ở Cannon Hill kể rằng, vào ban đêm ở khu dân cư này,“lũ cáo bay nhiều như sao trên trời.” Reid sau đó đã gợi ý cho AAHL rằng nên xem xét những con dơi, nhưng rõ ràng ý kiến của ông không hề được quan tâm. Hume Field và những đồng nghiệp của mình gặp bế tắc trong cuộc đi săn ổ chứa cho tới tháng Mười
năm 1995, khi một sự kiện không may mang đến manh mối mới.
Một nông dân trồng mía trẻ tuổi có tên Mark Preston, sống ở gần thị trấn Mackay, khoảng 600 dặm về phía bắc Brisbane, đã lên nhiều cơn co giật liên tục và được vợ đưa đến bệnh viện. Các triệu chứng của Preston đặc biệt đáng báo động, bởi đây là cơn khủng hoảng sức khỏe thứ hai của anh chỉ trong vòng hơn một năm. Hồi tháng Tám năm 1994, anh mắc phải một căn bệnh lạ, gây đau đầu, nôn ói, cứng cổ và sau đó được chẩn đoán tạm thời là viêm màng não không rõ nguyên nhân, và đã khỏi. Hay dường như là vậy.
Viêm màng não là thuật ngữ được áp dụng cho bất kì triệu chứng viêm nào trên lớp màng bao phủ não bộ và tủy sống; hiện tượng này có thể do vi khuẩn, virus hay thậm chí là phản ứng với thuốc gây nên, và có thể chấm dứt một cách khó hiểu y như khi xuất hiện vậy. Preston tiếp tục cuộc sống khỏe mạnh ở trang trại với vợ là Margaret, một bác sĩ thú y với phòng khám nằm giữa cách đồng mía và những con ngựa đua.
Liệu những cơn co giật của Mark Preston có đánh dấu sự trở lại của chứng viêm màng não chưa được xác định? Sau khi nhập viện, anh xuất hiện triệu chứng viêm não nặng – hay nói cách khác là não bị sưng, chưa rõ nguyên nhân. Điều trị bằng thuốc đã kiểm soát được những cơn co giật, tuy nhiên các bác sĩ có thể thấy hàng loạt những cơn nguy kịch nhấp nháy trên điện não đồ. Theo báo cáo y tế sau đó: “Anh ấy hôn mê với cơn sốt dai dẳng, và qua đời sau khi nhập viện 25 ngày.”
Huyết thanh lấy khi Preston đi vào giai đoạn cuối của bệnh cho kết quả dương tính với virus Hendra. Mẫu huyết thanh được lấy khi anh mắc bệnh lần đầu tiên từ một năm trước cũng được lấy ra xét nghiệm lại, và cho kết quả tương tự. Hệ miễn dịch của Preston vẫn chiến đấu với thứ đó từ lúc ấy. Các kết quả xét nghiệm tế bào não của anh ấy sau khi qua đời, cùng với các xét nghiệm khác, xác nhận sự có mặt của virus Hendra. Có vẻ như
virus sau khi tấn công đã chuyển sang tồn tại ở trạng thái ngầm trong một năm, rồi mới bùng phát và giết chết anh ấy. Điều này đáng sợ ở một mức độ hoàn toàn mới.
Preston mắc phải nó ở đâu? Các điều tra viên, sau khi truy dấu ngược lại để kết nối các sự kiện, phát hiện ra rằng hai con ngựa đã chết tại trang trại của Preston vào tháng Tám năm 1994. Mark đã giúp vợ chăm sóc chúng trong cơn bệnh của chúng và hỗ trợ cô ấy, ở mức độ nào đó, trong quá trình khám nghiệm tử thi. Những mẫu tế bào từ hai con ngựa được Margaret Preston bảo quản và lưu trữ cũng cho kết quả xét nghiệm dương tính với virus Hendra. Tuy nhiên mặc dù tiếp xúc gần với lũ ngựa, cô vẫn khỏe mạnh – cũng giống như Peter Reid, mặc cho phơi nhiễm ở chỗ của Vic Rail vài tuần sau đó. Tình trạng sức khỏe của hai bác sĩ thú y đã dấy lên những câu hỏi về khả năng lây nhiễm của virus mới này. Và ở trường hợp của Preston, với khoảng cách như vậy so với điểm bùng phát đầu tiên, khiến các chuyên gia băn khoăn và lo lắng về việc nó có thể đã lan rộng đến mức nào. Lấy khoảng cách từ Hendra tới Mackey làm bán kính và điểm , vẽ đường tròn khu vực phát tán quanh địa điểm mỗi đợt bùng phát, ta được khu vực bao trùm khoảng 10 triệu người, gần một nửa dân số nước Úc.
Vấn đề lớn đến mức nào? Virus đã lan rộng ra bao nhiêu? Một nhóm các nhà nghiên cứu, được dẫn đầu bởi Joseph McCormack, một chuyên gia về các bệnh truyền nhiễm, làm việc tại bệnh viện nơi Vic Rail qua đời, đã đánh giá vấn đề một cách tổng quát hơn. Họ sàng lọc huyết thanh từ 5.000 con ngựa ở Brisbane – gần như tất cả những ngựa mà họ có thể lấy mẫu – và từ 298 người từng có tiếp xúc ở mức độ nào đó với một trong những trường hợp nhiễm virus Hendra. Không có bất cứ mẫu nào chứa kháng thể Hendra. Những kết quả âm tính đó, có thể phỏng đoán, đã đem lại sự nhẹ nhõm cho các quan chức y tế và làm hằn thêm nếp nhăn trên gương mặt các nhà khoa học. “Có vẻ như,” nhóm của McCormack kết luận,“sự tiếp xúc cực gần là điều kiện cần thiết để sự truyền nhiễm xảy ra từ ngựa sang
người.” Nhưng đó chỉ đơn thuần là suy nghĩ tích cực viển vông. Giả thiết “phải có sự tiếp xúc cực gần” không giải thích được việc Margaret Preston đã không bị mắc bệnh như chồng mình. Sự thật là: sự tiếp xúc cực gần đó, cộng thêm vận đen, cộng thêm có thể một hay hai yếu tố khác là điều kiện cần thiết để một người bị mắc bệnh, và không ai biết những yếu tố khác là gì.
Tuy nhiên trường hợp của Mark Preston đã đem đến cho Hume Field những manh mối quý giá –mốc thời gian cũng như địa điểm thứ hai trên bản đồ. Virus Hendra xuất hiện ở Mackay vào tháng Tám năm 1994; sau đó là chuồng ngựa Cannon Hill và chuồng của Rail vào tháng Chín năm 1994. Do đó Field đã tới Mackay và lặp lại phương pháp của mình, bẫy động vật, lấy và gửi mẫu huyết thanh đi xét nghiệm tìm kháng thể.
Và một lần nữa ông vẫn không tìm được gì. Ông cũng thu thập mẫu từ những con thú hoang bị thương hoặc bị suy nhược, đang được chăm sóc cho tới khi có thể được thả về tự nhiên. Thực hiện công việc đó là mạng lưới những người nghiệp dư và tốt bụng, hay còn thường được gọi là những “người chăm sóc” động vật hoang dã. Họ thường tập trung chăm sóc cho một số nhóm động vật cụ thể: có những người chăm sóc kangaroo, nhóm khác lại chăm sóc chim, chồn Possum, hay dơi. Hume Field biết tới họ từ những năm tháng làm bác sĩ thú y, và thậm chí cũng từng làm công việc đó trong những tháng ngày sinh viên ở trại chăm sóc động vật. Giờ đây, ông lấy mẫu một vài con vật mà họ đang chăm sóc.
Nhưng kết quả vẫn không có dấu vết của Hendra.
Tháng Một 1996, khi cuộc tìm kiếm vật chủ dự trữ đi vào bế tắc, theo yêu cầu của cấp trên tại DPI, Field tham gia một phiên họp chung cùng với các quan chức của cơ quan cũng như các nhà nghiên cứu. Họ đang làm sai điều gì? Làm thế nào để hướng những nỗ lực của họ tới đúng mục tiêu hơn? Virus Hendra sẽ tấn công nơi nào tiếp theo? Ngành công nghiệp đua ngựa
Queensland đứng trước nguy cơ thua lỗ hàng triệu đô la, và tính mạng con người đang bị đe dọa. Đây không chỉ đơn thuần là vấn đề của ngành y tế, mà là tình trạng khẩn cấp về cả quản lý và quan hệ công chúng. Một hướng tư duy hữu ích đã được phát hiện ở cuộc họp: địa sinh lý. Có thể thấy rõ rằng (các) vật chủ dự trữ, dù là loài sinh vật nào, cũng phải tồn tại ở cả Mackay và Cannon Hill –ít nhất là trong một khoảng thời gian nào đó trong năm, bao gồm cả tháng Tám và tháng Chín. Điều này hướng tới những loài động vật, hoặc phân bố rộng rãi ở Queensland, hoặc có khả năng di chuyển rộng rãi khắp bang. Những người tham gia cuộc họp (phần nào dựa trên các bằng chứng di truyền cho thấy không có biểu hiện của chủng virus đặc trưng theo khu vực – hay nói cách khác, virus vừa di chuyển vừa biến đổi) thiên về khả năng thứ hai rằng vật chủ dự trữ là loài có khả năng di chuyển dễ dàng, với phạm vi có thể lên đến hàng trăm dặm dọc theo bờ biển Queensland. Điều đó tiếp tục hướng sự nghi ngờ tới những con chim và… dơi.
Tạm thời, Field và các đồng nghiệp loại bỏ giả thuyết về chim, dựa trên hai điểm. Thứ nhất, họ không có bất kỳ bằng chứng nào về một loại paramyxovirus truyền từ chim sang người. Thứ hai, ổ chứa là động vật có vú sẽ hợp lý hơn, khi mà virus gây bệnh trên cả người và ngựa. Sự tương đồng giữa các loài vật chủ là dấu hiệu quan trọng chỉ ra khả năng lây truyền của mầm bệnh. Dơi là động vật có vú. Và chúng có thể di chuyển khá rộng. Hơn thế nữa, dơi vốn nổi tiếng mang một loại virus vô cùng đáng sợ, virus gây bệnh dại, dù tại thời điểm đó căn bệnh này cũng không tồn tại tại Úc. (Rất nhiều mối liên hệ dơi-virus người khác đã được phát hiện không lâu sau đó, bao gồm cả một số trường hợp tại Úc; nhưng ở thời điểm năm 1996, sự liên kết kém rõ ràng hơn.) Từ cuộc họp, Field nhận một mệnh lệnh mới: Kiểm tra những con dơi.
Nói ra có vẻ dễ, nhưng việc bắt lũ dơi đang bay, hay thậm chí khi chúng đã đậu xuống, không đơn giản như việc đặt bẫy loài gặm nhấm hay động vật có túi trên đồng cỏ. Loài dơi dễ được
tìm thấy và phổ biến nhất ở vùng Queensland còn được gọi là cáo bay, nằm trong bốn loài thuộc chi Pteropus, tất cả đều là những con dơi ăn hoa quả khổng lồ với sải cánh dài tới một mét hoặc hơn. Cáo bay có thói quen đậu ở những vùng rừng ngập mặn, những vùng đầm lầy cây tràm, hoặc trên những cành cây cao trong rừng mưa nhiệt đới. Họ cần tới những công cụ và phương pháp đánh bẫy đặc biệt cho việc này. Do không thể chuẩn bị dụng cụ ngay lập tức, Field ngay lập tức quay trở lại với mạng lưới “người chăm sóc”. Tại một cơ sở ở Rockhampton, trên bờ biển hướng về phía Mackay, ông phát hiện trong số những con vật bị thương đang được chăm sóc có những con cáo đen bay (Pteropus alecto). Và ông đã trúng số độc đắc: Mẫu máu của một trong số chúng có kháng thể chống virus Hendra.
Thế nhưng một phát hiện như vậy hoàn toàn không đủ cho một nhà khoa học khó tính như Hume Field.
Dữ kiện đó chứng tỏ rằng những con dơi đen có thể mang virus Hendra, nhưng không đủ chứng minh chúng là một vật chủ dự trữ – huống hồ chính là vật chủ dự trữ đang cần tìm – khiến cho những con ngựa bị bệnh. Ông và các đồng nghiệp tiếp tục tìm kiếm. Trong vòng một vài tuần, kháng thể Hendra được tìm thấy ở ba loài khác nữa, dơi đầu xám, dơi quạ đeo kính và dơi đỏ nhỏ. Đội ngũ DPI cũng đã xét nghiệm những mẫu cũ từ dơi được lưu trữ từ hơn chục năm trước. Một lần nữa, họ tìm thấy dấu vết phân tử của Hendra. Điều này cho thấy quần thể dơi đã tiếp xúc với Hendra rất lâu trước khi virus tấn công đàn ngựa của Vic Rail. Và rồi, vào tháng Chín năm 1996, hai năm sau đợt bùng phát ở trang trại của Rail, một con dơi đầu xám đang mang thai bị mắc vào một hàng rào dây thép.
Con vật sẩy bào thai sinh đôi và bị cho an tử. Con dơi này không chỉ được xét nghiệm dương tính với kháng thể; nó còn giúp các nhà khoa học lần đầu tiên phân lập virus Hendra từ dơi. Một mẫu nước tiểu của nó chứa virus sống giống hệt với virus Hendra tìm thấy ở ngựa và người. Ngay cả với sự thận
trọng của khoa học, vậy là đủ để xác định dơi có khả năng là vật chủ dự trữ của Hendra.
Càng tìm kiếm, Field và các đồng nghiệp càng phát hiện nhiều dấu hiệu của Hendra. Sau các khảo sát ban đầu, khoảng 15% số dơi được xét nghiệm dương tính với kháng thể Hendra. Tham số này – tỷ lệ cá thể được lấy mẫu cho thấy tiền sử nhiễm virus, bất kể hiện tại hay quá khứ – được gọi là trị số huyết thanh. Hệ số này cho phép ước tính, dựa trên việc lấy mẫu có giới hạn, về tỷ lệ trên toàn bộ quần thể. Trị số huyết thanh tăng lên khi nhóm nghiên cứu tiếp tục thử nghiệm. Sau hai năm lấy mẫu trên tổng số 1043 con dơi, Field và các đồng nghiệp báo cáo trị số huyết thanh Hendra ở mức 47%. Có thể nói một cách đơn giản: Gần một nửa trong số những con dơi lớn bay vòng quanh vùng phía đông nước Úc đang hoặc đã từng mang mầm bệnh, chẳng khác gì mang virus Hendra ném trải thảm xuống dưới.
Khi các nhà khoa học công bố phát hiện của mình trên các ấn phẩm định kỳ như Journal of General Virology (Tạp chí Virus học Tổng hợp) và The Lancet , một số phát hiện đã xuất hiện trên báo chí. Một dòng tít viết: NỖI LO VIRUS DƠI, NGÀNH CÔNG NGHIỆP ĐUA NGỰA CẢNH GIÁC. Những băng keo dành cho hiện trường phạm tội và những con ngựa bị cắt lìa ở nhà của Rail là điểm khởi đầu không thể cưỡng lại đối với cánh báo chí truyền hình, và mối quan tâm của họ vẫn tiếp diễn. Một vài báo cáo trên tạp chí tương đối chính xác và hợp lý, nhưng không phải tất cả, và không bài nào trong đó nhẹ nhàng. Mọi người bắt đầu trở nên lo lắng. Việc xác định cáo bay là vật chủ dự trữ, cộng thêm mức trị số huyết thanh cao trong quần thể loài dơi, khiến cho hình ảnh của loài vật vốn đã có tiền sử rắc rối trở nên tồi tệ hơn. Sự ủng hộ dành cho những con dơi chưa bao giờ cao, và giờ đây tại Úc, tỷ lệ này còn giảm thấp hơn.
