"Người Tình Sputnik - Haruki Murakami PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Người Tình Sputnik - Haruki Murakami PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo THÔNG TIN EBOOK Tên sách Người Tình Sputnik Nguyên tác スプートニクの恋人 Supūtoniku no koibito - Sputnik Sweetheart Tác giả Haruki Murakami Dịch giả Ngân Xuyên Thể loại Tiểu Thuyết Phát hành Nhã Nam Nhà Xuất Bản NXB Hội Nhà Văn Ebook 2021 kindlekobovn —★— MỤC LỤC | TABLE OF CONTENTS Hội yêu đọc sách Kindle Việt Nam Tựa đề Giới Thiệu Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Giới Thiệu “Không chỉ là nhà văn lớn của Nhật Bản mà còn là một nhà văn lớn của thời đại." - Los Angeles Times "Huyền ảo và hấp dẫn... Murakami là một thiên tài." - Chicago Tribune "Người tình Sputnik đã khiến tôi xúc động và đẩy trí tưởng tượng của tôi đi xa hơn bất cứ cuốn sách nào tôi từng đọc suốt một quãng thời gian dài." - Guardian "Murakami có một tài năng không ai sánh kịp trong việc biến các ẩn dụ triết học thành những câu chuyện bí hiểm." - The New York Times "Một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời, nhẹ tựa lông hồng nhưng cũng buồn đến nao lòng." - Sunday Herald "Siết chặt trái tim bạn ngay từ những dòng đầu tiên." - Los Angeles Magazine Mùa xuân năm hai mươi hai tuổi, Sumire yêu lần đầu tiên trong đời. Một tình yêu mãnh liệt, một cơn lốc xoáy thực sự quét qua các bình nguyên – san phẳng tất cả những gì nó gặp trên đường, tung mọi thứ lên trời, xé chúng ra từng mảnh, nghiền nát thành từng miếng. Cơn lốc không hề giảm cường độ khi băng qua đại dương, biến Ăngko Vat thành đồng hoang tàn, thiêu cháy rừng già Ấn Độ với hổ báo và muôn loài, rồi biến thành cơn bão cát sa mạc vùng vịnh Ba Tư, chôn vùi cả một thành phố pháo đài kỳ lạ dưới biển cát. Tóm lại, đó là một tình yêu thực sự vĩ đại. Người Sumire đem lòng si mê hoá ra lớn hơn cô mười bảy tuổi. Đã có gia đình. Và, phải nói thêm, là phụ nữ. Đây là nơi tất cả bắt đầu, và là nơi tất cả kết thúc. Gần như tất cả. "Xót xa...vừa bí ẩn vừa lãng mạn... một câu chuyện thấm thía về tình yêu không được đền đáp... Nếu thích Rừng Na-uy, chắc chắn bạn cũng sẽ thích cuốn tiểu thuyết này." - AsianWeek Ngày 4 tháng Mười năm 1957, Liên Xô phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên trên thế giới, Sputnik I, từ Trung Tâm Vũ Trụ Baikonor thuộc nước cộng hòa Kazakhstan. Sputnik có đường kính 58cm, nặng 83,6 kg và bay vòng quanh Trái đất 96 phút 12 giây. Ngày 3 tháng Mười một cùng năm, Sputnik II được phóng thành công, mang theo chú chó Laika. Laika trở thành sinh vật sống đầu tiên rời khí quyển Trái đất, nhưng vệ tinh này không bao giờ trở về, và Laika đã hiến thân cho mục đích nghiên cứu sinh học trong không gian. Theo Tổng tập biên niên lịch sử thế giới. Chương 1 Mùa xuân năm hai mươi hai tuổi, Sumire yêu lần đầu tiên trong đời. Một tình yêu mãnh liệt, một cơn lốc xoáy thực sự quét qua các bình nguyên - san phẳng tất cả những gì nó gặp trên đường, tung mọi thứ lên trời, xé chúng ra từng mảnh, nghiền nát thành từng miếng. Cơn lốc không hề giảm cường độ khi băng qua đại dương, biến Ăngko Vat thành đống hoang tàn, thiêu cháy rừng già Ấn Độ với hổ báo và muôn loài, rồi biến thành cơn bão cát sa mạc vùng vịnh Ba Tư, chôn vùi cả một thành phố pháo đài kỳ lạ dưới biển cát. Tóm lại, đó là một tình yêu thực sự vĩ đại. Người Sumire đem lòng si mê hóa ra lớn hơn cô mười bảy tuổi. Đã có gia đình. Và, tôi phải nói thêm, là phụ nữ. Đây là nơi tất cả bắt đầu, và là nơi tất cả kết thúc. Gần như tất cả. Hồi ấy, Sumire - tiếng Nhật nghĩa là "Hoa violet" - đang phấn đấu thành nhà văn. Dù cuộc sống có thể mang đến cho cô bao nhiêu lựa chọn đi nữa thì nó vẫn là hoặc thành nhà tiểu thuyết hoặc không gì cả. Quyết tâm của cô vững như bàn thạch. Không gì có thể xen vào giữa cô và lòng trung thành đối với văn chương của cô. Sau khi tốt nghiệp trung học tại trường công lập tỉnh Kanagawa, cô thi vào ban khoa học xã hội của một trường tư thục nhỏ thoải mái ở Tokyo. Cô nhận thấy ngôi trường này hoàn toàn lạc lõng, một nơi dửng dưng, chán nản, và cô căm ghét nó - thấy đám bạn sinh viên (tôi e trong đó có cả mình) toàn một lũ hạng hai, đần độn vô phương cứu chữa. Cho nên không có gì ngạc nhiên là ngay trước khi bước sang năm cuối, cô tỉnh ngộ và bỏ học. Cô kết luận có ở lại thì cũng chỉ lãng phí thời gian. Tôi nghĩ đi là đúng, nhưng nếu tôi được phép suy rộng theo cái lối suy nghĩ tầm thường thì phỏng trong cái thế giới còn-lâu-mới-hoàn-hảo này có gì là không vô nghĩa? Cứ loại bỏ mọi điều vô nghĩa ra khỏi cuốc sống không hoàn hảo đi, và thậm chí nó sẽ mất luôn cả sự không hoàn hảo của mình. Sumire là người lãng mạn đến vô phương cứu chữa, tính tình có phần bảo thủ - mù tịt về sự đời nên không biết cách xử sự cho đúng đắn. Hễ đã nói chuyện là cô nói liên hồi, nhưng nếu cô ở cùng ai đó mình không thích - nói cách khác là hầu hết mọi người trên đời - thì hiếm khi cô mở miệng. Cô hút thuốc rất nhiều và bạn có thể tin chắc là lần nào đi tàu cô cũng làm mất vé. Đôi khi cô mải mê suy nghĩ đến nỗi quên cả ăn, và cô gầy như đứa trẻ mồ côi thời chiến trong một bộ phim cũ của Ý - giống như một cây sào có mắt. Tôi rất muốn đưa cho bạn xem một tấm ảnh của cô nhưng lại không có cái nào. Cô ghét chụp ảnh - không muốn để lại cho hậu thế Chân dung một nữ nghệ sĩ thời trẻ. Nếu có một tấm ảnh chụp Sumire hồi ấy thì tôi biết nó sẽ là tư liệu giá trị cho thấy một số người có thể trở nên đặc biệt như thế nào. Tôi đã kể lộn xộn rồi. Người phụ nữ Sumire yêu tên là Miu. Ít ra đây cũng là tên mọi người gọi chị. Tôi không biết tên thật của chị, điều này sẽ gây ra những rắc rối về sau, nhưng tôi lại nói trước mất rồi. Miu là người gốc Hàn Quốc nhưng chị không nói được một từ tiếng Hàn nào cho đến khi quyết định học nó ở giữa độ tuổi hai mươi. Chị sinh ra và lớn lên ở Nhật Bản rồi đi học nhạc ở Pháp, cho nên chị thông thạo tiếng Pháp và tiếng Anh cũng như tiếng Nhật. Chị luôn ăn mặc đẹp, tinh tế, đeo trang sức đắt tiền nhưng giản dị, và lái chiếc Jaguar mười hai xilanh màu xanh nước biển. Lần đầu tiên Sumire gặp Miu, cô đã nói về tiểu thuyết của Kerouac. Sumire thực sự say mê Kerouac. Cô luôn có Thần tượng Văn học trong Tháng và vào thời điểm đó lại tình cờ là nhà văn hết thời Kerouac. Cô thường mang theo trong túi áo khoác một cuốn Trên đường hay Người lữ hành đơn độc và hễ có cơ hội là lại giở ra xem. Hễ gặp đoạn nào thích là cô lại lấy bút chì đánh dấu và ghi nhớ như thể đó là Kinh Thánh vậy. Cô thích nhất đoạn nói về chuyện canh phòng cháy rừng trong cuốn Người lữ hành đơn độc. Kerouac đã trải qua ba tháng đơn độc trong túp lều trên đỉnh núi cao làm việc như một nhân viên phòng chống cháy rừng. Sumire đặc biệt thích đoạn này: Không người nào đi hết cuộc đời mà chưa một lần trải nghiệm tình cảnh cô độc dữ dội, thậm chí buồn chán, giữa chốn thâm sơn cùng cốc, chỉ dựa vào chính mình và nhờ đó biết được sức mạnh thực sự đang ẩn chứa trong con người mình. "Cậu không thích sao?" Cô nói. "Hàng ngày cậu đứng trên đỉnh núi, đảo mắt 360 độ, kiểm tra xem có ảnh lửa nào không. Chỉ thế thôi. Cậu làm việc ban ngày. Thời gian còn lại cậu có thể đọc, viết, làm gì tùy thích. Đêm đêm những con gấu bẩn thỉu lởn vởn quanh lều của cậu. Sống thế mới là sống chứ! So với nó thì việc ngồi trong trường mà nghiên cứu văn chương cũng giống như cắn vào cái đầu dưa chuột đắng nghét vậy." "Đồng ý," tôi nói, "nhưng rồi cũng đến ngày cậu phải xuống núi." Như thường lệ, những ý kiến nhàm chán, thực tế của tôi chẳng khiến cô bối rối. Sumire muốn được giống như một nhân vật trong tiểu thuyết của Kerouac - hoang dã, lạnh lung, phóng túng. Cô đứng nghiêng người, xọc tay vào túi áo khoác, mái tóc rối bù không chải, nhìn mông lung lên bầu trời qua chiếc kính đen gọng nhựa Dizzy Gillespie mà cô vẫn đeo dù mắt tinh như mắt cú. Cô luôn diện chiếc áo khoác vải chéo quá cỡ tậu được ở cửa hàng đồ cũ và đôi bốt thô. Tôi chắc nếu nuôi được rây thì cô cũng làm. Thực ra Sumire không đẹp. Má hóp, miệng hơi rộng. Mũi hơi nhỏ và hếch. Cô có khuôn mặt biểu cảm và rất hài hước mặc dù cô ít khi cười to. Cô có dáng người thấp và ngay cả khi vui vẻ vẫn nói năng như thể sắp sửa xông vào đánh nhau. Tôi không bao giờ thấy cô dung son môi hay bút chì kẻ mắt, và tôi không chắc là cô biết áo lót cũng có các cỡ khác nhau. Tuy nhiên Sumire vẫn có điều gì đó thật đặc biệt, một điều gì đó khiến mọi người bị cuốn hút. Thật không dễ xác định rõ rang điều đặc biệt đó, nhưng khi nhìn thẳng vào mắt cô thì lúc nào bạn cũng có thể nhận ra nó, phản chiếu sâu thẳm bên trong. o O o Thôi thì nói gần nói xa chẳng qua nói thật. Tôi yêu Sumire. Tôi bị cô hớp hồn từ lần đầu tiên chúng tôi nói chuyện và ngay sau đó không còn đường lui nữa. Suốt một thời gian dài cô là mối bận tâm duy nhất của tôi. Tôi cố nói cho cô hay những gì tôi cảm thấy nhưng chẳng hiểu sao cảm xúc đi một đàng lời lẽ đi một nẻo. Có lẽ thế lại hay. Nếu tôi diễn tả được cho cô biết cảm xúc của mình thì chắc cô sẽ cười phá lên chế giễu tôi mất. Trong thời kỳ Sumire và tôi làm bạn với nhau, tôi đã có tình cảm với hai, ba cô gái khác. Không phải tôi không nhớ chính xác. Hai hay ba - điều đó phụ thuộc vào cách tính của bạn. Nếu thêm vào đâu những cô gái tôi qua đêm một vài lần thì danh sách còn dài hơn nữa. Dù sao đi nữa, khi làm tình với những cô gái đó, tôi lại nghĩ về Sumire. Hay ít nhất những ý nghĩ về cô cứ lởn vởn trong đầu tôi. Tôi hình dung mình đang ôm cô. Làm như vậy thì có phần đểu cáng, nhưng tôi không sao tự thoát ra được. Để tôi trở lại chuyện Sumire và Miu gặp nhau. Miu từng nghe nói đến Jack Kerouac và biết loáng thoáng ông ta là một nhà tiểu thuyết gì đấy. Nhưng nhà tiểu thuyết kiểu gì thì chị không nhớ ra được. "Kerouac à...hừm...Ông ta có phải một Sputnik không?" Sumire không hiểu chị muốn nói gì. Dao và nĩa lơ lửng giữa không trung, cô suy nghĩ một lúc. "Sputnik à? Có phải chị muốn nói đến vệ tinh đầu tiên do Liên Xô phóng lên vào thập niên năm mươi? Jack Kerouac là một nhà tiểu thuyết Mỹ. Em đoán cả hai trùng nhau về thời gian..." "Thế không phải hồi đó các nhà văn như Kerouac được gọi như vậy à?" Miu hỏi. Chị lấy ngón tay vẽ một vòng tròn trên mặt bàn như thể đang lục tìm trong chiếc bình đặc biệt đựng đầy ký ức. "Sputnik...?" "Tên một trào lưu văn học. Em biết đấy - cách họ phân loại các nhà văn theo các trường phái văn chương khác nhau. Như Shiga Naoya thuộc trường phái Bạch Dương[1]." Cuối cùng Sumire đã hiểu ra. "Beatnik![2]" Miu lấy khăn ăn chấm nhẹ vào khóe miệng "Beatnik - Sputnik. Chị không bao giờ nhớ nổi những kiểu thuật ngữ ấy. Giống như thời Trùng hưng Kenmun[3] hay Hiệp ước Rapallo. Lịch sử cổ đại." Một khoảng lắng lại giữa hai người, nhớ về dòng chảy thời gian. Hiệp ước Rapallo ư?" Sumire hỏi. Miu mỉm cười. Nụ cười thân tình, hoài cổ, như thể một thứ của cải cất giữ lâu đời đã được lôi ra khỏi đáy ngăn kéo. Mắt chị nheo lại hết sức đáng yêu. Chị vươn tay ra, dịu dàng lùa những ngón tay thon dài vào mái tóc rối bù của Sumire. Cử chỉ đó đột ngột nhưng tự nhiên đến nỗi Sumire chỉ còn biết cách mỉm cười đáp lại. Kể từ ngày đó, (Theo chú thích bản tiếng Nga) gọi Miu một cách thân mật là Người tình Sputnik. Cô thích âm thanh của mấy tiếng đó. Nó khiến cô nhớ tới con chó Laika. Con tàu vệ tinh nhân tạo lao đi êm như ru xuyên qua bóng tối vũ trụ. Đôi mắt đen long lanh của chú chó dán vào ô cửa sổ nhỏ tí xíu. Trong sự hiu quạnh vô tận của không gian, Laika có thể nhìn thấy gì? Cuộc trò chuyện có nhắc đến Sputnik này diễn ra trong tiệc cưới của chị họ Sumire tại một khách sạn sang trọng ở Akasaka. Sumire không gần gũi người bà con này lắm, thực tế là hai người chẳng hợp nhau chút nào. Cô cảm tháy như bị tra tấn khi phải tham dự các đám cưới như thế nhưng không thể tránh được đám này. Cô và Miu ngồi cùng bàn, ngay cạnh nhau. Miu không kể chi tiết nhưng hình như chị có dạy piano cho chị họ của Sumire - hay thứ gì đó đại loại thế - khi cô này chuẩn bị thi vào khoa nhạc. Mối quan hệ giữa hai người không kéo dài hay quá thân mật, nhưng Miu cảm thấy buộc phải tham dự. Ngay khoảng khắc Miu chạm tay vào tóc cô, Sumire đã yêu, giống như cô đang băng qua một cánh đồng thì đùng! một tia sét giáng thẳng xuống đầu cô. Một điều gì đó giống như một mặc khải nghệ thuật. Do vậy, khi đó Sumire chẳng thấy có gì đáng quan tâm trong việc người cô yêu tình cờ lại là một phụ nữ. Tôi không cho rằng Sumire từng có ai đó mà bạn sẽ gọi là tình nhân. Hồi trung học cô có vài cậu bạn, nhưng anh chàng thường cùng cô đi xme phim, đi bơi. Tôi không hình dung được bất kỳ mối quan hệ nào trong số đó đã trở nên sâu sắc. Sumire quá bận tâm đến việc trở thành nhà tiểu thuyết đến nỗi không thực sự yêu được người nào. Nếu trung học cô từng trải qua kinh nghiệm tình dục - hay cái gì gần như thế - thì tôi tin chắc nó bắt nguồn từ sự tò mò văn chương hơn là từ ham muốn tình dục hay tình yêu. "Nói thật với cậu, tớ không hiểu về ham muốn tình dục," một hôm cô bảo tôi, mặt ra vẻ nghiêm trang. Tôi nhớ chuyện xảy ra ngay trước khi cô bỏ học; cô đã uống hết năm cốc sinh tố chuối. "Cậu biết đấy - nó xảy ra như thế nào. Cậu thử giải thích xem?" "Ham muốn tình dục không phải thứ cậu hiểu được," tôi nói theo kiểu lấp lửng quen thuộc của mình. "Nó chỉ là có đấy thôi." Cô chăm chăm nhìn vào tôi một lúc như thể tôi là cỗ máy chạy bằng nguồn năng lượng trước tới nay chưa từng có. Cụt hứng, cô nhìn chằm chằm lên trần nhà và câu chuyện nhạt dần. Nói với hắn ta về chuyện ấy cũng chẳng ích lợi gì, chắc hẳn cô đã quyết định thế. Sumire sinh ra ở tỉnh Chigasaki. Nhà cô gần bờ biển và cô lớn lên với âm thanh khô khốc của ngọn gió