"
Người Vô Tội - Harlan Coben full prc, pdf, epub [Trinh Thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Người Vô Tội - Harlan Coben full prc, pdf, epub [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
Người vô tội Harlan Coben
Tác giả: Harlan Coben
Biên dịch: Trần Thiện Huy
Thể loại: Truyện trinh thám
NXB: NXB Hội Nhà Văn
Năm xuất bản: 2008
Số trang: 550
Kích thước: 14x20.5
Giá bìa: 82.000đ
Đánh máy và Biên tập: Nguyễn Ánh Hồng(ngọc trai đen)
Chuyển sang e-book: Nguyễn Ánh Hồng
Ngày hoàn thành: 28/1/2009 (lúc sáng 1h)
E-mail:
dreaming.of.you0609@gmail.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - http://www.dtv-ebook.com
Mục lục
Phần mở đầu Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15
Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 22 Chương 23 Chương 24 Chương 25 Chương 26 Chương 27 Chương 28 Chương 29 Chương 30 Chương 31 Chương 32
Chương 33 Chương 34 Chương 35 Chương 36 Chương 37 Chương 38 Chương 39 Chương 40 Chương 41 Chương 42 Chương 43 Chương 44 Chương 45 Chương 46 Chương 47 Chương 48 Chương 49
Chương 50 Chương 51 Chương 52 Chương 53 Chương 54 Chương 55 Chương 56 Chương 57 Chương 58 Chương 59 Chương 60 Chương 61 Chương 62 Chương 63 Phần kết
Phần mở đầu
Mi chưa khi nào có ý muốn giết hắn ta.
Tên mi là Matt Hunter. Mi hai mươi tuổi. Mi lớn lên ở một vùng ngoại ô của giới trung lưu khá giả phía Bắc bang New Jersey, khá gần Manhattan. Phía thành phố mà mi sống nghèo hơn bên kia, nhưng đây là một thành phố tương đối giàu có. Cha mẹ mi làm việc cần mẫn và thương yêu mi hết lòng. Mi là con thứ. Mi có một người anh mà mi tôn sùng và một đứa em gái mà mi chấp nhận được.
Cũng như mọi đứa nhóc trong thành phố, khi trưởng thành mi cũng lo nghĩ về tương lai và về trường đại học nào mi có thể xin vào. Mi học hành chăm chỉ đúng mực và nếu không quá xuất sắc thì cũng nhận được điểm tốt. Tổng kết điểm trung bình, mi được một con A-[U1] . Mi không lọt được vào top 10% đứng đầu nhưng cũng nằm đâu đó khá gần. Thành tích sinh hoạt ngoại khóa của mi tạm được, trong đó có một nhiệmkỳ ngắn ngủi làm thủ quỹ của trường. Mi đã giành được giải thưởng khi tham gia thi đấu cả trong đội hình bóng lẫn bóng rổ, dù chưa đủ trình độ để thành chuyên nghiệp nhưng
cũng đủ để chơi Division III. Mi thuộc loại mồm mép và cũng có duyên. Nói về mức độ được mến mộ thì mi chỉ đứng ngay sau thành phần sáng giá nhất trong trường. Đến khi thi SAT thì điểm số sáng chói của mi làm cho ngay cả người phụ đạo cũng phải bất ngờ.
Mi nhắm tới các trường Ivy League[U2] , nhưng chuyện này hơi nằm ngoài tầm với của mi. Harvard và Yale từ chối mi thẳng thừng. Đại học Pennsylvania và Columbia thì xếp mi vào danh sách dự bị. Cuối cùng thì mi vào được Bowdoin, bang Maine. Mi thật sự yêu thích nơi này. Các lớp học có sĩ số vừa phải. Mi
kết giao được với một số bạn bè. Mi không có một bạn gái cố định nào, nhưng dù sao thì có lẽ mi cũng không muốn chuyện đó. Năm thứ hai, mi bắt đầu chơi bóng bầu dục của trường. Mi được gia nhập đội bóng rổ của sinh viên ngay đầu năm thứ ba, và giờ đây khi tay tiền đạo học năm cuối đã ra trường, mi có cơ hội ngàn nămđể có được những phút nổi danh.
Đó chính là thời điểm mi giết người, trên đường trở về trường giữa học kỳ thứ nhất và thứ hai của nămthứ ba đại học.
Mi có một kỳ nghỉ lễ náo nhiệt tuyệt vời cùng gia đình, nhưng những
đợt tập huấn bóng rổ đã vậy gọi. Mi hôn tạm biệt cha mẹ rồi lái xe trở về trường với thằng bạn thân nhất ở cùng phòng, Duff. Duff đến từ Westchester, New York. Nó là đứa đậm người và có cặp giò to khỏe. Nó chơi trung vệ phải cho đội bóng bầu dục và dự bị cho đội bóng rổ. Duff là tay uống rượu khỏe nhất trường - nó chưa từng thua trong bất kỳ cuộc thi nốc nào.
Mi lái xe.
Trên đường về, Duff muốn tạt vào trường Đại học Massachussetts ở Amherst. Một thằng chiến hữu của nó từ thời trung học là thành viên của
một hội sinh viên dân chơi trong trường. Bọn này đang tiệc tùng ầm ĩ.
Mi không thích thú gì, nhưng mi cũng chẳng phải kẻ làm mất hứng người khác. Thường thì mi thấy thoải mái với những đám tụ họp nhỏ hơn, khi mi biết gần hết người trong đám. Bowdoin có khoảng 1600 sinh viên. Còn Massachussetts Amherst có gần 40000. Bây giờ đang là đầu tháng Giêng và lạnh đến cóng người. Trên mặt đất đang có tuyết phủ. Mi có thể thấy hơi thở của mi phả ra khi bước vào phòng họp của hội sinh viên.
Mi và Duff thảy áo khoác vào đống áo chất sẵn. Nhiều năm sau, mi
sẽ nghĩ đi nghĩ lại về điều đó, về cái thảy áo vô tình đó. Giá như mi vẫn mặc áo trên người, hay bỏ nó trong xe, hoặc đặt xuống bất kỳ chỗ nào khác…
Nhưng chẳng có cái giá như nào trong số đó xảy ra.