Một người huấn luyện ngựa đua xuất sắc đã nói với tôi quan điểm của ông về vấn đề này tại một trường đua ở Hendra, vào một ngày thứ bảy đầy nắng, trong quãng nghỉ giữa những cuộc đua. “Virus Hendra!” Người đàn ông này nổi nóng khi nghe đến
g g y g g
cái tên đó. “Họ đáng ra không nên để cho nó xảy ra!” “Họ” ám chỉ những nhà chức trách. “Họ nên xử lý lũ dơi! Những con dơi đó gây ra căn bệnh này! Chúng treo ngược và tự ỉa lên chính bản thân chúng!” (Tôi tự hỏi điều đó có đúng không? Về mặt sinh lý thì khó có thể.) “Và chúng ỉa lên con người! Thật ngược đời – đáng ra phải là ta ỉa lên chúng! Chúng thì có lợi gì? Giết hết chúng đi! Tại sao điều đó không xảy ra? Bởi vì những kẻ Hoạt động môi trường ủy mị không cho phép!” Ông cằn nhằn. Chúng tôi lúc đó đang ở quán Members, thánh địa dành cho những người làm trong ngành đua ngựa, và tôi đến đó cùng Peter Reid. “Chính quyền nên bảo vệ mọi người! Nhất là các các bác sĩ thú y, như anh bạn Peter của chúng ta đây!” Ông hắng giọng và tiếp tục tuôn ra hàng tràng. Người huấn luyện ngựa này, một nhân vật huyền thoại trong giới đua ngựa ở Úc, là một người đàn ông ngoài tám mươi thấp bé với mái tóc xám vuốt ngược lượn sóng.
Tôi là khách là trong câu lạc bộ và nên dành một chút tôn trọng – hay đúng hơn, bỏ qua cho ông ta. (Công bằng mà nói, ông ấy nói không lâu sau khi một nạn nhân khác, một bác sĩ thú y có tên Ben Cunneen, qua đời vì mắc virus Hendra sau khi chữa trị cho những con ngựa ốm. Mối nguy hiểm chết người đối với những người chăm ngựa, và rủi ro kinh tế cho toàn bộ ngành công nghiệp đua ngựa của Úc, khi đó là không thể chối cãi.) Khi tôi bày tỏ mong muốn thật sự dẫn lời người huấn luyện này trong báo cáo, giọng ông trở nên bình tĩnh hơn, nhưng đại ý vẫn như vậy.
Trong số những “kẻ hoạt động môi trường ủy mị”, hẳn ý ông có cả những người chăm sóc dơi. Nhưng ngay cả những nhà hoạt động nhân hậu, những người chăm sóc, cũng dần cảm thấy lo lắng khi các dấu hiệu ngày một nhiều lên. Họ có hai mối lo, đối nghịch nhau một cách bất an: rằng virus sẽ khiến những con dơi ngày càng bị ghét bỏ, dẫn tới những kêu gọi (như của người huấn luyện ngựa) về việc xóa sổ loài dơi, và rằng chính bản thân họ cũng có thể mắc bệnh trong khi thực hiện công việc đầy thiện ý của mình. Điều thứ hai là một nỗi lo ngại mới. Nó
hẳn đã khiến cho họ phải xem xét lại sự tận tụy của mình. Suy cho cùng, họ yêu dơi, chứ không yêu virus. Liệu virus có phải một phần của thế giới hoang dã? Trong tâm trí của phần lớn mọi người thì không. Một vài người chăm sóc đã xin được sàng lọc tìm kháng thể, điều mở ra những cơ hội mới cho một cuộc khảo sát diện rộng, được tổ chức nhanh chóng và dẫn đầu bởi một nhà dịch tễ học trẻ tuổi đến từ trường Đại học Queensland tên là Linda Selvey.
Selvey đã liên hệ với mạng lưới những người chăm sóc động vật hoang dã ở miền đông nam nước Úc, sau cùng đã tìm được 128 người chăm sóc dơi đồng ý và sẵn sàng được kiểm tra. Cô ấy và nhóm thực địa của mình đã lấy máu và yêu cầu mỗi người tham gia hoàn thành một bảng câu hỏi. Bảng câu hỏi cho thấy rất nhiều trong số những người này đã có tiếp xúc gần trong thời gian dài với những con dơi – cho chúng ăn, chăm nom, và đôi khi còn bị cào hay cắn. Một người chăm sóc đã bị một con dơi dương tính với Hendra cắn rất sâu ở bàn tay. Phát hiện bất ngờ nhất trong khảo sát của Selvey là tỷ lệ phần trăm dương tính với Hendra trong số 128 người chăm sóc là 0. Mặc cho hàng năm tháng chăm nom, ốm ấp và bị cào hay cắn, đầy dãi và máu, không một ai cho thấy dấu hiệu miễn dịch của việc từng nhiễm virus Hendra.
Báo cáo của Selvey được công bố vào tháng Mười 1996. Thời điểm này, cô vẫn còn là một sinh viên cao học, rồi trở thành người đứng đầu Chi nhánh Bệnh truyền nhiễm của Ủy ban Sức khỏe Queensland. Sau này, khi ngồi uống cà phê với cô ở một quán café ồn ào ở Brisbane, tôi đã hỏi: “Những người chăm sóc dơi này là ai?”
Selvey trả lời: “Tôi không biết miêu tả họ ra sao. Những người đam mê động vật. Chắc là vậy.” Cả nữ và nam giới? “Hầu hết là nữ giới.” Cô trả lời, hơi nghiêng về giải thiết nhưng người phụ nữ không có con có thể có nhiều thời gian và khao khát hơn cho những công việc đó để lấp đầy khoảng trống. Thông thường họ làm công việc chăm sóc ngay tại nhà riêng, với những cái lồng
g ệ g y ạ g g g lớn và thoải mái, nơi mà những con dơi có thể đậu khi không bị đụng chạm. Điều này có vẻ bí ẩn với tôi khi mà những mối liên hệ rất gần giữa người và dơi, cùng với trị số huyết thanh cao của dơi, vẫn chưa gây ra một ca nhiễm bệnh trên người nào theo nghiên cứu của Selvey. Không một người ai trong số 128 người chăm sóc dương tính với kháng thể. Tôi hỏi Selvey: “Điều này nói lên gì về bản chất của loại virus?”
“Nó cần một loại tác nhân kích thích nào đó,” cô đáp, ám chỉ những con ngựa.
5
Cùng xét đến bệnh lở mồm long móng một chút. Ai cũng đều đã nghe về chúng. Ai cũng đều đã xem bộ phim Hud✽. Hầu hết mọi người đều không mảy may biết rằng đó là bệnh lây truyền từ động vật. Loại virus gây nên bệnh lở mồm long móng (FMD) thuộc chủng picornavirus, nhóm bao gồm virus bại liệt và một số virus giống với những virus gây cúm thông thường. Tuy nhiên, việc lây nhiễm FMD là một sự bất hạnh hiếm gặp ở người, đôi khi gây phát ban tệ hơn ở tay, chân, hay vòm miệng. Một cách phổ biến hơn, chúng gây bệnh trên những con vật thuộc bộ móng guốc như gia súc, cừu, dê, và lợn. (Thú móng guốc hoang dã như hươu, nai và linh dương cũng dễ mắc bệnh.) Dấu hiệu lâm sàng bao gồm sốt, đi không vững và nổi mụn nước (mụn rộp nhỏ) ở trong miệng, trên mõm và chân. Ở một con cái đang cho con bú, núm vú đôi khi mọc mụn rộp, rồi mụn vỡ sinh lở loét, rất có hại cho cả con mẹ lẫn con non. Khả năng gây tử vong của FMD tương đối thấp, nhưng tỷ lệ mắc bệnh (số ca mắc bệnh trong một quần thể) thường khá cao, hay nói cách khác căn bệnh này dễ lây lan, khiến gia súc chăn nuôi bị ốm, không ăn uống được, gây giảm năng suất, và có thể coi là thảm họa với các hệ thống chăn nuôi quy mô lớn với lãi suất thấp. Vì những thiệt hại đó, cộng thêm sự lây lan nhanh chóng, nó thường được xem như căn bệnh giai đoạn cuối trong ngành thương mại: Đàn gia súc bị bệnh sẽ bị giết để ngăn chặn virus lây lan ra xung quanh. Không ai muốn mua gia súc có nguy cơ mang bệnh, và xuất khẩu thương mại sụp đổ. Bò, cừu, và lợn trở nên vô giá trị – thậm chí thấp hơn cả mức vô giá trị, trở thành một khoản nợ.
“Về mặt kinh tế, đó là căn bệnh quan trọng nhất đối với động vật trên thế giới,” theo một nhà chức trách, người đã báo cáo rằng “một cơn bùng phát FMD ở Mỹ có thể gây thiệt hại 27 tỷ đô la trong thương mại và giao dịch.” Virus lây lan qua tiếp xúc trực tiếp, qua phân và sữa, hay thậm chí có khả năng lây truyền qua bụi khí. Nó có thể theo luồng gió ẩm di chuyển từ trang trại này sang trang trại khác.
Tác động của FMD khác biệt trên mỗi loài động vật khác nhau. Cừu thường mang bệnh mà không biểu hiệu triệu chứng. Gia súc biểu hiện rõ và truyền virus cho những con khác qua tiếp xúc trực tiếp (giả sử như qua việc chạm mõm) hay truyền từ con mẹ sang con non (từ bò qua bê) qua bú mớm. Trường hợp của lợn đặc biệt hơn: chúng giải phóng nhiều virus hơn những con vật chăn nuôi khác, và trong một khoảng thời gian dài hơn, phát tán chúng một cách phi thường qua đường hô hấp. Chúng sổ mũi, xì hơi, khụt khịt, khò khè, ợ và ho ra bầu không khí. Một nghiên cứu thử nghiệm phát hiện ra rằng hơi thở của lợn chứa nhiều virus FMD gấp 30 lần hơi thở của một con bò hay cừu bị bệnh, và một khi đã ra không khí, virus có thể lây lan ra hàng dặm. Đó là lý do vì sao lợn được coi là vật chủ khuếch đại của loại virus này.
Vật chủ khuếch đại là sinh vật mà qua đó virus hay các mầm bệnh nhân lên – và từ đó lan rộng ra – với số lượng khủng khiếp. Một vài đặc điểm sinh lý của vật chủ, hệ miễn dịch hay lịch sử tương tác đặc thù của nó với mầm bệnh, hay một nguyên nhân nào đó không ai biết, đã hình thành nên vai trò đặc biệt thân thiện này. Vật chủ khuếch đại trở thành mối liên kết trực tiếp giữa vật chủ dự trữ và những động vật không may khác: một kiểu nạn nhân khác, cần tới lượng virus lớn hơn hay tiếp xúc gần hơn để có thể nhiễm bệnh. Bạn có thể tưởng tượng cơ chế này theo các ngưỡng. Vật chủ khuếch đại có một ngưỡng khá thấp để có thể mắc bệnh, thế nhưng lại sản sinh một lượng lớn virus, đủ lớn để vượt quá ngưỡng cần thiết cao hơn rất nhiều của một loài vật khác.
Không phải tất cả mầm bệnh lây truyền từ động vật đều cần vật chủ khuếch đại để có thể lây nhiễm thành công lên người, nhưng một số khác rõ ràng cần đến chúng. Vậy loại nào cần, và quá trình đó ra sao? Các nhà bệnh lý học vẫn đang nỗ lực đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi này, trong số rất nhiều các câu hỏi khác. Trong lúc đó, khái niệm này vẫn là một công cụ giả định. Linda Selvey không nhắc tới mô hình FMD khi sử dụng từ “khuếch đại” trong cuộc nói chuyện về virus Hendra, nhưng tôi hiểu ý của cô ấy.
Dù vậy… sao lại là ngựa? Tại sao không phải là kangaroo, gấu túi wombat hay koala, hoặc thú có túi potoroo? Nếu ngựa đóng vai trò vật chủ khuếch đại, có một sự thật hiển nhiên cần được chú ý tới: Ngựa không phải sinh vật bản địa của Úc. Chúng là động vật ngoại lai, được mang tới bởi những người châu Âu khai khẩn hơn hai thế kỷ trước. Như các nhà sinh học phân tử tiến học đã chỉ ra, dựa trên những dấu hiệu cổ xưa trong vật chất di truyền, Hendra hẳn không phải một loại virus mới. Với những khác biệt lớn so với người họ hàng morbillivirus, nó có thể đã tồn tại bí mật ở Úc trong suốt một thời gian dài. Dơi là một loài động vật bản xứ từ xa xưa; các bằng chứng hóa thạch ở Queensland cho thấy những con dơi nhỏ đã có mặt ở đó từ cách đây ít nhất là 55 triệu năm, và dơi hiện nay có thể đã tiến hóa tại khu vực này vào thời kỳ đầu của Thế Miocen✽, khoảng 20 triệu năm trước. Chỉ đến cách đây vài trăm nghìn năm mới bắt đầu có sự xuất hiện của con người. Nói một cách chính xác hơn, con người bắt đầu có mặt tại khu vực này kể từ khi những tổ tiên của thổ dân châu Úc, với những con thuyền gỗ đơn sơ, di chuyển một cách táo bạo giữa các hòn đảo, từ vùng Đông Nam Á theo biển Đông và quần đảo Lesser Sunda tới vùng bờ biển phía tây Bắc của lục địa này. Thời điểm đó cách đây ít nhất 40.000 năm, nhiều khả năng còn xa hơn nữa. Do đó ba trong bốn tham số của tương tác phức tạp này – dơi, virus Hendra và con người – có lẽ đã chung sống ở Úc kể từ Thế Pleistocen✽. Ngựa chỉ xuất hiện kể từ tháng Một 1788.
Đó chỉ là một thay đổi nhỏ về bối cảnh, so với tất cả những gì theo sau nó. Những con ngựa đầu tiên lên những con tàu của Hạm đội Thứ Nhất, dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Arthur Phillip, người đã dong buồm từ nước Anh để lập ra một thuộc địa tại New South Wales dành cho những phạm nhân bị kết án. Sau 5 tháng rong buồm trên Đại Tây Dương, Phillip dừng chân ở một khu định cư của người Hà Lan gần Mũi Hảo Vọng để lấy hàng tiếp tế và gia súc trước khi đi tiếp về phía đông từ châu Phi. Ông đi vòng qua Van Diemen’s Land (Vùng đất của Van Diemen, nay là Tasmania) và đi lên phía bắc dọc theo bờ biển phía đông hòn đảo chính của lục địa Úc. Có thể James Cook đã “khám phá” ra nơi này từ trước đó rất lâu, nhưng nhóm của Phillip mới là những người châu Âu đầu tiên định cư lại. Tại một địa điểm gần nơi mà nay là Sydney, bên trong cảng biển tự nhiên tuyệt đẹp, những con tàu chở phạm nhân đưa tới 736 người, 74 con lợn, 29 con cừu, 19 con dê, 5 con thỏ và 9 con ngựa. Số ngựa trên bao gồm 2 con ngựa giống, 4 con ngựa cái và 3 con ngựa con. Cho tới ngày hôm đó chưa từng có ghi chép nào, dù là hóa thạch hay lịch sử, về những con vật thuộc chi Equus (ngựa) ở Úc. Cũng như có bất kỳ một câu chuyện truyền miệng nào (ít nhất trong số được biết tới ngày nay) về những đợt bùng phát của virus Hendra trong cộng đồng thổ dân châu Úc.
Tính đến ngày 27 tháng Một năm 1788, khi đó, tất cả các yếu tố gần như đã chắc chắn hội tụ ở cùng một nơi – loại virus, vật chủ dự trữ, vật chủ khuếch đại, cùng với những con người dễ nhiễm bệnh. Và một câu đố khác xuất hiện. Từ những con ngựa của thuyền trưởng Arthur Phillip tới những con ngựa của Vic Rail là khoảng thời gian 206 năm. Tại sao virus lại chờ đợi lâu như vậy mới xuất hiện? Hay nó thực sự đã xuất hiện trước đó, thậm chí là thường xuyên, và chưa từng được nhận ra như bấy giờ? Đã từng có bao nhiêu ca mắc Hendra, trong hơi hai thế kỷ, đã bị chẩn đoán sai là bị rắn cắn?