dày đặc cát thổi vào cửa sổ nhà mình. Bố cô mở một phòng khám nha khoa ở Yokohama. Ông đẹp trai có tiếng, cái mũi cân đối gợi nhớ đến Gregory Peck trong Spellbound. Sumire không thừa hưởng được cái mũi đẹp ấy, và theo lời cô thì cả cậu em trai cũng không. Cô thấy thật kỳ lạ là loại gen sinh ra cái mũi ấy đã biến đi đâu mất . Nếu quả thực nó đã bị chôn vùi vĩnh viễn dưới tận đáy vốn gen thì thế gian này là nơi còn đáng buồn hơn nữa. Cái mũi ấy tuyệt vời đến thế đấy. Bố Sumire gần như là nhân vật huyền thoại đối với những phụ nữ có nhu cầu chăm sóc răng miệng ở Yokohama. Trong phòng khá lúc nào ông cũng đội mũ phẫu thuật và đeo cái khẩu trang to tướng, vì vậy thứ duy nhất bệnh nhân có thể nhìn thấy là cặp mắt và đôi tai. Tuy nhiên, rõ ràng ông cũng vô cùng hấp dẫn. Cái mũi đẹp và nam tính của ông nhô lên một cách khêu gợi dưới lớp khẩu trang khiến các bệnh nhân nữ của ông thẹn thùng. Ngay lập tức - không thèm để ý liệu số tiền dành cho chăm sóc răng miệng của họ có đủ trả chi phí khám chữa răng hay không - họ đã đem lòng yêu ông. Mẹ Sumire mất vì bệnh tim bẩm sinh khi mới ba mươi mốt tuổi. Khi đó Sumire chưa đầy ba tuổi. Ký ức duy nhất của cô về mẹ là mùi da thịt mơ hồ của bà. Chỉ có hai tấm ảnh của bà được giữ lại - một tấm ảnh tạo dáng bà chụp trong lễ cưới của mình và một tấm chụp nhanh ngay khi Sumire vừa chào đời. Sumire thường hay lôi album ảnh ra và chăm chú nhìn hai bức đó. Mẹ của Sumire - nói một cách nhẹ nhàng - là người rất dễ bị quên lãng. Kiểu tóc ngắn, đơn điệu, những bộ quần áo khiến bạn phải tự hỏi không biết bà đang nghĩ gì nữa, và nụ cười gượng gạo. Nếu bà lùi lại một bước có khi tan ngay vào bức tường. Sumire quyết định khắc sâu khuôn mặt mẹ vào trí nhớ. Rồi một ngày nào đó cô có thể gặp bà trong mơ. Hai mẹ con nắm tay nhau, chuyện trò vui vẻ. Nhưng mọi việc không dễ dàng đến thế. Cô càng gắng sức nhớ lại khuôn mặt mẹ thì nó càng nhanh nhạt nhòa. Quên các giấc mơ đi - nếu Sumire có bước qua trước mặt mẹ mình trên phố, giữa thanh thiên bạch nhật, cô cũng chẳng thể nhận ra bà. Bố Sumire ít khi nói về người vợ quá cố của ông. Ông không phải người hay nói, và trong mọi phương diện của cuộc sống ông không bao giờ hé miệng về các tình cảm của mình - cứ như thể đó là một loại bệnh nhiễm trùng qua đường miệng mà ông không muốn bị lây. Sumire không nhớ đã có lần nào hỏi bố về người mẹ đã mất. Trừ một lần, khi cô hãy còn rất bé, vì lý do nào đó cô đã hỏi bố :" Mẹ của con là người như thế nào?" Cô còn nhớ rất rõ cuộc trò chuyện này. Bố cô nhìn đi chỗ khác và suy nghĩ một lúc trước khi trả lời. "Mẹ con có trí nhớ rất tốt," ông nói. "Và bà ấy viết rất đẹp." Một cách kỳ lạ để mô tả một người nào đó. Sumire đang nóng lòng chờ đợi, trang giấy trắng tinh ở đầu cuốn sổ tay của cô đã mở ra để ghi lại những lời quý báu có thể trở thành nguồn mạch ấm áp và an ủi - một trụ cột, một cái trục góp phần chống đỡ cho cuộc đời bấp bênh của cô trên hành tinh thứ ba trong Hệ Mặt trời này. Lẽ ra bố cô nên nói một điều gì đó mà cô con gái nhỏ bé của ông có thể bám víu vào. Nhưng ông bố điển trai của Sumire đã không nói ra những lời đó, chính những lời cô cần nhất đó. Bố Sumire tục huyền khi cô lên sáu và hai năm sau cô có em trai. Mẹ kế của cô cũng không đẹp. Thêm vào đó, bà không có trí nhớ tốt, và chữ viết thì không đẹp chút nào. Tuy nhiên bà là người tử tế và thẳng thắn. Đây là một điều may mắn cho Sumire bé bỏng, đứa con ghẻ mới toanh của bà. Không, may mắn không phải là từ chính xác. Xét cho cùng, bố cô đã chọn người phụ nữ đó. Ông có thể không phải người cha lý tưởng nhưng khi phải chọn vợ ông biết mình phải làm gì. Tình thương của người mẹ kế dành cho cô không bao giờ chao đảo trong suốt thời thanh niên khó khắn kéo dài của cô, khi Sumire tuyên bố bỏ học và viết tiểu thuyết thì người mẹ kế - dù bà có ý kiến riêng của mình về vấn đề này - đã tôn trọng ý muốn của Sumire. Bà luôn tỏ ra hài lòng khi thấy Sumire thích đọc sách và thường cổ vũ những hoạt động theo đuổi văn chương của cô. Cuối cùng mẹ kế của cô đã thuyết phục được bố cô, và hai người quyết định trước khi Sumire bước sang tuổi hai mươi tám, họ sẽ cấp cho cô một số vốn nhỏ. Nếu cô không thể kiếm sống bắng nghề viết lách thì cô phải tự lo lấy. Nếu người mẹ kế không lên tiếng bênh vực thì chắc Sumire đã bị ném ra ngoài - không xu dính túi, không có các kỹ năng xã hội cần thiết - vào trong một thực tế khắc nghiệt, hoang dã. Xét cho cùng Trái đất không hoàn thành quãng đường nặng nề vất vả vòng quanh mặt trời của nó chỉ để cho con người có thể có được khoảng thời gian tốt đẹp và chút vui thú. Sumire gặp Người tình Sputnik của cô hơn hai năm sau khi cô bỏ học. Cô sống trong căn hộ một phòng ở Kichijoji được cô sắp xếp với tối thiểu đồ đạc và tối đa sách báo. Cô ngủ đến tận trưa, và buổi chiều đi dạo quanh công viên Inogashira, với tất cả sự hăm hở của một người hành hương đang trên đường xuyên qua các ngọn đồi thiêng. Những hôm trời nắng cô ngồi trên ghế đá công viên, gặm bánh mỳ, hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác và đọc sách. Những ngày mưa hay trời lạnh, cô chui vào một quán cà phê kiểu cũ có nhạc cổ điển mở to hết cỡ, thả lút mình vào chiếc ghế bành sờn cũ và đọc sách, vẻ mặt nghiêm trang khi nghe các bản giao hường của Schubert hay các bản cantat của Bach. Chiều muộn cô uống bia rồi mua một ít đồ ăn sẵn ở siêu thị cho bữa tối. Đến 11h đêm cô ngồi vào bàn làm việc. Bao giờ trên bàn cũng có sẵn một bình cà phê nóng, một tách uống cà phê ( quà tôi tặng cô nhân dịp sinh nhật, trên tách có vẽ hình Snafkin), gói thuốc lá Marlboro và chiếc gạt tàn thủy tinh. Tất nhiên là cô có một chiếc máy xử lý văn bản. Mỗi phím là một ký tự. Không gian lặng ngắt như tờ. Tâm trí cô sáng rõ như bầu trời đêm đông, chòm sao Đại Hùng và Bắc Đẩu ở nguyên chỗ, sáng lấp lánh. Cô có bao điều phải viết ra, bao chuyện để kể lại. Chỉ cần cô khơi được dòng chảy là những ý tưởng sôi sục trong đầu sẽ tuôn trào như dung nham rồi động lại thành một dòng chảy ổn định gồm những tác phẩm thế gian chưa bao giờ được thấy. Thiên hạ sẽ mở to mắt kinh ngạc trước sự khởi đầu bất ngờ của Nhà văn trẻ tài năng hiếm có đầy hứa hẹn này. Một tấm ảnh của cô, đang mỉm cười bình thản, sẽ xuất hiện trên trang văn nghệ của các báo và cánh biên tập viên sẽ thi nhau đập cửa nhà cô. Nhưng chuyện không bao giờ diễn ra theo cách ấy. Sumire đã viết vài tác phẩm có đoạn mở đầu. Và vài tác phẩm có đoạn kết thúc. Nhưng chưa bao giờ viết tác phầm nào có cả mở đầu và kết thúc. o O o Không phải cô bế tắc với việc viết - hoàn toàn không phải. Cô viết không ngừng, viết tất cả mọi thứ xuất hiện trong đầu. Vấn đề là cô viết quá nhiều. Bạn sẽ cho rằng cô chỉ việc cắt gọn những đoạn thừa là ổn, nhưng mọi chuyện không đơn giản thế. Trên bức tranh lớn đó cô không bao giờ quyết định được cái gì cần thiết, cái gì không. Hôm sau khi đọc lại những gì đã viết cô thấy dòng nào cũng có vẻ tuyệt đối quan trọng. Hoặc nếu không thì cô lại xóa tất cả. Đôi khi, trong nỗi thất vọng, cô xé hết bản thảo tống vào sọt rác. Nếu là vào một đêm đông và trong phòng có lò sưởi thì chắc chắn cảnh tượng sẽ khá ấm áp - hãy nhớ lại cảnh trong phim La Bohème - nhưng cản hộ của Sumire không chỉ thiếu lò sưởi mà thậm chí còn chẳng có điện thoại nữa. Chưa nói gì đến một tấm gương cho tử tế. Những dịp cuối tuần, Sumire vẫn đến căn hộ của tôi, ôm đầy các bản nháp tiểu thuyết - những bản thảo may mắn thoát khỏi cuộc tàn sát. Tuy nhiên, chúng vẫn chồng thành đống. Sumire chỉ đưa bản thảo của cô cho một người duy nhất trên thế giới này xem. Tôi. Ở trường đại học, tôi trên cô hai khóa, mỗi người lại học một ngành riêng nên chúng tôi ít có cơ hội gặp nhau. Cuộc gặp đầu tiên cưa chúng tôi rất đỗi tình cờ. Đó là một ngày thứ hai của tháng Năm, sau chuỗi ngày nghỉ, tôi đứng ở bến xe buýt trước cổng chính của trường, đọc một cuốn tiểu thuyết của Paul Nizan kiếm được ở hiệu sách cũ. Một cô gái dáng người thấp đứng cạnh tôi cúi nhìn cuốn sách và hỏi tôi, tại sao lại là Nizan, trong số tất cả tác giả khác? Cô nói nghe như đang tìm cách gây sự. Như thể cô muốn đá bay một cái gì đó, nhưng vì không có mục tiêu thích hợp nên đã chuyển sang công kích sự lựa chọn sách đọc của tôi. Sumire và tôi rất giống nhau. Niềm đam mê sách vở đến với cả hai đều tự nhiên như hơi thở. Hễ có được chút thời gian rảnh rỗi là chúng tôi rúc vào một góc vắng vẻ nào đó, không ngừng lật hết trang này đến trang khác. Tiểu thuyết Nhật Bản, tiểu thuyết nước ngoài, sách mới, sách cổ điển, tác phẩm theo xu hướng mới cho đến sách bán chạy - hễ cứ thấy trong sách có gì đáng chú ý là chúng tôi đọc. Hai đứa chúng tôi lang thang khắp các thư viện, dành cả ngày đọc lướt qua các quyển sách trong Kanda, một thánh địa sách cũ tại Tokyo. Tôi chưa từng gặp một ai đọc ngấu nghiến, đọc sâu rộng như Sumire, và tôi chắc cô cũng cảm thấy như vậy. Tôi tốt nghiệm cùng khoảng thời gian Sumire bỏ học, sau đó cô thường ghé lại chỗ tôi mỗi tháng vài ba lần. Đôi khi tôi cũng đến căn hộ của cô, nhưng gần như không thể nhét nổi hai người vào đó, vì vậy đa phần cô đến chỗ tôi. Chúng tôi trò chuyện về những cuốn tiểu thuyết đã đọc và trao đổi sách cho nhau. Tôi nhiều lần nấu bữa tối. Tôi không thấy phiền khi phải nấu nướng, và Sumire thuộc kiểu người thà nhịn đói còn hơn vào bếp. Cô tặng tôi những món quà kiếm từ chỗ làm bán thời gian để tỏ lòng cám ơn. Có lần cô làm việc ở kho hàng của một công ty dược và mang về cho tôi cả sáu tá bao cao su. Có lẽ chúng vẫn còn nằm đâu đó tận góc trong cùng của ngăn kéo. Các tiểu thuyết - hay nói đúng hơn là các đọan tiểu thuyết - mà Sumire viết không kinh khủng như cô nghĩ. Thực ra, đôi khi văn phong của cô giống như một tấm chăn vá víu do các bà già ương nhạnh, mỗi bà một ý thích, một sự phàn nàn, khâu vá lại trong sự im lặng tàn nhẫn. Thêm vào đó thỉnh thoảng cô lại mắc chứng trầm cảm, và mọi chuyện có lúc vượt ra ngòai tầm kiểm soát. Dường như thế vẫn chưa đủ, Sumire còn quyết chí sáng tạo ra một Tiểu thuyết Tổng hợp đồ sộ theo phong cách văn chương thế kỷ XIX, một kiểu rương chật ních mọi sự kiện có thể để nắm bắt tâmhồn và số phận con người. Phải nói rằng những gì Sumire viết ra đều đặc biệt mới mẻ, cô muốn khắc họa một cách trung thực những điều cô thấy là quan trọng. Thêm nữa, cô không tìm cách bắt chước văn phong của bất kỳ ai khác và không có ý định chưng cất mọi thứ thành những mẩu nhỏ bé cầu kỳ, khéo léo. Đó là điều tôi thích nhất trong cách viết của cô. Thật không phải nếu làm giảm bớt sức mạnh trực tiếp trong cách viết của cô chỉ để cho nó có thể có được một hình thức dễ chịu, vừa ý nào đó. Chẳng cần phải vội vã làm gì. Cô vẫn còn nhiều thời gian để đi vòng. Như một câu ngạn ngữ nói, "nuôi chậm thì lớn tốt." "Đầu tớ y như một cái kho chứa đầy những thứ tớ muốn viết ra," cô nói. "Các hình ảnh, khung cảnh, ngôn từ...tất cả chúng đều vô cùng sống động trong tâm trí tớ. Viết đi! Chúng hét lên với tớ thế. Một câu chuyện mới mẻ tuyệt hay đang hình thành, tớ có thể cảm thấy nó. Nó mang tớ đến một nơi nào đó hoàn toàn mới. Nhưng rắc rối là một khi tớ ngồi vào bàn và trút tất cả ra giấy thì tớ lại thấy không diễn tả được cái chính yếu. Chúng không kết tinh lại được, chỉ là đá cuội chứ không phải pha lê . Và tớ chẳng đi đến đâu cả." Với vẻ tư lự, Sumire nhặt viên sỏi có lẽ là thứ hai trăm năm mươi ném xuống hồ. "Có lẽ tớ thiếu cái gì đó. Một cái gì đó nhất thiết phải có để trở thành nhà tiểu thuyết." Im lặng nặng nề. Hình như cô đang chờ đợi ý kiến chẳng có gì đặc biệt của tôi. Một lúc sau tôi lên tiếng. "Thuở xưa ở Trung Quốc có những thành phố tường cao, cổng lớn. Những chiếc cổng không chỉ là đường ra lối vào của người dân mà còn có ý nghĩa lớn lao hơn. Dân chúng tin rằng linh hồn thành phố nằm ở các cổng thành. Hoặc ít nhất nó lẽ ra phải nằm ở đó. Giống như ở châu Âu thời Trung cổ người ta tin rằng trái tim của một thành phố nằm ở thánh đường và quảng trường trung tâm của nó. Đó chính là lý do thậm chí cho tới ngày nay ở Trung Quốc vẫn còn giữ lại được rất nhiều cổng thành tuyệt đẹp. Cậu có biết người Trung Quốc xây cổng thành thế nào không?" "Tớ không biết," Sumire đáp. "Dân chúng kéo xe đến các bãi chiến trường xưa và thu lượm các mảnh xương trắng được chon ở đấy hay nằm rải rác xung quanh. Trung Quốc là đất nước khá cổ kính - rất nhiều chiến trường xưa - nên họ chẳng phải tìm đâu xa. Tại lối vào thành phố họ xây một cái cổng to và gắn xương bên trong. Họ hy vọng với việc tưởng niệm các tử sĩ theo cách này, các chiến binh sẽ tiếp tục bảo vệ thành phố của họ. Còn hơn thế nữa. Khi cổng xây xong họ dắt mấy con chó đến, cắt họng chúng và rưới máu lên cổng. Chỉ bẳng cách trộn máu tươi với xương khô đó, những linh hồn cổ xưa của người chết sẽ sống lại một cách thần kỳ. Ít ra thì đấy cũng là một quan niệm." Sumire im lặng chờ tôi nói tiếp. "Viết tiểu thuyết cũng giống vậy. Cậu phải gom xương về xây cổng, nhưng cho dù cái cổng có đẹp đến mấy thì chỉ riêng nó cũng không làm nên một cuốn tiểu thuyết sống động, có hồn. Một câu chuyện không phải một cái gì đó thuộc về thế giới này. Câu chuyện thực sự đòi hỏi phải có một kiểu rửa tội thần bí nối thế giới bên này với thế giới bên kia." "Theo như cậu nói thì tớ phải dựa vào sức mình và phải tìm thấy con chó của riêng mình?" Tôi gật đầu. "Và lấy máu tươi?" Sumire cắn môi suy nghĩ về điều này. Cô ném một viên sỏi không may khác xuống hồ. "Tớ thật sự không muốn giết một con vật nếu tớ có thể giúp được nó." "Đó là một ẩn dụ," tôi nói. "Cậu không thật sự phải giết cái gì cả." Chúng tôi ngồi sát bên nhau như thường lệ trong công viên Inogashira, trên chiếc ghế ưa thích của