"
Người Khuyết Tật Barabbas PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Người Khuyết Tật Barabbas PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
NGƯỜI KHUYẾT TẬT
BARABBAS
Pär Lagerkvist
Making Ebook Project
BOOKAHOLIC CLUB
Tên sách: NGƯỜI KHUYẾT TẬT – BARABBAS
Tác giả: Pär Lagerkvist
Nguyên tác: Dvärgen – Barabbas
Dịch giả: Nguyễn Thái Hà & Dương Cầm
Nhà xuất bản: Hội Nhà Văn
Năm xuất bản: 2001
Số trang: 456
Khổ sách: 13 x 19 cm
Đánh máy: Minh Khuê, Lan Anh, Bảo Khanh, Trần Thị Thùy Linh, Thanh Thảo, Nguyễn Thị Thương, Quan Trường, Khánh Dư, Duyên, Cường
Soát lỗi: Duyên, Đức Nguyễn
Chế bản ebook: Hồng Sơn
Ngày thực hiện: 29/09/2012
Making Ebook Project #276 - www. BookaholicClub. com
Bạn đang đọc ebook NGƯỜI KHUYẾT TẬT – BARABBAS của tác giả Pär Lagerkvist do Bookaholic Club chế bản theo Dự án chế bản Ebook (Making Ebook Project).
Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn một tác phẩm Văn học hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lượng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến những chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lỗi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết những ebook mà đang mong muốn.
Making Ebook Project của Bookaholic Club là một hoạt động phi lợi nhuận, nhằm mục đích mang đến những chế bản ebook hay, có giá trị với chất lượng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cộng đồng đọc - người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đọc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lợi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dựng nền Văn hóa đọc.
Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách.
CUỐN SÁCH ĐƯỢC THỰC HIỆN TRONG KHUÔN KHỔ
QUỸ GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT NAM – THỤY ĐIỂN DO SIDA TÀI TRỢ
PÄR LAGERKVIST
Giải thưởng Nobel
MỤC LỤC
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ GIỚI THIỆU TÁC PHẨM NGƯỜI KHUYẾT TẬT BARABBAS
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ
Nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch Thụy Điển Pär Lagerkvist là con một công nhân đường sắt, học ngữ văn và lịch sử nghệ thuật, yêu thích văn chương và có định hướng trở thành nhà văn ngay từ thời niên thiếu, năm 1912 bắt đầu in thơ và truyện, viết báo và phê bình sân khấu. Do ảnh hưởng Thế chiến I nên các sáng tác thời kì đầu của P. Lagerkvist phản ánh tâm trạng lo âu, hoang mang, cô đơn và bất lực của con người trong thời kì đế quốc chủ nghĩa (Nỗi buồn, 1916). Năm 1925, ông cho ra đời cuốn tự truyện Người khách của thực tế mang quan điểm nhân đạo, có tính chiến đấu, được viết bằng ngôn ngữ giản dị nhưng mang tính nghệ thuật rất cao. Năm 1940, ông được bầu vào Viện Hàn lâm Thụy Điển. Tiểu thuyết Barabbas (1950) là đỉnh cao sáng tác của P. Lagerkvist, kể lại cốt truyện của Kinh Phúc Âm một cách chân thực và đầy sức thuyết phục, ngay lập tức được dịch sang chín thứ tiếng, được dựng thành phim. Năm sau, nhà văn nhận giải Nobel vì những tác phẩm mang sức mạnh nghệ thuật và những tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi muôn đời vẫn đứng trước loài người. Tiểu thuyết Barabbas là tuyệt tác của P. Lagerkvist về nỗ lực của con người tìm kiếm
đức tin, đề cập đến những vấn đề cấp thiết nhất của tồn tại con người một cách hết sức xác thực và dũng cảm.
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Barabbas (1950) là một tiểu thuyết của văn hào Pär Lagerkvist, người đoạt Giải Nobel Văn chương năm 1951. Tác phẩm thuật lại câu chuyện về cuộc đời của Barabbas, người mà Thánh Kinh cho biết đã được tha thay vì Chúa Giê-xu. Barabbas đã dùng suốt cuộc đời còn lại của mình để tìm hiểu lý do vì sao mình được chọn để sống.
Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên đồi Golgotha. Bên lề đám đông, Barabbas đứng đó. Vốn là một người bạo lực, sống ngoài vòng luật pháp và nổi loạn, Barabbas không thể nào có chút kính trọng với một người không biết phản kháng, dầu người đó đã chết thay chỗ của mình. Barabbas cũng hoài nghi về thần tánh của Chúa Giê-xu. Dầu vậy, ông cũng bị lôi cuốn về sự hy sinh của Chúa. Ông tìm gặp nhiều môn đệ khác nhau của Chúa để tìm hiểu. Tuy nhiên, những quan điểm tôn cao Chúa của họ không phù hợp với sự quan sát cụ thể của ông về Chúa. Quan trọng hơn nữa, vì Barabbas chưa bao giờ kinh nghiệm được tình yêu - vốn là nền tảng của niềm tin Cơ-đốc - nên Barabbas thấy rằng ông không thể nào hiểu được tình yêu, và do đó không thể nào hiểu được đức tin Cơ-đốc. Barabbas nói rằng ông “muốn tin”, nhưng đối với Barabbas, hiểu biết là điều kiện tiên quyết để tin, do đó ông không thể tin.
Sau nhiều thử thách gian truân, cuối cùng Barabbas đến Rome, nơi ông hiểu lầm cuộc hỏa hoạn tại Rome là khởi đầu của Thiên Đàng mới, do đó ông hăng hái giúp đám cháy lan rộng. Kết quả, ông bị bắt và bị đóng đinh cùng với những Cơ-đốc nhân khác như là những người tử đạo về một đức tin mà ông vẫn chưa hiểu.
NGƯỜI KHUYẾT TẬT
Tầm vóc của tôi cũng được với chiều cao 26 tấc Anh, khổ người tôi cân đối, duy có cái đầu hơi to. Tóc không đen như mọi người khác mà có mầu hung hung, tóc rất cứng và rất rậm được chải lật về đằng sau để lộ vầng trán rộng tuy không cao lắm. Khuôn mặt tôi nhẵn nhụi, song về mọi đặc điểm khác thì giống hệt những người đàn ông trên thế gian này. Hai hàng lông mày mọc sát với nhau. Tôi rất khỏe, đặc biệt là khi tôi nổi giận. Khi người ta tổ chức cuộc tỉ thí giữa tôi và Iosaphat thì chỉ sau hai mươi phút tôi đã vật ngã anh chàng phơi bụng và bóp nghẹt thở đối thủ. Từ đó tôi là người lùn duy nhất tại cung đình này.
Phần lớn người lùn là những anh hề. Công việc của họ là kể những chuyện tiếu lâm và làm trò để tiêu khiển cho các quý ông quý bà và khách khứa. Tôi chưa bao giờ hạ mình đến thế. Vả lại, chưa có ai lại ngỏ lời đưa ra những đề nghị tương tự như vậy với tôi cả. Vẻ ngoài của tôi đã không cho phép sử dụng tôi cho một vai trò như thế. Bộ dạng nơi tôi không phù hợp cho những điệu bộ buồn cười vui nhộn. Tôi chẳng cười bao giờ.
Tôi không phải một anh hề. Tôi là một người lùn và chỉ là một người lùn và chỉ là một người lùn mà thôi.
Thế nhưng tôi có một ngôn ngữ sắc sảo, một thứ mà có thể làm cho ai đó trong số mọi người xung quanh thấy vui vẻ. Nhưng điều ấy hoàn toàn không phải là yếu tố khiến tôi trở thành một anh hề của họ.
Tôi đã nói rằng khuôn mặt tôi y hệt mặt của mọi người đàn ông khác. Điều đó không hoàn toàn đúng vì mặt tôi nhăn nhó, đầy những nếp nhăn. Tôi không coi đó là một nhược điểm. Tôi đã được sinh thành như vậy, và tôi không để tâm nếu mọi người khác được tạo hóa sinh ra khác vậy. Khuôn mặt tôi bộc lộ tôi là con người thế nào mà không hề tô điểm và không hề làm sai lạc hay bóp méo. Có thể khuôn mặt chỉ là một cái mặt nạ, nhưng tôi thích vì mặt tôi không phải là cái mặt nạ như thế.