Câu trả lời từ các nhà khoa học: Chúng tôi không rõ, nhưng đang cố gắng tìm hiểu về nó.
6
Virus Hendra năm 1994 chỉ là một nhịp trong hồi trống của những tin dữ, và ngày càng lớn, dồn dập và gấp gáp hơn trong suốt 50 năm qua. Thời kỳ hiện đại của những căn bệnh lây truyền từ động vật này thực sự bắt đầu từ khi nào và ở đâu?
Để chọn một thời điểm có lẽ phần nhiều cảm tính, nhưng một ứng viên phù hợp có thể là sự xuất hiện của virus Machupo tại những ngôi làng ở Bolivia trong thời kỳ từ năm 1959 đến 1963. Virus, hiển nhiên, ban đầu không mang cái tên Machupo, hay thậm chí được công nhận là một loại virus. Machupo là tên của dòng sông nhỏ chảy qua vùng đông bắc của vùng lòng chảo Bolivia. Ca bệnh đầu tiên được ghi nhận đến và đi, gần như không ai biết, như một cơn sốt không nguy hiểm trên một người nông dân ở địa phương. Câu chuyện xảy ra vào mùa mưa của năm 1959. Căn bệnh này xuất hiện nhiều hơn, và tệ hại hơn, ở vùng này ba năm sau đó. Các triệu chứng bao gồm sốt và rét, buồn nôn và nôn mửa, toàn thân ê ẩm, chảy máu mũi, chảy máu lợi. Nó được biết đến với cái tên El Tifu Negro (Sốt phát ban đen, màu của chất nôn và phân), và tới cuối năm 1961 đã có 245 người nhiễm, với tỷ lệ tử vong là 40%. Nó tiếp tục reo rắc cái chết cho tới khi virus được phân lập, ổ chứa được xác định, và cơ chế lây nhiễm được hiểu rõ để đưa ra các biện pháp ngăn chặn. Việc bẫy chuột đã rất có ích. Phần lớn các nghiên cứu được thực hiện trong điều kiện khó khăn, bởi một nhóm các nhà khoa học Mỹ và Bolivia, trong đó có Karl Johnson, nhà khoa học trẻ đầy nhiệt huyết và bộc trực, đam mê vẻ đẹp nguy hiểm của những
con virus, người mà bản thân đã bị mắc bệnh và suýt chút nữa tử vong vì nó. Trước khi Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh (CDC) ở Atlanta gửi tới những đội ngũ được trang bị đầy đủ; Johnson và các đồng nghiệp đã vừa làm vừa sáng tạo ra những phương pháp và công cụ. Với việc đã trải qua cơn sốt ở một bệnh viện ở Panama, Karl Johnson đóng vai trò lớn và có tầm ảnh hưởng trong câu chuyện trường kỳ của những mầm bệnh mới xuất hiện.
Nếu bạn lập nên danh sách những điểm nhấn và những thời điểm đáng lo ngại của câu chuyện trường kỳ đó trong những thập kỷ gần đây, nó sẽ không chỉ bao gồm Machupo mà còn Marburg (1967), Lassa (1969), Ebola (1976, với Karl Johnson một lần nữa tham gia một cách nổi bật), HIV-1 (kết luận vào năm 1981, phân lập lần đầu tiên vào năm 1983), HIV-2 (1998), Sin Nombre (1993), Hendra (1994), cúm gia cầm (1997), Nipah (1998), Tây sông Nile (1999), SARS (2003), và đại dịch cúm khiến người ta lo sợ nhưng may mắn không gây thiệt hại lớn vào năm 2009. Đó là một bộ phim truyền hình đầy ắp và sôi sục virus hơn cả con ngựa cái tội nghiệp của Vic Rail.
Người ta có thể phân tích danh sách này như một chuỗi những sự kiện tàn khốc nhưng không liên đến nhau – những sự không may đơn lẻ xảy đến với chúng ta, với con người, vì một lý do không thể hiểu được nào đó. Nếu nhìn nhận theo cách đó, Machupo, HIV, SARS cũng như những căn bệnh khác có thể coi như “hành động của Chúa”, những thiên tai đáng tiếc giống như động đất, núi lửa phun trào hay thiên thạch va chạm, những thứ khiến người ta than thở và có thể sửa chữa sau đó, nhưng không thể tránh khỏi. Đó là một cách nhìn bị động, gần như khắc kỷ. Hơn hết, đó là cách nhìn sai lầm.
Đừng nhầm lẫn. Những đợt bùng phát dịch bệnh xuất hiện liên tiếp này đều liên quan đến nhau. Chúng không đơn thuần xảy đến với chúng ta; chúng đại diện cho hậu quả không mong muốn của những gì con người đang làm, phản ánh sự giao thoa của hai hình thái khủng hoảng trên hành tinh này. Đầu tiên là
g g y
hệ sinh thái, thứ hai là y tế. Khi hai thứ này giao nhau, hậu quả chung xuất hiện dưới dạng một chuỗi các căn bệnh mới và nguy hiểm, trỗi dậy từ những nguồn không ngờ tới và mang đến những lo ngại sâu sắc cũng như tiên đoán sâu xa giữa những nhà khoa học nghiên cứu chúng.
Làm thế nào những căn bệnh này truyền từ động vật không phải người sang người, và tại sao chúng lại nhảy nhiều hơn trong những năm gần đây? Nói một cách thẳng thắn: Áp lực và sự phá hoại về mặt sinh thái do con người gây ra đang khiến những mầm bệnh trên động vật tiếp xúc gần hơn với cộng đồng, khi công nghệ và những hành vi của con người đang cho phép những mầm bệnh đó phát tán rộng rãi và nhanh chóng hơn. Có ba yếu tố dẫn tới tình trạng này.
Thứ nhất: Các hoạt động của con người đang khiến hệ sinh thái tự nhiên tan rã ở tốc độ thảm họa. Chúng ta đều biết sơ qua về vấn đề này. Với việc chặt phá rừng, làm đường, du canh du cư, săn bắn và ăn thịt động vật hoang dã (khi người ở châu lục làm điều đó, người ta gọi nó là “thịt rừng” theo cách tiêu cực, trong khi ở phương Tây đôi khi đó lại chỉ đơn giản là một “trò chơi”), phá rừng để làm đồng cỏ chăn nuôi, khai thác khoáng sản, đô thị hóa, ô nhiễm hóa học, rửa trôi khoáng chất, khai thác thủy hải sản không bền vững, biến đổi khí hậu, xuất khẩu quốc tế những mặt hàng mà việc sản xuất cần tới bất kỳ một biện pháp nào kể trên, và cả những hoạt động “văn minh” khác tác động lên cảnh quan thiên nhiên. Với tất cả những hoạt động đó, chúng ta đang xé nát hệ sinh thái. Những điều này cũng không hề mới. Con người đã và đang thực hiện những hoạt động đó, với những công cụ thô sơ từ xa xưa. Nhưng giờ đây, với bảy tỷ người sống trên trái đất và công nghệ hiện đại trong tay, tác động tổng thể đang ngày càng trở nên nguy cấp. Những khu rừng nhiệt đới không phải là hệ sinh thái duy nhất bị hủy hoại, nhưng là hệ sinh thái đa dạng và có cấu trúc phức tạp nhất. Bên trong những hệ sinh thái đó là hàng triệu loài sinh vật sống,
hầu hết chưa được khoa học biết tới và phân loại, phần còn lại gần như chỉ được biết tới và hiểu một cách qua loa.
Thứ hai: Hàng triệu sinh vật chưa được biết tới đó bao gồm những loài virus, vi khuẩn, nấm, sinh vật nguyên sinh và các sinh vật khác, rất nhiều trong số đó sống ký sinh. Những sinh viên ngành virus học giờ đây nói tới “vi cầu,” một thế giới rộng lớn của những sinh vật nhỏ bé hơn tất cả những nhóm sinh vật khác. Nhiều loại virus, chẳng hạn, cư ngụ ở những khu rừng ở Trung Phi, mỗi loại ký sinh trên một loại vi khuẩn, động vật, nấm hay sinh vật nguyên sinh và cây cối, tất cả đều đính bên trong những mối liên hệ sinh lý và sinh sôi giới hạn trong khu vực địa lý mà chúng tồn tại. Những virus Ebola, Marburg, Lassa và thủy đậu, cũng như các tác nhân suy giảm miễn dịch ở người, đại diện cho chỉ một phần rất nhỏ của những gì đang tồn tại ở đó – vô số những loại virus chưa được phát hiện – bên trong những vật chủ mà chính bản thân chúng cũng chưa được phát hiện. Virus chỉ có thể nhân rộng trong tế bào sống của sinh vật khác. Thông thường, chúng trú ngụ trong loại động vật hay cây cối mà chúng có mối liên hệ gần gũi, cổ xưa, và thường (nhưng không phải luôn luôn) cộng hưởng. Phụ thuộc nhưng không gây ảnh hưởng lớn. Chúng không sống độc lập, nhưng cũng không gây ồn ào. Đôi khi có thể một vài con khỉ hay chim bị chết, nhưng những thi thể đó nhanh chóng bị khu rừng hấp thụ. Con người hiếm khi có cơ hội để ý tới.
Thứ ba: Nhưng giờ việc phá vỡ hệ sinh thái tự nhiên dường như đang ngày càng giải phóng những vi sinh vật đó ra thế giới. Khi những cái cây đổ xuống và các sinh vật bản xứ bị giết hại, những mầm bệnh địa phương bay lên như bụi từ nhà kho bị phá dỡ. Một kí sinh trùng, khi bị đẩy ra, bị trục xuất, tách khỏi vật chủ thường lệ của nó, có hai lựa chọn – tìm một vật chủ mới, một loại vật chủ mới… hoặc tuyệt chủng. Chúng không chủ đích tấn công chúng ta. Đơn giản là chúng ta quá đông đúc và sẵn có. Như lời của nhà sử học William H. McNeill đã nói: “Nếu bạn nhìn thế giới từ quan điểm của một con virus đang đói, hay
thậm chí một con vi khuẩn – chúng ta là nguồn thức ăn tuyệt vời với hàng tỷ cơ thể người, nơi mà, trong một quá khứ rất gần, chỉ có số lượng bằng một nửa hiện nay. Trong vòng 25 hay 27 năm, dân số thế giới đã tăng gấp đôi. Một con mồi tuyệt vời cho bất kỳ sinh vật nào có thể thích nghi để xâm nhập chúng ta.” Virus, đặc biệt là một số loại nhất định – những loại mà có bộ gien ARN thay vì ADN, khiến chúng dễ đột biến hơn – có khả năng thích nghi rất cao và rất nhanh.
Tất cả những yếu tố đó đã đem tới không chỉ những trường hợp lây nhiễm mới lạ, những đợt bùng phát nhỏ đột ngột mà còn cả những trận dịch và đại dịch, trong đó đại dịch đáng sợ, thảm khốc và nổi tiếng nhất là đại dịch do chủng virus được các nhà khoa học biết tới với cái tên HIV-1 nhóm M. Đó là chủng virus HIV (trong số 12 loại) gây ra đại dịch AIDS toàn cầu. Nó đã giết chết 30 triệu người kể từ khi được phát hiện ba thập kỷ trước; với gần 34 triệu người hiện đang mắc bệnh. Mặc cho tác động rộng lớn của nó, hầu hết mọi người không biết tới sự kết hợp định mệnh của những sự kiện đã đem HIV-1 nhóm M từ một vùng rừng rậm châu Phi hẻo lánh, nơi mà tiền thân của nó ẩn náu như một nguồn lây nhiễm vô hại trên tinh tinh, đi vào lịch sử loài người. Phần lớn mọi người không biết câu chuyện thật và đầy đủ rằng AIDS không bắt nguồn từ cộng đồng người đồng tính luyến ái ở Mỹ năm 1981, hay một vài thành phố lớn ở châu Phi đầu những năm 1960, mà là ở thượng du một con sông chảy trong rừng có tên là Sangha, ở vùng đông nam Cameroon, nửa thế kỷ trước. Không nhiều người biết về những phát hiện giật mình mà, chỉ trong vài năm qua, đã thêm vào những chi tiết và cái nhìn sâu sắc cho câu chuyện đó. Những phát hiện đó sẽ được dành chỗ ở phần sau (“Tinh tinh và Dòng sông”) của cuốn sách này. Tạm thời tôi sẽ chỉ ghi chú rằng, ngay cả khi đề tài lan truyền bệnh lây truyền từ động vật chỉ đề cập đến AIDS và không gì khác, nó rõ ràng vẫn cần được xem xét một cách nghiêm túc. Tuy nhiên như đã nhắc tới ở trên, đề tài này đề cập đến nhiều điều hơn thế – những đại dịch và bệnh dịch thảm
khốc khác trong quá khứ (dịch hạch, cúm), hiện tại (sốt rét, cúm), và tương lai.
Những căn bệnh trong tương lai, khỏi nói, là vấn đề các quan chức y tế và các nhà khoa học vô cùng quan tâm. Không có lý do gì để cho rằng AIDS sẽ vẫn là trường hợp duy nhất, thảm họa toàn cầu độc nhất, do vi sinh vật lạ xuất hiện từ một loài động vật nào đó gây ra. Một số nhà dự đoán hiểu biết và bi quan thậm chí còn nói tới Sự kiện Lớn Tiếp theo như là một điều tất yếu. (Nếu bạn là một nhà địa chấn ở California, Sự kiện Lớn Tiếp theo là một trận động đất mà sẽ nhấn chìm San Francisco xuống biển. Trong trường hợp này là một đại dịch chết người diện rộng.) Liệu Sự kiện Lớn Tiếp theo có do một loại virus gây ra? Liệu nó có bước ra từ cánh rừng mưa hay một khu chợ ở miền nam Trung Quốc? Liệu nó có giết chết 30 hay 40 triệu người? Điều này tới thời điểm hiện tại đã chắc chắn, trên thực tế, đến mức chúng ta có thể nghĩ đến nó như một Sự kiện Lớn Tiếp theo. Điểm khác biệt cơ bản giữa HIV-1 và Sự kiện Lớn Tiếp theo có thể sẽ là HIV-1 gây tử vong từ từ. Phần lớn các loại virus khác hoạt động rất nhanh chóng.
Tôi dùng những từ như “sự xuất hiện” và “mới xuất hiện” như thể chúng là ngôn ngữ hàng ngày, và có lẽ đúng là như vậy. Giữa các chuyên gia, chúng chắc chắn là cách nói thông dụng. Thậm chí có một tạp chí dành riêng cho đề tài này, Những căn bệnh truyền nhiễm mới xuất hiện, xuất bản hàng tháng bởi CDC. Nhưng một định nghĩa chính xác của “sự xuất hiện” có lẽ sẽ có ích ở đây. Có rất nhiều định nghĩa được đưa ra theo ngôn ngữ khoa học. Phiên bản mà tôi ưa thích chỉ đơn giản nói rằng một căn bệnh mới xuất hiện là “căn bệnh truyền nhiễm mà số ca mắc đang tăng lên, sau khi chúng lần đầu tiên tiếp xúc với quần thể vật chủ mới.” Những từ khóa, tất nhiên, là “truyền nhiễm”,“đang tăng lên” và “vật chủ mới.” Một căn bệnh xuất hiện lại là căn bệnh mà “số ca bệnh tăng lên trong một quần thể vật chủ đã có sẵn như là kết quả của một sự thay đổi dài hạn trong nền tảng dịch tễ học của nó.” Bệnh lao đang xuất hiện trở
lại như một vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt ở châu Phi, khi mà vi khuẩn lao tận dụng một cơ hội mới: lây nhiễm lên những bệnh nhân AIDS mà hệ miễn dịch đã bị vô hiệu hóa. Sốt vàng xuất hiện trở lại trên người ở bất kỳ nơi nào loài muỗi Aedes aegypti có thể tiếp tục truyền virus giữa những con khỉ và người chưa mắc bệnh.
