"
Người Quảng Nam - Lê Minh Quốc PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Người Quảng Nam - Lê Minh Quốc PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
BIỂU GHI BIÊN MỤC TRƯỚC XUẤT BẢN ĐƯỢC THỰC HIỆN BỞI THƯ VIỆN KHTH TP.HCM Lê Minh Quốc
Người Quảng Nam / Lê Minh Quốc. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2012.
407tr. ; 24cm.
1. Người Việt Nam. 2. Quảng Nam (Việt Nam) — Lịch sử.
959.752 — dc 22
L433-Q16
THAY LỜI TỰA
Nhà văn Sơn Nam
Đọc tập Người Quảng Nam của nhà thơ Lê Minh Quốc, tôi thấy hình bóng người Quảng Nam hiện lên khá rõ nét. Từ trước đến giờ, chỉ ghé Đà Nẵng một đêm, ghé đèo Hải Vân một buổi, còn kỳ dư là hiểu Quảng Nam qua sách vở và qua các bạn từ Quảng Nam vào Sài Gòn làm ăn. Không rành địa thế, tôi lấy chuẩn là dãy Trường Sơn phía tây, nhưng cánh đông Quảng Nam rộng lớn lắm, khó thấy dãy Trường Sơn, họa chăng là bóng núi mờ nhạt. Thành phố Đà Nẵng do Pháp quy hoạch từ cuối thế kỷ XIX, trông như Sài Gòn, ngay hàng thẳng lối. Ấn tượng đầu tiên: ở những con đường lớn, các bảng hiệu đều rực rỡ, nét chữ rất chân phương, cổ điển, không có kiểu chữ nghiêng ngửa hoặc những dấu sắc mà nằm ngang như ở Sài Gòn, lại thấy ít chữ Anh và không có chữ Hán kèm theo. Rác rến ngoài đường gần như không có, chưa ngửi mùi ô nhiễm. Nhiều cây kiểng xanh rờn, lạ mắt, như cây trắc bá diệp, cây thanh tùng, không mọc gượng gạo như ở Sài Gòn. Gió mát, đất cao ráo. Trong quán ăn bình dân, nói chuyện lắm khi ồn ào, quả là “Quảng Nam hay cãi” nhưng không nghe tiếng chửi thề. Một tỉnh cổ kính, sực nhớ nếu Sài Gòn đã 300 năm thì Quảng Nam đã có 500 năm.
Đọc tập sách này, tôi lại nhớ có lần được đi thăm mộ cụ Hoàng Diệu. Nếu ở Nam bộ, đồng bào gọi là lăng. Công lao của Hoàng Diệu đối với đất nước còn cao hơn mấy ông vua đương thời. Phần mộ khiêm tốn quá, giữa cánh đồng lúa vắng vẻ, xa xóm làng. Ông thắt cổ tự tử khi đánh Pháp, chống giữ thành Hà Nội lần thứ nhì. Đang trực chiến với thế giặc quá mạnh thì bọn nội ứng cho nổ kho thuốc súng trong thành. Bấy giờ cấp bậc của ông là Tổng đốc, cai quản hai tỉnh; ông tự tử trong khi bà vợ đang nhổ cỏ ruộng lúa, như một nông dân lam lũ. Bà mẹ ông rất trong sạch. Lúc làm quan, có lần ông gởi về cho mẹ một vóc lụa. Bà mẹ không nhận, gởi trả lại cho con, kèm theo một nhành dâu, tượng trưng cho ngọn roi, để cảnh cáo đứa con đừng nhận quà cáp gì của dân. Tôi lại nhớ đến Trần Quý Cáp, nhà khoa bảng yêu nước bị thực dân quy tội lãnh đạo chống sưu cao thuế nặng hồi phong trào Duy tân. Bị bắt ở Nha Trang, xử tử lập tức, không cần ra tòa án. Chúng chém ngang lưng cụ để làm tăng sự đau đớn.
NGƯỜI QUẢNG NAM 5
Quảng Nam có rất nhiều những nhân vật lẫy lừng mà nhân dân cả nước ngưỡng mộ. Khi cụ Phan Châu Trinh qua đời, thì tôi mới khóc oe oe ra đời, năm 1926. Đây cũng là năm ra đời của hai văn tài Quảng Nam, bạn với tôi, là nhà văn Vũ Hạnh và nhà thơ Bùi Giáng một thời “làm mưa làm gió” tại Sài Gòn. Đám tang cụ Phan trở thành quốc tang, người ta trật tự xếp hàng, tự giác, dài hơn cả cây số đưa tiễn. Cụ Phan Châu Trinh là một con người kiệt xuất của Việt Nam. Sau này khi nghiên cứu về phong trào Duy tân để viết quyển Phong trào Duy Tân ở Bắc Trung Nam, tôi nhận thấy anh Nguyễn Văn Xuân khi viết Phong trào Duy Tân đã bắt “trúng mạch” của phong trào này, xuất phát từ Quảng Nam rồi mới lan rộng ra cả nước. Mà cụ Phan là nhân vật tiêu biểu nhất. Anh Xuân lớn hơn tôi năm bảy tuổi, lớn xác, tha thiết với truyền thống quê nhà, lập luận sắc bén.
Trong tập sách của Lê Minh Quốc cũng nhắc đến nhân vật rất có công hát bội, cải lương Nam bộ là cụ Lương Khắc Ninh. Theo hiểu biết của tôi thì cụ có hùn tiền cất rạp hát bội Hội đồng Ninh trên đường Hamelin (nay Lê Thị Hồng Gấm) ở Sài Gòn, tồn tại trong thời gian ngắn. Cụ Ninh có người con trai là Lương Khắc Nhạn. Con trai ông Nhạn học chung lớp với tôi ở Cần Thơ, sau qua Pháp học, là họa sĩ, về nước có triển lãm và mời bạn học cũ đến dự. Đọc đến đoạn nhà báo Lưu Quý Kỳ, tôi nhớ là cấp trên của tôi, trong thời kháng Pháp. Ngoài tài năng “tác chiến” nhanh nhạy trên lãnh vực báo chí, ông Kỳ còn làm khá nhiều thơ. Một đoạn thơ của ông Kỳ mà đến nay tôi còn nhớ:
Chiều chiều ngó xuống Tam Quan
Thấy đàn cò trắng bay ngang ngọn dừa
Bà già ngồi võng đong đưa
Nhớ thằng con một năm xưa ở tù
Ở tù thì chết trong tù
Bà oán, bà thù, bà chửi thẳng Tây...
Ông Kỳ từng hoạt động cách mạng thời trẻ tại Hội An. Theo tôi, phố cổ Hội An được những người khó tính nhất yêu thích, vì tự bản thân nó có thực chất. Xưa kia sầm uất, các thương gia nước ngoài mô tả là náo nhiệt, nhiều mặt hàng bán ra và mua vào, còn ngày nay đáng gọi là khu du lịch lý tưởng: mát mẻ, sạch sẽ, có ngăn nắp, lại gần kề biển Đông. Gió mát rười rượi. Thức ăn không đắt. Đường sá nhỏ bé vì thời xưa chỉ có cưỡi ngựa và xe ngựa. Hội An phải chăng là một kiểu thành phố sông nước và biển, kiểu Venise bên Ý.
Một trong những người đi tiên phong giới thiệu khu phố này có lẽ là giáo sư Nguyễn Thiệu Lâu, thành viên của trường Bác cổ Viễn Đông. Hồi trước 1945, ông vào
6 LÊ MINH QUỐC
dạy ở trường Trung học Khải Định và đã đi điền dã, phát hiện ra những ngôi mộ cổ của người Nhật. Sực nhớ đến vùng đồng bằng sông Cửu Long mà người Nhật cũng đến tham sát để tìm đường thủy lên mua bán với với vương quốc Cao Miên xưa, có lẽ cùng thời với cảng Hội An. Đọc Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức thời Gia Long còn thấy dấu ấn, với địa danh, nay hãy còn: ở Cửa Đại, cửa chính của sông Cửu Long, nay ở xã Thủ Thừa, còn gọi là cù lao Nhật Bổn, và cồn Tàu. Tàu là nơi tàu buôn tạm dừng. Nhưng Hội An phát triển nhanh, Nguyễn Phúc Chu đặt tên cầu Chùa là Lai Viễn Kiều, ngụ ý mời mọc thương gia nước ngoài đến, sẽ được ưu đãi, người Việt luôn hiếu khách.
So với chùa người Hoa ở Chợ Lớn thì chùa ở Hội An rất sạch sẽ, thoáng mát, bảo tồn kỹ lưỡng và khung cảnh trầm lặng. Và có trầm lặng thì mới gợi được mùi đạo Lão. Anh bạn nhà thơ Đoàn Huy Giao, người Quảng Nam, đã lưu ý tôi cái bao cửa (cửa võng) trong chùa: nơi con ngựa đực và con ngựa cái đang nằm như động cỡn, với chi tiết rõ rệt, sắp giao hoan. Đây là Âm và Dương đang dấy lên để tạo ra cuộc sống với của cải và tiền bạc gợi ý nghĩa phồn thực. Chân đèn và các bộ lư đốt trầm khá độc đáo xa xưa, nhập từ Trung Quốc. Bên cửa một ngôi chùa, tôi giựt mình, bắt gặp nét bút viết tay chữ Hán lừng danh, hiện đại “Đinh thiên lập địa. Kế vãng khai lai”. Người viết là Vu Hữu Nhậm, “đầu đội trời, chân đạp đất để kế thừa quá khứ, khai sáng tương lai”. Vu Hữu Nhậm còn để lại vài chữ thần, ở Chợ Lớn, nghe đâu trên nóc đình Minh Hương Gia Thạnh.
“Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ”. Lời hát của Trịnh Công Sơn đã đánh trúng vào tâm thức người Việt ở phía Nam. Di tích của vương quốc Chăm, sau nhiều thế kỷ hưng thịnh hãy còn dãi dầu mưa nắng tại Quảng Nam và vẫn còn gợi sự suy nghĩ mông lung. Ở khu tháp Chăm rất nổi tiếng Mỹ Sơn không có gì để “chơi” mà là học hỏi, tìm về cội nguồn Đông Nam Á. Mỹ Sơn nhỏ bé mà cao vút trời và sâu lắng tận lòng đất. Đường đến Mỹ Sơn không xa, về phía núi non, gần dãy Trường Sơn, cao ráo. Tôi chợt hiểu ngoài này là “văn minh đường bộ” với xe cộ, gồng gánh là phương tiện chính. Lúa tốt, chăm sóc kỹ lưỡng, đặc biệt có những giàn bí đao, trái rất to, cũng như trái bí đỏ (bí rợ). Gần như mọi người đều cố gắng xây nhà tường, lợp ngói, nhằm chống giông bão, nếu lợp mái tôn như phía Sài Gòn thì tôn sẽ bay mất! Vách là phên đất, nhưng nóc vẫn ngói.
Trên bước đường mở nước, người Việt đã đến vùng Quảng Nam ngày nay khá sớm, phần lớn từ Nghệ An, đời Lê Thánh Tôn. Đồng bào ở đây xem trọng sự quan hệ tộc họ. Rất nhiều nhà thờ họ. Tôi chỉ mới thoáng nghĩ, chưa nghĩ sâu, đại khái cách nói, cách phát âm “của Nam kỳ” nhưng kỳ thật bắt nguồn từ Quảng Nam, như sơn
NGƯỜI QUẢNG NAM 7
thay vì san, đồng thanh (đồng thinh), trào vua (triều vua), dũng khí (dõng khí)... Rau mò om, khi nấu canh chua làm gia vị, gọi rau ngổ điếc, lá ngò gai thì gọi ngò Tây. Bánh tét cũng xuất phát từ ngoài này. Điệu nói thơ Lục Vân Tiên phía đồng bằng sông Cửu Long quả là kiểu hô Bài chòi Quảng Nam, Bình Định. Thời mở nước người Việt đến đây với dân số ít, bên cạnh người Chăm đông đảo hơn. Vì vậy chịu ảnh hưởng Chăm, như thờ Bà (thần Bà-la-môn), ngồi ăn cơm trên đất, thích ăn mắm cái, tức là mắm cá biển còn nguyên cái, nguyên xác. Có nhiều điều đáng nhớ. Nhất là tục cúng vong, nhằm cúng người Chăm khuất mặt và lễ cúng Đất mà ở trong Nam những gia đình xưa còn noi theo, gọi cúng Việc Lễ, hiểu là cúng ông bà quá cố từ ngoài Trung.
Tập sách của Lê Minh Quốc quả là nhọc công, có gợi mở nhiều vấn đề thú vị, tản mạn trong nhiều chương sách. Đã chứng minh được những đóng góp của người Quảng nói chung trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt. Dễ đọc, dễ theo dõi. Có lúc văn phong bay bướm, dễ cảm thông nhưng lại có khi “nghiêm nghị” quá. Trước đây tôi ước ao có đủ tài liệu, thời gian để làm cuốn sách, đại khái tên gọi Vai trò người Quảng Nam đối với nền kinh tế ở Nam kỳ. Vai trò này rất lớn, không thể không khẳng định qua những lý giải khoa học, có chứng cứ. Đây cũng là một gợi ý, hy vọng sẽ có người Quảng Nam tâm huyết đeo đuổi đề tài này.
Viết tập sách về vùng đất mà mình chôn rau cắt rốn, sinh ra, là đáng hoan nghênh. Sẽ có người đồng ý điểm này, chưa đồng ý đoạn kia, không sao, miễn là viết bằng cái tình, vì tình tự quê hương mà không nhằm vụ lợi riêng tư nào. Trước khi viết Người Quảng Nam do quan hệ nhiều năm, chỗ thân tình, anh bạn Lê Minh Quốc có đến hỏi và nhờ tôi “cố vấn” vài điều, nhỏ thôi. Tôi từng trao đổi rằng: “Viết về vùng đất mình sinh ra là chọn con đường đi đúng hướng, để qua đó sống lại với đời sống tâm linh nguồn cội. Đời sống tâm linh là cần, nhưng cái tâm linh dạt dào sức sống ấy phải thúc đẩy con người nhìn ra thế giới, với các nước láng giềng. Tự tôn với cái ‘tâm linh thuần túy’ của mình là tự sát. Phải tạo ra cái vật chất, phải có khoa học kỹ thuật, phải tồn tại và tồn tại cho bằng được”.
Sơn Nam
tháng 6.2006
8 LÊ MINH QUỐC
1.
• Nhìn xứ Quảng từ đèo Hải Vân qua cảmhứng thica • Địa danh Quảng Namcó từ năm1471
Nghĩ về Quảng Nam, hẳn trong ký ức của nhiều người thấy hiện lên một dãy đèo
sừng sững, cao ngất, uy nghi giữa trời mây thênh thang, bát ngát. Trước mắt mở ra một vùng biển xanh trập trùng, xanh đến nao lòng. Bởi còn nghe sóng réo bên tai. Xanh đến ngây dại. Bởi mây xanh đang cuồn cuộn trên đầu. Phóng tầm mắt ra xa hơn, ta sẽ thấy thành phố Đà Nẵng nằm phía dưới kia lấp lóe sáng những ngọn đèn như nến thắp. Phóng tầm mắt ra xa hơn nữa, ta sẽ thấy từ xa tít kia là vòm mây đang bay thong dong, thong thả. Và sau mây trắng phiêu bồng ấy kia dường như ngọn Ngũ Hành Sơn đang thấp thoáng hư ảo. Bất chợt thấy lòng như thoát tục, tâm trí nhẹ nhàng. Như đang đặt chân lên cõi thiên thai xa xăm. Như vừa rũ bỏ nhọc nhằn cơm áo từng ngày ám ảnh. Rũ bỏ mọi hỉ, nộ, ái, ố của cái cõi trần gian muôn mặt bất trắc. Đang thả hồn mơ mộng như thế, bỗng nghe ai đó gọi. Giật mình. Ngoảnh lại, thấy ngay trước mắt là vách núi sừng sững. Đừng vui và cũng đừng buồn trong lúc này. Hãy nghe từ trên cao xanh kia, những dòng suối đang chảy róc rách như muốn hòa chung bản tình ca độ lượng giữa thiên nhiên và con người. Dòng suối ngàn đời cứ tuôn chảy dạt dào như một lẽ tự nhiên. Không cố gắng. Không điệu đàng. Không làm tịch làm bộ. Đó cũng là phẩm chất của thi ca. Dòng cảm xúc tuôn trào ồ ạt như một điều kiện cần phải có, chứ không thể nào khác được. Khi đứng nhìn dòng suối chảy dạt dào kia, có lúc ta lại hỏi sao lại không dám sống một cách hồn nhiên và khoáng đạt như thế?
Cảm giác này tôi có được khi đứng trên đèo Ải Vân (hay Hải Vân). Nó có độ cao 496m so với mặt biển, dài chừng 20km, đỉnh đèo gần như luôn quyện trong mây. Thử tưởng tượng một sáng đầu xuân, dừng chân đứng trên đỉnh đèo, khoác thêm chiếc áo ấm bởi sương giăng như mưa và mưa nã nớt bay như mây bềnh bồng thì tâm hồn ta bất chợt có một cảm giác bâng khuâng đến lạ thường. Bâng khuâng như vừa cầm được tay người con gái ta yêu, tưởng chừng lúc ấy có một dòng máu nóng chảy qua tay mình, tưởng chừng như trái tim của người ấy đang đập trong ngực mình dù chưa một lần dám tỏ tình. Bâng khuâng như đêm về nhớ lại một mùi son thơm còn thấp thoáng trên môi. Son như lửa đỏ. Không nguôi nhớ.
NGƯỜI QUẢNG NAM 9
Ngày trước, do địa thế hiểm trở, mỗi bước chân leo dốc vượt đèo cực kỳ gian nan nên các bậc thức giả đã xúc cảm thành thơ. Thơ có thể ra đời khi mà tâm hồn của thi nhân gợn lên một “vết xước” nào đó. Cũng giống như hạt cát cần phải có để tạo ngọc cho trai. Cũng giống như lúc ngọn tình ái quất vào trái tim để tạo ra một vết thương. Một vết thương êm ái và nhọc nhằn. Nhưng không chỉ có thế. Sự hùng vĩ của thiên nhiên, sự thân thiện của cây cỏ, sự nhân ái của loài người cũng tạo ra nguồn cảm hứng cho thơ. Với đèo Hải Vân thì lạ lắm, nếu qua đèo bằng xe ô tô lăn bánh ngon trớn, ngồi ung dung trong điều hòa không khí lại khó có thể có cảm hứng cho thơ. Tôi nghĩ như thế, vì sau này khi khảo sát thơ ca Việt Nam hiện đại ít thấy có thơ viết về đèo Hải Vân. Trong khi đó, ở thế kỷ trước hầu như các nhân vật lừng lẫy khi qua lại nơi này đều có thơ ngâm vịnh. Mà vượt qua đèo Hải Vân, theo tôi, sự thú vị không ở chỗ đi xe hơi. Phải đi bằng xe lửa. Hoặc đi bộ. Có thế, ta mới sống, mới cảm nhận được hết sự quanh co, khúc khuỷu, gập ghềnh của con đường uốn lượn quanh đèo xuyên núi mà không một địa thế nào có thể thay thế được.
Đường thiên lý từ Đà Nẵng
ra Huế từ những năm đầu
thế kỷ XX
10 LÊ MINH QUỐC
Ở thế kỷ XVIII, có một nhà bác học kiệt xuất, chỉ với bàn tay thư sinh nho nhã mà có thể thu tóm cả tri thức của loài người. Đó là Bảng nhãn Lê Quý Đôn. Mười ngón tay ông đã chạm đến nhiều lãnh vực và để lại những dấu ấn huy hoàng từ nghiên cứu lịch sử, địa chí, ngôn ngữ đến triết học.Ông lên Hải Vân chắc chắn không phải bằng xe lửa, mà bằng những bước chân nhọc nhằn, bằng những giọt mồ hôi xối xả, bằng những cheo leo mệt nhọc. Ông bảo đây là “đất cổ họng của Thuận - Quảng” (Phủ biên tạp lục). Một cách gọi tài tình và đầy ấn tượng. Sau này, nhà nghiên cứu Dương Văn An trong sách Ô Châu cận lục cũng đánh giá Hải Vân “bền vững như chiếc khóa vàng, chính là nơi đầu não của miền Thuận - Quảng”. Nhà thơ yêu nước Nguyễn Thông, người phủ Tân An, tỉnh Gia Định (nay thuộc huyện Vàm Cỏ - Long An) trong bài thơ Hải Vân quan - nhìn thấy:
Núi non quanh co như bầy rồng,
Chạy từ tây sang ngăn bể đông.
Cheo leo đường trạm bên sườn núi,
Đá dựng như vách giữa không trung.
Cao Tự Thanh - Đoàn Lê Giang dịch
Hơi thơ hào sảng. Khí thơ ngất trời. Bốn câu thơ như vẽ ra trước mắt ta cái cảnh hiểm trở, cheo leo. Bút lực như thế hẳn không phải là người tầm thường. Nhưng có lẽ, bài thơ hay nhất, được nhiều người biết đến nhất vẫn là bài thơ của Trần Bích San. Cụ là học trò của Tiến sĩ Phạm Văn Nghị, người làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc (Nam Định); đậu Giải nguyên, Hội nguyên và Đình nguyên nên được người đời gọi là Tam nguyên Vị Xuyên. Còn vua Tự Đức đổi tên cho cụ là Trần Hy Tăng - ví như Vương Tăng đời Tống cũng đậu Tam nguyên. Sau khi thi đậu, cụ được “bố trí” làm tri phủ Thăng Bình (Quảng Nam). Những ngày tháng này, cụ có ba lần đi lại trên đèo Hải Vân và có được bài thơ tuyệt hay. Đây là bài thơ mà tôi thường nhớ đến khi lang thang trên đèo Hải Vân. Thơ không chỉ vẽ lên cảnh sơn thủy kỳ thú mà qua đó, còn bộc bạch một quan niệm về sáng tác. Một quan niệm mới mẻ của thời ấy và nay vẫn còn “ý nghĩa thời sự”. Thơ không chỉ là sự tưởng tượng trong trí não mà nó còn phải được tôi luyện trong sự gây cấn, thử thách của đời sống. Muốn thế, trước hết, nhà thơ phải sống, biết sống để tìm lấy chất liệu từ trong bụi bặm đời sống thì may ra bài thơ ấy mới có sức sống lâu bền. Thời học đại học, tôi từng được thầy dạy cho bài thơ này bằng chữ Hán:
QUÁ HẢI VÂN QUAN
Tam niên tam thướng Hải Vân đài,
Nhất điểu thân khinh độc vãng hồi.
NGƯỜI QUẢNG NAM 11
Thảo thụ bán không đê nhật nguyệt,
Càn khôn chích nhãn tiểu trần ai.
Văn phi sơn thủy vô kỳ khí,
Nhân bất phong sương vị lão tài.
Hưu đạo Tần quan chinh lộ hiểm,
Mã đầu hoa tận đái yên khai.
Có nhiều bản dịch, nhưng ta chọn lấy bản của Vũ Hoàng Chương - nhà thơ xuất hiện trong phong trào Thơ mới, nhưng phong vị trong thơ man mác âm hưởng thơ Đường một cách điêu luyện, tài hoa và đầy sáng tạo. Một nhà thơ dịch thơ thì hẳn giữ được hồn vía của nguyên tác:
QUA ĐÈO HẢI VÂN
Ba năm vượt ải đã ba lần,
Nhẹ cánh chim hồng dạo Hải Vân.
Ngắm rộng kiền khôn coi cũng bé,
Lên cao nhật nguyệt tưởng đâu gần.
Gió sương như búa: tài thêm chuốt,
Hồ hải làm nghiên: bút mới thần.
Đầu ngựa rừng hoa chen khói mở,
Cười ai khen hiểm lối sang Tần!
Một thắng cảnh được nhiều người làm thơ vịnh, tất không phải ngẫu nhiên. Trước hết, nó phải có một “ma lực” cuốn hút cảm xúc, phải tạo được sự choáng ngợp trong tâm tưởng của mọi người khi nhìn thấy nó. Giống như lúc đứng trước một phụ nữ, bỗng ta thấy trái tim đập mạnh, cựa quậy như muốn vỡ tung lồng ngực, muốn thoát ra ngoài để phơi dưới ánh nắng mặt trời mà thở những hơi thở của tình ái. Bởi nàng đẹp. Hải Vân là thế. Bởi nó hùng vĩ. Ca dao xưa còn ghi lại:
Đi bộ thì khiếp Hải Vân
Đi biển thì sợ sóng thần Hang Dơi.
“Sóng thần Hang Dơi” ở phía bắc chân núi Hải Vân. Như thế, dẫu đi bằng đường bộ hay đường thủy cũng đều gian khổ “trần ai khoai củ” cả. Cũng tại Hải Vân này, ta lại nhớ đến câu:
Không mợ thì chợ cũng đông
Mợ đi trong Quảng ai trông mợ về.
12 LÊ MINH QUỐC
hoặc:
Anh từ trong
Quảng ra đi
Leo lên đèo Ải chữ chi mập mờ.
“Trong Quảng” nghe thân mật, gần gũi quá đỗi. “Chữ chi mập mờ” đó là chữ “Hải Vân quan”. Ba chữ này có từ thời nào? Trong Đại Nam nhất thống chí đã miêu tả khá chi tiết: “Hải Vân quan ở phía nam huyện Phú Lộc và trên đèo núi Hải Vân, phía trước phía sau đều xây một cửa, trên cửa trước đề ba chữ “Hải Vân quan”, trên cửa sau đề các chữ “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Cửa trước cao, dài đều 15 thước, ngang 17 thước 5 tấc; cửa sau cao
Di tích Đệ nhất hùng quan trên đỉnh đèo Hải Vân hiện nay. Ảnh: Lê Minh Tâm
15 thước, dài 11 thước, ngang 18 thước 1 tấc. Phía tả, hữu cửa quan, xếp đá làm tường, trước sau tiếp nhau. Dựng từ năm Minh Mạng thứ 7 (1826)”.