Đám liên hoan này không tệ. Đúng là có không khí dân chơi, nhưng mi có cảm giác nó hơi bị gượng ép. Bạn của Duff muốn cả hai tên ở lại qua đêm trong phòng nó. Mi đồng ý. Mi uống khá nhiều - nói cho cùng, đây là một bữa liên hoan của đám sinh viên mà - mặc dù còn xa mới bằng Duff. Cuộc vui đã tàn. Đến
lúc này, mi và Duff ra ngoài lấy áo khoác. Duff vẫn cầm lon bia trong tay. Nó nhặt áo lên và vắt qua vai.
Đúng lúc đó một ít bia đổ ra.
Không nhiều. Chỉ khoảng một giọt. Nhưng thế cũng đủ rồi.
Chỗ bia rớt xuống một chiếc áo gió màu đỏ. Đó là một hình ảnh mi nhớ rõ. Ngoài trời đang lạnh cóng, dưới 20 F, vậy mà có kẻ mặc áo gió. Một điều nữa mi không sao quên được là chiếc áo gió đó không thấmnước. Chỗ bia rớt ra, ít ỏi như vậy, chẳng làm hư hại gì cái áo. Nó còn chẳng để lại vết ố nữa. Chỉ cần giặt
qua loa là hết ngay thôi.
Nhưng có đứa đã réo lên: “Này!”
Tên nọ, chủ nhân của chiếc áo gió đỏ, là một thằng khá to xác nhưng không phải loại khổng lồ. Duff nhún vai. Nó không xin lỗi. Tên nọ, ông bạn Áo Gió Đỏ, đứng chặn trước mặt Duff. Đúng là một sai lầm. Mi biết
Duff là một tay giỏi đánh lộn và dễ cáu tiết. Trường học nào cũng có một tên như Duff - kẻ mà mi chưa bao giờ tưởng tượng được rằng có thể đánh lộn thua người ta.
Dĩ nhiên, đó chính là vấn đề. Trường nào cũng có một tên Duff. Và
cũng có khi tên Duff bên mình đụng phải tên Duff bên kia.
Mi cố ngăn vụ lộn xộn, cười nói cho qua chuyện, nhưng cả hai thằng cha này bia đều đã bốc lên tới đầu, mặt đỏ tưng bừng và quả đấm nắmchặt. Một lời thách đấu được buông ra. Mi không nhớ ai đã thách ai. Cả bọn bước ra ngoài màn đêm giá buốt, và mi nhận ra mi đang gặp rắc rối to.
Gã to xác Áo Gió Đỏ có một đámbạn đi cùng.
Tám hoặc chín tên. Bên mình chỉ có mi và Duff. Mi đưa mắt tìm thằng bạn của Duff - Mark hay Mike gì đó
- nhưng không thấy hắn đâu.
Trận đấu bắt đầu nhanh chóng.
Duff chúi đầu xuống như con bò đực và húc thẳng vào Áo Gió Đỏ. Áo Gió Đỏ tránh sang bên và kẹp cứng được cổ Duff. Hắn đấm Duff ngay vào mũi. Vẫn kẹp cổ Duff, hắn lại đấm. Rồi lại đấm.
Đầu của Duff gục xuống. Nó vùng vẫy kịch liệt nhưng vô hiệu. Cho đến khoảng cái đấm thứ bảy hay thứ támthì Duff thôi không vùng vẫy nữa. Lũ bạn của Áo Gió Đỏ bắt đầu reo hò. Hai tay Duff rũ xuống hai bên hông.
Mi muốn ngăn cản, nhưng không
chắc phải làm như thế nào. Áo Gió Đỏ đang tiếp tục hành động của mình một cách có phương pháp, mỗi cú đấm ra chậm hơn và vung tay thật rộng. Bọn bạn hắn đang reo hò cổ vũ. Chúng hết chà lại ôi chao sau mỗi tiếng nện.
Mi hoảng sợ.
Bạn mi đang bị đánh, còn mi lại gần như chỉ lo cho mình. Chuyện đó làm mi hổ thẹn. Mi muốn làm điều gì đó, nhưng mi lại sợ hãi, thật sự sợ hãi. Mi không thể nhúc nhích nổi. Chân mi tựa như bằng cao su. Tay mi run rẩy. Và vì vậy mi căm ghét bản thân mình.
Áo Gió Đỏ đấm thêm một quả nữa vào mặt Duff. Hắn buông tay kẹp cổ Duff ra. Nó đổ xuống mặt đất như một túi đồ giặt là. Áo Gió Đỏ đá vào mạng sườn Duff.
Mi là thứ bạn bè tồi tệ nhất. Mi quá khiếp sợ không dám giúp bạn. Mi sẽ không bao giờ quên được cảmgiác đó. Hèn nhát. Cái đó tệ hơn là bị ăn đòn, mi nghĩ. Sự yên lặng của mi. Cảm giác mất danh dự tồi tệ này.
Một cú đá nữa. Duff làu bàu và lăn ngửa ra. Mặt hắn nổi lên một màu đỏ bầm. Sau này mi mới biết thương tích của hắn chỉ là vớ vẩn. Duff sẽ
mang hai con mắt bầm và mấy mươi chỗ sưng. Chỉ có thế thối. Nhưng ngay lúc này trông nó có vẻ tệ. Mi biết nó sẽ không bao giờ đứng xuôi tay xem mi ăn đòn như vậy.
Mi không chịu nổi nữa.
Mi nhảy ra khỏi đám đông.
Cả bọn quay đầu nhìn mi. Trong một khoảng khắc không ai cử động. Không ai lên tiếng. Áo Gió Đỏ đang thở nặng nề. Mi nhìn thấy hơi thở của hắn trong giá rét. Mi đang run rẩy. Mi cố gắng nói chuyện một cách có lý lẽ. Coi này, mi nói, nó bị như vậy cũng đủ rồi. Mi dang hai tay ra. Mi
cố thử nụ cười gây cảm tình. Nó thua rồi, mi nói. Xong rồi. Anh bạn đã thắng, mi nói với Áo Gió Đỏ.
Từ phía sau có tên nào nhảy bổ vào mi. Tay vòng qua người mi, ômmi thật chặt.
Mi đã sa bẩy.
Giờ thì Áo Gió Đỏ quay sang phía mi. Tim mi đập vào lồng ngực như một con chim trong chiếc lồng quá chặt. Mi hất đầu về phía sau. Sọ mi đập mạnh vào mũi kẻ nào đó. Áo Gió Đỏ đã tới gần hơn. Mi né sang một bên. Một kẻ khác tách ra khỏi đám đông. Tóc hắn vàng, nước da đỏ
au. Mi đoán hắn thuộc đám chiến hữu của Áo Gió Đỏ.