Sốt xuất huyết, cũng dựa vào cách thức truyền nhiễm qua muỗi cắn và ổ chứa là loài khỉ bản địa, đã xuất hiện trở lại ở Đông Nam Á sau Thế chiến thứ II, một phần do sự đô thị hóa gia tăng, du lịch rộng rãi hơn, quản lý nước thải lỏng lẻo, kiểm soát muỗi thiếu hiệu quả và cả những yếu tố khác.
Sự xuất hiện và lan truyền là những khái niệm riêng biệt nhưng có kết nối với nhau. “Lan truyền” là thuật ngữ do các nhà sinh thái bệnh dịch sử dụng (và có ý nghĩa khác với các nhà kinh tế học) để xác định thời điểm khi một mầm bệnh chuyển từ các cá thể của loài này, với tư cách vật chủ, sang các cá thể của một loài khác. Đó là một sự kiện quan trọng. Virus Hendra truyền sang Drama Series (từ dơi), rồi qua Vic Rail (từ ngựa) vào tháng Chín 1994. Sự xuất hiện là một quá trình, một xu hướng. AIDS xuất hiện vào thời kỳ cuối của Thế kỷ XX. (Hay thời kỳ đầu Thế kỷ XX? Tôi sẽ trở lại với câu hỏi này sau.) Sự lan truyền dẫn tới sự xuất hiện khi một mầm bệnh lạ, sau khi lây nhiễm một vài cá thể của loài vật chủ mới, sinh sôi bên trong loài đó và lây lan giữa chúng. Ở nghĩa này, một cách chính xác, Hendra chưa xuất hiện ở quần thể loài người, chưa hẳn. Nó mới chỉ đơn thuần là một ứng viên.
Không phải tất cả những căn bệnh mới xuất hiện là bệnh lây truyền từ động vật, nhưng phần lớn là thế. Mầm bệnh còn có thể xuất hiện từ nơi nào, nếu không phải là một sinh vật khác? Đúng là một vài mầm bệnh lạ có khả năng tự xuất hiện trong môi trường mà không cần trú ngụ trong một vật chủ dự trữ. Ví dụ: Vi khuẩn hiện được biết đến với tên gọi Legionella pneumophila xuất hiện từ tháp lạnh của hệ thống điều hòa nhiệt độ tại một khách sạn ở Philadelphia vào năm 1976, và tạo
ệ ộ ạ ộ ạ p ạ nên trận bùng phát đầu tiên của bệnh nhiễm trùng phổi và tước đi mạng sống của 34 người. Nhưng kịch bản đó kém tiêu biểu hơn rất nhiều so với kịch bản lây truyền từ động vật. Những vi sinh vật đang lây nhiễm trên sinh vật sống của một loài rất dễ có khả năng lây nhiễm sang sinh vật sống thuộc một loài khác. Điều này đã được đúc kết từ bằng thống kê từ rất nhiều nghiên cứu tổng hợp những năm gần đây. Một trong số đó, do hai nhà khoa học ở trường Đại học Edinburgh xuất bản vào năm 2005, nghiên cứu 1407 loại mầm bệnh trên người đã được công nhận và tìm ra rằng, tỷ lệ mầm bệnh lây truyền từ động vật chiếm 58%. Trong tổng số 1407 loại, chỉ có 177 có thể được coi là mới xuất hiện hay xuất hiện lại. Ba phần tư số mầm bệnh mới xuất hiện là lây truyền từ động vật. Nói ngắn gọn: Chỉ cho tôi một căn bệnh mới và nhiều khả năng, tôi sẽ chỉ ra cho bạn đó là bệnh lây truyền từ động vật.
Một khảo sát song song, từ một nhóm do Kate E. Jones thuộc Hội Các nhà Động vật học London dẫn đầu, xuất hiện trên tạp chí Nature vào năm 2008. Nhóm này đã xét hơn 300 “sự kiện” bệnh truyền nhiễm mới xuất hiện (họ gọi tắt là EID) diễn ra từ năm 1940 đến 2004. Họ xem xét về những xu hướng đang thay đổi cũng như những mô hình rõ ràng. Tuy danh sách những sự kiện của họ độc lập với danh sách mầm bệnh của các nhà nghiên cứu tại Edinburgh, Jones và các đồng nghiệp tìm ra tỷ lệ gần tương đương (60,3%) trong đó là bệnh lây truyền từ động vật. “Hơn nữa, 71,8% trong số những sự kiện EID lây truyền từ động vật này do các mầm bệnh có nguồn gốc từ động vật hoang dã gây ra,” để phân biệt với động vật được thuần hóa. Họ dẫn chứng bằng Nipah ở Malaysia và SARS ở miền nam Trung Quốc. Hơn thế nữa, sự gia tăng các sự kiện về bệnh dịch có liên quan đến động vật hoang dã, khác với động vật chăn nuôi, dường như ngày càng lớn. “Các bệnh lây truyền từ động vật xuất phát từ động vật hoang dã đại diện cho mối nguy hiểm lớn nhất và đang gia tăng đối với sức khỏe toàn cầu trong số tất cả các EID,” các tác giả này kết luận. “Những phát hiện của chúng tôi nhấn mạnh sự cấp thiết của việc giám sát sức khỏe và nhận diện
những mầm bệnh lây truyền từ động vật mới, tiềm năng trong quần thể động vật hoang dã, như là một biện pháp dự báo cho các EID.” Điều đó nghe có lý: Hãy để mắt tới các sinh vật hoang dã. Khi chúng ta giết hại chúng, dồn ép chúng, tiêu diệt và ăn thịt chúng, chúng ta cũng đang chuốc lấy những căn bệnh của chúng.
Điều đó thậm chí nghe vô cùng khả thi. Tuy nhiên, nhấn mạnh nhu cầu giám sát và dự báo cũng là nhấn mạnh sự cấp bách của vấn đề, cũng như sự thật đáng lo ngại rằng còn biết bao nhiêu điều chưa được biết đến.
Chẳng hạn: Vì sao Drama Series, con ngựa cái đầu tiên, mắc bệnh ở chuồng ngựa đó? Liệu có phải do nó trú bóng bên dưới một cái cây đa tía và nhai phải chỗ cỏ nào đó có dính nước tiểu của dơi mang virus? Drama Series lây bệnh cho những con ngựa khác ở chuồng ngựa của Vic Rail như thế nào? Tại sao Rail và Ray Unwin mắc bệnh nhưng vị bác sĩ thú y tận tụy Peter Reid thì lại không? Tại sao Mark Preston bị ốm nhưng Margaret Preston lại khỏe mạnh? Tại sao những trận bùng phát ở Hendra và Mackay xuất hiện vào tháng Tám và tháng Chín năm 1994, gần về thời điểm trong năm nhưng xa về khoảng cách địa lý? Tại sao tất cả những người chăm sóc dơi lại không mắc bệnh, mặc dù đã chăm ẵm những con dơi hàng tháng, hàng năm?
Những nghi vấn cục bộ về Hendra chỉ là phần nhỏ của những câu hỏi lớn mà các nhà khoa học như Kate Jones cùng với nhóm của bà, cũng như các nhà nghiên cứu ở Edinburgh, và Hume Field, hay rất nhiều các nhà khoa học khác trên thế giới, đang thắc mắc. Tại sao những căn bệnh mới kỳ lạ này xuất hiện tại thời điểm đó, ở nơi đó, mà không phải là nơi nào khác, theo cách khác, vào thời điểm khác? Liệu chúng có đang diễn ra nhiều hơn so với trước đây? Nếu vậy, làm thế nào con người lại chuốc lấy những căn bệnh này lên bản thân? Liệu ta có thể đảo ngược hay hạn chế những xu hướng này, trước khi phải đối mặt với một đại dịch tàn khốc khác? Liệu chúng ta có thể làm thế mà không phải sử dụng những biện pháp trừng phạt đáng sợ đối
g p ụ g g ệ p p g p ạ g ợ với những loài động vật bị nhiễm bệnh đang chung sống trên hành tinh này? Các cơ chế đầy phức tạp, đồng thời có quá nhiều khả năng, và khi mà khoa học đang từ từ làm nhiệm vụ của nó, chúng ta đều muốn có một câu trả lời nhanh chóng cho câu hỏi lớn nhất: Thứ mầm bệnh ghê tởm nào, với nguồn gốc không thể dự đoán trước và những tác động không thể ngăn chặn, sẽ xuất hiện tiếp theo?
7
Trong một chuyến đi tới Úc, tôi dừng chân tại Cairns, một thành phố nghỉ dưỡng với thời tiết dễ chịu cách Brisbane khoảng 1.000 dặm về phía bắc, để gặp gỡ một bác sĩ thú y trẻ tuổi ở đây. Tôi không nhớ làm thế nào tôi biết được nơi ở của cô, bởi cô ấy rất cảnh giác với việc công khai danh tính và không muốn tên của mình xuất hiện trên các ấn phẩm. Tuy nhiên cô ấy đã đồng ý nói chuyện với tôi về trải nghiệm của bản thân với Hendra. Tuy rằng ngắn ngủi, trải nghiệm của cô lại chứa đựng cả hai góc nhìn: của cả bác sĩ và bệnh nhân. Ở thời điểm đó, cô ấy là người sống sót khỏi virus Hendra được biết tới duy nhất ở Úc, bên cạnh người coi chuồng ngựa Ray Unwin, cũng đã nhiễm virus và qua khỏi. Chúng tôi nói chuyện trong phòng khám thú y nhỏ nơi cô làm việc.
Đó là một người phụ nữ 26 tuổi hoạt bát, với đôi mắt xanh nhạt và tóc nhuộm nâu vuốt về sau và búi chặt. Cô đeo đôi bông tai bạc ngắn và mặc chiếc áo phông đỏ ngắn tay in logo phòng khám. Cùng với chú chó chăn cừu thân thiện – liên tục huých vào tay tôi đòi được nựng khi tôi đang cố gắng ghi chép – cô bác sĩ miêu tả lại một đêm tháng Mười năm 2004, khi cô đi tới chăm một con ngựa mắc bệnh. Những người chủ lo lắng bởi con vật này, một con ngựa thiến mười tuổi, có vẻ “tím tái”.
Con ngựa có tên là Brownie, theo trí nhớ của cô. Nó sống trong một trang trại gia đình ở Little Mulgrave, cách Cairns khoảng 20 dặm về phía nam. Thực tế, cô nhớ tất cả mọi thứ; một đêm đầy những ấn tượng rõ ràng. Brownie là một con ngựa
ộ y g ợ g g ộ gự lai giữa giống ngựa đua 400m và ngựa thuần chủng. Nó là vật nuôi trong nhà chứ không phải ngựa đua. Gia đình này có một cô con gái tuổi còn nhỏ; Brownie là con thú cưng của cô bé. Tám giờ tối hôm đó, con ngựa vẫn có vẻ bình thường, nhưng rồi đột nhiên vấn đề xảy ra. Gia đình nghi ngờ là đau ruột thừa, đau bụng – có thể nó đã ăn phải loại cỏ độc nào đó. Khoảng 11 giờ, họ gọi điện nhờ giúp đỡ và được một bác sĩ thú y trẻ, đang ở ca trực đêm hôm đó, tiếp nhận. Cô ấy leo lên xe, và khi tới nơi, Brownie đang ở trong tình trạng nguy cấp, thở hổn hển, sốt cao, đổ gục trên sàn. Cô kể lại: “Tôi thấy nhịp tim của con ngựa rất cao, thân nhiệt cũng rất cao, và có bọt máu đỏ chảy ra từ mũi.” Sau khi khám nhanh cho con ngựa, kiểm tra các chức năng cơ bản của nó, cô lại gần con ngựa, và khi nó khụt khịt,“Tôi đã dính kha khá bọt máu nhầy nhớt của nó trên tay.” Cô con gái nhỏ và người mẹ cũng lấm đầy máu khi cố gắng xoa dịu Brownie. Giờ nó chẳng thể ngẩng nổi đầu. Vị bác sĩ, một nhà chuyên môn vô cùng tận tâm, nói với họ rằng con ngựa đang hấp hối. Tự biết nghĩa vụ của mình, cô ấy nói: “Tôi muốn an tử cho nó.” Cô chạy về xe của mình lấy bộ đồ nghề dành cho việc an tử, nhưng khi quay lại thì Brownie đã chết. Với hơi thở cuối cùng của mình, nó tuôn ra càng nhiều bọt đỏ từ mũi và miệng.
“Cô có đeo găng tay không?” tôi hỏi.
“Không.” Quy trình yêu cầu phải đeo găng cho việc hậu sự, nhưng không yêu cầu cho ngựa còn sống. Và rồi chuyện này nhanh chóng kéo đến chuyện khác. “Khi đó tôi mặc đúng y như những gì tôi đang mặc bây giờ. Một đôi giày, tất ngắt, quần soóc xanh, và áo ngắn tay.”
“Khẩu trang phẫu thuật?”
“Không, không có khẩu trang. Anh biết đấy, trong phòng thí nghiệm thì tất cả những biện pháp phòng ngừa này rất dễ có. Vào lúc 12 giờ đêm, khi trời mưa xối xả, anh đang ở ngoài và phải phẫu thuật nhờ ánh đèn pha xe hơi với một gia đình bị kích động ở phía sau, không hề dễ để luôn luôn chuẩn bị những biện
pháp phòng ngừa đầy đủ. Và một điều nữa, là tôi đã không biết.” Không biết bản thân đang phải đối mặt với điều gì trong ca bệnh của Brownie, ý của cô là vậy. “Khi ấy tôi không nghĩ đó là bệnh truyền nhiễm.” Cô thận trọng với những điểm này, bởi đã có những nghi ngờ về quy trình làm việc của cô: một cuộc điều tra, những câu hỏi về sự thiếu trách nhiệm. Cô ấy đã được miễn trách nhiệm – trên thực tế, cô đã khiếu nại vì đã không được cảnh báo đúng mức – nhưng điều đó hẳn đã không có ích cho sự nghiệp của cô, và đó có lẽ là lý do cô ấy muốn sự ẩn dật. Cô có một câu chuyện để kể, nhưng đồng thời cũng muốn để nó lại phía sau.
Trong những phút ngay sau cái chết của Brownie, cô đã đổi sang giầy, quần dài, găng dài tay và bắt đầu khám nghiệm tử thi. Những người chủ của nó muốn biết liệu nó có ăn phải loại cỏ độc có nguy cơ ảnh hưởng đến những con ngựa khác không. Vị bác sĩ mổ bụng Brownie và thấy nội tạng của nó bình thường. Không có dấu hiệu xoắn ruột hay tắc nghẽn khác có thể dẫn đến cơn đau. Trong quá trình khám nghiệm, “Một ít dịch từ bụng con ngựa đã bắn lên chân tôi.” “Không thể xét nghiệm tử thi một con ngựa mà không bị bẩn”, cô giải thích. Tiếp đến, cô kiểm tra phần ngực, với một vết mổ ở giữa xương sườn thứ tư và thứ năm. Nếu không phải đau bụng thì có thể là vấn đề tim mạch, theo nghi vấn của cô, và chúng ngay lập tức được xác nhận. “Quả tim phồng lên trông thấy. Phổi ướt và đầy dịch máu. Toàn bộ lồng ngực đều là dịch. Vậy là con ngựa chết do xuất huyết tim. Đó là tất cả những gì tôi có thể kết luận. Tôi không thể kết luận liệu căn bệnh có truyền nhiễm hay không.” Cô ngỏ lời muốn lấy mẫu để xét nghiệm, nhưng những người chủ từ chối. Đã đủ thông tin, đủ chi phí, quá buồn cho Brownie, và họ đơn giản chôn cái xác bằng xe ủi.