Dãy đèo Hải Vân có một tầm vóc quan trọng trong quá trình dựng nước và mở nước về phương Nam. Để hiểu người Quảng Nam của người Việt, theo tôi, phải bắt đầu khảo sát từ dãy núi này. Một ranh giới rất quan trọng về mặt địa lý đã hình thành nên tính cách “rất Quảng” mà phía bên kia dãy Hải Vân không có.
Vùng đất này nguyên xưa là đất Việt - Thường thị, đời Tần thuộc về Tượng Quận; đời Hán thuộc về quận Nhật Nam; đời Đường thuộc Lâm Ấp; đời Tống thuộc Chiêm Thành. Năm 1306, để giữ mối hòa hảo với Chiêm Thành, vua Trần Anh Tông đã đi một nước cờ khôn khéo là gả em gái công chúa Huyền Trân cho Chế Mân (Jaya Sinhavarman III).
Nhìn lại lịch sử ta thấy, nước cờ này đã được nhiều bậc thiên tử nước Nam áp dụng có hiệu quả. Người trước tiên phải kể đến Đinh Tiên Hoàng. Ngoài việc dùng vũ lực, ngài cũng đã sử dụng mối quan hệ trong hôn nhân ràng buộc đối phương, thu phục đối phương để đạt mục đích thu giang san về một mối. Đến đời nhà Lý, với các châu
NGƯỜI QUẢNG NAM 13
mục ở vùng biên giới phía Bắc, nếu không thu phục được thì nhà vua đem gã công chúa để tạo mối hòa hảo. Thông qua các cuộc hôn nhân vì mục đích chính trị mà vùng thượng du, biên giới đã dần dần ổn định và trở thành “phên giậu” vững chắc cho đất trung nguyên. Đời nhà Trần cũng không khác. Trước lúc công chúa Huyền Trân “đã vo nước đục lại vần lửa rơm”, công chúa An Tư (em út vua Trần Thánh Tông) cũng đã tuân lệnh của Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông thực hiện kế sách “thư nạn nước” là chấp nhận làm vợ của kẻ thù: Thoát Hoan. Sau này, các chúa nhà Nguyễn cũng thực hiện khôn léo như thế, đã gả con gái cho vua Chân Lạp để hoàn thành tiến trình mở đất phương Nam một cách thuận lợi.
Đây là những sự hy sinh cao thượng. Trong đời người, mỗi một người chỉ chết một lần. Trong hôn nhân, nếu không hạnh phúc bởi sống với người không yêu cũng là cái chết, nhưng lại chết nhiều lần. Chết từng ngày trong sự mòn mỏi. Chết nhiều lần trong sự tuyệt vọng của một đời. Ở đây các “lá ngọc cành vàng” thuận làm vợ một người mà mình không yêu, không nhớ, không thương nhưng vẫn phải chấp nhận, vì mục đích cao cả thì phận gái ấy rất đáng để đời sau kính trọng và biết ơn.
Trở lại với Chế Mân, ông vua Chiêm Thành này đã hào phóng dâng châu Ô và châu Lý làm lễ nạp trưng. Món quà quá lớn. Thế nhưng, nội bộ nhà Trần và trong dân gian thuở ấy khi hay tin lại chế giễu, đàm tiếu cuộc hôn nhân chính trị này. Chẳng hạn “Tiếc thay cây quế giữa rừng” hoặc “Tiếc thay hạt gạo trắng ngần”. Rõ ràng, trước một sự kiện, đánh giá sự kiện ấy, không phải “dư luận quần chúng” trong bất cứ trường hợp nào cũng đúng; hoặc có thể đúng trong thời điểm đó, nhưng về sau lại không.
Cuộc hôn nhân này đã được đặt ra từ năm 1301, khi Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông “đi thăm hữu nghị” kinh đô Chiêm Thành và hứa gả con gái cho vua Chiêm. Thế nhưng phải nhùng nhằng đến 5 năm sau, mọi việc mới được tiến hành. Rõ ràng là khoảng thời gian quá dài. Tôi không thấy các nhà sử học đặt vấn đề như thế, nhưng lại thấy ở nhà thơ, nhà văn! Có phải họ vốn là người có tâm hồn nhạy cảm và cảm thương sâu sắc thân phận con người nên đã để tâm đến chuyện tưởng chừng như bình thường này chăng?
Nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường không đồng ý cho rằng cuộc hôn nhân này chậm trễ vì lời đàm tiếu như ta đã biết, ông suy đoán có thể món quà sính lễ đã được ngã giá ngay từ đầu, nhưng đôi bên đặt trên bàn thương lượng là “biên giới phía nam châu Lý mở tới đâu?”.
Chính sự đàm phán này đã kéo dài cuộc hôn nhân.
14 LÊ MINH QUỐC
Nhà văn Nguyên Ngọc cũng có ý kiến tương tự: “Theo logic thông thường. Hải Vân, ngọn đèo cao nhất trên đường từ Bắc vào Nam, một ranh giới tự nhiên hết sức rõ rệt, một tuyến phòng ngự rất khó vượt qua, phải là ranh giới chia đất và hẳn Chế Mân không thể không cố bám lấy cái lằn ranh tự nhiên đó. Nhưng, như chúng ta đã thấy, các nhà thương lượng của triều Trần đã quyết ép và cuối cùng đã đòi được bỏ hẳn ngọn đèo ấy, đi tiếp luôn một mạch hơn ba mươi cây số nữa về phía nam, cho đến tận bờ bắc sông Thu Bồn. Chịu lùi đến tận bờ bắc sông Thu Bồn đối với người Chiêm, ngay cả chỉ riêng về mặt tinh thần thôi, đã là rất đau: ngay sát bên kia sông là cố đô Trà Kiệu nổi tiếng và thành đô thiêng liêng Mỹ Sơn. Mới biết người Việt coi trọng cái rẻo đất từ chân phía nam đèo Hải Vân đến bắc sông Thu Bồn, rẻo đất địa đầu của xứ Quảng (sau này đặt tên là phủ Điện Bàn và vẫn thuộc về Thuận Hóa - vì bấy giờ chưa có Quảng Nam) đến chừng nào”.
Nếu đúng như thế, rõ ràng sự tranh cãi quyết liệt này đã làm chậm trễ việc tiến hành cuộc hôn nhân.
Nhưng tại sao nhà Trần phải giành cho bằng được “rẻo đất” đó? Cũng theo Nguyên Ngọc, ông cho rằng: “Rẻo đất đó không lớn, nhưng có đến hai cửa biển quan trọng là Hội An và Đà Nẵng - đúng ra còn có một cửa biển thứ ba nữa là Câu Đê thời bấy giờ cũng là cửa biển lớn - mà như lịch sử còn ghi rõ, tất cả các cuộc tấn công của Chiêm Thành, một quốc gia rất mạnh
về thủy quân, đánh
ra đất Đại Việt đều
đi đường biển, xuất
phát từ những cửa
biển lớn như thế
này. Chiếm được
các cửa biển này là
đẩy xa hẳn mối uy
hiếp quấy nhiễu
của Chiêm Thành,
đồng thời củng
cố thế trận bắc cự
vững chắc hơn.
Song còn một lý do
thứ hai có thể quan
trọng không kém: Di tích Phật viện Đồng Dương do người Pháp công bố năm 1902
NGƯỜI QUẢNG NAM 15
tràn qua được phía nam đèo Hải Vân, thiết lập được ở đó một bàn đạp, một căn cứ xuất phát tấn công, là điều kiện số một để tiến tới chiếm luôn cả vùng đất Quảng Nam, vùng đất quan trọng và quyết định nhất trên đường Nam tiến (Từ Đông sang Tây, nhiều tác giả, Nxb. Đà Nẵng, 2005, tr.154).
Xét ra, khi nhà thơ, nhà văn đọc sử thì họ cũng có những phát hiện, những suy đoán thú vị, dẫu là suy luận theo tư duy bay bổng nói như nhà thơ Hồ Dzếnh:
Chân đi ắt hẳn không chạm đất
Lạc giữa trần gian bước hững hờ
Nhưng sự cảm nhận, sự linh cảm “khác thường” ấy đôi khi lại phát hiện ra những điều mới mẻ, đặt ra những vấn đề khiến các nhà sử học phải suy nghĩ. Sau khi được hai vùng đất mới này, vua Trần đổi tên thành Thuận châu (tức vùng Quảng Trị) và Hóa châu (từ Thừa Thiên đến huyện Điện Bàn thuộc Quảng Nam ngày nay). Món quà sính lễ của Chế Mân hẳn không phải người Chiêm Thành nào cũng thuận tình. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, có cho biết: “Người dân các thôn La Thủy, Tác Hồng, Đà Bồng không chịu theo. Vua sai Nhữ Hài đến tuyên dụ đức ý của nhà vua, chọn người trong bọn họ trao quan tước, lại cấp ruộng đất, miễn tô thuế ba năm để vỗ về”. Những cuộc hôn phối giữa người Việt và người Chiêm Thành có lẽ đã diễn ra trong thời điểm này. Thuở ấy, lưu dân vào xứ Quảng chủ yếu bằng hai con đường. Đường bộ và đường biển. Đàn ông có sức lực, khuân vác nặng nề nên cuộc hành trình dài dằng dặc này được quyết định bằng đôi chân. Đàn bà, trẻ em được đi bằng đường biển trên các ghe bầu. Dù đi bằng ghe thuyền thuận lợi hơn nhưng sự hiểm nguy có tần số cao hơn đường bộ. Tôi suy đoán rằng, có không ít đấng mày râu đã “mồ côi vợ” vì những chuyến đi như thế. Từ đó, đây cũng là một trong những nguyên nhân để diễn cuộc hôn phối giữa người Chiêm Thành và người Việt. Cuộc “hôn nhân dị chủng” sẽ là một trong những yếu tố hình thành nên tính cách của người Quảng sau này. Không những thế, nó còn hình thành nên diện mạo của người Quảng nữa. Thú thật, trong mắt tôi thì nét rắn rỏi ở đàn ông và nét đằm thắm, mặn mà ở người phụ nữ xứ Quảng vẫn có cái gì đó khác với người vùng đất khác. Khác như thế nào thì rồi đây, tôi tin sẽ có người tìm hiểu, chứng minh và đưa ra những chứng cứ thuyết phục. Khi đặt vấn đề như thế, không phải vô cớ. Bởi ta biết lưu dân vào vùng Thuận Quảng hầu hết người Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh. Vùng đất Thanh Nghệ đã sinh ra những tay anh hùng mã thượng, những tấm gương hiếu học thần kỳ. Nếu không có Nguyễn Kim, người Thanh Hóa thì liệu có nhà Lê Trung hưng hay không? Và Nghệ An, Hà Tĩnh đã có biết bao nhân vật lẫy lừng, ta đã biết, nay không nhắc lại. Đã
16 LÊ MINH QUỐC
thế, sự tồn tại của họ là giao thoa của hai nền văn hóa Việt - Chăm thì đứng về mặt nhân chủng học, tôi nghĩ, tất phải hình thành một tính cách, một bản lĩnh riêng biệt của thế hệ sau.
Đến đời nhà Hồ, sau nhiều lần giao tranh và thương thảo, năm 1402, vua Chiêm Thành là Ba Đích Lại (Indravarman) đã nhường đất Chiêm Động (tức phủ Thăng Bình thuộc Quảng Nam) và Cổ Lũy (tức Quảng Ngãi) cho nhà Hồ. Từ đó, nhà Hồ chia đất ra làm bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và đặt An phủ sứ để điều hành công việc hành chánh. Người Việt lại tiếp tục có mặt tại vùng đất mới. Đây là một biện pháp
Sơ đồ tham quan các quần thể di tích tại Mỹ Sơn.
giữ đất rất phổ biến thuở ấy, nếu không muốn nói là một sách lược khôn khéo của ông cha ta. Nhìn lại lịch sử ta thấy, chính sách “người Việt đã dần dần có mặt tại vùng đất mới” đã có từ đời nhà Lý. Từ năm 1075, khi Chiêm Thành liên tục quấy nhiễu vùng duyên hải, ngay cả danh tướng Lý Thường Kiệt cầm quân nhưng cũng không thể “lập lại trật tự”, bèn nghĩ ra kế khác. Trên mặt pháp lý, các vùng đất ấy thuộc về nước Đại Việt thì nay nhà Trần đổi tên và xuống chiếu mộ dân vào lập nghiệp. Chính sách này tuy chậm, nhưng vững chắc và không đổ nhiều xương máu để giữ lấy đất đai. Đến đời chúa Nguyễn, với vùng đất Chân Lạp chính sách này cũng được áp dụng có hiệu quả.
Có tài liệu cho rằng, lực lượng lưu dân thời nhà Hồ đều phải xăm tên làng xã mình đang cư ngụ vào tay - ngụ ý bằng mọi giá phải giữ đất đến cùng. Xét ra, chuyện xăm trên da thịt vốn không lạ với người Việt. Sử còn ghi, đời Hùng Vương thứ nhất, người nước ta làm nghề chài lưới, thường bị thuồng luồng xâm hại nên nhà vua dạy dân lấy chàm vẽ mình để loài ấy tưởng là đồng loại, không làm hại nữa. Đến đời nhà Trần,
NGƯỜI QUẢNG NAM 17
Vua Lê Thánh Tông (1442-1497) người đặt tên Quảng Nam thừa tuyên vào năm 1471
Di tích Mỹ Sơn qua ký họa
của họa sĩ Phan Ngọc Minh
để thể hiện “quyết tâm đánh thắng Nguyên - Mông xâm lược”, người lính khi ra trận đều xăm trên tay hai chữ “sát Thát”. Thế thì, chuyện nhà Hồ áp dụng cho lưu dân là đáng tin.
Có một sự kiện quan trọng liên quan đến bước đường Nam tiến, ta không thể quên. Năm 1470, đích thân vua Lê Thánh Tôn cầm quân đi chinh phạt những cuộc loạn lạc, giặc giã ở vùng biên giới Việt - Chiêm Thành. Vây thành Trà Bàn bắt được Trà Toàn. Năm 1471, nhà vua đã lấy đất ấy đặt làm Quảng Nam thừa tuyên chia thành ba phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn (tức Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định ngày nay). Ta có thể hiểu, Quảng là rộng, Nam là chỉ vùng đất phương nam. Nhà vua đã lấy núi Mũi Nạy (người phương Tây gọi là mũi Varella) làm mốc giới giữa hai nước Việt - Chiêm Thành. Trên tảng núi cao này, ngài đã cho khắc chữ phân định rõ ràng nên núi này mới có tên núi Thạch Bi - dân gian quen gọi núi Đá Bia, nằm giữa hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay. Có một điều thú vị là trên bước đường chinh phục Chămpa, vua Lê Thánh Tôn đã nghỉ đêm tại đèo Hải Vân.
Trong lịch sử của các triều đại phong kiến Việt Nam, theo tôi, Lê Thánh Tôn vẫn là vị vua có tư duy chiến lược vào bậc nhất, là người đã thực hiện khá nhiều cuộc cải cách
18 LÊ MINH QUỐC
dân sinh rất quan trọng. Và lạ kỳ thay, ông cũng là vị vua hay chữ, thích làm thơ mà thơ lại hay, khó có vị vua nào sánh kịp. Chỉ riêng việc, ngài sáng lập ra Hội Tao đàn cũng đáng cho hậu sinh ngưỡng mộ, vì nó minh chứng hùng hồn cho tấm lòng yêu thơ của ngài. Khi một người nắm quyền lực cao nhất mà yêu thơ thì tâm hồn ấy, nhân cách ấy sẽ cân bằng hơn, nhân ái hơn khi sử dụng quyền lực. Tất nhiên giữa tinh thần yêu thơ và tấm lòng ưu thời mẫn thế về thời cuộc, về trách nhiệm là người đang lèo lái còn thuyền đất nước phải phân biệt rành mạch, chứ không thể lẫn lộn. Quá yêu thơ, giỏi thơ mà không có một tầm nhìn chiến lược giữ nước như trường hợp vua Tự Đức thì nào phải đáng khen. Với vua Lê Thánh Tôn lại khác hẳn. Lúc xong việc binh nhung, đứng trên tầm cao nhìn xuống vịnh Đà Nẵng, ngài đã ngẫu hứng viết Hải Vân hải môn lữ thứ (Nghỉ lại ở cửa biển Hải Vân). Có thể xem đây là bài thơ đầu tiên viết từ cảm hứng khi nhìn phong cảnh Hải Vân của một thi nhân, của một ông vua văn võ song toàn vào bậc nhất trong lịch sử Việt Nam:
Xa thư gộp một nền chung
Hải Vân, nét gạch khoanh vùng trời Nam
Gió ru thuyền Lộ, canh năm
Đồng Long đêm lặng, bóng trăng xế tà
Giặc kia đất ải nộp ta
Khổn thần vì nước tính xa mọi bề.
Ngô Linh Ngọc dịch
“Khổn thần”, ta có thể hiểu là bề tôi được trao nhiệm vụ bảo vệ vùng biên giới. Một trong những biện pháp “tính xa mọi bề” của “khổn thần” là khi lấy được vùng đất này đã phân chia lại ranh giới, phạm vi đất cũ, đổi tên rồi sau đó đưa các tội đồ tới đây để làm “đầy biên giới” như trong Thực lục cho biết. Nhân đây cũng xin nói, bậc minh quân Lê Thánh Tôn, trong trường hợp này ngài có quyền xưng “thiên tử” (con trời), nhưng ở đây chỉ xưng “khổn thần” (bề tôi) một cách rất khiêm tốn, há không phải là điều ta phải suy nghĩ đấy sao? Chao ôi! Đọc thơ người xưa, không chỉ là câu chữ bóng bẩy, ở đó còn là một tấm lòng vằng vặc nhật nguyệt buộc ta phải soi rọi suy ngẫm.
Như vậy, địa danh Quảng Nam có từ năm 1471 và do vua Lê Thánh Tôn đặt. Theo tôi nên lấy cột mốc này để kỷ niệm sự ra đời của vùng đất đã sinh ra những bậc kỳ tài như Đoàn Ngọc Phi, Phạm Hữu Kính, Lê Văn Thủ, Nguyễn Tường Vĩnh, Đỗ Thúc Tịnh, Hoàng Diệu, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Thành Ý, Trần Văn Dư, Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến, Phạm Như Xương, Tú Quỳ, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Lê Đình Dương, Phan Thanh...
NGƯỜI QUẢNG NAM 19
Bản đồ nước Đại Việt thời vua Lê Thánh Tôn.
Nhìn lại “Quảng Nam thừa tuyên” từ thời vua Lê Thánh Tôn, ta thấy gồm có ba phủ, chín huyện tức là “đất mẹ” của bốn tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên ngày nay - là một khu vực rộng lớn, tiếp giáp Ai Lao ở phía tây, biển lớn ở phía đông, lấy núi Hải Vân làm giới hạn ở phía bắc và núi Đá Bia (Thạch Bi) làm địa giới phía nam.
Để có được bài thơ hào hùng đó, để có được “Quảng Nam thừa tuyên”, ông cha ta đã đi một chặng đường dài đến mấy thế kỷ! Trước đó, đúng 489 năm trước, năm 982 vua Lê Hoàn đã tiến hành cuộc chinh phạt đầu tiên vào đất Chiêm Thành nhằm giữ yên bờ cõi.
Sực nhớ, có lần trong cuộc nói chuyện với bà con đồng hương Quảng Nam, nhà văn Vũ Hạnh cho rằng, từ “ăn” trong tiếng Việt rất phong phú. Sau khi liệt kê ra một loạt từ liên quan đến ăn, ông nhấn mạnh đến “ăn đi” và giải thích hóm hỉnh là “ăn” để rồi tiếp tục “đi”. Đi mãi về phương Nam là khát vọng của người Việt. Và chỉ khi vượt qua được đèo Hải Vân, có được Quảng Nam thì hành trình ấy mới thật sự mở ra một tiền đồ rộng lớn và có khả năng trở thành hiện thực.
Ngày nay, khi dạo chơi “đệ nhất hùng quan”, ta thật khó tưởng tượng ra rằng, con đường đèo trước đây trắc trở, nguy hiểm, một bên là vách núi dựng đứng, một bên là
20 LÊ MINH QUỐC
vực sâu thăm thẳm. Trải qua nhiều năm tháng, con đường lên đèo đã được sửa sang. Chẳng hạn, năm 1839, vua Minh Mạng cho tu bổ lại, ngài Dụ rằng: “Hải Vân là chỗ hiểm trở của thiên nhiên. Trước đây, trẫm ngự chơi Quảng Nam, thấy đường xá gập ghềnh đi lại không tiện đã cho sửa sang lại...”. Và gần đây nhất, sau trận lụt khủng khiếp năm 2000 đã có nhiều đoạn đèo được mở rộng thêm
Đường thiên lý từ Đà Nẵng ra Huế đầu thế kỷ XX
và xây dựng kiên cố... Nhờ vậy, bây giờ chúng ta mới có thể thong dong vượt qua Hải Vân một cách nhanh chóng và tận mắt được nhìn một di tích đang đứng trơ gan cùng tuế nguyệt...
“Đi bộ thì khiếp Hải Vân”. Nỗi sợ hãi ấy đã lùi xa dần. Ngày 27-8-2000, tại phường Hòa Hiệp, quận Liên Chiểu (thành phố Đà Nẵng), điểm cuối phía nam của hầm Hải Vân, Bộ Giao thông Vận tải đã tổ chức lễ khởi công xây dựng đường bộ qua đèo Hải Vân. Chặn đường này, điểm đầu tại phía bắc cầu Lăng Cô (Thừa Thiên - Huế) và điểm cuối tại Khu công nghiệp Liên Chiểu (Đà Nẵng). Nếu trước đó phải mất 1 giờ - 1 giờ 30 phút cho đoạn đường 21km đèo dốc nguy hiểm, thì sau khi hoàn thành sẽ còn mất dăm phút. Đúng vào lúc 10 giờ 20 phút cùng ngày, Thủ tướng Phan Văn Khải đã nhấn nút điện nổ quả mìn đầu tiên mở của hầm phía nam - khởi công xây dựng công trình lịch sử này. Tổng mức đầu tư là 251,042 triệu USD từ nguồn vay của Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản.
Ngày 5-6-2005 đường hầm qua đèo Hải Vân được khánh thành, thiên hạ ùn ùn đổ nhau đến tham quan, đông vui như trẩy hội. Theo thiết kế, đường hầm chính rộng 11,9m, cao 7,5m, mặt đường có hai làn xe, mỗi làn 3,75m và một đường hầm thoát hiểm rộng 4,7m, cao 3,8m chạy song song với đường hầm chính. Mỗi xe qua chỉ mất chừng 7 phút, vận tốc tối đa quy định là 60km/giờ, thay vì 80km/giờ như thiết kế.
NGƯỜI QUẢNG NAM 21
Sự rút ngắn thời gian vượt đèo Hải Vân quả kỳ diệu. Đọc lại Ô châu cận lục (năm 1555) của Dương Vân An, ta biết: “Từ địa phận Thuận Hóa (Huế) theo đường bộ ước hơn một ngày thì đến điạ phận Quảng Nam”; cuối thế kỷ XVII, nhà sư Thích Đại Sán ghi nhận: “Núi cao nắng gắt, trèo qua rất khó, nên đi thuyền theo đường biển tiện hơn”. Tại sao ta không hình dung ra cái cảnh người đi trên chặng đường gian nan, hiểm trở ấy qua mấy dòng chữ trong Đại Nam nhất thống chí ghi nhận từ thời nhà Nguyễn: “Người đi như vượn leo, chim vượt”. Khó có cách nói nào ấn tượng hơn. Ngẫm lại mà thương cho tiền nhân. Thương những giọt mồ hôi, mà có khi còn cả máu nữa đã đổ xuống để dần dần hình thành con đường này. Phương tiện thông tin nhau của vùng Thuận - Quảng lúc ấy phần lớn là nhờ vào những chuyến đi như vậy. Ca dao xứ Quảng có câu:
Buồn tình cha chả buồn tình
Không ai đi Huế cho mình gởi thư
Đừng tưởng đây là chuyện của “thời xửa, thời xưa”, mới đây thôi, trong khoảng thập niên 1940 đường lên Hải Vân cũng còn gian nan, trắc trở như thế. Bằng chứng là nhà thơ Khương Hữu Dụng, quê Hội An khi viết trường ca Từ đêm Mười chín còn cảm nhận:
Hải Vân đèo cao núi hiểm trở
Ngất dựng hùng quan từ vạn thuở
Trắng lợp đầu non sững đứng mây
Vực thẳm triền nghiêng cây níu cây
Đường leo đá trụt dốc treo ngược
Trấn thủ người theo vóc ngựa gầy
Thuở ấy, Hải Vân lừng hiểm hóc
Một tiếng mang kêu đà rởn óc.
Nhip thơ khúc khuỷu. Hơi thơ mang âm hưởng Đường thi. Càng đọc to lên càng thấy sướng tai. Khoái trá lạ thường. Nhắc đến nhà thơ Khương Hữu Dụng ta biết ngay đó là người Quảng Nam yêu thơ vào bậc nhất, có thể nói chuyện thơ từ ngày qua ngày nọ không biết mệt. Và ở tập trường ca này dài hàng trăm câu thơ, nhưng có một câu thơ được nhiều người truyền tụng nhất “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”. Tôi ngờ rằng, cảm hứng kỳ diệu ấy có được là do ông cảm nhận khi đứng trên đèo Hải Vân chăng?
“Đi bộ thì khiếp Hải Vân”. Nỗi sợ hãi ấy chỉ còn trong ký ức. Kỳ lạ thay cho dãy đèo Hải Vân, con đường thiên lý một thời với ám ảnh ghê gớm lại là “ranh giới” để phân biệt tính cách của con dân xứ Quảng với các vùng khác phía bên kia.