Vì các nếp nhăn mà tôi nom có vẻ già nua. Tôi không phải người già. Nhưng như tôi nghe nói thì những người của chúng tôi thuộc về một chủng tộc cổ xưa, hơn là những người hiện nay đang cư trú trên trái đất, và bởi thế nên người lùn chúng tôi sinh ra đã như những ông già rồi. Tôi không biết có phải thực thế không, nhưng nếu vậy thì hóa ra quyền là những kẻ đầu tiên trên thế giới này thuộc về chúng tôi. Tôi vui sướng vì tôi không phải dòng giống người khác và theo thể tạng của tôi thì điều đó thật rõ ràng.
Mọi khuôn mặt của những người khác đều hoàn toàn không biểu cảm gì hết, tôi nghĩ vậy.
Các đức ông của tôi rất có thiện cảm với tôi, đặc biệt là ngài quận công, một con người phi thường và hùng mạnh. Một con người có những ý đồ tầm xa và có khả năng hiện thực hóa chúng trong cuộc sống. Một con người hành động, đồng thời là một nhà cầm quyền có học vấn cao biết tìm đủ thời gian cho mọi việc và thích lí giải về những vấn đề khác nhau nhất. Ông khéo léo biết che giấu những ý đồ đích thực của mình trong những câu chuyện đó.
Dường như ông quan tâm tới tất cả mọi điều cùng một lúc - nếu quả thực ông có quan tâm - nhưng có thể những lợi ích của ông phải rất rộng rãi có như thế ông mới là quận công. Tôi có cảm tưởng dường như ông đã đạt được tất thảy mọi điều trên thế gian và nắm được mọi sự, hoặc bất luận thế nào thì ông cũng đang nhằm mục tiêu thực hiện được những lẽ đó. Sẽ không ai phủ nhận rằng con người ông khiến người ta phải vị nể. Ông là người duy nhất mà tôi không coi thường, khinh thị.
Ông là con người rất giả dối.
Tôi hiểu ông chủ của mình khá rõ. Nhưng tôi không thể nói rằng tôi biết ông ta cặn kẽ. Đó là một bản chất người phức tạp mà không dễ gì lí giải được. Sẽ là một sai lầm nếu khẳng định rằng ông ẩn chứa trong mình những bí ẩn đặc biệt nào đó, hoàn toàn không phải vậy, nhưng lựa được một chìa khóa để mở, hiểu hết ông tuyệt nhiên không đơn giản. Phải thừa nhận là tôi không hiểu được ông trọn vẹn và tự thân tôi cũng ngạc nhiên không rõ vì sao tôi lại luôn sẵn sàng đi theo ông ta với sự trung thành của loài khuyển như vậy. Nhưng chính ông cũng không thể hiểu được tôi.
Ông không gieo được nơi tôi sự sùng kính như ông đã khiến mọi người khác phải sùng mộ ông như thế. Nhưng tôi thích phục vụ một đức ông biết gây ra sự sùng kính. Ông là một nhà cầm quyền vĩ đại, tôi không thể phủ nhận điều này. Nhưng không ai có thể là vĩ đại dưới con mắt người lùn của mình cả.
Tôi theo ông không rời như một cái bóng.
Lệnh bà phu nhân quận công Teodora phụ thuộc tôi thật nhiều. Tôi giữ điều bí mật của bà trong tâm khảm mình. Không bao giờ, không lần nào tôi lỡ buột ra một lời nào hết. Cho dù tôi có bị tra tấn trên giá căng chân tay và có bị khảo tra bằng những đòn ghê gớm nhất thì tôi cũng không hề hé lộ điều gì hết. Vì sao vậy? Chính tôi cũng không biết. Tôi căm thù bà, tôi mong muốn bà ta chết đi cho rảnh, tôi những mong được thấy bà bị thiêu cháy trong lửa của địa ngục và ngọn lửa thiêu đốt tâm can bỉ ổi của bà ta ra sao. Tôi căm hận cuộc sống phóng đãng của bà, những bức thư tình ái không biết xấu hổ mà bà gửi qua tôi tới các tình nhân của mình, những lời lẽ nồng cháy yêu đương của bà như những hòn than hồng rực thiêu đốt lồng ngực tôi dưới lớp áo trấn thủ. Nhưng tôi sẽ không phản bội bà. Tôi thường xuyên mạo hiểm cuộc đời vì bà.
Khi bà ta gọi tôi vào phòng bà, thầm thì với vẻ tin cậy những dặn dò và đút giấu các bức thư tình trong lớp áo trấn thủ của tôi thì tôi run lên và máu giần giật trong đầu. Nhưng bà không nhận ra điều gì, thậm chí bà ta còn không hề nghĩ tới việc những công cụ bà giao có thể khiến tôi mất mạng. Mạng của tôi chứ không phải của bà! Bà chỉ tỏ vẻ nở một nụ cười khó nhận ra và phái cử tôi đi bất cứ nơi đâu bà ta cần để tôi phải đối mặt với hiểm nguy và mối đe dọa chết người. Bà không cho tôi can dự vào đời sống bí mật của mình. Nhưng bà tin tôi.
Tôi luôn luôn căm ghét các tình nhân của bà, với họ tôi những muốn lao tới và xọc dao vào mình họ để được chiêm ngưỡng dòng máu phọt ra. Đặc biệt tôi căm thù tay quý tộc Riccardo mà bà đã dan díu nhiều năm trời và chưa có ý định chia tay. Ông ta thật đáng tởm.
Đôi khi bà gọi tôi đến mà vẫn nằm trên giường, không ngồi dậy. Bà quận công không còn trẻ trung gì. Khi nằm với tư thế đó thì bộ ngực bà xệ xuống, bà lấy các thứ đồ trang sức ra khỏi cái tráp do gia nhân vừa đặt trước mặt và mân mê chúng. Tôi không hiểu làm sao có thể yêu được bà ta. Nơi bà chẳng có gì để có thể kích thích được ham muốn của đàn ông. Duy chỉ có một điều là khi xưa bà từng là người đẹp.
Bà hỏi tôi nghĩ xem bà nên đeo đồ trang sức nào hôm nay. Bà luôn luôn hỏi tôi về điều ấy. Bà thả các thứ đồ trang sức ấy lọt qua những ngón tay thanh tú của mình và uể oải trườn người dưới tấm chăn lụa dầy. Bà là một con điếm. Một con điếm trên giường nệm to và xa hoa của vương triều. Toàn bộ cuộc đời bà chìm ngập trong tình ái. Bà bỏ lọt ái tình qua những ngón tay và nhìn xem nó trôi đi với nụ cười khó nhận thấy nơi bà.
Trong những giây phút ấy bà dễ dàng rơi vào trạng thái u sầu, mà có thể chỉ đơn thuần bà giả vờ mà thôi. Bằng một cử chỉ thẫn thờ bà ướm cái dây chuyền vàng lên cổ, viên hồng ngọc to tướng lấp lánh giữa hai vầng ngực vẫn rất đẹp của bà, và bà hỏi xem tôi có cho rằng bà nên đeo nó hay không. Chăn nệm thấm đẫm mùi bà, thứ mùi khiến tôi phải buồn nôn; Tôi căm ghét bà, tôi những khát khao được thấy bà bị thiêu đốt trong đám lửa địa ngục. Song tôi đáp rằng theo tôi thì bà không nên chọn nó, thế là bà liếc nhìn tôi vẻ hàm ơn, cứ như tôi đã chia sẽ cùng nỗi khổ buồn của bà và ban tặng bà sự an ủi cho nỗi sầu muộn.
Đôi khi bà gọi tôi là người bạn độc ác của mình. Có một lần bà hỏi liệu tôi có yêu bà hay không.
Ngài quận công có biết điều gì không? Không gì hết? Hay có thể ngài biết tất cả?