“Có dơi ở quanh khu đất này không?” Tôi hỏi.
“Dơi ở khắp nơi.” Khắp quanh vùng phía bắc Queensland, ý cô là vậy, chứ không chỉ ở Little Mulgrave. “Nếu đi bộ ra khỏi đây, anh sẽ thấy hàng trăm con dơi.” Toàn bộ vùng Cairns và các
y y g ộ g
vùng lân cận: khí hậu ấm áp, nhiều cây ăn quả, và rất nhiều dơi ăn hoa quả. Nhưng không có thắc mắc thêm nào sau cái chết của Brownie nhằm tới những con dơi. “Họ không thể nói, ngoài sự ngẫu nhiên, vì sao con ngựa lại mắc bệnh.” Nằm dưới mười tấc đất, không để lại mẫu máu hay tế bào, nó còn không được coi là “mắc bệnh” cho tới sau này.
Ngay sau cuộc khám nghiệm tử thi, vị bác sĩ rửa bàn tay và cánh tay sạch sẽ, lau chân và về nhà tắm nước trầu. Cô dự trữ một lượng lớn trầu, thuốc sát trùng chuyên nghiệp, dành cho những dịp như vậy. Cô kỳ cọ kỹ lưỡng và đi ngủ, sau một đêm khó khăn nhưng không hề bất thường. Tới chín hay mười ngày sau đó cô mới bắt đầu có cảm giác đau đầu và ốm. Bác sĩ của cô nghi ngờ cô bị cúm, hoặc cảm, hay có thể viêm amiđan. “Tôi hay bị viêm amiđan,” cô nói. Ông ấy kê cho cô vài loại kháng sinh và cho về.
Cô phải nghỉ làm một tuần, cơ thể suy nhược với các triệu chứng như cúm hay viêm phế quản: viêm phổi nhẹ, đau họng, ho dữ dội, yếu cơ, mệt mỏi. Một vị tiền bối ở chỗ làm hỏi liệu cô có nghĩ tới nguy cơ con ngựa chết đã truyền cho cô virus Hendra. Vị bác sĩ thú y trẻ, được đào tạo ở Melbourne (ở tận vùng ôn đới nước Úc) trước khi chuyển lên vùng nhiệt đới Cairns, chỉ được nghe thoáng qua về virus Hendra khi còn học ở trường đào tạo thú y. Nó quá mơ hồ, quá mới, và không phải vấn đề ở vùng Melbourne. Chỉ có hai trong số bốn loài dơi là vật chủ dự trữ có thể bay xa xuống phía nam như vậy, và rõ ràng chúng chưa gây lo lắng. Cô tới bệnh viện làm xét nghiệm máu, và rồi một xét nghiệm nữa, và đúng thật: Cô ấy có kháng thể với virus Hendra. Tới lúc đó cô ấy đã khỏe mạnh và trở lại làm việc bình thường. Cô đã mắc bệnh và cũng đã phục hồi.
Khi gặp cô hơn một năm sau, cô ấy ổn, ngoài việc có đôi chút mệt mỏi và lo lắng nhiều hơn. Cô biết rõ ca bệnh của Mark Preston – việc anh ta nhiễm bệnh khi khám nghiệm tử thi một con ngựa, hồi phục rồi khỏe mạnh trở lại, rồi lại tái nhiễm – cảnh báo nguy cơ virus này quay trở lại. Các quan chức y tế quốc
g y y q y ạ q y q gia đã theo dõi trường hợp của cô: nếu cơn đau đầu trở lại, hay nếu cô thấy chóng mặt hay bị co giật, hay cảm thấy dây thần kinh bị kích thích, ho hay hắt hơi, họ muốn được thông báo. Cô kể lại: “Tôi vẫn tới gặp các chuyên gia kiểm soát bệnh truyền nhiễm, và được Ban Các ngành Công nghiệp Chủ yếu khám thường xuyên.” Họ theo dõi lượng kháng thể từ những xét nghiệm máu của cô, và thấy chúng liên tục tăng giảm một cách kỳ lạ. Gần đây các chỉ số đã tăng trở lại. Liệu điều đó có báo hiệu sự tái nhiễm, hay chỉ phản ánh sự mạnh mẽ của hệ miễn dịch?
Phần đáng sợ nhất, theo lời cô, là sự không chắc chắn. “Sự thật là căn bệnh này xuất hiện quá ít, và họ không thể nói với tôi liệu có rủi ro về sức khỏe nào trong tương lai hay không.” Cô sẽ ra sao trong bảy, mười năm tới? Nguy cơ tái phát là bao nhiêu? Mark Preston đột ngột ra đi sau một năm. Ray Unwin nói sức khỏe của ông vẫn “đang đi xuống”. Vị bác sĩ trẻ ở Cairns chỉ muốn biết một điều về trường hợp của bản thân, điều mà tất cả chúng ta đều muốn biết: Chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo?
II —★—
MƯỜI BA CON KHỈ ĐỘT
8
Vài tháng sau những sự kiện ở chuồng ngựa của Vic Rail, một sự lây truyền khác xảy ra, lần này ở Trung Phi. Dọc theo vùng thượng du sông Ivindo ở đông bắc Gabon, gần biên giới với Cộng hòa Congo, có một ngôi làng nhỏ với cái tên Mayibout 2, một khu định cư vệ tinh chỉ cách làng Mayibout một dặm về phía thượng du sông. Vào đầu tháng Hai năm 1996, 18 người ở Mayibout 2 đột ngột đổ bệnh sau khi cùng làm thịt và ăn một con tinh tinh.
Các triệu chứng của họ bao gồm, sốt, đau đầu, nôn mửa, mắt đỏ, xuất huyết lợi, nấc, đau cơ, viêm họng và tiêu chảy ra máu. Cả 18 người được chuyển xuống hạ lưu tới một bệnh viện ở thủ phủ của tỉnh, thị trấn có tên Makokou, theo quyết định của trưởng làng. Khoảng cách theo đường quạ bay từ Mayibout 2 tới Makokou chỉ hơn 80 km, nhưng nếu đi bằng xuồng trên con sông Ivindo quanh co mất tới bảy tiếng. Chiếc xuồng trôi lững lờ giữa khu rừng dọc theo bờ sông. Bốn trong số những người được chuyển đi đã hấp hối khi tới nơi và tử vong hai ngày sau đó. Bốn thi thể, được đưa về Mayibout 2 để an táng theo nghi thức truyền thống, và không có biện pháp nào được thực hiện để phòng ngừa sự lây lan của những thứ đã giết chết họ. Bệnh nhân thứ năm trốn khỏi bệnh viện, lảo đảo trở về làng và tử vong ở đó. Lượt ca bệnh thứ hai nhanh chóng bùng phát ở những người chăm sóc cho những bệnh nhân đầu tiên: những người thân và bạn bè của họ, và cả những người xử lý những xác
chết. Sau cùng có 31 người mắc bệnh, trong đó có 21 người chết: tỷ lệ tử vong là gần 68%.
Những thông tin và số liệu đó do nhóm các nhà nghiên cứu y học, bao gồm cả người Gabon và người Pháp, đã tới Mayibout 2 trong thời gian bùng phát ghi lại. Trong số đó có Eric M. Leroy, bác sĩ thú y và nhà virus học người Pháp đầy năng nổ, được đào tạo ở Paris và làm việc ở Trung tâm Nghiên cứu Y học Quốc tế Franceville (CIRMF), trụ sở đặt tại Franceville, một thành phố nhỏ ở miền đông nam Gabon. Leroy và các đồng nghiệp đã tìm thấy dấu hiệu của virus Ebola trong các mẫu xét nghiệm thu được từ một vài bệnh nhân, và họ kết luận được rằng con tinh tinh bị làm thịt đã nhiễm virus Ebola. “Con tinh tinh dường như là khởi điểm lây nhiễm cho 18 người đầu tiên”, họ viết. Cuộc điều tra cũng hé lộ sự thật rằng con tinh tinh không phải do những người làng săn được; họ tìm thấy nó chết trong rừng và nhặt về.
Bốn năm sau, gần thượng du sông Ivindo, tôi ngồi bên lửa trại với một tá người bản địa làm công việc dẫn đường trong rừng cho cuộc thám hiểm đường dài. Những người đàn ông này, hầu hết đến từ những ngôi làng ở phía đông bắc Gabon, đã đi bộ hàng tuần trước khi tôi gia nhập vào hành trình. Công việc của họ bao gồm mang vác những túi nặng qua khu rừng và dựng những khu trại đơn giản hàng đêm cho các nhà sinh học, trong đó có Mike Fay, người mà nỗi ám ảnh về nhiệm vụ này đã thôi thúc cả dự án tiến về phía trước. Fay là một người đàn ông kỳ lạ, ngay cả theo tiêu chuẩn của một nhà sinh học thực địa vùng nhiệt đới: thể chất khỏe mạnh, cứng đầu, vô tư, thông minh và vô cùng tâm huyết với công việc bảo tồn. Dự án của ông, mang tên Megatransect, là một cuộc khảo sát sinh lý học trên quãng đường dài 2.000 dặm, đòi hỏi đi bộ qua những vùng hoang dã nhất chưa được biết tới ở Trung Phi. Ông thu thập dữ liệu trên mọi bước đi của hành trình, từ phân voi, dấu chân báo cho tới những lần trông thấy tinh tinh và nhận dạng thực vật, hàng nghìn ghi chép nhỏ, tất cả đều nằm trong cuốn sổ chống nước
màu vàng với dòng chữ nguệch ngoạc viết bằng tay trái, trong khi những người đồng hành theo sau ông mang theo những chiếc máy tính, điện thoại vệ tinh, các công cụ đặc biệt và pin dự phòng, cũng như lều và thực phẩm và thuốc men đủ cho cả ông và họ.
Fay đã đi bộ được 290 ngày tính tới khi họ đặt chân tới phần này của vùng đông bắc Gabon. Ông đi qua Cộng hòa Congo với nhóm thực địa gồm những người Congo thạo việc đi rừng, hầu hết là những Bambendjellés (một dân tộc thiểu số gồm những người vóc dáng nhỏ bé, đôi khi còn được gọi là Người Lùn), nhưng họ đã không được cho phép nhập cảnh qua biên giới Gabon. Do vậy Fay buộc phải tìm một đoàn mới tại Gabon.
Ông chiêu mộ họ phần lớn từ các mỏ vàng ở thượng lưu sông Ivindo. Công việc vất vả đầy khó khăn mà ông đòi hỏi: mở đường, mang vác đồ đạc, có vẻ được ưa chuộng hơn so với đào vàng trong bùn ở vùng xích đạo. Một người vừa khuân vác vừa phụ trách nấu ăn, nấu lượng lớn gạo hay fufu (một loại thực phẩm tinh bột làm từ bột sắn, nhìn giống một loại keo dán giấy tường ăn được) khi cắm trại vào mỗi buổi tối, và trang trí nó với một loại sốt nâu gì đó. Nguyên liệu cho món sốt này bao gồm rất nhiều thứ, từ sốt cà chua, cá khô, cá mòi đóng hộp, bơ lạc, thịt bò khô đóng đá, và pili-pili (tiêu cay), tất cả đều được cho là tương hợp và được kết hợp theo ý thích của bếp trưởng. Chẳng có ai phàn nàn. Tất cả mọi người đều luôn đói. Thứ duy nhất tệ hơn một khẩu phần to của món đó, sau một ngày lang thang qua khu rừng, là một khẩu phần nhỏ. Vai trò của tôi trong nhóm này, theo chỉ định của National Geographic, là theo chân Fay để sản xuất loạt câu chuyện mô tả công việc cũng như chuyến hành trình. Tôi sẽ đi cùng ông ấy mười ngày đến hai tuần ở đâu đó, rồi trốn về Mỹ, để đôi chân nghỉ ngơi (chúng tôi đi những đôi dép lội sông), và viết thành câu chuyện dài kỳ.
Mỗi lần tôi trở lại gia nhập với Fay và đoàn của ông, công tác hậu cần để tới được điểm gặp mặt lại thay đổi, tùy thuộc vào mức độ hẻo lánh của nơi ông đang ở và mức độ cấp thiết về nhu
ộ g g ộ p
cầu tiếp tế. Ông không bao giờ đi chệch khỏi hành trình zic zac của mình. Tôi mới là người phải bắt kịp với ông. Đôi khi, tôi phải đi máy bay bụi và xuồng máy độc mộc cùng với người dẫn đường và giám lộ của Fay, nhà sinh thái học người Nhật, Tomo Nishihara. Tomo và tôi lọt thỏm trên chiếc xuồng giữa hàng đống đồ đạc dành cho chuyến đi tới của Fay: những túi chứa đầy fufu với cơm cùng cá khô, những thùng cá mòi, dầu, bơ lạc và pili-pili và pin AA. Nhưng ngay cả những chiếc xuồng máy này cũng không phải lúc nào cũng tới được nơi mà Fay cùng đoàn của ông đang chờ đợi trong tình trạng đói ngấu và luộm thuộm. Lần này, bởi họ đang đi bộ ngang qua một khu rừng rộng lớn có tên Minkébé, Tomo và tôi bay trên một chiếc trực thăng Bell 412, chiếc máy bay 13 chỗ ngồi cỡ lớn, được thuê với giá đắt đỏ từ quân đội Gabon. Vòm lá của khu rừng, vốn dày và liền mạch, tại đây bị xuyên thủng bởi những tảng đá granite lớn, cao hàng trăm mét, như tảng đá El Capitan nổi bật giữa làn sương màu xanh. Điểm hạ cánh nằm ở trên một phiến đá mà Fay đã chỉ. Nơi đó cách Mayibout 2 bốn mươi dặm về phía tây.
Hôm đó là một ngày khá dễ thở với cả đoàn – không phải đi qua đầm lầy, không có những thảm thực vật cắt da, không có những con voi nhào tới sau khi bị khiêu khích bởi mong muốn quay được video ở tầm gần của Fay. Họ cắm trại, chờ trực thăng tới. Đồ tiếp tế đã đến cùng với cả bia! Điều đó tạo nên một bầu không khí dễ chịu, vui vẻ quanh lửa trại. Tôi nhanh chóng biết được rằng hai trong số các thành viên trong đoàn, Thony M’Both và Sophiano Etouck, có gốc gác ở Mayibout 2. Họ đã có mặt ở đó khi virus Ebola tấn công ngôi làng.
Thony, một người hướng ngoại, vóc dáng gầy gò và ăn nói hoạt bát hơn nhiều so với những người khác, sẵn sàng kể về chuyện đó. Anh kể lại bằng tiếng Pháp, trong khi Sophiano, một người ngại ngùng với hình thể của lực sĩ, vẻ mặt cau có nghiêm chỉnh với chòm râu dê, nói lắp khi hồi hộp, ngồi im lặng. Sophiano, theo lời của Thony, đã chứng kiến anh trai và hầu hết các thành viên trong gia đình của anh ấy qua đời.
Vì chỉ mới quen biết hai người đàn ông này, tôi không thể đòi hỏi nhiều thông tin hơn trong buổi tối hôm đó. Hai ngày sau chúng tôi bắt đầu chuyến đi tiếp theo của Fay, ngang qua rừng Minkébé, hướng về phía nam, xa khỏi khu sơn đảo. Chúng tôi bận bịu và bị phân tâm bởi những thử thách thể chất của việc đi bộ qua địa hình bất định của khu rừng, rồi kiệt sức (đặc biệt là họ, những người đã phải làm việc vất vả hơn tôi) vào buổi đêm. Tuy nhiên, sau khi vượt qua một nửa hành trình với một tuần đi bộ vất vả, cùng nhau chịu khổ, chia sẻ những bữa ăn, Thony cuối cùng cũng đủ thoải mái để kể cho tôi nhiều hơn.
