"Người Trong Đêm Hè - Frans Emil Sillanpää PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Người Trong Đêm Hè - Frans Emil Sillanpää PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo NGƯỜI TRONG ĐÊM HÈ Nguyên tác: Ihmiset suviyössä —★— Tác giả: Frans Eemil Sillanpää Dịch giả: Bùi Việt Hoa NXB Phụ Nữ - 2016 Nguồn sách & OCR: Trúc Quỳnh Đặng Scan: Hà Du Chuyển text: Caruri ebook©vctvegroup 29-01-2020 1 Mùa hè Phương Bắc gần như không có đêm, chỉ có ánh sáng mờ ảo nhập nhoạng ngập ngừng, chầm chậm trôi qua. Nhưng trong chạng vạng vẫn ngời lên tia sáng không ngôn từ nào có thể tả nổi. Đó chính là lời thì thầm của sáng hè đang đến gần. Khi giai điệu hoàng hôn lắng lại thành nốt mềm xanh tim tím màu hoa violet, mê say dịu dàng ngân dài ngay trong quãng ngắt ngắn ngủi, là lúc violon chính bừng tỉnh và bắt vào giai điệu cao nghiêng nghiêng, để cho violonxen nhanh chóng hòa nhịp. Ta cảm nhận được từ trong sâu thẳm tâm hồn bức tranh giai điệu đó. Nó còn được tăng âm từ bên ngoài bằng bản nhạc đệm ríu rít của dàn nhạc từ trên hàng ngàn cành cây và tầng cao không gian: bình minh đến rồi, dù rằng giây phút trước vẫn còn chạng vạng. Có chú chiền chiện chuyền lên cành cao, rồi cao hơn nữa, từ đó líu lo kể cho những cư dân bé xíu đáng yêu đang chiêm chiếp của ngàn tán lá xanh được biết bình minh từ trên cao và giữa bao la nhìn như thế nào. Đắm say với ánh sáng và độ cao chiền chiện lao vút lên, cho đến khi trạng thái ngất ngây đạt tới đỉnh điểm, rồi đột nhiên thả lỏng, rơi vùn vụt xuống không một tiếng động. Nó gần đập xuống đất, hóa thành kẻ bộ hành mờ nhạt trên đồng cỏ. Mặt trời tỏa sáng. Nơi con người cư trú - ở nơi con nước đổi dòng, nơi sâu hút của núi đồi, hay nơi những cánh đồng hòa quyện - là những ngôi nhà được xây dựng thật khéo theo nhu cầu và bản năng của những ai sống trong đó. Trong ánh mờ ảo của buổi sáng tinh mơ này nhìn chúng tinh khiết, trong trẻo như vạn vật vũ trụ vậy. Những người sống trong đó hiện cũng để “công việc” của mình nghỉ ngơi. Bầy sẻ ầm ĩ chiếm ngự cả hàng rào tử đinh hương mọc ngăn giữa sân dành cho phái đàn ông và sân cho gia súc. Chúng chĩa mỏ vào nhau kêu chí chóe, đập cánh bay loạn xạ, hoàn toàn bị kích động. Con nào cũng muốn nói, muốn ra lệnh bây giờ phải làm gì, khi đang được chiếm ngự cả trang trại thế này, nhưng không cất được tiếng, vì con này đang gào và đứa kia và gã kia… Cho đến khi lão Manu già, người lấm khói cùng nhựa thông, dậy sớm bận bịu vì công việc, thập thững lê bước qua đó đàn sẻ mới vù bay, rời hàng rào tử đinh hương, lên chiếm thành cầu dẫn lên mái của chuồng gia súc. Nhà của con người ta cũng có nhiều loại, to và nhỏ, từ hồ này sang hồ khác, từ huyện này qua huyện kia, đó đây thấp thoáng mái chuông nhà thờ với nghĩa trang cây lá xanh mướt. Một chiếc ô tô có đường nét mảnh mai, chỗ nào cũng ánh vẻ sang trọng đắt tiền, đang bon bon gần như không tiếng động trên con đường phẳng quanh co. Chỉ trong mấy tiếng buổi sáng nó kịp trưng qua hàng chục làng, hàng trăm ngôi nhà, để lại đằng sau nhiều nhà thờ với các cây thánh giá đang được bình minh chiếu sáng. Ban mai lặng lẽ ban phước cho vạn vật trong tầm nhìn của nó và cho những công việc của con người đang bắt đầu ngày mới. Chiếc ô tô không làm xáo trộn sự an bình buổi ban mai. Nó đến rồi đi với vẻ nhẹ nhàng đặc trưng của sức mạnh đã được qua tôi luyện - và biến mất trong nháy mắt. Nhưng những ngôi nhà của con người đứng nguyên một chỗ. Một đôi nhà vừa mới được dựng xong trông rất thô cứng. Trên tường nhà, cả trong lẫn ngoài đều không mang dấu ấn của niềm vui cuộc sống, vết hằn của những vụ việc kinh hoàng, những xúc cảm có thể đem lại linh hồn cho cả những bức tường đã chết. Nhưng trong những nơi con người trú ngụ đó cũng có những tòa nhà hay túp lều đã bắt đầu sự sống từ hơn trăm năm trước và vẫn tồn tại đến tận bây giờ. Có một số đã đổ nát gần như hoang phế. Nhưng hiện trạng của nhiều ngôi nhà đã được cư dân sống trong đó theo dõi rất sát sao từ năm này qua năm khác, từ đời này qua đời khác và được những đôi bàn tay khéo léo của họ sửa sang, phục chế khi cần thiết. Đó có thể là một ngôi nhà lâu năm đã được sửa chữa hoàn toàn trong năm nay, phần móng bằng đá của nhà vốn bị đổ nát đã được kè lại chắc chắn, đôi chỗ mục nát nơi hiên nhà đã được thay mới và xung quanh đã được sơn quét lại. Ngôi nhà đó - cũ kỹ và oai nghiêm - ngắm nhìn những cánh đồng hàng trăm năm tuổi bằng những cửa sổ rộng mở. Đường nét và tỉ lệ của góc nhà, nét viền nơi cạnh cửa vẫn nguyên như xưa, mạnh mẽ và chắc chắn, gần như có thể nói là: cái gốc già dặn chỉ được nhận thêm lớp vỏ mới mà có lẽ nó đang cần… 2 Những tán lá xanh bờm xờm lộn xộn của rặng cây đoạn đã che lấp phần nhìn ra hồ của trang trại. Nhưng đối với khu nhà trên sườn núi phía bên kia hồ, với túp lều của Manu và Syrjämäki, gần như toàn bộ trang trại hiện ra với cả sân cùng vườn bao quanh. Những tòa nhà và nơi ở nhìn như thế trong ban mai mùa hạ rạng ngời. Ánh sáng chan hòa khắp các căn phòng. Những tấm rèm ren kiểu cũ được hồ bột trắng xóa không nhợt đi là mấy trong ánh bình minh. Có lẽ nắng chỉ làm những đường ren thêm mềm mại. Nơi nào đó trong ngôi nhà cũ của trang trại có phòng ngủ, một phòng ngủ được trang trí rất xinh xắn, mà ít khi hơi thở của con người lại lẫn vào với không khí trong phòng. Thảng hoặc, khách được xếp vào ở trong phòng này, khách sẽ được một mùi thơm đặc biệt thanh khiết đón chào. Mùi hương của chăn gối trắng sạch như tuyết, của đồ gỗ gia công được chùi và đánh bóng và có lẽ cả của album ảnh gia đình để trên chiếc bàn tròn giữa phòng. Khi còn lại một mình, có lẽ khách sẽ theo trực giác mà lật giở xem album, những bức ảnh thật buồn cười, cho thấy những ông chủ trang trại chai sạn nghiêm nghị trong những cái áo cổ cứng, những bà chủ trong những cái áo khoác ngắn, tay bóng, loại quần áo của hơn ba mươi năm về trước. Và mặc dù có thể thấy đó không phải là lần đầu tiên họ mặc lên người những bộ như vậy, nhưng cả hai đều không cố gắng che đậy, nói cách khác còn làm tăng thêm cảm giác, là người đàn bà độ tuổi trung niên kia đã dùng biết bao nhiêu thùng bột mạch đen để nhào, ủ, nặn và nướng bánh - loại lúa mạch đen mà người đàn ông có khuôn mặt cương nghị kia đã gieo rồi gặt hái - người đàn ông kia - trong ảnh cũng có thể thấy - có một mắt nhìn hơi bông đùa, tinh nghịch hơn mắt kia. Hệt như con trai ông trong bức ảnh đội mũ sinh viên trắng, cúc áo vét được cài lên tận trên cao, nhất là trong bức ảnh gia đình kia, khi ai cũng đi những đôi ủng cao cổ và mặc áo vải bông. Thú vị làm sao khi lâu lắm rồi mới ghé thăm họ hàng và ở lại một mình như thế này trong gian phòng mờ mờ tối. Họ hàng đó trong những bức ảnh trên từng tờ album, cứ bốn ảnh một tờ và không thể trốn chạy đi đâu được, khi người trong dòng họ, cô gái - thiếu nữ - trinh nữ độ tuổi đôi mươi đang ngắm nhìn họ. Cô đã mặc đồ ngủ, thân hình mảnh mai hơi cúi xuống, trên khuôn mặt còn vướng nét mệt mỏi dễ chịu sau một ngày làm việc vất vả. Lúc đó cũng đã là buổi tối. Giấc ngủ đến sớm và sâu. Bà của thiếu nữ cũng từng bảo: “Ừ, lúc nào cũng mệt như vậy đấy, khi tự mình kiếm miếng ăn cho mình, nhưng như thế thì cũng đáng đó chứ.” Nhưng ai vì mệt mà ngả lưng sớm và ngủ thật sâu trong một buổi tối giữa mùa hạ, người đó sẽ tỉnh giấc thật sớm vào sáng hôm sau, đó là quy luật tự nhiên rồi. Lão Manu già, người chuyên đốt thông lấy nhựa của trang trại, hầu như không ngủ trong những đêm này. Đôi mắt lão lúc nào cũng vui vẻ mở to. Đôi môi đến già rồi mà vẫn luôn đỏ của lão bĩu xuống thành nếp ngồ ngộ. Hình như lúc này lão đã tìm được người làm thay trung thành cho lò đốt nhựa thông của mình, bởi người ta thấy lão còn la cà trên trang trại lúc gần nửa đêm và sáng sớm ra đã thấy lão đi lại, nói gì đó với con gà trống, khi nó bắt đầu bài ca của mình lần thứ hai. Chắc lời nói chẳng được thân tình lắm, bởi vì chú gà trống giữa loạt ó o còn bực bội gừ gừ về phía lão già lẩm cẩm, khi lão ta đã đi về nơi làm của mình. Mặt trời tiến về phía trước, cứ như nó đang tìm một điểm để có thể từ đó chiếu qua lớp rèm ren, xuyên vào chiếc giường to chắc trong phòng ngủ của khách, chiếu thẳng vào khuôn mặt trinh nữ đang ngủ. Tia nắng đã chạm được vào chiếc tủ đối diện với cái giường, chạm vào chiếc gương đặt trên tủ, chiếc gương của không biết bao đời thiếu nữ. Không biết bao nhiêu thiếu nữ đầu trùm khăn voan đã soi gương mặt tái nhợt hay đỏ bừng của họ vào gương, bởi vì phòng này là nơi trang điểm cho con gái của chủ trang trại trong ngày cưới… Bây giờ mặt trời đã nhìn thấy dưới chân gương mấy đồ vật nho nhỏ mà trước đó không có. Người đang ngủ trong giường đã đặt chúng lên đó khi vào phòng này, sau đó sử dụng chúng bằng những ngón tay thon thả. Cứ như vẫn tia nắng vĩnh cửu ấy của sáng hè đang nhấp nháy, đùa nghịch xung quanh mấy đồ vật, nhưng chẳng mấy chốc nó dịu lại khi chạm được vào người sở hữu chúng. Lúc ấy buổi sáng đã vượt qua giai đoạn đầu đỏ hồng, ẩm ướt. Đâu đó có tiếng kẹt cửa của gác xép, tiếng be be của bê con. Màn kịch về công việc của một ngày đã bắt đầu trong hàng chục hàng trăm làng xã, trong hàng ngàn trang trại và gần hàng ngàn hồ nước cùng ao, đầm. Bây giờ mặt trời đã chiếu vào khuôn mặt thiếu nữ, vào làn da cổ mềm mại, rám nắng, vào làn môi trên hơi uốn cong, vào vành tai mềm mại ẩn dưới những lọn tóc nâu, vào vầng trán cao còn hơi trẻ con. Nó chiếu cả vào hai cánh tay, bàn tay phải đặt dưới má, bàn tay trái áp vào cườm tay phải. Nó tự do ngắm nghía mọi đường vân trên các ngón tay, cả móng tay ở tất cả mọi điểm, cả bàn tay có thể dịch xuống. Trong trí tưởng tượng của mình bạn có thể thấy, nhưng không nên cố gắng để nhìn điều đó. Chỉ có mặt trời được phép đến gần giấc ngủ của thiếu nữ. Và thiếu nữ đã tỉnh giấc vì sự gần gũi đó. Đã gần sáu giờ. Đó là lúc buổi sáng bắt đầu. Đó là thời điểm đã được thỏa thuận ngay từ đêm đầu tiên, khi không ai chợp mắt chút nào. Khi đó họ chỉ ngắm nhìn sự kỳ diệu vĩnh cửu của đêm trắng và thì thầm trò chuyện. Khi đó hai thiếu nữ đã thức trắng đêm trong căn phòng này… Bây giờ vẫn là hai thiếu nữ đó, cho dù chỗ ngủ đêm của họ ở trong hai nhà khác nhau. Thiếu nữ vừa bị mặt trời đánh thức bừng tỉnh nhìn xung quanh, nơi đồ đạc bắt đầu trở nên thân thuộc. Cô nhớ, hôm nay là thứ Bảy, ngày cô thầm mong đợi. Sức lực và sự linh hoạt của cơ thể cũng đã được nghỉ ngơi thoải mái, nhưng chúng thức giấc và chọc tức bằng cách rất dễ thương: cả người, cổ, cánh tay, tất cả ngả về phía sau, rồi cánh tay vươn cao, đôi mắt lại khẽ nhắm, còn miệng khẽ hé mở và tia nắng sớm mai mê mẩn len vào qua hàm răng. Giấc ngủ sâu và đêm nghỉ dài làm cho cơ thể qua cả ngày làm việc vất vả vẫn thấy rất hài lòng, sự hài lòng của trẻ thơ. Thiếu nữ bật dậy khỏi giường, bộ ngủ được cởi ra trong nháy mắt, rồi cơ thể nhắc lại chuỗi cử động lúc trước một cách nhanh hơn, kèm theo hơi thở dài đầy mãn nguyện. Trong chốc lát, bộ đồ bơi được mặc lên, áo choàng khoác vai - và ngón tay giữa cong lại của bàn tay phải khẽ khàng gõ vào một cánh cửa nhà bên. Nơi đó rèm cửa khẽ hé, trong khoảng mở thấp thoáng mái đầu của người phụ nữ trẻ với những lọn tóc màu hung đỏ… Người gõ cửa sổ không đợi lâu thêm mà bước liền về phía hồ nước, theo dọc con đường mòn hơi dốc chạy qua đám tống quán sủi lấp xấp đi đến cầu bơi dài. Cô để áo khoác vắt ngang tay. Nhìn từ phía xa có thể đoán cô đang ngân nga, bởi vì đôi lúc cô bước những nhịp chân phỏng theo nhịp điệu của bài hát. 3 Với lão Manu lúc này ngày đã bắt đầu từ lâu. Trên đường đến lò nhựa thông của mình lão đã nghe thấy bao nhiêu tín hiệu sự sống từ cả phía bên này lẫn phía bên kia hồ nước, không nói đến những hiện tượng mà đôi mắt già nhưng vẫn tinh nhanh của lão đã nhận ra từ thế giới xung quanh: đàn bò cái ò ọ gọi người vắt sữa, đàn chim sẻ vừa chí chóe vừa bay khỏi sân và phía trước các bậc cầu thang khi cánh cửa đang mở đánh kẹt, chú ong bé tí vo ve trên nụ hoa của cỏ ba lá - không biết tổ của nó ở đâu. Được mút mật từ đó ra thì thích phải biết. Cứ như ngày xưa khi còn là trẻ mục đồng. Nhưng nhìn kìa, nhìn kìa - cô chủ lại đi bơi đằng kia kìa. Lão Manu già thật sự vui sướng vì chỉ một mình lão ở đây và để khuôn mặt nhọ nhem đầy bụi khói, nhựa thông của mình biểu lộ gì mà nó cảm thấy. Chẳng có lý do gì lão vẫn đi vòng quanh lò đốt, có chỗ nào đó có lỗ hổng phải bịt không