Có cảm tưởng rằng hình như ngài không bao giờ nghĩ tới cuộc sống thứ hai bí mật của bà. Vả lại, ai hiểu biết được ngài vì chẳng bao giờ có thể nói được một điều gì chắc chắn về ngài cả. Đối với ngài, bà quận công chỉ tồn tại trong hiện thân của bà lúc ban ngày, bởi lẽ, chính ngài là một sinh thể ban ngày, tất cả mọi sự nơi ngài dường như đều được tỏa sáng, bởi thứ ánh sáng ban ngày rực rỡ. Duy chỉ một điều ngạc nhiên là với tôi, một con người như ngài có thể là điều bí ẩn. Chính con người ngài chứ không phải
ai khác. Có thể do tôi là người lùn của ngài. Tôi xin nhắc lại: Chính ngài cũng không hiểu được tôi. Với tôi thì lệnh bà quận công thật dễ hiểu hơn so với ngài. Tôi hiểu bà vì tôi căm ghét bà. Người mà ta không căm ghét thì ta khó lòng hiểu được, bởi lẽ ta bất lực, ta chẳng có gì để khai mở được con người đó cả.
Ngài đang trong mối quan hệ nào đó với lệnh bà quận công đây? Ngài cũng là tình nhân của bà chăng? Có thể, ngài là tình nhân đích thực duy nhất của bà? Hay là do cái lẽ ngài chẳng bận lòng với điều mà bà đang lặng lẽ bí mật quan hệ? Nhưng với tôi thì tôi căm phẫn - còn ngài thì chẳng hề hấn gì!
Tôi không đủ sức hiểu được con người điềm tĩnh này. Sự độ lượng làm tôi phát điên và thường xuyên khiến tôi mất tự chủ. Giá như ngài là một con người như tôi.
Nơi cung đình chúng tôi chen chúc đủ loại người lạ lùng nhất và vô tích sự nhất. Những nhà thông thái ngồi hàng giờ với hai tay ôm đầu, dường như bằng đôi mắt già nua, đục lờ của mình có thể theo dõi được những đường chuyển vận của các vì tinh tú vốn được tin rằng đang xác định nên mọi số phận con người. Những kẻ ăn không ngồi rồi và những tên bợm đãi suốt bao đêm ròng ngâm ngợi cho các Lệnh bà của vương triều nghe những dòng thơ não nuột, và lúc bình minh người ta thấy những kẻ ấy thõng thượt dưới rãnh hào, có lần một người trong số họ bị đâm chết tươi ngay con hào, có một gã khác bị quất roi nhừ tử do đã viết những bài thơ tục tằn về vũ công Morosenli. Những tay họa sĩ có cuộc đời phóng đãng và bôi đầy nhà thờ bằng những hình vẽ thánh tráng lệ. Những tay kiến trúc sư và thợ vẽ giờ được giao nhiệm vụ thiết kế một tháp chuông[1] mới tại đại giáo đường. Những nhà chiêm tinh và đám bịp bợm đủ loại nữa. Tất cả đám người vô công rồi nghề này xuất hiện rồi biến đi khi ngài xuất thần nghĩ ra các ý mới, còn một số người được cư ngụ ở đây lâu như thuộc hạ thân tín, tất cả những người này không trừ một ai đều được thụ hưởng lòng mến khách của ngài quận công.
Không hiểu ngài cần đến lũ ăn bám đó để làm gì. Và cũng hoàn toàn không tài nào hiểu nổi làm sao ngài có thể hàng giờ ngồi nghe những câu
chuyện tầm phào ngu độn của lũ họ. Hơn nữa, ngài lại còn có thể suốt giờ đồng hồ nghe những gã thi sĩ, những kẻ cũng chỉ là đám hề mà thôi, mà ở mọi triều đình, các bậc vương giả đều di dưỡng đám thi sĩ như thế. Họ ca ngợi sự thanh khiết và cao cả của tâm hồn con người, những sự kiện vĩ đại và những chiến công anh dũng. Không khí càng thêm nghiêm trang đặc biệt khi họ xu nịnh chủ nhân của mình trong những vần thơ hết sức vớ vẩn. Sự nịnh nọt cần thiết cho con người bởi nếu không thì con người ấy không thể trở thành cái mà anh ta vốn có sứ mạng phải trở thành, điều mà không có được ngay trong thiển nghĩ của chính anh ta. Cả trong hiện tại lẫn trong quá khứ đều có thể tìm được không ít cái đẹp và cái cao thượng vốn có được là nhờ phải trở nên đẹp và cao thượng, tức là những điều đã được các nhà thơ ngợi ca. Họ ca tụng tình yêu trước hết, điều đó là đúng bởi tình yêu lớn lao hơn hết thảy và cần có để người ta hình dung, không phải như nó vốn có ngoài đời thực. Các quý bà lập tức trở nên buồn, ngực họ thổn thức vì hơi thở, các quý ông bắt đầu có cái nhìn siêu thoát, mơ mộng bởi vì tất thảy bọn họ đều hiểu rõ sự thể của tình yêu là thế nào trên thực tế, và như họ biện luận, điều này có nghĩa rằng thực sự thơ đã là cái đẹp rồi. Tôi cũng hiểu rằng, phải có các họa sĩ đặng có thể sáng tác cho dân thường bằng nguệch ngoạc diễn hình các thánh để thứ dân có người mà thờ phụng, con người chẳng nghèo kiết như ăn mày và bẩn thỉu như chính họ; ấy là những điển hình đẹp đẽ các thánh tử vì đạo được ban thưởng nơi thiên đường, bận những bộ xiêm y quý giá và mang vầng hào quang bằng vàng trên đầu để mọi người tin rằng, họ cũng sẽ được ân thưởng khi họ chịu hết cuộc đời trần thế đã được phó thác cho họ. Và những điển hình ấy đã trực quan phô diễn cho đám tiện dân thấy rằng chúa trời của họ bị đóng đinh câu rút, rằng người ta đã đóng đinh người lên thập giá khi người đang gắng sức thực hiện lẽ gì đó trong cuộc đời này, và rằng hóa ra là họ chẳng nên hi vọng gì trên trần thế tội lỗi này. Những gã thợ thủ công thô lậu kiểu đó cần cho bất cứ vị quân vương nào, điều này thật dễ hiểu, song tôi chỉ không tường là họ làm gì trong khu lâu đài này. Họ đang xây dựng cho con người ta một chốn nương thân, một ngôi đền, một nhà ngục được sơn mầu đẹp đẽ, nơi có thể bước vào, vào bất cứ lúc nào để có được sự an tĩnh trong tâm hồn. Nơi ấy chúa trời của họ đã ở trên cây thập giá từ lâu và thật kiên nhẫn. Tôi đều hiểu tất cả những điều đó bởi lẽ chính tôi cũng là tín đồ Kytô giáo. Cũng được rửa tội theo đức tin như họ vậy. Lễ rửa tội này có một sức mạnh thực sự mặc dầu người ta làm lễ rửa tội cho tôi chỉ là vì đùa cợt: Vào lễ hôn phối của công tước Gonzago lấy lệnh bà Elena, tôi được người ta đưa đi làm lễ
rửa tội tại bình lễ của cung đình tựa hồ tôi là con đầu lòng của họ vậy, điều đó giống như một cô dâu đẻ đúng vào ngày cưới, và tất cả mọi người rất ngạc nhiên. Tôi nhiều lần được nghe nói người ta kể về chuyện đó cứ như về một điều lí thú kì dị, vả lại sự việc đã xảy ra như vậy, bản thân tôi có thể khẳng định điều này bởi vì tôi tròn mười tám tuổi khi điều đó xảy ra, tức là lúc ngài quận công đã dùng tôi để cho họ mượn nhân buổi lễ ấy.