Ký ức của anh ấy giống với tổng thể bản báo cáo của đội ngũ CIRMF từ Franceville, ngoại trừ một vài điểm khác biệt nhỏ về những con số và chi tiết. Nhưng anh mang đến một góc nhìn cá nhân hơn.
Thony gọi nó là l’épidémie, dịch bệnh. Anh kể lại, nó xuất hiện vào năm 1996, cùng khoảng thời gian mà một vài binh sĩ Pháp đặt chân đến Mayibout 2 trên một chiếc bè hơi Zodiac và cắm trại gần ngôi làng. Không rõ những binh sĩ này có mục đích quan trọng nào không – xây dựng lại một đường băng cũ, hay chỉ ở đó để thư giãn. Họ nổ súng. Có lẽ, theo phỏng đoán của Thony, họ cũng sở hữu một loại vũ khí hóa học nào đó. Anh ấy nhắc tới những chi tiết này vì nghĩ chúng có thể có liên quan đến bệnh dịch. Một ngày, vài chàng trai trong làng quyết định đi săn cùng lũ chó. Con mồi dự tính của họ ban đầu là nhím. Nhưng thay vì nhím, họ tìm thấy một con tinh tinh – không phải do lũ chó giết. Một con tinh tinh được tìm thấy khi đã chết. Con tinh tinh đã thối rữa. Họ đem nó về. Thony nói, “ruột của nó đã hỏng và trương lên.” Cũng chẳng hề gì, mọi người rất mừng và háo hức vì có thịt. Họ làm thịt con tinh tinh và ăn. Rồi nhanh chóng, chỉ trong hai ngày, tất cả những người động đến chỗ thịt bắt đầu ốm.
Họ nôn mửa và tiêu chảy. Một số người đi về hạ nguồn bằng xuồng máy tới bệnh viện ở Makokou, nhưng không có đủ nhiên liệu để chuyên chờ tất cả những người bị ốm. Quá nhiều nạn
ệ y g g ị ạ nhân, không đủ xuồng. Mười một người qua đời ở Makokou. Mười tám người khác chết trong làng. Những bác sĩ đặc biệt nhanh chóng tới nơi từ Franceville, mặc trên người những bộ đồ trắng và mũ bảo hộ, nhưng không cứu được ai. Sophiano mất sáu thành viên trong gia đình. Một trong số đó, một trong những đứa cháu gái của anh ấy – qua đời trên tay anh. Tuy vậy bản thân Sophiano chưa từng mắc bệnh. “Tôi cũng vậy”, Thony nói. Nguyên nhân của căn bệnh làm dấy lên sự lo ngại và những lời đồn đen tối. Thony nghi ngờ rằng những binh lính Pháp, với vũ khí hóa học của họ, đã giết con tinh tinh và bỏ lại nó một cách bất cẩn và đầu độc ngôi làng. Dù sao thì, những người sống sót đã học được bài học. Anh nói: “Giờ đây, không ai ở Mayibout 2 ăn thịt tinh tinh.”
Tôi hỏi về những chàng trai đã đi săn hôm đó. Tất cả bọn họ đã chết, theo lời Thony. Những con chó thì không. Tôi hỏi anh đã bao giờ chứng kiến một căn bệnh, một dịch bệnh như vậy chưa? “Chưa. Đó là lần đầu tiên.” Chưa bao giờ.
Họ nấu con tinh tinh như thế nào? Tôi tò mò. “Bằng một thứ nước sốt thông thường ở châu Phi,” Thony nói, như thể đó là một câu hỏi ngớ ngẩn. Tôi tưởng tượng những bắp chân của con tinh tinh trong thứ nước sốt đầy lạc, với pili-pili, đặt trên fufu.
Bên cạnh món tinh tinh hầm, một chi tiết rõ ràng còn lưu lại trong tâm trí tôi. Đó là điều mà Thony đã nhắc tới trong cuộc nói chuyện trước đó. Giữa những hỗn loạn và sự sợ hãi trong làng, Thony kể cho tôi, anh ấy và Sophiano đã nhìn thấy một điều dị thường: một đám gồm mười ba con khỉ đột, tất cả đều đã chết, nằm ở gần đó trong khu rừng.
Mười ba con khỉ đột? Tôi chưa từng hỏi về những con vật hoang dã đã chết. Đây là thông tin ngẫu nhiên anh kể. Tất nhiên, những lời nói suông thường mông lung, không chính xác, đôi khi sai hoàn toàn, kể cả khi chứng kiến tận mắt. Mười ba con khỉ đột ở đây có thể thực sự là một tá, hay mười lăm, hay đơn giản là rất nhiều – quá nhiều khiến trí óc của một người
đang đau buồn không thể đếm nổi. Người ta đang chết. Những ký ức mờ nhạt. Để nói rằng Tôi đã thấy chúng có thể có nghĩa chính xác như vậy, nhưng cũng có thể ít hơn. Bạn của tôi đã thấy chúng, anh ấy là một người bạn thân, tôi tin anh ấy như tin chính đôi mắt của mình. Hoặc có lẽ: Tôi đã nghe về nó từ một nguồn đáng tin cậy. Lời nói của Thony, như tôi cảm thấy, thuộc về nhóm tri thức luận thứ nhất: đáng tin cậy, dù có thể không hoàn toàn chính xác. Tôi tin rằng anh ấy đã thấy những con khỉ đột, khoảng mười ba con, chết cạnh nhau, nếu không phải chất thành đống. Anh ấy thậm chí có thể đã đếm chúng. Hình ảnh xác của mười ba con khỉ đột rải rác trên lá mục có thể kinh hoàng, nhưng không phải không hợp lý. Những bằng chứng sau đó cho thấy khỉ đột rất dễ mắc Ebola.
Dữ liệu khoa học là một chuyện khác, rất khác so với lời nói suông. Chúng không mơ hồ với những cường điệu và mâu thuẫn văn chương. Dữ liệu khoa học chi tiết, đong đếm được, chắc chắn. Được thu thập một cách chọn lọc, phân loại nghiêm ngặt, chúng có thể tiết lộ những ý nghĩa quan trọng. Đó là lý do vì sao Mike Fay đi bộ xuyên Trung Phi với cuốn sổ màu vàng: tìm kiếm những xu hướng lớn hơn có thể xuất hiện từ hàng đống những dữ liệu nhỏ.
Ngày hôm sau, chúng tôi tiếp tục hành trình qua khu rừng. Chúng tôi vẫn còn cách con đường gần nhất khoảng hơn một tuần đi bộ. Đó là môi trường sống hoàn hảo cho khỉ đột: kết cấu tốt, đầy rẫy những thức ăn ưa thích của chúng, và gần như không có bàn tay con người: không đường mòn, không trại, không dấu vết của thợ săn. Đáng ra nó phải đầy rẫy khỉ đột. Và trước đó không lâu, nó đã từng như thế: Một cuộc điều tra về số lượng quần thể linh trưởng ở Gabon đã được thực hiện hai thập kỷ trước, bởi hai nhà khoa học từ CIRMF, đã cho kết quả ước tính khoảng 4.171 con khỉ đột trong khu rừng Minkébé. Tuy vậy, trong suốt nhiều tuần đi rừng, chúng tôi không thấy bóng dáng con khỉ nào. Có một sự thiếu vắng kỳ lạ của khỉ đột cũng như dấu vết của chúng – lạ đến mức, đối với Fay, giống như bắt được
vàng vậy. Đây chính là kiểu xu hướng, dù tích cực hay tiêu cực, mà phương pháp của ông hướng tới để làm rõ. Trong suốt dự án Megatransect của mình, ông ghi lại trong cuốn sổ tất cả những nơi trú ngụ của khỉ đột ông nhìn thấy, mọi đống phân chúng để lại, mọi nhành cây mà chúng ăn qua – cũng như phân voi, dấu vết của báo đốm, và những dấu vết tương tự của các loài vật khác. Sau khi kết thúc hành trình ở Minkébé, ông ấy tổng kết lại dữ liệu. Việc này khiến ông mất hàng giờ đồng hồ, giam mình trong lều, đối chiếu các quan sát mới nhất trên máy tính xách tay. Và rồi ông ra ngoài.
Fay thông báo với tôi, trong 14 ngày qua, chúng tôi đã gặp 997 đống phân voi, nhưng không có một cục nào của khỉ đột. Chúng tôi đã đi qua giữa hàng triệu thân cây thảo mộc lớn, bao gồm cả những loại (thuộc họ Marantaceae) chứa đầy dinh dưỡng khỉ đột cần đến như cần tây; nhưng không một thân cây nào trong số đó, theo quan sát của ông, có dấu răng của chúng. Chúng tôi không nghe thấy một tiếng vỗ ngực nào của khỉ đột, hay bất kỳ cái tổ nào. Nó giống như bí ẩn về con chó lúc nửa đêm – một con chó yên lặng, cảnh báo hùng hồn cho Sherlock Holmes về những dấu hiệu tiêu cực rằng có gì đó không ổn. Quần thể khỉ đột của khu rừng Minkébé, từng rất đông đúc, đã biến mất. Kết luận không thể tránh khỏi là hẳn thứ gì đó là giết hết bọn chúng.
9
Đợt lan truyền ở Mayibout 2 không phải là một sự kiện riêng lẻ. Nó chỉ là một phần của xu hướng bùng phát dịch bệnh xuyên suốt Trung Phi – xu hướng ý nghĩa của nó vẫn còn là chủ đề cần suy ngẫm và tranh luận. Căn bệnh đang được xét đến, từng được biết đến với cái tên bệnh sốt xuất huyết Ebola, giờ chỉ còn đơn giản là bệnh virus Ebola. Xu hướng này kéo dài từ 19٧6 (lần xuất hiện đầu tiên được ghi nhận của virus Ebola) cho tới nay, và từ một phía của lục địa (Bờ Biển Ngà) sang phía bên kia (Sudan và Uganda). Bốn họ lớn của dòng virus từng xuất hiện ở những đợt bùng phát đó được gọi chung là ebolavirus. Ở quy mô nhỏ hơn, chỉ riêng trong Gabon, đã có những lần bùng phát Ebola tập trung: ba lần trong chưa đầy hai năm, và cả ba lần đều ở những địa điểm gần nhau. Mayibout 2 là đợt bùng phát thứ hai trong số này.
Một đợt bùng phát trước đó bắt đầu vào tháng Mười hai 1994 ở khu trại đào vàng trên thượng du sông Ivindo, cùng khu vực nơi mà sau đó Mike Fay đã tuyển mộ những thành viên đoàn người Gabon của ông. Những khu trại này nằm cách Mayibout 2 khoảng 40 km về phía thượng du. Ít nhất 32 người đã mắc bệnh, với các triệu chứng thông thường (sốt, đau đầu, nôn mửa, tiêu chảy, và xuất huyết) của bệnh virus Ebola. Rất khó xác định được nguồn lây bệnh. Tuy nhiên, một bệnh nhân kể rằng đã giết một con tinh tinh lang thang vào trong trại của người đó, và con vật đã có những hành động rất kỳ lạ. Có lẽ con tinh tinh đã mắc bệnh và vô tình mang tác nhân gây bệnh tới cho những con
người đang đói ngấu. Theo một nguồn tin khác, ca bệnh đầu tiên là một người đã bắt gặp một con khỉ đột đã chết, mang một vài bộ phận của nó về trại của mình để phân chia. Anh ta đã tử vong cùng với những người động tới chỗ thịt này. Trong cùng khoảng thời gian này, có những báo cáo về việc tinh tinh, cũng như khỉ đột, được tìm thấy đã chết trong rừng. Tổng quan hơn, những người thợ mỏ (và gia đình của họ – các khu trại gần như những ngôi làng) với sự hiện diện của họ, nhu cầu thức ăn, chỗ ở, nhiên liệu của họ, đã gây xáo trộn cho khu rừng và những sinh vật sống trong đó.
Từ những trại đào vàng, những nạn nhân năm 1994 di chuyển xuôi dòng sông (giống như những nạn nhân sau này ở Mayibout 2) tới Bệnh viện Đa khoa Makokou. Và đợt bùng phát thứ hai nổ ra, tập trung quanh bệnh viện và những ngôi làng gần đó. Một trong những ngôi làng đó có nganga – thầy lang địa phương, và nhà của người này có thể đã trở thành nơi lây truyền giữa ca bệnh từ trại đào vàng, tới đây tìm thuốc dân gian, và người dân địa phương, tới đây vì vấn đề gì đó nhẹ nhàng hơn Ebola. Có khả năng virus được truyền qua chính bàn tay của thầy lang. Dù sao đi nữa, tới khi đợt bùng phát này kết thúc, 49 ca đã được chẩn đoán, với 29 ca tử vong, đạt tỷ lệ tử vong gần 60%.
Một năm sau đó là đợt bùng phát ở Mayibout 2, đợt thứ hai trong chuỗi dịch bệnh. Tám tháng sau đó, các nhà khoa học của CIRMF và các nhà khoa học khác phải đối phó với đợt bùng phát thứ ba, lần này là ở gần thị trấn Booué ở vùng trung Gabon.
Dịch bệnh ở Booué có lẽ đã bắt đầu ba tháng trước đó, vào tháng Bảy năm 1996, với ca tử vong của một thợ săn ở trại gỗ được biết đến với cái tên SHM, cách Booué 65 km về phía bắc. Ngẫm lại, những triệu chứng gây tử vong của người thợ săn này được công nhận giống với bệnh virus Ebola, dù trường hợp của anh này không gây báo động ở thời điểm đó. Một thợ săn khác tử vong một cách bí ẩn ở cùng trại gỗ đó sáu tuần sau. Rồi đến người thứ ba. Trại đã được tiếp tế loại thịt gì? Có lẽ là một loạt
g ạ ợ p ạ ị g ộ ạ các loại thú rừng, trong đó có khỉ, linh dương, lợn rừng, nhím, thậm chí có thể cả vượn (dù bị pháp luật cấm). Một lần nữa, có các báo cáo về những con tinh tinh được phát hiện đã chết trong rừng – không phải bị bắn chết. Ba ca bệnh đầu tiên ở người dường như độc lập với nhau, như thể mỗi thợ săn đều mắc virus từ hoang dã. Người thợ săn thứ ba khiến vấn đề lan rộng hơn, từ nạn nhân biến mình trở thành một nguồn lây nhiễm.
Anh ta nhập viện một thời gian ngắn ở Booué nhưng trốn khỏi đó, né tránh chính quyền và y tế, đi tới một ngôi làng gần đó và tìm kiếm sự giúp đỡ từ một nganga khác.
Dù được thầy lang chữa trị, người thợ săn vẫn tử vong – tiếp theo là người thầy lang và cháu trai của ông ta. Phản ứng dây chuyền bắt đầu. Trong tháng mười và các tháng tiếp theo, căn bệnh lan rộng ra xung quanh Booué, gợi ý rằng có nhiều trường hợp lây nhiễm từ người sang người hơn. Một vài bệnh nhân được thuyên chuyển tới các bệnh viện ở Libreville, thủ đô của Gabon, và tử vong tại đó. Một bác sĩ người Gabon, sau khi chữa trị cho một trong số các bệnh nhân đó, đã mắc bệnh. Chẳng có mấy niềm tin vào trình độ y học của quê hương mình, anh ta đã bay tới Johannesburg để chữa trị. Bác sĩ này dường như đã qua khỏi, nhưng một y tá người Nam Phi chăm sóc cho ông đã mắc bệnh và tử vong. Virus Ebola theo đó xuất hiện từ Trung Phi và lan ra cả lục địa. Con số thống kê cuối cùng của đợt bùng phát thứ ba này, bao gồm Booué, Libreville và Johannesburg, là 60 ca, trong đó 45 ca tử vong. Tỷ lệ tử vong là bao nhiêu? Bạn có thể tự làm phép tính này trong đầu.