nhỉ, kẻo ngọn lửa bùng lên… nhưng rồi lão cũng ngồi xuống chỗ ngồi thường lệ của mình ngay cạnh cửa lò. Từ đó nhìn thấy phòng thay đồ bơi cùng cầu tắm hiện ra như sân khấu. - Con trẻ thật đáng yêu biết bao vào thời kỳ đẹp nhất của chúng. Nhìn kìa, trông cô bé bước, trông cô giơ tay vươn người, và kìa trông cô đang khom người để xuống nước. Đột nhiên trong đầu lão nảy ra ý định, có lẽ nên rón rén đến gần, qua đám tống quán sủi thấp này đến thật gần, không ai biết… nhưng không được - hừm - ông lại nghĩ vớ vẩn cái gì thế. Một lỗ hổng phải được bịt ngay… Bây giờ cô bé đang nằm ngửa dập dềnh - mà sao có thể nằm thế được nhỉ, quỷ ơi… Mà cô bé mới xinh xắn làm sao… ngay từ khi xưa ấy, khi tấm ảnh được chụp, khi bé quàng cánh tay mềm mại qua cổ Manu mà chẳng hề sợ sẽ bị nhựa thông dính vào. Bây giờ con gái của ông chủ cũng ra kìa, thiếu nữ có mái tóc vàng hung. Cô đứng lưỡng lự một chút trên cầu, nhưng rồi cũng nhảy tùm xuống nước. Rồi cả hai đung đưa trên mặt nước như lá và cành hoa súng, đôi lúc cả người lộ dưới ánh mặt trời, đôi lúc chỉ thấy cái đầu nhấp nhô trên mặt nước, khiến ai đó lo sợ cả hai thiếu nữ có thể bị chìm nghỉm ở đó. Lão Manu già có nhiều thứ để ngắm nhìn. Cuối cùng cả hai thiếu nữ đã nhô lên, mềm dẻo như những nàng tiên cá, bộ đồ bơi ướt nước lóe sáng trông như lườn hải cẩu. Rồi cả hai làm những động tác tay và chân - từ lò đốt nhựa thông này nhìn ra không thể nghĩ trên người họ có một sợi chỉ nào, những hình khối họ để lại mới đẹp làm sao trong tia nắng sớm mai lấp lánh trên mặt nước. Rồi cả hai đi vào phòng thay đồ, lấy áo khoác, bước ra, bây giờ đi vai sánh vai và không hề nhìn nhau. Nhìn hai cô bé như những con bê non đang đi dọc cầu bơi - cuối cùng, thứ mà lão Manu già nhìn thấy từ họ là lấp loáng sặc sỡ màu của áo khoác giữa những tán lá tống quán sủi. Trông Manu như đang nghĩ gì lung lắm, điều đó có nghĩa là, lão ta bắt đầu thấy mệt mỏi rã rời. 4 Những màu sắc đặc trưng của thiên nhiên vào mùa này và ngay cả tại vùng này đều thay đổi rất hài hòa - nếu như tại một nơi nào xuất hiện một cái gì do một ai hay một sự kiện nào gây ra, phá vỡ sự cân đối ấy, thì thiên nhiên ngay lập tức - bằng những cách khác nhau ở thời điểm đó - sẽ làm công việc của mình để buộc thứ bất “bình thường” này hòa hợp vào tổng thể. Từ cái nhìn đầu tiên có thể nhận thấy màu xám, sắc đỏ và trắng - bởi vì rất tự nhiên ngay từ đầu mắt của người nhìn đã nhằm vào nơi con người trú ngụ - rồi màu xanh với đủ mọi sắc thái của nó - bây giờ đã là đầu tháng Bảy mà. Khi ngày dần trôi qua, màu vàng xuất hiện trên bầu trời từ phía tây bắc, báo hiệu buổi tối sắp đến. Còn có cả màu xanh in sắc trời của những vùng nước ngọt, những vũng dài dài, những dòng nước hẹp, như một lớp dài đến từ đằng kia và sẽ chảy về phía đó, thi thoảng giữa chừng - sau những bán đảo cây mọc thành rừng cùng những ghềnh đá nhỏ nhoi - chúng hóa thành những eo nước hiền hòa. Chỉ con người mới nghĩ chúng trầm lặng, bởi đôi lúc trên mặt nước vẫn lăn tăn gợn ngọn sóng nhỏ, làm đậm thêm màu xanh lam của nước. Đây đó trên nền xanh ấy có những chấm nâu vàng bèn bẹt, đó chính là bè gỗ. Ở những nơi thích hợp có thể thấy bốn, năm bè. Một bên thân bè có phà đi kèm với đủ chỗ ở, ống khói, dây cáp với tời. Màu của bầu trời khó xác định - trừ phía tây bắc có màu vàng. Khi trời không có sao, con người ta không ngắm nhìn bầu trời. Màu sắc và hương thơm của mặt đất, sự ngơi nghỉ cũng như nhất nhất mọi xê dịch của nó đã thu hút ánh mắt họ và chi phối tâm trạng họ. Đó là về màu sắc. Còn mùi vị là của các loại hoa cũng như rau thơm. Một số bây giờ mới bắt đầu chớm nụ, còn đa phần đã nở rộ, có loài đã kết hạt. Một tháng trước đây, vào những buổi chiều tối như thế này những cây thơm thảo đã lên cung trạng thái của con người hơi khác hơn so với những bông vàng ngày hôm nay. Bây giờ ở nơi nào đó trên sườn đồi, đằng sau góc trang trại đã thấy liềm cắt cỏ được sử dụng đến, những lát liềm để lại dấu, đủ để nơi đó thoảng ra mùi oai oải của gốc rạ đã nhợt và mùi thơm ngai ngái của thân cỏ khô, nhắc nhở những ai đi qua ghé lại một điều, ít nhất tuần làm việc sắp tới sẽ là những ngày thu hoạch cỏ đại trà, bận rộn. Nhưng trong buổi tối hôm nay và đêm hè sắp đến biển cỏ ba lá ngọt ngào cùng dải đất ven hồ chìm đắm trong sự thỏa mãn yên bình, trong vô vàn các loại hoa đang nở và bụi phấn hoa ngập tràn khắp nơi. Đây đó lúc nào cũng có người nhìn ngắm cỏ cây hoa lá. Bầu trời quả thật mang màu hơi nhạt nhòa, nhưng nếu kẻ cô đơn nào đó ngước mắt nhìn lên và lại nhìn ngắm phong cảnh xung quanh mình, kẻ đó sẽ cảm thấy như chính mình đang đi trong cái nhạt nhòa đó và trong nháy mắt thấy tất cả mọi thứ trong khoảng không bao la ấy. Chủ nhân túp lều, Jalmari ở Syrjämäki đang đứng trên đồng cỏ anh ta thuê lại và tính toán liệu cỏ có đủ cho bò nhà anh ta ăn không. Giá như có mưa… Chủ điền trang Teliranta, người đàn ông năm mươi tuổi nước da rám nắng, nhưng nhìn vẫn còn trẻ trung, cường tráng cũng đang đi lại trong trang trại của mình, thầm mong ông trời cho cả nắng và mưa: chút mưa ban đêm không làm ảnh hưởng đến việc thu hoạch cỏ, mà lại kích thích các loài cây củ và ngũ cốc mùa hè phát triển. Cả đồng rau củ, ngũ cốc của ông đều đang rất tốt, chắc chắn sẽ chịu được đợt nắng dài ngày. Ông như thấy trong tâm trí đợt nắng kéo dài cả tuần sau. Cỏ sẽ tốt đến mức có thể cảm nhận được vị thơm ngon của nó trong miệng mình. Nghĩ tiếp ông như thấy đàn bò sẽ ăn những lượm cỏ được cắt đúng kỳ hạn, những lượm cỏ không hề biết đến giọt nước mưa nào. Trên phà của mình những người đàn ông đẩy bè gỗ chẳng nghĩ ngợi gì đến việc này, ngay cả những gã trai làm thuê đang đứng trên ngả đường rẽ vào các làng cũng vậy. Họ chỉ lượn lờ đứng đó và lấy làm thú vị lắm. Đến cả bụi đường cũng có mùi quen thuộc, hơi kích thích một chút trong cái màu xám im lìm bất động của mình. Những bụi ké gai* và cỏ ngỗng* mọc bên bờ tạo thành đường viền cho con đường chung cho tất cả mọi người. Ngã tư đường chỉ ra bốn ngả. Trên mỗi bảng chỉ đường có tên thành phố, số kilomet từ đây dẫn đến nơi đó. Đối với người đã từng đi khắp thế gian và giờ đây chỉ rẽ vào trang trại này một đôi ngày, bảng chỉ đường giống như một bài thơ, ít nhất là vậy, với những địa danh quãng đường được viết bằng màu sắc khác nhau trên các tấm bảng. Từ đó đến được nơi kia - và hình như ta đã ở đó vào lúc nào rồi. Và nếu như ta chưa từng qua, thì vẫn có thể đến nơi đó mà. Takiainen (nguyên bản): Arctium, cây ké gai, thuộc chi Ngưu bàng. Matarakasvit (nguyên bản): Rubiaceae, cây cỏ ngỗng, thuộc họ Thiên thảo. 5 Trong ánh xam xám nhập nhòa như thế thì ngay đến nhà Mettälä cũng trở nên yên bình, ấm áp, gần như mời gọi người vào. Căn nhà màu xám, nằm dẹo trên một khoảng đất bằng, cạnh lối mòn bên rìa rừng, hơi xa làng chính. Đây là nơi ở của Jukka Mettälä. Vào giờ này chỉ có người vợ Santra cùng lũ nhỏ ở nhà. Còn Jukka và ngựa lại đang đi chở bè gỗ ở đâu đó xa đây, trên một cái phà nào đấy. Một lối nhỏ mờ mờ dẫn từ rừng vào nhà. Trong suốt mùa hè chẳng mấy ai đi bộ trên con đường này, chưa nói đến cưỡi ngựa. Nếu ai từ đó đi ra, đó là người đặc biệt - trừ khi đông tới và người trong trang trại đi thăm rừng. Nhưng ai đó vì việc riêng của mình đến gần ngôi nhà vào lúc hoàng hôn thế này, anh ta sẽ thấy nhà đó sao mà rộng thênh trên mảnh đất buồn tẻ được khoanh lại bằng những gốc cây bị đốn bằng lổn nhổn. Mấy túp lều nằm hai bên, nhà để ở gần đường đến mức vào mùa đông xe quệt của các gã đánh ngựa chỉ chực lào xạo lao vào và chú bé đánh xe khuôn mặt đỏ ửng vì băng giá cười nhăn nhở khi hét lên với bạn đánh xe bên cạnh: - Đừng có đâm đổ cột của Santra! Còn bây giờ chỉ có một cái cổng gỗ hơi he hé mở ra từ phía rừng dẫn đến lối nhỏ lâu rồi chẳng được dọn, cứ như đàn bà hay lũ nhỏ dẫm đạp lên mà thành. Ở cột cổng, phía bên lối mòn, là những gì còn lại của đống củi, còn lối đi, sao nó lại rộng kỳ lạ, với cả hai bên là hàng rào đã phủ đầy địa y, đôi chỗ được chống lên bằng thân cây. Trông nó cứ giống như người dẫn đường quá mệt mỏi. Nhưng ai đến đây để xem xét những thứ đó vào buổi chiều như thế này chứ. Trên đường những đống bùn nhão từ mùa xuân giờ đã khô cứng vào quên lãng. Như để bù lại những khó chịu chúng gây ra vào mùa xuân, những đống bùn đó cho đâm ra những đám răm dại* um tùm cùng hoa chuông tím* tươi tốt và rất đẹp. Ở những bãi chăn thả gia súc như thế này việc đồng áng bận rộn hình như không ảnh hưởng gì lắm đến sự phát triển của chúng. Ai lang thang ở đấy mà chẳng thấy thích, nhất là lúc đã quá xế chiều, khi mặt trăng to, tròn, đỏ lựng bắt đầu nhô lên ở phía nam con đường. Vào khi chiều muộn thế này mặt trăng không chiếu sáng, chỉ lồ lộ. Nhưng dù sao nó dường như lơ lửng gần hơn với người đã đến bên bức tường nhà, bên cửa sổ của căn phòng phía sau, người từ đường dễ dàng đạp cửa sổ vào trong. Nhưng ai mà muốn đạp cái cửa sổ như thế cơ chứ! Xem xét để giết thời gian thì có thể. Khung cửa sổ không sơn, kính xanh xanh kỳ quặc và đặc biệt nhất là rèm cửa đằng sau kính. Nó được treo ở đó không biết đã bao năm, bao mùa hè và mùa đông. Đó là tấm rèm thủng rất đều, được cắt ra từ một rèm cửa nào đó to hơn, tốt hơn cái cửa sổ bên cạnh con đường đất sét này. Nhưng dù sao nó cũng che được hết cả cái lỗ hổng này từ phía bên trong - và che đã không biết bao năm. Cái cửa sổ kỳ lạ. Mặc dù nhìn thật gần thấy khoảng không sau nó màu đen, cứ như mặt trời không bao giờ vào được đến đây, ngay cả vào những tối hè nóng bỏng. Mà mặt trời không vào được thật. Bởi vì ngay trước và sau hạ chí, những ngày mặt trời có thể làm được điều đó, xuất hiện một kho chứa gỗ đối diện ngay trước nhà, thế là mặt trời bé nhỏ chỉ được lấp ló đâu đó sau kho, vào khu đất đầy gốc cây, vào đống sỏi đá, vào đâu đó chẳng thể đoán định được và cuối cùng dần dần dịch chuyển vào đám rừng thông bì bõm nước. Vào một mùa hè nọ có ngài kiệm lời kia lội dọc ngang ở đó và vẽ vẽ lên mặt giấy cái kho chứa củi, có bậc cửa được dùng làm đòn kê, dùng nhiều đến mức nó đã gãy ngang từ lúc nào. Ngài đó ngồi ở ngoài sân, xin và được cho và uống sữa, rồi lại tiếp tục đi dọc con đường mòn, trên đường đi cứ nhìn mãi cái cửa sổ kia. Điều này lũ trẻ con cũng nhận ra. Hepohera (tên Latinh), loài cây dại thường thấy trên đồng cỏ, trong vườn cây hoặc mọc ven đường. Geranium Pretense, thực vật có hoa họ Mỏ hạc - Geraniaceae, chi Geranium. Từ đồi Mettälä cứ phải đi, đi tiếp nữa, những con đường và những lối mòn mùa hè. Đầu tiên chúng được dẫm mòn, nới rộng, rồi trở thành những con đường rải sỏi, rồi có những ngôi nhà khang trang tường sơn với bao nhiêu cửa sổ, những cửa sổ thật to, đến mức mảnh rách của những tấm ri đô to, đẹp của chúng cũng đủ che kín cửa sổ phòng ngủ của nhà Mettälä. Cần phải có hai rèm mới che được cửa sổ lớn đó, mà chúng cũng chỉ che một phần - ở giữa khung cửa có những bông phong lữ* đỏ tươi và đủ màu sắc do con gái chủ điền trang trồng, tự do khoe sắc với người qua lại: khách bộ hành ai cũng được ghen tỵ đôi chút mà ngắm chúng, dù người đó có là ai, chỉ cần không xé nhỏ chúng… Lại một trang trại nữa, to nhất trong những trang trại cùng loại: những bụi tử đinh hương*, có đu quay ngoài sân. Ở chỗ đó còn có thêm con đường rẽ, tiếp đến là những nhà tầm thường hơn, cả những cánh đồng, nhưng không biết ai sở hữu chúng, cho đến khi, nếu bạn muốn, bạn có thể rời con đường sỏi rẽ vào con đường ít rải sỏi hơn, nơi có thể thấy vết bánh xe kéo, rồi từ đó bạn lại rẽ vào một đường mòn, vượt qua một cây cầu, rồi lại đến một con đường lớn hơn. Pelargoni, Pielikukka: Thực vật thuộc chi quỳ thiên trúc. Syringa, thuộc họ Ô liu (Oleaceae), loài cây mọc thành bụi lớn, cao, nở hoa cuối xuân đầu hè, thành chùm màu tím hoặc trắng, rất thơm. Khi tuần tự này được lặp lại hai hay ba lần trên con đường của khách bộ hành mùa hè, cuối cùng khách sẽ đến điền trang Teliranta, hay khu cư trú trên vùng rừng thưa phía sau hồ, đối diện với điền trang, nơi có túp lều của Manu, nhà của Alviina cùng căn nhà tranh của Syrjämäki. Cũng từ nơi ấy trong buổi tối cuối tuần này gã đánh ngựa Jukka Mettälä của một cái phà kéo gỗ đang đi về nơi làm của mình. Cứ nghĩ anh ta về nhà mình ở làng xa, nhưng không, anh ta không về đó - ngày hôm nay anh ta đã không đi qua những con đường đó. Anh ta đã ở một nơi nào đấy và bây giờ đang trở về, yên lặng chậm chạp