Tên hắn là Stephen McGrath.
Hắn với tay để túm lấy mi. Mi giãy ra như một con cá mắc câu. Thêm mấy thằng nữa xông về phía mi. Mi hoảng loạn. Stephen McGrath đặt tay lên vai mi. Mi cố gắng thoát ra. Mi xoay người như điên.
Chính lúc đó, mi với tay và túmđược cổ hắn.
Có phải mi đã nhào vào hắn? Hắn đã kéo mi hay mi đẩy hắn? Mi không biết. Có phải một trong hai người đã trượt chân trên lề đường?
Có phải mọi chuyện đều tại băng? Mi sẽ xem đi xem lại đoạn phim này vô số lần về sau, nhưng sẽ chẳng bao giờ tìm được câu trả lời rõ ràng.
Không biết bằng cách nào, cả hai đều ngã xuống.
Hai tay mi vẫn đặt trên cổ hắn. Túm lấy họng hắn. Mi không thả ra.
Cả hai ngã uỵch xuống đất. Phần sọ sau gáy Stephen McGrath nện vào lề đường. Một tiếng động vang lên, một tiếng “rắc” kinh khủng vọng ra từ địa ngục, một thứ tiếng động ẩm ướt và trống rỗng, không giống như bất kỳ tiếng động nào mi đã từng nghe.
Tiếng động báo hiệu cuộc đời vốn từ lâu quen thuộc với mi giờ đây coi như chấm dứt.
Mi sẽ nhớ mãi nó. Cái tiếng động kinh khủng ấy. Nó sẽ không bao giờ rời bỏ mi.
Tất cả ngưng đọng. Mi nhìn xuống chằm chằm. Đôi mắt Stephen McGrath mở to không chớp. Nhưng mi đã biết trước rồi. Mi biết vì cái cách thân thể hắn tự nhiên lả oặt xuống. Mi biết vì cái tiếng “rắc” king khủng vọng ra từ địa ngục ấy.
Mọi người tản ra. Mi không nhúc nhích. Mi không nhúc nhích một hồi
lâu.
Rồi mọi chuyện diễn tiến rất nhanh. Bảo vệ trường đến. Sau đó là cảnh sát. Mi kể cho họ đầu đuôi sự việc. Cha mẹ mi thuê một luật sự hạng chiến từ thành phố New York. Bà ta khuyên mi viện cớ giết người vì tự vệ. Mi khai như vậy.
Và mi cứ phải nghe tiếng động kinh khủng ấy.
Viên công tố viên cười khẩy. Thưa quý vị bồi thẩm, ông ta nói, thế hóa ra là bị cáo ngẫu nhiên trượt ngã trong khi hai tay nắm lấy cổ Stephen McGrath? Anh ta thật sự trông chờ
chúng ta sẽ tin chuyện đó?
Phiên tòa tiến triển không thuận lợi lắm.
Không còn gì có nghĩa lý đối với mi nữa. Đã có lúc mi bận tâm về điểm số và thời gian giải trí. Thật đáng thương. Bạn bè, trai gái, hơn thua ngôi thứ, tranh tài, tất cả những trò đó. Chúng đã tan đi như bong bóng xà phòng. Chúng đã bị thay thế bởi tiếng động kinh khủng phát ra từ cái xương sọ đập vào đá.
Tại phiên tòa, mi nghe cha mẹ khóc, đúng vậy, nhưng chính bộ mặt của Sonya và Clark McGrath, cha mẹ
của nạn nhân, mới ám ảnh mi. Sonya McGrath trừng trừng nhìn mi suốt phiên xét xử. Bà ta thách mi nhìn vào mắt bà ta.
Mi không thể.
Mi cố gắng nghe đoàn bồi thẩmthông báo phán quyết, nhưng những tiếng động kia cứ xen ngang. Những tiếng động không bao giờ dừng lại, không bao giờ buông tha, kể cả khi quan tòa nghiêm khắc nhìn xuống và tuyên án. Giới truyền thông đang quan sát. Mi sẽ không được đưa tới một nhà tù nhẹ nhàng theo kiểu chỗ nghỉ mát cho bọn con nhà da trắng. Không phải vào lúc này. Không phải
vào giữa năm bầu cử.
Mẹ mi ngất xỉu. Cha mi cố tỏ ra mạnh mẽ. Em gái mi chạy ra khỏi phòng xử án. Anh mi, Bernie, đứng chết trân.
Mi bị còng tay và điệu đi. Cách mi được nuôi dạy không giúp mi nhiều để sẵn sàng đương đầu với những gì chực chờ phía trước. Mi đã xem tivi và nghe đủ thứ chuyện về hãm hiếp trong tù. Chuyện đó không xảy ra - không có bạo hành tình dục - nhưng mi bị ăn đòn ngay tuần lễ đầu tiên. Mi đã phạm phải sai lầm khi chỉ mặt điểm tên thủ phạm. Mi bị đánh thêm hai trận nữa và phải nằm ba
tuần trong bệnh xá. Nhiều năm sau, thỉnh thoảng mi vẫn nhìn thấy trong nước tiểu có máu, kỷ niệm của một cú đấm vào thận.
Mi sống trong nỗi hoảng sợ thường trực. Khi mi được trả về với đám tù nhân, mi nhận ra cách sống còn duy nhất là gia nhập một thứ chi nhánh kỳ quái của tổ chức Quốc gia Aryan. Họ không nuôi ý tưởng to tát nào và cũng chẳng có một viễn cảnh lớn lao về cải tạo nước Mỹ. Họ gần như chỉ thích thù ghét.
Sau khi mi ở tù sáu tháng, cha mi mất vì đau tim. Mi biết đó là tội của mi. Mi muốn khóc nhưng không khóc
được.
Mi trải qua bốn năm tù. Bốn năm- bằng thời gian đa số sinh viên trải qua ở trường đại học. Đã gần tới sinh nhật thứ hai mươi lăm của mi. Người ta nói mi đã thay đổi, nhưng mi không chắc lắm.
Khi mi rời khỏi tù, mi bước đi một cách phân vân. Như thể mặt đất dưới chân mi sắp sụp. Như thể lòng đất chờ nuốt mi vào bất cứ lúc nào.
Sau này mi sẽ bước mãi bằng những bước chân như vậy.
Anh mi, Bernie, đợi mi ngay ngoài cổng. Bernie vừa lấy vợ.