Giữa mớ bòng bong những ca bệnh và chi tiết này, một vài nhân tố chung nổi bật lên: sự xáo trộn hệ sinh thái rừng ở địa điểm bùng phát, những con vượn cũng như người tử vong, những ca bệnh thứ phát có liên quan với việc tiếp xúc trong bệnh viện hay các thầy lang, cùng với tỷ lệ tử vong cao, từ 60- 75%. Con số 60% là cực kỳ cao với bất kỳ căn bệnh truyền nhiễm nào (trừ bệnh dại); đơn cử, nó thậm chí còn cao hơn tỷ lệ
tử vong của bệnh dịch hạch ở Pháp thời Trung cổ, thời điểm tồi tệ nhất của Cái Chết Đen.
Trong những năm kể từ sau 1996, các đợt bùng phát khác của virus Ebola đã tấn công cả người lẫn khỉ đột trong vùng xung quanh Mayibout 2. Vùng bị nặng nhất nằm dọc theo sông Mambili, vừa qua biên giới Gabon ở phía tây bắc Congo: một vùng rừng rậm rạp bao quanh nhiều ngôi làng, vườn quốc gia, và khu bảo tồn mới được dựng lên có tên Lossi Gorilla Sanctuary (Thánh địa Khỉ đột Lossi). Mike Fay và tôi cũng đi bộ qua khu vực đó vào tháng Ba năm 2000, chỉ bốn tháng trước khi tôi gặp lại ông tại khu sơn đảo Minkébé. Trái ngược hoàn toàn với sự vắng vẻ của Minkébé, khỉ đột tập trung rất đông ở vùng sông nước Mambili. Nhưng hai năm sau đó, vào 2002, một nhóm các nhà nghiên cứu ở Lossi bắt đầu phát hiện xác những con khỉ đột, một vài trong số đó xét nghiệm dương tính với kháng thể virus Ebola. (Xét nghiệm dương tính với kháng thể tuy là bằng chứng kém chắc chắn hơn việc tìm thấy virus sống, nhưng vẫn mang tính gợi ý.) Chỉ trong vòng vài tháng, 90% cá thể khỉ đột mà họ đang nghiên cứu (130 trên 143 con) đã biến mất. Có bao nhiêu con chỉ đơn giản chỉ là chạy trốn? Bao nhiêu con đã chết? Ngoại suy một cách đại khái từ số tử vong và biến mất được xác nhận để ra con số thống kê tổng thể cho toàn khu vực nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã đăng một bài viết trên Science với tiêu đề vô cùng mạnh mẽ (nhưng có phần quá tự tin): BÙNG PHÁT EBOLA GIẾT CHẾT 5000 CON KHỈ ĐỘT.
10
Năm 2006, tôi trở lại sông Mambili, lần này với nhóm được dẫn đầu bởi William B. (Billy) Karesh, khi đó là giám đốc Chương trình Thú y Thực địa cho Hiệp hội Bảo tồn Động vật Hoang dã (WCS) chi nhánh New York, và tại thời điểm cuốn sách này được viết, đang đảm nhiệm vai trò tương tự ở EcoHealth Alliance. Billy Karesh là một bác sĩ thú y và chuyên gia về bệnh lây truyền từ động vật. Ông lớn lên ở Charleston, South Carolina. Một con người yêu thích thực địa, cả thời ấu thơ được nuôi dưỡng bởi hình ảnh Marlin Perkins, với bộ đồng phục làm việc thường lệ là cái áo phông xanh dương bụi bặm, chiếc mũ lưỡi chai có thể thấy ở bất cứ đâu, và bộ râu quai nón. Ông theo chủ nghĩa kinh nghiệm, chỉ hé miệng vừa đủ, nói năng nhẹ nhàng và tránh những tuyên bố mang tính tuyệt đối. Ông thường mang nụ cười kín đáo, ẩn trong đó sự thích thú với những kỳ quan của thế giới cũng như những khờ dại của con người. Tuy nhiên, chẳng có gì vui vẻ về nhiệm vụ của ông ở Mambili. Ông tới để bắn – không phải đạn mà là phi tiêu gây mê – vào những con khỉ đột. Chúng tôi cần lấy mẫu máu để xét nghiệm tìm kháng thể virus Ebola.
Điểm đến của chúng tôi là một nơi được biết đến với cái tên tổ hợp Moba Bai, một vùng đất trống tự nhiên gần bờ đông thượng nguồn sông Mambili, cách thánh địa Lossi không xa. Bai trong tiếng Pháp châu Phi dùng để chỉ vùng đồng cỏ lầy lội, thường có hồ muối và bao quanh bởi rừng, giống hệt như một khu vườn bí mật. Bên cạnh Moba Bai, tên của tổ hợp này, còn có ba hay bốn tổ hợp nữa gần đó. Khỉ đột (và các động vật hoang dã
khác) thường xuất hiện ở các bai như vậy, vốn đầy nước và ánh nắng, với những cây cói và cây thúy cúc giàu natri bên dưới bầu trời rộng mở. Chúng tôi đặt chân tới Moba, ngược dòng sông Mambili trên chiếc xuồng độc mộc được đẩy bằng động cơ 40 mã lực.
Con thuyền chở theo 11 người chúng tôi và một lượng lớn đồ đạc. Chúng tôi có một chiếc tủ lạnh chạy bằng xăng, hai tủ đông nitơ lỏng (để bảo quản mẫu vật); ống tiêm, kim tiêm, ống nghiệm và các đồ nghề y tế được đóng gói cẩn thận; găng tay y tế, đồ bảo hộ, lều và bạt; cơm, fufu, cá ngừ đóng hộp, đậu đóng hộp, vài hộp rượu vang đỏ chán ngắt, nước đóng chai, một vài chiếc bàn xếp, và bảy chiếc ghế nhựa được chồng lên nhau. Với số dụng cụ và đồ tiếp tế xa hoa này, chúng tôi dựng một khu trại thực địa phía bên kia sông so với Moba. Đoàn của chúng tôi bao gồm một chuyên gia truy tìm dấu vết tên là Prosper Balo, cùng với các bác sĩ thú y cho động vật hoang dã, những người dẫn đường trong rừng, và một đầu bếp. Prosper đã làm việc ở Lossi trước và trong đợt bùng phát. Dưới sự hướng dẫn của ông, chúng tôi lùng sục khắp các tổ hợp bai, tất cả đều đầy những thảm thực vật ngon lành, trước đây nổi tiếng thu hút hàng chục con khỉ đột tới ăn và nghỉ ngơi hàng ngày.
Billy Karesh đã tới thăm khu vực này hai lần, trước khi Ebola tấn công, nhằm tìm kiếm dữ liệu cơ sở về sức khỏe của khỉ đột. Trong một chuyến đi năm 1999, ông có thể quan sát được 62 con khỉ đột đến đây trong một ngày. Vào năm 2000, ông trở lại để lấy mẫu trên một vài cá thể. “Hàng ngày, mỗi bai đều có ít nhất một gia đình khỉ.” Không muốn gây ra động tĩnh quá lớn, ông chỉ gây mê bốn con vật, cân và khám những bệnh dễ thấy (như bệnh ghẻ, một bệnh ngoài da do vi khuẩn gây nên), và lấy mẫu máu. Cả bốn con khỉ đột đều được xét nghiệm âm tính với kháng thể Ebola. Lần này mọi thứ không như vậy. Ông muốn lấy mẫu máu của những con vật sống sót qua đợt chết hàng loạt năm 2002. Và thế là chúng tôi bắt đầu với kỳ vọng lớn. Nhiều
ngày trôi qua, và theo những gì chúng tôi có thể thấy, chẳng hề có con vật nào sống sót.
Số cá thể hiếm hoi còn lại không đủ để cung cấp lượng dữ liệu hữu ích từ việc gây mê khỉ đột (vốn là một hoạt động nguy hiểm, đầy rủi ro cho cả người bắn tiêu và con vật bị bắn.) Cuộc khảo sát âm thầm của chúng tôi kéo dài hơn một tuần. Mỗi sáng sớm, chúng tôi đi qua sông, lặng lẽ đi bộ đến một bai nào đó, ẩn mình nơi rìa của thảm thực vật rậm rạp và kiên nhẫn chờ đợi khỉ đột xuất hiện. Nhưng chẳng một con nào xuất hiện. Chúng tôi thường xuyên phải ngồi xổm dưới cơn mưa.
Khi trời nắng, tôi thường đọc một cuốn sách dày hay nằm ra đất ngủ. Karesh luôn sẵn sàng với khẩu súng hơi và phi tiêu chứa đầy tiletamine và zolazepam, những thuốc đặc hiệu để gây mê khỉ đột. Nếu không, chúng tôi sẽ băng qua rừng, theo sát phía sau Prosper Balo trong nỗ lực, dù có phần vô ích, tìm kiếm dấu vết khỉ đột.
Vào buổi sáng của ngày thứ hai, dọc theo một lối mòn lầy lội tới các bai, chúng tôi thấy dấu vết của báo, voi, trâu và tinh tinh, nhưng không có dấu hiệu nào của khỉ đột. Ngày thứ ba cũng vậy, vẫn chẳng có con khỉ đột nào. Karesh nói: “Tôi nghĩ chúng chết hết rồi. Ebola đã đi qua đây.” Ông đoán chỉ có một vài cá thể may mắn, không mắc bệnh hoặc đủ sức kháng lại và qua khỏi, còn sống sốt. Cho dù vậy, ông cũng nói, “đó là những con mà chúng ta cần,” bởi nếu tồn tại, chúng có thể mang kháng thể. Đến ngày thứ tư, sau khi tách khỏi những người còn lại, Karesh và Balo phát hiện một con khỉ đột đực, nhờ tiếng vỗ ngực và gào thét của nó, đang ở cách ông khoảng 10 mét trong bụi rậm. Con vật đột nhiên đứng dậy và chỉ lộ ra cái đầu trước mặt họ. Karesh kể lại: “Tôi đã có thể giết nó. Cho nó xuống lỗ.” Ý ông là một viên đạn thẳng vào giữa hai mắt con vật, chứ không phải phát súng an toàn vào mạng sườn để khiến nó bất động. Vì lẽ đó, Karesh đã không nổ súng. Con khỉ gầm lên một tiếng nữa rồi bỏ chạy.
Ghi chú của tôi từ ngày thứ 6 bao gồm: “Không không không một con khỉ đột nào.” Vào cơ hội cuối cùng của chúng tôi, ngày thứ 7, Balo và Karesh theo dấu một vài con vật khác trong nhiều giờ qua khu rừng lầy lội mà không tìm được gì. Khỉ đột đã trở nên hiếm hoi vô cùng, quanh Moba Bai, và những con còn sót lại thì quá sợ sệt. Trong khi đó trời tiếp tục đổ mưa, khu lều trại trở nên bùn lầy, và nước sông dâng lên.
Khi chúng tôi không ở trong rừng, tôi dành thời gian ở trại nói chuyện với Karesh và ba bác sĩ thú y của WCS làm việc ở châu Phi trong đoàn của ông. Một người là Alain Ondzie, một người Congo gầy gò và rụt rè, được đào tạo ở Cuba, thành thạo tiếng Tây Ban Nha cũng như tiếng Pháp và một vài ngôn ngữ Trung Phi, với một thói quen dễ mến là gục đầu cười khúc khích một cách vui vẻ khi bị trêu hay thấy thích thú. Công việc chính của Ondzie là đáp lại những báo cáo về những ca tử vong của tinh tinh hay khỉ đột ở bất kỳ đâu trong nước, tới địa điểm càng nhanh càng tốt và lấy mẫu tế bào để xét nghiệm virus Ebola. Anh ấy mô tả cho tôi những dụng cụ và quy trình thực hiện tác vụ đó, với thi thể luôn ở trạng thái thối rữa khi anh tới và luôn được giả định (cho tới tinh được chứng minh ngược lại) là nó có chứa virus Ebola. Bộ đồ làm việc của anh ấy là một bộ bảo hộ với mũ thông khí, giày cao su, một cái tạp dề chống bắn, và ba đôi găng tay, được dán băng keo ở cổ tay. Việc thực hiện vết mổ đầu tiên luôn rất khó lường bởi thi thể có thể trương đầy khí ga, nó có thể phát nổ. Dù bất kỳ trường hợp nào con vượn chết thường bị bao quanh bởi những con côn trùng ăn xác thối – kiến, những con ruồi tí hon, thậm chí là ong. Ondzie kể cho tôi về một lần ba con ong từ một cái xác bò dọc lên cánh tay của anh, bên dưới bộ đồ bảo hộ, ngay trên người anh, và đốt anh ấy khi anh đang lấy mẫu. Virus Ebola có truyền qua vết đốt của một con ong không? Không ai biết.
“Công việc này có khiến anh sợ không?” Tôi hỏi Ondzie. “Không còn nữa,” anh ấy nói. “Vi sao anh lại làm công việc này?” Tôi hỏi. “Vì sao anh lại yêu thích nó?” (bởi rõ ràng là anh ấy yêu
thích nó). “Chà, đó là một câu hỏi hay đấy,” anh ấy nói, với cái gật đầu và khúc khích đặc trưng. Rồi anh nói thêm, một cách tỉnh táo hơn: “Bởi nó cho phép tôi áp dụng những thứ tôi đã học, và học hỏi thêm, và nó có thể cứu sống một vài mạng người.”
Một thành viên khác của đoàn là Patricia (Trish) Reed, người đã tới châu Phi làm việc như một nhà sinh học mười lăm năm trước, đã nghiên cứu sốt Lassa và rồi AIDS, được CIRMF ở Franceville thuê, có chút kinh nghiệm thực địa ở Ethiopia, và sau đó nhận một tấm bằng Bác sĩ Thú Y từ trường thú y ở đại học Tufts ở Boston.
Cô ấy đang ở CIRMF, làm nghiên cứu về một virus ở khỉ, khi mà một bác sĩ thú y thực địa của WCS làm việc ở đây qua đời trong một vụ rơi máy bay khi hạ cánh xuống một đường băng ở vùng hoang dã Gabon. Karesh đã thuê Reed để thay thế cho vị bác sĩ đã chết.
Phạm vi nghiên cứu của cô ấy, theo lời Reed, bao gồm một loại các bệnh truyền nhiễm đe dọa đến sức khỏe của khỉ đột, trong đó Ebola là căn bệnh ngoại lai nhất. Những căn bệnh khác hầu hết là những bệnh thường gặp hơn ở người, mà khỉ đột dễ mắc do chúng có cấu trúc gien gần giống với chúng ta: bệnh lao, bại liệt, sởi, viêm phổi, cúm gia cầm,v.v… Khỉ đột có thể mắc những căn bệnh này ở bất kỳ nơi nào những người ốm đi lại, ho, hắt hơi, và đi đại tiện trong rừng. Bất kỳ sự lan truyền nào ở chiều ngược lại như vậy – từ người sang các loài không phải người – được biết đến như một bệnh lây truyền từ người sang động vật. Đơn cử như loài khỉ đột núi nổi tiếng, đã và đang bị đe dọa bởi các bệnh lây truyền từ người như bệnh sởi, truyền từ những khách du lịch sinh thái tới đây để chiêm ngưỡng chúng. (Khỉ đột núi bao gồm nhiều phân loài khỉ đột phương đông đang bị đe dọa, chỉ sống ở vùng đồi dốc của rặng núi lửa Virunga ở Rwanda và vùng xung quanh. Khỉ đột phương tây ở vùng rừng rậm Trung Phi, một loài vật hoàn toàn sống ở vùng đất thấp, có số lượng lớn hơn nhưng cũng không được an toàn hơn là bao.) Cùng với môi trường sống bị phá hoại bởi hoạt động
g g g ị p ạ ạ ộ g
chặt cây lấy gỗ, và việc săn bắn lấy thịt bởi dân địa phương hoặc để bán ra thị trường, những căn bệnh truyền nhiễm có thể đẩy loài khỉ đột phương tây từ số lượng tương đối dồi dào hiện nay (có lẽ tổng cộng vài trăm nghìn cá thể) tới tình trạng chỉ còn một vài quần thể nhỏ, biệt lập sống manh mún, giống như khỉ đột núi hoặc tuyệt chủng cục bộ.