cô. Hồ nước trải rộng trước mặt chúng tôi. Một ngày đứng gió.Những chiếc lá nằm y nguyên tại nơi chúng đã rơi xuống và dán trên mặt nước. Tôi có thể ngửi thấy mùi khói rác ở đâu đó đằng xa. Không khí đậm đặc mùi vị cuối thu, những âm thanh xa xa cũng nghe thấy rất rõ. "Cái cậu cần là thời gian và kinh nghiệm," tôi nói. "Thời gian và kinh nghiệm," cô trầm ngâm, nhìn chăm chăm lên trời. "Về thời gian thì cậu chẳng thể làn được gì nhiều, nó cứ thế mà trôi qua. Nhưng kinh nghiệm à? Đừng nói điều đó với tớ. Tớ không tự hào về chuyện này, nhưng tớ chẳng có chút ham muốn tình dục nào. Và một nhà văn có thể có loại kinh nghiệm nào nếu cô ta không cảm thấy đam mê chứ? Như một bếp trưởng mà không thèm ăn." "Tớ không biết ham muốn tình dục của cậu đã biến đi đâu mất," tôi nói. "Có thể nó chỉ đang ẩn nấp ở một nơi nào đó thôi. Hoặc đã dạo chơi và quên không về nhà. Nhưng việc yêu đương lúc nào cũng là một thứ hơi điên khùng. Nó có thể xuất hiện rất bất ngờ và túm lấy cậu. Ai mà biết được, có thể ngay ngày mai cũng nên." Sumire rời mắt khỏi bầu trời và nhìn thẳng vào mặt tôi. "Giống như cơn lốc vậy hả?" "Có thể nói như thế." Cô trầm ngâm suy nghĩ. "Cậu đã bao giờ thực sự thấy một cơn lốc chưa?" "Chưa," tôi đáp. Nhờ trời,,Tokyo không phải Hẻm Lốc xoáy. Khoảng nửa năm sau, đúng như tôi tiên đoán, hết sức bất ngờ và rồi dại, một tình yêu tựa như cơn lốc đã chộp lấy Sumire. Với một phụ nữ hơn cô 17 tuổi. Người tình Sputnik của riêng cô. Khi Sumire và Miu ngồi cùng bàn tại đám cưới đó, họ đã làm điều mà tất cả những ai trên thế giới này đều làm trong hoàn cảnh đó, tức là tự giới thiệu. Sumire rất ghét tên mình nên bất cứ khi nào có thể cô đều tìm cách giấu nó đi. Nhưng khi có ai hỏi tên bạn thì điều lịch sự duy nhất phải làm là hiên ngang nói nó ra. Theo lời bố cô thì chính mẹ cô đã chọn cái tên Sumire. Bà thích bài hát cùng tên của Mozart nên đã quyết định từ trước đó rất lâu là nếu có con gái bà sẽ đặt cho nó tên đó. Trên giá đĩa đặt trong phòng khách của họ có một đĩa hát gồm các bài của Mozart, chắc chắn đây là chiếc đĩa mẹ cô đã nghe và khi còn nhỏ Sumire đã cẩn thận đặt chiếc đĩa to nặng này lên máy hát nghe đi nghe lại bài đó. Elisabeth Schwarzkopt đơn ca, Walter Gieseking chơi piano. Sumire không hiểu lời ca nhưng từ motif êm đềm của nó cô cảm thấy chắc chắn bài hát là khúc tụng ca những bông hoa violet xinh đẹp nở trên cánh đồng. Sumire thích hình ảnh đó. Nhưng khi lên trung học, cô tình cờ phát hiện ra bản dịch tiếng Nhật của bài hát trong thư viện trường và cảm thấy choáng váng. Lời bài hát kể lại câu chuyện cô con gái nhẫn tâm của người chăn cừu đã giẫm nát một bông violet nhỏ bé thiếu may mắn trên cánh đồng. Cô gái thậm chí còn không nhận ra mình đã giẫm nát bông hoa. Bài hát phỏng theo một bài thơ của Goethe, và Sumire thấy nó không sao có thể bào chữa, không có gì hay ho để mà học hỏi. o O o "Sao mẹ lại có thể đặt tên em theo tên cái bài hát khủng khiếp ấy chứ?" Sumire cáu kỉnh nói. Miu sửa lại chiếc khăn ăn trên lòng mình cho ngay ngắn, mỉm cười bình thản, và nhìn Sumire. Mắt Miu khá sẫm. Nhiều màu sắc trộn vào nhau nhưng trong sáng, thanh thản. "Em thấy bài hát hay chứ?" "Vâng, bản thân bài hát tự nó thì hay." "Nếu nhạc hay thì chị nghĩ thế là được rồi. Xét cho cùng, đâu phải mọi vật trên thế gian đều đẹp cả, đúng không? Mẹ em chắc phải yêu bài hát đó nhiều đến nỗi không còn bận tâm đến lời ca nữa. Ngoài ra, nếu em cứ giữ bộ mặt như thế thì sẽ bị mấy vết nhăn vĩnh viễn đấy." Sumire dịu xuống. "Có lẽ chị nói đúng. Em chỉ cảm thấy thất vọng thôi. Ý em là cái hữu hình duy nhất mẹ để lại cho em là cái tên đó. Tất nhiên, ngoài bản thân em." "Ồ, chị nghĩ Sumire là một cái tên hay. Chị rất thích nó," Miu nói và hơi nghiêng đầu như để nhìn sự vật dưới một góc nhìn mới. "À mà bố em có dự đám cưới không?" Sumire nhìn quanh. Phòng đặc biệt rộng nhưng bố cô có dáng người cao và cô dễ dàng nhận ra ông. Ông ngồi cách đó hai bàn, mặt quay nghiêng, đang nói chuyện với một người đàn ông lớn tuổi dáng thấp, mặc áo đuôi tôm. Nụ cười của ông tin cậy và ấm áp đến độ làm tan được cả băng. Dưới ánh sáng những ngọn đèn chum cái mũi đẹp đẽ của ông nổi bật lên thanh tú như một món đồ trang sức đá chạm tinh tế, và ngay cả Sumire vốn đã quen nhìn bố mà cũng thấy rung động trước vẻ đẹp của nó. Bố cô thực sự thuộc về cuộc tụ họp trang trọng kiểu này. Chỉ riêng sự có mặt của ông đã làm cho nơi đây thêm phần rực rỡ. Giống như bó hoa cắm trong chiếc lọ to hay chiếc xe limousine dài đen nhánh. Khi nhìn thấy bố Sumire, Miu như bị á khẩu. Sumire có thể nghe thấy tiếng hít thở sâu. Giống như âm thanh của bức màn nhung được vén sang một bên trong buổi sáng thanh bình để ánh nắng đánh thực một người nào đó rất đặc biệt đối với bạn. Có lẽ mình phải sắm một chiếc ống nhòm, Sumire tư lự. Nhưng cô đã quá quen với phản ứng xúc động của người khác, nhất là đám phụ nữ trung niên, trước vẻ đẹp trai của bố mình. Đẹp là gì? Nó có giá trị gì? Sumire luôn thấy nó thật kỳ lạ. Nhưng không một ai trả lời cô. Chỉ có cùng cái hiệu quả bất di bẩt dịch đó. "Có ông bố đẹp trai như vậy em thấy thế nào?" Miu hỏi. "Chị chỉ tò mò thôi." Sumire thở dài - con người có thể dễ đoán biết như thế đấy. "Em không thể nói là em thích được. Mọi người đều nghĩ như nhau: thật là một người đẹp trai. Một nhân vật thật sự nổi bật. Nhưng con gái ông ta, ờ - cô ta chẳng có nhiều thứ cho người ta nhìn, đúng không. Họ nghĩ chắc hẳn đó là cái được gọi là sự lại giống." Miu quay sang Sumire, nhẹ ngàng kéo cằm cô và chăm chú nhìn thẳng vào mặt như đang chime ngưỡng một bức tranh trong phòng triển lãm nghệ thuật. "Nếu đây là điều em cảm thấy từ trước tới nay thì em đã nhầm," chị nói. "Em rất đáng yêu. Thứ gì của em cũng y như bố em vậy." Chị nhoài người, và với thái độ khá tự nhiên, chạm nhẹ vào cánh tay Sumire đang đặt trên bàn. "Em không nhận ra em hấp dẫn thế nào đâu." Sumire nóng bừng mặt. Tim cô đập thình thịch như tiếng ngựa phi trên cây cầu gỗ. Sau đó Sumire và Miu mải mê trò chuyện riêng với nhau. Đám cưới đông vui, với những cuộc chuyện trò thường lệ sau bữa tiệc (hiển nhiên tham dự gồm cả bố Sumire), và tiệc thì không dở. Nhưng chẳng có chút gì của bữa tiệc cưới này đọng lại trong ký ức Sumire. Món thịt chính ư? Hay cá? Cô có dung dao nĩa hay để ý đến cung cách của mình không? Hay ăn bằng tay bà liếm đĩa? Cô không biết gì cả. Hai người họ trò chuyện về âm nhạc. Sumire là người hâm mộ cuồng nhiệt của nhạc cổ điển và ngay từ hồi bé đã thích mân mê bộ sưu tập đĩa nhạc của bố. Hóa ra cô và Miu có sở thích giống nhau. Cả hai đều yêu nhạc. piano và tin rằng bản Sonata số 32 của Beethoven là đỉnh cao tuyệt đối trong lịch sử âm nhạc. Rằng ngón đàn vô song của Wihhelm Backhaus khi trình diễn bản sonata dành cho Decca là chuẩn mực của sự diễn tấu. Nó mới ngân vang, vui vẻ và thú vị làm sao! Những đĩa Chopin đơn âm của Vladimir Harowitz, nhất là những khúc scherzos, nghe thật tuyệt, đúng không? Friedrich Gulda trình tấu các bản dạo đầu của Debussy thật dí dỏm, đáng yêu. Grieg của Gieseking thì ngọt ngào từ đầu tới cuối. Prokofiev của SviatoslavRichter xứng đáng nghe đi nghe lại - màn trình diễn của ông ta đã nắm bắt chính xác những bước chuyển thất thường của tâm trạng. Còn những bản sonate của Mozart di Wanda Landowska trình bày chan chứa sự nồng ấm và dịu dàng đến mức thật khó hiểu nổi vì sao chúng không được tôn vinh nhiều hơn. "Em đang làm nghề gì?" Miu hỏi khi cuộc thảo luận về âm nhạc đã dứt. Em bỏ học, Sumire giải thích, và hiện em đang làm một số công việc bán thời gian trong khi viết tiểu thuyết. Loại tiểu thuyết gì? Miu hỏi. Thật khó giải thích, Sumire đáp. Thôi được, Miu nói, vậy em thích đọc loại tiểu thuyết nào? Nếu em mà kể hết ra thì chị em mình sẽ phải nhồi lại đây mãi mất, Sumire nói. Thời gian gần đây em đang đọc Jack Kerouac. Và đó chính là lúc phần trò chuyện về Sputnik của họ bắt đầu. Ngoại trừ một số cuốn truyện giải trí để giết thời gian, Miu ít khi động đến tiểu thuyết. "Chị không bao giờ gạt bỏ được cái ý nghĩ chúng hoàn toàn là bịa đặt", chị giải thích, "nên chị không thể cảm thấy chút đồng cảm nào với các nhân vật. Chị luôn như vậy." Đó chính là lý do việc đọc sách của chị được giới hạn ở những cuốn mô tả thực tế đúng như thực tế. Những cuốn sách, phần lớn, giúp chị trong công việc. Công việc của chị là gì? Sumire hỏi. "Chủ yếu là làm việc với nước ngoài," Miu nói, "Mười ba năm trước chị tiếp quản công ty kinh doanh của bố, vì chị là con cả. Chị đang học piano thì bố chị qua đời vì bệnh ung thư, mẹ chị không khỏe lắm lại không thạo tiếng Nhật. Em trai chị vẫn đang học trung học, nên cả nhà quyết định trong khoảng thời gian đó chị phải điều hành công ty. Có nhiều họ hàng sống nhờ vào công ty vì thế chị không thể để công ty lụn bại được." Miu dừng lại kèm theo tiếng thở dài. "Thời kỳ đầu, công ty của bố chị chuyên nhập khẩu đồ khô và dược thảo từ Hàn Quốc, nhưng hiện giờ các mặt hàng của nó đã mở ra đủ loại. Thậm chí cả linh kiện máy tính. Trên danh sách chính thức, chị vẫn là người đứng đầu công ty, nhưng chồng và em trai chị đã tiếp quản nên chị không phải thường xuyên đến văn phòng. Thay vào đó, chị chuyển sang kinh doanh riêng." "Kinh doanh gì?" "Nhập khẩu rượu là chính. Thỉnh thoảng chị cũng tổ chức hòa nhạc. Chị thường sang châu Âu vì kiểu kinh doanh nàu phụ thuộc vào các mối quan hệ cá nhân. Đó là lý do vì sao tuy phải một mình xoay sở nhưng chị vẫn có thể cạnh tranh với một số hang hàng đầu. Nhưng tất cả cái mạng lưới này đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực. Điều duy nhất có thể mong chờ, chị cho là..." Chị ngước lên, dường như vừa nhớ ra điều gì. "Em nói tiếng Anh được không?" "Em nói tiếng Anh không tổt lắm nhưng cũng tàm tạm. Tuy nhiên, em rất thích đọc tiếng Anh." "Em biết sử dụng máy tính chứ?" "Không hẳn, nhưng em đang dung một chiếc máy xử lý văn bản, và em chắc mình có thể quen được." "Lái xe thì sao?" Sumire lắc đầu. Hồi mới vào đại học cô đã có lần thử lùi chiếc Volvo của bố vào garage và làm cái xe va mạnh vào cột. Từ đấy cô ít khi lái xe. "Thôi được, em có thể giải thích, trong khoảng trên dưới hai trăm từ, sự khác nhau giữa dấu hiệu và biểu tượng không?" Sumire càm chiếc khăn ăn đang dặt trên lòng lên, chấm nhẹ vào miệng rồi đặt xuống. Người phụ nữ này đang muốn gì đây? "Dấu hiệu và biểu tượng à?" "Không có gì quan trọng đâu. Chỉ là một ví dụ thôi." Sumire lại lắc đầu. "Em không biết." Miu mỉm cười. "Nếu em không phiền, chị muốn em cho chị biết em có những kỹ năng thực tế nào. Em thành thạo cái gì. Ngoài việc đọc nhiều tiểu thuyết và nghe nhạc." Sumire lặng lẽ đặt dao nĩa xuống đĩa, nhìn chằm chằm vào khoảng không mông lung phía trên bàn ăn và ngẫm nghĩ câu hỏi. "Thay vì những thứ em thành thạo, có lẽ sẽ nhanh hơn nếu em liệt kê những việc em không thể làm. Em không biết nấu ăn hay lau dọn nhà cửa. Phòng em rất bừa bộn và em luôn bị mất đồ đạc. Em thích nhạc nhưng không hát được nốt nhạc nào. Em là đứa vụng về và hiếm khi khâu được lấy một mũi kim. Cảm giác định hướng của em rất tồi, và đến một nửa thời gian em không thể phân biệt nổi bên phải bên trái. Khi giận dữ em hay đập phá mọi thứ. Bát đĩa, bút mực, đồng hồ báo thức. Sau đó thì em hối tiếc, nhưng đang trong cơn giận thì em không kiềm chế được. Em không có tiền trong nhà băng. Em thường rụt rè vô cớ và gần như không có người bạn nào để kể với chị." Sumire hít một hơi thở nhanh và tiếp tục. "Tuy nhiên em có thể đánh máy rất nhanh. Em không phải vận động viên nhưng trừ lần mắc bệnh quai bị, cả đời mình em chưa ốm một ngày nào. Em luôn chính xác, chưa bao giờ trễ hẹn. Em ăn cái gì cũng được. Em không bao giờ xem tivi, và ngoài mấy lời ba hoa ngớ ngẩn, em hầu như chẳng khi nào phải nói lời xin lỗi. Mỗi tháng một hai lần vai em cứng ngắc đến không ngủ được, nhưng thời gian còn lại thì em ngủ như chết. Kinh nguyệt của em đều. Em không bị hở chân răng. Và tiếng Tây Ba Nha của em tốt." Miu ngước lên. "Em nói được tiếng Tây Ba Nha à?" Hồi học trung học, Sumire từng ở một tháng tại nhà ông chú là doanh nhân làm ăn ở Mexico City. Tận dụng triệt để cơ hội này cô đã miệt mài học tiếng Tây Ba Nha. Cô cũng học tiếng Tây Ba Nha ở trường đại học. Miu cầm chân ly rượu giữa hai ngón tay và nhẹ nhàng xoay xoay như đang xiết một cái đinh ốc vào máy. "Em nghĩ sao về việc đến chỗ chị làm một thời gian?" "Làm việc ư?" Không chắc chắn cách diễn đạt nào sẽ phù hợp nhất trong tình huống này, Sumire đành dung đến vẻ khắc khổ thường ngày của mình. "Cả đời em chưa bao giờ có một công việc thực sự, và em thậm chí còn không biết cách trả lời điện thoại. Em cố tránh đi tàu hỏa trước 10 giờ sáng, và chắc chị cũng đã thấy qua cách nói chuyện của em là em không biết nói năng lịch sự." "Không sao," Miu nói đơn giản. "Nhân tiện, trưa mai em có rảnh không?" Sumire gật đầu ngay tắp lự. Thậm chí cô không cần phải nghĩ ngợi về điều đó. Xét cho cùng, thời gian rảnh rỗi là tài sản chủ yếu của cô. "Vậy thì sao chúng ta không ăn trưa cùng nhau nhỉ? Chị sẽ đặt một bàn yên tĩnh ở nhà hàng gần đây," Miu nói. Chị cầm ly rượu vang đỏ người hầu bàn vừa rót, chăm chú ngắm nghía, hít ngửi hương thơm rồi lặng lẽ uống ngụm đầu tiên. Cả chuỗi cử động đó toát lên vẻ thanh nhã tự nhiên như một đoạn cadenza được người nghệ sĩ dương cầm trau luyện nhiều năm. "Rồi chúng ta sẽ bàn kỹ hơn. Hôm nay chị thấy rất vui. Em biết đấy, chị không chắc nó được nhập từ đâu nhưng loại rượu Bordeaux này cũng không phải tồi lắm." Sumire giãn nét mặt và hỏi thẳng Miu:" Nhưng chị chỉ mới gặp em, và chị gần như chưa biết gì về em." "Đúng vậy. Có lẽ chị chưa biết," Miu thừa nhận. "Vậy tại sao