Marsha, vợ anh, đang mang thai đứa con đầu lòng. Anh quàng tay qua người mi. Mi gần như có thể cảmthấy bốn năm vừa qua tan biến. Anh mi nói đùa một câu. Mi cười, cười thật sự, lần đầu tiên sau suốt một thời gian dài.
Trước kia mi đã lầm - không phải đời mi đã chấm dứt vào cái đêm lạnh lẽo ở Amherst đó. Anh mi sẽ giúp mi trở về đời thường. Thậm chí, trên con đường đó, mi còn gặp được một phụ nữ tuyệt đẹp. Tên nàng là Olivia. Nàng sẽ làm cho mi tràn trề hạnh phúc.
Mi sẽ cưới nàng.
Một ngày - chín năm sau khi mi bước ra khỏi cánh cổng đó - mi được biết rằng người vợ xinh đẹp của mi đã có thai. Mi bèn đi mua hai chiếc camera phone để có thể giữ liên lạc thường xuyên. Khi mi đang ở chỗ làm, chuông điện thoại reo.
Tên mi là Matt Hunter. Chuông điện thoại reo lần thứ hai. Và mi trả lời…
Chín năm sau
Chương 1
Reno, Nevada
18 tháng Tư
Tiếng chuông cửa chói tai kéo Kimmy Dale ra khỏi giấc ngủ không mộng mị.
Nàng trở mình, rên rỉ, rồi nhìn chiếc đồng hồ số cạnh giường.
11 giờ 47 sáng.
Mặc dù đang giữa trưa nắng gắt, căn nhà di động của nàng vẫn tối như trong đêm. Kimmy thích giữ nó như
vậy. Nàng làm việc về đêm và ngủ rất chập chờn. Thời còn lẫy lừng ở Vegas, phải mất hàng năm thử đủ các loại cửa chớp, mành mành, màn che, băng bịt mắt cuối cùng nàng mới tìmđược một cách kết hợp sao cho vầng mặt trời Nevada nóng như sắt nung khỏi quấy phá giấc ngủ của mình. Ánh nắng ở Reno này đỡ gay gắt hơn, nhưng nó vẫn không ngừng lùng sục và khai thác đến tận những kẽ hỡ nhỏ nhất.
Kimmy ngồi dậy trên chiếc giường cỡ lớn. Chiếc tivi không có nhãn hiệu, mà nàng mua lại của một nhà trọ địa phương khi nó định nâng cấp, vẫn đang mở nhưng bị tắt tiếng.
Hình ảnh trôi nổi như những bóng ma từ một thế giới xa lạ. Giờ thì nàng ngủ một mình, nhưng không phải từ trước đến nay đều vậy. Đã có thời mỗi người khách, mỗi người tình đều mang đến trên chiếc giường này một niềm hy vọng, một sự lạc quan rằng đây-có-thể-chính-là-người-đó, mà bây giờ nghĩ lại, Kimmy nhận ra nó quả thật gần như hoang tưởng.
Niềm hy vọng đó không còn nữa.
Nàng chậm chạp đứng lên. Mỗi cử động lại làm chỗ sưng trên ngực do cuộc phẫu thuật thẩm mỹ mới đây nhất đau nhức lên. Nó là cuộc phẫu thuật thứ ba trên khu vực đó, mà nàng
có còn trẻ trung gì nữa đâu. Nàng không muốn đi sửa ngực, nhưng Chally, kẻ luôn cho rằng mình có con mắt sành sỏi, thì cứ khăng khăng. Tiền thưởng của nàng đang giảm sút. Sự ái mộ dành cho nàng đã nhạt. Vì vậy nàng đồng ý. Nhưng làn da trên khu vực đó đã bị kéo ra quá giãn từ lần lạm dụng phẫu thuật trước. Khi Kimmy nằm ngửa, cái của khỉ đó lệch sang bên và trông như mắt cá.
Chuông cửa lại kêu.
Kimmy nhìn xuống đôi chân đen bóng của mình. Ba mươi lăm tuổi, chưa bao giờ sinh nở, nhưng các tĩnh mạch bị giãn nổi lên chằng chịt như
đám giun đang đánh chén. Năm tháng chồng chất quá nhiều trên đôi chân này. Chally chắc cũng muốn nàng giải quyết chỗ đó luôn. Nàng vẫn còn gọn ghẽ, thân hình ngon lành và bộ mông vẫn tuyệt vời, nhưng thưa bạn, ba mười lăm không phải là mười tám. Đã phải độn chỗ này chỗ kia. Và cái mớ mạch máu này. Như một tấm bản đồ địa hình chết tiệt.
Nàng châm một điếu thuốc trên miệng. Hộp diêm nàng lấy từ nơi làmviệc, một câu lạc bộ thoát y tên là Eager Beaver. Nàng đã từng là một một ngôi sao ở Vegas, với nghệ danh Ma thuật Đen. Nàng không nuối tiếc những ngày đó. Thật tình thì nàng
chẳng nuối tiếc ngày nào trong đời.
Kimmy Dale khoác áo choàng và mở cửa phòng ngủ. Phòng trước không được che nắng kỹ như vậy. Một vùng sáng chói ập vào người nàng. Nàng đưa tay che và chớp chớp mắt. Kimmy không có nhiều khách - nàng không bao giờ hành nghề tại nhà riêng - nên nàng đoán chắc đó là một người truyền giáo của nhóm Nhân chứng Jehovah. Khác với đa số người trên khắp cái thế giới tự do này, Kimmy không khó chịu vì những cuộc xâm nhập định kỳ của họ. Nàng luôn luôn mời đám cuồng tín ấy vào nhà và chăm chú nghe họ nói, cảm thấy ghen tị vì họ đã tìm thấy
một điều gì đó, và ao ước giá nàng có thể bị lừa phỉnh bởi cái thứ nhảmnhí này. Cũng như với những người đàn ông đã đi qua cuộc đời mình, nàng hy vọng người này sẽ khác, hy vọng người này sẽ thuyết phục được nàng và nàng sẽ có thể tin vào nó.
Nàng mở cửa mà không cần hỏi xem đó là ai.
“Cô có phải là Kimmy Dale không?”
Cô gái đứng ở cửa còn khá trẻ. Mười tám, đôi mươi, đâu đấy trong khoảng đó. Không, không phải đámNhân chứng Jehovah. Không có cái
kiểu cười ngu ngơ của họ. Trong một thoáng, Kimmy tự hỏi không biết cô bé có phải là một người trong đámlính mới của Chally, nhưng cũng không đúng. Cô ta không xấu xí hay làm sao, nhưng không phải loại Chally thích. Chally khoái sặc sỡ và lộng lẫy.