Nhưng những khu rừng của Trung Phi vẫn tương đối rộng lớn, so với vùng đồi núi Virunga nhỏ mà khỉ đột núi sinh sống; và khỉ đột phương tây không tiếp xúc với khách du lịch sinh thái nhiều trong nơi ở tự nhiên, gần như không thể xâm phạm của chúng. Do đó bệnh sởi hay bệnh lao không phải vấn đề lớn nhất của nó. “Tôi có thể nói rằng, không còn nghi ngờ gì, Ebola là mối nguy lớn nhất” cho loài khỉ đột phương tây, Reed nói.
“Điều khiến cho virus Ebola giữa những con khỉ đột trở nên khó kiểm soát đến thế,” cô ấy giải thích,“không chỉ nằm ở sự hung tợn của nó mà còn ở việc thiếu dữ liệu.” “Chúng ta không biết liệu nó có ở đây trước đó không. Chúng ta không biết liệu chúng có qua khỏi không. Nhưng chúng ta cần biết chúng lây lan như thế nào qua các nhóm sinh vật. Chúng ta cần biết nó ở đâu.” Và câu hỏi về ở đâu có hai lớp nghĩa. Virus Ebola đã phát tán rộng tới đâu ở vùng Trung Phi? Nó lẩn khuất trong những loài vật chủ chứa đựng nào?
Vào ngày thứ 8, chúng tôi dọn đồ, chất lên những chiếc thuyền, và đi xuôi dòng trên con sông Mambili, không mang về được mẫu máu nào để thêm vào cơ sở dữ liệu. Nhiệm vụ của chúng tôi đã bị phá hỏng bởi chính nhân tố khiến cho nó được lập ra: sự biến mất trông thấy được của những con khỉ đột. Đây lại là một trường hợp con chó vào ban đêm khác. Billy Karesh đã thấy một con khỉ đột ở tầm gần như rồi không thể bắn tiêu vào nó, và đã theo dấu hai con khác với sự giúp đỡ từ đôi mắt theo dấu tinh tường của Prosper Balo. Số còn lại, nhiều tá cá thể từng thường xuyên qua lại những vùng bai này, đã hoặc biến mất tới những vùng không ai biết hoặc… đã chết? Dù sao đi nữa, khỉ đột từng rất dồi dào ở khu vực này, và giờ thì không còn nữa.
g ự y g g
Loài virus dường như cũng biến mất. Nhưng chúng tôi biết nó chỉ đang trốn.
11
Trốn ở đâu? Trong gần bốn thập kỷ, danh tính loài vật chủ chứa đựng của Ebola đã là một trong những bí ẩn đen tối nhất của thế giới các căn bệnh truyền nhiễm. Bí ẩn đó, cùng với những nỗ lực giải đáp nó, xuất phát từ sự xuất hiện được công nhận lần đầu tiên của bệnh virus Ebola, năm 1976.
Hai đợt bùng phát nổ ra ở châu Phi vào năm đó, độc lập với nhau nhưng gần như liên tiếp: một ở phía bắc Zaira (nay là Công hòa Dân chủ Congo), một ở miền tây nam Sudan (ở một vùng mà nay nằm trong lãnh thổ Cộng hòa Nam Sudan), hai địa điểm cách nhau 300 dặm. Tuy trường hợp ở Sudan bắt đầu sớm hơn một chút, trường hợp ở Zaire lại nổi tiếng hơn, một phần bởi dòng sông nhỏ ở đây, sông Ebola, nơi mà về sau loại virus được đặt tên theo.
Điểm tập trung của đợt bùng phát ở Zaire là một bệnh viện dòng tu Công giáo ở một ngôi làng có tên Yambuku, bên trong quận Bumba Zone. Vào giữa tháng chín, một bác sĩ người Zaire ở đó đã báo cáo có hai tá ca đột ngột mắc một loại bệnh mới – không phải bệnh sốt rét thông thường mà là một thứ gì đó ghê gớm hơn, đỏ hơn, đặc trưng với việc nôn ra máu, chảy máu mũi, và tiêu chảy ra máu. Mười bốn bệnh nhân đã tử vong, tính tới thời điểm vị bác sĩ thông báo điện tín cho các nhà chức trách ở Kinshasa, thủ đô của Zaire, và những người khác đang ở tình trạng nguy kịch. Tới đầu tháng mười, Bệnh viện dòng tu Yambuku đã phải đóng cửa, vì lý do nghiệt ngã rằng phần lớn nhân viên ở đó đã tử vong. Một đội phản ứng quốc tế bao gồm
g ộ ộ p g q g
các nhà khoa học và bác sĩ đã tập hợp ở khu vực này vài tuần sau, dưới sự chỉ đạo của Bộ trưởng Y tế Zaire, để nghiên cứu khẩn cấp căn bệnh mới và đưa ra lời khuyên về những bước hành động tiếp theo. Nhóm này, bao gồm những thành viên đến từ Pháp, Bỉ, Canada, Zaire, Nam Phi, và Mỹ, trong đó có chín người đến từ CDC ở Atlanta, được biết đến với tên gọi Ủy ban Quốc tế. Người đứng đầu là Karl Johnson, vị bác sĩ và nhà virus học người Mỹ đã nghiên cứu virus Machupo ở Bolivia năm 1963, may mắn qua khỏi khi mắc chính căn bệnh đó. Mười ba năm sau, vẫn năng nổ, vẫn tận tụy, và mềm mỏng hơn thấy rõ sau trải nghiệm cận kề cái chết hoặc do những thăng tiến sự nghiệp, khi đó ông là người đứng đầu Chi nhánh về mầm bệnh đặc biệt ở CDC.
Johnson đã giúp giải quyết cuộc khủng hoảng virus Machupo nhờ sự chú ý của ông tới phương diện sinh thái học – đó là, virus sống ở đâu khi nó không giết hại những dân làng ở Bolivia? Câu hỏi chứa đựng đã được vận dụng tốt, ở trường hợp đó, và câu trả lời đã nhanh chóng được tìm thấy: Một loài chuột bản xứ đã mang virus Machupo vào nhà cửa và kho lương thực của con người. Việc ngăn cản lũ chuột xâm nhập đã chấm dứt đợt bùng pháp một cách hiệu quả. Giờ đây, giữa những ngày tháng tuyệt vọng và hoang mang của tháng mười và tháng mười một năm 1976, ở miền bắc Zaire, đối mặt với một sát thủ vô hình và vô định khác, khi mà số ca tử vong đã lên đến hàng trăm, Johnson và các nhà nghiên cứu đi cùng ông dành thời gian suy ngẫm về virus Ebola như ông đã suy ngẫm về virus Machupo: Thứ này từ đâu đến?
Tới khi đó học đã biết mầm bệnh là một loại virus. Thông tin đó được suy ra từ việc phân lập được thực hiện nhanh chóng từ các mẫu thử lâm sàng gửi từ các phòng thí nghiệm ở nước ngoài, trong đó có CDC. (Johnson, trước khi bay tới Zaire, đã tự mình dẫn đầu nỗ lực phân lập ở CDC.) Họ biết rằng loại virus này tương đồng với virus Marburg, một tác nhân gây chết người khác, được xác định chín năng trước đó; ảnh hiển vi điện tử cho
thấy nó cũng có nhiều sợi nhỏ và độ xoắn tương đương, như một con sán dây đau khổ. Nhưng những thử nghiệm trong phòng thí nghiệm cũng cho thấy virus Ebola đủ khác biệt so với Marburg để tạo nên một thứ gì đó mới. Sau cùng hai loại virus hình giun này, Ebola và Marburg, được xếp chung vào một họ, Filoviridae: họ filovirus.
Nhóm của Johnson cũng biết rằng tác nhân mới, virus Ebola, phải trú ngụ trong một loài động vật sống nào đó – một loài khác loài người – nơi nó có thể tồn tại mà ít gây xáo trộn nhất và duy trì một sự hiện diện mang tính liên tục.
Nhưng câu hỏi về vật chủ chứa đựng của nó chưa nguy cấp bằng những mối lo khác, như làm thế nào để phá vỡ dây chuyền lây nhiễm từ người sang người, làm thế nào để cứu sống bệnh nhân, làm thế nào để chấm dứt đợt bùng phát. “Chỉ một số lượng giới hạn các cuộc điều tra sinh thái học được thực hiện,” đội ngũ này sau đó đã báo cáo, và kết quả của những cuộc điều tra đó đều âm tính. Không có dấu hiệu của virus Ebola ở bất kỳ đâu ngoại trừ con người. Nhưng ngẫm lại thì dữ liệu âm tính cũng thú vị, ít nhất với vai trò một ghi chép về nơi mà các nhà nghiên cứu ban đầu đã xét đến. Họ xay nhuyễn 818 con rệp thu thập từ các ngôi làng bị nhiễm Ebola, không thấy dấu hiệu Ebola ở bất kỳ con nào. Họ xét tới loài muỗi. Không có gì. Họ lấy máu từ mười con lợn và một con bò – tất cả đều không có Ebola. Họ bắt 123 con vật gặm nhấm, bao gồm 69 con chuột nhắt, 30 con chuột đồng, và 8 con sóc, không một con nào mang virus. Họ xét nghiệm ruột của 8 con khỉ, hai con linh dương Nam phi, và bảy con dơi. Những con vật này đều không chứa virus.
Các thành viên của Ủy ban Quốc tế đều được thúc đẩy bởi những gì mà họ nhìn thấy. “Không có một đại dịch do một loại virus mới nào đột ngột và có nguy cơ bùng phát rộng lớn hơn từng xuất hiện trên thế giới trong 30 năm qua,” họ cảnh báo trong bản báo cáo. Tỷ lệ tử vong ở mức 88%, họ ghi chú, cao hơn bất kỳ căn bệnh nào theo số liệu ghi chép, ngoại trừ bệnh dại (gần 100% ở các bệnh nhân không được chữa trị trước khi họ Ủ
g ệ g ợ ị ọ biểu hiện triệu chứng.) Ủy ban đưa ra sáu khuyến cáo khẩn cấp tới chính quyền Zaire, trong đó có những biện pháp y tế ở mức độ địa phương và giám sát toàn quốc. Tuy nhiên việc nhận diện vật chủ của Ebola không được nhắc tới. Đó là vấn đề khoa học, hơi trừu tượng hơn so với những hành động được khuyến cáo cho chính phủ của tổng thống Mobutu. Điều đó sẽ phải đợi.
Sự chờ đợi vẫn tiếp diễn.
Ba năm sau đợt bùng phát ở Yambuku, Karl Johnson và một vài thành viên khác của Ủy ban vẫn đang băn khoăn về câu hỏi về vật chủ chứa đựng. Họ quyết định thử lại. Với việc thiếu nguồn vốn dành cho một cuộc thám hiểm dành riêng cho việc tìm nơi ẩn náu của Ebola, họ kết hợp nỗ lực này với một chương trình nghiên cứu sẵn có về thủy đậu ở Zaire, do WHO chỉ huy. Thủy đậu là một bệnh nguy hiểm, tuy không nguy cấp như bệnh virus Ebola, và cũng do một loại virus lẩn khuất trong một hay nhiều loài vật chủ chứa đựng, vào thời điểm đó vẫn chưa được xác định. Do đó việc kết hợp tìm kiếm dường như là quyết định tiết kiệm và hiển nhiên, sử dụng hai bộ dụng cụ phân tích để sàng lọc một đợt mẫu thu được. Một lần nữa đôi thực địa thu thập những con vật từ các làng và khu rừng xung quanh ở Bumba Zone, cũng như các vùng khác ở miền bắc Zaire và đông nam Cameroon. Lần này những nỗ lực đặt bẫy và săn bắt của họ, cộng với tiền thưởng họ trả cho những sinh vật còn sống được dân làng gửi tới, mang về hơn 1500 sinh vật thuộc 117 loài. Có khỉ, chuột đồng, chuột nhắt, dơi, cầy ma gút, sóc, tê tê, chuột chù, nhím, linh dương Nam Phi, chim, rùa, và rắn. Máu được lấy từ mỗi con vật, và rồi những mảnh gan, thận, và lách. Tất cả những mẫu vật này, đông lạnh trong những ống nghiệm riêng biệt, được gửi về CDC để phân tích. Liệu có virus sống nào bên trong các tế bào được lấy mẫu? Liệu kháng thể Ebola có được phát hiện trong huyết thanh? Kết luận, trong báo cáo thẳng thắn của Johnson và các đồng tác giả trên các trang của Tạp chí các Bệnh truyền nhiễm, đã phủ định: “Không có dấu hiệu nhiễm virus Ebola nào được tìm thấy.”
Một yếu tố khiến cho việc truy tìm vật chủ chứa đựng của Ebola trở nên đặc biệt khó khăn, đặc biệt khó tập trung, là bản chất lây truyền của căn bệnh giữa quần thể con người. Có những thời điểm nó biến mất hàng năm trời. Đây là một điều lành cho y tế công cộng nhưng một sự níu kéo đối với khoa học. Các nhà sinh thái virus có thể tìm virus Ebola ở bất kỳ đầu, trong bất kỳ sinh vật nào thuộc bất kỳ loài nào, ở bất kỳ rừng rậm châu Phi nào, nhưng đó là những bụi rơm rất lớn và cây kim virus thì lại vô cùng nhỏ.
Những mục tiêu tìm kiếm triển vọng nhất, về không gian cũng như thời gian, và bất kỳ nơi nào và bất kỳ khi nào con người tử vong vì bệnh virus Ebola. Và trong một khoảng thời gian rất dài, không có ai đã chết vì căn bệnh đó – không có ai mà cái chết của họ được các quan chức y tế chú ý, ít ra là vậy.
Sau đợt bùng phát ở Yambuku năm 1976, và rồi hai đợt nhỏ hơn ở Zaire và Sudan giữa năm 1977 và 1979, ebolavirus gần như không xuất hiện ở bất kỳ đâu ở châu Phi trong 15 năm. Đã có một vài ca lẻ tẻ đầu những năm 1980, sau này khi xét lại, nhưng không có đợt bùng phát nào được xác nhận mà cần tới sự phản ứng khẩn cấp: và trong mỗi thời điểm nhỏ đó dây chuyền lây nhiễm dường như đã tự cháy sạch. Cháy sạch là một khái niệm có sự liên hệ đặc biệt với những mầm bệnh đặc biệt nguy hiểm tới tính mạng và tương đối dễ lây nhiễm. Tức là một vài người tử vong, một vài người khác bị nhiễm, một phần nhỏ trong số đó cũng tử vong nhưng những người khác qua khỏi, và mầm bệnh không tiếp tục sinh sôi. Biến cố tự kết thúc trước khi những đội phản ứng từ WHO, CDC, và các trung tâm chuyên môn khác phải được điều động. Và rồi, sau một quãng nghỉ, nó trở lại – với đợt bùng phát ở Mayibout 2 và những vùng khác ở Gabon, và còn nguy cấp hơn thế ở một nơi có tên Kikwit.
Kikwit, ở Zaire, nằm cách Kinshasa khoảng 300 dặm về phía đông. Nó khác với Yambuku, và Mayibout 2, và trại khai thác gỗ bên ngoài Booué ở một điểm mấu chốt: Nó là một thành phố hai trăm nghìn dân. Nó có vài bệnh viện. Nó kết nối với thế giới theo
"""