chị nghĩ em có thể giúp chị?" Miu lắc rượu trong cốc. "Chị luôn trông mặt mà bắt hình dong," chị nói. "Nghĩa là chị thích khuôn mặt em, thích cách em nhìn." Sumire cảm thấy không khí xung quanh đột nhiên loãng ra. Bầu vú căng lên dưới làn áo. Cô máy móc với cốc nước và uống cạn một hơi. Người hầu bàn có bộ mặt diều hâu lặng lẽ bước nhanh đến phía sau cô và rót nước lạnh vào chiếc ly không. Tiếng đá lanh canh vang lên trong tâm trí rối bời của Sumire. Nghe như tiếng lầm bầm rên rỉ của một tên trộm đang nấp trong hang. Chắc hẳn mình yêu người phụ nữ này rồi, Sumire giật mình nhận ra. Không nhầm được. Nước đá thì lạnh; hoa hồng thì đỏ. Mình yêu rồi. Và mối tình này sẽ đưa mình đến một nơi nào đó. Cái dòng chảy ấy quá mạnh; mình không có bất kỳ sự lựa chọn nào. Nó rất có thể là một nới đặc biệt, một nơi nào đó mình chưa đến bao giờ. Nguy hiểm có thể rình rập ở đấy, một thứ gì đó có thể sẽ làm mình bị trọng thương, tử thương. Có thể rồi cuối cùng mình sẽ mất hết. Nhưng không quay lại được. Mình chỉ có thể xuôi theo dòng thôi. Ngay cả nếu điều đó có nghĩa là mình sẽ bị cháy rụi, mãi mãi tiêu tan. Bây giờ, sau sự kiện này, tôi biết hóa ra linh cảm của cô đã đúng. Đúng một trăm hai mươi phần trăm. Chú thích [1] "Sirakaba" ( tiếng Nhật - "Bạch Dương" ) là một nhóm gồm các nhà văn theo khuynh hướng tân nhân văn, hoạt động trong khoảng thời gian 1910 -1923. (Theo chú thích bản tiếng Nga). [2] "Beatnik" là tên gọi nhóm nhà văn nhà thơ thuộc "thế hệ Beat" (Beat Generation) nổi lên ở Mỹ cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960. Ba nhân vật Beatnik chủ chốt là Allen Ginsberg, William S. Burroughs và Jack Kerouac. (ND). [3] Thời Trùng hưng Kenmun (1334) - sự khôi phục chính quyền một hoàng đế ở Nhật Bản do nhà vua Go-Daigo tiến hành sau thời kỳ quyền lực thực sự của đất nước năm trong tay chính quyền quân sự, tức "mạc phủ." (Theo chú thích bản tiếng Nga). Chương 2 Khoảng hai tuần sau đám cưới thì Sumire gọi điện cho tôi, một đêm Chủ nhật ngay trước bình minh. Lẽ tự nhiên là tôi đang ngủ. Ngủ say như chết. Tuần trước tôi phải lo tổ chức một cuộc họp và chỉ có thể tranh thủ chợp mắt được vài tiếng đồng hồ sau khi đã thu gom đủ các tài liệu cần thiết (được hiểu là vô ích) mà chúng tôi cần. Đến cuối tuần tôi muốn được ngủ cho đã mắt. Tất nhiên chuyện là như thế khi điện thoại đổ chuông. "Cậu đang ngủ à?" Sumire hỏi. "Ừm," tôi lầm bầm và bất giác liếc chiếc đồng hồ báo thức đặt cạnh giường. Đồng hồ có các cây kim dạ quang to tướng nhưng tôi không thể đọc được giờ. Hình ảnh trong võng mạc của tôi và não bộ xử lý nó đã bị mất đồng bộ, giống như bà già đang cố gắng, một cách vô ích, xâu cây kim. Điều tôi có thể hiểu được đó là khắp xung quanh trời đang tối đen, và giống như cuốn truyện "Đêm tối linh hồn" của Fitzgerald. "Trời sắp sáng rồi." "Ừm," tôi lẩm bẩm không thành tiếng. "Ngay cạnh chỗ tớ sống có một người nuôi đàn gà trống. Chắc hẳn đã nuôi chúng từ nhiều năm nay rồi. Khoảng nửa giờ nữa chúng sẽ gáy ầm cả lên. Đó là khoảng thời gian tớ thích nhất trong ngày. Bầu trời đêm tối đen như mực bắt đầu ửng hồng ở phía Đông, lũ gà nhất loạt gáy lên hết sức như để báo thù ai đó. Chỗ cậu có con gà trống nào không?" Ở đầu dây bên này tôi khẽ lắc đầu. "Tớ đang gọi từ bốt điện thoại cạnh công viên." "Ừm," tôi nói. Cách căn hộ của cô gần hai trăm mét có một bốt điện thoại. Vì Sumire không có điện thoại riêng nên cô luôn phải tự đi bộ ra đó để gọi điện. Giống như bốt điện thoại thông thường của bạn vậy. "Tớ biết là không nên gọi cho cậu khuya thế này. Tớ thật sự xin lỗi. Lúc đêm khuya khi bọn gà trống còn chưa bắt đầu gáy. Khi mặt trăng nhợt nhạt còn treo ở kia trên góc trời phía Đông trông như một quả thận đã dùng mòn. Nhưng hãy nghĩ đến tớ - tớ đã phải lê bước đến chỗ này trong đêm tối mịt mùng tay nắm chặt chiếc thẻ điện thoại được tặng tại đám cưới người chị họ. Trên đó là bức ảnh cặp vợ chồng hạnh phúc đang nắm tay nhau. Cậu có tưởng tượng được nó khiến ta sầu não thế nào không? Của đáng tội, tớ còn đi lộn tất nữa. Một bên có hình chú chuột Mickey; bên kia là cái tất len trơn. Căn phòng của tớ đúng là một nơi hoàn toàn thảm họa; tớ không thể tìm thấy bất cứ thứ gì. Tớ không muốn nói chuyện này quá to, nhưng cậu sẽ không thể tin được đám quần lót của tớ khủng khiếp đến thế nào đâu. Tớ ngờ là một tên ăn trộm đồ lót đã đụng vào chúng. Nếu một kẻ hư hỏng nào đó làm tớ tiêu tan hy vọng, tớ sẽ không bao giờ quên được. Tớ không cầu xin sự thông cảm nhưng cậu sẽ thật tử tế nếu trả lời tớ dài hơn một chút. Ngoài những cái than từ lạnh lùng của cậu, ừ hứ và ồ à. Còn liên từ thì sao? Liên từ sẽ hay đấy. Một từ song hoặc nhưng." "Tuy nhiên," tôi nói. Tôi cảm thấy kiệt sức và như đang trong tình trạng mơ mơ màng màng. "Tuy nhiên," cô lặp lại. "Được rồi, tớ có thể sống được với hai tiếng đó. Một bước nhỏ cho con người. Một bước rất nhỏ, tuy nhiên." "Vậy, chắc cậu muốn gì đó?" "Phải, tớ muốn cậu nói cho tớ biết một việc. Vì vậy tớ mới gọi điện," Sumire nói. Cô khẽ hắng giọng. "Điều tớ muốn biết là dấu hiệu và biểu tượng khác nhau thế nào?" Tôi cảm thấy một cảm giác kỳ quái, giống như một cái gì đấy đang lặng lẽ kéo qua đầu tôi. "Cậu nhắc lại câu hỏi được không?" Cô nhắc lại. Dấu hiệu và biểu tượng khác nhau thế nào? Tôi ngồi dậy trên giường, chuyển ống nghe từ tay trái sang tay phải. "Để tớ nhắc lại nhé - cậu gọi điện cho tớ vì cậu muốn biết sự khác nhau giữa dấu hiệu và biểu tượng. Vào sáng Chủ nhật, ngay trước bình minh. Ừm..." "Chính xác là 4h15," cô nói. "Điều đó cứ ám ảnh tớ. Sự khác nhau giữa dấu hiệu và biểu tượng có thể là gì chứ? Mấy tuần trước, một người hỏi tớ câu đó và tớ không thể gạt nó ra khỏi đầu. Tớ đang thay đồ đi ngủ và đột nhiên nhớ lại. Tớ không thể ngủ được chừng nào chưa tìm ra câu trả lời. Cậu có thể giải thích được không. Sự khác nhau giữa dấu hiệu và biểu tượng ấy?" "Để tớ nghĩ đã," tôi nói và nhìn lên trần nhà. Ngay cả lúc tỉnh táo hoàn toàn thì giải thích điều này một cách logic cho Sumire cũng đã không phải là dễ dàng. "Hoàng đế là biểu tượng của Nhật Bản. Cậu hiểu chứ?" "Phần nào," cô đáp. "Phần nào thì chưa được. Điều này đã được ghi trong hiến pháp Nhật Bản." Tôi nói, bình tĩnh hết mức có thể. "Không có chỗ để tranh luận hay ngờ vực. Cậu phải chấp nhận nó, nếu không chúng ta sẽ chẳng đi đến đâu cả." "Tiếp tục đi. Tớ sẽ chấp nhận điều đó." "Cám ơn cậu. Vậy là, hoàng đế là biểu tượng của Nhật Bản. Nhưng như thế không có nghĩa hoàng đế và Nhật Bản tương đương với nhau. Cậu hiểu chứ?" "Tớ không hiểu." "Được rồi, như thế này vậy - mũi tên chỉ về một hướng. Hoàng đế là biểu tượng của Nhật Bản, nhưng Nhật Bản không phải biểu tượng của hoàng đế. Cậu hiểu điều này, đúng không?" "Tớ chắc thế." "Lấy thí dụ, cậu viết 'Hoàng đế là dấu hiệu của Nhật Bản.' Nó khiến hai sự vật này tương đương với nhau. Vậy nên khi chúng ta nói 'Nhật Bản' nó cũng có nghĩa là hoàng đế,' và khi chúng ta nói đến 'hoàng đế' nó cũng có nghĩa là 'Nhật Bản'. Nói cách khác, hai sự vật này có thể tráo đổi cho nhau được. Giống như nói 'A bằng B vì thế B bằng A'. Đó là dấu hiệu." "Vậy là cậu nói cậu có thể đánh tráo nhà vua và Nhật Bản?" "Tớ không nói thế," tôi đáp lại, lắc đầu rất mạnh ở đầu dây bên này. "Tớ chỉ cố giải thích cho cậu theo cách tốt nhất mà tớ có thể. Tớ không có ý định đánh tráo hoàng đế và Nhật Bản. Đây chỉ là một cách giải thích." "Hừm," Sumire nói. "Tớ nghĩ là tớ hiểu được rồi. Như một hình ảnh vậy. Đó chỉ là sự khác nhau giữa đường một chiều và đường hai chiều." "Trong trường hợp này thì hiểu thế cũng được." "Tớ luôn kinh ngạc trước tài giải thích vấn đề của cậu." "Đó là nghề của tớ mà," tôi nói. Không hiểu sao lời lẽ của tôi dường như trở nên nhạt nhẽo, buồn tẻ. "Đôi khi cậu nên đặt mình vào địa vị một thầy giáo tiểu học xem. Cậu sẽ không bao giờ tưởng tượng được tớ đã gặp phải những loại câu hỏi thế nào đâu. 'Vì sao thế giới không vuông? Vì sao mực ống lại có mười chân chứ không phải tám?' Tớ phải học để có thể trả lời được về mọi thứ." "Cậu chắc hẳn là một thầy giáo tuyệt vời." "Tớ phải lấy làm lạ đấy," tôi nói. Tôi thật sự lấy làm lạ. "Nhân tiện, tại sao mực ống lại có mười chân chứ không phải tám nhỉ?" "Giờ thì tớ ngủ lại được chưa nào? Tớ mệt lắm rồi. Chỉ giữ cái điện thoại này thôi tớ đã cảm thấy như đang đỡ cả một bức tường đá lổn nhổn vậy." "Cậu biết không," Sumire nói và dừng lại một chút, - giống như ông lão gác cổng loảng xoảng kéo lại thanh chắn đường sắt khi tàu đi Saint- Petesburg vừa chạy qua, - " nói ra điều này thật ngớ ngẩn, nhưng tớ đang yêu." "Ừm," tôi nói, chuyển ống nghe sang tai trái. Tôi có thể nghe thấy hơi thở cô phả vào ống nói. Tôi không biết phải trả lời như thế nào. Và, như vẫn thường xảy ra khi không biết nói gì, tôi buột miệng thốt ra một câu hoàn toàn không phù hợp. "Chắc không phải với tớ chứ?" "Không phải với cậu," Sumire đáp. Tôi nghe có tiếng bật lửa rẻ tiền châm thuốc lá. "Hôm nay cậu rảnh không? Tớ muốn nói chuyện nhiều hơn." "Ý cậu là về tình yêu của cậu với người nào đó không phải tớ?" "Phải," cô nói. "Về tình yêu say đắm của tớ với một người không phải cậu." Tôi kẹp điện thoại vào giữa đầu và vai rồi duỗi người ra. "Chiều tối tớ rảnh." "Vậy năm giờ tớ đến," Sumire đáp lại. Rồi nói thêm, như thể vừa nghĩ ra: "Cám ơn cậu." "Vì cái gì?" "Vì đã thật tử tế khi trả lời câu hỏi của tớ vào lúc nửa đêm." Tôi mơ hồ đáp lại, gác máy rồi tắt đèn. Trời vẫn tối đen như mực. Ngay trước khi thiếp đi, tôi nghĩ đến câu cám ơn kết thúc của cô và tự hỏi không biết trước đây đã có khi nào tôi được nghe cô thốt ra những lời này chưa. Có lẽ đã từng có, một lần, nhưng tôi không tài nào nhớ lại được. Sumire đến căn hộ của tôi trước năm giờ một chút. Tôi không nhận ra cô. Cô hoàn toàn thay đổi phong cách. Tóc cô cắt ngắn hợp thời trang, ngón tay vẫn còn thấy vết kéo cắt. Cô mặc áo len ngắn tay sáng màu, váy xanh nước biển và đôi guốc đen bóng, đế trung bình. Thậm chí cô còn đi tất dài. Tất dài? Tôi không rành về quần áo phụ nữ, nhưng rõ ràng mọi thứ cô mặc đều thuộc loại rất đắt tiền. Mặc như thế này trông cô thật lịch sự và đáng yêu. Nói thật là khá hợp. Mặc dù tôi thích Sumire kỳ quặc lúc trước hơn. Thôi thì mỗi người một kiểu. "Cũng không tệ," tôi nói, lướt mắt quan sát cô từ đầu đến chân. "Nhưng tớ đang tự hỏi ông già Kerouac sẽ đánh giá sao đây." Sumire mỉm cười, một nụ cười hơi sành điệu hơn thường lệ. "Sao bọn mình không đi dạo một lát nhỉ?" Chúng tôi đi bên nhau dọc đại lộ University về phía bến xe và dừng lại ở quán cà phê ưa thích. Sumire gọi chiếc bánh ngọt quen thuộc kèm cà phê. Đó là một chiều Chủ nhật quang đãng gần cuối tháng Tư. Các cửa hàng hoa tràn ngập hoa nghệ tây và tulip. Một cơn gió nhẹ thổi qua làm sột soạt tà áo của các thiếu nữ và thoảng đưa mùi cây non dìu dịu. Tôi đan tay sau đầu nhìn Sumire chậm rãi nhưng hăm hở ăn bánh ngọt. Từ chiếc loa nhỏ trên trần tiệm cà phê vọng ra tiếng Astrud Gillberto đang hát một bài hát cũ điệu samba. "Hãy mang tôi về Aruanda", bà hát. Tôi nhắm mắt, tiếng lách cách ly chén như tiếng biển rì rầm xa vắng. Aruanda, nơi ấy thế nào? Tôi tự hỏi. "Vẫn buồn ngủ à?" "Không hề," tôi đáp, mở mắt ra. "Cậu khỏe chứ?" "Tớ khỏe. Khỏe như sông Moldau mùa xuân vậy." Sumire nhìn chằm chằm một lúc vào cái đĩa đựng bánh giờ đã trống trơn. Cô nhìn vào tôi. "Cậu không lấy làm lạ khi tớ ăn mặc thế này à?" "Tớ đang đoán." "Không phải tớ mua đâu. Tớ đâu có lắm tiền như vậy. Đằng sau chúng là cả một câu chuyện." "Có phiền không nếu tớ thử đoán xem câu chuyện đó như thế nào?" "Thoải mái đi," cô nói. "Cậu vận bộ quần áo Jack Kerouac lôi thôi như thường lệ, điếu thuốc vắt vẻo trên môi, đang rửa tay trong một cái nhà vệ sinh công cộng nào đó thì một phụ nữ cao khoảng mét rưỡi chạy xộc vào, thở đứt cả hơi, ăn diện ngất trời, nói với cậu 'Xin cô làm ơn giúp tôi! Không còn thời gian giải thích, nhưng tôi đang bị bọn xấu đuổi theo. Tôi có thể đổi quần áo cho cô được không? Nếu chúng ta tráo quần áo cho nhau thì tôi có thể trốn được bọn chúng. Ơn Chúa, chúng ta cùng cỡ.' Giống y như trong phim hành động Hồng Kông vậy." Sumire bật cười. "Và người phụ nữ đó đi giày sáu lăm, mặc váy cỡ bảy. Thật là trùng hợp ghê." "Thế rồi cậu thay quần áo, cởi chiếc quần lót chuột Mickey của mình ra." "Không phải quần lót mà đôi tất của tớ mới có hình chuột Mickey." "Thì đằng nào cũng thế thôi," tôi nói. "Hừm," Sumire bối rối. "Thật ra cậu nói cũng không sai lắm." "Sai như thế nào?" Cô nhoài người qua bàn. "Đó là cả một câu chuyện dài. Cậu có muốn nghe không?" "Từ khi cậu đi cả quãng đường đến đây để nói chuyện với tớ, thì tớ đã có cảm giác rõ ràng là việc tớ nghe hay không không thành vấn đề. Dù sao thì cứ kể đi. Thêm cả khúc dạo đầu vào, nếu cậu thích. Cả 'Vũ điệu của các linh hồn thần thánh' nữa. Tớ không phiền đâu." Cô bắt đầu kể. Về đám cưới của người chị họ, về bữa ăn trưa của cô và Miu tại Aoyama. Đó quả là một câu chuyện dài. Chương 3 Thứ Hai, một ngày sau đám cưới, trời mưa. Mưa bắt đầu ngay sau nửa đêm và rơi không ngừng cho đến tận bình minh. Một cơn mưa nhẹ nhàng trong đêm tối tưới khắp mặt đất mùa xuân, lặng lẽ khuấy động những sinh vật không tên sống ở đó. Ý nghĩ gặp lại Miu khiến Sumire lo sợ, cô không tài nào tập trung tư tưởng được. Cô thấy như mình đang đứng đơn độc trên một đỉnh đồi bốn bề gió hú. Cô ngồi xuống bàn như thường lệ, châm thuốc, bật chiếc máy xử lý văn bản, nhưng chỉ chăm chăm vào màn hình mà chẳng nảy ra được câu nào trong đầu. Đối với Sumire đó là điều gần như không thể được. Cô bỏ cuộc, tắt máy, ngả lưng xuống chiếc giường nhỏ tí xíu và, với điếu thuốc hút dở vắt vẻo trên môi, cô phó mặc mình cho những ý