bước dọc con đường rừng đầy vết xe, con đường chưa ai sửa bao giờ, chỉ có những người đánh xe liều đi qua khi bắt buộc. Dù đây là thời điểm khô nhất trong năm, nhưng đây đó con đường vẫn bị những chỗ trũng đẫm nước in dấu chân bò, bốc mùi ngai ngái cắt ngang. Một loài bướm trắng, đẹp và mỏng manh rất thích thứ mùi ngọt ngái đó. Chúng rập rờn đập cánh bay chấp chới trên vũng nước. Và ở nơi đó những bụi dương xỉ xanh ngắt tươi tốt um tùm như cọ chĩa cành ra từ trong khoảng tối ẩm ướt bên đường. Thân ủng cao cổ, cứng còng vì nhiều chỗ vá và vì nhựa thông của Jukka Mettälä dính đầy bùn bắn. Bùn vẫn còn nguyên đó vào hai ngày sau, khi người ta giật ủng ra khỏi đôi chân đã cứng đơ của gã… Gã ta hơi say, có lẽ vì vậy không biết - và cũng chẳng quan tâm - tránh những vũng lầy lội nhất, mà gần như cố tình dẫm bẹt vào chúng. Những lúc này bước chân thậm thịch đều đặn có hơi bị hẫng đi. Anh ta ngồi phịch xuống một đám cỏ ướt khiến nó dần lún xuống làm anh ta suýt nữa ngã ngửa ra sau. Anh ta cứ ngồi yên trong tư thế không thoải mái ấy một chốc. Và lúc ấy - khi cặp mắt bắt đầu nhìn chằm chặp một cây bách thưa cành, cong ngoằn ngoèo - anh ta lại thấy cắn rứt vì đã không về qua nhà, một khi đã rời phà lên bờ. Cứ như Santra đang bình thản lạnh lùng nhìn anh ta từ một chỗ nào đó… Anh ta thấy bực, vì lại nhớ đến điều này. “Thôi đi nào Jukka! Hầy hà, hầy ha!” 6 Chiếc ô tô đậu đường bệ bên rìa sân trang trại. Với những gờ, viền sang trọng nó ngầm khoe mẫu mã xe ra tận đường lớn, cứ như đang ra sức bảo vệ danh dự của nhãn hiệu nhà mình. Nó đứng đó từ tối hôm qua, từ tối thứ Bảy - khi buộc phải đỗ xịch vào sân cỏ giữa những ngôi nhà xưa cũ, có lẽ nó sẽ đứng đó chừng một hay hai ngày. Vẫn còn đôi chút kỳ lạ ẩn trong diện mạo của cái khung xe như thế: bản thân nó thật bệ vệ, nhưng sức mạnh cũng như vẻ lịch lãm của nó lại như của một con én: đến kẻ đi đêm tinh quái nhất cũng đâu làm hại được nó. Ban ngày, nhất là vào một ngày Chủ nhật nhàn rỗi thế này, có thể ta sẽ thích khi đến gần nó. Mùi đặc trưng của nó lan nhẹ ra bầu không khí xung quanh; mặt kim loại lấp lánh đang nóng dần lên, ghế ngồi, dầu - tất cả cùng hợp lại tạo nên tổng thể mùi thơm nhẹ nhàng như thế, khiến không người bình thường nào ở nông thôn có thể tưởng tượng nổi mình sẽ sở hữu một cái xe như thế - ngay cả cái mùi ấy cũng không… Vậy nên ông ta đành để thời gian đi lượn quanh cái xe không người, thật im lặng với chút sùng kính trên nét mặt. Những người chủ xe và lái xe đang ở đâu đó trong nhà hay có thể đi dạo thăm thú phong cảnh xung quanh. Và sự kính trọng của người ngắm xe nghèo chắc sẽ tăng lên nếu như ông ta biết so sánh giá trị đích thực của cái xe này với những vật dụng khác, hay quả thực chiếc xe đó có kích cỡ và có thương hiệu sang trọng hơn… Rồi người ngắm xe tầm thường kia đã rời sân trại Teliranta, lững thững đi dọc ghềnh đá cao ven hồ trở về thuyền của mình. Nơi đó những mùi thơm khác ùa đến và ông lặng lẽ mê say hít thở chúng. Có lẽ ông cũng không ý thức được là mình đang tận hưởng. Ở đó có mùi nước hồ - thứ mùi không thể đặt tên, không ai biết được mùi hương nguyên thủy của nó thế nào. Có thể phân biệt được hương của vạt lau sậy bên bờ - mùi đó ai cũng biết, còn có mùi nhựa thông sơn thuyền quá quen thuộc cùng mùi đặc biệt của đáy thuyền. Hòa quyện tất cả những mùi này là mùi cá, cái mùi luôn hiện hữu trên một chiếc thuyền luôn gặp may… Đó đều là mùi riêng của người đàn ông nghèo đang khỏa mái chèo. Ông ta ngồi lên tấm ván bắc ngang thuyền của mình, chậm rãi khoan thai khỏa nước, sau khi đã mất bao thời gian để mở chiếc ô tô bị khóa trái trong sân trang trại. Một người lái đò như thế đang vui vẻ tò mò nhìn chiếc thuyền của phà gỗ đằng xa đang lướt đến. Có vẻ như nó cũng muốn cặp vào bờ Teliranta. Tốc độ rẽ nước của nó khá nhanh, hai cặp mái chèo khỏa nước nhịp nhàng, cả bốn giá gác chèo đồng loạt kêu cót két. Thuyền đến Teliranta mua sữa - lẽ nào đã đến giờ vắt sữa cho bò? Chẳng nhẽ ta đã ở Teliranta lâu đến vậy sao? Có lẽ thế… Màu đêm hiện rõ trên đỉnh vách đá dựng đứng cạnh bờ, tràn trên ruộng lúa đại mạch, cho dù mặt trời vẫn còn lấp ló trên mặt nước, thâm thấp ngang những bông lúa mạch đang phất phơ… Người chèo thuyền nhìn ra khắp xung quanh. Giữa Teliranta và những khu rừng là cánh đồng rộng mở với con đường cho xe ngựa vắt ngang dẫn đến những ngôi nhà tranh xa xa. Con đường vào mùa này đất sét khô khốc, đầy những loại hoa dại mọc hai bên. Từ đây nhìn ra mắt thường cũng phân biệt được dấu bánh xe chạy in trên nền đường. Có thể thấy rõ trong hai người đang đi đến kia ai đang bước bên nào của đường, người phụ nữ trong bộ váy áo hè nhiều màu sắc - trẻ và mảnh dẻ - người chèo thuyền biết cô là ai - và người đàn ông, trẻ và cao lớn và chắc chắn anh ta có liên quan gì đó với chiếc ô tô đen, dài đang chiếm ngự sân trang trại Teliranta… Phía bên kia hồ, người đàn ông sống trong túp nhà nhìn đồng cỏ mình thuê: khô thế này liệu cỏ có mọc đủ. Đó là đồng cỏ đẹp với những cây bạch dương khẳng khiu, ngoài ra không có loài cây nào khác, không kể cây bách xù tầm thường tình cờ mọc chen vào đó như một loài cỏ dại. Anh ta đã được cho phép chặt cây, tháo nước tạo nên đồng cỏ như thế. Nó nằm ngay sau cánh đồng lúa của anh ta. Lúc này vợ anh đang đi đến, đầu trần, mình khoác bộ váy áo vải bông phẳng phiu sạch sẽ, bộ váy áo chị tự cắt may, sửa sang cho hợp với diện mạo bây giờ. Sắp đến lúc sinh nở rồi mà chị vẫn nhanh nhẹn đi lại làm mọi việc và có vẻ như không nhớ đến thời khắc đau đớn mà chị lại sắp phải trải qua. Con bò cái vẫn nằm, nó không chịu đứng dậy. Người vợ không nhìn chồng mà tiến ngay đến gần con vật, đưa tay sờ nắn mõm và những chỗ khác của nó. - Nó vẫn chưa chịu ăn, - người vợ nói với chồng. Anh ta cũng vừa bước đến đó, trông có vẻ hơi bối rối, vì anh ta không thể làm gì giúp bò được - không làm được gì hơn thế, cũng như không giúp gì được vợ, nếu như có chuyện gì rắc rối không hay xảy ra với loài nhai lại này trong những việc chỉ chúng mới biết. - Không, ta phải gọi ai đến giúp thôi, không, không, chưa cần đến bác sĩ thú y, đầu tiên để tôi đến gọi bà chủ trang trại Teliranta cái đã. - Nhưng liệu mình có đủ sức đến đó không? - Người chồng hỏi. - Sao tôi lại không đủ sức chứ, - chị vợ đáp. Một lúc sau Jalmari đã thấy chị vợ Hilja của mình chèo chiếc thuyền nhỏ màu nâu sang phía Teliranta, cái trang trại đang đứng im lìm soi mình, in hình xuống mặt nước hồ tĩnh lặng với đủ màu sắc và đường nét - mái chúc xuống dưới, cứ như đang nhìn xem bản thân ngôi nhà như thế nào. Jalmari, người nông dân nghèo trầm ngâm nhìn theo dáng đi của vợ, quên khuấy nỗi đau đớn của con bò cái ở gần. Đó là một đêm hè tuyệt đẹp, trước thời vụ cắt cỏ không lâu. Người họa sĩ cũng đang chèo thuyền và đang xem xét ngắm nghía trang trại, sân cỏ cùng những vách đá dựng đứng ven bờ đúng theo thói quen của mình. Chiếc thuyền trắng đáy đỏ của họa sĩ trôi gần thuyền của Hilja đến mức chắc nên nói với chị này điều gì, bởi vì dường như Hilja đã lơi tay chèo. Anh ta đã từng xin được vẽ Hilja khi chị này cho đứa con mới sinh bú, nhưng cho đến bây giờ Hilja lúc nào cũng phẩy tay và nói sẽ không có chuyện đó đâu. Jalmari đi về phía nhà mình, nơi mấy đứa con vẫn tiếp tục chơi trò chơi của chúng, cái trò mấy đứa trẻ đã chơi suốt cả ngày Chúa nhật đẹp trời dễ chịu này. 7 Họ - hai thanh niên người chèo đò nhìn thấy trên con đường mòn đằng sau trang trại Teliranta - rời trang trại đi dạo vào đầu giờ chiều. Thiếu nữ đó có họ với chủ điền trang Teliranta, còn người kia là bạn của cô - họ quen nhau từ mùa đông trước ở một thành phố xa xôi - và anh đã lái xe về đây trong kỳ nghỉ hè của mình, vì anh biết cô đang ở đây. Chuyến thăm này chính ra cũng đã được thỏa thuận từ mùa xuân, chỉ với mấy từ, một cách thật tình cờ. Suốt cả mùa hè dài lời nói thoảng qua như thế dễ đi vào quên lãng. Helka đã quên, hay cứ làm như đã quên, nhưng Arvid thì không. Nhưng chắc chắn Helka vẫn còn nhớ, cô chỉ giấu kín sự chờ đợi ở thẳm sâu trong lòng, bởi cô đã không vờ đưa mắt nhìn sang chỗ khác, không che giấu ánh mắt lấp lánh rạng ngời niềm vui - không! Mắt cô bừng lên - lúc đó đúng thật là vì ngạc nhiên, khi cô - người đầu tiên trong cả nhà - nhìn thấy chiếc xe quen thuộc rẽ từ đường cái vào sân, vào đây, sân của trang trại Teliranta. Với Helka mùa hè này tốt đẹp và rạng rỡ làm sao. Cô sống ở đây như mọi người vẫn sống, làm việc cho vui, những công việc không làm căng thẳng tâm hồn, có chăng đôi lúc làm cơ thể mệt mỏi. Những công việc tăng thêm sức mạnh vô hình cho tâm hồn và thể xác, ngoài ra không là gì khác. Khi đó và cả sau này cô không nghĩ ngợi gì lâu, nhưng vào giây phút cô nhận ra mái đầu quen thuộc đang ngẩng cao, làn môi cùng ánh mắt của người ngồi trong ô tô, bản năng của cô như được đón nhận phần thưởng xứng đáng. Cứ như ở đây, vào lúc này, tất cả những gì mặt trời đưa đến - màu sắc, hương thơm và cảm xúc - đều òa ra chan hòa, đem đến một vẻ tinh khôi cho diện mạo tuyệt vời của con người, qua làn da và giác quan. Mọi cảm xúc đều bị kìm nén trong suốt tối thứ Bảy, chỉ có thể thấy niềm vui thầm lặng tỏa ra từ ánh mắt và trên sắc mặt. Những ai muốn nhìn, sẽ nhận thấy điều đó. Bạn của Helka ở đây, nhất là Selma trẻ trung, vì thế mà cảm thấy không được thoải mái cho lắm. Cả cha mẹ của Selma - ông bà chủ đầy quyền lực của trang trại Teliranta cũng nhận ra điều đó. Họ vẫn tràn đầy sức sống mãnh liệt của tuổi trung niên, từ xa ta cũng có thể nhận thấy thế, cho dù con gái họ đã gần hai mươi tuổi, người ở đây còn kiệm lời hơn cả họ. Tất nhiên là họ thấy, nhưng cứ làm như chẳng thấy… Helka đối với họ quá đỗi thân yêu. Buổi tối thứ Bảy lần lữa mãi không muốn trôi qua - khi màn đêm vẫn chưa đến ngự nơi này. Vẫn có thể thấy và quan sát kỹ càng mọi việc như ban ngày bên bậc cầu thang, nơi đu quay ngoài sân, trên bậu của những cái thang cao lênh khênh. Cả bà chủ già của trang trại cũng ngồi lại trên bậc cầu thang dẫn vào nhà ở của bà trong buổi tối sum họp này. Bà bảo với Helka, khi cô khuyên bà mình đi nghỉ: “Ừ có lẽ bà đi đây và rồi cháu lịch kịch đi đến đúng khi bà vừa thiếp đi chứ gì.” Trong thời gian đến thăm Teliranta, Helka ở bên khu của bà chủ già và cùng ăn với bà là chính, cho dù vào mùa hè như thế này mọi người ăn khi nào nhớ đến, lúc tất cả tập trung bên nhà bà, lúc lại bên nhà chính. Cuối cùng chủ trang trại buộc phải cậy đến quyền chủ nhà của mình, lệnh cho mọi người ai về nơi ngủ được phép và được xếp vào, rồi ông nắm cánh tay của vợ. Những người khác im lặng nhìn theo, chiêm ngưỡng phong thái của họ… Tất nhiên bà chủ già không để ai ra lệnh cho mình và ngồi lại trên bậc cầu thang, thấy thế cả đám thanh niên cũng làm theo. Ngay cả khi rời bậu thang bà cũng chẳng đòi hỏi gì nhiều. Bà chỉ nhẹ nhàng khuyên cô cháu ngoại hãy làm theo mình. Lời khuyên đó được nói với giọng cáu kỉnh rất đáng yêu và bằng phương ngữ thân thương của vùng quê. Nghe lời bà nói bằng thổ ngữ như được nghe cả sự tích của dòng họ. Nhưng đôi bạn trẻ vẫn ngồi ở ngoài thật lâu tới khi họ cho đó là thích hợp, tới khi họ nhớ đến bà. 8 Đúng ra Santra nhà Mettälä cũng không có ý chờ chồng về nhà vào ngày cuối tuần. Kể từ mùa xuân, sau khi gia nhập đội quân thả gỗ, anh ta chỉ về nhà có một lần. Mà cái lần đó cũng không có gì đặc biệt ngoài việc anh ta mang về nhà một ít tiền. Trái lại, mấy đêm anh ta ở nhà lại có vẻ gì đó là lạ. Volmari, đứa con lớn nhất của Santra, được sinh ngoài giá thú, lại tình cờ về nhà lúc đó. Và nó luôn kiếm cớ gây sự với bố dượng… Volmari cũng đã đi từ giữa trưa Chủ nhật, về những miền đất xa lạ mà nó đã đi trong mấy năm qua. Nó chỉ về nhà khi có những bộ quần áo lịch sự thắng lên người, có thể kiêu ngạo lấp ló xòe những đồng tiền giấy cho người khác thấy vào những lúc có thể. Chắc chắn là nó thừa hưởng tính cách đó từ người bố bí mật của mình. Người mẹ, Santra luôn có cảm giác run rẩy sợ hãi ngọt ngào mơ hồ, khi nhớ lại những việc xảy ra vào lúc Volmari được thành hình - và cả khi sinh nó. Một vẻ vui mừng hoang dã hiện lên khuôn mặt người vợ khi chồng chị ta rời khỏi nhà và thật kỳ lạ chị ta nhận ra mình đã bị trói buộc, riết chặt khó bề tháo gỡ khỏi nơi ở này, vào các điều kiện sống ở đây. Con trẻ lau nhau, những đứa con của người đàn ông kia, người đang rời khỏi nhà, đi dọc trên con đường nhỏ, to