22 LÊ MINH QUỐC
Đường hầm
xe lửa
qua đèo
Hải Vân
vào đầu
thế kỷ XX
Tính cách này, trong Đại Nam nhất thống chí ghi nhận: “Học trò chăm học hành, nông phu chăm đồng ruộng; siêng năng sản xuất mà ít đem cho; vui làm việc nghĩa và sốt sắng việc công. Quân tử giữ phận mà hổ thẹn việc bôn cạnh, tiểu nhân khí khái mà hay kiện tụng. Dân ven núi sinh nhai về nghề hái củi đốn cây, tình tình chất phác; dân ven biển sinh nhai về nghề tôm cá, tính tình nóng nảy. Tục ưa xa xỉ, ít kiềm thúc, hát xướng không tiếc của, ăn mặc tất lược là; thêu dệt tinh khéo, sa trừu không kém gì Quảng Đông. Đến như tiết Nguyên đán, cúng tổ tiên, lạy cha mẹ; ngày hôm sau bầu bạn đi chúc nhau, gọi “mừng tuổi”, đầu xuân sắm cỗ bàn để tế thổ thần; tiết trung nguyên sắm đồ mã để cúng tổ tiên; tiết đoan dương cúng tổ tiên và hái các thứ lá để làm thuốc; ngày 10-3 cúng cơm mới; tháng chạp thì tảo mộ; lễ dựng nêu và trừ tịch đều có cúng rượu chè hoa quả; tế thần tất bày trò xướng hát; lễ mừng tất đốt pháo. Ngoài đồng có đền Tư Nông; trong nhà có thờ Quan Thánh. Mỗi làng có kẻ sĩ hành nghi mà việc tế lễ nghiêm trang; mỗi ấp có điếm canh mà giữ việc tuần phòng cẩn mật. Còn như các lễ xuân thu, tùy theo từng làng giàu hay nghèo; quan, hôn, tang, tế tùy vào sự nhà (giàu) có hay túng (thiếu); việc đi lại thăm mừng, trầu rượu hay rượu cũng tùy mức”.
Nhận xét này được viết ra từ thời vua Tự Đức, cách đây hơn hai trăm năm ắt nay có những điều đã khác và nó cũng không phải là “khuôn vàng thước ngọc”. Hơn nữa trong quá trình lao động, vật lộn mưu sinh thì sẽ, hoặc hình thành thêm hoặc loại bỏ những tính cách không còn phù hợp.
Nay nhận xét trên xem ra vẫn còn vài đặc điểm “mang tính thời sự”, chẳng hạn sốt sắng việc công; học trò chăm chỉ, siêng năng đèn sách; nhà nông chăm đồng ruộng;
NGƯỜI QUẢNG NAM 23
người quân tử chỉ lo phận sự của mình, chứ không thích cầu cạnh kẻ trên - tôi hiểu, đây không là sự an phận mà do người Quảng không chịu, không thích lòn cúi để được lòng “cấp trên”; kẻ tiểu nhân hay kiện tụng; nghề dệt tinh xảo; trong việc quan, hôn, tang, tế thì quà cáp lễ nghĩa tùy vào thực lực của mình, chứ không “trưởng giả học làm sang”, thấy người ta như thế thì mình (dù nghèo) cũng chạy đôn chạy đáo, vay mượn sắm sửa “mâm cao cỗ đầy” để được như thiên hạ. Tính cách này cho thấy người Quảng thực tế, thật bụng đối đãi nhau chứ không “hoa hòe hoa sói” trong giao tế, lễ nghi.
Và tôi cũng muốn thêm một nhận xét nữa, bản chất người Quảng vốn “ăn cục nói hòn”, “nghĩ sao nói vậy”, không giỏi mồm mép, không “mồm mép đỡ chân tay”; họ ghét những kẻ “ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa”! Chính vì nói thẳng, trực tính, không nói vòng vo “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” nên cách nói ấy dẫu đúng, nhưng có khi vẫn không đạt hiệu quả như mong muốn. Nếu cách nói “hợp lý” ấy được người Quảng thể hiện uyển chuyển hơn nhằm đạt đến sự “hợp tình” hơn, “xuôi tai” hơn thì hẳn người nghe sẽ dễ tiếp thu hơn. Và cũng trong trò chuyện, dẫu là chỗ thân tình nhưng ở người Quảng, ta thấy họ cũng thường hay “phản biện” hay “lật ngược vấn đề”, chứ không gật gù cho “qua chuyện”. Chính vì thế, khi nói chuyện với họ, ta thường được tiếp nhận khá nhiều thông tin lý thú. Với một người dù mới quen sơ, mới gặp lần một lần hai nhưng khi cần phải bộc bạch quan điểm nào đó thì họ sẵn sàng trao đổi, chứ không “nhìn trước ngó sau” mới phát biểu.
Mây trắng Hải Vân. Ảnh: La Thanh Hiền
24 LÊ MINH QUỐC
Lịch sử của dân tộc Việt hình thành từ những cuộc Nam tiến. “Từ thuở mang gươm đi mở cõi” (Huỳnh Văn Nghệ) đến nay đã hình thành một dải non sông gấm vóc. Với bản đồ như chữ S, ta có thể hình dung ra hình dáng người thiếu nữ nằm bên bờ biển Đông. Hay nói một cách nôm na, chữ S ấy là chiếc đòn gánh. Hơn bốn ngàn năm phải nhẫn nại gánh “thủy, hỏa, đạo, tặc” nhưng vẫn bền vững một sức sống trường tồn. Trong bối cảnh ấy, xứ Quảng đã có những đóng góp gì trong công cuộc phát triển chung của toàn dân tộc? Trả lời câu hỏi này không dễ dàng. Nói Quảng Nam “địa linh nhân kiệt”, không sai. Nhưng trên mảnh đất hình cong như chữ S này, nơi đâu mà không địa linh nhân kiệt, không là sông thiêng núi ngọc?
Tâm lý chung của mọi người là thường tự hào nơi mình sinh ra, nơi chôn rau cắt rốn. Tâm lý ấy hình thành một cách tự nhiên. Như sống phải thở. Như đói phải ăn. Không ai chối bỏ nơi mình đã sinh ra. Con cái có nghĩa, có hiếu không chê cha mẹ nghèo khó. Trong sách Quốc văn giáo khoa thư có kể về người đàn ông đi du lịch khắp nơi, nhưng khi quay về vẫn cho rằng quê hương là nơi chốn đẹp hơn cả. Người Quảng tự hào về xứ Quảng là lẽ thường tình. Nhưng ai cũng cho rằng, xứ mình nhất thiên hạ thì điều đó khó có thể chấp nhận được, nếu không muốn nói là điên rồ, lẩm cẩm. Câu ca dao xưa có câu:
Chồng người áo gấm xông hương
Chồng ta áo rách ta thương mặc người.
Ám ảnh lớn nhất trong tâm trí của tôi mỗi khi nhớ về quê nhà vẫn là “trời hành cơn lụt mỗi năm”. Khi trở về cứu trợ đồng bào Quảng Nam trong trận lụt năm 2000, có một điều khiến tôi cảm nhận và day dứt mãi là một so sánh, rồi viết thành thơ. Ở bài thơ này, tôi có so sánh - dù vẫn biết sự so sánh nào cũng khập khiễng, nhưng trường hợp này không thể không suy nghĩ:
Đôi dép mua ở Sài Gòn
Hai năm “cứu trợ” vẫn còn y nguyên
Quê nhà - nhà mới dựng lên
Bão năm nay đã xô nghiêng mái nhà
Sài Gòn - xứ Quảng bao xa
Hai vùng đất ấy lại là ngược nhau
Cái nhà trôi xuống biển sâu
Còn đôi dép vẫn bền lâu đến giờ.
NGƯỜI QUẢNG NAM 25
Thế đấy! Người ta nói “sống cái nhà, chết cái mồ”, nhưng cái nhà ấy không trụ nổi trận bão khốc liệt chỉ một năm sau đó. Với người Việt nói chung cái nhà là một tài sản, cần làm kiên cố, duy trì đời này qua đời sau. Nhưng ở Quảng Nam cái nhà có khi lại không bền bằng một đôi dép đi tại Sài Gòn, bởi lũ lụt hằng năm đã tàn phá dữ dội. So sánh như thế đau lòng lắm chứ! Chính mắt tôi đã từng chứng kiến những cảnh đau lòng ấy trên nhánh sông Thu Bồn, để rồi thốt lên trong nắng chiều tàn úa:
Nhà ơi! Bão cuốn mày rồi
Chỉ còn cây cột chọc trời liêu xiêu.
Nhà thơ Nguyễn Nhật Ánh cũng đã từng có nỗi lo:
Gặp em từ độ quê nhà
Chạnh lòng một buổi rồi xa nghìn ngày
Sài Gòn sáng sớm mưa bay
Ngồi lo Đà Nẵng mùa này bão giông.
Mà thật thế, khi Sài Gòn mưa bay, gió lạnh bất thường, đủ để thiên hạ khoác thêm áo ấm xuống phố “chắc như bắp rang” thì ngoài Trung mình lại đang giông bão. Chao ôi! Thương ơi là thương. Nhớ ơi là nhớ! Thương nhớ về cái vùng đất “trời hành cơn lụt mỗi năm” đến quặn lòng. Mà dù có thế, nhiều hơn thế thì người xứ Quảng vẫn bám trụ đến cùng trên mảnh đất này để tiếp tục dựng nên những trang sử thi mới. Không thể khác. Vâng, không thể khác. Trong sổ tay cứu trợ của tôi còn ghi vài câu thơ:
Bốn ngàn năm qua bão cũng điên cuồng như thế. Đất hóa thành sông. Sông lạc cội nguồn. Biển hóa nương dâu qua nhọc nhằn đời mẹ, thành niềm vui rơi xuống giọt lệ buồn.
Sau cơn bão trở về quê vẫn còn có mẹ. Những cây tre vững chãi dựng lên nhà. Những lứa đôi dựng tình yêu mới. Đất nước hoài thai tiếng trẻ khóc oa oa. Trẻ lớn lên cũng bền lòng như mẹ. Chống bão nghìn năm giữ vững cả sơn hà.
“Bền lòng” cũng là một trong những tính cách tiêu biểu của người Quảng Nam. Người Quảng Nam viết về Quảng Nam là điều khó. Thôi thì, ta hãy xét xứ Quảng bằng lẽ tự nhiên của sự thủy chung, yêu dấu bất di bất dịch về vùng đất đã chôn rau cắt rốn. Ta hãy xét về một vùng đất bắt đầu từ phía nam đèo Hải Vân đến phía bắc sông Thu Bồn:
Dù cho cạn nước Thu Bồn
Hải Vân hóa cát, biển Đông thành đèo
26 LÊ MINH QUỐC
Dù cho cay đắng trăm điều
Cũng không lay được tình keo nghĩa dày.
Bằng tình yêu của người con xứ Quảng đang sống xa xứ, ta hãy xét về một vùng đất mà nhà thơ Tường Linh đã viết:
Quê hương tôi bên ni đèo Ải
Nhấp nhô bóng thuyền Cửa Đại
Già nua nếp phố Hội An
Ngũ Hành Sơn năm cụm ngắm sông Hàn
Chùa Non Nước trầm tư hương khói quyện
Đêm Đà Nẵng vọng buồn con sóng biển
Bún Chợ Chùa thương nước mắm Nam Ô
Ta muốn về Trung Phước giữa mùa ngô
Thăm quê ngoại Đại Bình cam đỏ ối
Sớm Duy Xuyên tơ vàng giăng nghẽn lối
Chiều Điện Bàn xe đạp nước thay mưa
Sông Thu chẳng thiếu đò đưa
Ngọt khoai Tiên Đõa, mát dừa Kiến Tân
Quế Sơn núi liếp mấy tầng
Thương bòn bòn Đại Lộc, nhớ rượu cần Trà Mi...
Người Quảng Nam viết về Quảng Nam là điều khó. Vẫn biết vậy. Tôi thắp trước mặt tôi môt nén nhang thơm, tẩy rửa lòng mình và cúi đầu ngâm ngợi câu thơ của cụ Phan Sào Nam đặng tự nhủ lòng mình:
Đành chẳng công đâu may khỏi tội,
Bao nhiêu chữ đó bấy nhiêu tâm.
Phan Bội Châu
NGƯỜI QUẢNG NAM 27
2.
• Vai trò Bắc quân Đô đốc BùiTá Hán đốivớixứ Quảng • Nết ăn nếp ở của xứ Quảng qua PHỦ TẬP QUẢNG NAM KÝ SỰ, BÚT KÝ XỨ ĐÀNG TRONG NĂM 1621 (Christophoro Borri), MỘTCHUYẾN DU HÀNH ĐẾN XỨ NAM HÀ 1792-1793 (J. Barrow)
• Lần đầu tiên ngườixứ Quảng thấymáy bay
Từ phía bắc, vượt qua đèo Hải Vân, ta đặt chân lên Quảng Nam. Một vùng đất thân
thiện, giàu tình nặng nghĩa đã có hai di sản lịch sử - văn hóa được UNESCO đã công nhận: Khu phố cổ Hội An và Khu tháp Chăm Mỹ Sơn. Theo đánh giá của các chuyên gia: Mỹ Sơn là di tích làm nổi bật sự giao lưu văn hóa, đặc biệt nghệ thuật và kiến trúc Ấn Độ giáo, phản ánh sinh động vai trò của vương quốc Chămpa trong lịch sử văn hóa Đông Nam Á; khu phố cổ Hội An là biểu hiện vật thể nổi bật trong sự giao thoa của các nền văn hóa, và điển hình tiêu biểu về quản lý bảo tồn một khu di tích thương cảng quốc tế truyền thống ở châu Á.
Những địa danh ấy không còn “đóng khung” trong phạm vi của một quốc gia, sức hấp dẫn của nó đã vươn đến nhiều nơi trên thế giới.
Khi đến với Mỹ Sơn, là lúc ta được lặng lẽ chiêm nghiệm về bể dâu trong cõi trần gian này, để bàng hoàng nhận ra rằng, ngọn gió thời gian khắc nghiệt đủ sức bào mòn và xóa nhòa tất cả. Ngọn gió hư vô muôn đời vẫn đi về trên những ngọn tháp rêu phong thì thầm, kể lể về một quá khứ, một lịch sử đã xa. Để rồi từ trong thực tại bất chợt ta được quay ngược về những năm tháng cũ với biết bao bí mật chưa được khám phá. Bí mật về lịch sử của một dân tộc thì ta sẽ khám phá ra, không lúc này thì lúc khác. Nhưng bí mật của những ngọn cỏ nhú mầm xanh trên tháp kia mới lạ lùng sao. Trên từng phiến đá khô cằn, mỏi mệt ấy bất chợt ta thấy cỏ trở nên tươi tắn và hồi sinh theo nhịp điệu đời sống hiện đại bởi nó đang xanh. Cỏ xanh thơ dại trên những tháp Chàm trầm tư, già nua, cổ kính. Ừ, đã cỏ thì nhiệm vụ phải xanh, nhưng ở đây ta có cảm giác nó buộc phải xanh, bằng mọi cách phải xanh để tồn tại đã khiến ta nhói lòng
Khi đến với Hội An là lúc ta được sống, được hít thở với một không gian của những thế kỷ trước. Ta cảm tưởng như vệt nắng mới dù đang tốt tươi, dù đang mơn mởn dậy
28 LÊ MINH QUỐC
Biểu tượng
"con mắt
thời gian"
trên cánh
cửa nhà tại
Hội An, chú
ý ta sẽ thấy
các con mắt
không giống
nhau
Ảnh: Lê
Phương Thảo
thì trên những nếp nhà cũ kỹ, trên những bức tường xám xịt rêu phong nhưng đó là hình ảnh của dĩ vãng. Của xa xăm, lặng lẽ “hôm qua” chứ nào phải của gần gũi, náo nhiệt “hôm nay”. Thậm chí, ngay cả tiếng sóng vỗ ở Cửa Đại dù ngàn năm đã như thế, nhưng đến nay ta vẫn nghe trong âm vang ấy nhắc nhở về huyền thoại rực rỡ của một thời đã xa
Không chỉ có thế.
Với một người yêu lấy quê nhà của mình thì bất cứ địa danh nào nằm trên vùng đất ấy cũng là những tiếng gọi da diết và đủ sức lay động những tình cảm sâu thẳm nhất. Tôi luôn có một cảm giác thân mật và bình yên khi nghe ai đó nói đến những cái tên bình dị Bà Rén, Nam Ô, Miếu Bông, Vĩnh Điện, Đại Lộc, Quảng Đại, Cầu Mống, chợ Cồn, sông Hàn, đèo Le, Cửa Đại, Cẩm Nam...
Có lúc tôi nghĩ rằng, muốn biết thân phận con người nhỏ bé như thế nào trước ngọn sóng ngàn năm trong vũ trụ thì bước chân ra biển. Quảng Nam có biển: biển Mỹ Khê, Nam Ô, Xuân Thiều, Thanh Bình, bắc Mỹ An, Cửa Đại, Non Nước... Muốn sống trong cảm giác chông chênh, phiêu bồng cùng mây trắng ngàn năm ngao du gió mới thì hãy lên núi. Quảng Nam có núi: Bà Nà - Núi Chúa, Ngũ Hành Sơn, Ngok Linh... Muốn chìm đắm trong một không gian yên tĩnh, chập chờn sông nước để mở lòng ra với hương vị quê mùa, dân dã thì đến với sông. Quảng Nam có sông: sông Thu Bồn, Trường Giang, Ly Ly, Bà Rén, Vĩnh Điện, Cẩm Lê... Muốn cảm nhận tột cùng giá trị của không khí và ánh sáng, nó quý báu như thế nào thì hãy xuống địa đạo. Quảng Nam có địa đạo: địa đạo Kỳ Anh (Tam Kỳ), địa đạo Phú An - Phú Xuân (Đại Lộc).... Muốn
NGƯỜI QUẢNG NAM 29
chiêm nghiệm về cái lẽ sinh tồn của một dân tộc thì hãy nhìn ngọn tháp Chăm. “Từ trời xanh rơi vài giọt tháp Chàm” là cảm nhận của nhạc sĩ, nhà thơ tài hoa Văn Cao khi nhìn thấy ở Quy Nhơn; nhưng ở Quảng Nam thì khác hẳn, ta phải nói, từ đất đột ngột mọc lên những ngọn tháp thì mới nhìn ra hết sự huy hoàng của nó. Quảng Nam có tháp Chăm: khu tháp Chăm Mỹ Sơn, Chiên Đàn, Bằng An, Khương Mỹ...
Quảng Nam ta có biển, có sông, có núi... thì còn đòi hỏi gì nữa? Thưa, ta còn đòi hỏi con người nơi ấy cái cá tính trọng nghĩa khinh tài. Sự đòi hỏi này cũng giống như khi yêu một người đàn bà, ta đòi hỏi ở họ những gì? Là nhan sắc? Là gì đi nữa thì cũng không thể thiếu được sự thủy chung. Quảng Nam là vùng đất của sự thủy chung, giàu tình nặng nghĩa. Ca dao địa phương còn ghi lại:
Quảng Nam là xứ tỉnh ta
Trong là Quảng Ngãi, ngoài là Thừa Thiên
Phía đông là biển sát miền
Phía tây có núi, gần miền Ai Lao
Đà Nẵng tàu lớn ra vào
Hội An là phố đông người bán buôn
Sông xanh một dải Thu Bồn
Sông từ chợ Cũi đến nguồn Ô Gia
Tỉnh thành đóng tại La Qua
Hội An tòa sứ vốn là việc quan
Bốn phủ, bốn huyện mọi đàng
Quan viên cai trị luận bàn việc dân
Đá than thì ở Nông Sơn
Bồng Miêu vàng bạc, Quế Sơn có chè
Thanh Châu buôn bán nghề ghe
Thanh Hà vôi ngói, mía che Đa Hòa
Phú Bông dệt lụa, dệt sa
Kim Bồng thợ mộc, Ô Gia thợ rừng
Ngà voi, tê giác, gỗ rừng
Trân châu hải vị chẳng từng thiếu chi
Tỉnh ta giàu nhất Trung kỳ
Nên ta phải học lấy nghề tự sinh...
Hai câu thơ cuối phản ánh tính cách của người xứ Quảng, khá rõ nét. Dù tự hào “Tỉnh ta giàu nhất Trung kỳ”, nhưng họ vẫn không quên nhắn nhủ một cách rất
30 LÊ MINH QUỐC
thiết thực, thực tế, không huênh hoang ỷ lại. Trong tập Tỉnh quốc hồn ca, cụ Phan Châu Trinh kêu gọi thống thiết:
Ngồi nghĩ lại càng đau tấc dạ
Hỡi những người chí cả thương quê
Mau mau đi học lấy nghề
Học rồi, ta sẽ đem về dạy nhau.
Chao ôi! Cái xứ Quảng đáng yêu và cũng đáng thương biết chừng nào. Lịch sử của mỗi dân tộc là sự tiếp nối nhiều thế hệ. Trên bước đường mở cõi về phương Nam, có lẽ vùng đất Quảng Nam chỉ ổn định nhất vào thời vua Lê Thánh Tôn trở về sau. Nói như thế, không phải là vô cớ. Đành rằng, làm nên mọi chiến công, mọi thành bại trong những tháng ngày này là lực lượng lưu dân vô danh, lực lượng cùng đinh bé mọn, thấp cổ bé họng; nhưng ta không thể không đánh giá cao vai trò của cá nhân, nếu họ thật sự tạo ra những dấu ấn quan trọng. Tục ngữ Việt Nam có câu “Một người lo hơn kho người làm” là vậy. Tôi muốn đề cập đến vai trò của một vị tướng thao lược, trí dũng song toàn là ông Bùi Tá Hán, sinh năm 1496, người châu Hoan (tức Nghệ An ngày nay). Với những tài liệu ít ỏi còn để lại, ta thấy xứ Quảng thời ấy đã là một vùng đất có chủ quyền và hệ thống pháp lý từng bước
ổn định “đâu ra đó”, có quy củ, có tầm phát
triển chiến lược lâu dài.
Năm 1545, ông Bùi Tá Hán được vua Lê
phong Bắc quân Đô đốc, giao làm trấn thủ,
đem quân đi vỗ yên vùng biên trấn Quảng
Nam (tức vùng đất Quảng Nam, Đà Nẵng,
Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên ngày
nay). Cùng đi theo ông còn có con trai Tứ
dương hầu Bùi Tá Thế và viên tướng Xích Y
Thị, vốn giỏi thu phục các dân tộc ít người
và chế ngự được người Chăm. Vào vùng đất
mới, sau khi dẹp yên loạn lạc, Bùi Tá Hán
đã đề ra những chính sách tích cực nhằm
thu hút nông dân nghèo các xứ Thanh Hoa
(tức Thanh Hóa ngày nay), Nghệ An, Hải
Dương... lũ lượt kéo vào Quảng Nam lập nghiệp. Trong tập tài liệu cổ bằng chữ Hán
Tượng Bắc quân đô đốc Bùi Tá Hán (1496-1568) thờ tại Quảng Ngãi
NGƯỜI QUẢNG NAM 31
Phủ tập Quảng Nam ký sự có những thông tin rất thú vị. Nay đọc lại, ta thấy biện pháp an dân của ông hẳn chưa phải đã lỗi thời và nó còn giúp cho ta biết được vai trò của tiền nhân trong sự nghiệp ổn định mọi mặt tại một vùng đất mới. Nhưng trước hết phải nói về tập sách này.
Vào đời nhà Lê, khoảng năm 1558-1571 có một người họ Mai đã viết sách này. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, sách được tộc Bùi ở làng Thu Phổ (Quảng Ngãi) lưu giữ. Năm 1824, ông Phiên ty Quảng Ngãi Lê Đăng Hiển sao chép lại một bản và truyền cho con cháu. Năm 1914, cháu bốn đời của ông Hiển là Lê Viết Hòa lại chép thêm bản thứ hai để lưu giữ. Mãi đến năm 1996, tập sách nay mới được các ông Lê Hồng Long, Vũ Sông Trà dịch ra tiếng Việt và được Giáo sư Trần Nghĩa hiệu đính. Nhờ vậy, chúng ta mới có thể biết thêm được nhiều thông tin về nhân vật Bùi Tá Hán mà lâu nay chính sử chỉ chép sơ sài. Tập sách cho biết chính sách của ông Bùi Tá Hán trong việc vỗ yên dân, vỡ ruộng lập làng như sau:
1. Quan huyện ở các địa phương phụ trách việc tiếp dân và điều hành công việc. 2. Hộ nào đến trước thì ở nhờ vào địa phận xã có đồn điền của quân đội. 3. Quan huyện xuất kho trợ cấp mỗi hộ năm tháng lương ăn.
4. Quân đội ở các đồn điền chặt gỗ trong rừng, cắt tranh trên núi làm nhà ở, giao cho mỗi hộ tạm thời sử dụng.
5. Trích ruộng thục điền (tức ruộng đã cày cấy được) trong số ruộng đất ở các đồn điền giao cho mỗi hộ một ít để tạm thời canh tác.
6. Khuyên mọi người trồng khoai lang, rau ngắn ngày, để sau vài ba tháng là đã có hoa lợi.
7. Khuyên mọi người sau mùa cấy hái, nỗ lực khai hoang làm ruộng tư, ai có công khai phá thì số lượng đó sẽ trở thành sở hữu của riêng mình.
8. Khuyên nhà quan, nhà dân bất luận giàu nghèo, mỗi khi nấu cơm nên “ghế” (độn) thêm hai mươi phần trăm khoai lang hoặc bắp (ngô) thay gạo.
Trong lúc vỡ hoang lập ấp, ông Bùi nghĩ ngợi rất sâu, biết ngọn nguồn công việc. Từ xưa, việc cày cấy rất thô sơ, hoa lợi từ lâu không tăng mà tô tức thuế xâu lại nặng nề. Thêm vào đó, các tập tục hủ lậu bưng bít con người, nếu không nhân lúc khai hoang lập ấp mà cải cách, đổi mới, thì khác nào người ngủ say, ta mới chỉ dời giường ngủ của họ thôi. Kinh thư nói: “Ngày đổi mới, lại ngày đổi mới, ngày ngày đổi mới”. Tuy nhiên, bỏ cũ đổi mới không phải là việc dễ dàng. Cái gì còn hợp thời thì cứ phải
32 LÊ MINH QUỐC
dùng, cái gì không còn hợp thời, thì mới bãi bỏ, đổi mới. Cho nên nói: cái đúng thì thực hiện, cái sai thì bãi bỏ, đấy là lẽ đương nhiên!