Nhưng tôi thực sự không hiểu lẽ làm sao có thể suốt hàng giờ đằng đẵng cứ ngồi và nghe những kẻ luận giải về ý nghĩa của cuộc đời. Nghe những triết gia cùng những biện giải cao siêu về sự sống cái chết, về những vấn đề vô cùng đa dạng và vĩnh hằng, đủ thứ bịa đặt tinh quái về đức hạnh, danh dự và tinh thần hiệp sĩ. Nghe những kẻ vốn tưởng tượng dường như thấu hiểu lẽ gì đó về những vì sao, những kẻ vốn nghĩ rằng có tồn tại mối liên hệ nào đó nhất định giữa các thiên thể và những số phận con người. Họ đã báng bổ thánh thần, mặc dầu tôi không biết, vả chăng cũng chẳng muốn biết sự báng bổ của họ chính là điều gì. Họ là những chàng hề, mặc dầu chính họ cũng không hồ nghi gì về điều ấy, hơn nữa, chẳng có ai nghi ngờ gì hết, không ai cười nhạo họ, những chuyện bịa đặt của họ không làm tiêu khiển được ai cả. Tại sao người ta lại lưu giữ họ trong cung đình thì chẳng ai biết cả. Nhưng nghĩ quận công vẫn nghe họ nói, dường như nơi những lời của họ tiềm ẩn một ý nghĩa gì đó, ông ngồi và vân vê chòm râu với vẻ trầm ngâm và sai tôi rót rượu cho họ vào những chiếc cốc bạc giống hệt như chiếc cốc của ông đang uống. Duy thỉnh thoảng họ cười nếu có ai đó đặt tôi ngồi lên gối của ông ta để tôi dễ bề rót rượu cho họ.
Ai có thể biết được lẽ gì đó về các vì sao? Ai có khả năng lí giải được những lẽ huyền bí của chúng? Chẳng lẽ lại là những kẻ rỗi rãi vô công rồi nghề này chăng? Họ tưởng tượng cứ như có thể hầu chuyện với Vũ trụ và sung sướng vì nhận được những câu trả lời thông thái. Họ giở tung những tấm bản đồ của họ vẽ bầu trời sao và đọc bầu trời như đọc sách vậy, chỉ có điều là quyển sách ấy là do chính họ viết và các vì sao chuyển vận theo những con đường bí ẩn của chính họ, thậm chí họ chẳng hề hồ nghi về những gì đã được nói lên nơi quyển sách ấy.
Tôi cũng đọc những điều viết trong sách Bóng Đêm. Nhưng tôi không định luận giải ý nghĩa. Tôi chỉ phân biệt chữ nghĩa, nhưng tôi hiểu những
chữ nghĩa ấy, không thể lí giải được và suy nghĩ ấy chính là lẽ thông thái của tôi.
Họ ngồi suốt đêm thâu trong tòa tháp, tòa tháp tây của lâu đài, với đủ loại ống nhòm và máy đo góc, rồi họ tưởng tượng như đang giao tiếp với vũ trụ. Còn tôi ngồi trong tòa tháp đối diện nơi có các phòng dành cho người lùn, và là nơi tôi sống một mình. Trần nhà thấp, tuy nhiên lại hợp với chúng tôi, còn các ô cửa sổ thì bé như lỗ châu mai. Trước đây đã có rất nhiều người lùn sống ở tòa tháp này, họ được tập trung từ mọi nơi, từ những xứ sở xa xôi, từ tận quốc gia của người Môrơ; đó là những quà tặng của các vị quận công, các vị giáo hoàng và các vị hồng y giáo chủ, hay họ là một món hàng sống, mà trường hợp như vậy không phải là hiếm. Nhưng người lùn chúng tôi không có nơi chôn nhau cắt rốn, không có cha lẫn mẹ, chúng tôi đến thế giới này một cách bí mật vì được sinh ra từ những người lạ, bất kì ở nơi đâu, cho dù là gốc gác từ ai đi chăng nữa, có thể chúng tôi được ra đời trong những gia đình nghèo kiết nhất, song giống người lùn chúng tôi không hề tuyệt chủng. Khi những bậc cha mẹ ngẫu nhiên của chúng tôi phát hiện rằng họ đã cho ra đời một sinh thể thuộc loài người lùn thì họ bán chúng tôi cho các đức ông đầy quyền lực để chúng tôi giải trí cho họ bằng sự quái dị của mình và làm các anh hề cho họ. Điều đó cũng đã xảy ra với tôi. Tôi đã bị mẹ tôi bán đi, bà đã chối bỏ tôi với vẻ ghê tởm sau khi thấy bà đã sinh hạ một thứ gì bà không thể ngờ được rằng tôi là hậu duệ của một loài giống xa xưa nhất. Bán tôi đi bà nhận được hai mươi escudo và bà dùng số tiền đó mua được số vải đủ may cho mình một chiếc áo váy và một con chó đực canh giữ đàn cừu của bà.
Tôi ngồi bên cạnh ô cửa sổ bé lùn và nhìn vào bóng đêm vẻ thăm dò như những nhà chiêm tinh khảo cứu sao trời kia. Tôi không cần ống nhòm, với tôi thì cũng đủ sáng suốt và rõ ràng mà chẳng cần đến phương tiện nào. Tôi cũng đang đọc mọi sự trong Quyển Sách Bóng Đêm.
Có một lời giải thích rất đơn giản cho thấy vì sao ngài quận công lại quan tâm đến thế tới các nhà bác học, các nhà họa sĩ, các nhà triết học, các nhà chiêm tinh. Ông muốn cung đình của mình nổi danh khắp thế giới, còn chính ông sẽ xứng đáng được hưởng vinh dự và sự thừa nhận của mọi người. Ấy là một ham muốn hoàn toàn dễ giải thích: như tôi biết thì tất cả mọi người đều hết sức nỗ lực vươn đạt tới điều đó.
Tôi biết ông ta rất rõ và hoàn toàn đồng ý với ông.
Viên tư lệnh[2] Boccaroza đã vào thành và hạ trại cùng tùy tòng ở lâu đài Greran đi vốn đã bị trống rỗng kể từ thời gia đình này bị xua đuổi. Ông ta tới thăm ngài quận công trong vài giờ không ai được phép có mặt trong cuộc viếng thăm đó.
Đó là một viên tư lệnh vĩ đại và vinh quang.
Mọi công việc tại công trường xây dựng tháp chuông đã bắt đầu, chúng tôi đã có mặt ở đó và theo dõi công tác tiến triển ra sao. Tòa tháp chuông sẽ cao hơn hẳn vòm nhà thờ, khi những chiếc chuông được đánh lên thì tiếng chuông sẽ vang vọng như từ vòm trời xuống. Một ý tưởng tuyệt vời, nó đích thực xứng đáng được gọi là một ý tưởng. Những chiếc chuông này sẽ cao hơn tất thảy mọi chiếc chuông khác ở nước Ý.
Ngài quận công rất mê say với công trình xây dựng mới, điều này cũng dễ hiểu thôi. Ông đã xem xét lại tại công trường những bản phác thảo và rất mãn nguyện với những bức phù điêu mô tả những cảnh đời của chúa trời bị đóng đinh thập giá mà lúc này được trang trí cho phần bệ của tháp chuông. Tuy vậy công việc hiện thời chưa tiến xa hơn thế.
Có thể người ta sẽ chẳng bao giờ kết thúc việc xây dựng ngọn tháp chuông này. Nhiều công trình do ngài quận công của tôi đề xướng đã không bao giờ kết thúc. Đó là những phế tích đẹp đẽ của những ý đồ vĩ đại. Những đài kỉ niệm người tạo nên ý đồ, tôi không bao giờ phủ nhận điều cho rằng ông là một nhà cầm quyền vĩ đại. Mọi người đều ngước nhìn lên, nhìn ông, chẳng ai nhận ra tôi cả. Nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa gì hết. Họ cung kính chào ông dường như ông là một sinh thể cao cấp hơn họ, nhưng chỉ là do tất thảy họ là một bè lũ nô lệ, hèn nhát chứ tuyệt không phải họ thực sự yêu mến hay kính trọng ông như ngài quận công vẫn nghĩ. Tôi chỉ cần xuất hiện một mình trong thành thì người ta lập tức nhận ra tôi và hò hét sau tôi đủ những lời cay độc: “ấy kìa gã lùn anh dũng! Đá cho gã một cái - đá cả ông chủ của gã nữa nhé!”. Dĩ nhiên họ không dám thực sự làm điều đó, tuy nhiên họ ném vào tôi, từ phía sau, nào là những con chuột chết và đủ loại
thối tha lấy từ thùng rác. Khi tôi nổi giận và rút gươm ra thì cười sằng sặc trêu trọc tôi: “Ôi chao, ông lớn của bọn ta hùng mạnh làm sao!” - họ kêu, họ gào như vậy. Tôi không thể tự vệ được vì thứ vũ khí của chúng tôi khác của họ. Tôi buộc phải thoát thân bằng chạy trốn, cả người từ đầu đến chân lấm bê bết đủ thứ rác rưởi.