lớn, bước những bước dài… Santra ở lại nhà với công việc của mình. Lũ trẻ với đôi mắt mở to thao láo cũng nhận ra trong cái nhìn của mẹ chúng có gì đó là lạ, ánh mắt không xuất hiện khi bố chúng ở nhà và ngay cả muộn hơn khi ông ấy đã ra đi. Ánh mắt chỉ lóe lên khi bố chúng rời nhà ra đi và vào buổi tối thứ Bảy khi cả nhà chờ bố về. Khoảng giữa hai thời điểm ấy, mẹ chúng lại bình thường như vẫn thường như thế. Đó là người đàn bà cao và to xương. Cho dù chỗ này chỗ kia xương nhô lên - hai bờ vai, gò má, cằm hay khuỷu tay - vẫn nhận ra được một điều: cuộc sống dù có vất vả đến đâu cũng không bòn rút hết được sức lực đàn bà tiềm tàng có từ thời thiếu nữ ở người đàn bà ấy, cái mà thiên nhiên đã ban phú cho diện mạo của chị ta. Điều đó có thể thấy khi chị ta xách cái gì đó dọc con đường hè hay khi chị mệt mỏi ngồi xuống nơi nào đó nghỉ. Điều đó có thể nghe khi chị ta nói một câu thật khôi hài đối đáp câu chọc ghẹo của mấy gã say xỉn vì uống bia nhà. Khi chị ta làm việc bên khóe môi vẫn luôn ngự trị chút trễ nải cay đắng và trong cặp mắt vẫn ẩn chứa sự giận dữ vô vọng, dù vậy những nét nữ tính ngày xưa vẫn có thể thấy được từ nét lượn của đôi mắt lẫn gờ môi. Người có mắt sẽ nhận ra được điều đó. Có thể không phải là những gã trai mới lớn, nhưng sẽ là những người đàn ông trưởng thành hơn một chút. Chị ta đang ở độ tuổi ba lăm trong những đêm hạ trắng này. Và mùa hè này cũng thế, đêm luôn làm tâm trí con người dễ chịu, cả người già lẫn con trẻ, cả người giàu lẫn tất cả những ai thống khổ nghèo hèn. Nhất là vào những ngày của đôi ba tuần tháng Bảy, khi việc gieo cấy mùa xuân đã xong còn thời vụ thu hoạch cỏ chưa đến. Trong mắt của Jukka Mettälä, vợ anh ta chẳng còn có gì khác mà chỉ là mụ vợ bình thường sống trong túp lều tranh; cũng như việc thành chồng thành vợ của họ vậy, vào ngày ấy khi bố anh ta mất để lại khu đất này cho Jukka. Khi còn là một thanh niên Jukka của Mettälä chưa bao giờ là thần tượng của đám con gái. Trong các vũ hội, anh ta đứng lừng khừng bên cửa ra vào là chính. Anh ta cũng không hay đến các vũ hội nếu như trước đó không được uống đến ngà ngà say - không thường xuyên đến, chỉ vừa đủ để người khác nhận thấy anh ta có đó. Rượu là lý do dễ hiểu để người đàn ông đến đám nhảy. Theo cách nghĩ của mình anh ta thấy cứ hơi lờm lợm khi người đàn ông trưởng thành vượt qua hàng cây số đường chỉ để làm một việc như vậy. Mà Jukka Mettälä cũng có mấy khi nhảy đâu, chỉ thường nghiêng ngả thoải mái đi lại nơi xó phòng và hát nữa, với chất giọng ồm ồm cố tạo. Hiếm khi, chỉ thật họa hoằn lắm mới có cô gái nào đó đến mời anh ta ra sàn nhảy. Mùa hè năm ấy, khi anh ta vừa ra khỏi tù vì tham gia nội chiến và đã hồi phục lại được như trước cả về thể xác lẫn tâm hồn, một lần anh ta đến Nhà lao động ở Mahanala. Santra ở Korkomäki đã đến xó phòng mời anh ta ra nhảy, nhìn thẳng vào mắt anh ta, như kiểu: thử xem những lời của Niemiskä có đúng không nào! Đó chính là lúc mà Niemiskä láu cá và lắm lời chộp lấy làm mối may - cái việc mà sau đó anh ta cứ luôn đòi phải được nhận phần thưởng xứng đáng. Cho dù lúc đầu Niemiskä cũng không có công trạng gì cho lắm, ngoại trừ việc huyên thuyên hết với Jukka lại đến Santra. Lần đi nhảy đó Santra đã đưa Jukka về gác xép của mình. Cơn ngà ngà của Jukka lúc đó đã thuyên giảm đi đôi chút, nhưng khi anh ta nhận ra điều gì sắp đến, cơn say như trở lại và người đàn ông cứ làm như mình đang say lắm, chửi thề hăm dọa dù giọng nói có kiềm chế đôi chút, khi hai người quàng lưng nhau, cùng sóng bước đến gần nơi Santra đang có việc làm. Dù Santra cam đoan rằng không ai ở trong trang trại đang nhìn họ, hơn nữa, nếu tất cả bọn họ có đứng ngoài hiên, cũng sẽ chẳng ai quan tâm đến hai người; nhưng trong tiềm thức Jukka vẫn nghĩ: đi cùng một cô gái về nhà thế này, rồi trèo vào gác xép nơi cô ta ngủ cũng giống như việc lượn lờ trong các xó phòng nhảy… một người đàn ông còn tỉnh táo chắc không bao giờ làm. Mà chắc cũng không nên làm. Nhưng đêm đó, vào lúc gần sáng trước khi Jukka ra về Santra bảo với anh ta: - Bây giờ anh phải biết đấy nhé, là anh phải lấy tôi đấy. Đây là cái giá cho cuộc mua bán này. Có giá đấy và có thật. Chẳng mấy chốc Jukka đã học cách đến cái gác xép của Santra mà chẳng cần chút chất cay để xua tan nỗi thẹn thò trẻ con lúc ban đầu. Ai cũng biết và thấy, rồi sau mùa hè, khi trời ngày càng lạnh và khi Santra phải chuyển từ cái gác xép nơi cô ta ngủ vào phòng ngủ dành cho những người hầu gái trong nhà chính, đã đến lúc họ phải đến nhà thờ tuyên bố đính hôn. Bởi vì ông chủ trang trại là người thứ ba tham gia vào việc này và nói, việc trai gái ăn nằm với nhau dưới cùng một mái nhà nơi ông ngủ với bà chủ là không thể tiếp diễn được. Sự việc bắt đầu như thế, cũng chẳng lâu sau nó tiến triển cho đến hiện trạng bây giờ, vào những ngày hè này. Jukka bây giờ không còn chút rụt rè xấu hổ trẻ con như của gã trai mới lớn nữa, nhưng cũng không có gì khác hơn đối với Santra. Một người đàn ông bình thường, kiếm được tàm tạm tiền bằng con ngựa của mình, khó gần và chán đời, chỉ trừ những khi được nhiều nhiều chất cay vào cổ, liều lượng giống như ngày xưa trong những buổi đi đêm. Lúc đó có thể anh ta lại giống như ngày xưa, vào thời gian sau này thì thật không được như thế. Bây giờ anh ta cứ tìm nơi làm thật xa, đôi lúc uống đến say xỉn và những lúc đó bao giờ cũng cố tỏ ra thô bạo, khó chiều. Giờ đây, vào lần về nhà lần cuối cùng, thứ Bảy tuần trước anh ta rất dễ chịu. Jukka từ một nơi thả gỗ rất xa về nhà, mà Santra với lũ trẻ cũng không biết thế nào để chờ anh ta. Santra đi nấu bia cho ông chủ của trang trại ngày xưa. Nhà Mettälä này đã chuộc lại mảnh đất từ trang trại đó, nơi Santra từng làm thuê khi còn con gái. Ở đó bây giờ là ông chủ trẻ, người vào thời gian ấy còn là thanh niên chưa vợ và biết tài nấu bia của Santra. 9 Thời gian của Jalmari ở Syrjämäki cứ như ngừng trôi khi anh đi đi lại lại giữa đồng cỏ và sân. Trên đồng cỏ lần nào anh cũng đi thật xa để ngó cho được trang trại Teliranta qua dải đất hẹp. Cho đến khi thấy Hilja cùng bà chủ trang trại Teliranta bước xuống thuyền - và chắc họ lại đang tranh cãi xem ai là người sẽ chèo thuyền. Cuối cùng Hilja ra ngồi lên ván ngang bắc giữa thuyền. Jalmari vội vã đi xuống bờ đón họ. - Không biết ở đây ai cần trợ giúp trước, Hilja nói rồi liếc nhìn chồng đầy ý nghĩa, làm vẻ nghiêm trọng hơi lo lắng hiện luôn lên trên khuôn mặt anh này. Lần nào anh cũng vậy, cho nên chẳng cần vội vàng giải thích tất cả các biểu hiện ban đầu cho anh ta. - Phải đi ngay bây giờ ư? - Ồ, bây giờ anh chưa cần vội đâu… - Hilja nói và cùng bà chủ đi ra đồng cỏ. Với Jalmari thời gian trước lúc vợ lâm bồn bao giờ cũng khiến anh ta như bị kích động, hồi hộp và gần như đau đớn nữa. Điều xấu nhất sẽ không xảy ra, vì ít nhất vào lúc này đường đất khô ráo, thêm nữa bác sĩ có thể đến tận nhà. Thế nhưng những việc này đôi lúc cũng xảy ra ngay cả khi đường sá không đi được. Bây giờ thời tiết thật thuận lợi. Tuy nhiên trong cuộc sống của đôi vợ chồng ở Syrjämäki lần sinh đẻ này đã trở nên thật đặc biệt theo nhiều cách. Nhưng sinh nở có bao giờ giống nhau, ngay cả trong một bầy đàn lớn. Jalmari đứng lại trên sân nhà khi bà chủ và Hilja đi xem tình trạng của con bò cái. Nhưng họ cũng không ở lại đó lâu. Chẳng mấy Jalmari đã thấy bà chủ của Teliranta vội vã đi lại, còn đằng sau bà, Hilja chậm chạp tiến về sân. - Phải rồi, tốt nhất là Jalmari đi đi, đã có ngựa chưa? - Đã thỏa thuận lấy ngựa ở nhà Ollila, vùng này không có ngựa ở đâu tốt hơn… Tất nhiên rồi, tôi đi ngay đây. Bà chủ có thể ở lại đây đến lúc đó được không, nếu bà có thời gian, vì hình như Alviina cũng không ở nhà, mặc dù tôi đã bảo với nó… - Được rồi, anh đi ngay đi! Mặt trời đã ngấp nghé đến gần chân trời, buổi tối thật sáng sủa, cho dù từ ngày hạ chí đến giờ sắc màu của đêm cũng đã đổi thay. Không khí ẩm ướt khó thở ngự trị đoạn đường nằm vắt qua cánh rừng cây thâm thấp pha tạp, vươn dài đến đồng cỏ màu mỡ. Jalmari ở Syrjämäki đi rất nhanh, hộc tốc thật quá khác biệt so với kiểu đi bình thường. Tâm trí anh chìm trong một giai điệu trong trẻo, ngây thơ đến kỳ lạ. Và lần nào cũng vậy, khi có một sự kiện quan trọng nào đó trong cuộc đời sắp xảy ra với anh. Tuổi tác không đem lại bất cứ sự thay đổi nào trong tâm tính của người đàn ông này. Vào năm mười hai tuổi Jalmari đứng nhìn quan tài của mẹ lơ lửng nằm giữa những miếng ván xam xám bám đầy đất sét từ từ hạ xuống cái hố sâu trong lòng đất. Trong huyệt đã có hai quan tài giống như thế, một cái bé xíu. Trong khuôn trang nhà thờ người lạ nhộn nhao đi lại - cứ như mọi người đang quan sát họ - bố, Jalmari, Laina và Vihtori - và hỏi sao họ lại ở đó được cơ chứ… Và giai điệu cũng vang lên như vậy trong tâm trí khi anh đứng cạnh Hilja trong lễ cưới - tất cả những việc đã xảy ra với anh và Hilja trước đó đã lùi mãi về xa tít - để rồi lúc nào đó họ sẽ còn nhớ lại. Ý nghĩ làm anh bận tâm nhất khi đứng trước linh mục lại là, nếu tất cả những việc ấy đều được trưng ra đây thì xấu hổ biết bao… Linh mục thuyết giảng về Chúa và bản thân vị này bằng cách nào đó cũng hóa thành sự hiện thân của Chúa Trời, làm sao mà biết được… Khi đứa con đầu tiên ra đời, một bé gái đoản mệnh, cũng vẫn cái cảm giác như vậy. Một đứa bé có thật, sống động ra đời, cứ như là điều gì đó quá hoàn hảo để có thể là thật trong cuộc đời họ. Cái chết của người bố ngày nào đã thành một sự kiện không đáng kể. Bây giờ nỗi xúc động ngày trước lại ào đến, cứ như những điềm gở luôn thì thào vào tai. Một con chim rất lớn đang hoảng loạn bay ngang qua đường, bầu trời phía nam có màu chì rất kỳ lạ, nhưng vẫn không thể là mây được. Rồi mặt trăng nhô lên, trăng rằm tròn vo đỏ lựng, với các quầng xanh sẫm xung quanh. Từ đám tầm ma mọc đầy trong cái mương Pahanoja mặt trăng chỉ ngó nghiêng lấc láo như một gã kẻ trộm, có thể biết chắc rằng nó chưa muốn nhô lên cao, chỉ đứng dậy vừa tầm để nhìn xem người đàn ông đang bối rối kia đi đâu. Jalmari đi vào trang trại Ollila, nhận thấy không có người đàn ông nào của trang trại này ở nhà. - Sao anh Syrjämäki hôm nay lại vội vã thế? - người phụ nữ chăn bò của trang trại hỏi. Chị ta đã qua độ tuổi nhảy múa, khuôn mặt lãnh đạm, đang đi lại nhặt cái này bỏ cái kia trong phòng bếp rộng và yên tĩnh cũng được sử dụng làm cả phòng khách. - Chẳng ai có nhà đâu, họ về bên nhà ngoại từ sáng sớm rồi, từ đó chưa bao giờ họ về đây trước nửa đêm. Nhưng anh thuộc ngóc ngách ở đây mà. Con ngựa cái đang gặm cỏ trên đồng Mylly ấy. Jalmari vớ lấy bộ dây cương treo ở đinh sắt trên tường kho chứa củi. Trông chúng cứ như bị hỏng hóc làm sao ấy. Ngay cả bộ đai yên có lẽ vẫn thường được thắng lên xe đến nhà thờ vào ngày Chủ nhật cũng thiếu mất khóa cài ở dây buộc dưới hàm. Phải cố tìm cái chạc nào để buộc cho nó khỏi lủng lẳng. Phải rồi, phải cố tìm, sau khi đã tìm được cho bộ yên cương cái gì để thắng chứ. Tất nhiên Syrjämäki biết thật không dễ dàng thắng được con ngựa cái già nua của nhà Ollila. Nhưng đôi lúc những người đàn ông kém cỏi khác cũng dùng thừng bắt được nó mà, nên anh nghĩ mình có thể sẽ làm được. Nhưng… Con ngựa cái cứ ve vẩy đôi tai, lẩn rất khéo tránh người đàn ông và những lời dỗ dành đường mật của anh ta. Jalmari khẽ chửi thề và trong suốt cả thời gian đó nỗi lo lắng, căng thẳng của mấy tuần chờ đợi phút giây quan trọng cứ sừng sững áng ngự tâm trí anh ta, cứ đứng và đập thình thịch trong mạch máu với tốc độ rất nhanh… Yên nào… yên… Ma quỷ nào có thể giúp ta được đây, nếu ta không bắt được con ngựa kia… nào… lại đây, yên, xuỵt… anh đã đến được sát bên thân con vật và gần như nắm được bờm nó, nhưng rồi, vẫn còn may, là anh không bị nếm cú đá chân sau, bởi con ngựa đã lồng lên. Vậy là chỉ trong chớp mắt nó đã ở phía bên kia của đồng cỏ, lại còn hùng hục liếm cỏ ăn như để trêu tức, rồi khi thấy người đàn ông tiến đến gần lại yểu điệu bước đi như một nghệ sĩ múa. Chúa ơi xin trợ giúp Chúa ơi, người đàn ông đã mất bình tĩnh van nài nhắc đi nhắc lại bằng cái giọng thều thào như của một người đang ốm. - Quỷ tha ma bắt mày đi, - Jalmari điên tiết gào lên, chạy về phía con vật đang trêu ngươi. Không có ai ngoài cuộc chứng kiến cuộc đua điên rồ đó, ngoại trừ mặt trăng rằm đầy quầng xanh. Như để nhìn rõ hơn trăng còn nhô lên thêm một chút nữa ở phía đằng kia trên nền trời màu chì đầy điềm