Vậy cương và nhu phải đắp đổi, khuyên và răn phải cùng dùng:
l. Làm nhà nên theo kiểu tám cột, ba gian, lợp bốn tấm rui, vuông bốn góc. Các nhà liên kết thành xóm ấp, gần gũi có nhau, giúp đỡ cùng nhau.
2. Mỗi xóm đào một cái giếng, lấy nước trong sạch để ăn uống. Nhà nào có sức người, sức của nên đào một cái giếng để dùng riêng.
3. Phụ nữ không dùng quần không đáy, dùng loại dùng quần như nam giới, nhuộm đà hoặc chàm để phân biệt nam, nữ.
4. Làm nồi đồng, nồi đất ở cổ có lỗ quay, dùng đũa bếp mà bưng xuống, tiện việc đun nấu.
5. Cày bừa đều dùng ách, mắc hai trâu kéo; trên mỏ cày có thêm trạnh phụ, làm cho cùng một công cày mà bội tăng đất thục, đó là cái lợi của việc đổi mới kỹ thuật. 6. Khuyến khích các nghề như: thợ rèn, thợ mộc, thợ đúc, thợ dệt vải, thợ dệt chiếu, thợ chằm tơi nón... khi làm được hàng hóa, đem ra chợ bán không đóng thuế chợ. 7. Đối với việc quan, hôn, tang, tế giữ lễ, nhưng phải tiết kiệm, tránh hội họp ăn uống kéo dài, phí sức, tốn của. Các nhà thờ phụng ông bà, cha mẹ chỉ nên cúng tế vào các ngày giỗ chạp và vào dịp Tết mà thôi.
8. Các xã thôn xây dựng đền chùa để nhân dân cúng lễ.
9. Dân chúng nhiều người do chưa quen thủy thổ nên sinh bệnh tật, mỗi xã thôn nên mời một thầy thuốc chữa trị cho dân. Nên trích một ít ruộng công cấp cho thầy thuốc để động viên vợ con họ.
10. Xã thôn nào hộ khẩu tăng nhiều, số trẻ em phát triển nên rước một ông đồ, lập nghĩa thục (trường tư) để dạy lễ nghĩa và văn học cho con em. Cần trích một ít ruộng công cấp cho gia đình thầy đồ yên tâm dạy học.
ll. Từ huyện Hy Giang đến huyện Tuy Viễn cần đắp một con đường thiên lý (rộng hai trượng rưỡi), làm cầu cống, nếu qua sông lớn thì dùng thuyền đò, cứ 17 hải lý đặt một “dịch trạm” để lính giao dịch chuyển đệ công văn.
12. Làm nông phải coi trọng thủy lợi; các huyện cần xem xét tình hình nước sông trong huyện để đắp đê điều dẫn nước vào ruộng. Nếu là vùng trũng, ruộng bị úng, thì khai kênh rút nước để tiện cày cấy. Còn như ruộng cao ở hai bên bờ sông, thì nên ngăn sông làm bờ xe nước để đưa nước vào ruộng.
NGƯỜI QUẢNG NAM 33
13. Làm thuyền nan trét dầu rái để thay thuyền ván, như vậy sẽ nhẹ và nhanh, vào sông ra biển đều thuận lợi.
Không những lo ổn định đời sống của người dân Đàng Ngoài vừa đến lập nghiệp, ông Bùi còn đề ra chính sách đối với các dân tộc ít người, ông cho rằng: “Vùng thượng du Quảng Nam từ Hà Đông đến Tuy Viễn, ở thượng nguồn có nhiều dân miền núi du canh du cư không tuân theo vương hóa. Vì việc canh tác của họ quá thô sơ, đốt núi chõi lỗ gieo lúa nên hoa lợi ít ỏi, mỗi khi gặp năm mất mùa, không tránh khỏi chết đói, đến nỗi phải tụm năm tụm ba trộm cướp để mà sống, gây xích mích giữa người Thượng và người Kinh. Nếu vì vậy mà làm tội họ thì Nhà nước không nỡ! Ta nên khuyên họ định cư, định canh dạy cho họ cày bừa, cấy gặt, khiến họ đủ ăn, đủ mặc, hồ hởi định cư và giao hảo với người Kinh thì trộm cướp sẽ tiêu tan, dân tình Kinh - Thượng sẽ yên ổn.
l. Phải khuyến khích người miền Thượng định canh, dạy cho họ cày bừa ruộng đất, gieo trồng, cấy gặt.
2. Lập các nơi giao dịch, những địa phương có dân Kinh và Thượng sống gần nhau thì mở chợ phiên cách nhật, để cho người Thượng cũng như người Kinh đem thổ sản, lâm sản, hàng hóa tới buôn bán, trao đổi.
Năm 1556, ông Bùi đã dâng biểu về triều đình với những lời tâu như sau:
l. Rút hết quân lính ở các đồn điền. Người nào còn muốn ở lại quân ngũ, cứ để họ ở. Người nào muốn giải ngũ nhập tịch với xã, sở tại cấp ruộng công điền cho họ để họ làm ăn sinh sống. Người nào muốn giải ngũ trở về nguyên quán, thì cấp lương đủ ăn sáu tháng cho họ.
2. Những ruộng đất nào do quân lính khai khẩn nay đã thành thục điền, thì nên đem làm công điền, giao cho các thôn xã sở tại phân cấp cho quân dân cày cấy chịu tô thuế. Riêng về mặt quân cấp công điền thì sẽ có quy định riêng kèm theo.
3. Từ khi thành lập Thừa tuyên Quảng Nam đến nay, tất cả ruộng đất công cũng như tư phần lớn đều thành thục điền, nhưng chưa được khám đạc. Hiện nay dân cư đã ổn định, các thôn xã đã hình thành, ruộng đất mới khai khẩn tăng gấp bội. Vậy xin khám đạc ruộng đất công cũng như tư, phân định các hạng để tiện việc thu thuế. Nên định mỗi sào mười lăm thước, ruộng chia làm ba hạng, đất chia làm ba hạng.
Đối với vùng biên cương, ông đề ra biện pháp:
34 LÊ MINH QUỐC
l. Từ bờ biển cho tới vùng núi phía tây, chia đóng ba đồn lớn, mỗi đồn lưu trú 500 quân. Chia quân làm hai nửa, một nửa làm đồn điền để nuôi quân đội, còn một nửa thay nhau đi kiểm tra, kiểm soát các nơi. Cứ sau 6 tháng lại luân phiên một vòng. Mỗi đồn có một viên quan văn tham gia bàn bạc việc quân và xử lý các công việc hành chính trong vùng.
2. Lập ba nơi giao dịch tại vùng biên, do quân lính các đồn phụ trách, cho phép người Kinh và người Chàm mang các thứ lâm sản, thổ sản, nông cụ và đồ dùng gia đình tới đây buôn bán. Trong việc đổi chác, lấy thuận mua vừa bán làm chuẩn. Nếu có điều gì không vừa ý, sinh cãi cọ với nhau thì quan đồn phải hòa giải cho ổn thỏa ngay, đừng để chuyện bé xé thành to.
3. Người Chàm nếu có ai ra vào cửa khẩu vùng biên để thăm bà con thân thuộc, thì đều phải trình báo rõ ngày giờ, kỳ hạn đi và về với quan đồn; đến khi hết hạn cũng phải trình báo.
4. Các quan văn võ cùng quân lính
các đồn đối với người Chàm đều
phải dùng lời lẽ nghiêm chỉnh,
đúng mực và ôn tồn để chinh
phục họ tự đáy lòng, nhất thiết
không được to tiếng nạt nộ họ”.
Nhờ khôn khéo thực hiện những
chính sách được lòng dân, hợp thời
thế mà Quảng Nam trấn ngày một
ổn định. Có thể xem đây là những
bước đi tiên phong rất quan trọng để
sau này, năm 1858, Đoan quận công
Nguyễn Hoàng vào Nam thừa hưởng
được những thuận lợi mà Bùi Tá Hán
đã tạo dựng bước đầu và tiếp tục đưa
lịch sử của nước ta tiến dần về phương
Nam. Trấn quốc công Bùi Tá Hán mất
năm 1568, không rõ nguyên nhân, chỉ
biết ông qua đời đã trở thành huyền
thoại trong lòng dân, tôn vinh “hiển thánh” và ghi vào bia lăng:
Trang đầu tiên của Phủ tập Quảng Nam ký sự - bản chép tay năm 1824
NGƯỜI QUẢNG NAM 35
Nhân mã bất tri hà xứ khứ;
Huyết y trường dữ thử bi lưu.
Tạm dịch:
Người, ngựa chẳng biết về đâu
Chiến bào thấm máu lưu vào lời bia.
Nguyên quận công Nguyễn Bá Quýnh lên thay Bùi Tá Hán. Sau Nguyễn Hoàng, đang trấn Thuận Hóa được vua Lê cho kiêm lãnh trấn Quảng Nam, đổi ông Quýnh về trấn thủ Nghệ An. Trải qua nhiều năm tháng, các triều đại đều có sắc phong tôn vinh công lao của ông Bùi Tá Hán. Điều này cho thấy, uy tín và đức độ của ông càng bền vững theo thời gian.
Sau khi mất, đền thờ của ông Bùi Tá Hán được lập tại xã Thu Phổ, huyện Chương Nghĩa (Quảng Ngãi) - sách Thoái thực ký văn gọi là “đền Quảng Nghĩa đại vương”. Xưa đền rộng lớn, nhưng về sau do xây dựng nhà máy đường nên đền dời về hướng tây trong khu rừng Lăng rộng khoảng 25ha. Gọi rừng Lăng vì nơi đây có chôn cất mảnh áo bào nhuộm máu của ông và xây thành lăng mộ. Riêng tước Trấn quốc công của ông được đặt tên thay cho núi Phước, thường gọi là núi Trấn Công hoặc núi Ông - cách huyện Chương Nghĩa chừng 12 dặm về phía bắc, phía bắc núi nằm kề sông Trà Khúc. Hiện nay, khu rừng Lăng, Lăng Ông và đền thờ Bùi Tá Hán đều được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích cấp Quốc gia.
Tại Quảng Nam, xưa kia cũng có đền thờ Bùi Tá Hán tại núi Ngũ Hành Sơn, thờ chung với bà Thiên Y A Na. Hiện nay, tại đình Nam Chơn (29 Trần Quang Khải, phường Tân Định, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh) do người Quảng Nam tạo dựng từ thế kỷ XIX cũng có thờ Bắc quân Đô đốc Bùi Tá Hán.
Tại sao ta không thử tìm hiểu nết ăn nếp ở, sinh hoạt hàng ngày của người Quảng Nam thuở ấy?
Trong kho tư liệu bề bộn, tôi chỉ chọn lấy hai tập bút ký Xứ Đàng Trong năm 1621 của Christophoro Borri, Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà 1792-1793 của J. Barrow. Với tôi, đọc những tập sách này hấp dẫn không khác gì được nghe kể chuyện cổ tích. Điều thú vị nhất của kẻ du hành là họ được chiêm nghiệm những giá trị mắt thấy tai nghe rồi thể hiện qua trang viết. Nhiều nhà văn thèm chết đi được. Thèm bởi chất liệu của đời sống còn tươi roi rói, như cá quẫy, như mầm xanh đang nhú Ở đây không có chỗ cho trí tưởng tượng. Các nhà sử học cũng thèm chết đi được, bởi ở đây ngồn ngộn tư liệu đời thường mà chính sử thường “bỏ quên”, không nhắc đến.
36 LÊ MINH QUỐC
Trước hết phải giới thiệu đôi dòng về tác giả - để thấy tài liệu của họ đáng tin cậy. Ông Christophoro Borri sinh năm 1583 tại Milan (Ý), đến Đàng Trong vào năm 1615 và ở lại đây chừng năm năm trời. Ông từng giảng dạy tại Đại học Coimbra về môn thiên văn và toán học; lại giỏi về ngành hàng hải và có viết dang dở tập sách Chỉ dẫn hành trình đi Ấn. C. Borri mất năm 1632. Còn ông J.Barrow sinh năm 1764 ở phía tây nước Anh, lúc 28 tuổi được đi công cán đến Đà Nẵng, dưới thời Tây Sơn. Tên của ông còn được nhớ đến qua Mũi Barrow ở điểm cực Bắc của nước Mỹ thuộc Alaska, cũng như Eo Barrow ở vùng Canada. J.Barrow mất năm 1848.
Với tập sách của C. Borri, tôi chọn bản dịch của Hồng Nhuệ, Đoàn Khắc Xuyên, Nguyễn Nghị (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1998). Với tập sách của J.Barrow, tôi chọn bản dịch của nhà nghiên cứu Nguyễn Thừa Hỷ (Nxb. Thế giới, 2011). Xin lưu ý, trong bút ký của mình, J. Barrow viết Vịnh Han-san (Hàn Sơn); Turon (Đà Nẵng), Faifo (Hội An); C. Borri viết địa danh các xứ Đàng Trong như Caciam (Quảng Nam), Quamguia (Quảng Ngãi), Quingnim (Quy Nhơn)... Tôi xin làm công việc tẩn mẩn là đối chiếu những gì họ đã ghi chép. Qua hai tập sách có khoảng cách chừng trăm năm, ta thử khảo sát nét sinh hoạt của người Quảng, theo thời gian có gì thay đổi? Tất nhiên, tôi cũng chỉ đối chiếu một cách sơ lược và ngẫu hứng, miễn sao đọc thấy hấp dẫn là được.
Chẳng hạn, J. Barrow cho biết: Thuở ấy, vua Quang Toản đã tặng “món quà nhỏ” cho đoàn thủy thủ của phái bộ Anh gồm 10 con nghé, 50 con lợn thiến, khoảng 300 con gà, vịt cùng vô số rau, củ, quả... Họ đã phúc đáp lại món quà mà nay ta không ngờ đến. Đó là... khẩu súng hai nòng với đầy đủ phụ kiện, một đôi súng lục bằng đồng có lắp lưỡi lê lò xo, một thanh gươm có chuôi thép và nhiều tấm vải bông to màu đỏ tươi. Lại nữa, cũng theo J.Barrow, nhằm thiết lập mối quan hệ với xứ Nam Hà, vua Quang Toản còn ban cho họ những món quà: “một cặp ngà voi và 10 bao hạt tiêu cho ngài đại sứ và 3.000 bao gạo (mỗi bao nặng 70 pound, như vậy lên tới chừng 100 tấn) để cho thủy thủ dùng!”. Ít ai biết, với số gạo này, do không sử dụng hết nên khi đến Quảng Châu họ đã bán lại, lấy tiền sung vào quỹ của công ty Đông Ấn Anh. Những thông tin này hấp dẫn quá đi chứ?
Và bây giờ, chúng ta hãy ngược về quá khứ:
1. C. Borri: Hội An là hải cảng đẹp nhất “nơi tất cả người ngoài quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng nhất”. Thuyền bè cặp bến bằng hai cửa biển: “Turon (Đà Nẵng) và Pulluciambello (Hội An)”.
J. Barrow: Vịnh Turon: “Về mặt an toàn và thuận tiện, ít có vịnh nào trên thế giới phương Tây sánh được bằng nó và chắc rằng không có vịnh nào vượt trội
NGƯỜI QUẢNG NAM 37
Sinh hoạt tín ngưỡng
tại Quảng Nam trong
bút ký của J.Barrow
hơn nó”. Do muốn có cái nhìn tổng quan chính xác về cảng biển và vịnh biển Đà Nẵng, vào buổi sáng tinh mơ đoàn của J. Barrow đã chèo thuyền cặp bến phía đông và tiến hành đo đạc. Lập tức, họ bị quan quân của ta ngăn cản và cấm tái phạm. Trước đó, một sĩ quan của tàu Lion thực hiện chuyến thăm dò dòng sông dẫn đến Faifo (Hội An) đã bị bắt và giam trong pháo đài.
2. C. Borri: Cơm là lương thực chính “như bánh mì là lương thực chính của chúng ta”. Ngồi trên đất để ăn, chân xếp lại, trước một mâm tròn cao ngang bụng. Do mâm nhỏ nên trong mỗi bữa tiệc “bao nhiêu khách thì bấy nhiêu mâm”. Chỉ dùng đũa, không dùng dao, xiên, khăn giấy...
J. Barrow: Khi ăn người dân nơi đây “không dùng khăn trải bàn, dao, nĩa, chai và cốc; nhưng trước mặt mỗi người lại đặt những chiếc thìa bằng gốm, một đôi que nhỏ (đũa) bằng tre, gỗ hồng đào hoặc gỗ trầm”. “Trong mùa khô họ thường ăn cơm ở trước cửa ngôi nhà tranh của họ, trên những chiếc chiếu trải ngoài trời”.
Lúc tiếp khách nước ngoài không có “rượu vang hoặc rượu mạnh, cũng không có các loại đồ uống có hơi men, ngay cả nước cũng không có. Nhưng sau khi ăn xong, người ta đã đưa cho chúng tôi những chén sứ nhỏ trà Tàu. Viên thống đốc hoặc viên tướng lĩnh chỉ huy cảng Turon dĩ nhiên đã không hạ cố để ngồi với chúng tôi, nhưng thường trong những dịp này, ông ta nằm tựa vào một cái đệm gối trải trên một chiếu ở trong phòng, hút thuốc hay ăn trầu cau, trong khi hai gã vóc người cao lớn quạt cho ông suốt trong thời gian đó với những chiếc quạt kéo lớn làm bằng lông của loại gà lôi Argus”.
3. C. Borri: “Họ làm rượu bằng một thứ gạo cất có mùi vị như rượu của ta, giống cả về màu sắc, về vị cay gắt, tinh tế và độ mạnh”.
38 LÊ MINH QUỐC
J. Barrow: “Họ không thích các loại rượu vang, bia của người phương Tây, chỉ thích rượu rum nguyên chất, rượu brandy hoặc loại đồ uống nào có cồn. Thường những lúc đó họ uống quá say, đến nỗi phải có người dìu về”.
4. C. Borri: “Nhà ở được cất trên các hàng cột khá cao để cho nước ra vào tự do. Ai cũng leo lên nhà sàn cao nhất và phải khen họ là không bao giờ lụt bén tới bởi họ đã lấy kích thước chính xác, do kinh nghiệm lâu năm, của mực nước cao thấp, do đó họ không sợ vì họ biết chắc là nước luôn ở phía dưới nhà họ”.
J. Barrow: “Nhìn chung, những ngôi nhà ở vùng phụ cận vịnh Turon chỉ gồm bốn vách đất, mái lợp tranh, và vì những ngôi nhà đó nằm ở những nền đất thấp gần các dòng sông, nền thường được dựng trên bốn cột gỗ hoặc trụ đá để ngăn ngừa các loại chồn, cáo, chuột, bọ hoặc nước lụt tràn vào”; “những căn nhà tranh ở Turon kín đáo và sạch sẻ, đủ chắc chắn để bảo vệ người dân”.
5. C. Borri: “Họ có rất nhiều tơ lụa đến nỗi dân lao động và người nghèo cũng dùng hàng ngày”. Nhiều kỳ nam. “Trầm hương thì ai cũng có thể bán tùy thích nhưng chúa giữ độc quyền mua bán kỳ nam vì hương thơm và tác dụng đặc biệt của nó. Rừng có nhiều voi, tê giác...”.
J. Barrow: “Người ta thấy bán ở chợ khá nhiều bông vải và tơ lụa để may quần áo”. “Những nhà vua xứ Nam hà thường tiêu khiển với các vị sứ thần ngoại quốc: Đó là cuộc du ngoạn vào rừng săn voi, hổ hoặc trâu rừng; vào những dịp này, nhà vua thường thết những bữa tiệc thịt voi”.
6. C. Borri: “Về nét mặt thì cũng giống như người Tàu, cũng có mũi tẹt, mắt bé”, không quá lùn như người Nhật, “nhưng về thân hình vạm vỡ thì họ vượt” người Tàu và người Nhật. “Họ để tóc xõa và rủ xuống vai, có người để tóc dài chấm đất, càng dài càng được coi là càng đẹp”. Đàn ông cũng để tóc dài như đàn bà “cho tóc xõa đến gót chân”. Để móng tay dài, dấu hiệu của sự quý phái phân biệt với dân thường và thợ thuyền.
J. Barrow: “Mái tóc đen dài giống như tóc của người Mã Lai thường được búi gọn lại thành lọn trên đỉnh đầu”; “đôi khi buông lỏng thành những lọn rủ xuống sau lưng, thường là tận mặt đất”. Trẻ con 7, 8 tuổi vẫn còn ở trần truồng. “Họ không thích thú và cũng không cần thiết đến những công trình kiến trúc đồ sộ, lộng lẫy; những quần áo dày chắc, kín đáo mà mọi người vẫn gọi là những tiện nghi, thì đối với họ là rất khó chịu, vướng víu”.
7. C. Borri: “Người Đàng Trong không đi dép cũng không đi giầy, cùng lắm chỉ mang một miếng da buộc mấy dây lụa và khuy trên mu bàn chân như kiểu săn-đan của ta”.
NGƯỜI QUẢNG NAM 39
J. Barrow: Người dân luôn luôn đi chân trần, không xỏ giày, tầng lớp trên đi một loại dép hay giày vải rộng.
8. C. Borri: “Họ đua nhau đến gần chúng ta, trao đổi chúng ta trăm nghìn thứ, họ mời chúng ta dùng cơm với họ. Tóm lại, họ rất xã giao, lịch sự và thân mật đối với chúng ta”.
J. Barrow: Người dân luôn vui vẻ, chuyện trò luôn miệng. “Thậm chí, họ còn lên tàu thăm hỏi chúng tôi”. Người phụ nữ năng nổ, ngoài việc quán xuyến gia đình họ còn giỏi trong buôn bán; thậm chí còn tham gia làm nhà, sản xuất đồ bát đĩa bằng gốm thô... “Người phụ nữ không mấy kiêu sa về sắc đẹp, nhưng sự thiếu hụt về duyên dáng hình thể ở một mức độ nào đó lại được bù đắp bởi một tính tình hoạt bát, vui vẻ, hoàn toàn không giống người phụ nữ Trung Hoa chậm chạp, u sầu và sống khép kín”.
9. C. Borri: “Những miếng trầu đã têm sẵn thì để ở trong hộp và suốt ngày người ta nhai trầu, không những khi ở trong nhà mà cả khi đi lại trong phố chợ, cả lúc nói, ở mọi nơi mọi lúc... Họ cũng hút thuốc lá, nhưng thuốc lá không thông dụng bằng trầu cau”.
J. Barrow: Mọi người thường ăn trầu, làm môi đỏ và đen răng.
10. C. Borri: “Ngành ngư nghiệp cũng rất thịnh vượng và cá ở đây có hương vị tuyệt diệu và rất đặc biệt, tôi đi qua nhiều đại dương, đã qua nhiều nước, nhưng tôi cho rằng không có nơi nào có thể sánh được với xứ Đàng Trong”. Nhà nào cũng dự trữ nhiều chum, vại, lu nước mắm như ở châu Âu “người ta dự trữ rượu”. Xứ này nhiều chim yến.
J. Barrow: Kỹ thuật đóng thuyền được người nước ngoài khâm phục. Họ đóng được đủ kích, cỡ. Có những chiếc thuyền dài từ 15m đến 25m, được chạm trổ cầu kỳ, tinh xảo. Ngư dân còn dùng để ra Hoàng Sa thu lượm hải sâm, chim yến
11. C. Borri: Kẻ ngoại tình, dù nam hay nữ cũng phải chịu hình phạt voi giày. “Theo cách thức như sau: Người ta dẫn phạm nhân ra khỏi thành tới một thửa ruộng và truớc mặt rất đông người đến coi, người ta đặt thủ phạm ở giữa, tay chân bị trói, ở ngay cạnh con voi. Rồi người ta tuyên án phạt kẻ sắp bị xử và thi hành án xử theo từng điểm một. Trước hết voi dùng vòi quấn, rồi nắm và ép chặt tội nhân và nâng tội nhân lên cao, đưa ra cho mọi người trông thấy, rồi tung lên cao và đón tội nhân rớt xuống trúng ngà. Tội nhân từ cao rớt xuống và vì nặng nên cắm sâu vào ngà, tức thì voi hất người đó xuống đất rồi dẫm chân lên và đạp cho tan nát. Voi làm
40 LÊ MINH QUỐC
việc này mà không bỏ sót một điểm nào. Vì chứng kiến hình phạt kẻ khác chịu mà mọi người phải giữ trung thành đạo vợ chồng”.
12. J. Barrow: Khi xem múa hát không mất tiền vào cửa, “những chiếc lán dựng rạp ở Turon, hệt như nhà hát Haymarket, người ta thưởng thức bằng mắt cũng như bằng tai. Mỗi lần chơi lặp lại bản đồng ca, ba nàng kiều nữ xứ Nam hà đã để lộ ra những thân hình mảnh mai trong điệu múa lắt léo. Tuy nhiên, trong đó, người ta ít sử dụng đến đôi chân nhất. Bằng những điệu bộ của đầu, thân mình và cánh tay, họ đã giả cách làm ra nhiều nét mặt khác nhau, và mọi động tác của họ đều phù hợp chính xác với nhịp điệu âm nhạc”.
Đại khái thế.
Đã trót kể chuyện xưa, thì cho tôi sẵn dịp kể luôn một thể, kẻo quên. Ấy là chuyện lần đầu tiên người xứ Quảng thấy... máy bay. Sau khi đàn áp được phong trào chống sưu thuế năm 1908, giặc Pháp đã tính đến biện pháp “Làm nảy sinh lòng khâm phục trong đám cử tọa bản xứ và ngay trong các tầng lớp của xã hội An Nam” như chính Khâm sứ Trung kỳ đã khẳng định. Một trong những biện pháp ấy là chúng đưa máy bay đến Đông Dương, địa điểm mà chúng chọn là Huế và Quảng Nam - Đà Nẵng. Chiều 4-8-1913, lúc 17 giờ 3 phút lần đầu tiên hàng ngàn người hiếu kỳ thấy máy bay tung cánh trên bầu trời xứ Huế do phi công Marc Pourpe lái. Không riêng gì dân đen mà ngay cả Thượng thư bộ Công Nguyễn Hữu Bài cũng hứng chí không kém, có làm đến những ba bài
thơ Nôm Coi tàu bay tại Huế - phần
nào phản ánh được tâm trạng của người
dân thuở ấy:
Ấy ai khôn khéo lạ
trong đời,
Chấp cánh mà bay để
chúng coi.