nghĩ bâng quơ. Nếu ý nghĩ về cuộc gặp Miu khiến mình rối loạn thế này, cô nghĩ, thì hãy thử tưởng tượng xem sẽ còn khổ sở thế nào nếu bọn mình nói lời tạm biệt ngay tại đám cưới và không bao giờ gặp nhau nữa. Có phải mình ao ước được giống như chị ấy không - một phụ nữ lớn tuổi xinh đẹp, tinh tế? Không, cô quyết định, không thể như thế được. Khi ở bên chị ấy, mình luôn muốn chạm vào người chị. Nó khác với một niềm ao ước. Sumire thở dài, ngó lên trần nhà một lúc, và châm thuốc. Chuyện này có vẻ hơi kỳ lạ, cô nghĩ. Lần đầu tiên trong đời mình yêu, ở tuổi hai mươi hai. Và người ấy tình cờ lại là một phụ nữ. Tiệm ăn Miu đặt chỗ cách ga tàu điện ngầm Omote Sando khoảng mười phút đi bộ. Đó là kiểu tiệm ăn khó tìm với những người đến đây lần đầu; chắc chắn nó không phải là nơi bạn ngẫu nhiên ghé vào ăn. Ngay cả cái tên tiệm cũng khó nhớ nếu bạn chưa nghe qua một vài lần. Ở cửa ra vào, Sumire nói tên Miu và được dẫn vào một phòng ăn nhỏ kín đáo ở tầng một. Miu đã có mặt ở đó, vừa nhấm nháp từng ngụm Perrier lạnh vừa mải mê chuyện trò về thực đơn với người phục vụ. Miu mặc áo sơ mi xanh nước biển, bên ngoài khoác chiếc áo cotton dài tay cùng màu, đầu cài chiếc kẹp tóc mỏng giản dị bằng bạc. Chị mặc quần jean trắng bó sát người. Ở một góc bàn là chiếc kính râm màu xanh sáng, trên chiếc ghế cạnh chị có đôi vợt tennis và chiếc túi thể thao Missoni. Trông chị giống như đang trên đường về nhà sau khi chơi mấy séc quần vợt buổi chiều. Má chị vẫn ửng hồng. Sumire hình dung cảnh chị trong buồng tắm ở sân quần vợt đang kỳ cọ cơ thể bằng thỏi xà phòng có mùi ngoại quốc. Khi Sumire bước vào phòng trong trang phục quen thuộc áo vét bằng vải chéo và quần kaki, tóc tai bù xù như một kẻ mồ côi, Miu rời mắt khỏi tờ thực đơn ngước lên nhìn và cười tươi. "Hôm trước em bảo là em có thể ăn món gì cũng được phải không? Chị hy vọng em không phiền nếu chị đến trước và đặt món cho cả hai." Tất nhiên là không rồi, Sumire đáp. Miu gọi thức ăn cho hai người giống nhau. Món chính là cá nướng tái xốt nấm. Từng lát cá được nướng đến mức hoàn hảo, chín vàng theo một kiểu cách nghệ thuật mà bạn biết là vừa đúng mức. Món bí ngô rán và đĩa xalát rau diếp tươi ngon lành làm cho bữa ăn thêm trọn vẹn. Đồ tráng miệng là bánh kem nướng nhưng chỉ mình Sumire ăn. Miu không động đến món này. Cuối cùng hai người uống cà phê espresso. Sumire quan sát thấy Miu ăn uống rất cẩn thận. Cổ chị thanh mảnh như một thân cây, cơ thể không thừa chút mỡ nào. Chị không có vẻ phải ăn kiêng. Nhưng dường như chị rất nghiêm khắc về chuyện ăn uống. Giống như người khổ hạnh sống trong pháo đài trên núi cao vậy. Hai người vừa ăn vừa chuyện phiếm. Miu muốn biết rõ hơn lai lịch Sumire, và cô buộc phải trả lời các câu hỏi của Miu một cách trung thực hết mức có thể. Cô kể cho Miu nghe về bố mẹ, trường lớp (tất cả những điều này cô đều nói miễn cưỡng), về giải thưởng cô nhận được ở cuộc thi sáng tác - một chiếc xe đạp và bộ bách khoa thư - về việc vì sao cô bỏ học và cách sử dụng thời gian của cô hiện nay. Không phải một cuộc đời ly kỳ đặc biệt. Mặc dù vậy, Miu vẫn say sưa lắng nghe như thể đang nghe kể về những phong tục hấp dẫn của một miền đất xa xăm. Sumire muốn biết nhiều hơn về Miu, nhưng chị ngần ngại không muốn nói về bản thân. "Chẳng có gì to tát cả," chị mỉm cười trì hoãn. "Chị muốn nghe về em hơn." Cho đến tận cuối bữa ăn Sumire vẫn chưa biết được gì nhiều. Điều duy nhất cô khám phá ra là thế này: bố Miu đã tặng rất nhiều tiền cho một thị trấn nhỏ phía Bắc Triều Tiên nơi ông sinh ra, và cho xây một vài chung cư dành cho người dân thành phố - đáp lại họ đã dựng một bức tượng ông bằng đồng đặt ở quảng trường thành phố. "Đó là một thành phố nhỏ nằm sâu trong núi," Miu kể. "Mùa đông rất khắc nghiệt, chỉ cần nhìn chỗ đó thôi cũng khiến em rùng mình rồi. Núi thì lởm chởm, đỏ quạch, dày đặc cây cối cong queo nghiêng ngả. Hồi còn nhỏ, chị đã có lần được bố đưa tới đó. Khi họ khánh thành bức tượng. Tất cả bà con họ hàng đều đến, kêu la và ôm chị. Chị không hiểu nổi một lời nào họ nói. Chị nhớ mình đã rất sợ hãi. Với chị đó là một thành phố nước ngoài mà trước đó chị chưa từng thấy." "Bức tượng thế nào hả chị?" Sumire hỏi. Cô chưa từng biết một ai được tạc tượng. "Một bức tượng bình thường thôi. Loại tượng em sẽ tìm được ở khắp mọi nơi. Nhưng việc bố mình trở thành tượng thật là điều kỳ lạ. Hãy thử tưởng tượng xem nếu họ dựng tượng bố em ở quảng trường trước nhà ga Chigasaki. Em sẽ cảm thấy nó khá kỳ quặc, đúng không? Trên thực tế bố chị hơi lùn nhưng bức tượng lại làm cho ông cao vống lên. Khi đó chị mới năm tuổi nhưng chị đã choáng váng khi thấy có những điều không phải bao giờ cũng đúng như đời thật." Nếu họ dựng tượng bố mình, Sumire trầm ngâm, thì bức tượng đó thật không may mắn khi phải nhận nhiệm vụ không mấy dễ chịu này. Vì ngoài đời bố cô hơi quá đẹp trai. o O o "Chị muốn quay lại câu chuyện bỏ dở hôm qua," Miu lên tiếng khi hai người uống sang cốc espresso thứ hai. "Vậy đấy, em có muốn làm việc cho chị không?" Sumire thèm hút thuốc đến chết đi được nhưng chẳng có chiếc gạt tàn nào cả. Cô đành nhấp một ngụm nước Perrier. Cô trả lời thẳng thắn. "Ờ, vậy chính xác thì nó là loại công việc gì? Như em nói hôm qua, trừ việc lao động chân tay đơn giản thì em chưa bao giờ có cái mà chị gọi là một công việc đích thực. Hơn nữa em không có quần áo phù hợp. Những thứ em mặc hôm qua ở đám cưới đều là đồ đi mượn cả." Miu gật đầu, nét mặt không thay đổi. Chắc hẳn chị đã đoán trước câu trả lời này. "Chị nghĩ là chị khá hiểu kiểu người như em," Miu nói, "và công việc chị dự tính không hề khó đối với em. Chị tin em có thể đối phó được với bất cứ chuyện gì xảy đến. Cái chính là em có thích làm việc với chị hay không thôi. Cứ tiếp cận vấn đề theo cách đó nhé, chỉ đơn giản là có hay không thôi." Sumire cân nhắc lời lẽ. "Em thực sự rất vui khi nghe chị nói vậy, nhưng ngay bây giờ thì điều quan trọng nhất đối với em là viết tiểu thuyết. Em muốn nói đó chính là lý do em bỏ học." Miu đưa mắt qua bàn ăn nhìn thẳng vào Sumire. Sumire cảm nhận được cái nhìn lặng lẽ đó trên da thịt và cảm thấy mặt mình nóng lên. "Em có phiền không nếu chị nói chính xác những gì chị đang nghĩ?" Miu hỏi. "Tất nhiên là không rồi. Chị cứ nói đi." "Nó có thể khiến em buồn đấy." Để chứng tỏ mình có thể xử lý được vấn đề đó, Sumire mím môi và nhìn thẳng vào mắt Miu. "Ở chặng đời này của em, chị không nghĩ em có thể viết được bất cứ thứ gì có giá trị, dù em có dành bao nhiêu thời gian để hoàn thành tiểu thuyết của mình đi nữa," Miu nói, nhẹ nhàng nhưng dứt khoát. "Em có tài. Chị tin một ngày nào đó em sẽ là một nhà văn xuất sắc. Chị không chỉ nói thế thôi đâu, chị thực sự tin vào điều đó. Em có năng khiếu. Nhưng giờ chưa phải lúc. Cái sức mạnh em cần để mớ cánh cửa đó hoàn toàn chưa có. Em có bao giờ cảm thấy như vậy không?" "Thời gian và kinh nghiệm," Sumire gói gọn lại. Miu mỉm cười. "Dù sao đi nữa, đến làm việc cho chị đi. Đấy là lựa chọn tốt nhất đối với em. Và khi nào em cảm thấy đã đến lúc thì đừng ngần ngại vứt hết mọi thứ đi và viết những cuốn tiểu thuyết em hằng ấp ủ. Em chỉ cần nhiều thời gian hơn người bình thường để vươn tới giai đoạn đó. Thậm chí ngay cả khi em đến tuổi hai mươi tám mà vẫn chưa có bước ngoặt nào trên đường đời, rồi bố mẹ thôi chu cấp và em rời nhà không một xu dính túi, ờ - thế thì đã sao nào? Có thể em sẽ bị đói chút ít đấy, nhưng đó có thể là kinh nghiệm tổt cho một nhà văn." Sumire há miệng định đáp lại nhưng không thốt ra được lời nào. Cô chỉ gật đầu. Miu vươn tay phải ra đến giữa bàn. "Đưa chị xem tay em nào," chị nói. Sumire chìa tay phải ra và Miu nắm lấy như thể bọc lấy nó. Lòng bàn tay cô ấm và mềm. "Em không có gì phải lo lắng nhiều cả. Đừng tỏ vẻ rầu rĩ thế. Chúng ta sẽ hòa hợp nhau thôi." Sumire nuốt nước bọt, nhưng bằng cách nào đó đã thư giãn được trở lại. Trước cái nhìn của Miu chiếu thẳng vào mình như vậy, cô thấy mình như đang dần tan ra. Giống như cục nước đá đặt dưới ánh mặt trời, cô thực sự có thể hoàn toàn biến mất. "Bắt đầu từ tuần tới chị muốn em đến văn phòng chị ba ngày một tuần. Thứ Hai, thứ Tư và thứ Sáu. Em có thể đến lúc mười giờ sáng và về lúc bốn giờ chiều. Như thế em sẽ tránh được giờ cao điểm. Chị không thể trả lương cao cho em, nhưng công việc đơn giản, và khi rảnh rỗi em có thể đọc sách. Một điều kiện là em phải tự học tiếng Ý một tuần hai lần. Em đã biết tiếng Tây Ba Nha rồi nên việc này chắc cũng không quá khó. Và chị muốn em thực hành đàm thoại tiếng Anh và lái xe bất cứ khi nào có thời gian. Em làm được những việc đó không?" "Em nghĩ là làm được," Sumire đáp. Giọng cô nghe như giọng của một ai đó vọng đến từ căn phòng khác. Bất kể mình được yêu cầu làm gì, bất kể mình được ra lệnh làm gì, tất cả những gì mình có thể làm là nói vâng, cô nhận ra điều đó. Miu nhìn xoáy vào Sumire, vẫn nắm lấy tay cô. Sumire có thể nhìn thấy rõ ràng hình dáng mình được phản chiếu sâu thẳm trong đôi mắt đen của Miu. Đối với cô, nó giống như chính linh hồn cô đang bị hút vào phía bên kia của một tấm gương. Sumire thích ảo giác đó đồng thời nó cũng làm cô sợ. Miu mỉm cười, những đường nét duyên dáng lộ ra bên khóe mắt. "Đến chỗ chị đi. Có một thứ chị muốn cho em xem." Chương 4 Kỳ nghỉ hè năm thứ nhất đại học tôi thực hiện chuyến đi ngẫu hứng quanh vùng Hokuriku, tình cờ gặp một phụ nữ lớn hơn tám tuổi đang đi một mình và chúng tôi đã qua đêm với nhau. Chuyện này khi đó đối với tôi hệt như đoạn mở đầu tiểu thuyết Sanshiro[1] của Soseki. Người phụ nữ đó làm tại phòng ngoại tệ của một nhà băng ở Tokyo. Hễ rảnh rỗi là chị vớ lấy cuốn sách rồi một mình lên đường. "Đi du lịch một mình cho đỡ mệt mỏi hơn," chị bảo tôi. Trông chị vẫn có nét hấp dẫn nên thật khó hiểu vì sao chị lại để ý đến một người như tôi - một cậu học sinh trung học gầy gò, nhút nhát. Chị ngồi đối diện tôi trong tàu hỏa, và có vẻ rất thích những chuyện phiếm vui vẻ, vô hại giữa chúng tôi. Chị nhiều lần cười phá lên. Và khác với lệ thường, tôi cũng trò chuyện rôm rả. Ngẫu nhiên chúng tôi cùng xuống ga Kanazawa. "Cậu có chỗ nghỉ lại chưa?" chị hỏi. "Chưa," tôi đáp. Trong đời tôi chưa bao giờ ở khách sạn. "Tôi có một phòng khách sạn," chị bảo tôi. "Cậu có thể nghỉ lại nếu thích. Không phiền gì đâu," chị tiếp tục. "Phòng đó ở một hay hai người thì giá cũng như nhau." Tôi cảm thấy căng thẳng trong lần đầu tiên chúng tôi làm tình, cử chỉ lóng ngóng, vụng về. Tôi xin lỗi chị. "Không cần tỏ ra lịch sự chứ!" Chị nói. "Không cần xin lỗi vì những chuyện vặt vãnh." Sau khi tắm chị khoác áo choàng, lấy từ tủ lạnh ra hai lon bia và đưa cho tôi một lon. "Cậu lái xe tốt chứ?" Chị hỏi. "Tôi mới lấy giấy phép lái xe nên không nói như vậy được. Chỉ tàm tạm thôi." Chị mỉm cười. "Tôi cũng vậy. Tôi nghĩ mình lái khá tốt, nhưng bạn bè tôi lại không đồng ý. Chắc tôi lái cũng chỉ trung bình thôi. Chắc hẳn cậu phải quen một vài người cho rằng họ là những tài xế cừ khôi, đúng không?" "Phải, tôi cho là mình biết." "Và chắc hẳn phải có một số người lái kém." Tôi gật đầu. Chị lặng lẽ hớp một ngụm bia và trầm ngâm. "Trong chừng mực nào đó có những vấn đề mang tính bẩm sinh. Tài năng, cậu có thể gọi như vậy. Người nhanh nhẹn, người vụng về...Người này thì chăm chú, người kia lại không. Phải thế không?" "Được rồi, thử suy ngẫm về điều này xem. Giả sử cậu làm một chuyến đi dài với ai đó bằng xe hơi. Và hai người thay nhau lái. Cậu sẽ chọn kiểu người nào? Lái tốt nhưng không chú ý hay người chú ý nhưng lái không tốt?" "Có lẽ kiểu người thứ hai," tôi nói. "Tôi cũng vậy," chị đáp. "Ở đây, tôi và cậu nghĩ giống nhau: Tốt hay tồi, nhanh nhẹn hay vụng về - những cái đó chẳng có gì quan trọng hết. Cái chính là phải chú ý. Phải điềm tĩnh, cảnh giác với mọi thứ xung quanh." "Cảnh giác ư?" Tôi hỏi. Chị chỉ mỉm cười, không nói gì hết. Một lúc sau chúng tôi làm tình lần thứ hai, lần này dịu dàng và hòa hợp hơn. Phải cảnh giác - tôi nghĩ mình đang bắt đầu hiểu ra. Lần đầu tiên tôi đã thấy một phụ nữ hành xử ra sao trong cơn khoái cảm chăn gối. Sáng hôm sau chúng tôi cùng nhau ăn sáng rồi chia tay. Chị đi đường chị, tôi đi đường tôi. Khi chia tay chị bảo tôi là hai tháng nữa chị sẽ cưới một anh chàng cùng chỗ làm. "Anh ấy là một chàng trai rất tử tế," chị nói vui vẻ. "Bọn tôi đã hẹn hò năm năm rồi và cuối cùng thì cũng sắp hợp thức hóa mối quan hệ này. Nghĩa là có lẽ tôi sẽ không còn chuyến đi một mình nào nữa. Vậy đấy." Tôi vẫn còn trẻ, cảm thấy tin chắc rằng những chuyện phiêu lưu loại này sẽ còn nhiều dịp xảy đến trong đời. Về sau tôi mới biết mình đã nhầm đến thế nào. Tôi đã kể chuyện này cho Sumire nghe lâu rồi. Chẳng hiểu lý do nào đã khiến tôi kể lại. Có lẽ đấy là trong một cuộc chuyện trò của chúng tôi về ham muốn tình dục. "Thực chất chuyện cậu kể cho tớ nghe là gì vậy?" "Là phải cảnh giác, vậy thôi," tôi đáp. "Đừng định kiến, hãy lắng nghe những gì đang xảy ra, hãy mở rộng con mắt, tấm lòng và đầu óc của cậu." "Hừm," Sumire đáp. Cô hầu như đang nghiền ngẫm kinh nghiệm tình dục tầm thường đó của tôi, có lẽ băn khoăn không biết có đưa nó vào tiểu thuyết được hay không. "Dù sao đi nữa, chắc chắn cậu có rất nhiều kinh nghiệm, đúng không?" "Tớ không nói là nhiều," tôi nhẹ nhàng bác lại. "Mọi việc chỉ là tình cờ." Cô khẽ cắn móng tay, tư lự. "Nhưng cũng phải như thế nào thì cậu mới tập trung chú ý được chứ? Tình huống nguy kịch xảy ra, cậu bảo được rồi tôi sẽ cảnh giác và lắng nghe cẩn thận, nhưng cậu chẳng thể giải quyết ổn thỏa những việc đó bằng việc cắn móng tay, đúng không? Cậu có thể nói cụ thể hơn không? Cho tớ một thí dụ?" "Được thôi, trước hết là cậu phải thư giãn. Bằng cách...giả sử như là đếm