gở. Jalmari, chú bé ngây thơ, tội nghiệp vừa chạy vừa thở hổn hển, thỉnh thoảng lại đứng lại một chốc để có thể nhận rõ hơn tâm trạng của mình. Bởi vì chẳng còn tia hy vọng nào khác. Anh phải làm gì đây nếu không bắt được ngựa. Thế là anh lại xổ ra một tràng chửi thề, một tràng nguyền rủa gần giống cầu xin và than khóc, khi giờ đây anh chỉ còn biết bước nhanh theo sự lồng cỡn của con ngựa cái thất thường. Con ngựa cái cũng làm hệt như vậy. Nó không cho anh đến gần, mà chỉ lúc lắc bước theo đúng tốc độ của người đàn ông đang cố gắng bắt nó. Cho đến khi nó hí lên rồi chạy lồng như tên bắn về phía cổng. Emmi, chị người ở có khuôn mặt lãnh đạm của trang trại Ollila đang đứng đó, tay giơ ra về phía nó. Nhìn cứ như con ngựa không thể kìm được độ phóng của mình và sắp dẫm bẹp chị người ở đến nơi. Nhưng đến phút cuối cùng nó khựng lại, chân cắm về phía trước, cả thân hình gần như trượt đến đứng trước Emmi rồi bắt đầu liếm gặm những miếng bánh mỳ trong tay chị này. Syrjämäki được dịp ung dung bước đến, tròng dây cương qua cổ ngựa. Con ngựa cái không thèm mảy may để ý đến việc làm của người đàn ông. - Cọc rào uốn được hay không hoàn toàn phụ thuộc vào người đàn ông, - Emmi nói và còn thêm vào đại loại, chị ta có thể lấy làm vui sướng đứng nhìn cuộc đua nhảy múa của ngựa và Syrjämäki cho đến sáng mai, nhưng chị ta biết việc này liên quan đến chị vợ Hilja, nên chị ta mới đến và bắt giữ con ngựa lại. 10 Thứ Bảy, khi Arvid quành vào sân trang trại Teliranta, ngay khi xe chưa dừng bánh anh đã kịp nhìn thấy một cánh cửa sổ trong ngôi nhà bé bật mở, một cánh tay thon thả giữ cửa và trong khuôn hé mở của cánh cửa hiện lên khuôn mặt, rất quen thuộc, với những lọn tóc nâu đang được cánh tay kia vén lại, thấy thân hình mặc bộ váy áo hoa mùa hè trong tư thế thể hiện nhiều tình cảm hơn cả một tiếng reo. Trong chốc lát bức ảnh biến mất, Helka từ cửa hiên chạy ra sân đón anh, cô Helka, người quen của anh. Quả thật Arvid đã nhìn thấy bộ váy áo mà Helka mặc, nhận ra ngay bởi nó hoàn toàn khác với bộ cô mặc khi họ gặp nhau lần cuối. Cái váy hè may bằng vải hoa mỏng này khiến người ta có thể mường tượng được rõ thân hình mềm mại của người mặc nó hơn là bộ váy dạ hội tối đó… tối hôm mà anh, Arvid vẫn ngồi trên chiếc ô tô đang tiến về phía cửa, nhìn thấy những đôi giày xanh, trắng, vàng và đỏ đang bước từ mặt phố đi lên bậc cầu thang, rồi mất hút giữa hai cột trụ trắng. Trong sảnh có thể nhìn thấy cả những người đi chúng, giày chỉ như một đề từ ngắn có hai dòng… Nhưng chỉ có đôi giày và đôi chân bước mà anh thấy từ trong ô tô để lại ấn tượng nhiều nhất trong tâm trí Arvid. Anh nhận ra được cả hai ngay khi ở trong phòng khách. Một lúc sau trong tiệc đứng, bằng lời nói và ánh mắt anh đã kể lại điều đó với nàng Helka và ai đó trong đám khách có thể tình cờ nhận ra những thay đổi trên nét mặt hai người, hoàn toàn không bình thường trong bối cảnh như thế, nhưng cũng lúc đó bà chủ nhà tiến lại gần nhắc cả hai nhớ lời họ đã hứa. Rồi sau đó, trong thời gian chính của buổi dạ hội… Người thiếu nữ ấy đang tiến lại trong bộ váy hè mỏng nhẹ, nước da rám nắng. Sao sự tương phản - hay nói đúng hơn sự giống nhau lại có thể làm con tim run lên như vậy. Helka - cô ấy đệm không thể chê trách được, dù Arvid đã để cho cây violon trêu cô tí chút, lúc đó hơi khuya rồi, khi cả hai còn ngồi lại trong phòng khách xa xa bàn bạc đôi chút… Nhưng Arvid vẫn nhớ vào cuối buổi diễn người đệm cũng đã đôi chút đáp trả sự trêu chọc bằng các nét lướt cùng hợp âm… Rồi muộn hơn chút nữa cũng chỉ có hai người trong phòng sách, họ nói chuyện trong ánh sáng của chiếc đèn có chao màu vàng trên bàn đọc. Lúc đó lời hứa bằng nửa từ đã được nói ra, lời hứa mà bây giờ anh đang thực hiện. Bằng lời hẹn ước nửa vời như thế mà rẽ vào một trang trại chưa một lần đến thật không phải chút nào. Nhưng ở đây người đến đã nhận được ánh mắt như đang mở cho anh mọi cánh cửa, nồng nhiệt chào đón, gần như ôm ấp. Một ánh mắt, một cái gật đầu mà Helka trao anh tối đó khi cô rời phòng sách trước anh, đầy ắp hứa hẹn. Bây giờ cả hai điều đều được khẳng định. - Bà ơi, đây là người khách mà một đôi lần cháu đã kể. Arvid nhìn thấy khuôn mặt nghiêng nghiêng của Helka, bên thái dương, chân mày, cái miệng đang nói, hàm răng, nhìn thấy trong sân của một trang trại nông thôn, trong ánh nắng ngày hè, rồi anh nhìn thấy một bà già lưng hơi còng trong khung cửa bên của ngôi nhà. Nghe câu Helka nói, bà tiến đến trước người khách, đưa tay cho chàng trai bắt và nói: - Mừng cháu đến chơi. Rồi bà chủ già đi trước về phía cửa chính. Bà bước chậm rãi, vì vậy Arvid còn kịp nhìn xung quanh, nhận ra ngôi nhà thứ hai lớn hơn nhiều, ngắm phong cảnh trải trước mắt. Anh không nhìn Helka nữa, họ cũng không nói thêm với nhau lời nào. Bà chủ già và ánh mặt trời kết nối họ. Lúc sau Helka có cớ để biến khỏi tầm nhìn của khách. “Cô phải giúp bà chứ.” - ở nông thôn người ta có thói quen để khách một mình lúc khách mới đến, bà chủ già nói vậy khi đi lấy một cái gì đó ở bên phòng lớn, nơi Arvid được dẫn vào. Nhưng cũng chỉ lúc sau Arvid đã làm quen với những người trong gia đình ở bên nhà lớn và buộc phải tắm mình vào bầu không khí ở trang trại. Điều này diễn ra ngoài sân vì anh vẫn chưa được mời vào trong nhà. Ngày chuyển sang hoàng hôn. Bãi chăn thả của trang trại ngày càng nhộn nhịp: nào đàn bò, những người đàn ông, những cô gái ở; người ta nhắc đến sauna, buồng ngủ mùa hè, nơi nào đó còn thấy nói đến buổi đi lễ nhà thờ - vào sáng mai. Buổi tối thứ Bảy trôi qua. Arvid cảm thấy vô cùng dễ chịu, hay nhất là anh thỉnh thoảng mới nhìn thấy Helka, một thoáng thôi. Một lần cô gật đầu với anh từ trên bậc cầu thang của nhà bếp. Lúc đó cô đang quàng trên người cái tạp dề lớn màu trắng. 11 Không thể nói gì nhiều về việc ngủ nghê, nhưng vào mùa này trong năm và ở đây, nơi thôn dã này - cả vào độ tuổi này nữa - thì cần gì ngủ chứ. Phòng nằm trong góc cuối cùng của ngôi nhà nơi bà chủ già ở được dọn dẹp làm nơi ngủ cho khách, anh Arvid. Một phòng khách trống trải thơm mùi lò sưởi bằng sứ lành lạnh, tường gỗ mộc không sơn đã ngăn cách phòng góc này với nơi ở của bà chủ già, trong đó có phòng ngủ của Helka. Đã quá nửa đêm nhưng người khách vẫn khẽ khàng đi lại trong phòng. Đó là căn phòng rộng, với hai cửa sổ ở mỗi bức tường bên của phòng. Cũng như những cửa sổ khác ở ngôi nhà này, từ tuần này sang tuần khác bốn cửa sổ được che bằng những tấm ren được hồ bột, trắng tinh và thuần khiết. Ở cả hai tường cuối của phòng đều có cửa ra vào. Một trong hai cửa mở ra hành lang rộng, từ đó đến hiên có mái che được ghép bằng các tấm ván kêu cót két vui tai. Trong hàng chục ô nhỏ của các cánh cửa sổ hiên nhà, ở những nơi nhất định, đây đó lại có một ô được sơn màu đỏ sậm hay màu xanh dương. Sau một lúc đi lại trong phòng, khách muốn bước ra sân cũng được, vì nếu như trong nhà mọi người đã ngủ cả thì không ai có thể nhìn thấy. Cánh cửa từ phòng khách dẫn ra hành lang khe khẽ mở hé, ai đó mờ mờ hiện ra nơi khung cửa mở. Bóng tối nhập nhoạng khiến người trong phòng phải gắng nhìn lắm mới nhận ra. - Anh không ngủ được ư? - Tôi vẫn chưa muốn ngủ. Người hỏi đứng lại bên cửa và cũng từ đó hỏi vọng vào. Cô tựa người vào mép cửa, mảnh dẻ, dịu dàng. Trong ánh sáng mờ mờ và với dáng người như thế trông cô hoàn toàn mới lạ. Số phận của hai thanh niên dịch chuyển đến gần nhau bằng sự nhẹ nhàng, sức quyến rũ, những điều đặc trưng của sức mạnh cao quý. Sự gặp gỡ này xảy ra từng bước, từng bước và ngày càng mạnh mẽ hơn. Thiếu nữ đứng trên bậc cửa, trong ánh sáng mờ ảo, nhưng cánh cửa mở hé đã ở phía sau cô. Bởi vì cửa mở ra phía mà cô đi đến. Chàng thanh niên trả lời bằng giọng nghiêm túc đến kỳ lạ: “Tôi vẫn chưa muốn ngủ.” Anh xê dịch một chút về phía thiếu nữ đang đứng, nhưng với động thái giống như điều anh lưu tâm nhất bây giờ là hơi thở của đêm hè. Anh nhìn, lúc thì phía này, lúc lại phía kia của phòng khách, cứ như chỉ muốn tiếp nhận tất cả những gì mà bầu trời phía nam và phía bắc cho anh. - Ai có thể ngủ được cơ chứ, khi một thực thể như thế, ánh hoàng hôn lấp lánh như thế, bóng ma đầy quyến rũ cứ thức trực xung quanh nơi ngủ, chơi giai điệu thật thấp và thật cao, đến mức đôi tai không thể cảm nhận được. - Thế làm sao anh biết được là giai điệu đang vang lên? - Tôi nhìn thấy từ trong mắt em, không phải một lần em đã đệm cho tôi đấy ư! Cuối cùng thiếu nữ đã như lơ đãng bước qua ngưỡng cửa cô đang đứng. Cô khẽ khàng khép cánh cửa lại phía sau mình. Lời nói của chàng trai làm thiếu nữ xúc động… tiếng đàn đệm… nhạc không âm thanh đã ngân vang. Thiếu nữ cảm thấy cô lại bị giai điệu đó làm mê hoặc, giống như lần giữa mùa đông ấy - khi cô đệm đàn. Vào giây phút này cô lại vô cùng xấu hổ khi nhớ đến lần chơi nhạc chung ấy. Cây violon của anh giống như của nhạc công di gan đã réo rắt vào tai cô những điều mà nếu như được nói lên bằng lời bình thường - hay bằng hành động - thì… Lúc ấy cô đã cố gắng, đánh các hợp âm với nỗi thất vọng vô bờ, nhưng rồi khi bản nhạc kết thúc - bản nhạc chấm dứt bằng hợp âm đệm thì thầm mềm mại - cô lại cảm thấy mình đã đổi thay khi đứng lên rời khỏi cây đàn piano. Rồi trong phòng sách, cô vẫn nhớ như in những đồ vật trong đó nhìn thế nào. Và bây giờ chàng trai lại như vậy, vẫn con người ấy, vẫn dáng vẻ đàn ông ấy, vẫn hợp âm ấy trong bản nhạc của anh, cho dù âm rung ở thật sâu và điều tuyệt vời nhất: không có người lạ nào. Cả ngày vừa trôi qua là gì chứ? Có thể là gì khác hơn sự chuẩn bị cho điều này. Liệu có duy nhất một điều gì không, dù là bé nhỏ nhất, một ý nghĩ vô tình, một từ hay một hành động nào mà không chuẩn bị cho điều chẳng thể thay đổi này? Liệu trong cả cuộc đời có suy nghĩ gì, lời nói, hành động nào khác không ngoài những việc đã dẫn đến kết cục này - trong cả cuộc đời? Phải, bởi vì đó là, đã là… người ấy. Bàn tay trái của thiếu nữ nhẹ nhàng đặt lên vai phải của người ấy khi họ đứng bên nhau nhìn ra ngoài sân… Khuôn mặt cô sát bên khuôn mặt người ấy, tựa một bức tranh đôi được khắc nổi nguyên và sáng, với ánh hoàng hôn lấp lánh, “bóng ma đầy quyến rũ”, cái đêm hè phương bắc không biết nói này làm nền… Anh đứng đó… người yêu dấu… người đàn ông… người ban ngày đã có một cái tên nhưng bây giờ thì không… người ở ngoài đời “đã có một nghề”, người mà cô đã luyện tập giai điệu tuyệt nhất dành cho anh… ồ, không, không gì cả… chỉ là tâm trạng này. Chỉ là trạng thái kỳ diệu, gần như mê mẩn này… Mặt trời lại lên, có thể làm gì được với điều đó cơ chứ. Sân nhà trở nên đỏ hồng huyền bí, điều kỳ quặc nhất vẫn là những nơi thường được chiếu sáng bây giờ lại chìm trong bóng râm, còn những nơi khuất nẻo lại bắt đầu ngày càng sáng rực lên. Buổi tối ngày qua, chỗ chúng ta ngồi, đâu cả rồi? Lẽ nào ở khuôn viên này ư? Sao tôi lại đến được nơi này? Trên những con đường nào vậy? Nhờ những tình cảm gì? Chúng mình vẫn còn thức và không ai khác biết điều đó. - Em ngủ ngon nhé, - người kia nói. Nhưng anh nói trong tư thế khiến cô thiếu nữ chẳng thể đáp lại bằng lời. Một sự tĩnh lặng hoàn toàn kéo dài trong gian phòng ngập tràn mùi hương tinh khiết của gỗ và quần áo sạch, nơi không biết bao nhiêu thiếu nữ đã được khoác lên người bộ váy áo cô dâu ngày cưới. Rồi tiếng chân bước khẽ khàng rón rén vang lên, hai cánh cửa từ hai phía được khép lại. Ngày đang trừng phạt đấy - trừng phạt bằng cách để họ - những người không chịu ngủ phải nhớ họ là ai: nhớ tên nhau và nhớ tất cả… Nhưng rồi giấc ngủ cũng đã kịp kéo rèm che để ngày mai lại mở cửa đón chào những sự tình mới, khẳng định những việc xảy ra đêm nay. 12 Sáng Chủ nhật, thong thả, tha hồ nấn ná trong giường, kể cả chủ lẫn khách. Arvid từ cửa sổ nhìn ra sân. Trời có vẻ khô ráo, sáng sủa, ngập tràn ánh nắng. Anh cảm thấy như mình không đáng được hưởng ngày đẹp nhường này. Đây đúng là buổi sáng mà họ, những người đi ngủ muộn nhất đã nhìn thấy và đã kinh ngạc trước vẻ khác lạ khi ánh sáng cùng bóng nhập nhoạng sắp đặt các vật thể trong sân. Bây giờ cảnh quan giống hệt như hôm qua từng có. Nhưng cô hầu gái lại khoác một tạp dề trắng tinh trước ngực, nụ cười cô đậm đặc sắc Chủ nhật khi cô chào già Manu lúc lão đến nhà gặp ông chủ. Vào buổi sáng Chủ nhật này Helka thức dậy muộn nhất trong cả nhà. Ông chủ, Arvid cùng nhiều người đàn ông khác đã dậy đi bơi, uống cà phê sáng và đi kiểm tra mức độ trổ bông của lúa mạch để che giấu bầu không khí Chủ nhật tuyệt vời này. Lúa phần lớn đã làm đòng - vào một buổi sáng đẹp trời nào đó phấn hoa đã bay theo gió - nhưng nếu ta nhìn bông ngược ánh mặt trời, có thể thấy ở nơi gần thân lúa màu hoa vẫn còn sẫm tối - nơi đó nhị vẫn chờ để thụ bông, nếu như phấn hoa trong thời khắc nào đó bay đến được. Điều chính vẫn là sáng ánh mặt trời lấp lánh lào xào xì xạc, như đang lùa không khí ra khỏi đường của mình để cho mọi sinh vật: cỏ cây, các loài bướm và cả con người được hít thở khí trời. Người từ tứ xứ đến làm nhà nhộn nhịp hẳn và buổi sáng mai ngập tràn ánh nắng đã gắn kết họ lại với nhau. Cuối cùng Helka cũng thức giấc, khi người ta thức cô dậy. Cô chợt tỉnh khi nghe có tiếng hát: phải rồi bản dạ khúc vang lên trong sân trang trại nông thôn, vào lúc mười giờ sáng Chủ nhật! Âm thanh luồn lách vào tai như ánh nắng ban mai rọi vào mắt trong những buổi sáng khác. Và rất nhanh các ca sĩ được nhận phần thưởng cho mình: họ nhìn thấy qua kẽ hở tấm rèm che khuôn mặt yêu dấu với tất cả mọi người, mỗi người theo một cách riêng: những lọn tóc nâu mềm mại, đôi mắt to với con ngươi màu nâu nhạt, cái cằm cùng lúm đồng tiền phía bên một khóe miệng. Các ca sĩ không nhìn thấy nét mặt của nhau, nhưng người được nhận bản dạ khúc thì có. Nhìn ông cậu da rám nắng kìa, sao cậu thân thiết ngân vang giọng mình đến thế, nét mặt cậu mới đáng yêu làm sao! Có thể thấy cậu đang sống lại thời thanh niên của mình. Hai cậu trai trẻ đang thực tập cũng cố gắng để chứng tỏ mình, nhưng có lúc vẫn buộc chủ trang trại và Arvid phải đưa mắt nhìn nhau đầy ẩn ý. Helka nhìn họ. Trong giây phút, ánh mắt cô dừng lại nơi ánh mắt cháy bỏng, nồng nàn. Các ca sĩ nhìn thấy mái đầu giữa khe rèm khẽ gật, rồi từ phía bên xuất hiện bàn tay rồi cánh tay như đang cố tạo hình ngọn nến lên trên bậu cửa sổ. Khi bài dạ khúc chấm dứt, cả bốn ca sĩ đều lần lượt được nhận một cái nháy mắt, cùng khi đôi môi của người trong nhà nghịch ngợm áp vào kính cửa sổ. Bà chủ nhà chợt đi qua và nhìn thấy điều ấy. Bà liếc nhìn các ca sĩ, nói: - Ôi chao, Helka hôm nay mới đúng thật là mình. Rồi bà mời mọi người ra ăn sáng, ai kịp đi trước thì đi. 13 Lại đến lúc cả nhà ngồi quanh bữa sáng với vẻ giấu giấu diếm diếm của ai đó và biết hết cả rồi của mọi người. Helka có vẻ hăng hái tham gia chuẩn bị bữa trưa. Cô chỉ vui vẻ gật đầu chào Arvid, người khách, cứ như hai người chẳng hề gặp nhau trong buổi ngắm sân đêm qua. Bà ngoại cũng khoác bộ váy áo ngày lễ lên người. Bà lấy đàn chim én ra để nói. - Ta thực sự không hiểu, nhưng kể từ khi ta về ở trong trang trại này, chúng luôn luôn làm tổ ở những chỗ đó. Nếu ta nhớ đúng thì hơn sáu mươi năm rồi đấy. - Nếu vậy thì quả thực chúng là én cụ rồi, - chủ trang trại nói. Trang trại này đã có từ lâu và luôn do một dòng họ làm chủ. Việc của trang trại cũng được nói đến trong bữa chính khi cả nhà ngồi quanh bàn, theo từng nhóm nhỏ. Helka giải thích trang viên của dòng họ cô đúng ra không phải ở đây, mà là ở phía khu Pahanoja, hè nào cô cũng sang đó thăm, nhưng năm nay cô chưa có dịp qua đó. Ngày hôm nay thật đẹp, chính ra có thể đi được. - Em cho anh đi cùng chứ? Mọi người ai cũng nhận ra Helka và Arvid, người khách, bây giờ đã xưng hô với nhau rất thân mật, dù tối qua khi chia tay nhau họ vẫn chưa hề như thế và không ai trong những người ngồi đây chứng kiến khi điều này được thỏa thuận. Nếu ai đó, nhất là trong đám thanh niên, mới đầu định đi cùng Helka, thì sau câu đề nghị của người khách, sẽ thấy ý định của mình thật không hợp chút nào. - Sao lại không, anh đi cùng nhé, - Helka trả lời. Ông chủ trang trại - người cũng nhận ra sự thay đổi nhỏ đó - thấy tốt nhất là nên tiếp tục câu chuyện. Ông bắt đầu giải thích về những dấu vết, di tích còn sót lại ở nơi Helka vừa nhắc đến. - Thật ra bây giờ cũng không thể biết rõ ngọn ngành, nhưng chắc chắn nơi ấy đã từng có trang viên với đồng đất xung quanh. Rồi vào một lúc nào đó trang viên ấy được hợp nhất với trang trại Teliranta này. Ở đây chẳng có một trang viên khác với tên gọi Nunna đó sao. Và Helka đã được nhận quyền sở hữu trang viên đó, hay nói đúng hơn là khu đất đó. Vậy nên chúc mừng cháu, cô chủ Nunna. Mọi người nồng nhiệt nâng cốc chúc mừng. 14 Chẳng có nhiều thứ để nhìn ở nơi trú ngụ ngày xưa ấy, nhưng bản thân mảnh đất - một đồi đá nho nhỏ nhấp nhô, tại một điểm hẹp có thể nhìn xuống hồ nước - lại rất đẹp. Những đống đá nhỏ nằm lẫn lấp ló dưới lớp cỏ cho thấy chúng là chân tường đá và góc nhà xưa. Mấy cây cổ thụ đứng rải rác ở đỉnh đồi bảo rằng ngày xưa con người đã thỉnh thoảng để tâm đến chúng, chứ không bỏ mặc như mấy cây bạch dương hay cây thông phía xa xa. Những cây trồng từ ngày xa xưa nay sừng sững đứng giữa mảnh đất cây dại mọc um tùm, giống như nhân chứng của thời đã qua bây giờ chào khách đến thăm, những người nhìn thật khác so với những người đầu tiên đã trống và chăm sóc chúng. Có ngôi nhà mái lá cũ kỹ đổ nát đứng dưới chân đồi và bên vách nhà lúp xúp mấy bụi hoa dại. Những cây hoa chuông tím và những chùy hoa chuyển sang sắc tim tím của loại cỏ may chắc sẽ chẳng mọc được ở đây nếu không có kho chứa củi này. Còn có cả cỏ ba lá vừa mới nở hoa đỏ rực như máu. Helka cúi người nhìn kỹ đám cỏ mọc bên sườn đồi. - Chưa, dâu rừng vẫn chưa chín. - Phải rồi, đại mạch cũng đã trổ bông hết đâu. - Không có lẽ. - Chưa trổ bông hết mà. Anh mới xem sáng nay. Ít nhất thì một phần năm số bông vẫn chưa ngậm đòng. Thì ít nhất cũng phải nói gì chứ. Họ đến đây vì công việc mà. Họ ra về. Arvid nhìn người đi bên cạnh mình, lại nhớ đến lần gặp cuối cùng của họ hồi mùa đông trong thành phố. Thật là diệu kỳ, làm sao mà thân hình ấy, khuôn mặt ấy lại có thể hợp với bãi cây lúp xúp nơi cửa rừng cùng con đường mòn ngập cỏ họa hoằn lắm mùa hè mới có người đi đến thế. Cô bước những bước dài, cố gắng theo kịp nhịp bước của người đi cùng. Nơi đây trong bóng râm của rừng đi đứng thế nào chả được. Có ai theo dõi ngoài con chim đớp ruồi vừa bay vèo qua đó. Trong đám cỏ ven đường có thể thấy bông cúc dại vàng tươi và hoa mao lương vàng cằn cỗi. Đường về lẫn vào cánh đồng cỏ cao ngút, chỉ có khoảng trống dẫn đến rừng cho thấy hướng đi. Cánh tay trái đang khoác tay Arvid của Helka đột nhiên cứng lại, cứ như cô vừa chợt nhìn thấy điều gì lạ lắm. Khi chàng trai cảm thấy điều đó và đứng lại, cô gái bật cười khúc khích. Tiếng cười vang lên như những giọt vàng, cánh tay rút ra rồi quàng lên cổ người thanh niên. Thiếu nữ hôn lên môi chàng vệ sĩ cạnh mình. Họ đi thăm nơi ở xưa, nay đã thành phế tích của dòng họ. Chuyến viếng thăm đã xong. Từ nơi đó về họ hoàn toàn đổi thay. Chàng thanh niên nắm đôi vai người thiếu nữ của mình, bóp có phần hơi mạnh, đoạn nhìn cô với cái nhìn hệt như lần đó sau khi cùng nhau chơi đàn. Anh hỏi: - Em yêu anh chứ? - Em có thể làm gì khác được! - và niềm vui trào dâng như chen lẫn với tiếng nức nở… Rồi cái nhìn dừng lại trên cánh hoa môi tầm thường tím xanh, im lìm giữa đám cỏ trên đồng. Trông nó giống như cánh bướm rơi. Hay giống một con mắt, một con mắt đã chứng kiến sự việc vừa xảy ra. Họ rời hàng rào gỗ tiến vào đồng cỏ. Từ nơi đó đã có thể thấy nhiều khu nhà, cả xa và gần. Phía trước trên nền trời phía nam màu chì càng đậm đặc hơn, còn phía sau đã có thể thấy màu vàng của đêm. Mặt trăng chắc còn phải chờ lâu hơn nữa. Họ tiếp tục đi, mỗi người một bên lề con đường đất sét khô kêu lạo xạo dưới chân. Các bụi hoa mọc đầy cả hai bên đường, càng ngày càng đủ màu sắc rực rỡ. Phía bên Arvid, bên trái theo hướng họ đi, đường bị lún xuống. Nơi đó có cây dương nhỏ nhưng lá rất to. Còn giữa chỗ lún cơ man nào là hoa môi tím, hoa tràng sao trắng, cỏ ngỗng, các loại hoa chuông. Nơi đó còn có mấy cây kế sắp nở hoa, loại hoa đẹp nhất chốn sườn đồi rậm rạp: hoa màu tím, lá phía trên xanh thẫm, phía dưới gần như màu trắng và nếu như bạn có bẻ cành thì cây tràn ra dòng nhựa trắng đục. Phía bên kia đường là cánh đồng lúa mạch với những bông lúa đã trổ đòng thô kệch mập mạp. Rải rác đây đó những cây ngò dại hoa đã tàn và những quả hạt chắc mẩy nằm dưới tán lúa cao cao. Trên con đường giữa những cánh đồng lúa tươi tốt, dáng đi của Helka lại khác hẳn so với lúc cô đi trên con đường rừng cỏ mọc dày mềm mại. Nơi ấy Arvid nhìn thấy đôi chân cô như đang lướt trên sàn nhảy. Mỗi một bước nhảy như tự hào bày tỏ tôi là người như vậy đấy. Còn bây giờ cô cũng không muốn nói chuyện nhiều với người bạn đường sau cái hành động lúc trước, mà chỉ hát thầm khe khẽ, nhấc mũ khỏi đầu rồi vung vẩy nó theo nhịp bước chân đi. Mỗi khi người bạn đường hỏi điều gì để nói chuyện, cô đều trả lời nhiệt tình, nhưng có thể thấy rất rõ, trạng thái hạnh phúc của cô đang lang thang ở một nơi nào khác. Đây là đường trở về mà người chèo thuyền nhìn thấy từ trên hồ và câu chuyện ở trên là những điều xảy ra lúc trước. 15 Họa sĩ - người đàn ông trầm lặng và nhạy cảm - đêm nay ông cũng lang thang ngoài trời cho đến sáng. Có biết bao nhiêu người lang thang như thế trong đêm hè Phương Bắc, nhất là ở vùng đất thiêng liêng này. Có nhiều và đủ loại lý do để dẫn đến việc đó, nhưng điều kiện khách quan thì ai cũng như ai, hôm nay cũng như những năm tháng đã qua: đó là đêm trắng. Người ta bảo ông là họa sĩ, bởi vì ông đã học qua nghề vẽ, cũng bởi đôi lúc người ta thấy ông vẽ cái gì đó: phong cảnh, những đàn gia súc trên đồng cỏ, một người dân nào đó ở địa phương mà ông đã can đảm mời làm người mẫu và người đó chấp thuận. Ví dụ như lão Manu già ở Teliranta đã được ông vẽ biết bao nhiêu lần trong bao nhiêu tư thế và bao quần áo khác nhau trên người, ngay cả khi không quần áo: ngồi trên ghế băng sauna phết chổi lá lên người… Ông cũng cho xuất bản nhiều đầu sách mà không ai có thể phủ nhận sự tinh tế nhẹ nhàng cùng tính sang trọng của chúng, nhưng cũng chẳng mấy ai đọc - và đại loại như vậy. Ông chính là người đã chèo cái thuyền đáy đỏ, mạn trắng tối hôm qua. Ông thích ở ngoài trời nhiều hơn là trong nhà. Tất nhiên ông có nhà và gia đình. Ông sống cách Teliranta một quãng đường, trong ngôi nhà nhỏ thuộc một trang viên cô độc. Vợ ông đã gần như tự ý mua ngôi nhà đó, khi ông chủ đã nghỉ hưu của trang viên chết thảm cùng bà vợ của ông ta và ngôi nhà bị bỏ trống. Cho đến lúc đó hai vợ chồng họa sĩ vẫn sống ở làng quê của ông, trong duy nhất một căn phòng. Ở đó đã từng xảy ra biết bao điều, tạo bóng đen không thể xua tan khỏi cuộc sống gia đình ông - chắc cho đến khi cuộc sống ấy kết thúc. Thời gian và cách chấm dứt cuộc sống gia đình này, cũng như của bao gia đình khác còn chưa thể biết được, nhưng vào những ngày gần đấy, nó trở nên rõ hơn bao giờ hết và kỳ lạ thay có thể đoán định được. Có lẽ với người khác thì không, nhưng với họa sĩ là như vậy. Dấu ấn của tuổi tác thể hiện rõ ở ông trong vòng thời gian rất ngắn. Ông không phải chịu thiếu thốn gì cả, bởi ông tuy có ít bạn, nhưng lại là những người có uy tín và những người coi trọng tác phẩm của ông - nhưng ông, họa sĩ - đôi lúc ông cứ thơ thẩn như người quẫn trí. Họa sĩ chèo chầm chậm, ngắm nhìn bóng trang trại Teliranta in xuống mặt nước đang dần dần lắng lại. Ông thấy bóng người đi lại và tưởng tượng cuộc sống của họ thật sôi động, hạnh phúc. Nhìn ngắm thiên nhiên và cuộc sống của con người đã trở thành niềm đam mê đến đau lòng và nho nhỏ của họa sĩ trong mùa hè này. Đi lại giữa thiên nhiên khi mùa hè đến, dù là ban ngày hay trong đêm tĩnh mịch đều làm ông thấy mình như được lột xác, như một con thú nhỏ đã tìm được nơi ẩn náu. Bây giờ ông ngồi trên thuyền, đôi lúc lại giữ mái chèo là là mặt nước, ánh mắt thật buồn dưới vành mũ hơi cũ làm ta có cảm giác như mắt cũng nghe được: đó là ánh mắt chân thành, hơi nghiêm khắc và vô định. Đúng thật ra người đàn ông đang nhìn dọc theo biển lúa mì chạy dài đến chân trời vàng rực, nhưng ánh mắt chỉ lấy đó làm điểm tựa. Còn đích thực nó đang rọi sâu vào thế giới tâm linh. Dưới ánh hoàng hôn, biển bông lúa trên cánh đồng yến mạch tháng Bảy càng lan trải rộng. Đó là một hình ảnh héo mòn trong giai đoạn nào đó của cuộc sống. Lúa mì đang chín, lúa mì đang chín, hay ít nhất đồng lúa đang chín trong quy trình không thể trì hoãn. Vầng mặt trời đang lặn kia ngắm nhìn đồng lúa, cân nhắc như một người chủ trang trại đầy sức mạnh đang canh tác cánh đồng và duy trì dòng họ theo quy tắc nhất định. Nếu tâm trạng người đó thi thoảng