Mới đó giập giằng vừa
khỏi đất,
Bỗng đâu phất phới đã
ngang trời.
Hình ảnh cô gái chèo đò trên sông
Đà Nẵng thế kỷ XVIII.
NGƯỜI QUẢNG NAM 41
Qua qua lại lại đều như ý,
Xuống xuống lên lên rõ thiệt tài.
...
hoặc:
Muôn ngàn người đứng một người bay,
Nói nói cười cười ngó ngó say.
Chắp cánh xa chơi gần mặt nước,
Cất đầu thẳng cánh khít tầng mây.
...
Ngay sau đó, ngày 6-8-1913, thực dân đưa máy bay từ Huế vào Đà Nẵng. Tòa Đốc lý ra lệnh cho dân nhượng địa Đà Nẵng và dân từ các huyện, phủ Quảng Nam, thậm chí cả Hội An ngót ba mươi cây số cũng phải tập trung đi coi tàu bay tại bãi cát Lầu Đèn - nay là khu vực đường Trần Cao Vân chạy đến bờ biển Thanh Bình. Bài vè Coi tàu bay tại Lầu Đèn đã cho biết quang cảnh nhộn nhịp lúc ấy:
Đời xưa chí những đời nay
Đời này mới thấy tàu bay nửa lừng
Nguồn đào Hải Khẩu tứ tung
Từ Hàn chí Phố rùng rùng đi coi
Quan gia chầu chực hẳn hòi
Sức dân, sức ghế lại đòi đến dân
Khắp nơi cờ đóng rần rần
Sức dân đun khói cực dân ba bốn ngày
Ai ai cũng sức tàu bay
Dân canh, lính gác tự ngày chí đêm
Kẻ bán rượu, người bán nem
Kẻ lận bạc giáo, người đem bạc đồng
Đàn bà chí những đàn ông
Bà già, con nít cũng bồng ra đi
Mười giờ tàu lại một khi
Cò đánh, lính ví ra gì nữa đâu
Kẻ bán nước, người bán trầu
Một xu một bát nhào đầu vô mua
Người ta như rác họ đùa
Hai bên đàng cái không thua kiến bò
42 LÊ MINH QUỐC
Chuyến bay biểu diễn của phi công Marc Pourpe tại Tourane (Đà Nẵng) năm 1913
Ở gần trong bụng còn no
Ở xa bụng đói không lo mà về
Ra về mệt mỏi tay chưn
Dầu mà có đói cũng thấy cái đời văn minh
Rùng rùng máy nổ thất kinh
Chiếc tàu cất cánh thình lình bay lên
Bay lên trên Mọi, trên Lào
Nghe tiếng ào ào ở tại trên mây
Không ai mà giỏi như Tây!
Nhân đây xin giải thích mấy từ hơi khó hiểu như “sức dân” nghĩa là: nghiêm chỉ, sai khiến, sắp đặt, còn công văn cấp trên gởi xuống gọi là “tờ sức”; “sai dân đun khói” vì mãi đến năm 1926 sân bay dân dụng mới được xây dựng tại Đà Nẵng, do đó, người dân phải đun khói ngay tại Lầu Đèn để viên phi công Marc Pourpe từ trên không biết hướng mà đáp xuống; “kẻ lận bạc giáo” tức là bạc cắc, hào - tiền lẻ; “lính ví”, người Quảng Nam thường phát âm là “dí” có nghĩa là bị lính đuổi chạy... Điều buồn cười là viên phi công Marc Pourpe sau đợt biểu diễn máy bay lại được đặt tên đường ngay trung tâm thành phố, nay đường Phan Châu Trinh (Đà Nẵng)!
Nhân đây cũng nói luôn, không phải người Huế hoặc người Quảng Nam mà người Sài Gòn được xem máy bay trước nhất. Nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết: “Được người đứng đầu bộ máy cai trị của xứ Đông Dương nhiệt tình hỗ trợ, viên phi
NGƯỜI QUẢNG NAM 43
công Van Den Borg (sinh năm 1874, cha người Bỉ, mẹ người Pháp) đã tổ chức “Đại tuần lễ Hàng không tại Nam kỳ” (Grande semaine d’Aviation) diễn ra tại Sài Gòn từ ngày 8 đến 18-10-1910. Đây là cuộc tập hợp được ghi nhận là lần đầu tiên ở châu Á, những thành viên cổ vũ cho hàng không đã được thành lập. Tiếp đó từ ngày 7 đến 18-12-1910, một cuộc trưng bày và trình diễn máy bay đã được tổ chức tại trường đua Phú Thọ. Và cao trào của tuần lễ này là sự kiện Van Den Borg trình diễn bay trên chiếc Farman 2 diễn ra vào ngày 15-12-1910 trước sự chứng kiến của rất nhiều người. Ngay vào thời điểm đó, dư luận đã ghi nhận đây là một cuộc cất cánh đầu tiên của máy bay được thực hiện ở châu Á. Bởi lẽ, đầu tháng 1-1911, Van Den Borg mới đưa chiếc Farman của mình sang trình diễn ở Bangkok (Siam - Thái Lan) và đến tháng 3 năm đó, một tuần hàng không mới được tổ chức tại Hongkong lúc đó đang là một nhượng địa của Anh trên lãnh thổ Trung Quốc”.
Những thông tin thú vị như thế còn nhiều. Ta tạm dừng ở đây.
Xin trở lại với vai trò của Bắc quân Đô đốc Bùi Tá Hán. Qua những thông tin đã biết, ta thấy vai trò của Bùi Tá Hán ở vùng đất Quảng Nam và Đàng Trong nói chung có thể sánh với Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh với công cuộc khai sáng Sài Gòn cuối thế kỷ XVII chăng? Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng cho rằng: “Nguyễn Hữu Cảnh thuộc lớp khai cơ - theo nghĩa người đầu tiên bố trí hệ thống quản lý Nhà nước trên miền đất mới. Ý nghĩa quan trọng nhất của việc làm này nằm ở chỗ dân lưu tán được thừa nhận là công dân của Việt Nam, ruộng đất khai phá được đưa vào sổ bộ chính thức, làng mạc được bảo vệ như mọi làng mạc của lãnh thổ Việt Nam. Sự xác lập cương vực quốc gia để tránh ít nhất về mặt pháp lý, những mối đe dọa an toàn từ bên kia biên giới. Cho nên dân khai hoang xem ông như người đại diện cho Tổ quốc. Ông thỏa mãn cả yêu cầu quyền lợi lẫn tình cảm của lưu dân. Có thể nói ý thức quốc gia, dân tộc của dân lưu tán đã tôn vinh Nguyễn Hữu Cảnh”. Xét trên ý nghĩa này, Bắc quân Đô đốc Bùi Tá Hán đã đóng vai trò này một cách xuất sắc tại Quảng Nam chăng?
Dù biết mọi sự so sánh đều khập khễnh, nhưng tại sao ta không mạnh dạn đặt câu hỏi trên và tự hỏi vì sao hiện nay, tại xứ Quảng chưa có con đường mang tên Bùi Tá Hán, chưa tổ chức một hội thảo khoa học để đánh giá đúng mức vai trò của ông?
44 LÊ MINH QUỐC
3.
• Phân vùng địa lýcủa xứ Quảng qua thăng trầmlịch sử • 24-5-1889 thành lập thành phố Đà Nẵng thuộctỉnh Quảng Nam • Về những tên gọi Hàn, Vũng Thùng, Đà Nẵng,Tourane... • Thái Phiên tên gọicủa thành phố Đà Nẵng;Trần Cao Vân tên gọicủa tỉnh Quảng Nam
Trải qua nhiều năm tháng thăng trầm của lịch sử, Quảng Nam nhiều lần thay đổi
trong việc phân vùng địa lý. Những thay đổi này, trong ca dao địa phương đã phản ánh bằng những vần điệu trìu mến, thân thương. Căn cứ vào một điều khoản của bản Hiệp ước Patenôtre ký ngày 6-6-1884, Toàn quyền Đông Dương Richaud đã ép vua Đồng Khánh phải nhượng chủ quyền ba tỉnh lớn nhất là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng cho Pháp. Đạo dụ này được vua Đồng Khánh ký ngày 1-10-1888 ghi rõ: “Lãnh thổ các đô thị Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng sẽ lập thành nhượng địa Pháp và toàn quyền sở hữu sẽ hoàn toàn giành cho Chính phủ Pháp. Chính phủ Đại Nam khước từ mọi quyền lợi trên các lãnh thổ ấy” (Điều 1). Dụ này được Toàn quyền Đông Dương chuẩn y bằng Nghị định ngày 2-10-1888.
Đà Nẵng
hà khẩu
khắc trên
cửu đỉnh
triều Nguyễn
NGƯỜI QUẢNG NAM 45
Theo đó, các xã, thôn nằm trong vùng nhượng địa là: Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương và Nại Hiên Tây mà người dân thường gọi “ngũ xã”. Dấu ấn của “nhượng địa Đà Nẵng” hiện lên rất rõ nét trong bài thơ Qua Đà Nẵng cảm tác của một nữ sĩ tài hoa đất Quảng: bà Bang Nhãn (1853-1927). Bà tên thật Lê Thị Liễu, quê ở làng Phụng Trì (nay thôn Lâm Phụng, xã Đại Đồng, huyện Đại Lộc - Quảng Nam), chồng bà là ông Bang tá Phan Quỳ - người làng Gia Cốc (nay thôn Tây Gia, xã Đại Minh, huyện Đại Lộc). Ngay từ nhỏ bà đã nổi tiếng thông minh, hay chữ, mê thơ Đường, Truyện Kiều và thích xem hát bội. Năm bà 34 xuân, chồng mất, bà vẫn ở vậy nuôi con ăn học thành tài. Có lẽ, Qua Đà Nẵng cảm tác là bài thơ duy nhất của một phụ nữ thời bấy giờ dám công khai bày tỏ thái độ khi giặc Pháp đã giày xéo lên mảnh đất anh hùng:
Rầm rầm ngựa lại với xe qua,
Nhượng địa là đây có phải a?
Liếc mắt nhìn xem phong cảnh lạ,
Ôm lòng chạnh tưởng nước non ta.
Nỗi niềm tâm sự ai chừ hỡi?
Thế cuộc tang thương bực lắm mà.
Nghĩ đến người xưa thương đất cũ,
Căm gan riêng giận bấy trời già!
Đường République (nay đường Hùng Vương) ở Đà Nẵng.
46 LÊ MINH QUỐC
Bài thơ này, theo tôi, xứng đáng được khắc vào đá Ngũ Hành Sơn rồi đặt tại một vị trí trung tâm Đà Nẵng. Để nhắc nhở thế hệ hôm nay và mai sau về một ký ức bi thảm của quê nhà. Để từ đó, thế hệ hôm nay và mai sau càng thêm yêu, thêm quý những ngày này - những ngày được hít thở trong không khí thống nhất trọn vẹn của một giang san gấm vóc mà ông cha đã từng khát vọng và đã bền bỉ theo năm tháng đem cả xương máu để giành lấy khát vọng ấy.
Ngày 24-5-1889, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định Thành lập thành phố Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam. Dăm năm sau, ngày 19-9-1905, Toàn quyền Đông Dương lại ra Nghị định tách thành phố Đà Nẵng khỏi tỉnh Quảng Nam. Những năm tháng đó, người Pháp đã mở tại Đà Nẵng tất cả 45 đường phố lớn nhỏ. Nếu tính đến tháng 7-2002, tại Đà Nẵng đã có 214 đường đã được đặt tên. Con số này gấp năm lần dưới thời Pháp thuộc và tất nhiên sẽ còn tiếp tục tăng lên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thuở mới lớn, trong thập niên 60 của thế kỷ XX, tôi còn được thấy trên các đường phố lớn ở Đà Nẵng có trồng rất nhiều cây kiền kiền. Thân cây cao lớn, tàn lá rộng, che râm mát cả con đường; đặc biệt nó có hoa xòe ra bốn cánh rất ngộ nghĩnh. Gọi là hoa, nhưng thật ra cánh hoa cứng cáp, khi có gió lớn từ trên trời cao nó rơi lửng lơ trong không gian như những cánh chong chóng. Ngoài ra, tôi thấy cũng còn có khá nhiều
Đường Courbet (nay là đường Bạch Đằng) đầu thế kỷ XX
NGƯỜI QUẢNG NAM 47
loại cây khác như cây phượng, cây bã đậu, cây trứng cá, cây bàng... Nhưng ấn tượng nhất đối với nhiều du khách từ phương xa đến Đà Nẵng chính là cây phượng. Hầu như sân trường học nào cũng có trồng. Phượng đỏ rực rỡ. Đỏ chói chang. Đỏ kiêu hãnh vào mùa hè. Mùa hè đến, những con đường Thống Nhất, Lê Lợi, Đống Đa, Nguyễn Thị Giang... tiếng ve kêu râm ran như bản hòa tấu kỳ diệu của thiên nhiên làm say đắm lòng người. Gần đây, khi mở rộng đường Thống Nhất (Lê Duẩn) hàng cây kiền kiền cổ thụ dọc hai bên đường đã bị chặt bỏ. Và không hiểu ngày nay do sáng kiến của ai mà hầu hết trên con đường ở Đà Nẵng, tôi lại thấy trồng nhiều cây hoa sữa!
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Quảng Nam và Đà Nẵng là hai đơn vị hành chính độc lập. Năm 1952, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã sáp nhập Quảng Nam và Đà Nẵng thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Sau hiệp định Genève (1954), miền Nam bị đặt dưới sự cai trị của chính quyền Sài Gòn, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ra Quyết định số 162/VN ngày 31-7-1962, chia tách vùng đất này làm hai đơn vị hành chính: tỉnh Quảng Nam và tỉnh Quảng Tín. Các phủ, huyện đều gọi là quận, các làng gọi chung là xã. Quảng Nam có 9 huyện: Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Đức Dục, Hiếu Đức, Hiếu Nhơn, Thường Đức, Quế Sơn, Hoà Vang và một thị xã: Đà Nẵng. Quảng Tín gồm sáu quận Tiên Phước, Thăng Bình, Hiệp Đức, Hậu Đức, Lý Tín và Tam Kỳ.
Trong thời gian này, để lãnh đạo cuộc kháng chiến phù hợp với tình hình mới, Ủy ban Kháng chiến Quảng Nam - Đà Nẵng (Khu ủy V) đã ra nghị quyết chia tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính: tỉnh Quảng Nam và tỉnh Quảng Đà (sau gọi là Đặc khu).
Sau ngày miền Nam được giải phóng, Ủy ban Nhân dân Cách mạng Khu Trung Trung bộ đã ra Quyết định số 119/QĐ ngày 4-10-1975, hợp nhất tỉnh Quảng Nam và Đặc khu Quảng Đà thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Theo quyết định Chính phủ ngày 19-6-1993, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng gồm một thành phố (Đà Nẵng), hai thị xã (Hội An, Tam Kỳ) và 14 huyện (Hòa Vang, Hiên, Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Giằng, Quế Sơn, Thăng Bình, Phước Sơn, Hiệp Đức, Tiên Phước, Núi Thành, Trà My, Hoàng Sa).
Tại kỳ họp thứ X của Quốc hội khoá IX (tháng 10-1996), tỉnh Quảng Nam -Đà Nẵng được tách ra làm hai đơn vị hành chính: tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương.
Kể từ ngày 1-1-1997, tỉnh Quảng Nam về mặt hành chính có 12 huyện, trong đó có sáu huyện miền núi: Hiên, Giằng (Nam Giang), Trà My, Phước Sơn, Hiệp Đức, Tiên
48 LÊ MINH QUỐC
Phước và sáu huyện còn lại: Quế Sơn, Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Thăng Bình, Núi Thành; hai thị xã: Hội An và Tam Kỳ. Tỉnh lỵ đóng tại thị xã Tam Kỳ. Kể từ ngày 1-1-1997, thành phố Đà Nẵng mới bao gồm năm quận: Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu và hai huyện: Hòa Vang và Hoàng Sa. Dẫu Quảng Nam và Đà Nẵng có nhiều lần “tách, nhập”, nhưng đó chỉ là việc phân chia theo vùng địa lý, chứ trong tâm thức của con dân chỉ là một. Ta thường gọi gộp chung là “người Quảng Nam” một cách thân thương, trìu mến và đó cũng là cách gọi xuất phát máu thịt, từ tình cảm rất đỗi tự nhiên. Chính tình cảm ấy đã từng thúc giục tôi viết:
Thả bàn chân xuống con đường
Âm vang giọng nói người thương vọng về
Nghe từ sóng biếc Mỹ Khê
Mặt trời lên giữa bốn bề lo toan
Ngũ Hành Sơn vẫn hiên ngang
Đứng đầu sóng gió huy hoàng nắng mai
Phóng mắt về phía tương lai
Khu kinh tế mở Chu Lai cũng gần
Bỗng nghe từng tiếng chim ngân
Từ phía Dung Quất nối dần chiều cao
Biển Đông sóng vỗ dạt dào
Nối vòng tay lớn đón chào anh em
Vòm trời Đà Nẵng cao thêm
Thêm đường bay mới ở trên vòm trời
Bàn chân đi giữa cõi đời
Nghe từng mạch máu trong người đổi thay
Liên Chiểu, Hòa Khánh... dang tay
Dựng khu công nghiệp từng ngày chắt chiu
“Dặn lòng ai đó đừng xiêu
Mưa mai có bậu, nắng chiều có ta”
Nhìn về bán đảo Tiên Sa
Bỗng nghe gió hát thiết tha nắng vàng
Vòng tay ôm lấy Quảng Nam
Yêu thương lắm giọng hò khoan Thu Bồn
Đổi mới tận đáy tâm hồn
Ngàn năm sức sống vẫn còn tinh khôi
NGƯỜI QUẢNG NAM 49
Như Thánh Gióng hết nằm nôi
Đà Nẵng vụt lớn dưới trời Việt Nam.
Ngược về quá khứ, ta biết thành phố Đà Nẵng còn được gọi là Hàn. Khi muốn tìm lại một dấu tích nào đó của quá khứ, có nhiều cách, tôi vẫn thích tìm bằng cách khảo sát ở “lời ăn tiếng nói” của dân gian. Nó ẩn trong ca dao, tục ngữ, phương ngôn “Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Đó là những cứ liệu, những bằng chứng hùng hồn, dù ngọn gió thời gian có khắc nghiệt, dữ dội đến bao nhiêu cũng không thể đánh bật ra khỏi tâm thức của con người, để từ đó, dấu tích ấy lưu truyền từ đời này sang đời sau. Dấu tích của Hàn cũng vậy.
Đứng bên ni Hàn
Ngó qua bên tê Hà Thân
Nước xanh như tàu lá
Đứng bên tê Hà Thân
Ngó về Hàn phố xá nghênh ngang
Từ ngày Tây lại đất Hàn
Đào sông Câu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu
Dặn lòng ai dỗ đừng xiêu
Ở nuôi phụ mẫu sớm chiều có ta.
(dị bản: Mưa mai có bạn, nắng chiều có ta)
hoặc:
Tai nghe lính rút ra Hàn
Thiếp gửi cho chàng một chục đường rim
Một tim đường cát
Một bát thuốc khô
Một tờ giấy quyến
Một liễn trầu nguồn
Một buồng cau lửa
Ba chục mực nang
Thiếp gửi cho chàng
Năm quan lộ phí
...
hoặc:
Sông Thu Bồn chảy về Cửa Đại
Lạch Bình Long chảy mãi ra Hàn
50 LÊ MINH QUỐC
Ai về Đà Nẵng, Hội An
Cho ta nhắn gửi vài hàng tâm tư.
Ngày trước anh thợ chạm gỗ làng Kim Bồng (Hội An) ra Đà Nẵng làm nghề, và:
Dang tay hốt nắm dăm bào
Hỏi anh thợ cả bữa nào hồi công?
Không mai thì mốt hồi công
Cảnh đất Hàn em ở, chốn Kim Bồng anh lui.
Dấu vết chợ trên sông Hàn vẫn còn lưu lại trong lời ăn tiếng nói dân gian:
Sớm mai em quảy gánh xuống chợ Hàn
Gặp anh giữa đàng em nói một câu:
Tai nghe anh sắp xuống tàu
Em đem ve rượu, mâm trầu trả anh.
Xét về ý nghĩa lịch sử, ta biết chắc rằng câu ca dao này chỉ mới ra đời từ tháng giêng năm 1916, khi thực dân Pháp mộ dân Việt Nam sang “mẫu quốc đánh Đức tặc”. Đi để rồi bỏ xác vì cái mục đích “lãng xẹt” ấy nên nàng mới trả lại ve rượu, mâm trầu đã lỡ đính hỏi. Bởi thế, chàng trai xứ Quảng mới... cãi:
Ai đồn quanh quẩn loanh quanh
Sao em nói dại làm anh giựt mình rứa em?
Lính mô lính nớ ai thèm
Đi chết uổng mạng, xa em răng đành.
Còn mấy câu trên như “Tai nghe lính rút ra Hàn” lại ra đời ngay sau khi Pháp nổ súng tấn công vịnh Đà Nẵng (1858).
Vịnh Đà Nẵng còn được người dân địa phương gọi là Vũng Thùng - ca dao còn ghi nhận:
Tai nghe súng nổ cái đùng
Tàu Tây đã lại Vũng Thùng bữa qua.
Qua ca dao ta thấy thêm một điều thú vị nữa, Hội An còn được gọi là Phố. Chẳng hạn: Đi Phố: Hội An, đi Hàn: Đà Nẵng
hoặc:
Đêm khuya phảng phất gió tây
Người thương thức dậy lời bầy đón đưa
NGƯỜI QUẢNG NAM 51
Đi đò qua sông Hàn đầu thế kỷ XX, hình ảnh này nay không còn nữa.
Ghe xuôi qua bến Phó Thừa
Hội An đến đó trời vừa sáng ra
Hỡi người hoa nguyệt nguyệt hoa
Ngày mai đến Phố đôi ta trao lời.
hoặc:
Kìa ai từ Phố ra Hàn
Đi qua Vĩnh Điện nhớ đàng Giáp Năm.
hoặc:
Thiếp gặp chàng chỗ đàng chợ Phố
Chàng gặp thiếp tại chỗ chợ Cầu
Nhìn nhau nước mắt thấm bâu
Bạn về xứ bạn không biết giải sầu cho ai.
Ta thử đặt vấn đề, tại sao Đà Nẵng lại được gọi là “Hàn”?
Khi biên soạn các tập Hỏi đáp Non nước Xứ Quảng (Nxb. Trẻ), tôi đã trích dẫn các tài liệu liên quan nhằm giải thích câu hỏi này: “Trong tập Đà Nẵng bước vào thế kỷ XXI (Nxb. Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2000), nhà nghiên cứu Nguyễn Sinh Duy khi viết về vùng đất này đã lập luận rằng: “Đây là ngã tư quốc tế vùng cực đông đồng thời là trọng điểm giao lưu văn hóa giữa hai luồng văn minh Ấn Độ và
52 LÊ MINH QUỐC
Trung Hoa, trong đó hệ thống địa danh là dấu ấn lâu đời giúp soi sáng quá trình hình thành một xứ sở về các mặt ngôn ngữ, địa lý, cơ cấu xã hội... qua các thời kỳ lịch sử. Địa danh Đà Nẵng hình thành cũng không ngoài quy luật giao thoa các ngôn ngữ Ấn - Hoa, trong đó từ nguyên, ngữ nghĩa Phạn - Hán không thể không xét đến. Dải đất nằm bên tả ngạn sông Hàn đối diện với bán đảo Tiên Sa ngày nay, trong thịnh thời của người Chăm ngự trị châu Amaravâti, có tên là: Hãng Danak. Hãng có nghĩa là dải đất do biển rút cạn để lộ ra; Danak có nghĩa là cửa sông tiếp giáp biển.”
Nhà nghiên cứu Nguyễn Sinh Duy cho biết thêm: “Như nói trên “Hàn” nguyên là âm Hán - Việt của Chăm ngữ “Hãng”, có nghĩa là dải đất do biển rút để lộ ra. Sự thích nghĩa này trở nên hữu lý khi ta nhớ rằng, mãi đến những năm cuối 80 của thế kỷ XIX, khâm sứ Pháp Baille đã mô tả: “Đà Nẵng cát là cát vẫn luôn luôn còn đó... và người ta đi qua đấy bị chôn lún xuống cát đến nửa giờ, suốt chiều dài của đụn cát ấy, nung nấu dưới ánh mặt trời, thành phố nhỏ bắt đầu khai sinh” (tr. 42).
Trên tạp chí Phổ Thông số 87 (phát hành tại miền Nam trước năm 1975), ông Japa Panrang khi bàn về “Việt mang âm hưởng Chàm” ngoài việc đồng ý cụm từ Hãng Danak là nguồn gốc của địa danh Đà Nẵng, thì ông còn cho biết Danak cũng có một cách viết khác là Durak (có nghĩa là biển, là chợ) và lập luận rằng: “Danh xưng Hàn do tiếng Hãng của Chàm, Đà Nẵng do tiếng Danak và Tourane do tiếng Darak hay Durak mà ra”.
Tượng Chăm tại Cổ viện Chàm Đà Nẵng đầu thế kỷ XX.
NGƯỜI QUẢNG NAM 53
Nhìn chung tất cả sự giải thích trên vẫn chưa có sự thống nhất.
Sau này, đọc trên trang web www.danang.gov.vn, tôi thấy cũng có cách giải thích: “Các danh xưng Hàn và Đà Nẵng đã có từ dưới thời Chămpa. Người Việt Nam vào thời kỳ đó gọi sông Hàn là Lưu Lâm, có nghĩa là dòng nước đầy; còn người Trung Hoa gọi là Hiện Cảng, có nghĩa là cảng có nhiều hến (Hiện là con hến) hay Nghiên Cảng, có nghĩa là cảng đẹp (Nghiên là đẹp). Danh xưng Lưu Lâm ngày càng bị quên lãng”; và “Tiếng Chămpa là một bộ phận của ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo (Malayo - Polynesien) nên từ Hàn có nguồn gốc ngôn ngữ đó, có nghĩa là Bến; còn từ Đà Nẵng cũng có nguồn gốc Chămpa, có nghĩa là Sông Già, Sông Lớn (Đà là sông, nước; Nẵng là già, lớn)”.