số." "Gì nữa?" "Nghĩ về một quả dưa chuột trong tủ lạnh vào một buổi chiều hè. Chỉ là thí dụ thôi nghe." "Gượm đã," cô nói với một đoạn dừng đầy ẩn ý. "Có phải ý cậu là khi cậu làm tình với một cô gái cậu tưởng tượng ra những quả dưa chuột để trong tủ lạnh vào buổi chiều hè không?" "Không phải lúc nào cũng thế," tôi nói. "Nhưng thỉnh thoảng." "Có thể." Sumire nhăn mặt, lắc đầu vài cái. "Cậu khó hiểu hơn vẻ bề ngoài đấy." "Ai mà chẳng có điều gì đó kỳ lạ về mình," tôi đáp. "Trong nhà hàng, khi Miu cầm tay và nhìn sâu vào mắt tớ, tớ đã nghĩ về những quả dưa chuột," Sumire bảo tôi. "Yên nào! Lắng nghe nào, tớ đã tự nhủ vậy." "Những quả dưa chuột?" "Cậu không nhớ cậu đã nói gì với tớ à - về những quả dưa chuột trong tủ lạnh vào buổi chiều hè ấy?" "Ồ đúng rồi, tớ nhớ chứ," tôi hồi tưởng. "Nó có giúp được gì không?" "Chút chút," cô nói. "Thật vui khi được nghe điều này," tôi nói. Sumire kéo câu chuyện về lại mạch. "Căn hộ của Miu chỉ cách nhà hàng một đoạn ngắn, có thể đi bộ được. Nó không lớn lắm nhưng trông rất đáng yêu. Hàng hiên tràn ngập ánh nắng, cây trồng trong nhà, bộ sofa bọc da của Ý, dàn loa Bose, có máy in và một chiếc Jaguar đậu trong nhà xe. Chị ấy sống ở đó một mình. Còn cả hai vợ chồng chị ấy thì có một căn nhà ở đâu đó tại Setagaya. Cứ cuối tuần chị ấy mới về đấy. Phần lớn thời gian chị ấy sống ở căn hộ tại Aoyama. Cậu nghĩ chị ấy cho tớ xem cái gì nào?" "Đôi dép da rắn ưa thích của Mark Bolan được cất trong hộp kính chứ gì," tôi nói liều. "Một trong những di sản vô giá mà nếu không có nó thì chẳng có gì để mà kể về lịch sử rock and roll. Bút tích của ông ta trên khung cửa, không thiếu một thang âm đơn nào. Các fan cứ gọi là mê mẩn." Sumire tư lự thở dài. "Nếu người ta phát minh ra chiếc xe hơi chạy bằng những câu đùa cợt ngốc nghếch thì cậu có thể đi xa được đấy." "Thì cứ cho đấy là do đầu óc cùn mòn," tôi nói nhún nhường. "Thôi, dẹp chuyện đùa lại, tớ muốn cậu suy nghĩ nghiêm túc về chuyện này đấy. Cậu nghĩ chị ấy cho tớ xem cái gì? Nếu cậu nói đúng thì tớ sẽ trả tiền bữa ăn này." Tôi hắng giọng. "Chị ấy cho cậu xem bộ quần áo lộng lẫy mà hiện giờ cậu đang diện. Và bảo cậu mặc chúng đi làm." "Cậu thắng rồi," cô nói."Chị ấy có một người bạn giàu có mặc quần áo cùng cỡ với tớ. Đời thật lạ lùng phải không? Có những người dư thừa quần áo đến mức không còn chỗ nào mà để. Lại có những người như tớ đến một đôi tất cũng chẳng có mà đi. Nhưng dù sao đi nữa, tớ cũng chẳng bận tâm. Chị ấy đến nhà bạn và mang về cả một đống quần áo thừa. Nếu nhìn kỹ thì thấy chúng cũng hơi lỗi mốt rồi, nhưng phần lớn mọi người sẽ chẳng để ý gì hết." Dù có nhìn gần đến thế nào chăng nữa thì tôi vẫn không nhận ra, tôi bảo cô. Sumire mỉm cười thỏa mãn. "Những bộ quần áo đó vừa với tớ như in. Đầm này, áo choàng này, váy này - tất tật. Eo hơi rộng một chút, nhưng khi thắt dây lưng vào thì đố ai mà nhận ra sự khác nhau được. Cỡ giày của tớ may sao lại gần bằng cỡ của Miu nên chị ấy đã cho tớ mấy đôi chị ấy không dùng nữa. Đế cao, đế thấp, dép mùa hè. Tất cả đều mang nhãn hiệu Ý. Cả mấy chiếc ví xách tay nữa. và một bộ đồ hóa trang nhỏ." "Một Jane Eyre chính hiệu," tôi nói. Tất cả chuyện đó giải thích cho việc Sumire đã bắt đầu làm việc ba ngày một tuần tại văn phòng của Miu như thế nào. Mặc áo váy công sở, đi giày cao gót, thoa chút son phấn, bắt chuyến tàu sáng từ Kichijoji đến Haraijuku. Chẳng hiểu sao tôi không thể hình dung nổi cảnh ấy. Ngoài văn phòng tại công ty ở Akasaka, Miu còn có một văn phòng riêng nhỏ tại Jingumae. Trong phòng có hai chiếc bàn viết dành cho chị và người trợ lý (nói cách khác là Sumire), một tủ hồ sơ, máy fax, điện thoại và một chiếc máy tính Power Book. Tất cả chỉ có thế. Đây là căn hộ chung cư một phòng, có thêm nhà bếp và phòng tắm nhỏ xíu. Có cả máy nghe đĩa, bộ loa nhỏ và một tá đĩa CD cổ điển. Căn hộ nằm ở tầng hai, và có thể nhìn xuống một công viên nhỏ qua khung cửa sổ quay mặt ra hướng Đông. Tầng trệt tòa nhà được dùng làm nơi trưng bày và bán sản phẩm nội thất Bắc Âu. Toàn bộ tòa nhà nằm cách xa đường phố chính nên tiếng ồn xe cộ được giữ ở mức tối thiểu. Ngay khi đến văn phòng, Sumire sẽ tưới cây và bật máy pha cà phê. Cô kiểm tra tin nhắn điện thoại và các email trên Power Book. Cô in hết thư ra và đặt lên bàn của Miu. Phần lớn số thư là từ các đại lý nước ngoài, viết bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp. Cô bóc những thư bình thường và ném tất tật các loại tài liệu quảng cáo. Ngày nào cũng có vài cuộc điện thoại, một số được gọi từ nước ngoài. Sumire ghi lại tên, số điện thoại và tin nhắn của người gọi đến và chuyển chúng vào điện thoại di động cho Miu. Miu thường tới vào lúc một, hai giờ chiều. Chị ở lại khoảng hơn tiếng đồng hồ, dặn dò Sumire, uống cà phê và gọi mấy cuộc điện thoại. Thư nào cần trả lời thì chị đọc cho Sumire đánh máy rồi gửi chúng đi qua đường bưu điện hoặc fax. Chúng thường là những bức thư làm ăn khá ngắn gọn. Sumire cũng lo chuyện đặt chỗ cho Miu tại tiệm làm tóc, nhà hàng, sân quần vợt. Khi ngơi việc, Miu và Sumire chuyện phiếm một lúc, sau đó Miu rời đi. Vì vậy Sumire thường chỉ có một mình ở văn phòng, ngồi hàng tiếng đồng hồ không ai trò chuyện, nhưng không bao giờ cảm thấy buồn chán hay đơn độc. Cô xem lại những bài học tiếng Ý hai lần một tuần, ghi nhớ động từ bất quy tắc, tập phát âm với băng tiếng. Cô cũng học thêm về máy tính và đã có thể sửa được những hư hỏng thông thường. Cô mở hồ sơ lưu trong ổ cứng và biết được sơ qua những việc Miu đang làm. Công việc chính của Miu đúng như chị đã diễn tả tại đám cưới. Chị ký hợp đồng với các nhà sản xuất rượu vang nhỏ, chủ yếu ở Pháp, rồi buôn rượu của họ cho các nhà hàng và nhất là cho các cửa hiệu rượu bia ở Tokyo. Đôi khi chị tổ chức các chuyến lưu diễn cho các nhạc công đến Nhật Bản. Đại lý của các hàng lớn lo liệu mọi chuyện liên quan đến vấn đề kinh doanh phức tạp, còn Miu lo phần kế hoạch chung và một số việc ban đầu. Cái tài của Miu là biết tìm ra những nghệ sĩ biểu diễn trẻ đầy hứa hẹn nhưng còn khuất trong bóng tối và đưa họ đến Nhật Bản. Sumire không biết lợi nhuận Miu thu được từ công việc làm ăn riêng là bao nhiêu. Sổ sách tài chính được lưu vào các đĩa riêng mà không có mật khẩu thì không truy cập được. Dẫu sao, cứ được gặp và trò chuyện với Miu là Sumire đã sướng mê đi, lòng rộn ràng, hớn hở. Đây là chiếc bàn Miu thường ngồi, cô nghĩ. Đây là cây bút bi chị ấy dùng; chiếc cốc chị ấy dùng để uống cà phê. Dù công việc vặt vãnh đến đâu Sumire cũng đều làm hết sức mình. Miu thường mời Sumire đi ăn tối. Vì kinh doanh rượu vang nên Miu thấy cần phải năng lui tới các nhà hàng nổi tiếng để thu thập những tin tức mới nhất. Miu luôn gọi món cá trắng, hay đôi khi là món gà, dù chị thường để lại một nửa rồi chuyển sang dùng món tráng miệng. Chị đọc rất kỹ danh sách rượu trước khi quyết định gọi một chai nhưng không bao giờ uống quá một cốc. "Em uống được bao nhiêu cứ uống," chị bảo Sumire, nhưng Sumire không thể nào uống hết được. Vậy là bao giờ hai người cũng để thừa nửa chai rượu đắt tiền, nhưng Miu không bận tâm. "Thật hoang phí khi gọi cả một chai rượu cho hai chị em," một lần Sumire nói với Miu. "Chị em mình chỉ uống được nửa chai là cùng." "Đừng lo," Miu cười. "Chúng ta để lại càng nhiều thì nhân viên nhà hàng càng có cơ hội nếm nó. Từ hầu rượu, đầu bếp cho đến người bồi bàn chuyên rót nước cho khách. Nhờ đó nhiều người sẽ biết được mùi vị rượu ngon. Đấy là lý do vì sao để thừa rượu đắt tiền không bao giờ là hoang phí cả." Miu xem xét màu sắc của chai Médoc 1986 rồi như thể đang thưởng thức một bài văn tuyệt vời, cẩn thận nếm thử vị của nó. "Việc gì cũng vậy thôi, em phải học bằng kinh nghiệm của mình, phải tự trả học phí cho mình. Sách vở không giúp gì được cho em đâu." Theo Miu ra hiệu, Sumire nâng cốc rượu lên, chăm chú nhấp một ngụm, ngậm trong miệng rồi mới nuốt. Một dư vị dễ chịu đọng lại, nhưng sau vài giây nó tan biến giống như giọt sương buổi sáng trên chiếc lá mùa hè. Đấy là để khai vị cho món ăn sắp tới. Lần nào ăn uống và trò chuyện cùng Miu, Sumire cũng học thêm được điều mới mẻ. Sumire cảm thấy choáng váng trước vô số những điều cô còn phải học. "Chị biết đấy, em chưa bao giờ nghĩ rằng mình muốn trở thành một người nào khác," một lần Sumire thổ lộ, có lẽ bị thôi thúc bởi lượng rượu cô uống nhiều hơn thường lệ. "Nhưng đôi khi em nghĩ mình mà giống chị thì cũng hay." Miu nín thở trong một thoáng. Rồi chị cầm cốc rượu lên uống một ngụm. Thoáng chốc mắt chị nhuốm màu rượu đỏ sẫm. Khuôn mặt không còn chút nào vẻ lanh lợi thường ngày. "Chị chắc em không biết điều này," chị nói nhẹ nhàng, đặt lại cốc rượu xuống bàn. "Cái người bây giờ ngồi đây không phải con người thật của chị. Mười bốn năm trước chị đã trở thành chỉ một nửa con người thật của mình. Chị ước gì mình có thể được gặp em khi chị còn là con người thật của mình, điều đó sẽ thật tuyệt vời. Nhưng bây giờ nghĩ tới việc đó thì cũng chẳng có nghĩa lý gì cả." Sumire sửng sốt, không thốt được lời nào. Và bỏ lỡ cơ hội hỏi những câu hỏi quá hiển nhiên. Chuyện gì đã xảy đến với Miu mười bốn năm trước? Vì sao chị lại trở thành một nửa con người thật của mình? Và dù sao đi nữa chị nói một nửa có nghĩa là gì? Cuối cùng, lời tuyên bố khó hiểu này chỉ càng làm cho Sumire thêm say mê Miu. Một con người mới kỳ lạ làm sao chứ, cô nghĩ. Qua các đoạn hội thoại rời rạc, Sumire có thể chắp nối một vài sự kiện về Miu. Chồng chị là người Nhật, lớn hơn chị năm tuổi, nói thạo tiếng Hàn nhờ hai năm là sinh viên trao đổi của khoa kinh tế, đại học Seoul. Anh là người nồng hậu, biết làm tốt công việc của mình, mà thực chất là giúp lèo lái công ty của Miu. Và mặc dù ban đầu đó là công ty gia đình trị nhưng chưa từng có ai phàn nàn chê trách gì anh cả. Ngay từ khi còn là một cô bé, Miu đã có năng khiếu chơi dương cầm. Đến tuổi thiếu niên chị đã giành được giải nhất tại một số cuộc thi dành cho giới trẻ. Chị vào nhạc viện, học tập dưới sự hướng dẫn của một nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng và nhờ người thầy này giới thiệu chị đã được vào học tại nhạc viện nước Pháp. Vốn tiết mục của chị chủ yếu là tác phẩm của các nhạc sĩ từ chối thời Lãng mạn, Shumann và Mendelssohn đến Poulensm Ravel, Bartók và Prokofiev. Tiếng đàn của chị là sự kết hợp giữa âm thanh da diết, gợi cảm với một kỹ thuật trình tấu điêu luyện, ấn tượng. Thời sinh viên chị đã tham dự một số cuộc hòa nhạc và đều được đánh giá cao. Tương lai tươi sáng của một nghệ sĩ hòa tấu dương cầm có vẻ được đảm bảo chắc chắn. Nhưng khi chị đang học ở nước ngoài thì bố chị đổ bệnh, Miu đóng nắp đàn và quay về Nhật Bản. Không bao giờ chạm vào phím đàn lần nữa. "Sao chị có thể dễ dàng từ bỏ piano như thế?" Sumire ngập ngừng hỏi. "Nếu chị không muốn nói chuyện này thì thôi. Em chỉ thấy nó - em không biết nữa - có chút bất thường. Ý em là chị đã phải hy sinh rất nhiều thứ để trở thành nghệ sĩ dương cầm, phải vậy không?" "Chị không hy sinh nhiều thứ vì piano," Miu nói nhẹ nhàng. "Chị đã hy sinh mọi thứ. Piano đòi hỏi phải dâng hiến cho nó đến từng mảnh da, từng giọt máu, và chị không thể từ chối. Không thể dù chỉ một lần." "Chị có tiếc khi phải từ bỏ không? Chị đã sắp học xong mà." Ánh mắt sắc sảo của Miu xoáy vào mắt Sumire. Một cái nhìn sâu lắng, điềm tĩnh. Sâu thẳm trong mắt Miu, như trong vũng nước lặng của một con suối chảy xiết, những dòng chảy câm nín dồn đuổi nhau. Những dòng chảy ôm riết đó chỉ lắng xuống từ từ. "Em xin lỗi," Sumire nói. "Em sẽ không chõ mũi vào nữa." "Không sao đâu. Chị chỉ không thể giải thích rõ ràng được." Hai người không nói lại chuyện này nữa. Miu không cho hút thuốc ở văn phòng và rất ghét những ai hút thuốc trước mặt mình, vì thế sau khi bắt đầu công việc, Sumire quyết định đây là cơ hội tốt để bỏ thuốc. Nhưng với một người hút hai gói Marlboro một ngày như cô thì việc này không hề dễ chút nào. Sau một tháng cô cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ như con thú bị vặt trụi lông đuôi. Và bạn cũng có thể đoán ra là cô liên tục gọi cho tôi lúc nửa đêm. "Tớ không nghĩ đến điều gì khác ngoài thuốc lá. Tớ rất khó ngủ, và hễ chợp mắt thì lại gặp ác mộng. Tớ bị táo bón. Tớ không thể đọc, không thể viết được một dòng nào." "Ai bỏ thuốc cũng thế cả mà. Ít nhất lúc bắt đầu," tôi nói. "Chừng nào nó còn là chuyện của người khác thì cậu thấy thật dễ đánh giá, đúng không?" Cô ngắt lời. "Cả đời cậu có bao giờ động đến điếu thuốc nào đâu." "Này, nếu cậu không thể đưa ra ý kiến về người khác thì thế gian sẽ biến thành một chốn rất kinh hoàng, không phải thế à. Nếu cậu không nghĩ thế thì chỉ cần nhìn xem Joseph Stalin làm gì đi." Đầu dây bên kia Sumire im lặng hồi lâu. Sự im lặng nặng nề như những hồn ma trên Mặt trận phía Đông. "Này?" Tôi hỏi. Cuối cùng cô lên tiếng. "Nói thật ra tớ không nghĩ bỏ thuốc đã khiến tớ không viết được. Nó có thể là một lý do nhưng không phải tất cả. Tớ muốn nói bỏ thuốc chỉ là sự biện hộ. Cậu biết đấy: 'Tôi bỏ thuốc nên tôi không viết được. Tôi không thể làm được gì về việc đó cả.'" "Đó là cách giải thích vì sao cậu lại rối loạn thế?" "Có lẽ vậy." Sumire đáp lại, đột nhiên tỏ ra nhu mì. "Không chỉ vì việc tớ không còn tin vào việc viết lách nữa. Tớ đọc lại những gì đã viết gần đây và nó thật chán ngắt. Tớ có thể nghĩ gì chứ? Y như nhìn một căn phòng tất bẩn vứt bừa bãi trên sàn. Tớ cảm thấy khủng khiếp khi nhận ra mình đã hoang phí biết bao thời gian và sức lực." "Khi chuyện này xảy ra cậu gọi điện cho ai đó vào lúc ba giờ sáng và đánh thức người đó dậy - tất nhiên tượng trưng thôi - khỏi giấc ngủ êm đềm mang tính ký hiệu." "Hãy cho tớ biết," Sumire nói, "cậu đã bao