“Cô là ai vậy?” Kimmy hỏi.
“Điều đó không quan trọng.” “Cô nói gì?”
Cô gái cụp mắt xuống và cắn môi dưới. Kimmy nhìn thấy trong dáng vẻ này một nét quen thuộc mơ hồ và cảmthấy trong ngực mình gờn gợn.
Cô gái nói: “Cô quen mẹ tôi.”
Kimmy nghịch nghịch điếu thuốc lá: “Tôi biết nhiều bà mẹ lắm.”
“Mẹ tôi,” cô gái nói, “là Candace Potter.”
Kimmy nhăn mặt khi nghe thấy cái tên đó. Trời nóng hơn 900 F, nhưng nàng bất chợt siết chặt tà áo.
“Tôi vào nhà được không?”
Có phải Kimmy đã nói là được? Nàng không thể cất lời. Nàng đứng qua một bên, và cô gái tự len vào.
Kimmy nói: “Tôi không hiểu.”
“Candace Potter là mẹ tôi. Bà cho tôi đi làm con nuôi khi tôi mới chào đời.”
Kimmy cố giữ bình tĩnh. Nàng khép cửa căn nhà di động. “Cô muốn uống gì không?”
“Không, cám ơn cô.”
Hai người nhìn nhau. Kimmy khoanh tay lại.
“Không rõ cô muốn gì đây,” nàng nói.
Cô gái trả lời như đọc thuộc lòng. “Hai năm trước tôi mới được
biết mình là con nuôi. Tôi rất thương yêu gia đình đã nuôi dưỡng tôi, nói như vậy cho cô khỏi hiểu lầm. Tôi có hai người chị em nữa và cha mẹ thì tuyệt vời. Họ đều rất tốt với tôi. Chuyện này không phải vì họ. Chỉ là… khi cô phát hiện một chuyện như thế này, cô cần phải biết rõ.”
Kimmy gật đầu, dù nàng không chắc tại sao.
“Vậy là tôi bắt đầu đào xới các thông tin. Không dễ dàng gì. Nhưng cũng có những nhóm người giúp con nuôi tìm cha mẹ ruột.”
Kimmy rút điếu thuốc khỏi
miệng. Tay nàng run rẩy. “Nhưng cố biết là Candi- tôi muốn nói là mẹ cô - Candace…”
“… Đã chết. Vâng, tôi biết. Bà đã bị giết. Tôi nghe được tin này tuần trước.”
Chân Kimmy rã rời. Nàng ngồi xuống. Ký ức ùa về làm nàng đau nhói.
Candace Potter. Được biết đến ở các hộp đên dưới tên “Cây kẹo”.
“Cô muốn gì ở tôi?” Kimmy hỏi.
“Tôi đã nói chuyện với viên cảnh sát điều tra vụ án của bà ấy. Tên ông
ta là Max Darrow. Cô còn nhớ ông ta chứ?”
Ồ, có chứ, nàng nhớ rõ ông bạn Max quý hóa. Thậm chí biết hắn trước cả vụ án mạng. Đầu tiên, thámtử Max Darrow gần như chỉ tiến hành mọi việc thuần túy theo đúng thủ tục. Nói về mức độ ưu tiên thấp. Vũ nữ thoát y chết, không gia đình. Một cây xương rồng khác chết trong hoang mạng, đối với Darrow thì Candi chỉ là như vậy. Kimmy phải nhảy vào can thiệp, dùng ân huệ đổi lấy ân huệ. Cuộc đời là vậy.
“Có,” Kimmy đáp, “tôi nhớ ông ta.”
“Bây giờ ông ta đã về hưu rồi. Ý tôi là Max Darrow ấy. Ông ta nói họ biết ai giết bà ấy, nhưng không biết hắn ở đâu.”
Kimmy thấy lệ bắt đầu dâng lên trên mắt. “Chuyện đã quá lâu rồi.”
“Cô và mẹ tôi là bạn bè?”
Kimmy cố lắm mới gật đầu được. Nàng vẫn nhớ tất cả mọi chuyện, dĩ nhiên rồi. Đối với nàng, Candi còn hơn cả một người bạn. Trên đời này, bạn không tìm được nhiều người mà bạn có thể thật sự trông cậy. Candi đã là một người như vậy - có lẽ là người duy nhất kể từ khi Má chết
năm Kimmy mười hai tuổi. Họ đã cặp kè bên nhau không rời, Kimmy và cô gái da trắng, thỉnh thoảng - ít nhất khi hành nghề - họ tự gọi mình là Pic và Sayers trong bộ phim cũ Bài hát của Brian. Và rồi, giống như trong phim, người bạn da trắng đã chết.
“Bà ấy có phải là gái mãi dâmkhông?” Cô gái hỏi.
Kimmy lắc đầu và thốt ra một lời dối trá mà nàng cảm thấy như sự thật. “Không bao giờ.”
“Nhưng bà ấy nhảy thoát ý mà.” Kimmy không nói gì.
“Tôi không phán xét bà ấy.”
“Vậy thì cô muốn gì?”
“Giờ thì chuyện đó có thay đổi được gì đâu.”
“Đối với tôi thì có.”
Kimmy nhớ lại lần đầu tiên nàng nghe tin dữ. Nàng đang trên sàn diễn gần Tahoe, trình diễn một điệu múa chậm phục vụ đám khách ăn trưa, lũ người thảm hại nhất trong lịch sử loài người, với giày ủng dính bẩn và trái tim thủng những lỗ mà nhìn ngắmđàn bà khỏa thân chỉ tổ khoét cho to hơn. Đã ba ngày liền nàng không gặp
Candi, nhưng rồi lại phải đi lưu diễn. Chính trên sàn diễn đó, lần đầu tiên nàng loáng thoáng nghe được tin đồn. Nàng biết đã xảy ra một chuyện tệ hại nào đó. Nàng chỉ cầu mong nó đừng liên quan đến Candi.
Nhưng nó đã liên quan.
“Mẹ cô đã có một cuộc sống khó khắn,” Kimmy nói.
Cô gái lắng nghe chăm chú.
“Candi cho là chúng tôi sẽ tìmđược đường thoát, cô hiểu không? Lúc đầu thì cô ấy tưởng tượng ra đó sẽ là một thằng cha ở hộp đêm. Họ sẽ tìm thấy chúng tôi và đưa chúng tôi
đi, nhưng đó chỉ là chuyện nhảm nhỉ. Nhiều cô đã thử rồi. Nó chẳng bao giờ hiệu quả cả. Bọn đàn ông muốn một thứ ảo tưởng, chứ không phải con người cô. Mẹ cô nhanh chóng hiểu ra điều đó. Cô ấy là một người mơ mộng, nhưng luôn có mục đích.”
Kimmy dừng lại, nhìn ra xa.
“Rồi sao nữa?” Cô gái giục
“Rồi thằng khốn nạn đó đập cô ấy bẹp gí như một con rệp.”
Cô gái xoay mình trên ghế. “Thám tử Darrow nói tên hắn là Clyde Rangor?”
Kimmy gật đầu.
“Ông ta còn nhắc đến một người đàn bà tên là Emma Lemay? Có phải là đồng bọn của hắn ta không?”
“Trong một vài phi vụ gì đó, đúng vậy. Nhưng tôi không biết rõ nội tình.”
Lần đầu tiên nghe được tin đó, Kimmy đã không khóc. Khóc lóc không còn hợp với con người nàng nữa. Nhưng nàng đã ra trình diện. Nàng đã chấp nhận mọi rủi ro, kể cho tên khốn Darrow mọi chuyện nàng biết.
Nói đúng ra thì trên đời này,
chẳng nên chuốc lấy quá nhiều phiền phức. Nhưng Kimmy không thể bỏ rơi Candi, kể cả khi đã quá muộn không thể làm gì được nữa. Vì cùng với cái chết của Candi, phần tốt đẹp nhất trong con người Kimmy cũng chết theo.
Nên nàng đã khai báo với cảnh sát, đặc biệt là Max Darrow. Kẻ nào làm chuyện này - và đúng, nàng tin chắc đó là Clyde và Emma - có thể hại nàng hay giết nàng, nhưng nàng sẽ không lùi bước.
Cuối cùng thì Clyde và Emma đã không đương đầu với nàng. Chúng trốn biệt tăm.
Chuyện đã mười năm rồi.
Cô gái hỏi: “Cô có biết về tôi không?”
Kimmy chầm chậm gật đầu. “Mẹ cô có kể - chỉ một lần thôi. Chuyện đó làm cô ấy quá đau đớn, nên cô ấy không muốn nhắc đến. Cô phải thông cảm. Khi chuyện đó xảy ra Candi còn trẻ lắm. Mười lăm, mười sáu tuổi. Cô vừa lọt lòng thì người ta mang đi liền. Cô ấy thậm chí còn không biết cô là trai hay gái.”
Sự im lặng thật nặng nề . Kimmy ước gì cô gái bỏ đi.
“Cô nghĩ chuyện gì đã xảy ra cho hắn? Ý tôi là Clyde Rangor ấy.”
“Có lẽ chết rồi,” nàng đáp, dù không tin chuyện đó. Lũ gián như Clyde không chết được. Rồi thế nào thì chúng cũng chui rúc tìm cách trở về và làm hại thêm nhiều người khác.
“Tôi muốn tìm ra hắn,” cô gái nói.
Kimmy ngước lên nhìn cô.
“Tôi muốn tìm ra kẻ đã giết mẹ tôi và đưa hắn ra trước công lý. Tôi không giàu, nhưng tôi có một ít tiền.”
Cả hai người im lặng một lúc.
Không khí nặng trĩu và gò bó. Kimmy băn khoăn tìm cách diễn đạt ý mình.
“Tôi có thể nói cho cô nghe một chuyện không?”
Nàng bắt đầu.
“Dĩ nhiên rồi.”
“Mẹ cô đã cố chống chọi lại tất cả.”
“Chống lại cái gì?”
Kimmy nói tiếp. “Đa số bọn con gái khác, họ đã chịu thua rồi. Thấy không? Mẹ cô thì không bao giờ. Cô ấy không chịu uốn mình. Cô ấy vẫn
mơ ước. Nhưng cô ấy không bao giờ thắng được.”
“Tôi chưa hiểu.”
“Cô có hạnh phúc không, con gái?”
“Có.”
“Cô vẫn còn đi học chứ?”
“Tôi đang bắt đầu học đại học.”
“Đại học,” Kimmy nói bằng giọng mơ màng. Rồi tiếp: “Cô đấy.”
“Tôi làm sao?”
“Hiểu không, cô chính là chiến
thắng của mẹ mình.”
Cô gái không nói gì.
“Candi - mẹ cô - sẽ không muốn cô dính dáng vào chuyện này. Cô hiểu chứ?”
“Tôi nghĩ là tôi hiểu.”
“Đợi một chút.” Kimmy mở ngăn kéo ra. Nó ở ngay đó, dĩ nhiên. Nàng không bày nó ra nữa, nhưng tấm ảnh vẫn nằm trên cùng. Nàng và Candi mỉm cười với thiên hạ. Pic và Sayers. Kimmy nhìn hình ảnh của chính mình và nhận ra cô thiếu nữ vẫn được gọi là Ma thuật Đen ấy chỉ là một người xa lạ, rằng có thể Clyde
Rangor cũng đã tống thân xác cô rơi vào quên lãng.
“Cầm cái này đi,” nàng nói.
Cô gái nâng tấm ảnh như thể nó được làm bằng sứ.
“Bà đẹp quá,” cô bé thì thầm. “Rất đẹp.”
“Nhìn bà thật hạnh phúc.”
“Lúc ấy thì không. Nhưng hômnay thì cô ấy sẽ hạnh phúc.”
Cô gái hất cằm lên. “Tôi không biết liệu mình có thể không dính dáng vào chuyện này hay không.”
Vậy thì, Kimmy nghĩ, có lẽ cô giống mẹ hơn là cô biết đấy.
Họ ôm nhau, hứa hẹn sẽ giữ liên lạc. Khi cô gái đã đi, Kimmy mặc quần áo. Nàng lái xe đến tiệm hoa và mua một tá tuylip. Tuylip là loại hoa yêu thích nhất của Candi. Nàng lái xe bốn tiếng đồng hồ để đến nghĩa trang và quỳ xuống bên mộ bạn. Quanh đó không có ai. Kimmy phủi bụi trên tấm bia đá nhỏ. Nàng đã trả tiền cho khoảng đất này và cả tấm bia nữa. Candi sẽ không phải nằm trong một nấm mộ bố thí.
“Hôm nay, con gái cậu đã ghé
qua,” nàng nói to.