có lúc buồn bã mềm yếu thế này thì lập tức sự hiện diện của con trai con gái sẽ làm họ hạnh phúc. Bởi vì con cái sẽ kính trọng công sức cha ông, sẽ tiếp tục cày sâu cuốc bẫm trên cánh đồng. Họ sẽ được mùa vì mưa thuận gió hòa, ngay cả trên cánh đồng và trong tâm hồn họ. Người họa sĩ ngắm nhìn, tưởng tượng số phận của những người nông dân, thường thì tròn trịa, hoàn hảo hơn là cuộc đời thực sự của họ. Còn bản thân mình, ông không có gì khác ngoài những gì trong ngôi nhà ngang tại trang viên Majanmaa. Và điều đó thường họa sĩ không nghĩ tới, khi ông để cho cặp mắt mình nhìn chằm chặp vào biển bông lúa cùng ánh mặt trời đang lặn. Họa sĩ bừng dậy, bứt khỏi mộng mơ khi nghe tiếng mái chèo khỏa nước đều đặn. Ông quay nhìn, thấy Hilja nhà Syrjämäki đang tiến dần đến phía sau. Nhìn dáng vẻ biết ngay là chị đang chăm chăm nhằm hướng Teliranta chèo tới. - Đi đâu mà vội vậy? - Công việc phải vậy. - Khi nào tôi được đến vẽ bức tranh treo gian thờ, Đức Mẹ Maria và hài nhi đang bú đấy? - Bộ ngực trần của tôi sẽ không được treo lên cho thế gian nhìn thấy đâu. Ông họa sĩ có Maria của ông ở nhà đó thôi. - Thì… Nhưng chẳng lẽ tôi không được đến thăm cháu bé hay sao, khi nó đã cứng cáp đôi chút. - Việc đó thì được, khi đến dịp. Thiếu phụ nghèo xinh đẹp chèo ra xa. Có thể thấy chị vừa hơi khó chịu vừa thấy buồn cười trước cái nhìn của người họa sĩ. Ngay cả bây giờ, trong thể trạng này vẫn thấy rõ được nét xinh đẹp đặc biệt nơi cánh mũi hay bên góc chân mày. Cái nét xinh đẹp đã phần nào làm sự vui vẻ trong cách nói thường ngày rất cứng cỏi của chị mờ đi. Vào kỳ thai nghén, hai gò má hồng lên như hai bông hoa được bao quanh bởi làn da nâu nhạt mịn màng. Họa sĩ ghim mái chèo, có lẽ ông định bí mật chèo lùi thuyền lại để kéo dài cuộc nói chuyện vừa rồi. Một cảm giác thơ trẻ mới lạ tràn ngập tâm hồn người đàn ông cô độc khi ông nhìn người phụ nữ đang chèo dần ra xa. Những đường nét đặc biệt của khuôn mặt dần dần nhòa đi khi khoảng cách ngày một lớn, chẳng mấy chốc chỉ thấy phản lại sắc đỏ hồng của mặt trời đang lặn, cũng giống như sắc đỏ chiếu trên tường kho củi của trang trại Teliranta hay trên bộ váy áo của thiếu nữ đang đi trên cánh đồng. Người thiếu phụ đang chèo thuyền với chiếc thuyền nhỏ và mái chèo nhịp nhàng là điểm di động trên mặt nước hồ đang như gợn sóng nhè nhẹ. Người đàn ông cô độc đang ngồi trong chiếc thuyền của mình - phải, cho dù công việc của ông có thế nào đi nữa - thấy thực sự được nghỉ ngơi trước bức tranh rất giản dị đó. Ông cứ chèo thuyền đi chèo thuyền lại, chẳng có hướng rõ ràng. Một điệu nhạc không lời vang lên sau phút nói chuyện ngắn ngủi nọ, điệu nhạc chậm rãi mang đầy âm hưởng dân ca đang ngân nga đằng sau cặp môi mím chặt, mái chèo chậm rãi nhắc lên sau mỗi một nhịp ba và chiếc thuyền tiến lên, rời khỏi nơi vừa chứng kiến những sự việc xảy ra. 16 Buổi tối Chủ nhật này họ lại ngồi trong sân của trang trại Teliranta như hôm qua, nhưng bây giờ bao việc đã khác trước. Hôm nay là Chủ nhật, một ngày Chủ nhật trọn vẹn cuối cùng của mùa hè này. Ai cũng biết vậy. Cũng vào tối Chủ nhật như thế này của tuần sau họ đang ở cánh đồng này và cánh đồng nọ, nơi ấy giờ đây trọn đêm hè yên tĩnh đang nhẹ nhàng tiến đến. Nhưng tuần sau thôi khắp các cánh đồng sẽ là những hàng cột cỏ cao to cùng những cái bóng của chúng. Vì là ngày Chủ nhật nên váy áo họ mặc lên người cũng khác. Mà hình như ngay cả trong dáng đi thủng thẳng chậm rãi của đàn bò cũng có gì đó rất trang trọng, khi người ta lùa chúng về để vắt sữa tối. Và các thiếu nữ cũng mặc những bộ váy áo đẹp lên người khi họ xuống thuyền chèo sang đồng cỏ bên kia hồ vắt sữa đàn bò bên đó. Cứ như sự trông đợi buổi tối Chủ nhật đang rạng ngời khắp nơi. Bà ngoại, bà chủ già của trang trại lại ngồi nơi bậc cầu thang của mình, vừa âu yếm nhìn Arvid, một người khách mà bà không biết gì hơn ngoài việc đó là một thanh niên trẻ tuổi, vừa nói - không rõ bà nghe thấy việc này từ đâu: - À, vậy đấy, các cô cậu cứ thì thào to nhỏ trong phòng khách cho đến khi mặt trời lên thì làm sao bà ngủ được. Có hai người thợ thả gỗ tiến vào sân phía bãi gia súc, tay họ cầm đầy bình. Bà chủ trẻ phải đứng dậy, tiến lại gần để hỏi. - Không biết bà chủ đã có sữa tươi của ngày hôm nay để bán chưa? - Một trong hai người nói vọng vào. Người đàn ông để đầu trần, mái tóc sáng màu được chải bồng lên cẩn thận và ánh mắt xanh dương nhạt, như luôn tìm kiếm một cái gì. Trông anh ta không giống người thợ thả gỗ chút nào. Ngay cả các thiếu nữ vắt sữa cũng biết tên anh ta. Anh ta là Yrjö Salonen. Anh ta đến từ cái phà thứ ba, cái đang thả neo ở phía dưới cánh đồng Heikkilä. Vì ngược gió nên mấy cái bè thả gỗ phải đậu lại trên vùng hồ này đã mấy ngày nay. Hôm nay cuối cùng trời cũng lặng gió, nhưng lại là Chủ nhật, nên không thích hợp để nhổ neo trước khi trời tối. Những người thợ thả gỗ hay mua sữa ở những trang trại gần nơi thả neo. Những người đàn ông ở phà này lấy sữa từ trang trại Teliranta. - Thế anh Jukka nhà Mettälä về thăm nhà đã quay lại phà chưa? - Một trong hai cô vắt sữa hỏi hai người đàn ông. - Một khi đã về với vợ thì cái gã quần rách ấy làm sao mà quay lại sớm thế được. - Yrjö Salonen đáp. Cô gái hỏi vậy vì gã Mettälä là chồng của người bà con nhà cô, ở làng thứ ba phía bắc trang trại này. - Anh ta chẳng rách rưới hơn các anh là mấy - cô gái trả lời. Mấy gã đàn ông lấy sữa và rời trang trại. Tiếng kẽo kẹt của giá gác chèo vọng lên đều đặn từ mặt hồ. Mặt trời từ từ lặn khi họ nói chuyện với các cô vắt sữa. Một mảnh trăng hiện ra trên bầu trời trước khi những người thợ về đến phà của họ. 17 Trăng đã lên và trong chốc lát ngắm nhìn xem các sự kiện của tối hôm nghỉ ngơi này sẽ phát triển theo hướng nào. Trong lúc ấy Mettälä trở lại phà. Anh ta đang hơi ngà ngà say, mà vẫn còn chút chất cay trong túi. Và anh ta rủ mọi người đi xuống làng. Đặc biệt anh ta cứ lôi kéo Salonen. Còn anh thanh niên này cứ nhảy lò cò, huýt sáo liên tục và không nghe thấy nhiều lắm những gì mà Mettälä nói. Nhìn bề ngoài Mettälä khác hẳn Salonen. Anh ta to xương, hơi ngốc nghếch và thích đao to búa lớn khi nói. Con ngựa mấy ngày nay đứng chồn chân dưới mái nhà kia là của anh ta. Nhưng tối nay chắc chắn nó sẽ được kéo dây tời cho phà. - Đi nào, đi nào Nokia! - Mettälä vẫn cứ mời nài. Salonen được gọi là Nokia, bởi vì một lần cậu ta có kể rằng mình được sinh ra ở khu công nghiệp nơi đó. - Thôi đi anh, anh đừng có lải nhải mãi thế, một khi tôi đã bảo là tôi không đi. - Nokia gắt lên. Cậu ta cáu kỉnh bởi một lẽ cậu ta - lưỡi thò ra ngoài một bên mép, đang chăm chăm nhằm một điểm nhất định trên tường để phóng dao đến. Đây là trò giải trí cậu ta rất thích: nắm chắc đầu dao thon nhỏ của cái dao cán gỗ được làm ở Kauhava*, nhằm thẳng điểm chọn phóng đến. Và cậu ta thực sự kiêu hãnh nếu như nhằm đúng điểm mà cậu ta đã chỉ ra trước đó. Đôi lúc khi những người thả gỗ khác đứng lại xem Nokia phóng dao và cậu ta phóng trúng, thì cậu ta sẽ kể ngay về trường hợp của người Trung Quốc phi thường mà có lần cậu ta nhìn thấy trong rạp xiếc. Một người đàn bà da trắng bình thường - mà có thể đó là tình nhân của gã đàn ông Trung Quốc cũng nên - bị bắt đứng áp vào tấm ván gỗ đối diện, còn gã kia quây vòng xung quanh đầu cô ta bằng dao - lão ta phóng dao như thế này đấy - và khi người đàn bà rời tấm ván bước ra, bức tranh vòng quanh thân hình cô ta còn lại trên tấm ván trông giống một bộ quân phục. Các ngọn dao đâm vào ván ngay sát cạnh người, nhưng không đụng chạm vào đâu. Chỉ cần một lần phóng trúng là có thể lấy đi mạng sống của người tình, bởi gã đàn ông mắt xếch ấy ném rất mạnh. Cô tình nhân phải giật rất mạnh khi hãnh diện gỡ dao ra khỏi tấm ván. Kauhava: Một địa phương nằm ở miền tây Phần Lan, cách Helsinki độ hơn 400 km về hướng tây bắc, nổi tiếng về nghề làm dao. - Tôi đã bảo là tôi không đi. Quỷ bắt anh đi, anh đừng có nỉ neo thế. - Salonen nói và tiếp tục nhằm ngắm vào tường. Rồi anh ta chui vào chỗ nằm trong lều gỗ, lấy ra cuốn sách mà anh ta đã mua trong lần cuối cùng vào làng lớn. Họ là nạn nhân tình yêu của mình - tên của cuốn sách. Salonen chắc chưa đến hai mươi. Cho tới hết mùa xuân anh ta là người giúp việc trong một cửa hàng. Nhưng sang hè bản tính hiếu động đã khiến anh ta đầu quân làm thợ thả gỗ. Nói đúng ra, anh ta từng bị phạt tiền mà đến giờ vẫn chưa trả và anh ta cũng không muốn vì thế phải ngồi tù khi hè đến. Anh ta nghe kể, các phà thả gỗ khi hè đến là nơi trốn chạy tốt nhất. Cái bè thả gỗ này thực ra cũng không lớn lắm. Nhất là khi văn phòng của công ty cũng ở ngay gần đó, nên trên bè này chẳng có ai là người chỉ huy. Người nhiều tuổi nhất có thể cho mình quyền đó. Nhưng ngay đến việc phát tiền lương cho mọi người anh ta cũng không được đảm nhận, mà lúc nào cũng cần phải một ngài nào đó đi thuyền máy đến như hôm qua chẳng hạn, nên chẳng ai quan tâm xem anh ta nói gì. Hơn nữa anh ta chỉ còn một tay, nên trong công việc không thể nào làm tốt hơn người khác. Nhưng anh ta có kinh nghiệm và ở những eo lạch nước chảy xiết mưu mẹo của anh ta thực sự rất cần. Ở đó anh ta đưa ra những mệnh lệnh bằng cái giọng như giọng của người chỉ huy trong chiến tranh. Matti Puolamäki là người bạn tốt nhất của Salonen - anh chàng Nokia trong tốp người ở trên phà. Đó là một người đàn ông rất đơn giản, thực sự chân thành ngưỡng mộ tính láu lỉnh, tuổi trẻ và cuộc đời đầy ắp sự kiện của anh này. Khi Nokia đứng trước tòa án vì bị buộc tội giết người, cả Matti Puolamäki cũng đứng cạnh, chân tay trong còng sắt và bị buộc tội đã xúi giục anh kia giết người. Còng ở cổ chân anh này được tháo ra theo quyết định của tòa án, bởi vì không ai chứng minh được rằng anh ta đã gào lên cho Nokia câu sau: “Hãy đâm mạnh vào một khi cậu đã đâm”, như ai đó kể là đã nghe thấy. Nhưng dù sao Matti cũng được đứng bên cạnh cậu thanh niên đẹp trai trong bộ quần áo hệt như của cậu này. Các bồi thẩm viên và luật sư bào chữa tranh cãi nhiều về anh Matti này hơn là nhân vật chính Nokia. Theo đúng các điều luật, vị quan tòa ngồi đó hỏi Matti một cách cụ thể về điều kiện sống của anh này mỗi khi một tội phạm được nêu ra. - Tội nhân lập gia đình chưa hay còn độc thân? - Vị quan tòa hỏi Matti như vậy. - Tôi chưa lập gia đình, nhưng tôi hứa hôn đã năm năm nay và tôi còn có ba đứa con nữa. - Vậy tại sao anh chưa thành hôn? - Quan tòa lại hỏi tiếp. Yên lặng kéo dài sau câu hỏi. Rồi trưởng đoàn bồi thẩm viên, người ở cùng làng với Matti cất tiếng: - Anh Matti này chưa qua trường học và chưa làm lễ kiên tín. Chính vì vậy không thể kết hôn chính thức với cô Iita được. Tuy nhiên anh ta vẫn chăm sóc quan tâm tốt đến gia đình mình, thực ra còn tốt hơn cả cái anh Mettälä bị đâm chết này. Đôi lúc địa phương còn phải trợ cấp cho gia đình anh này. Vị trưởng đoàn bồi thẩm đã đến tòa để bảo vệ quyền lợi cho những đứa con của Mettälä. Cả Matti và Mettälä đều là người của một địa phương. Nhưng vào buổi tối này ai có thể đoán điều bất hạnh nào có thể xảy ra. Họ vẫn sống, tràn đầy sức lực lẫn niềm vui, cuộc sống mà tạo hóa đã ban cho họ. Tối nay cả Salonen cũng vào làng chơi. Anh ta đọc cuốn sách của mình đến một đoạn thích hợp, gấp cuốn sách lại, rồi để nó vào túi chiếc áo khoác vẫn mặc thường ngày treo trên tường lều gỗ. Đến lượt Matti nấu cà phê cho cả nhóm. Mettälä muốn mời mọi người cùng thử chất cay trong cái chai của mình. Anh ta lảo đảo đi lại trên phà, lại còn ra vỗ vỗ con ngựa của mình nữa. - Ngựa là con vật kiếm tiền cho kẻ lười nhác, - anh ta nói rồi đá con vật một cái có hơi mạnh vào đúng những chỗ nhạy cảm của nó ở dưới bụng, làm cho con ngựa hí lên tức tối, hơi lồng lên. Thấy vậy gã đàn ông thấy cần phải đánh nó mạnh hơn vào đầu. Mettälä đang rất biết mình làm gì. Rồi đột nhiên gã nhảy sang một cái thuyền khác, ẩn mạnh đến mức thuyền gần như cập bờ trước khi gã đàn ông kịp sờ đến mái chèo. Rồi người ta thấy gã ta lảo đảo bước về phía làng. Ông chủ già điếc đặc và nổi tiếng là nghiêm khắc đang đi kiểm tra lồng cá, tiến ngược về phía gã. Giữa họ bắt đầu một cuộc nói chuyện rất ngộ khiến những người ở trên phà vừa nghe vừa buồn cười. - Đúng là một lũ điên điên kìa, - Nokia nói, mắt cậu ta lóe lên tinh nghịch. Thế rồi cậu ta cũng đi. Matti đưa cậu ta vào bờ bằng chiếc thuyền khác. 18 Tối hôm đó Mettälä cũng chẳng có ý định gì rõ ràng khi rời phà. Anh ta định ra khỏi