giờ có cảm giác nhầm lẫn về những việc cậu đang làm, giống như nó không phải là vậy chưa?" "Phần lớn thời gian tớ bị nhầm lẫn mà." "Cậu nói nghiêm túc chứ?" "Nghiêm túc." Sumire gõ gõ móng tay vào răng, một trong nhiều thói quen của cô mỗi khi nghĩ ngợi điều gì. "Trước đây tớ cũng rất ít khi cảm thấy bối rối thế này. Không phải lúc nào cũng tự tin, chắc chắn về tài năng của mình. Tớ không phải là người mạnh mẽ đến thế. Tớ biết tớ là loại người bừa bãi, ích kỷ. Nhưng tớ chưa bao giờ nhầm lẫn. Tớ có thể sai lầm trên đường đi nhưng lúc nào cũng cảm thấy mình đi đúng đường." "Cậu thật may mắn," tôi đáp. "Giống như vừa cấy xong thì được đợt mưa dài." "Có lẽ cậu nói đúng." "Nhưng về vấn đề này thì mọi chuyện chẳng đi đến đâu cả." "Phải. Chúng chẳng đi đến đâu cả. Đôi khi tớ có cảm giác sợ hãi, giống như mọi việc tớ làm cho đến hôm nay đều sai lầm hết. Tớ mơ những giấc mơ như thực đó, rồi bất ngờ thức dậy giữa đêm. Và mất một lúc tớ không thể xác định được đâu là thực, đâu là mơ...Cái kiểu cảm giác đó. Cậu hiểu tớ đang nói gì chứ?" "Tớ cho là vậy," tôi đáp. "Nhiều ngày qua tớ luôn bị dằn vặt bởi ý nghĩ rằng có lẽ những ngày viết tiểu thuyết của tớ đã qua rồi. Thế giới này đầy rẫy những cô gái ngây thơ, ngu ngốc, và tớ cũng là một người trong số đó, tự mình chạy theo những giấc mơ không bao giờ thành hiện thực. Tớ nên đóng nắp đàn piano và rời khỏi sân khấu. Trước khi quá muộn." "Đóng nắp đàn piano?" "Một ẩn dụ." Tôi chuyển ống nghe từ tay trái sang tay phải. "Tớ cảm thấy chắc chắn một điều. Có thể cậu không chắc nhưng tớ thì có. Một ngày nào đó cậu sẽ trở thành nhà văn vĩ đại. Tớ đã đọc những gì cậu viết và tớ tin thế." "Cậu thực sự nghĩ như vậy?" "Từ tận đáy lòng tớ," tôi nói. "Tớ không nói dối cậu về những việc như thế này. Trong những trang cậu đã viết có nhiều đoạn đặc biệt rất hay. Ví dụ như cậu đang viết về bờ biển tháng Năm nhé. Cậu có thể nghe được tiếng gió thổi, ngửi thấy mùi không khí mằn mặn. Cậu có thể cảm thấy ánh nắng ấm áp trên cánh tay. Nếu cậu viết về căn phòng nhỏ tràn ngập khói thuốc lá, cậu có thể cá là người đọc sẽ bắt đầu cảm thấy như không thở nổi. Và mắt cay xè. Văn như thế phần lớn nhà văn không viết được. Trong tác phẩm của cậu, có một dòng sức mạnh tự nhiên sinh động, tràn đầy sức sống. Ngay bây giờ chúng chưa kết nối được với nhau để làm nên một tác phẩm hoàn chỉnh nhưng điều đó không có nghĩa là đã đến lúc - đóng nắp đàn lại." Sumire im lặng khoảng mười, mười lăm giây. "Cậu không nói như vậy chỉ để an ủi, động viên tớ đấy chứ?" "Không, tớ không có ý vậy. Đó là một sự thực không thể phủ nhận, đơn giản và rõ ràng." "Giống như sông Moldau?" "Cậu nói đúng. Giống như sông Moldau." "Cám ơn cậu," cô nói. "Có gì mà ơn với huệ," tôi đáp. "Có những lúc cậu đúng là điều ngọt ngào nhất. Như sự hòa trộn của Giáng sinh, kỳ nghỉ hè và chú cún mới ra đời vậy." Tôi lúng búng mấy tiếng mơ hồ như vẫn làm như vậy bất cứ khi nào được ai đó khen. "Nhưng có một điều làm tớ thấy phiền lòng," cô nói thêm. "Rồi sẽ đến ngày cậu cưới một cô gái xinh đẹp nào đó và quên đi hết mọi điều về tớ. Còn tớ sẽ không thể gọi điện cho cậu vào nửa đêm mỗi khi tớ muốn nữa. Phải thế không?" "Bao giờ cậu cũng có thể gọi vào ban ngày." "Ban ngày thì không ổn. Cậu chẳng hiểu gì cả, đúng không?" "Cả cậu cũng không hiểu," tôi phản đối. "Hầu hết mọi người làm việc khi mặt trời lên và đêm xuống thì tắt đèn đi ngủ." Tôi nói như đang đọc thuộc lòng những vần thơ đồng quê cho mình nghe giữa cánh đồng ngô. "Hôm trước tớ đọc một bài báo," cô nói, hoàn toàn không để ý lời của tôi. "Bài báo viết là những người đồng tính nữ sinh ra đã như vậy rồi; ở tai trong của họ có một cái xương nhỏ khác hẳn với các phụ nữ khác, và nó đã dẫn đến toàn bộ sự khác biệt. Cái xương nhỏ nào đó có cái tên rất rắc rối. Như vậy bị đồng tính nữ không phải do mắc phải mà do di truyền. Một bác sí Mỹ phát hiện ra điều này. Tớ không biết vì sao ông ta nghiên cứu vấn đề này nhưng từ khi đọc bài báo đó rồi thì tớ không sao gạt khỏi đầu ý nghĩ cái xương nhỏ vô tích sự đó đang ở trong tai tớ, tự hỏi cái xương nhỏ bé tí của tớ có hình dáng như thế nào." Tôi chẳng biết nói sao. Một sự im lặng buông xuống đột ngột như thìa dầu tươi bất ngờ được trút vào cái chảo rán to. "Vậy cậu tin chắc cậu có cảm hứng tình dục với Miu?" Tôi hỏi. "Chắc chắn một trăm phần trăm," Sumire đáp. "Khi tớ ở bên cạnh chị ấy, cái xương đó bắt đầu rung lên trong tai tớ. Giống như gió thổi qua vỏ sò mong manh. Tớ muốn chị ấy ôm tớ, để mọi việc cứ thế diễn ra. Nếu đấy không phải là ham muốn tình dục thì chắc thứ chảy trong huyết quản của tớ chỉ là nước cà chua thôi." "Hừm," tôi nói. Tôi còn có thể nói gì nữa đây? "Điều đó giải thích mọi chuyện. Vì sao tớ không muốn quan hệ tình dục với bất kỳ người đàn ông nào. Vì sao tớ không cảm thấy gì hết. Vì sao tớ luôn nghĩ mình khác với mọi người." "Có phiền không nếu tớ nói ý kiến tầm thường của mình?" "Cứ nói đi." "Bất kỳ lời giải thích hay lập luận logic nào lý giải mọi chuyện một cách dễ dàng như thế đều gài bẫy bên trong. Tớ đang nói từ kinh nghiệm đấy. Có người đã nói rằng nếu một điều gì đó chỉ dùng một cuốn sách cũng có thể giải thích được thì điều đó không đáng để giải thích. Tớ muốn nói là đừng có lao vào bất kỳ kết luận nào hết." "Tớ sẽ nhớ điều đó," Sumire nói. Và cuộc điện thoại ngừng, có phần đột ngột. Tôi hình dung cảnh cô treo ống nói lên, bước ra khỏi bốt điện thoại. Đồng hồ của tôi chỉ 3h30. Tôi vào bếp, uống một cốc nước, quay lại giường và nhắm mắt. Nhưng giấc ngủ không đến. Tôi kéo rèm cửa, và trên bầu trời mặt trăng đang lơ lửng như một đứa trẻ mồ côi nhợt nhạt, láu lỉnh. Tôi biết mình sẽ không ngủ lại được. Tôi pha một bình cà phê mới, kéo ghế lại gần cửa sổ rồi ngồi xuống nhấm nháp phó mát và bánh quy giòn. Tôi ngồi, đọc sách, đợi trời sáng. Chú thích [1] "Sanshiro" (1908) là tên cuốn tiểu thuyết của nhà văn Soseki Natsume (1867 - 1916). Tác phẩm mở đầu khi chàng trai Sanshiro 23 tuổi lần đầu tiên trong đời lên Tokyo để học đại học. Trên chuyến tàu hỏa anh làm quen với một phụ nữ quyến rũ. Hai người xuống ga cuối và người phụ nữ đề nghị anh dẫn vào khách sạn. (Theo chú thích bản tiếng Nga). Chương 5 Đã đến lúc nói đôi lời về tôi. Cố nhiên đây là câu chuyện về Sumire, không phải về tôi. Tuy nhiên, chuyện này được kể qua con mắt của tôi - câu chuyện Sumire là ai và cô làm gì - nên tôi cũng phải giải thích một chút về người kể chuyện. Nói cách khác là về tôi. Tôi thấy thật khó nói về chính mình. Tôi luôn vấp phải câu hỏi ngược đời muôn thưở tôi là ai? Chắc chắn không ai biết về mọi chuyện của tôi rõ như tôi. Nhưng đôi khi tôi nói về mình thì tất cả những yếu tố khác - các giá trị, các tiêu chuẩn, các giới hạn của chính tôi trong vai trò người quan sát - đã khiến tôi, người kể chuyện, phải chọn lọc và lựa ra những chi tiết về tôi, người được kể. Tôi luôn bị xáo trộn bởi ý nghĩ mình sẽ không vẽ được bức tranh thật khách quan về mình. Những việc kiểu này dường như không phải mối bận tâm đối với đa số mọi người. Hễ có dịp là họ lại thẳng thắn đến ngạc nhiên khi tự nói về mình. "Tôi trung thực, cởi mở đến kỳ lạ," họ sẽ nói vậy, hoặc "Tôi là người dễ tự ái và không thuộc mẫu người dễ dàng hòa hợp với mọi người," hoặc "Tôi rất giỏi cảm nhận cảm xúc thực sự của người khác." Nhưng tôi chưa lần nào gặp được người nói rằng họ dễ dàng bị tổn thương hay làm tổn thương người khác mà chẳng có cơn cớ rõ ràng gì. Những người tự cho là trung thực và cởi mở, không hề nhận thức được mình đang làm gì, vô tình viện một cái cớ tự tạo nào đó để đạt được điều mình muốn. Còn những người "giỏi cảm nhận cảm xúc thực sự của người khác" thì bị lừa phỉnh bởi những lời tâng bốc rõ rành rành. Thế cũng đủ để tôi đặt ra câu hỏi: thực ra chúng ta biết rõ mình như thế nào? Càng nghĩ về điều này tôi càng muốn để chủ đề tôi lại cho lần sau. Điều tôi muốn biết nhất bây giờ là hiện thực khách quan của những cái ở ngoài bản thân tôi. Thế giới bên ngoài quan trọng đối với tôi như thế nào, tôi duy trì cảm giác cân bằng nhờ việc cảm thấy hài lòng với nó như thế nào. Chỉ như vậy tôi mới nắm bắt được rõ ràng hơn tôi là ai. Những ý nghĩ kiểu này đã xuất hiện trong đầu tôi khi tôi còn niên thiếu. Giống như người thợ xây kéo căng dây và đặt các viên gạch chồng lên nhau, tôi xây dựng logic và suy đoán đã góp phần tạo nên quan điểm này, nhưng phần lớn nó dựa vào kinh nghiệm riêng của tôi. Lại nói đến kinh nghiệm, nhiều bài học đau đớn đã dạy cho tôi biết rằng để những người khác tán thành quan điểm này thật là việc không dễ chút nào. Kết quả của tất cả chuyện này là ngay khi còn trẻ tôi đã vạch ra một ranh giới vô hình giữa tôi và người khác. Dù tôi giao du với ai cũng vậy. Tôi luôn giữ khoảng cách, thận trọng theo dõi thái độ người khác để họ không tiến gần hơn được chút nào. Tôi không dễ tin những gì người khác nói. Đam mê duy nhất của tôi là sách và âm nhạc. Như bạn có thể đoán được, tôi sống một cách đơn độc. Gia đình tôi không có gì đặc biệt. Thực ra nó rất đỗi bình thường đến nỗi tôi không biết bắt đầu từ đâu. Cha tôi lấy bằng cử nhân khoa học tự nhiên tại một trường đại học địa phương và làm việc ở phòng nghiên cứu của một nhà máy thực phẩm lớn. Ông thích golf và Chủ nhật nào cũng ra sân. Mẹ tôi mê mẩn thơ tanka và thường tham dự các cuộc bình thơ. Mỗi khi tên được xuất hiện ở mục thơ trên báo thì suốt cả mấy ngày bà vui như Tết. Bà thích quét dọn nhưng ghét nấu nướng. Chị gái tôi, hơn tôi năm tuổi, thì ghét cả quét dọn lẫn nấu ăn. Những việc người khác làm thì chị cho là không phải việc của chị. Điều đó có nghĩa là từ khi đủ lớn để vào bếp thì tôi đã tự nấu mọi bữa ăn cho mình. Tôi mua sách dạy nấu ăn và học cách làm gần như mọi món. Theo tôi biết, tôi là đứa trẻ duy nhất sống theo cách đó. Tôi sinh ra ở Suginami, nhưng từ nhỏ gia đình tôi đã chuyển đến Tsudanuma thuộc quận Chiba và tôi lớn lên tại đó. Quanh nhà tôi đầy các gia đình viên chức như nhà tôi. Chị tôi luôn đứng đầu lớp; chị không thể chấp nhận nổi việc mình không phải là người ưu tú nhất và chị không để ý đến bất cứ thứ gì ngoài phạm vi yêu thích của mình. Chị chưa bao giờ - thậm chí chưa lần nào - dắt chó đi dạo. Chị tốt nghiệp khoa luật đại học Tokyo và năm sau thì vượt qua kỳ thi vào luật sư đoàn đặc biệt gian nan. Chồng chị là một cố vấn quản trị dám nghĩ dám làm. Họ mua một căn hộ bốn phòng trong tòa nhà sang trọng gần công viên Yoyogi. Tuy nhiên, ở bên trong, tòa nhà đó gần như một cái chuồng lợn. Tôi thì ngược lại với bà chị, chẳng mấy quan tâm đến chuyện học hành hay điểm số. Không muốn làm rầu lòng bố mẹ tôi thực hiện một cách đối phó những hoạt động như đến trường, hoàn thành ở mức tối thiểu việc nghiên cứu và làm bài tập về nhà. Thời gian còn lại tôi đi đá bóng hoặc về nhà nằm khiểng trên giường đọc hết cuồn tiểu thuyết này đến cuốn tiểu thuyết khác. Không có những buổi học thêm nhồi sọ điển hình của các bạn, cũng như không có chuyện kèm nhau học. Mặc dù vậy, học lực của tôi không đến nỗi xoàng. Với trình độ này, tôi tính chẳng cần phải luyện thi đến mụ người thì mình vẫn có thể vào được một trường đại học tử tế. Và quả nhiên mọi việc đã diễn ra đúng như vậy. Tôi bắt đầu cuộc đời sinh viên và sống riêng trong một căn hộ nhỏ. Ngay khi còn sống ở nhà tại Tsudanuma tôi đã khó nói chuyện tâm tình với gia đình. Chúng tôi cùng sống dưới một mái nhà nhưng bố mẹ và chị gái như người xa lạ với tôi, vì tôi không biết họ muốn gì ở cuộc sống. Và với họ cũng tương tự như vậy, họ không hề biết tôi là người thế nào hay tôi mong mỏi điều gì. Không phải tôi biết mình muốn gì ở cuộc sống - tôi không biết. Tôi thích đọc tiểu thuyết để giải trí nhưng viết văn thành biên tập viên hay nhà phê bình cũng không được vì thị hiếu của tôi thường cực đoan. Tôi quyết định nên coi tiểu thuyết là sở thích cá nhân thuần túy, không phải một phần công việc hay học tập của tôi. Vì vậy tôi không học văn mà học sử. Tôi không có chút hứng thú đặc biệt nào với lịch sử nhưng một khi đã bắt đầu nghiên cứu thì tôi lại thấy đây là một vấn đề vô cùng hấp dẫn. Tôi không có ý định làm nghiên cứu sinh và dành trọn cả đời mình cho sử học hay bất cứ môn nào khác, mặc dù thầy giáo hướng dẫn đã khuyên tôi như thế. Tôi thích đọc và suy nghĩ nhưng khó có thể thuộc kiểu người học thuật. Như Puskin đã nói: Chàng không ham đào bởi vinh quang Ẩn sâu dưới lớp bụi mà thời gian để lại. Tất cả những điều này không có nghĩa là tôi sẽ tìm việc tại một công ty bình thường, bám lấy con đường của mình xuyên qua cuộc cạnh tranh sinh tử, rồi từng bước leo lên con dốc khó khăn của hình tháp tư bản chủ nghĩa. Vậy là, sau quá trình lựa chọn, tôi dừng lại ở nghề giáo viên. Trường học chỉ cách mấy ga tàu. Ông chú tôi tình cờ có mặt trong hội đồng giáo dục của thị xã đó và hỏi tôi liệu có muốn theo nghề giáo không. Tôi không được đào tạo đầy đủ nghiệp vụ sư phạm nên chỉ được thuê làm trợ giáo, nhưng sau một thời gian ngắn đứng lớp thì tôi đã có đủ điều kiện để thành giáo viên thực thụ. Tôi vốn không định theo nghề giáo nhưng sau khi đã thực sự làm thầy, tôi phát hiện ra mình kính trọng và yêu quý nghề này sâu sắc hơn mình từng nghĩ. Thật ra, chính xác hơn, tôi nên nói tôi đã tình cờ khám phá ra bản thân mình. Tôi đứng trước lớp, dạy các học sinh tiểu học những điều cơ bản về ngôn ngữ, cuộc đời, thế giới, và đồng thời nhận ra tôi cũng đang dạy lại chính mình những điều đó - được lọc qua cặp mắt và đầu óc của các học sinh này. Hãy làm cho đúng cách, đây là một kinh nghiệm mới mẻ. Thậm chí còn thấm thía nữa. Tôi có quan hệ tốt với học sinh, với mẹ chúng và đồng nghiệp. Nhưng những câu hỏi cơ bản vẫn ám ảnh tôi: Tôi là ai? Tôi