Một làn gió nhẹ thổi qua. Kimmy nhắm mắt lại và lắng nghe. Nàng như nghe thấy giọng nói của Candi, vốn bao năm nay câm lặng, van xin nàng bảo bệ con gái mình.
Và tại nơi này, với cái nắng Nevada chang chang trên da thịt, Kimmy hứa nàng sẽ làm điều đó.
Chương 2
Irvington, New Jersey
20 tháng Tám
“Một cái camera phone,” Matt Hunter lầm bầm kèm theo một cái lắc đầu.
Anh ngước lên mong được bề trên hướng dẫn, nhưng chỉ có duy nhất một chai bia khổng lồ nhìn đáp lại.
Chai bia là một hình ảnh quen thuộc, một hình ảnh Matt nhìn thấy mỗi lần anh bước ra khỏi ngôi nhà chung của hai gia đình ọp ẹp với nước sơn đang tróc dần. Vươn lên 184 feet[U3] trong không trung, cái chai lừng danh làm bá chủ vùng trời. Hãng Pabst Ribbon có một xưởng nấu bia ở đây, nhưng nó đã bị bỏ
hoang năm 1985. Nhiều năm trước, cái chai từng là một tháp nước huy hoàng với những bảng sắt mạ đồng, nước men bóng loáng, và một nắp chai bằng vàng. Về đêm, đèn pha chiếu lên chai bia sáng đến nỗi dân Jersey ở quanh đó hàng mấy dặm đều có thể nhìn thấy.
Nhưng hết rồi. Bây giờ vỏ chai nhìn giống chai bia thật màu nâu nhưng thực ra đó là màu đỏ của gỉ sắt. Nhãn chai đã bay mất từ hồi nào. Theo gương nó, khu dân cư chung quanh một thời tấp nập bây giờ không sụp đổ mà từ từ rã đám. Từ hai mươi năm nay, không còn ai làm việc trong xưởng bia. Vậy mà nhìn vào cảnh
hoang tàn, người ta tưởng còn phải lâu hơn thế nữa.
Matt ngừng lại trên bậc tam cấp đầu. Olivia, tình yêu duy nhất của đời anh, vẫn bước tiếp. Chìa khóa xe kêu lanh canh trên tay nàng.
“Anh không nghĩ mình nên mua,” anh nói.
Olivia vẫn không dừng bước. “Thôi nào. Sẽ vui lắm đấy.”
“Điện thoại thì cho ra điện thoại,” Matt nói. “Camera thì cho ra camera.”
“Ôi, suy nghĩ sâu sắc nhỉ.”
“Một thứ đồ mà làm cả hai chuyện… thật là biến thái.”
“Đúng lãnh vực của anh rồi,” Olivia nói.
“Ha, ha. Em không thấy nguy cơ à?”
“Ồ, không.”
“Camera và điện thoại nhập vào một,” Matt ngừng lời, tìm cách diễn đạt, “nó là, anh không biết nữa, nếu em nghĩ tới chuyện đó thì là sự lai tạp của hai chủng loại, giống như mấy cái thí nghiệm trong các bộ phimhạng B, mà sau này vượt ra khỏi sự
kiểm soát và tiêu diệt tất cả những thứ nó gặp trên đường.”
Olivia chỉ nhìn anh chăm chăm. “Anh đúng là người kỳ quặc.”
“Anh không chắc là mình nên mua camera phone, thế thôi.”
Nàng bấm nút điều khiển và cửa xe ô tô mở ra. Nàng cầm tay nắmcửa. Matt lưỡng lự.
Olivia nhìn anh.
“Gì vậy?” Anh hỏi.
“Nếu chúng mình đều có camera phone,” Olivia nói, “em có thể gửi
ảnh khỏa thân tới chỗ làm cho anh.”
Matt mở cửa. “Hãng Verizon hay Sprint?”
Olivia trao cho anh một nụ cười khiến trống ngực anh đập dồn. “Emyêu anh lắm, anh biết không.”
“Anh cũng yêu em.”
Hai người đã ngồi vào trong xe. Nàng quay sang anh. Anh có thể đọc được sự lo lắng và nó khiến anh suýt nữa phải quay mặt đi.
“Mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp,” Olivia nói. “Anh biết mà, phải không?”
Anh gật đầu và giả vờ mỉm cười. Olivia sẽ chẳng tin vào cái nụ cười đó, nhưng sự cố gắng cũng sẽ được tính điểm.
“Olivia này?” Anh nói.
“Sao ạ?”
“Nói tiếp chuyện ảnh khỏa thân cho anh nghe đi.”
Nàng đấm vào tay anh.
Sự băn khoăn của Matt trở lại khi anh bước vào cửa hiệu Sprint và nghe giảng giải về cam kết sử dụng trong hai năm. Nụ cười của gã bán
hàng có một vẻ gì đó rất độc địa, giống như một con quỷ trong những bộ phim có một kẻ ngây thơ đi bán linh hồn mình. Khi gã bán hàng chìa ra một tấm bản đồ nước Mỹ - những vùng “không phủ sóng”, gã thuyết minh, được in màu đỏ tươi - Matt bắt đầu muốn rút lui.
Còn Olivia thì quả thật không gì có thể hãm bớt sự hào hứng của nàng, nhưng nói đến cùng thì vợ anh có một khuynh hướng nồng nhiệt tự nhiên. Nàng là một trong số ít ỏi những người tìm thấy niềm vui trong những chuyện cả lớn lẫn nhỏ, qua đó chứng minh, chắc chắn trong trường hợp của họ, là những cái trái dấu thì hút
lẫn nhau.
Gã bán hàng tiếp tục huyên thuyên. Matt gạt gã ra, nhưng Olivia dồn hết sự chú ý cho gã. Nàng cũng nêu ra một hai câu hỏi, chỉ để lấy lệ, nhưng gã bán hàng thừa hiểu con cá này không những đã cắn mồi, mắc cầu, và đã bị kéo lên mà còn được chiên giòn và đang trên đường đi vào dạ dày.
“Xin đợi một chút để tôi chuẩn bị giấy tờ cần thiết,” Hades[U4] nói, lủi ra xa.
Olivia nắm tay Matt, khuôn mặt rạng rỡ. “Vui quá phải không?”
Matt nhăn mặt làm trò.
“Gì thế?”
“Hồi nãy em thật sự nói ‘ảnh khỏa thân’ à?”
Nàng cười phá lên và dựa đầu vào vai anh.