Thật ra, những lập luận trên trên chưa hẳn ai ai cũng đồng ý như thế. Vùng đất Quảng Nam còn được gọi Kẻ Quảng; và Đà Nẵng gọi là Kẻ Hàn? Trong tập Lịch sử thành phố Đà Nẵng (Nxb. Đà Nẵng, 2001), có cho biết: “Địa
danh Cửa Hàn không những được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, đồng thời cũng sớm được người châu Âu nhắc đến từ rất sớm. Cố đạo Buzomi đến Đàng Trong vào năm 1615 và vào dịp lễ Pâques năm ấy ông lập một nhà thờ tại một nơi được ghi là Kean, địa danh này cũng được ghi lại trên tấm bản đồ nổi tiếng của cố Alexandre de Rhodes vẽ năm 1666, nằm ở vị trí chân đèo Hải Vân. Địa danh Kean bắt nguồn từ cách gọi khá phổ biến đương thời (theo lối ở Đàng Ngoài), những nơi tập trung dân cư gọi là Kẻ (kẻ chợ...); Kean có nghĩa là “Kẻ Hàn” (trang 16)”.
Như thế Kean, là hình thức diễn âm theo nghĩa người ở đất Hàn. Nhưng ta thử đặt câu hỏi thời đó người ta quan niệm như thế nào về “Kẻ”? Trong Thư của các giáo sĩ thừa sai in năm 1821 tại Paris có đoạn viết về phần đất phía nam sông Gianh như sau: “Người Bồ Đào Nha gọi vùng đất này bằng cái tên Cochinchine để phân biệt với vùng Cochin nằm trên bờ biển Malabar. Người trong xứ, để phân biệt với vùng Tong-King (Đông Kinh) đã gọi là Đàng Trong, còn Đông Kinh thì được gọi là Đàng Ngoài. Người Đàng Ngoài gọi dân Đàng Trong là Kẻ Quảng. Người Đàng Trong không chịu kém, gọi dân Đàng Ngoài là Kẻ Bắc là những lối gọi miệt thị nên không bên nào thích bị gọi như thế” (Xem Thư của các giáo sĩ thừa sai, Nguyễn Minh Hoàng, Tạp chí Xưa & Nay số tháng 8-1999, tr.17).
Nếu đúng như thế thì tại sao dấu vết Kẻ Quảng, thậm chí cả Kẻ Hàn ta cũng không thấy lưu lại trong ca dao - là “văn bản” truyền miệng bất biến qua năm tháng? Thông tin trên còn khiến tôi ngờ ngợ, vì không hẳn quan niệm Kẻ “là những lối gọi miệt thị”. Nếu như thế, tại sao trong phương ngôn xứ Bắc còn lưu lại những câu như
54 LÊ MINH QUỐC
“Nâu Kẻ Đái, vải Kẻ Đằng”, “Chơi với Kẻ Sớm không ốm cũng què”, “Khôn Kẻ Ngái không bằng dại Kẻ Hiệp” hoặc “Vân Sa để tóc, cắt trọc Kẻ Mơ” v.v... Mà khi khảo sát ta thấy đó chỉ là một cách nói bình thường, không hề có một ngụ ý “miệt thị” gì ở đây cả. Thử xem lại Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của (ấn bản năm 1895), ta thấy giải thích “Kẻ chợ: người khôn ngoan biết phép lịch sự, đối với mọi rợ. Thành kẻ chợ, thì là thành Hà Nội” (tr. 148). Còn Kẻ Quảng, Kẻ Hàn nếu có thì tại sao nó lại biến mất mà không để lại một dấu vết nào?
Đà Nẵng còn gọi là Tourane.
Như chúng ta đã biết, Đà Nẵng nằm trên tả ngạn sông Hàn kề bên cửa biển hiểm yếu, vì vậy, chức quan giữ cửa biển được gọi Thủ Hàn - ta có thể hiểu là giám thủ cửa sông Hàn. Từ thế kỷ XVI, khi người châu Âu sang đây họ gọi Thủ Hàn là Touron và dần dần gọi trệch thành Tourane (?). Nhưng cũng có thuyết cho rằng, do khi sang đây thấy một cái tháp (tour) trên cửa Hàn nên họ gọi Tourane (?); có thuyết cho rằng Tourane là do viết nhầm từ tên làng Thạc Gián mà ra - vì hai chữ Tu và Thạc viết giống nhau, nên từ Tu Gián mà biến ra Tourane (?); lại có người lập luận rằng, người miền nam Trung Hoa đã phát âm Đà Nẵng là Tu Ran, do đó, khi đến Đàng Trong người châu Âu đã ký âm thành Turan, Turam, Tourane... (?)
Trên trang www.danang.gov.vn cho rằng: “Người phương Tây đặt chân sớm nhất đến Đất Hàn là người Bồ Đào Nha. Năm 1523, người Bồ Đào Nha đầu tiên đi đến vùng đất “Cauchinchynam” (tức Đàng Trong) là nhà hàng hải Duarte Coelho, tàu ông đi qua Cửa Hàn và ghé vào Cù lao Chàm. Phát hiện này về sau giúp cho các thương nhân Bồ Đào Nha đến Hội An và Đà Nẵng buôn bán đầu tiên từ năm 1557. Họ gọi Cửa Hàn là Tu rão hoặc Tu ram. Người Tây Ban Nha đến Cửa Hàn sau để buôn bán và dựa vào tiếng Bồ Đào Nha mà gọi là Turon. Người Pháp đến buôn bán ở Hội An, Cửa Hàn trễ hơn nhiều - vào năm 1752. Có gần mười cách giải thích khác nhau về tên gọi Tourane của người Pháp đối với Cửa Hàn thì cách giải thích đúng nhất vẫn là việc họ căn cứ vào tiếng gọi Bồ Đào Nha có trước để gọi như vậy (tiếng Pháp phiên âm tu thành tou và ram biến thành rane)”.
Trong khi đó, trên tạp chí Xưa & Nay (số 216 tháng 7-2004) ông Trần Ngọc Toàn lại cho rằng: “Tôi nghĩ, người Âu sống tha hương cũng giống như người châu Á, đến nơi nào đó cũng muốn lấy cái tên ở quê hương mình đặt cho một vùng đất mới để kỷ niệm hoặc đơn giản, để vơi đi nỗi nhớ nhà. Theo hướng suy nghĩ này, tôi nghĩ rằng các linh mục đã dùng địa danh Torino, cố đô các tiểu quốc Savoie thuộc vương quốc Piemont - Sardaigne (1563) ở về phía tây bắc Italia, nơi có các thánh đường thời Phục
NGƯỜI QUẢNG NAM 55
Bản đồ của Sứ đoàn Macarthrey (Anh) ghé qua Tourane (Đà Ngẵng) năm 1793
hưng và các lâu đài nổi tiếng thuộc thế kỷ XVII để gọi Đà Nẵng. Trên bản đồ Alexandre de Rhodes còn ghi Torin thay vì Tourane như người Pháp dùng sau này. Hiện tượng này cũng giống như người Bồ Đào Nha gọi Đàng Trong là Cochinchine (ghi chữ to trên bản đồ Alexandre de Rhodes) với Cochin là một cảng ở bang Kerala (Ấn Độ), thuộc Bồ Đào Nha giai đoạn 1502-1663 nơi có một thương điếm nổi tiếng của họ. Như vậy Cochinchine có nghĩa là vùng đất Cochin nằm cạnh Trung Hoa chứ chẳng liên quan gì đến ngôn ngữ Chăm hoặc ngôn ngữ của một dân tộc nào sống ở vùng này cả”.
Lập luận này liệu có đứng vững được không? Còn phải tranh cãi chán. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn là địa danh Tourane xuất hiện trên văn bản hành chính vào năm 1888, khi vua Đồng Khánh ra đạo dụ nhường hẳn cho Pháp quyền sở hữu hoàn toàn thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng. Nói cách khác, ba thành phố này thuộc “nhượng địa” của thực dân Pháp. Và cái tên Tourane ấy chấm dứt vào ngày 3-1-1950 khi người Pháp chính thức trao trả Đà Nẵng cho Việt Nam. Từ đây, địa danh Tourane đã được thay thế bằng tên cũ Đà Nẵng. Tuy nhiên, cái tên Tourane vẫn còn trong thói quen của người sử dụng đến nhiều năm sau.
Tìm hiểu một địa danh cũng như tên gọi của chính mình, nếu cha mẹ không giải thích thì làm sao ta có thể hiểu rõ tại sao mang cái tên ấy, mặc dù có thể “đoán già đoán non”, đoán xa đoán gần. Thậm chí khi tự giải thích, ta nghe ra có vẻ “khoa học” hơn, “hợp lý” hơn - nhưng lại chưa hẳn đã đúng với ý đồ của cha mẹ khi đặt tên cho ta.
56 LÊ MINH QUỐC
Vì thế, mọi giả thuyết nhằm lý giải về nguồn gốc các địa danh dù cần thiết, nghĩ cho cùng, ta khó có thể chạm vào cốt lõi của sự thật.
Không phải trước đây, hiện nay mà trong tương lai, người ta vẫn còn tiếp tục tìm hiểu các địa danh mà ta đang bàn. Chỉ vì yêu vùng đất đã chôn rau cắt rốn mà người ta hào hứng tìm hiểu. Nếu còn yêu con sông Hàn, con sông gắn với kỷ niệm năm tháng của một đời người, nơi mình sinh ra và lớn lên với biết bao buồn vui lẫn lộn thì người ta vẫn tiếp tục tranh luận, tìm hiểu. Người ta chỉ tranh luận, tìm hiểu, quan tâm, bày tỏ chính kiến của mình khi còn yêu, còn thương, còn nhớ, còn đau đáu trong lòng những hình ảnh đã trở thành một phần máu thịt của mình.
Trong lúc ấy, “cây đời mãi mãi xanh tươi” và phát triển theo nhịp sống từng ngày. Ngày nay, nhìn về Đà Nẵng ta đã thấy một chiếc cầu hiện đại nằm vắt qua sông Hàn. Nó đã trở thành biểu tượng của Đà Nẵng trong thời kỳ đổi mới. Ngày nay nhìn về Quảng Nam, ta đã thấy khu kinh tế mở Chu Lai nhiều tiềm năng và triển vọng
Tâm thức của nhân dân kể ra cũng lạ. Có những địa danh, dù văn bản Nhà nước đã quy định, nhưng họ vẫn có cách gọi của riêng họ. Một cách gọi thân mật, hình thành từ trong nhịp đập của trái tim, từ tình cảm của họ, không phải chịu một áp lực chính trị nào cả. Điều này cho thấy, không riêng gì người xứ Quảng, mà người Việt nói chung, nhiều khi “phép vua thua lệ làng” là vậy. Khi nói về địa danh “Quảng Nam - Đà Nẵng”, tôi nghĩ ngoài những tên gọi trên, đã là con dân của xứ Quảng thì không thể không biết rằng, đã có một khoảng thời gian ngắn nhân dân đã ấy tên hai nhà cách mạng kiệt xuất của Quảng Nam để đặt tên cho vùng đất này.
Tòa
thị chính
Tourane -
nay là UBND
thành phố
Đà Nẵng
NGƯỜI QUẢNG NAM 57
Tuyến
đường sắt
dọc theo
sông Hàn
(Đà Nẵng)
thế kỷ XX,
nay không
còn nữa.
Thế có lạ không chứ?
Trong một khoảnh khắc lịch sử đã diễn ra những ngày sôi sục của Cách mạng tháng Tám và kế đến là Toàn quốc kháng chiến (1946), tinh thần yêu nước như thủy triều sẵn sàng cuốn trôi mọi thế lực áp bức, hắc ám để làm nên một “cuộc tái sinh kỳ diệu”, đi giữa rừng cờ đỏ sao vàng, nhân dân đã gọi Đà Nẵng với tên gọi Thái Phiên. Đi trong thân phận nô lệ nay đã đứng dậy làm người tự do, nhân dân đã gọi Quảng Nam với tên gọi Trần Cao Vân. Có câu ca ở xứ Quảng ra đời trong khoảng thời gian ấy mà tôi tin nhiều người còn nhớ:
Thành Thái Phiên tắm mình trong khói lửa
Đất anh hùng lần nữa quyết hy sinh.
Ấy là cách gọi tự phát, nó xuất phát từ lòng ngưỡng mộ tiền nhân, muốn học tập theo gương tiền nhân.
Mà không riêng gì Quảng Nam, trong khoảnh khắc ấy, ta thấy Quảng Ngãi được gọi với cái tên Lê Trung Đình; hoặc Bình Định được gọi với cái tên Tăng Bạt Hổ; hoặc thành Hà Nội cũng được gọi với cái tên Hoàng Diệu; hoặc Bến Tre được gọi với tên Đồ Chiểu v.v Một cách xưng tụng danh nhân rất độc đáo, dù tồn tại trong thời gian ngắn, rất ngắn nhưng cho thấy những người chết vì Nước không bao giờ lãng quên trong trí nhớ của thế hệ sau.
58 LÊ MINH QUỐC
4.
• Năm1602, dinh trấn Quảng Namra đời
• Ruợu Hồng đào hoàn toàn không có thật
• Từ trái loòng boong đến namtrân tiến vua nhà Nguyễn
Đất Thuận, Quảng ở phía bắc có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang (sông Gianh)
hiểm trở, phía nam có núi Hải Vân, núi Thạch Bi bền vững; núi sinh vàng, sắt; biển có cá, muối; thật là đất dụng võ của những kẻ anh hùng. Nếu biết dạy dân, luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng sự nghiệp muôn đời; nếu thế lực không địch nổi thì cố giữ đất đai để đợi thời cơ, chứ đừng bỏ hỏng lời căn dặn của ta”.
Đây là lời căn dặn của Đoan quận công Nguyễn Hoàng trước lúc lâm chung. Về nhân vật tiên phong mở cõi về phương Nam, nhà bác học Lê Quý Đôn đánh giá trong Phủ biên tạp lục: “Đoan quận công có uy lược, xét kỹ, nghiêm minh, không ai dám dối lừa. Cai trị hơn mười năm, chính sự khoan hòa, việc gì cũng làm ơn cho dân, dùng phép công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quân dân hai xứ thương yêu, tín phục, cảm nhân, mến đức, dời đổi phong tục. Chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng. Thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang. Ai cũng quý mến, trong cõi an cư lạc nghiệp”.
Lật lại lịch sử ta biết, năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập nên nhà Mạc. Ta hãy dừng lại ở đây một giây lát. Tại sao sử sách lại gọi họ Mạc cướp ngôi nhà Lê? Cũng như trước đó, tại sao lại nói nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần? Một khi sự vận hành của một thể chế chính trị đã không còn phù hợp với thời đại, thì tất có một lực lượng khác, tiến bộ hơn sẽ thay thế. Đó là quy luật phát triển phù hợp với biện chứng. Nhưng khi các nhà Nho chép sử về nhà Hồ chẳng hạn, họ gọi “nhuận Hồ” (nghĩa là “thừa”), chứ không ghi lên ngôi chính thống. Thiết nghĩ đánh giá như thế là không thỏa đáng.
Trở lại với nhà Mạc. Trong thời điểm đó, một cựu thần nhà Lê là Nguyễn Kim - con trai của Nguyễn Hoằng Dụ - đã dấy binh ở xứ Sầm Châu (Thanh Hóa) và năm 1532 đưa Lê Trang Tông lên ngôi. Sự kiện này đã mở ra thời kỳ mà sử sách gọi là nhà Hậu
NGƯỜI QUẢNG NAM 59
Lê hoặc Lê Trung Hưng. Dưới quyền của Nguyễn Kim có vị tướng giỏi là Trịnh Kiểm. Nhắc đến Trịnh Kiểm, ắt ta sực nhớ đến giai thoại về bố của bậc hiệt kiệt lừng danh Đào Duy Từ là Đào Tá Hán. Thời trai trẻ, ông Hán đầu quân nhà Lê, chống lại nhà Mạc. Nhân việc quân thong thả, nghĩ đến công lao Trịnh Kiểm theo phò vua Lê lập nên công nghiệp, bèn làm thơ ca ngợi:
Trang quốc sĩ ai bằng Trịnh Kiểm,
Tỏ thần uy đánh chiếm hai châu.
Thẳng đường giong ruổi vó câu,
Phù Lê diệt Mạc trước sau một lời...
Bài thơ nêu rõ tên như thế là phạm húy đến Tiên vương, ông bị đánh 20 roi và đuổi ra khỏi quân ngũ! Thế đấy! Thơ là cảm xúc chân thật của một người, nó bật ra khỏi con tim và khối óc như một lẽ tự nhiên, không giấu giếm nhưng đâu phải lúc nào cũng khiến người khác hài lòng, dù đó là thơ ca ngợi họ. Mà thói đời cũng kỳ quặc, có khi ta muốn ca ngợi, muốn xưng tụng ai đó nhưng họ cũng không chấp nhận, bởi đơn giản ta không cùng một ê-kíp, một đẳng cấp với họ. Đã có biết bao văn nhân cố công ca ngợi một thể chế quyền lực đương thời, những tưởng là góp một tiếng nói tâm huyết, nhưng đâu ngờ chỉ được ghi nhận như một kép hề mua vui trên sân khấu trong chốc lát. Giai thoại này ít nhiều cho thấy vai trò của Trịnh Kiểm lúc ấy không phải là nhỏ. Biết Trịnh Kiểm là người có tài nên Nguyễn Kim đã gả cho con gái Ngọc Bảo. Năm 1545, Nguyễn Kim mất, để lại hai con trai là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng, nhưng mọi quyền bính đều do Trịnh Kiểm nắm. Sợ anh vợ sẽ tranh giành quyền lực nên Trịnh Kiểm giết Nguyễn Uông. Nguyễn Hoàng lo sợ cho số phận của mình nhưng chưa biết xử sự ra sao, bèn sai người đi hỏi ý kiến trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng không trả lời, chống gậy thong dong bước ra vườn, đến trước hòn non bộ thì dừng lại. Thấy trên đó có đàn kiến bò thành một vệt dài, trạng cầm gậy trỏ vào đó rồi nói: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” - nghĩa là dãy núi Hoành Sơn kia (đèo Ngang, giáp giới tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình) có thể dung thân muôn đời. Do đó, Nguyễn Hoàng nhờ chị nói với anh rể cho mình vào trấn phía Nam. Nghĩ vùng đất xa xôi, hiểm trở, thủy thổ còn lam chướng, không phải là nơi đất lành nên Trịnh Kiểm đồng ý. Hơn nữa, Trịnh Kiểm muốn mượn nơi ma thiêng nước độc để hại em vợ mà không mang tiếng về sau.
Nhưng sự tính toán ấy đã nhầm.
Năm 1558, bất chấp thời tiết đang mùa đông giá rét, Nguyễn Hoàng cùng đoàn tùy tùng giong buồm đi ngay. Ban đầu ông cho lập dinh thự ở Ái Tử (Quảng Trị) và dần
60 LÊ MINH QUỐC
dần tạo nên một cơ nghiệp hùng mạnh. Tương truyền khi ông mới đến Ái Tử, dân sở tại đem dâng bảy vò nước trong vắt, ông vui mừng khôn xiết vì nghĩ đây là điềm trời cho Nước. Trong khi viết sử, các sử quan thường bịa thêm nhiều chi tiết để khẳng định bậc “thiên tử” thống trị giang san là do “thiên định”, phù hợp với lẽ vận hành của trời đất. Để làm gì? Có nhiều nguyên nhân, sâu xa nhất vẫn là nhằm ngăn ngừa dân đen, giai cấp bị trị đừng có hăm he lật đổ ngôi báu vì “trời đã định như thế”. Nhưng với trường hợp của Nguyễn Hoàng, ta có thể tin là thật. Bởi chi tiết này rất đỗi “đời thường”, không nhuốm màu huyền bí, xa lạ đến khó tin.
Năm 1602, Nguyễn Hoàng đi chơi núi Hải Vân, thấy núi non hiểm trở, nói rằng: “Chỗ này là đất yết hầu của miền Thuận, Quảng”. Rồi vượt qua núi, xem xét tình thế, sai lập dinh trấn, xây kho tàng chứa lương thực, vũ khí rồi sai con trai thứ sáu là Nguyễn Phúc Nguyên (sau là chúa Sãi) trấn giữ.
Lấy cột mốc năm 1602 nên năm 2002, tỉnh Quảng Nam đã tổ chức Hội thảo khoa học “Vai trò lịch sử của dinh trấn Quảng Nam” - kỷ niệm 400 năm dinh trấn này ra đời. Qua đó, ta biết thêm những thông tin cụ thể như ban đầu dinh trấn được dựng ở Cần Húc (huyện Duy Xuyên), ít lâu sau dời sang Thanh Chiêm, rồi năm 1833 vua Minh Mạng cho dời lỵ sở Quảng Nam qua làng La Qua (Điện Bàn). Ca dao địa phương có câu:
Tỉnh thành đóng tại La Qua
Hội An tòa sứ vốn là việc quan.
hoặc:
Dù xa vạn dặm cũng xa
Dù gần Vĩnh Điện, La Qua cũng gần.
Tục ngữ địa phương có câu “Chình ình như đình La Qua”. Và con gái La Qua có tiếng xinh đẹp, nhiều người vẫn còn nhớ câu đối nổi tiếng, rặt giọng Quảng Nam: Con gái La Qua, qua hôn, qua hít, qua vít, qua véo, qua chọc, qua ghẹo, qua biểu em đừng có la qua” (la: la mắng; qua: tôi); Con gái Phước Chỉ, chỉ xấu, chỉ xa, chỉ lười, chỉ nhác, chỉ bài, chỉ bạc, chỉ có chồng là may phước chỉ” (chỉ: chị ấy).
Vai trò của Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn đã đối với xứ Quảng thật ghê gớm, không gì có thể phủ nhận được. Trước đây, tại Đà Nẵng có con đường tên Nguyễn Hoàng, nhưng sau ngày thống nhất đất nước lại đổi tên thành Hải Phòng. Con đường này trước năm 1975, nối đường Lê Lợi đến nhà ga xe lửa Đà Nẵng, nay kéo dài thêm
NGƯỜI QUẢNG NAM 61
đến đường Điện Biên Phủ, cạnh siêu thị Đà Nẵng. Nay lại có con đường khác được mang tên Nguyễn Hoàng, từ ngã ba Ông Ích Khiêm - Phạm Ngũ Lão qua đường Nguyễn Văn Linh đến giáp phía nam đường Lê Đình Lý. Tại Quảng Nam, Tết năm Bính Tuất nhân ngày đầu xuân đi chơi khu du lịch sinh thái Phú Ninh, tôi cũng thấy có con đường mang tên Nguyễn Hoàng.
Không rõ khi Nguyễn Hoàng cầm quân vượt núi Hải Vân vào trấn giữ Quang Nam, câu ca dao tiêu biểu nhất, khái quát nhất của vùng đất này đã có chưa?
Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu Hồng đào chưa nhắm đà say.
Khi du lịch đến một địa phương, để hiểu nơi ấy, theo tôi phải thực hiện cho bằng được ba điều kiện: tham quan thắng cảnh nơi ấy, được ăn món ăn tiêu biểu nơi ấy và yêu một người nơi ấy. Mượn lời ăn tiếng nói của người Quảng thể hiện trong ca dao, thành ngữ, hát đối đáp, ta thử “khám phá” một vùng đất nổi tiếng với câu ca dao mà bất luận ai ai cũng từng nghe đến. Trước hết, ta nhấm nháp chút rượu Hồng đào. Nhưng nếu quyết tâm tìm hiểu “Hồng đào” là loại rượu cụ thể như thế nào, chế biến ra làm sao, xuất hiện thời gian nào thì chắc chắc ta sẽ bí rị! Tôi có hỏi mẹ tôi - một người phụ nữ chất phác, ăn cục nói hòn, còn giữ được giọng nói “rặt Quảng”, quê ở huyện Đại Lộc, năm nay đã ngoài 80 xuân. Mẹ tôi cho biết, bà đã nghe nói đến rượu Hồng đào từ cái thời “Bảo Đại còn cởi truồng tắm mưa” đến thời “Quan tổng về làng như chó vàng về miễu”, nhưng vẫn không biết tại sao có tên gọi ấy?
“Hồng đào” theo tôi, chỉ là một cách nói văn vẻ, văn hoa - vốn là một cách nói hiếm khi thấy người Quảng sử dụng trong giao tế. Ít sử dụng không phải họ không đủ sự lịch lãm, nhưng trong giao tế thông thường người Quảng nói thật lòng những gì mình đang nghĩ, chứ không đãi bôi. Dù ít sử dụng, nhưng khi cần thiết, họ vẫn có cách nói của riêng mình. Đó là trường hợp của rượu Hồng đào. Khi nói “Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm”, người ta đã đặt địa danh Quảng Nam vào một vị trí cao nhất, vậy muốn so sánh tất phải có một sản phẩm khác tiêu biểu, phải thật tiêu biểu của vùng đất này. Lập luận như thế thì rượu Hồng đào phải có thật chứ? Nhưng không. Do vế trên, cho biết theo nghĩa đen “chưa mưa đà thấm”, thì câu nối theo cũng phải có ý nghĩa tương tự.