Người lùn luôn luôn biết về mọi lẽ nhiều hơn ông chủ của mình.
Phải thừa nhận rằng tôi tuyệt không phản đối việc chịu đựng thay cho ngài quận công của mình. Cuối cùng, sẽ là thừa nếu chứng minh rằng tôi là một phần của ông chủ và trong nhiều trường hợp, tôi đại diện cho tư cách cao cả của riêng ông. Đám dân đen dốt nát và nhiều quần thần hiểu rằng, người lùn của ông chủ về thực chất là chính ông ta như tòa lâu đài với những ngọn tháp, đó chính là ông ta, như triều đình với mọi sự xa hoa, tráng lệ, là chính ông ta, với tên đao phủ chặt đầu người trên quảng trường, với ngân khố đầy vàng bạc châu báu, với viên giám hộ trưởng phân phát bánh mỳ cho dân nghèo vào thời buổi đói kém - tất cả những hình tượng ấy là chính ông ta… Người ta cảm nhận thấy tôi như sự đại diện cho một quyền lực lớn đến thế nào. Và tôi luôn luôn nếm trải sự thỏa mãn khi nhận thấy người ta căm thù tôi.
Tôi cố gắng phục sức cùng loại vải, cùng kiểu may như ngài quận công. Khi ông may quần áo thì những phần vải còn thừa được dùng cho tôi. Tôi luôn đeo thanh gươm bên đùi như ngài quận công, duy thanh gươm đó ngắn hơn. Nếu chăm chú nhìn thì thấy bộ điệu nơi tôi cũng kiêu hãnh như ông ta.
Nói chung tôi rất giống ngài quận công, chỉ có điều thấp hơn rất nhiều. Nếu nhìn tôi qua kính viễn vọng như những anh hề ở tháp phía tây dõi nhìn theo những vì sao, có thể nghĩ rằng tôi chính là ngài.
Có sự khác biệt lớn giữa trẻ con và người lùn. Họ có tầm vóc như nhau nên người ta nghĩ rằng họ giống nhau. Còn thực tế họ chẳng giống nhau chút nào. Người ta hay bắt người lùn chơi với trẻ con mà không hiểu rằng người lùn hoàn toàn trái ngược với chúng, rằng lúc sinh ra họ đã là những người già. Lúc nhỏ, như tôi được biết, người lùn không bao giờ chơi. Mà họ chơi để làm gì khi khuôn mặt già nua nhăn nheo của họ chẳng hợp với tuổi
thơ chút nào. Nếu bắt chúng tôi chơi thực sự là sự xúc phạm. Tuy nhiên người ta không bao giờ hiểu ra điều đó.
Các quý ngài không bao giờ bắt tôi chơi với quý cô Angelica. Nhưng cô lại bắt tôi chơi. Tôi không muốn nói rằng cô làm điều ấy vì có ác ý gì. Nhưng khi hồi tưởng lại thời đó, đặc biệt những năm đầu tuổi thơ của cô, tôi bắt đầu cảm thấy rằng người ta cố ý đầy đọa tôi bằng sự ác độc tinh vi nào đó. Đứa trẻ có đôi mắt xanh tròn, chiếc miệng nũng nịu làm người khác rất thích thú nhưng lại làm tôi khổ sở hơn bất cứ người nào trong đám tôi tớ. Chẳng ngày nào thoát được, từ sáng sớm nó đã dính trên lưng tôi (lúc đó nó chỉ mới biết đi) y hệt con mèo tha con chuột. “Anh lùn, có muốn chơi với bọn em không?”. Tôi trả lời: “Tôi không thể. Tôi có những việc trọng đại hơn. Hôm nay tôi chẳng có lúc nào để chơi cả!” - Thế hôm nay anh sẽ làm gì?” - cô bé đốp ngay. “Bé con không thể hiểu được”, - tôi trả lời. “Nhưng anh phải ra ngoài, không nên ngủ cả ngày! Em dậy từ lâu từ lâu rồi” Và tôi đành đi với nó, không dám từ chối vì sợ ông bà chủ mặc dù trong lòng tức sôi lên. Nó nắm tay tôi cứ như tôi là bạn của nó. Một thói quen ngu ngốc! Tôi không thể chịu được bàn tay nhớp nháp của trẻ con. Tôi tức giận xiết nhặt ngón tay, nhưng con bé vẫn bám nhằng nhẵng, kéo tôi đi khắp nơi, luyên thuyên luôn miệng. Nó dẫn tôi đến chỗ những con búp bê để cho ăn và trang điểm cho chúng, đến cả chỗ những con chó chưa mở mắt còn đang ngọ nguậy trong chuồng ở vườn hồng. Như các ngài thấy đấy, dứt khoát chúng tôi phải chơi với con mèo con, con bé thích chọc quấy tất cả những con vật, nhưng không phải những con lớn mà thích quấy quả tất cả những con vật nhỏ. Con bé có thể chơi mãi với mèo con và cho rằng tôi cũng thế. Con bé nghĩ tôi cũng là đứa trẻ, mà trẻ con thì cái gì cũng thích. Còn tôi thì thế đấy! Tôi chẳng vui thú cái gì!
Quả thật, đôi khi nó cũng sáng ý bỗng dưng nhận thấy tôi bị khổ sở và bực bội. Nó ngạc nhiên nhìn tôi, nhìn vào khuôn mặt nhăn nheo già nua của tôi: “Tại sao anh không thích chơi?” và không nhận được lời đáp lại nào từ đôi môi mím chặt, từ đôi mắt lạnh lùng dạn dày kinh nghiệm từ hàng ngàn năm của tôi. Nó nhìn tôi một cách mới mẻ, sợ sệt trong khái niệm con trẻ thơ ngây và ngừng nói một lúc.
Trò chơi là cái gì? Một sự bát nháo vô ích, vờ vịt… chẳng với cái gì. Người ta coi chúng không phải đúng như sự hiện hữu của chúng mà là một
cái gì rất không nghiêm túc. Các nhà chiêm tinh đùa cợt với các ngôi sao, quận công cợt nhả với các công trình, với các nhà thờ, những bức phù điêu và những tháp chuông. Angelica chơi trò búp bê - Tất cả đều đùa cợt, đều vờ vịt. Mình tôi khinh bỉ sự vờ vịt ấy. Mình tôi sống nghiêm túc.
Một hôm tôi lặng lẽ đến chỗ con bé nằm cạnh con mèo, dùng dao găm đâm vào đầu con mèo. Rồi tôi quẳng con mèo qua cửa sổ vào đống rác. Tôi điên khùng đến nỗi hầu như không nhận ra mình đang làm gì. Nghĩa là tôi có ý thức rất rõ về việc mình làm. Tôi chuẩn bị thực hiện kế hoạch đã chín muồi từ lâu trong những giờ chơi những trò gớm ghiếc ở vườn hồng. Con bé không thể nào yên khi thấy con mèo biến mất; Còn khi mọi người nói có lẽ nó chết rồi, con bé lên cơn sốt cao và ốm lâu đến nỗi tôi không gặp được nó nữa. Cuối cùng lúc nó bình phục có lẽ tôi phải nghe một câu chuyện buồn vô cùng thê thảm về số phận của con vật yêu quý, về sự biến mất khó hiểu của nó. Tất nhiên chẳng ai vò đầu, bứt tai về chuyện con mèo biến đâu mất. Nhưng cả triều đình sợ chết khiếp vì trên cổ con bé có những vết máu mà theo nhiều người có thể là điềm gở. Người ta thường thích thú tìm kiếm tất cả các điềm báo.