làng, quay trở lại cái khu nhà tranh nghèo. Cuộc sống trong khu nhà tranh đó giống như cuộc đời thật của anh ta nơi quê nhà. Trong các ngôi nhà bao giờ cũng có ông và bà, cả hai đều hơi nhăn nheo và đội quân lớn nhỏ có độ tuổi khác nhau. Khi nhìn thấy khách lạ như thế này chúng đều trố mắt nhìn, đưa ngón trỏ của tay phải lên ngoáy mũi, ngón chân cái của chân trái cọ xát các khoảng cách giữa các ngón chân phải. Mettälä đến nơi đó, thấy mình thật vĩ đại, thỉnh thoảng lại ư ử một bài hát mà anh ta chợt nhớ lại từ hồi còn vụng về đi lại với Santra, người vợ bây giờ… “Ôi các cậu trai làng thú vị xiết bao khi nhảy với vợ chưa cưới của người khác, thật thế đấy.” Một người đàn ông sống trong ngôi nhà đi ra mặt hầm hầm, nhưng khi họ nói với nhau mấy câu và người này nhìn thấy cái chai trong tay Mettälä, mọi sự đều yên ổn cả. Mettälä vào được đến hai, ba ngôi nhà tranh trước khi rượu trong chai của anh ta cạn. Lúc đó anh ta nhằm hướng “vùng bờ nghỉ mát” để quay trở lại. Anh ta sử dụng những từ như vậy, cũng như nhiều từ khác học được từ bên ngoài thế giới rộng lớn. Có lần anh ta kể anh ta đã qua nước Mỹ và khẳng định với tất cả mọi người rằng sẽ quay trở lại nơi đó, bởi vì “đất cũ” có vẻ không đủ sức nuôi người con xuất sắc của mình… Đến đây anh ta kêu lên the thé. Rời khỏi ngôi nhà tranh cuối cùng mà anh ta vừa rẽ vào, Mettälä nằm dài lên đồng cỏ xanh. Anh ta nằm đó nghỉ, i à một cái gì như là bài hát. Từ trong nhà một cậu bé được bảo ra xem anh ta có bị làm sao không. Thằng bé sợ sệt rón rén lại gần người đàn ông đang nằm. Mettälä nghe thấy bước chân, nhưng anh ta không thay đổi thế nằm và cũng không mở mắt, chỉ nằm đó nói với thằng bé. - Lấy cho tao ngụm nước ở bến đằng kia! Mày vừa được một đồng mác đấy. Đưa nước lại đây. - Mà cháu lấy nước về bằng gì? - Đó là việc của mày, nhưng nhanh lên đồ quỷ! Thằng bé hoảng sợ chạy trở lại sân. Ngay lúc đó người đàn bà, mẹ thằng bé bước đến. Nghe thằng bé kể gã say muốn gì, chị ta quay trở lại, lấy nồi và không nói không rằng ra nguồn múc nước, đem lại cho người đang khát. Ở vùng đất thiêng này cái cảm giác bất ổn kỳ lạ cứ hành hạ Mettälä máu lạnh. Khi đang nằm thượt trên bãi cỏ anh ta lại vừa nghĩ là đã không về qua nhà. Chính ra phải về, nhưng - rồi lại phải đi ngay đến nơi nào đó - đến “vùng bờ nghỉ mát”. Đó chẳng phải là Bờ biển Vàng, cũng chẳng là Bờ biển Hạt tiêu, mà Bờ biển Ngà cũng chẳng phải, nhưng dù sao cũng vẫn phải về… Ôi các cậu trai làng thú vị xiết bao khi nhảy với vợ chưa cưới của người khác, thật thế đấy. 19 Cả Salonen cũng rời phà. Cả anh ta cũng đi dọc đường làng, vẻ mê hoặc quyến rũ rạng ngời trên khuôn mặt nhẵn nhụi trẻ trung. Anh ta ngọt ngào bắt chuyện với các thiếu nữ đi ngược chiều với phong cách của người thành phố, không sán đến gần, gọi họ bằng cô, cúi thấp chào làm mớ tóc trước trán xõa xuống. Anh ta duyên dáng lấy tay vén nó lại, hất đầu cho lọn tóc trở về chỗ cũ. Thế rồi anh ta đi tiếp, thân mật nói chuyện với một người đàn bà đứng tuổi xấu xí và khi bà ta ám chỉ đại loại như bà ta nghèo, chàng thanh niên này liền đưa cho bà ta tờ bạc năm mác. Đầu tiên người phụ nữ hơi ngạc nhiên, nhưng rồi bật cười vui vẻ và bỏ đi. Rượu của Mettälä cũng đã hơi bốc lên đầu của anh thanh niên. Rồi anh ta ngồi xuống bên bậc thang dẫn lên một cái kho. Một cô gái mặc quần áo ngày lễ đang ngồi đó và Yrjö Salonen rẽ vào nói chuyện với cô. Họ nói đủ chuyện. Cô gái hỏi cứ như mình là người đàn ông quen việc sông nước, không biết bao nhiêu bè gỗ nữa sẽ trôi xuống từ phía thượng nguồn. Khi chàng trai cúi người thì thầm vào tai cô gái một câu hỏi, thiếu nữ lớn tiếng trả lời: - Còn xem được mời nhã nhặn như thế nào chứ! Cô gái không thực sự xinh đẹp, làn da hơi thô, khuôn mặt mềm hơi bạnh và từ người cô tỏa ra mùi thơm của sữa bò mới được vắt. Salonen ôm chặt eo cô gái. Đúng lúc đó có một người đàn ông từ phía nhà chính đi lại. - Cô ấy không phải người yêu của anh đấy chứ? - Salonen hỏi. - Nào, dù có phải đi chăng nữa thì vẫn đủ cho hai người mà. Người đàn ông trả lời và bắt đầu nhồi mồi thuốc vào tẩu. Tuy nhiên trông anh ta có đôi phần bồn chồn, còn cô gái lại có vẻ kính trọng anh ta. Người đàn ông liếc nhìn cô gái một lúc, làm cô này bỏ đi. Lúc đó người đàn ông chuyển giọng thân mật hơn. - Người thương tôi cũng có, mà ở gần thôi. Anh bạn có tiền không? Có lẽ trăng vẫn còn lên cao nữa và nó cũng chưa bắt đầu lặn, khi những người đàn ông trên phà lục tục trở về sau chuyến đi. Cả Matti Puolamäki cũng lên bờ và xem nhìn kỹ lưỡng với vẻ thành tâm lúa mì trổ bông trên cánh đồng chạy dọc bờ hồ. Ở quê nhà anh ta có một thẻo lúa bé tẹo và anh ta theo dõi kỹ lưỡng nhiệt độ hàng đêm. Từ đây về quê cũng không mấy quãng đường, có thể nghĩ nhiệt độ ở đây cũng như ở đó. Tính khí của Puolamäki vẫn còn hơi trẻ con, trong mọi việc. Cũng không rõ vì sao mà anh ta lại thích việc thả gỗ đến thế và làm việc đó như điên rồ, nên các ông lớn rất hài lòng với anh ta. (Anh ta học từ “ông lớn” này từ bố anh ta và luôn luôn dùng từ đó, dù những người khác gọi họ là sếp, hay Ông Mười. Ông sếp hiện thời họ chỉ gọi là Ông Năm thôi, vì ông ta mất một bàn tay từ cổ tay trở xuống). 20 Tối Chủ nhật một ô tô nữa chạy xình xịch vào sân của trang trại Teliranta. Trước khi xe kịp dừng hẳn đã thấy một bàn tay đàn ông rắn chắc với đồng hồ đeo trên cổ tay đang vẫy vẫy. Đây là một trong những người quen của Arvid, anh nhận ra bàn tay. Đó là của Hannu. - Tôi đã hứa mà, không phải tôi đã hứa hay sao. Và bây giờ chúng ta sẽ đi lên phố - tên thành phố đó là gì ấy nhỉ - hôm nay ở đó có lễ đính hôn. Cuối cùng Hannu cũng nhảy ra khỏi xe, kính trọng tiến lại gần bà chủ trang trại già, người duy nhất của gia đình đang tình cờ ở ngoài sân lúc này. - Anh đừng có đưa con trẻ đến lễ đặt tên cho chó mèo nào chứ. Ở đây cũng vui mà, - bà chủ già nói, cố gắng đứng dậy từ chỗ ngồi để chào khách. Đến lúc đó Helka cũng đã có mặt. Cô có quen Hannu, nói đúng ra thì cũng từ những đêm hội mà cô quen Arvid ở thủ đô hồi mùa đông. - Không được nói đến chuyện đi, một khi khách đến chưa kịp bước vào nhà. Mà không phải đến giờ ăn tối rồi sao. Mà sao Martta lại phải đi sang bên Syrjämäki chữa con bò cái đúng lúc này cơ chứ. Giá mà mẹ lũ trẻ về ngay bây giờ thì tốt quá. Hy vọng bên đó không xảy ra điều gì đặc biệt. - Bà chủ già đăm chiêu nghĩ ngợi. Một trong hai người thợ thả gỗ đến đây có hơi ngà ngà say, nhưng họ cũng có sang bên đó đâu. - Thôi các cháu ạ, đừng có đi đâu bây giờ đấy! - Bà lại nói thêm lần nữa. - Rồi chúng ta sẽ đi nếu như tôi được theo cùng, - Helka nói. - Nếu vậy thì không thể nói đến việc cho phép hay không, - anh Hannu, người vừa đến đáp lời. Khi đó thì chẳng có cản trở nào khác ngoài việc chúng tôi không thể chia cô Helka ra làm hai được. Chúng tôi có hai ô tô mà. - Ôi anh đừng buồn, tôi sẽ vào ô tô anh. Tôi đã tiếp chuyện anh Arvid cả ngày hôm nay rồi. - Helka thật yêu kiều khi cô mỉm cười. Anh để mũ lên trên mắc áo ồ lá la - mắc áo của em và đôi ủng xuống dưới giường em và đôi ủng xuống dưới giường em. Một tay anh quàng qua cổ em ồ lá la - quàng qua cổ em và tay kia ôm vòng eo em và tay kia ôm vòng eo em. Người thợ thả gỗ trẻ đang hát phía bên kia hồ trên đường anh ta trở về bè gỗ của mình. Anh ta đang rất vui và anh ta hát rất hay. Những người đang đứng trong sân trang trại Teliranta vui vẻ lắng nghe. Nhưng họ cũng không ở lại lâu để thưởng thức tiếng hát. Người khách vừa đến nhờ ông chủ trang trại chuyển lời chào tới bà chủ anh chưa kịp quen và quở trách con bò cái của người làm thuê, vì sao lại chọn đúng lúc không thích hợp cho khách để đau ốm và lấy mất của anh ta hân hạnh được làm quen bà chủ. Họ nhấn ga và ra đi. Lúc này cả bà chủ già của trang trại cũng đứng dậy, chậm rãi quay về nơi ở của mình, khu nhà ở phía bên trái tòa nhà chính. Cái giường của Helka đã được dọn dẹp gọn gàng với ga gối cùng vỏ chăn trắng tinh. Con bé ngủ thật ngoan, ngả xuống giường, ngủ và thức giấc. Cũng thật không nên nếu cứ để vỏ chăn gối ga lâu đến thế mà không thay. Nhưng chúng cứ như vừa mới được lồng vào. Nhìn kìa trăng lên, sao hôm nay trông nó khác lạ vậy. Và Martta, bà chủ trẻ của trang trại, vẫn chưa về. - Ừ Martta - mẹ của lũ trẻ - bà chủ già của trang trại lại nghĩ ngợi - thật là kỳ lạ - về con dâu của mình. Thời gian đầu cũng có những khó chịu bất đồng, như thường tình giữa mẹ chồng và nàng dâu. Martta không muốn tin rằng bà, bà chủ già của trang trại, lại có thể thông thạo mọi nơi trong trang trại và biết công việc tốt hơn người mới đến. Thế nhưng tới khi Martta cũng đã thạo công việc hàng ngày hơn thì mẹ chồng và nàng dâu thành những người bạn tốt. Và bây giờ còn Helka. Thời gian trôi, bà ngày càng già và bà thấy hãnh diện ngắm nhìn con cháu của chính mình đang lớn lên thật xinh đẹp, như Helka. Không nói gì đến của hồi môn, con bé đã đến tuổi trưởng thành rồi, khỏe, xinh đẹp và mạnh mẽ. Bà chủ già của trang trại thay đồ ngủ, không thể không nhớ đến tuổi thiếu nữ của mình, với bao nhiêu tình huống dở khóc dở cười. Cứ nghĩ đến Helka là mọi cái đều trở nên dịu ngọt. Xin cầu nguyện cho mọi việc làm, mọi điều trong cuộc đời con bé. Thỉnh thoảng bà chủ già của trang trại lại nhìn ra phía hồ, mắt lướt qua lại theo chặng đường mà con thuyền của Martta đáng lẽ phải xuất hiện. Bà nghĩ ngợi, có lẽ nên bảo với chủ trại cho người chèo thuyền sang Syrjämäki. Nhưng dù sao con trai bà cũng là chồng của Martta, có lẽ cũng không thích hợp để nói những việc này với con trai. Và trong chiều tối ngày Chúa nhật như thế này liệu có ai ở nhà không chứ. May ra có chủ trang trại thôi. Cuối cùng bà chủ già của trang trại cũng ngả lưng xuống giường, nhưng rất lâu sau bà vẫn không chợp mắt được. 21 Salonen hát đi hát lại bài ca cậu ta chợt nghĩ ra: “Cánh tay kia anh quàng qua cổ em - à ối a - và qua cổ em…” Puolamäki đi cùng với cậu ta xuống thuyền, họ vừa kịp lấy đà ẩn thuyền cặp vào phà thì dáng hình thất thểu của Mettälä từ đâu đó xuất hiện. - Này thằng bé kia đừng có mà nghêu ngao, đọc thì được, - Mettälä gầm gừ và ngay lúc đó the thé cái gì đó mà anh ta nghĩ là bài hát. Con thuyền của Matti và Salonen lúc đó đã cách bờ khoảng sải tay. - Câm mõm đi lão kia, - Salonen hét trả lại. - Chỉ vì mày ra lệnh ấy à Nokia, không bao giờ! Hãy nhớ lấy, bây giờ và mãi mãi về sau, a-men. Vừa nói người đàn ông vừa quờ quạng nhặt cái sào chống cỏ nằm dưới đất lên. Những cái chốt đầu sào đã bị rơi rụng từ lâu. - Đến đây đi nếu như mày dám! - Mettälä vẫn tiếp tục hét, giơ cao cái sào to dài. Cái sào ấy chắc sẽ không chạm được đến thuyền, điều này đã được xem xét rất kỹ lưỡng trong phiên tòa. Nhưng dáng vẻ hăm dọa ấy cùng những câu nói thách thức khiến Salonen - Nokia bừng bừng nổi giận. Bình thường anh chàng đã không chịu nổi gã đàn ông thô kệch kềnh càng đó, người mà dưới cằm luôn rậm rạp bộ râu lâu ngày không cạo và cạp quần không bao giờ có dây treo. Từ lâu giữa hai người luôn có mối ác cảm thù hằn. Con ngựa kéo phà là của Mettälä, nhưng những người thợ phải thay phiên nhau làm việc với nó. Và mỗi khi Nokia buộc phải đánh xe ngựa, anh ta luôn kéo dây cương mạnh đến mức không cần thiết và chửi rủa con ngựa tội nghiệp không ra gì. Nhưng đôi lúc anh ta lại vỗ về cho ngựa liếm mấy cục đường, nhưng cả hai việc làm này của anh ta đều khiến Mettälä tức giận như nhau. Salonen nhảy xuống nước, lội vào bờ và không mảy may suy nghĩ lao đến phía kẻ thù đang cầm cái sào giơ cao đe dọa. Một phần vì đang say khướt, phần nữa lại vụng về nên anh này chẳng kịp làm gì với cây sào của mình, trước khi mũi dao nhọn dài làm từ Kauhava - cái mũi dao đã bao lần đâm ngập vào ván tường trên phà - đâm sâu lút đến cán vào phía bên trái ngực anh ta, cắt đứt một cái xương sườn rồi xuyên vào cơ tim. Đó là lúc Puolamäki phải kêu lên với Salonen cái câu: “Đánh mạnh vào, một khi cậu đã đánh”, mà vì nó anh ta bị bắt giam cùng với Salonen, nhưng không người làm chứng nào dám thề rằng đã nghe thấy câu nói đó. Người đàn ông bị đâm bước thêm mấy bước về phía gờ đất cao, theo phản xạ chạy trốn sự nguy hiểm. Anh ta kịp đến được ranh giới giữa cỏ và ruộng lúa mì, rồi cả thân hình đổ nghiêng xuống, máu tuôn xối xả, cái nhìn đờ ra và sững lại ngó chằm chằm mặt trăng. Đáng nhẽ ra - đáng nhẽ ra anh ta phải về thăm nhà mới phải vào ngày Chúa nhật này - vào tắm sauna của riêng mình - bên """