Tạm dừng lại đây để ta hiểu “thấm” nghĩa là gì? Tiếng Việt trải qua hàng ngàn năm hình thành và phát triển, dẫu còn tồn tại nhiều từ địa phương, nhưng nhìn chung đã đi đến chỗ thống nhất. Với từ “thấm”, tôi muốn mượn hai quyển tự điển tiêu biểu của miền Nam và miền Bắc giải thích. Đại Nam quốc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của, giải thích nhiều nghĩa, trong đó có nghĩa mà ta đang xét: “Nhúng nước gì, chấm
62 LÊ MINH QUỐC
nước gì; làm cho ướt, cho nước gì thấu vào; nước thấm vào” và đưa ra thí dụ như “thấm nước miếng: lấy nước miếng mà làm cho ướt, như thấm nước miếng mà gắn con niêm, gắn bì thư”. (Tôi thích cái thí dụ này, đọc lại, ta thấy như tái hiện lại kỷ niệm của cả một thời tuổi nhỏ mà mình cũng đã từng như thế, nay đã xa xôi, nay đã không còn nữa). Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến Đức (ấn bản năm 1931), giải thích: “Nói về nước đẫm vào, hút vào: Nước mưa thấm áo, Mực thấm vào giấy; Đủ, bõ: Uống hàng chai rượu mà chẳng thấm vào đâu; Làm cho hút đi: Lấy bông thấm máu, Lấy giấy thấm mực; Thấu sâu vào: Nói mãi cũng phải thấm”.
Ta hiểu “thấm” là một động từ, diễn tả sự vật đang vận động. Và cũng hiểu rằng, thật lạ lùng cho cái xứ Quảng Nam, từ trời cao “chưa mưa”, chưa đổ nước xuống vậy mà đất “đã thấm”! Một cách giới thiệu tài tình, không lẫn lộn, không “đụng hàng” với bất cứ một vùng đất nào khác trên toàn cõi nước Việt.
Vậy câu kế theo, thật khéo léo khi người Quảng chọn lấy động từ “say”. Muốn say, muốn được cái cảm giác diệu vợi, chếnh choáng như thi sĩ Tản Đà:
Đất say đất cũng lăn quay
Trời say mặt cũng đỏ gay, ai cười?
Tất phải có rượu. Rượu nào cũng được chăng? Với người Quảng, đó không phải là rượu đế (do nấu bằng cỏ đế nên “chết tên” như thế) rượu Cây Lý, rượu Bầu Đá hoặc làng Vân... mà phải là rượu Hồng đào! Nhưng rượu Hồng đào không có thật. Nó chỉ là một cách nói nhằm tương xứng với địa danh Quảng Nam ở câu trên.
Vì sao?
Trong phép đối xứng của hai câu này (tạm gọi là thơ), thì danh từ riêng phải đối với danh từ riêng, chứ không thể nào khác được. Khi đưa ra một địa danh, mà lại là địa danh có vị trí cao nhất là tên gọi của cả một vùng đất thì rõ ràng không thể có một danh từ riêng nào đó có thể tương xứng đối lại với nó. Muốn đối lại phải là tên một địa phương khác. Nhưng ở đây, chỉ nhằm giới thiệu về tính chất địa phương mình nên “phương án” đó không xảy ra. Vậy chọn một danh từ riêng trong phạm vi của vế trên đã đặt ra, ta chọn lấy gì? Là “Trà Mi rừng quế, kho vàng Bồng Miêu”, là “con tằm Đại Lộc se tơ”, là “thuốc rê Cẩm Lệ” chăng? Xem ra vẫn không ổn. Phải chọn một sản phẩm nào đó dẫn đến một động thái “thấm” như vế trên đã đặt ra.
Trong trường hợp này, chỉ có rượu dẫn đến “say” là hoàn chỉnh nhất. Bởi cái gì dẫn đến “thấm” nếu không phải là chất lỏng? Và rượu dẫn đến “say” cũng là một vật chất tương tự đấy thôi. Nhưng chọn rượu của làng, xã, huyện nào đây? Không thể chọn
NGƯỜI QUẢNG NAM 63
được. Bởi rượu của làng, xã, huyện ấy làm sao đủ “tầm vóc” để đối lại với ý nghĩa khái quát là “đất Quảng Nam” của vế trên? Mà người “Quảng Nam hay cãi”, đối không khéo sẽ bị chê là kém hiểu biết, thiếu lễ độ... Chi bằng, ta cứ đặt cho nó một cái tên không có thật, không thuộc làng, xã, huyện cụ thể nào nhưng nó vẫn là đặc trưng của người Quảng. Và trải qua thăng trầm của lịch sử, rõ ràng nó đã được người Quảng chấp nhận. Nếu người Quảng không chấp nhận thì đừng hòng nó còn tồn tại đến ngày nay.
Đến đây, hẳn nhiều người cũng gật gù “có lý đấy chứ”, nhưng rồi sẽ đặt câu hỏi cắc cớ: “Tại sao lại là rượu (màu) Hồng đào, chứ không phải là một màu nào khác?”. Vâng, sắc màu cũng phản ánh những cung bậc tình cảm. Với màu hồng đào (hồng điều), khi nghe âm của nó ta thấy gợi lại sắc thái của những gam màu sáng, của sự hòa hợp, khởi đầu cho một hy vọng, một ước nguyện tốt đẹp. Hầu hết trong lễ nghi của đám cưới, của sự hợp nhất ta thấy hồng đào vẫn là sắc màu “chủ đạo”. Ngoài tên gọi lễ tơ hồng thì ngay cả loại rượu trong đêm hợp cẩn, tất cũng phải là màu hồng đào, chứ không thể là rượu màu trắng - vốn chỉ dùng cho việc tế lễ. Do đó, khi người Quảng Nam dùng rượu (màu) Hồng đào là có một chủ đích rõ ràng.
Xét tổng quát cả hai câu, ta nghiệm ra rằng: Hồng đào là một loại rượu nhẹ, thậm chí rất nhẹ nữa là khác. Ngược lại vùng này không mềm mại mà “khô cằn sỏi đá”, thậm chí còn “chó ăn đá gà ăn sỏi” nữa. Giá trị của câu ca dao nằm ở chỗ đối nghịch đó. Hiểu như thế thì ta mới thấy hai câu ca dao này tuyệt hay và quyện vào nhau chặt chẽ, không thể tách rời ra được.
Nhiều người cho rằng, phải là loại rượu nặng, nặng đến mức chưa “nhắm” đã say. Hiểu như thế, là không hiểu gì về cấu trúc của câu ca dao này. Phải hiểu nó trong phạm trù “chưa” mà “đã”, thì mới cảm nhận hết ma lực của một vùng đất và của một loại rượu, đặng qua đó hiểu cá tính của con người nơi ấy.
Thứ hai, lập luận trên có thể đứng vững, bởi khi xét câu ca dao ấy ta thấy nó không chỉ giới thiệu tính chất của một vùng đất, mà còn nhằm nói về cá tính, bản tính hiền lành, đôn hậu, chân thật của con người trên vùng đất đó. Tôi tưởng tượng ra cái lúc chàng trai Quảng Nam tỏ tình. Mượn câu ca dao của ông bà để làm “bửu bối”. Anh ta nói: “Em ạ! Em à! Đất Quảng quê anh là rứa đó. Mưa chưa xuống, nước chưa có mà đất đã thấm; rượu Hồng đào nhẹ hều dẫu chưa nhấm nháp chút gì mà anh cũng đã say quắt cần câu, say tít! Chứ huống chi gặp em đây. Em sắc nước hương trời, em chim sa cá lặn, em nguyệt thẹn hoa nhường thì làm sao trái tim non nớt, đa cảm của anh không rung động, không chết mê chết mệt cho được?”. Lập luận đó có lý của nó, nếu ta xét các dị bản kế tiếp trong câu ca dao nổi tiếng này, ta chỉ thấy thuần một giọng về tình cảm:
64 LÊ MINH QUỐC
Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu Hồng đào chưa nhắm đà say
Thương nhau chưa đặng mấy ngày
Đã mang câu ơn trọng, nghĩa dày bạn ơi!
...
Em thương anh, cha mẹ không hay
Như ngọn đèn giữa gió biết xoay phương nào?
...
Hai ta ơn trọng nghĩa dày
Chưa nên duyên nợ đã mấy trăm ngày nhớ thương.
...
Bạn về nhịn ngủ gác tay
Coi ai ơn trọng nghĩa dày bằng em?
...
Anh tới đây cất nón vòng tay
Em hỏi: Ba quân thiên hạ có ai công trượng nghĩa dày như anh? ...
Lòng ta như chén rượu đầy
Lời thề nhớ chén rượu này bạn ơi!
...
Từ ngày đó đã xa đây
Sầu đêm quên ngủ, sầu ngày quên ăn.
...
Anh hùng thước lụa trao tay
Nước non một gánh vơi đầy ai hay.
...
Bạn về đừng ngủ gác tay
Nơi mô ơn trọng nghĩa dày bạn theo.
...
Tình non nghĩa nước bao ngày
Con trăng cõi bắc đã đầy nhớ thương.
...
Xét về mặt từ ngữ, những câu biến thể này đã cho thấy được đôi nét tính cách của người xứ Quảng. Tôi thích nhất ở chỗ, họ tự tin. Bởi tự tin nên mới dám khẳng định “Coi ai ơn trọng nghĩa dày bằng em?”. Nàng nói thẳng thắn, rành rọt nhưng không hề
NGƯỜI QUẢNG NAM 65
ngụ ý khoe khoang gì cả. Sau khi khẳng định tâm thế của mình, nàng không ép phải yêu, phải nhung, phải nhớ, phải thương, phải trăm năm gắn bó (bởi trong tình yêu có ai ép buộc được ai?); do ý thức như thế nàng nên nàng mạnh dạn nói “Nơi mô ơn trọng nghĩa dày bạn theo”. Đây không ép! Đây không nèo kéo! Rõ ràng, trong khi yêu, da diết yêu nữa là khác nhưng người Quảng Nam cũng sẵn lòng cao thượng vậy! Đứng về mặt thi ca, thú thật tôi rất thích câu “Ngọn đèn giữa gió biết xoay phương nào”. Có thể tìm được cách nói nào khác hay hơn, biểu cảm hơn khi phán ảnh một tâm trạng chơ vơ, chông chênh như thế không? Hơn cả thế, chỉ mấy từ đơn giản nhưng lại bộc lộ một tâm trạng cô độc đến não nùng, thậm chí còn có một chút gì hốt hoảng nữa là khác
Nói gần nói xa, chẳng qua nói thật. Chứ hỏi thật lại lần nữa rượu hồng đào có thật hay không? Nghe tôi nói không có thật, lập tức nhiều người Quảng Nam liền cãi. Cãi, với người Quảng Nam có khi không phải để thắng, thua mà cũng là một cách để... sướng. Cãi cũng là một khoái cảm. Tính cách Quảng Nam là vậy. Trên báo Thanh Niên, nhà báo Nguyễn Trung Dân - anh bạn đồng hương quý mến của tôi, khẳng định: “Hỏi rượu Hồng đào là rượu gì, có thật hay không? Ngày có cơ duyên làm báo đi khắp các vùng quê Quảng Nam, cũng nghi ngại như anh Quốc (và nhiều người khác) tôi cố tìm hỏi nó là cái chi chi. Mỗi người diễn tả cách “chế tác” rượu Hồng đào mỗi cách, nhưng tựu trung lại thì rượu Hồng đào khắp cả Quảng Nam nơi nào cũng có và thường chỉ làm ra dùng vào việc lễ, dịp cưới hỏi nghinh hôn, lấy làm rượu hợp cẩn giao bôi. Cách chế tác như sau: lấy rượu đế (trắng) thường nấu bằng gạo sau khi lên men, dùng cây tăm hương (chân hương đã đốt còn trong bát nhang) hay lấy cái vỏ bao hương nhúng vào rượu trắng, nhuộm màu hồng của chân hương hay vỏ bao hương cho rượu, nên rượu Hồng đào. Để làm chi vậy? Là để khác với rượu thường ngày thường. Ngày thường uống rượu đế thường ngàn ly (chung) không say, nhưng ngày lễ - rượu Hồng đào - cái tình ấy, cái nghĩa ấy (sao) chưa nhấm đà thấy say. Đến đây mới thấy hết ý nghĩa của chữ “đà”. Bởi cái tình ấy, chuyện tình, chuyện nghĩa, chuyện lễ là cái đã có ngấm sẵn trong con người và nó cứ lâng lâng phấn khích, say lòng người cần gì rượu, cần gì mưa! Là trong rượu có tình và cái tình ấy mới say chứ rượu thì làm gì phải say và cái say này hứa hẹn kéo dài đến tương lai.
Vậy thì rượu Hồng đào là có thật chứ! Chỉ do người dân quê tôi không muốn (hay không biết) tổ chức để công nhận thương hiệu mà thôi. Bởi cũng có thể do giấu nghề hay giấu nghèo! Cũng là sĩ diện mà ra, cái ngày lễ, ngày bái ấy không phải ngày thường rồi, cần phải dâng lên, trao nhau vật gì trân quý hơn cái thường dùng (rượu đế) nhưng nghèo quá nên đành biến báo ra cái rượu khác ngày thường - rượu Hồng đào.
66 LÊ MINH QUỐC
Chúng ta ở vào thời đại mà những giá trị tinh thần đã được thế giới công nhận tôn vinh là di sản nhân loại (phi vật thể) thì cớ sao rượu Hồng đào của Quảng Nam lại không có thật? (số ra ngày 19-3-2006)”.
Lập tức, trên báo Sài Gòn Giải phóng tuần san, nhà báo Nguyễn Đông nhảy vào cuộc: “Rượu Hồng đào là gì? Nỗi khúc mắc đó của hàng triệu người Quảng Nam và những người nơi khác tìm hiểu về Quảng Nam được khơi lên, thách thức đau đầu cho con người ở một vùng đất mà bản tính luôn hừng hực muốn đi đến tận cùng sự thực...
Cùng cho rượu Hồng đào là có thật như anh Nguyễn Trung Dân có anh Đỗ Thế, Phó Giám đốc Công ty Minh Anh (Đà Nẵng) - đơn vị đã đăng ký nhãn hiệu độc quyền và đang sản xuất rượu Hồng đào hiện nay. Tuy nhiên, anh Thế cho biết cách chế biến rượu Hồng đào mà anh nghe một người dân tên Sáu (anh Thế không nhớ họ) ở xã Điện Quang (Gò Nổi), Điện Bàn, kể lại thì rất công phu. Câu chuyện được anh Thế thuật lại như sau:
Ngày xưa, lúa gạo ít, người nông dân phải dành thóc để ăn đến giáp hạt nên ngày thường không dư dả lúa thóc để nấu rượu. Chỉ vào mùa thu hoạch, người ta mới dành ra chút ít để nấu nên nguyên liệu nấu rượu Hồng đào luôn luôn là lúa mới (lúa - tiếng Quảng Nam còn có nghĩa là thóc). Lúa được xay trong các cối xay bằng tre để bóc vỏ trấu, hạt gạo còn màu trắng đục ngà xanh của vỏ cám. Hạt cơm nấu từ gạo này để làm rượu phải đảm bảo không được nở to, bề mặt hạt cơm trơn bóng.
Sau khi để nguội, trộn với một ít men lá - người vùng cao hiện nay vẫn dùng sản xuất rượu cần - và ủ trong những chum sành khoảng một tuần sau mới đem chưng cất. Men rượu tự nhiên trong lá sẽ chuyển cơm thành rượu có mùi thơm nồng đượm, đặc trưng của mùi gạo lức mới còn nguyên cám.
Sau đó ủ tiếp rượu mới cất (có khi với quả đào chín thái mỏng) trong các chum sành và chôn cả chum rượu dưới đất. Sau hơn 100 ngày mới đào lên, rượu Hồng đào lúc này có màu hồng đỏ óng ánh và mùi thơm rất quyến rũ. Thông thường, hũ rượu này chỉ dùng trong các dịp lễ lạt, đình đám.
Anh Thế chỉ cho tôi lò nấu rượu hình bát quái của công ty mới đầu tư cùng dãy chum lọ xếp chật cả kho xưởng lớn và cho biết hiện đơn vị anh đang chế biến rượu Hồng đào theo hướng mô phỏng từ lời kể trên.
Câu chuyện của anh Thế thuật lại qua lời kể của một người dân Gò Nổi làm tôi phân vân. Với tất cả sự dè dặt cần thiết tôi xin nói rằng lời kể của một người là chưa đủ để kết luận rượu Hồng Đào ngày xưa được chế biến theo cách như vậy. Tuy nhiên, cách giải thích này thì còn khả dĩ chấp nhận được (số ra ngày 15-4-2006)”.
NGƯỜI QUẢNG NAM 67
Sự tranh luận vẫn tiếp tục. Và chắc chắn người Quảng Nam vẫn còn tranh luận đấy thôi. Nói gì thì nói, tôi nghĩ rằng đến ngàn đời sau, Hồng đào vẫn là rượu nổi tiếng nhất của Quảng Nam. Nó không có thật, nếu xét về công thức cụ thể chế tạo ra loại loại rượu này. Nhưng nếu xét về “thương hiệu” thì rõ ràng là có. Thế có nghịch lý không chứ? Chẳng nghịch lý gì.
Rượu nào cũng được, miễn là rượu đó do nhà mình, làng mình nấu bằng hạt gạo, giọt nước nơi mình chôn nhau cắt rốn; nấu bằng phương pháp thủ công với tất cả sự trân trọng, thành kính, chu đáo đặng sử dụng trong nghi lễ nào đó của gia đình hoặc của cộng đồng. Rượu Hồng đào hàng trăm năm nay đã tồn tại một cách rực rỡ và vinh quang chót vót, không phải do một công thức chế tạo cụ thể nào mà chính nhờ ông bà ta đã khéo léo lồng vào nó vào câu ca dao bất tuyệt. Đã đọc là nhớ. Đã ngâm nga là ray rứt trong lòng. Đã nghe là da diết tận cùng hơi thở. Đọc những câu ca dao dày nghĩa nặng tình ấy, tôi tin chắc rằng các đệ tử Lưu Linh những muốn co chân, chạy vù một hơi ra xứ Quảng, uống một xị Hồng đào thỏa dạ hả gan. Thế thì, nói theo ngôn ngữ của thời đại @ này, từ rất nhiều thời gian trước người xứ Quảng đã biết cách P.R cho sản phẩm của một loại rượu được cộng đồng chế biến ngay trên mảnh đất mà họ từng ngày lam lũ trên đồng cạn dưới đồng sâu.
Nhìn qua bên kia núi Hải Vân sừng sững mây đùn gió lộng, ta nghe gió thoảng về rượu làng Vân; nhìn vào mảnh đất “Muốn ăn bánh ít lá gai - lấy chồng Bình Định cho dài đường đi” chỉ vừa nháy mắt đã nghe thơm nồng rượu Bàu Đá; xa hơn nữa, ngóng về nơi “dưới sông có lội, trên rừng cọp um” ta lại ngay ngất với hương vị rượu đế... Thì ra, vùng miền nào cũng có một chất lên men đặc trưng của địa phương đó và họ có quyền ưỡn ngực tự hào. Thế nhưng, được đi vào ca dao, được lưu truyền qua lời ăn tiếng nói, để gìn giữ và lưu truyền cho ngàn đời sâu tôi ngờ rằng chỉ Hồng đào mới có được vinh dự đó.
Nói đến Quảng Nam, ngoài rượu Hồng đào còn có một loại trái cây cũng nổi tiếng không kém. Sự so sánh này cũng tựa như nhìn hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân, ta thấy “mười phân vẹn mười”. Loại trái cây ấy đã lừng lững đi vào phương ngôn: “Nhứt trường thi, nhì trường trái”.
Khoan vội giải thích, ta hãy lan man một chút. Theo tôi, viết sử về một địa phương mà không đọc chính sử, là một thiếu sót. Không thể tách rời nó ra khỏi bối cảnh chung tiến trình phát triển của lịch sử. Ngược lại, chính sử phải được bổ sung bằng sử địa phương, bằng gia phả các tộc họ... Đọc, đọc và đọc. Kể ra cũng mệt! Không mệt sao được, chẳng hạn chỉ riêng mỗi một bộ chính sử Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ của Nội các triều Nguyễn, dày đến hơn hai gang tay thì đọc thế nào hở trời?
68 LÊ MINH QUỐC
Thôi thì, mỗi ngày đọc nhón vài trang để lấy làm vui vậy. Cứ thúc tha thúc thắc rồi cũng có lúc ngốn hết vài ngàn trang đấy thôi. May mắn, đang săm soi tìm kiếm tư liệu về xứ Quảng xưa, tôi tìm gặp dòng giúp giải đáp câu phương ngôn trên.
Dưới triều Nguyễn, vị vua nào có ý thức nhất trong chủ trương khuyến khích trí thức tìm tòi, sưu tập tài liệu viết sách nhằm phục vụ xã hội và lưu lại đời sau? Theo Đại Nam thực lục chánh biên, đệ nhị kỷ, quyển III có chép lời vua Minh Mạng vào tháng 5-1820: “Trẫm nghĩ, đời trước các đấng đế vương trị vì, đều có sử sách ghi chép việc hành chánh để lưu truyền đời sau... Trẫm thích xem cổ điển, noi chí tiền nhơn, muốn rộng việc tìm cổ tích xưa, để giao phó cho sử quan biên chép. Nhưng vì sau cơn binh cách, sách vở vương phủ không còn bao nhiêu; nay chỉ trông cậy vào các tư gia uẩn súc văn chương, hoặc giả còn có biên chép lại. Vậy truyền rao quan dân trong kinh ngoài quân, nhà nào có ghi chép Tiên triều cổ điển, bất câu tường lược, hoặc đưa vào nguyên bản dâng lên, hoặc cho quan mượn chép lại đều có khen thưởng”. Vâng theo chiếu chỉ này, nhiều trí thức lớn bấy giờ đã “nhiệt liệt hoan hô”, “nhiệt tình hưởng ứng” như cụ Trịnh Hoài Đức đã dâng bộ Gia Định thành thông chí (ba quyển) và Minh bột di ngự văn thảo thư; cụ Phan Huy Chú dâng Lịch triều hiến chương loại chí... Tất nhiên, họ đều được nhà vua khen ngợi và ban thưởng vàng bạc. Chẳng hạn, Phan Huy Chú được thưởng 30 lạng bạc, một áo sa, 30 cái bút và 30 thỏi mực. Không những thế, vua Minh Mạng còn rất có ý thức giao cho Nội các triều Nguyễn phải ghi chép lại các diên pháp, quy chuẩn và các dữ kiện liên quan đến tổ chức và hoạt động của một triều đại, một nhà nước. Nhờ vậy, nay ta có nhiều tư liệu quý, tất nhiên trong đó có cả thông tin quan đến xứ Quảng.
Trước hết, phải kể lại một truyền thuyết còn lưu truyền trong dân gian: Trong một lần giao tranh với quân Tây Sơn, chúa Nguyễn phải trốn chạy lên vùng đất phía tây Quảng Nam. Trong lúc ngặt nghèo, nguy khốn nhất, bốn phía bị bao vây, lương thực không còn, đang đói rã họng thì chúa tôi gặp một loại trái cây chín mọng. Chưa dám ăn ngay, chúa lấy tay bấm thử, thấy trái mềm, nếm vị ngon ngọt lạ thường. Nhờ trái cây này mà họ thoát khỏi cảnh đói khát. Truyền thuyết này góp phần lý giải (dẫu mơ hồ) vì sao khi cầm loại trái cây này, lột vỏ mỏng, ta đều thấy có dấu móng tay.
“Nhất trường thi, nhì trường trái”. Trái ở đây là trái loòng boong - theo truyền thuyết đã giúp vua tôi Gia Long thoát cơn bĩ cực. Trái kết thành chùm ở thân cây và ở cành, có chùm đơn, chùm kết - trông dáng đẹp mắt như chùm nho nhưng trái to hơn, màu vàng nhạt. Trái to bằng ngón tay cái hoặc nhỉnh hơn, hình bầu dục, vỏ mỏng hơn vỏ dâu đất, hơi dai. Ruột có năm múi trắng trong, trong mỗi múi có vài hạt. Cây loòng boong cao vài chục mét, nhiều cành, thân trơn trợt, mọc tầng tầng lớp lớp thành rừng,
NGƯỜI QUẢNG NAM 69
đến mùa, trái chín vàng đẹp mắt, da láng như da trẻ con. Thoạt nhìn đã thấy ngon miệng, thơm tho cả lưỡi. Ca dao xứ Quảng còn lưu lại:
Tay em cầm nón, tay em chọn loòng boong
Trái nào vừa ngọt, vừa ngon
Dành riêng cho bạn nghĩa nhơn nặng tình.
...
Trái loòng boong trong tròn, ngoài méo
Trái thầu đâu trong héo, ngoài tươi.
Thương em ít nói, ít cười
Ôm duyên mà đợi chín mười con trăng.
...
Lụt nguồn trôi trái loòng boong
Cha thác mẹ còn chịu chữ mồ côi
Mồ côi tội lắm ai ơi
Đói cơm không ai biết, lỡ lời không ai phân.
Nhưng thật ra, không phải chúa Nguyễn là người phát hiện ra trái cây này và đầu tiên khẳng định nó ăn được. Trước đó, người Chiêm Thành cư ngụ trên mảnh đất này chắc chắn họ đã biết đến, nhưng không rõ họ đặt tên gì? Có người cho rằng, loòng boong là cách phát âm chữ “T”rbon” của người Cơtu ở huyện Giằng hiện nay.
Khi lập được nghiệp đế vương, vua Gia Long xuống Dụ hàng năm, vào tháng 9, dân xứ Quảng phải tiến vài ngàn trái loòng boong ra kinh đô để dùng vào việc tế tự. Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn: “Đầu đời Minh Mạng, nhà vua ban cho tên là Nam trân”. Như thế cái tên Nam trân - tức quả quý như ngọc ở phương nam chỉ mới có từ năm 1820. Chưa dừng lại đó, năm Minh Mạng thứ 16 (1835), nhà vua cho đúc chín cái đỉnh đồng lớn (Cửu đỉnh) đặt ở Thế Miếu. Theo sử sách, vua Minh Mạng bắt chước vua Hạ Vũ xưa đúc Cửu đỉnh tượng trưng chín châu bên Tàu. Nhưng cũng còn có cách lý giải nữa, mỗi đỉnh tượng trưng cho một ông vua triều Nguyễn: Cao (Gia Long), Nhân (Minh Mạng), Chương (Thiệu Trị)... và cuối cùng là Huyền đỉnh. Huyền còn có nghĩa là mất. Vô tình (hay sự tiên đoán) về vận mệnh triều Nguyễn? Quan sát Cửu đỉnh, chúng ta bàng hoàng lẫn khâm phục trước nghệ thuật đúc đồng của những người thợ khéo tay của Huế xưa. Tất cả có 153 hình được chạm trổ trên Cửu đỉnh, trong đó có hình ảnh Nam trân chạm trổ trên “Nhân đỉnh”- như thế đủ biết loại trái cây này được vua nhà Nguyễn trân trọng biết chừng nào.