Dĩ nhiên sự nhí nhảnh - và nét rạng rỡ bất tận - của Olivia bắt nguồn từ một nguyên nhân sâu xa hơn là việc đổi điện thoại. Mua những chiếc camera phone chỉ thuần túy là một biểu tượng, một tấm biển chỉ đường, cho chuyện sắp tới.
Một đứa con.
Hai ngày trước, Olivia đã dùng dụng cụ thử thai tại nhà, và cuối cùng một chữ thập đỏ đã hiện ra trên dải trắng, một chuyển động truyền tải một cách lạ lùng ý nghĩa tôn giáo. Anh ngạc nhiên đến mức không cất nên lời. Họ đã cố gắng có con suốt một năm qua - gần như ngay từ lúc họ lấy nhau. Sự căng thẳng do thất bại thường xuyên đã làm cho một hoạt động đầy cảm hứng, nếu không nói là thần tiên, trở thành công việc được sắp xếp chặt chẽ, bao gồm lấy nhiệt độ, tính lịch, kéo dài thời gian kiêng cữ, tập trung ý chí.
Bây giờ họ đã bỏ được chuyện
đó lại phía sau. Hãy còn sớm lắm, Matt cảnh cáo nàng. Đừng có quá hồ hởi. Nhưng Olivia có một sự hớn hở không thể từ chối được. Trạng thái tích cực của nàng quả là một động lực, một cơn bão, một đợt thủy triều. Matt không tài nào cưỡng lại.
Vì vậy họ mới đến đây.
Những chiếc camera phone, Olivia đã nhấn mạnh, sẽ cho phép cái tổ ấm sắp-thành-ba-người chia sẻ cuộc sống gia đình theo một cách mà thế hệ của cha mẹ họ không tưởng tượng được. Nhờ có camera phone, cả hai sẽ không bị lỡ những giây phút quan trọng hay thậm chí là cả bình
thường của đứa nhỏ - bước đi đầu tiên, tiếng nói đầu tiên, những trò chơi hàng ngày, bất cứ cái gì.
Ít nhất đó cũng là kế hoạch của họ.
Một giờ sau, khi họ trở về nửa nhà của mình trong căn hộ hai gia đình, Olivia tặng anh một cái hôn thật nhanh rồi leo lên cầu thang.
“Này,” Matt gọi với theo, giơ cao chiếc điện thoại mới và nhướng một bên mày. “Muốn thử cái, gì nhỉ, chức năng quay phim này không?”
“Phim chỉ dài có mười lăm giây thôi.”
“Mười lăm giây.” Anh suy nghĩ, rồi nhún vai và nói: “Thế thì mình sẽ kéo dài phần ân ái dạo đầu vậy.”
Cũng dễ hiểu vì sao Olivia rên lên.
Họ sống ở một khu vực mà đa số mọi người sẽ cho là tồi tàn, dưới cái bóng thoải mái đến lạ lùng của chai bia Irvington khổng lồ. Khi mới ra tù, Matt cho là anh không xứng đáng với một nơi tốt hơn (mà nó lại rất phù hợp vì anh cũng chỉ đủ tiền cho nó), và mặc cho gia đình phản đối, anh chuyển ra ngoài thuê nhà hồi chín năm về trước. Irvington là một thành
phố mệt mỏi, với tỷ lệ dân da đen đông đảo, có lẽ trên tám mươi phần trăm. Người ta có thể đi đến kết luận hiển nhiên đó là mặc cảm tội lỗi về những tháng ngày trong tù. Matt hiểu rằng những chuyện này không đơn giản như vậy, nhưng anh cũng không biết giải thích cách nào hơn là anh chưa thể trở lại nếp sống ngoại ô. Sự thay đổi đó quá nhanh, giống như bệnh khí áp[U5] vậy.
Nói gì đi nữa thì khu vực này - cái trạm xăng Shell, cửa hiệu dụng cụ cũ kỹ, tiệm bánh mì góc phố, đámbợm nhậu trên vỉa hè rạn nứt, đường tắt tới sân bay Newark, quán rượu nằm khuất bên cạnh xưởng bia Pabst
cũ - đã trở thành nhà trọ.
Khi Olivia dọn từ Virginia tới đây, anh đoán nàng sẽ khăng khăng đòi chuyển đến một khu vực tử tế hơn. Anh biết nàng đã quen thuộc với những chỗ, nếu không tốt hơn, thì ít nhất cũng hoàn toàn khác. Olivia lớn lên ở thị xã nhỏ buồn tẻ Northways, Virginia. Khi Olivia mới chập chững những bước đầu tiên, mẹ nàng đã bỏ đi. Cha nàng nuôi con một mình.
Quá tuổi rồi mới được làm cha - cha nàng đã năm mươi mốt khi Olivia ra đời - Joshua Murray làmviệc cần cù để vun đắp mái ấm của chính mình và cô con gái nhỏ. Joshua
là bác sĩ của thị xã, một bác sĩ đa khoa chữa tất cả các loại bệnh, từ ruột thừa của cô bé sáu tuổi Mary Kate Johnson cho tới bệnh gút của lão Riteman.
Theo Olivia thì Joshua là một người tử tế, một người cha dịu dàng và tuyệt vời, quan tâm hết mực đến người thân duy nhất còn lại của ông. Chỉ có hai người bọn họ, cha và con gái, sống trong một căn nhà gạch trên phố Main. Phòng mạch của người cha nằm sát bên phải lối vào. Hầu như ngày nào Olivia cũng chạy thẳng từ trường về nhà để giúp cha khámbệnh. Cô bé có thể dỗ dành bọn nhỏ đang sợ hãi hay tán dóc với Cassie, y
tá kiêm tiếp tân lâu năm ở đó. Cassie đồng thời là “kiểu như vú em”. Khi người cha quá bận, Cassie nấu bữa tối và giúp Olivia làm bài tập. Trong lòng mình, Olivia tôn sùng cha. Giấc mơ của cô - thật vậy, bây giờ nghĩ lại cô thấy nó đúng là ngây thơ không thể chữa được - là trở thành bác sĩ và làm việc cùng cha mình.
Nhưng trong năm cuối cùng của Olivia tại trường đại học, mọi thứ đã thay đổi. Cha nàng, gia đình duy nhất mà Olivia từng biết, qua đời vì bệnh ung thư phổi. Nghe tin này, nàng ngã vật như bị sét đánh. Tham vọng ngày xưa theo bước chân cha vào học tại trường Y cũng chết theo ông. Olivia
"""