Tôi chẳng lúc nào được yên sống những năm tháng thơ ấu của cô bé nếu trò chơi không biến đổi cùng thời gian. Con bé lúc nào cũng quấy nhiễu, làm tôi phát ngán với những bí mật và sự thân thiện của nó, mà tôi đâu có cần những thứ ấy. Đôi khi tôi nghĩ có thể lí giải việc con bé quấn quýt tôi cũng giống như quấn quýt những con mèo con, chó con, vịt con, và với tất cả những gì bé nhỏ khác. Cũng có thể con bé không thể hòa hợp được với thế giới của những người lớn tuổi, có thể còn sợ sệt hay hoảng sợ một cái gì đấy. Nhưng việc đó có liên quan gì đến tôi? Con bé cảm thấy đơn côi thì tôi còn có thể giúp nó được một cái gì. Đằng này nó đeo đẳng tôi và không thể dứt ra được kể cả lúc chẳng còn bé bỏng gì. Cô vẫn cứ chơi, tất cả mọi người đều chơi khi bà quận công chẳng còn bận tâm đến cô nữa vì cô chẳng còn là búp bê của bà; quận công hiển nhiên có đầy những mối quan tâm khác. Cũng có thể vì lí do khác mà chẳng bận tâm đến. Nhưng đến đây tôi đành nín lặng.
Chừng mười, mười hai tuổi cô bắt đầu ít nói, tự thu mình lại và cuối cùng tôi được giải thoát khỏi cô. Từ đó, ơn trời, cô để tôi yên và cô sống
theo ý của mình. Nhưng đôi khi đến giờ tôi vẫn giận sôi lên, nhớ lại tôi đã phải chịu đựng cô đến chừng nào.
Giờ thì cô hoàn toàn là một thiếu nữ, cô tròn mười lăm tuổi và sắp tới có lẽ người ta sẽ nhìn cô như nhìn một quý bà. Nhưng tới giờ cô cũng còn rất trẻ con và xử sự hoàn toàn chẳng giống một tiểu thư khuê các. Chẳng rõ ai là cha của cô, dĩ nhiên cũng có thể là ngài quận công, nhưng không loại trừ cô mang dòng máu pha tạp. Và khi đó mọi người hoàn toàn chẳng cần cư xử với cô như tiểu thư con nhà quận công. Một số người nói cô rất đẹp. Còn tôi chẳng thấy có nét nào đẹp trên khuôn mặt rất đỗi trẻ thơ với chiếc miệng hé mở và đôi mắt to tròn chẳng chút lanh lợi.
Tình yêu đã chết. Và khi chết thì bắt đầu phân hủy, thối rữa và cũng có thể hình thành mầm mống cho một mối tình mới. Nhưng mối tình đã chết đó thực chất vẫn còn duy trì sự tồn tại vô hình trong con người ta. Tình yêu không biết đến cái chết.
Phu nhân quận công đến với niềm tin ấy. Theo như tôi hiểu bằng chính kinh nghiệm của mình và bà đắp xây hạnh phúc bằng chính niềm tin đó. Chẳng có gì nghi ngại rằng bà hạnh phúc. Bằng cách của mình bà đã làm cho tất cả những người khác cũng hạnh phúc. Và hiện tại con người hạnh phúc là ngài Riccardo.
Có thể ngài quận công cũng hạnh phúc lắm chứ! Ngài hạnh phúc vì những cảm xúc ngài dấy lên trong lòng phu nhân vẫn còn sống động trong sự tưởng tượng của ngài. Ngài giả bộ như vẫn còn tình yêu. Cả hai đều đóng kịch.
Ngày trước phu nhân quận công đã từng có người tình, người mà bà đã tra khảo vì đã thay lòng đổi dạ. Bà sắp xếp mọi việc để quận công không ngờ vực gì khi xét hỏi người tình của bà những tội lỗi mà người ấy chẳng bao giờ nghĩ đến là có thể làm. Chỉ có duy nhất tôi hiểu toàn bộ sự thật. Và tôi có mặt trong tất cả các cuộc tra hỏi để sau đó kể lại cho bà việc người tình của bà chịu đựng thế nào. Ông ta xử sự chẳng quân tử chút nào, hệt như tất cả những người tầm thường khác.
Cũng có thể ông ta là cha cô bé. Ai mà biết được.
Cũng chẳng loại trừ có khi là ngài quận công. Quận công phu nhân ra sức phỉnh nịnh rằng tình yêu của họ sống lâu hơn cả mùa xuân. Đêm đêm bà ôm ấp ông, dâng hiến ông thứ tình cảm giả dối, thèm khát cháy lòng người tình cũ. Bà ve vuốt chồng như tìm thấy gã tình nhân bị tra khảo. Và ngài quận công cũng âu yếm lại như những ngày đầu hương lửa cháy nồng của họ. Tình yêu đã chết được sống lại một cách diệu kì.
Thứ bảy hàng tuần cha tinh thần của quận công phu nhân đến vào giờ định trước. Trước khi người đến phu nhân đã dậy mặc quần áo, chải đầu và khoảng hai tiếng quỳ trước tượng chúa bị đóng đinh câu rút. Bà đã sẵn sàng cho buổi xưng tội.
Bà chẳng có gì để thú tội. Bà không lừa dối, không làm trái lương tâm. Ngược lại, tự đáy lòng mình bà nói rất chân thành. Bà không biết đến tội lỗi. Bà chẳng thấy có hành động nào xấu xa sau lưng bà. Chẳng lẽ lại bực bội khi cô hầu gái ghim tóc không khéo. Bà thật trong sạch như một trang giấy trắng và cha tinh thần mỉm cười, cúi xuống bà như cúi xuống một cô gái đồng trinh.
Sau khi đọc kinh, sau khi nói với tượng chúa, ánh mắt bà trở nên trong sáng, lấp lánh. Chúa trên cây thánh giá sẽ chịu khổ thay cho bà và tâm hồn bà được gột sạch những nhuốc nhơ, khái niệm về tội lỗi cũng mờ dần. Bà cảm thấy mình mạnh mẽ hẳn lên, dường như trẻ ra, đồng thời tràn đầy niềm sùng kính và cuốn hút đến nỗi trông bà với khuôn mặt không hề trang điểm rất hợp với bộ đồ đen. Bà ngồi vào bàn và viết cho người tình về tâm trạng của bà hôm đó. Bức thư thắm thiết tình chị em, chẳng có từ nào về tình yêu hay hò hẹn. Với tâm trạng đó bà không thể chịu được những lời bóng gió dù chỉ thoảng qua về sự trăng gió của mình. Tôi mang thứ ấy cho người tình của bà.
Chẳng nghi ngại gì rằng bà là con chiên ngoan đạo thực sự. Tín ngưỡng đối với bà là một cái gì đó vô cùng hệ trọng. Bà cần tín ngưỡng và bà cũng lạm dụng điều đó. Tín ngưỡng - đó là một phần trái tim bà, một phần linh hồn bà.
Ngài quận công có phải là người mộ đạo không? Thật khó nói. Xét một góc độ nào đó, tất nhiên, là có bởi vì ngài hài hòa mọi thứ và có mọi thứ. Tất cả cái đó có thể gọi là tín ngưỡng không? Ngài thích trên đời có cái gọi là tín ngưỡng. Ngài thích nghe nói về nó, nghe những cuộc tranh luận thần học đầy lí thú. Chẳng lẽ những cái gì đó rất ngược lại xa lạ với người? Ngài rất thích tranh thánh trong cung đình và tranh Đức mẹ của những họa sĩ nổi tiếng, cả những điện thờ uy nghi do chính ngài xây dựng. Tôi chẳng biết có nên gọi đó là tín ngưỡng không? Nhưng có thể lắm chứ. Nếu như nói về ngài như nói về một quốc vương thì hiển nhiên ngài là người trung thành với tôn giáo. So với đức tin ngài chẳng kém phần chân thực. Ngài thấu hiểu nhu cầu tín ngưỡng của dân chúng, thừa hiểu cần phải đáp ứng khát vọng đó và cánh cửa nhà ngài luôn rộng mở cho tất cả những ai muốn thỏa mãn ước muốn này. Tổng giám mục và các cha cố tấp nập lui tới nhà ngài. Nhưng ngài có phải là người mộ đạo hay không - đó là một chuyện khác. Đến đây tôi lại lặng im. Song về phần phu nhân, tôi nhắc lại, chẳng hề phải nghi ngờ - dĩ nhiên bà thực sự là người mộ đạo.