70 LÊ MINH QUỐC
Lệ tiến Nam trân thời vua Minh Mạng quy định như sau: “Quả này để tiến vào những lễ tiết hưởng, kỵ và cơm mới ở Tôn miếu. Dẫu đủ phẩm vật để tỏ lòng tôn kính, nhưng lễ ý không quá nhiều. Nay theo lệ tiến quả đến 13, 14 giỏ, đài đệ theo trạm tốn quá nhiều sức dân. Vậy hạ
Hình ảnh cây loòng boong khắc trên cửu đỉnh triều Nguyễn
lệnh từ nay mỗi kỳ cung tiến lấy sáu giỏ làm lệ...”. Có một điều khá thú vị là những phẩm vật địa phương khi tiến vua, dân đen cũng được thiên tử hào phóng trả tiền! Nghe cứ như đùa. Chẳng phải đùa. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ chép rành rành: “Năm Minh Mạng thứ 17, xuống Dụ: Từ trước đến giờ các tỉnh kỉnh dâng vật phẩm như quả dưa, cam đường, quả loòng boong, quả vải, quả chanh, tuyết lê và rươi, những loại ấy danh sắc có nhiều, tựu trung thổ ngơi có thì phải cống, hoặc do dân đi tìm mà lấy, vật không đáng bao nhiêu, mà dân cũng lấy việc ấy làm lẽ sống, phải nên tùy từng hạn xét mà trả tiền, để dân được nhờ”. Không chỉ có loòng boong, mà trái chanh xứ Quảng cũng có “vinh dự” tiến vua. Cứ bốn sọt loòng boong làm một gánh giá 3 quan tiền. Cứ 100 quả chanh giá 3 quan.
- Cho hỏi tiếp, thế ngoài Quảng Nam các các tỉnh khác có dâng nhà vua phẩm vật gì không?
- Có chứ sao không? Này, tôi kể tiếp một lèo cho gọn. Hạt Thừa Thiên: gạo mới và hoa quả, gạo đựng trong các chiếc hộp ngoài dán giấy đỏ, ghi bốn chữ “Giải tỏ lòng thành”, phải là “những thóc nếp mới gặt hoặc thóc tám cánh”, số lượng bao nhiêu ký không rõ, chỉ biết “dân phu khiêng” suy ra ắt cũng khẳm; tỉnh Vĩnh Long và Định Tường: dừa, 200 trái; tỉnh Phú Yên: xoài, 1.000 trái xoài non, 1.000 trái xoài già; tỉnh Bình Định: chanh, 1.000 trái; tỉnh Quảng Bình: dưa hấu, bột hoành tinh, thịt cửu khổng khô (một loại sò sống ở biển), rượu dâu; tỉnh Thanh Hóa và Hải Dương: cam đường, 300 trái; Nam kỳ: cá nhám, ốc ở chằm nước, ba ba bể, cá sấu; Hà Nội: trái vải, 2.000 trái (trước đó, Hà Nội còn phải tiến các phẩm vật như bánh phục linh, mứt tẩm đường mật, bỏng nếp tẩm đường, cốm nhưng sau do kinh đô cũng làm được nên thôi); tỉnh Ninh Bình và Nam Định: mắm rươi (về đời vua Minh Mạng thứ 14, Nam Định không phải tiến mắm rươi nữa, vì “cũng thường thôi”); tỉnh Cao Bằng: trái sa lê, 200 trái; tỉnh Tuyên Quang: trái tuyết lê, 300 trái.
NGƯỜI QUẢNG NAM 71
Số lượng đại khái thế, tùy theo dịp lễ như lễ Nam Giao, ngày Thánh đản, ngày Thánh thọ, lễ hưởng ở nhà Thái miếu... hoặc tiết Vạn thọ, Trung thu... mà châm chước khác nhau.
Cây loòng boong mọc ngoài rừng, thế nhưng người dân lại gọi đó là “vườn” - kể ra cũng lạ. Đến mùa thu hoạch, người dân gọi “ngày xả trái”. Địa chí Đại Lộc (Nxb. Đà Nẵng, 1992), cho biết khá cụ thể:
“Cũng là một loại trái rừng, song cây loòng boong chỉ có nhiều nhất ở vùng gần thượng nguồn sông Vu Gia. Khu rừng loòng boong mọc tập trung trên một diện tích gần 4km2, nằm bên tả ngạn sông Vu Gia, phía tây Hội Khách (Đại Sơn)... Nhà Nguyễn đã đặt một chức sắc địa phương gọi là “Quản Nam trân” để canh giữ vườn cây trái thiên nhiên này. Viên quan này có quyền huy động dân đinh ba xã: Tân Đợi, Hội Khách, Hữu Trinh canh giữ vườn Nam trân. Tới mùa trái chín, viên “Quản Nam trân” chọn những chùm trái loòng boong đầu mùa tốt nhất chất đầy chừng năm tới mười gánh để tiến vua, tiến quan đầu tỉnh, gọi là “chạy trái kiểu”, rồi ấn định ngày xả trái. Ngày hội này thường nhằm vào ngày rằm tháng tám âm lịch hàng năm, lúc ấy, hàng trăm ghe thuyền ngược sông Vu Gia đến vườn trái chờ mua và hàng ngàn người từ Hà Nha, Hà Tân, Hà Vi, Hà Dục, Hữu Trinh, Hội Khách... đi đến với đầy đủ dụng cụ cho việc hái trái. Họ tụ tập tại Đồng Chàm vào chiều trước ngày xả trái. Sáng ngày sau khi cúng thần sơn lâm xong, viên chức giữ vườn đánh ba hồi thanh la báo hiệu ngày hội xả trái bắt đầu. Hàng ngàn người lập tức tản vào vườn hái trái. Hái được thì gánh ra bờ sông bán cho các thương thuyền chờ sẵn. Lượng trái hái được phải trích một phần, thường là “một dụ” (cái giỏ mang trên vai đựng trái), khoảng 20% tổng số trái hái được để nộp thuế giữ vườn cho viên “Quản Nam trân” và hương lý ba xã có dân đinh canh giữ nói trên. Số trái nộp thuế này, một phần được chi vào việc “chạy trái kiểu”, một phần trở thành quỹ của hương lý và dân đinh giữ vườn.
Số trái chín được hái tập trung trong một ngày là ngót, những trái còn lại thì ai muốn hái cứ tự do vào những ngày hôm sau, không phải nộp thuế giữ vườn nữa... Vào khoảng thời gian này, trái loòng boong ở Hiên, Giằng cũng chín rộ. Người Cơtu cũng tiến hành hái trái bán lại cho các đầu nậu buôn nguồn. Mùa này những lái thương gọi là “đi trái” và kéo dài hàng tháng trời mới mãn... Tục lệ xả trái vừa kể trên đã mất đi cách đây gần nửa thế kỷ” (Sđd, tr.80).
Qua miêu tả như trên ta thấy “ngày xả trái” nhộn nhịp không thua kém gì cảnh sĩ tử trước trường thi ngày đó nên mới có câu “Nhứt trường thi, nhì trường trái” là vậy.
72 LÊ MINH QUỐC
5.
• “Hành sơn,Sài thủy”
• Ngũ Hành Sơn “Chòmmâymuôn dặmtự do bay” qua HẢI NGOẠI KỶ SỰ của nhà sư Thích ĐạiSán, thơ Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Thượng Hiền, Bang Nhãn, PhạmHầu, Bích Khê.. • “Nói dóc như dốc Bà Nà”
Đến với một vùng đất nào đó, tôi nghĩ, cần phải tìm hiểu di tích, danh lam thắng
cảnh, đặng qua đó, ta mới có thể hiểu được ít nhiều tính cách con người nơi đó. Đất sinh ra người. Người là hoa đất. Địa có linh thì nhân mới kiệt. Người làm rạng danh cho đất, nhưng đất lại hun đúc tài năng, cá tính cho người. Trước đây, khi nói đến xứ Quảng, người ta khái quát bằng câu: “Hành Sơn, Sài Thủy” (tức Ngũ Hành Sơn và sông Chợ Củi).
À! sông Chợ Củi! Cái tên nghe ngồ ngộ, sao nay ít nghe nhắc đến? Con sông này nằm trong vị trí dinh trấn Quảng Nam thời chúa Nguyễn, để hiểu rõ hơn, ta hãy nghe nhà “Quảng Nam học” Nguyễn Văn Xuân giải thích: “Dinh trấn Thanh Chiêm, là nơi tổng trấn mà con các chúa Nguyễn cai trị xứ Quảng Nam. Trước đóng ở xã Cần Húc nay là Vân Đông ở cạnh đó. Nơi đây có thành đất chu vi ngoài 300 dặm giáp sát bờ sông. Sông cũ nay chỉ còn những đám ruộng thấp tên là sông Chợ Củi. Sông Chợ Củi mặc nhiên đổi thành sông Thu Bồn vào đầu thế kỷ này, sông lớn nhất và quan trọng nhất của Quảng Nam. Chợ Củi là chợ được hiểu theo tổ chức cổ: thành - thị. Tức là có “thành” cho quan quân ở thì phải có “thị” cung cấp các hàng hóa cần thiết. Củi ở đây là để bán cho các tàu ngoại quốc đậu từ vũng Trà Nhiêu (cửa quốc tế) đến mua củi, lấy nước. Thanh Chiêm và quanh đó có đền Xã Tắc (Khúc Lũy), đàn Tiên Nông (Thanh Chiêm), đàn Sơn Xuyên (La Qua). Sau khi bỏ thành thì có lập Văn Thánh và trường Đốc đào tạo những nhân vật Nho giáo nổi tiếng nhất của Quảng Nam (đã bị hủy vào năm 1945). Sông Chợ Củi cũng từng là nơi đóng đại thủy quân của chúa Nguyễn, lực lượng chính đã đánh bại các đạo quân Hà Lan vào giữa thế kỷ XVII. Sông Chợ Củi đời Tự Đức năm thứ ba đổi làm Sài Thị được liệt vào hàng sông lớn, ghi vào điển thờ”.
Nếu ngày trước đèo Hải Vân tạo nguồn cảm hứng thi ca cho nhiều bậc danh sĩ thì Ngũ Hành Sơn cũng có nét quyến rũ lạ lùng như thế. Nếu làm tuyển thơ xứ Quảng,
NGƯỜI QUẢNG NAM 73
tôi đoan chắc rằng thơ viết về Hải Vân và Ngũ Hành Sơn sẽ đứng đầu bảng. Mà lại thơ hay, thế có “chết người” không chứ?
Và cũng đôi lần tôi tự hỏi, có phải từ “dấu ấn” Ngũ Hành Sơn mà Xứ Quảng có “Ngũ phụng tề phi”? Vẫn là con số “5” - một con số trong phong thủy mà khi thực hiện một cái gì đó bao giờ người cũng bấm đốt ngón tay tính nhẩm: “sinh, lão, bệnh, tử, sinh”, phải là chữ “sinh” đứng vị trí cuối cùng mới tốt! Có người cho rằng, theo sách địa lý phương Đông, đất nào có núi Ngũ Hành mà các ngọn mọc theo chiều “thuận”: Kim ở phương tây, Mộc ở đông, Thủy ở bắc, Hỏa ở nam và Thổ ở giữa thì đó là nơi địa linh nhân kiệt.
Ngũ Hành Sơn ở xứ Quảng cấu tạo theo chiều “thuận” như thế.
Lại có người lập luận về sơn thủy: miền Bắc có núi Tam Đảo (số 3) là dãy núi nằm ở chỗ ranh giới của ba tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang và Thái Nguyên; miền Nam có núi Thất Sơn (số 7) tại tỉnh An Giang; còn miền Trung có Ngũ Hành Sơn (số 5) ở xứ Quảng thuộc vị trí trung tâm của đất nước. Con số 5 là con số có tính chất “trung hòa” giữa số 3 và số 7, theo phân số (3+7):2=5, bởi thế, qua bao biến chuyển của đất nước, nhiều nhân vật kiệt xuất đã sinh trưởng và xuất phát từ miền Trung. Cũng còn số 5 này có người còn cho rằng đó là số “tham thiên lưỡng địa”, bao quát cả âm lẫn dương mà ở đó sự chênh lệch giữa âm dương: dương thừa (3) và âm thiếu (2) nên đã tạo ra sự vận động không ngừng của vạn vật...
Không phải là người am hiểu về phong thủy, do đó, cái sự tính toán có pha màu “huyền bí” như thế, tôi nào dám có ý kiến. Mà trong đời, đôi khi đang lai rai một chén rượu ngon, có người cao hứng nói như thế, quả quyết như thế, ta cãi lại làm chi, tranh luận làm chi, tin hay không cũng chỉ nên cười nhè nhẹ kín đáo. Dù sao, biết lướt qua như thế cũng là điều thú vị khi ta đến với Ngũ Hành Sơn.
Này nhé, từ trung tâm thành phố Đà Nẵng, qua cầu Nguyễn Văn Trỗi, về hướng đông nam (đường vào phố
cổ Hội An), chỉ đi chừng
7km là ta đã đến Ngũ Hành
Sơn - thuộc xã Hòa Hải,
huyện Hòa Vang. Về sự tích
của núi Ngũ Hành Sơn,
theo truyện kể của nhà văn
hóa Nguyễn Đổng Chi, đây
là năm ngón tay của Đức
Phật đè lên mình Tề Thiên
Không gian Ngũ Hành Sơn đầu thế kỷ XX
74 LÊ MINH QUỐC
đại thánh tương tự như trong truyện Tây du ký của nhà văn Trung Quốc Ngô Thừa Ân. Năm ngón tay ấy là năm ngọn núi Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Còn theo suy nghĩ dân gian, người Quảng Nam cho rằng, ngày xưa thần Kim Quy rẽ sóng biển Đông vào đây đẻ một quả trứng rồng. Về sau, có năm mảnh trứng rồng nứt ra, lớn mãi thành năm ngọn núi như ta đã biết. Lại có truyền thuyết, khi thần Kim Quy ở cữ, thì trong cơn đau sinh nở đã làm lở đất thành dòng sông Cẩm Lệ và sông Hàn ngày nay.
Xưa Ngũ Hành Sơn còn có tên gọi là Ngũ Uẩn Sơn (năm hòn núi kết hợp lại); Ngũ Chỉ Sơn (ngụ ý Ngũ Hành Sơn như năm ngón tay khổng lồ từ dưới đất xuyên lên); núi Cẩm Thạch hoặc hòn Non Nước. Gọi là Ngũ Hành Sơn nhưng thật ra nhóm núi này có sáu ngọn. Nếu đứng giữa đường lộ, hướng về Hội An, ta sẽ thấy phía tay phải: Kim Sơn, Thổ Sơn, riêng Hỏa Sơn có hai ngọn nằm kề nhau trông như một gọi là Âm Hỏa Sơn và Dương Hỏa Sơn; phía tay trái: Mộc Sơn, Thủy Sơn. Các tên này do vua Minh Mạng đặt, còn người dân địa phương vẫn gọi nôm na như sau: núi Đá Chông (Thổ Sơn), núi Chùa (Thủy Sơn), núi Mồng Gà (Mộc Sơn), núi Đùng (Kim Sơn) và núi Ông Chài (Hỏa Sơn). Vị trí của năm ngọn núi như sau:
Mộc Sơn: nằm ở phía đông trên đường từ Đà Nẵng đi Hội An, sườn núi dựng đứng. Trong núi có hang động nhỏ, xưa kia là nơi trụ trì của bà sư ni, tục danh là “Bà Trung”; ngoài ra còn có một tảng cẩm thạch trắng, tượng hình ấy có người gọi Phật Quan Thế Âm tọa sơn, có người gọi là Cô Mụ.
Kim Sơn: nằm hướng tây bắc, giữa Thổ Sơn và Hỏa Sơn, gần sông Trường Giang, tại đây thời nhà Nguyễn có bến đò gọi là “Bến Ngự” dành cho các vua, nhất là vua Minh Mạng neo thuyền lúc viếng Ngũ Hành Sơn. Trông hình dáng Kim Sơn tựa như quả chuông úp. Vào khoảng năm 1950, dân địa phương đã phát hiện ra một hang động dưới chân núi, đặt tên động Quan Âm; năm 1956 nhà sư Thích Pháp Nhãn đã mở rộng lối vào hang động và cho xây chùa Quan Âm bên trong. Nét huyền bí, hấp dẫn của hang động này là thạch nhũ trên vách đá ẩn hiện nhiều hình ảnh kỳ quái khiến ta tha hồ tưởng tượng ra nào là hộ pháp, Tề thiên, công chúa, Quan Âm v.v... Giữa động còn có một cây thạch nhũ lớn tựa chiếc vòi voi khổng lồ buông xuống, gõ vào nghe phát ra âm thanh ngân nga “bong bong” như tiếng chuông nhà Phật khiến lòng nhẹ nhàng, thanh thoát; lại có một phiến đá khác nhô ra, hình tròn như cái trống, gõ vào nghe “tùng tùng” như đánh thức những ai còn mê đắm trong gió bụi trần gian... Phía trong tận cùng ở góc phải có dòng suối nhỏ và thạch nhũ trông như hình con rồng đang nằm.
Thổ Sơn: Thấp hơn so với những ngọn núi cao khác. Cây cối thưa thớt, có nhiều dấu tích của kiến trúc Chăm thuở xa xưa còn sót lại cũng khiến lòng ta nghĩ ngợi xa gần về cổ tích xa xăm...
NGƯỜI QUẢNG NAM 75
Hỏa Sơn: Hai ngọn âm - dương nằm đối diện nhau, ngăn cách bởi một cánh đồng lúa xanh rờn. Nếu giàu trí tưởng tượng ta thấy hai ngọn núi này hình thù trông giống ngọn bút lông dựng lên, như muốn phóng bút viết bài thơ ca ngợi cảnh đẹp quê hương lên vòm trời xanh thẳm... Trong Âm Hỏa Sơn có một thạch động, trên cửa vào có khắc Chư Tiên Khách Hội Động - tương truyền là nơi tu tiên của một cao nhân ẩn sĩ; trong Dương Hỏa Sơn cũng có một động, trên khắc “Quan Âm Động” và “Phổ Đà Sơn”. Các bậc cao niên cho biết, nơi đây vua Lê Thánh Tông từng cho dựng tấm bia, nói rõ “một ngàn năm trước là đường bể; một ngàn năm sau là ngọn núi nổi danh”:
Nhất thiên niên tiền nhất hải đạo,
Nhất thiên niên hậu nhất danh sơn.
Chẳng rõ hư thực ra sao vì ngày nay giới khảo cổ chưa tìm ra được tấm bia này. Cũng tương truyền nơi đây về thời vua Minh Mạng, có một vị công chúa vứt bỏ cám dỗ trần tục, đến tu. Nhà vua xuống Dụ, bảo bà phải về lập gia đình. Không những bà từ chối mà còn dâng lên bài thơ, nếu ai họa được bà sẽ tuân mệnh “nâng khăn sửa túi” cho người đó. Bài thơ như sau:
Thế sự nhìn xem rối cuộc cờ,
Càng nhìn càng ngắm lại càng dơ.
Đánh tan tục niệm hồi chuông sớm,
Gõ vỡ trần tâm tiếng mõ trưa.
Chu tử ngán mùi nên ấn giải,
Đỉnh chung lợm giọng hóa chay ưa.
Lên bè cứu khổ toan quay lại,
Bể ải trông ra nước đục lờ...
Nhưng tiếc không có “đấng mày râu” nào họa lại hay hơn!
Thủy Sơn: nằm song song với Mộc Sơn, rộng khoảng 15ha, cao nhất và có nhiều kỳ quan thắng cảnh nhất. Ngay từ dưới chân núi, có hai đường đi lên tới đỉnh: đường tam cấp bằng đá phía tây nam dẫn lên chùa Tam Thai với 156 bậc, hoặc đường tam cấp bằng đá phía đông dẫn lên chùa Linh Ứng với 108 bậc.
Đi theo đường tam cấp hướng tây nam lên tới đỉnh, ta gặp ngôi chùa Non Nước được xây dựng cách đây khoảng 300 năm, sau lưng chùa có ba đỉnh núi như đột ngột hiện lên: Thượng Thai (cao 106m) và thấp hơn còn có Trung Thai, Hạ Thai. Vì vậy, ngôi chùa Non Nước còn được gọi là Tam Thai Tự.
Chùa Tam Thai được trùng tu vào năm 1825, hai năm sau vua Minh Mạng còn cho đúc thêm chín tượng Phật và ba chuông lớn. Sau đó, năm 1901, một trận bão lớn đã
76 LÊ MINH QUỐC
Sơ đồ tham quan Ngũ Hành Sơn hiện nay
tàn phá ngôi chùa; mãi đến năm 1907 chùa được xây dựng lại kiểu chữ Nhất (-) và trở thành một kiến trúc nghệ thuật độc đáo. Phía bắc của sân chùa là Hành cung, dành cho nhà vua nghỉ chân khi viếng chùa; bên phải là nhà thờ Tổ - đi thêm mấy bậc thang cấp sẽ đến Vọng Giang đài (đài ngắm sông), ở đây có một tấm bia bằng đá Trà Kiệu rộng 1m, cao 2m đặt trên một nền đế rộng, dựng năm 1837. Theo nhà thơ Quách Tấn, chỉ lên Vọng Giang đài vào lúc sáng sớm sương chưa tan hoặc lúc chiều sắp tắt nắng mới là người biết thưởng cảnh. Vì lúc ấy ánh sáng nửa mờ nửa tỏ thâu hẹp tầm mắt nhưng lại rộng mở cõi lòng, khiến cảnh đã đẹp đẽ mênh mông thêm huyền mơ bát ngát. Nhận xét của thi sĩ Quách Tấn, tôi cho là tinh tế, cũng như chiêm ngưỡng một người đàn bà đẹp, phải là lúc nào, thời gian nào chứ không thể “gặp đâu xâu đấy” một cách xô bồ bằng con mắt trần tục và tâm thế hẹp hòi Ở cụm Thượng Thai này còn có tháp Phổ Đồng, chùa Từ Tâm và các động Hóa Nghiêm, Huyền Không, Linh Nham, Lăng Hư...
Khi trở lại chùa Tam Thai, vòng qua ngõ sau và rẽ phía tay trái, ta sẽ đi ngang qua động Hoa Nghiêm để đến động Huyền Không kỳ vĩ như cảnh thần tiên nơi trần thế. Động Huyền Không gắn với một truyền thuyết: Thuở xưa, trong động này có hai thạch nhũ buông xuống trông như hai nhũ hoa, ngày đêm hai dòng nước trong veo liên tục rỉ nước xuống một cái bể con phía dưới. Nhưng ngày nay, một cái đã ngưng chảy vì tương truyền vua Thành Thái đã một lần “lỡ” chạm tay vào...
NGƯỜI QUẢNG NAM 77
Truyền thuyết này có thể xuất phát từ câu chuyện đồn đại trong dân gian về một bà phi của vua Thành Thái đã bị nhà vua... chém đứt vú! Bà này về sau là vợ của ông Tây Delorme. Trong tác phẩm Tuấn, chàng trai nước Việt nhà văn Nguyễn Vỹ ghi lại lời kể của bà. Tác giả hỏi: “Sao vua Thành Thái lại chém cái vú của bà như rứa?”. Bà đáp: “- Tại tui nè. Ngài lo việc đánh Tây. Cho nên sáng nào ngài cũng bắt cung phi cung nữ ra vườn tập trận. Ngài lịnh trồng chuối chung quanh vườn, cứ cách một khoảng trồng một cây chuối. Ngài truyền cung phi cỡi ngựa, cầm gươm, rồi phi ngựa chạy ngang qua dãy chuối. Ngài ngự nơi ghế truyền lịnh chém cây mô thì mình phải chém cây nớ. Tại con ngựa của tôi nó sợ quá, đến gần chỗ ngài ngồi là nó nhẩy vồ lên, làm tui thiếu điều cũng bổ xuống đất, tui đưa gươm ra chém cây chuối mà không trúng. Ngài nổi giận liền chạy tới đưa gươm chém vô người tui một phát lại trúng cái ngực, đứt cái vú. Tôi bổ xuống đất, máu chảy ra lai láng mà tôi không dám kêu. Rồi tui chết giấc luôn. Sau nhờ dán thuốc dán lâu ngày cũng khỏi, bây giờ thành sẹo như rứa đó” (Tác giả xuất bản năm 1969 tại Sài Gòn, tr.494). Tất nhiên, chúng ta không tin vào những lời đồn đãi đó, nhưng khó có thể không liên tưởng khi đến viếng động Huyền Không ở Ngũ Hành Sơn.
Năm 1695, nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán từ Trung Quốc qua Thuận Hóa theo lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu. Trong thời gian này ông có viết tác phẩm Hải ngoại kỷ sự rất có giá trị về sử liệu nước Đại Việt thế kỷ XVII. Có một điều thú vị là ông đã dùng từ “Quảng Nam” để chỉ địa điểm của cuộc hành trình này, thật ra phải nói là Nam hà mới đúng. Nhà sư Thích Đại Sán miêu tả vẻ đẹp của núi Tam Thai:
...
Có một động thiên thành mát mẻ
Trong nắng hè nhường thể ba đông
Cứ theo đường tắt cong cong
Đi ra sau điện quanh vòng đến nơi
Gần đến cửa có hai vách đá
Bước ngập ngừng trong dạ âu lo
Mới vô trông thấy tối mò
Nhường như ma quỷ theo dò dấu chân
Gai góc vướng áo quần lôi lại
Lá bàng khô trở ngại gót chân
Lom khom chân bước tới dần
Tầng trên như có hé vầng kim ô
Ai khéo trổ tròn vo một lỗ
Sáng như gương trên đó trống không
78 LÊ MINH QUỐC
"""