đang tìm kiếm cái gì? Tôi đang đi tới đâu? Tôi tiến đến gần câu trả lời nhất khi trò chuyện với Sumire. Tuy nhiên, thay vì tự nói về mình, tôi chăm chú lắng nghe cô, nghe những điều cô nói. Cô quẳng hết các loại câu hỏi cho tôi, và nếu tôi không thể tìm ra câu trả lời hay nếu câu trả lời của tôi không có ý nghĩa thì tốt hơn bạn hãy tin là cô sẽ để cho tôi biết. Khác với nhiều người cô trung thực, chân thành muốn nghe những điều tôi phải nói. Tôi gắng hết sức trả lời cô, và các cuộc trò chuyện của chúng tôi đã giúp tôi cởi mở bản thân mình hơn trước cô - và, đồng thời, với chính tôi. Chúng tôi thường trò chuyện hàng giờ. Chẳng bao giờ chúng tôi thấy chán, chẳng bao giờ hết đề tài - tiểu thuyết, thế giới, phong cảnh, ngôn ngữ. Chúng tôi trò chuyện cởi mở và thân tình hơn bất kỳ cặp tình nhân nào. Tôi đã hình dung sẽ tuyệt vời biết bao nếu chúng tôi quả thật có thể là người yêu của nhau. Tôi những muốn được cảm thấy làn da ấm áp của cô trên da thịt mình. Tôi hình dung hai đứa cưới nhau, sống cùng nhau. Nhưng tôi phải đối mặt với thực tế Sumire không hề có những cảm xúc lãng mạn như thế với tôi, nói gì đến hứng thú tình dục. Thỉnh thoảng cô ở lại căn hộ của tôi sau khi chúng tôi đã trò chuyện vài tiếng đồng hồ, nhưng không bao giờ có dù chỉ là một chút xíu dấu vết lãng mạn nào. Đến khoảng hai, ba giờ sáng cô ngáp ngắn ngáp dài rồi leo lên giường, úp mặt vào gối của tôi, nhanh chóng ngủ thiếp đi. Tôi trải chăn đệm xuống sàn nằm nhưng không tài nào ngủ được, đầu óc tràn ngập những hình ảnh tưởng tượng, những ý nghĩ lộn xộn, tự ghê tởm mình. Đôi khi những phản ứng thể xác không tránh được khiến tôi đau khổ, và tôi nằm thao thức khổ sở cho tới sáng. Thật khó chấp nhận việc Sumire hầu như không có cảm xúc, có lẽ không một chút nào, dành cho tôi với tư cách một người đàn ông. Điều này nhiều khi khiến tôi đau đớn như có ai đó cầm dao đâm vào bụng mình. Thế nhưng những giờ phút tôi được ở bên cô còn quý giá hơn bất kỳ điều gì. Cô giúp tôi quên đi nỗi cô đơn ngấm ngầm trong cuộc sống của tôi. Cô mở rộng thế giới của tôi, giúp tôi hít một hơi thở sâu dễ chịu. Chỉ Sumire có thể làm được những việc đó cho tôi. Để xoa dịu nỗi đau và, tôi hy vọng, để giải tỏa bất kỳ căng thẳng tình dục nào giữa tôi và Sumire, tôi bắt đầu ngủ với những phụ nữ khác. Tôi không nói mình là người thành công với phụ nữ; tôi không phải người như vậy. Tôi không phải loại đàn ông sát gái, cũng không cho rằng mình có bất kỳ nét quyến rũ đặc biệt nào. Nhưng chẳng hiểu sao một số phụ nữ vẫn say mê tôi và tôi khám phá ra rằng nếu tôi cứ để cho mọi chuyện diễn ra theo chiều hướng của nó thì chẳng có gì khó khăn trong việc kéo họ lên giường với tôi. Những lần "đi tàu nhanh" như thế không bao giờ khơi dậy được đam mê cho tôi; cùng lắm chỉ là một kiểu khuây khỏa. Tôi không giấu Sumire những chuyện lăng nhăng đó của mình. Cô không biết tường tận chi tiết mà chỉ đại khái thôi. Có vẻ nó không khiến cô bận tâm. Nếu trong những cuộc phiêu lưu tình ái của tôi có gì phiền toái thì đó là việc toàn bộ đám phụ nữ đó đều lớn tuổi hơn tôi và hoặc đã có chồng hoặc đã đính hôn hay có bạn trai hẳn hoi. Nhân tình mới nhất của tôi là một phụ huynh trong lớp. Chúng tôi ngủ với nhau khoảng mỗi tháng hai lần. "Nó có thể làm cậu xong đời đấy," một lần Sumire cảnh cáo tôi. Và tôi đồng ý. Nhưng về chuyện này thì tôi chẳng thể làm được gì nhiều. Một ngày thứ Bảy đầu tháng Bảy, lớp tôi tổ chức dã ngoại. Tôi dẫn tất cả ba mươi lăm học sinh đi leo núi ở Okutama. Khi đi thì không khí phấn chấn, vui vẻ, để rồi lại rơi vào tình trạng hoàn toàn hỗn loạn. Khi lên tới đỉnh thì hai học sinh phát hiện ra chúng quên bỏ suất ăn trưa vào ba lô. Quanh đó thì làm gì có hàng quán nào, vậy là tôi đành chia cho chúng món nori- maki được nhà trường cấp cho tôi. Thành thử tôi chẳng còn gì để ăn. Có một em mời tôi ít chocolate, nhưng cả ngày tôi chỉ có bằng đấy. Đến lượt một cô bé kêu không đi được nữa, và tôi phải cõng nó suốt dọc đường xuống núi. Hai cậu học sinh bắt đầu tranh giành đùa nghịch khiến một đứa ngã đập đầu vào vách đá. Nó bị choáng nhẹ nhưng máu mũi chảy rất nhiều. Chẳng có gì khủng khiếp cả, nhưng áo cậu bé nhuộm đầy máu cứ như vừa trải qua một vụ thảm sát. Như tôi đã nói, hoàn toàn hỗn tạp. Khi về đến nhà người tôi bã ra như một thanh tà vẹt cũ. Tôi tắm táp, uống nước lạnh, leo lên giường mệt đến nỗi không còn nghĩ ngợi được gì, tắt đèn và ngủ một giấc ngon lành. Rồi chuông điện thoại reo: Sumire gọi. Tôi nhìn chiếc đồng hồ để bên giường. Tôi mới ngủ được khoảng một tiếng. Nhưng tôi không càu nhàu. Tôi chẳng còn hơi sức đâu mà kêu ca. Cũng phải có những ngày như thế. "Chiều mai tớ gặp cậu được không?" Cô hỏi. Người phụ nữ bạn tôi sẽ đến chỗ tôi lúc sáu giờ chiều. Chị ta sẽ đậu chiếc Toyota Celica màu đỏ ở bến dưới phố. "Tớ rảnh đến bốn giờ," tôi nói. Sumire mặc chiếc áo cánh trắng cộc tay, váy ngắn màu xanh nước biển và đeo cặp kính râm nhỏ. Vật trang sức duy nhất của cô là chiếc cặp tóc nhỏ bằng nhựa. Một trang phục hết sức đơn giản. Cô hầu như không trang điểm, phô bày vẻ đẹp tự nhiên của mình cho cả thế giới. Nhưng không hiểu sao tôi không nhận ra cô ngay. Kể từ lần gặp trước đến nay mới ba tuần trôi qua nhưng cô gái ngồi đối diện tôi ở bên bàn dường như thuộc về một thế giới hoàn toàn khác, khác hẳn với Sumire tôi từng biết. Nói một cách nhẹ nhàng, cô vô cùng xinh đẹp. Bên trong con người cô, một cái gì đó đang bừng nở. Tôi gọi một cốc bia tươi nhỏ, còn cô gọi nước nho. "Gần đây tớ khó mà nhận ra được cậu đấy," tôi nói. "Tại đến kỳ đấy mà," cô vô tư nói, nhấp một ngụm nước nho qua ống hút. "Kỳ nào?" Tôi hỏi. "Thời kỳ dậy thì chậm, tớ đoán thế. Buổi sáng khi thức dậy và nhìn thấy mặt mình trong gương, nó dường như mặt của một người khác vậy. Nếu không cẩn thận tớ có thể bị bỏ lại đằng sau mất." "Vậy không phải tốt hơn là cứ để mặc nó đi hay sao?" Tôi nói. "Nhưng nếu tớ đánh mất mình thì còn có thể đi đâu chứ?" "Nếu chỉ trong vòng vài ba ngày thì cậu cứ đến chỗ tớ. Cậu bao giờ cũng được chào đón - cậu, chính người đã đánh mất cậu." Sumire cười phá lên. "Thôi không đùa nữa," cô nói, "trên thế gian này tớ có thể đi về đâu chứ?" "Tớ không biết. Hãy nhìn vào mặt tích cực nhé: cậu đã bỏ thuốc, cậu ăn mặc đẹp đẽ sạch sẽ hơn - thậm chí giờ đôi tất của cậu cũng phù hợp nữa, và cậu biết nói tiếng Ý. Cậu đã học được cách đánh giá rượu, biết dùng máy tính, và ít nhất từ giờ trở đi đến đêm thì ngủ đến sáng thì dậy. Nhất định cậu sẽ tiến đến được một chỗ nào đó." "Nhưng tớ vẫn không viết được dòng nào." "Mọi sự đều có lúc thăng lúc trầm." Sumire cắn môi. "Cậu có cho rằng cái tớ đang trải qua là sự ly khai không?" "Ly khai?" Tôi mất một lúc không hiểu cô muốn nói gì. "Ly khai. Phản bội lại đức tin, quan điểm của mình." "Ý cậu nói là kiếm việc làm, ăn mặc đẹp và bỏ viết tiểu thuyết?" "Phải" Tôi lắc đầu. "Lúc nào cậu cũng viết vì cậu muốn. Còn nếu đã không muốn nữa thì sao cậu lại viết? Cậu nghĩ cậu không viết thì sẽ có một cái làng bị cháy trụi ư? Một con tàu sẽ bị chìm? Thủy triều lên xuống thất thường? Hay kéo cuộc cách mạng chậm lại năm năm? Chẳng có đâu. Tớ không nghĩ lại có ai gán cái nhãn ly khai đó." "Vậy tớ nên gọi nó thế nào?" Tôi lại lắc đầu. "Cái từ ly khai lạc hậu lắm rồi. Không ai dùng nó nữa. May ra đến cái công xã còn lại nào đó thì vẫn có người dùng từ đó. Tớ không biết chi tiết, nhưng nếu cậu không muốn viết nữa thì với cậu thế là xong xuôi rồi." "Công xã à? Cậu muốn nói những chỗ do Lênin thành lập à?" "Chúng được gọi là nông trang tập thể. Tuy nhiên chẳng còn cái nào hết." "Không phải tớ muốn từ bỏ biệc viết lách," Sumire nói. Cô ngẫm nghĩ một lúc. "Chỉ có điều cứ khi nào thử đặt bút thì tớ lại chẳng viết được gì. Tớ ngồi vào bàn nhưng trong đầu rỗng tuếch - không ý tưởng, không ngôn từ, không cảnh trí. Không có gì. Cách đây chưa lâu tớ còn cả triệu điều để viết. Chuyện gì đã xảy ra với tớ kia chứ?" "Cậu đang hỏi tớ à?" Sumire gật đầu. Tôi nhấp một ngụm bia lạnh và tập trung các suy nghĩ của mình. "Tớ nghĩ ngay bây giờ có lẽ cậu đang tự đặt mình trong một cốt truyện hư cấu mới. Cậu đang bận rộn với nó, vì vậy không cần phải viết ra cảm xúc của mình. Vả lại, cậu bận quá." "Cậu có làm như vậy không? Tự đặt mình trong một cốt truyện hư cấu á?" "Tớ nghĩ hầu hết mọi người đều sống trong một quyển tiểu thuyết. Tớ cũng không phải ngoại lệ. Giống như bộ truyền lực xe hơi ấy. Giữa cậu và thực tế cuộc sống nghiệt ngã cũng có bộ truyền lực như vậy. Cậu nhận lực thô từ bên ngoài và dùng hộp số để điều chỉnh nó sao cho mọi thứ được đồng bộ. Đấy là cách cậu giữ cho cơ thể yếu ớt của mình không bị ảnh hưởng. Cậu hiểu tớ nói chứ?" Sumire khẽ gật đầu. "Và tớ vẫn chưa hoàn toàn thích nghi với cốt truyện mới ấy. Có phải cậu muốn nói thế không?" "Ngay bây giờ vấn đề lớn nhất là cậu không biết mình đang viết loại tiểu thuyết nào. Cậu không biết cốt truyện; văn phong cũng chưa hình thành. Điều duy nhất cậu biết là tên nhân vật chính. Tuy nhiên, cốt tiểu thuyết mới này đang tái hư cấu con người cậu. Hãy cho nó thời gian, rồi nó sẽ mang cậu đi theo dưới đôi cánh của nó, và cậu có thể thấy rõ một thế giới mới. Nhưng cậu vẫn chưa đạt được điều đó, cậu vẫn đang ở vị thế bấp bênh." "Ý cậu là tớ đã tháo bộ truyền lực cũ nhưng vẫn chưa thay xong bộ mới? Và động cơ vẫn chạy. Đúng không?" "Cậu có thể hiểu như vậy." Khuôn mặt Sumire trở lại với vẻ u sầu quen thuộc và cô chọc chọc cái ống hút vào viên đá không may mắn trong cốc nước. Cuối cùng cô ngẩng lên. "Tớ hiểu cái cậu gọi là bấp bênh. Đôi khi tớ có cảm giác - tớ không biết nữa - thật cô độc. Một kiểu cảm giác bất lực khi tất cả những thứ quen thuộc đối với cậu đều đã bị lôi đi.Giống như không còn trọng lực nữa và tớ trôi dạt trong không trung, không biết mình đang đi về đâu." "Như vệ tinh Sputnik mất tích?" "Có lẽ vậy." “Nhưng cậu có Miu mà," tôi nói. "Ít nhất là bây giờ." Sự im lặng ngự trị một lúc. "Cậu nghĩ Miu cũng đang tìm kiếm cái đó à?" Tôi hỏi. Sumire gật đầu. "Tớ tin chị ấy cũng đang tìm kiếm. Có lẽ cũng mạnh mẽ như tớ vậy." "Gồm cả phương diện thể xác?" "Thật khó nói. Tớ không nắm bắt được. Ý tớ là thực chất cảm xúc của chị ấy. Điều đó khiến tớ thấy mất mát và bối rối." "Câu đố muôn thưở," tôi nói. Sumire lại mím môi thay cho câu trả lời. "Nhưng về phần cậu," tôi nói, "cậu đã sẵn sàng đi rồi đấy." Sumire gật đầu dứt khoát. Cô không thể nghiêm túc hơn. Tôi ngả người ra ghế, vòng tay sau đầu. "Sau tất cả chuyện này, đừng trở nên căm ghét tớ, được chứ?" Sumire hỏi. Giọng cô nghe như lời thoại trong bộ phim đen trắng cũ của Jean - Luc Godard, trượt ra ngoài ý thức của tôi. "Sau tất cả chuyện này, tớ sẽ không trở nên ghét cậu." Lần gặp gỡ tiếp theo của tôi và Sumire diễn ra hai tuần sau đó, vào ngày Chủ Nhật, khi tôi giúp cô chuyển nhà. Cô quyết định việc này một cách đột ngột và tôi là người duy nhất đến giúp. Ngoài sách thì cô chẳng có mấy đồ đạc và toàn bộ công việc dọn dẹp đã xong xuôi trước cả khi chúng tôi kịp nhận ra. Âu cũng là một cái lợi của kẻ khó. Tôi mượn bạn chiếc Toyota nhỏ và chở đồ đạc của cô đến nơi ở mới tại Yoyoggi - Uehara. Căn hộ nhìn có vẻ không mới hay sang trọng, nhưng so với ngôi nhà gỗ cổ lỗ của cô ở Kichijoji - một nơi đáng đưa vào danh sách di tích lịch sử - thì đúng là một trời một vực. Một nhân viên bẩt động sản bạn Miu đã tìm giúp Sumire chỗ này; dù nằm ở vị trí thuận lợi nhưng giá thuê nhà hợp lý và phong cảnh đẹp. Nó còn rộng gấp đôi chỗ cũ. Quả là đáng chuyển đến. Công viên Yoyogi ở gần đó, và nếu muốn cô có thể đi bộ tới nơi làm việc. "Từ tháng sau tớ sẽ làm việc năm ngày một tuần," cô nói. "Ba ngày một tuần dường như không thành vấn đề, và cậu sẽ chịu đựng cảnh bắt xe đi lại dễ hơn nếu ngày nào cũng phải làm vậy. Bây giờ tiền thuê nhà của tớ tăng lên, và Miu bảo tốt hơn tớ nên đi làm đầy đủ thời gian. Ý tớ là có ở nhà thì tớ cũng không tài nào viết được." "Nghe có vẻ là một ý tưởng hay ho đấy," tôi nhận xét. "Cuộc sống của tớ sẽ có quy củ hơn nếu ngày nào tớ cũng đi làm, và có lẽ tớ cũng sẽ không đánh thức cậu vào ba rưỡi sáng nữa. Đó cũng là một điều hay." "Một điều rất hay," tôi nói. "Nhưng thật buồn khi nghĩ đến chuyện cậu sống cách xa tớ đến thế." "Cậu thật sự cảm thấy thế à?" "Tất nhiên. Cậu có muốn tớ moi tim ra cho cậu thấy không?" Tôi đang ngồi trên sàn nhà trống trơn của căn hộ mới, lưng dựa vào tường. Đồ đạc Sumire gần như chẳng có gì nên nơi ở mới trông như bị bỏ hoang. Không có một cái rèm cửa sổ nào, sách chưa được xếp lên giá đang chất đống trên sàn trông như đám trí thức tị nạn. Vật duy nhất đáng chú ý là chiếc gương đứng soi được cả người đặt trên tường, món quà Miu tặng nhân dịp chuyển nhà. Tiếng quạ kêu từ phía công viên văng vẳng trong ngọn gió nhẹ buổi chiều tà. Sumire ngồi xuống cạnh tôi. "Cậu biết không?" Cô hỏi. "Chuyện gì?" "Nếu tớ là một kẻ đồng tính vô tích sự thì cậu vẫn là bạn tớ chứ?" "Dù cậu có phải kẻ đồng tính vô tích sự hay không thì cũng chẳng có vấn đề gì hết. Hãy thử hình dung Những ca khúc thành công nhất của Bobby Darin mà lại thiếu mất 'Mack the Knife' xem. Nếu không có cậu thì cuộc đời tớ cũng thế mà thôi. Sumire nheo mắt nhìn tôi. "Tớ không chắc mình hiểu phép ẩn dụ của cậu, nhưng có phải cậu muốn nói cậu sẽ thật sự cảm thấy cô đơn?" "Đầu đuôi câu chuyện đúng là như thế đấy," tôi nói. o O o Sumire ngả đầu vào vai tôi. Tóc cô được kẹp ra phía sau bằng chiếc cặp nhỏ, và tôi có thể nhìn thấy đôi tai nhỏ nhắn, xinh xắn của cô. Đôi tai đẹp đến nỗi bạn sẽ cho rằng chúng đã đươc sáng tạo ra. Đôi tai mềm mại, dễ bị tổn thương. Tôi có thể cảm thấy hơi thở của cô phả trên da mình. Cô mặc quần soóc hồng và chiếc sơ mi xanh """