Cũng có thể cả hai đều sùng đạo, mỗi người theo một cách riêng.
Nói chung, thế nào là tín ngưỡng? Tôi suy nghĩ rất nhiều, nhưng thật vô ích.
Tôi đặc biệt suy nghĩ nhiều về tín ngưỡng vào dịp lễ hội hóa trang vài năm trước. Tôi được cắt cử hầu Đức hồng y rửa tội ở cung đình cho tất cả những người lùn được quốc vương mang đến với đầy đủ lệ bộ.
Chúng tôi tụ tập quanh bàn thờ nhỏ ở một trong những phòng của cung điện. Xung quanh chúng tôi là những vị khách nhếch mép cười mai mỉa, tất cả những hiệp sĩ, những quý ông, quý bà, những người hói đầu trong bộ quần áo vui nhộn. Tôi nâng cao thánh giá và tất cả bọn người lùn quỳ xuống. “Đây là người cứu khổ cứu nạn của các người, - tôi nói oang oang như sấm, nhìn bọn họ bằng cái nhìn rực lửa, - Đó là người cứu nạn của tất cả người lùn và cả người lùn của quận công Ponti Pilat cũng bị đóng đinh câu rút trên cây thánh giá nhỏ xíu để tất cả mọi người được vui sướng, bằng an”. Tôi cầm chiếc chén và đưa lên trước mặt họ: “Đây là máu của người lùn mà có thể gột sạch mọi tội lỗi và tất cả những hồn ma bóng quỷ đều trở thành trong trắng như tuyết.” Tôi cầm bánh thánh, giơ cho họ xem và cắn
trước mặt họ một miếng rồi chỉ uống một ngụm nước như phong tục vẫn làm đồng thời giải thích cho họ ý nghĩa thiêng liêng thần thánh: “Tôi ăn thân thể dị dạng của người.” Mùi vị của nó đắng như mật vì được đúc kết từ lòng thù hận. Các người hãy nhận lấy và ăn đi! Tôi uống máu của người, và bầu máu ấy được ngọn lửa bất diệt hun đốt. Dường như tôi nếm thử chính dòng máu của mình.
Người cứu rỗi linh hồn của tất cả người lùn! Ngọn lửa của người thiêu cháy toàn thế giới!
Và tôi rảy rảy rượu vào những người ngồi quanh. Những đôi mắt xúc động, bợt bạt nhìn chúng tôi.
Tôi không phải là kẻ báng bổ. Họ mới là kẻ báng bổ, không phải tôi. Thế mà quận công ra lệnh cùm tôi vài ngày. Mọi người, ngài nói, muốn vui vẻ, vô tư, còn tôi lại phá hỏng mọi thứ và chủ tâm làm tất cả sợ hãi và tức giận. Chiếc cùm hợp chân tôi không có nên đành phải rèn riêng. Gã thợ rèn cứ lầu bầu nói rằng quá bận bịu vì hình phạt chết tiệt này. Nhưng ngài quận công nói rằng chiếc cùm đó còn có lúc cần đến. Nhưng ngài thả tôi rất sớm, sớm hơn cả hạn định và tôi cảm thấy ngài phạt tôi chỉ để lấy lòng khách mà thôi. Họ vừa đi khỏi là ngài thả tôi ngay. Lúc đầu ngài nhìn tôi một cách e dè, tránh ở lại một mình với tôi. Tôi có cảm giác ngài hơi sợ tối.
Những người lùn dĩ nhiên chả hiểu tí gì. Họ cứ lăng xăng dáo dác như những con gà, kêu the thé bằng cái giọng hoạn quan đáng ghét. Tôi biết vì sao giọng họ nực cười, còn giọng tôi trầm và khỏe đến thế. Họ là hoạn quan, là nô lệ cả phần xác lẫn phần hồn. Phần lớn họ là những chú hề nhục mạ dòng giống bằng những lời ngu xuẩn diễu cợt chính thân thể mình.
Ôi cả một giống người bị nhục mạ. Để khỏi phải thấy họ trước mặt mình, tôi tìm cách sao cho quận công lần lượt bán họ. Cuối cùng còn lại mỗi mình tôi. Tôi sung sướng vì những phòng dành cho người lùn sạch trơn và trống rỗng. Đêm đêm tôi có thể bình yên đắm chìm trong suy tưởng. Tôi cũng vui vì Ioxaphat cũng không còn, rằng tôi không phải thấy bộ mặt già nua tội nghiệp và nghe giọng the thé của ông. Tôi mãn nguyện vì chỉ còn có mình tôi.
Có những khi đành phải căm ghét ngay chính dân tộc mình. Tôi ghét chính đồng bào mình.
Nhưng tôi căm ghét cả bản thân mình. Tôi ăn thân thể đầy mật đắng của mình. Tôi uống dòng máu bị đầu độc của mình. Hàng ngày tôi thầy tu tối cao ghê gớm của giống nòi tôi - làm lễ dâng hiến những điều bí mật thiêng liêng.
Sau sự cố đó quận công phu nhân xử sự rất lạ lùng. Vào buổi sáng tôi được tha bổng bà gọi tôi tới chỗ mình, và khi tôi bước vào phòng ngủ, bà im lặng nhìn tôi đăm chiêu, dò hỏi. Tôi chờ đợi lời quở trách và cũng có thể là một hình phạt mới. Cuối cùng bà thú thực rằng buổi lễ thánh của tôi có ấn tượng rất sâu sắc đối với bà. Buổi lễ này có một điểm gở, đáng sợ xáo trộn tất cả tâm can bà. Không hiểu làm sao tôi có thể soi rọi, làm xao động những gì thầm kín nhất của bà.
Tôi chẳng hiểu gì cả. Tôi nhếch mép cười nhân lúc bà nằm trên giường lặng im, hững hờ nhìn tôi bằng cái nhìn trống rỗng.
Bà hỏi tôi bị căng ra như chúa Giê su trên cây thánh giá là như thế nào? Có phải người ta dùng roi quất, làm đau đớn, hành hạ cho đến chết? Và bà nói bà thừa biết chúa Giê su căm ghét bà, chúa phải căm thù lắm sau khi người đã chịu đựng những đớn đau đó vì bà.
Tôi muốn trả lời, còn bà cũng ngừng câu chuyện và nằm im lặng rất lâu, hờ hững nhìn vào khoảng không.
Sau đó bà nhẹ nhàng giơ cánh tay xinh đẹp của bà lên ý nói mọi chuyện hôm nay thế là đủ và gọi người hầu gái mang cho bà bộ vá áo màu đỏ sẫm. Đã tới lúc bà phải dậy.
Suốt ngày hôm ấy tôi không hiểu cái gì đã đến với bà.
Tôi nhận thấy đôi khi tôi làm người ta sợ hãi. Nhưng người ta thực chất lại sợ chính bản thân mình. Họ cho rằng tôi gây ra sự sợ hãi cho họ, còn thực tế trong con người họ còn có một con quỷ lùn, một quái vật hình người, mõm khỉ đã rúc đầu vào tận ngóc ngách tâm can họ. Họ sợ vì họ
không biết trong họ còn có một sinh vật khác. Nói chung họ luôn luôn sợ vì đột nhiên bên trong lại có cái gì đó nổi cộm lên từ một cái hố bẩn thỉu của tâm linh, một cái gì đó mà họ chẳng ngờ đến, chẳng liên quan chút xíu nào với cuộc đời thực của họ. Khi mọi việc thuận buồm xuôi gió người ta phớt lờ tất cả, chẳng nỗi hiểm nguy nào làm cho người ta sợ hãi. Người ta đi đi lại lại, cao lớn, điềm nhiên và những bộ mặt nhẵn nhụi dường như chẳng thể hiện điều gì. Nhưng trong lòng họ luôn luôn có một cái mà chính họ cũng không nhận thấy. Họ sống cùng một lúc mấy cuộc đời và họ cũng chẳng nghi ngại chút nào về điều đó. Họ ngụy trang rất giỏi, có nhiều bộ mặt và khó hiểu.
Chính họ quái dị dù bề ngoài không thể hiện ra.
Tôi luôn luôn chỉ sống một cuộc đời của mình, cuộc đời của anh lùn. Tôi chưa bao giờ cao to và bảnh bao. Tôi luôn luôn là tôi, luôn luôn là người như thế, chỉ sống một cuộc đời. Trong con người tôi không có một người nào khác. Tôi biết rõ tất cả những gì trong lòng tôi, không bao giờ có gì bỗng dưng nổi cuộn lên từ trong sâu thẳm đáy lòng, một cái gì đó ẩn trong bóng tối. Cho nên tôi chưa biết sợ cái gì chưa biết mà mọi người lại khiếp đảm trước những cái bí hiểm và khó hiểu. Với tôi đơn giản điều đó không tồn tại. Trong con người tôi không có cái khác.
Sợ hãi ư? Đó là cái gì? Chắc tôi sẽ phải nếm trải nó khi nằm một mình trong bóng đêm và thấy hồn ma Iosaphat tiến lại chỗ tôi mỗi lúc một gần hơn, mặt bệch bạc như thần chết với những vết tím trên cổ và mồm há hốc.
Nhưng tôi không thấy khiếp đảm hay ăn năn, không có lấy một cảm giác dữ dội nào. Với Iosaphat tôi chỉ nghĩ rằng anh ta đã chết, rằng từ đó đến nay tôi còn lại một mình.
Tôi muốn một mình; không muốn ngoài tôi lại có cái gì khác tồn tại. Và tôi hiển nhiên thấy anh ta đã chết. Đấy chỉ là hồn ma mà thôi. Đêm đêm tôi hoàn toàn một mình trong bóng tối kể từ khi tôi giết chết anh ta.
Chuyện này chẳng có gì đáng sợ.
Trong cung đình xuất hiện một người đàn ông cao lớn mà quận công rất kính nể, thậm chí còn tôn thờ. Quận công nói đã chờ đợi vị khách này từ lâu và cuối cùng ngài đã hạ cố đến thăm.
Quận công đối xử với ông ta bằng vai phải lứa. Không ai ở chốn cung đình chúng tôi cũng bắt gặp nụ cười của người nói rằng ông ta nổi tiếng ngang hàng với các bậc vương giả. Người khách này ăn mặc quá đơn giản, không hề giống quận công chút nào. Thực chất ông ta là ai? Có gì đáng lưu ý? Tạm thời tôi chưa biết được chắc hẳn điều đó dần dần sẽ rõ. Nghe nói ông tới chỗ chúng tôi rất lâu.
Không thể phủ nhận rằng vị khách này có một cái gì đấy làm người ta kính nể: ông xử sự thoải mái, đúng mực hơn những người khác; trán ông cao và như người ta thích tả, hằn những giấu ấn của trí tuệ. Còn gương mặt có bộ râu bạc viền quanh thực sự toát lên vẻ thanh tao và hoàn mĩ. Ông có vẻ hài hòa trang nhã, phong thái đĩnh đạc, điềm nhiên.
Thật là thú vị nếu được biết những cái quái dị của ông.
Khách quý ngồi cùng bàn ăn trưa với quận công. Họ lúc nào cũng đàm đạo đủ mọi đề tài. Còn tôi phục vụ quý ông (ngài lúc nào cũng muốn chính tôi làm việc đó) không thể không nhận thấy vị khách này là người rất thông thái. Hình như những suy tư luôn xâm chiếm ngài và ngài quan tâm mọi thứ trên đời. Ngài bắt đầu giảng giải bất luận về điều gì. Nhưng khác người ở chỗ không phải lúc nào ngài cũng tin rằng những lời giải thích của ngài là đúng. Ngài lí giải khá khúc triết, cặn kẽ theo ngài nên hiểu cái này, cái kia như thế nào. Cũng có khi ngài im lặng sau đó ngập ngừng nói có thể cái đó không phải thế. Tôi không biết đánh giá việc ấy như thế nào. Cũng có thể cho đó là thông thái nhưng không loại trừ rằng ông nói đơn giản là do không hiểu và thành thử tất cả mớ lí luận tư duy dù cố đẩy lên ấy cũng chẳng đáng giá là bao. Nếu tôi đánh giá đúng năng lực trí tuệ của con người thì cái khả năng sau có phần chắc chắn hơn. Song nhiều người không hiểu rằng sự khiếm khuyết trí năng buộc người ta phải thật khiêm tốn. Có thể ông hiểu điều đó.
Ngài quận công không thấy gì hết. Ngài khát khao nghe vị khách dường như đang uống dòng nước trong vắt chứa đầy am hiểu và anh minh. Ngài
nhìn vào miệng ông ta như cậu học trò ngoan dõi theo thầy giáo, mặc dù dĩ nhiên, không làm mất đi phẩm giá quận công của mình. Đôi khi ngài còn làm tăng thêm vẻ uy nghi của vị đại sư. Hay thật, cốt lõi của sự quy phục, xu nịnh là gì? Tôi hiểu quý ngài của tôi đến nỗi biết rõ có một căn nguyên nào đấy. Đại sư là người thông thái hay làm ra vẻ không nghe thấy những lời bợ đỡ. Có thể thực sự ông ta khiêm tốn. Nhưng mặt khác thỉnh thoảng ông lại nói rất chắc chắn, cương quyết bảo vệ chính kiến và đưa ra những bằng chứng để chứng tỏ một trí tuệ sáng láng uyên thâm.
Không phải lúc nào ngài cũng ngờ vực. Đại sư nói đều đều bằng một giọng du dương hiếm có rất hay. Ông rất niềm nở với tôi và hình như còn có một chút ưu ái. Tôi không hiểu tại sao. Có lẽ ông có cái gì đó giống quận công, đôi khi tôi cảm thấy thế mặc dù tôi không thể giải thích cặn kẽ cụ thể là gì.
Ông không giả dối.
Con người xa lạ đáng lưu ý này chuẩn bị làm ở nhà thờ Santa Croche, ông sẽ vẽ bức tranh gì đấy trên tường của phòng ăn ở nhà thờ. Nghĩa là vẽ nguệch ngoạc các thánh thần và đại loại như nhiều người ở cung đình này vẫn làm. Điểm đáng lưu ý về ông là thế.
Dĩ nhiên tôi không muốn nói rằng cùng một lúc ông có thể là cái này hay cái khác hay nhất thiết phải đánh đồng ông với các bạn đồng nghiệp thô thiển khác. Phải thấy rằng ông gây nhiều ấn tượng và thật dễ hiểu vì sao quận công lại nghe ông chăm chú hơn chán vạn kẻ khác. Thực tế ông có phải là nhà tiên tri đến nỗi phải há mồm nghe ông nói hay chỉ là một con người tầm thường hàng ngày được ngồi cùng bàn với quận công? Không, điều đó không thể lí giải nổi. Bởi vì nói cho cùng ông cũng chỉ là thợ thủ công và cứ để những gì ông làm, làm bằng chính đôi tay, trí tuệ và sự mẫn tiệp của mình thuộc về ông. Cái đó nhiều đến nỗi chính ông cũng không biết hết được. Tôi chẳng biết đôi tay của ông thế nào, nhưng chắc chắn ông là người rất khéo léo một khi đã được quận công mời. Còn ý tưởng định làm, như chính ông thú nhận, vẫn chưa được chín muồi: Hẳn nhiên ông là người hay viển vông mơ tưởng. Bằng trí tuệ sáng láng, ý tưởng phong phú ngài đã xây trên cát một thế giới hư ảo, hoàn toàn chỉ do ngài tạo nên.
Tuy vậy, thật lạ lùng, tôi chẳng có một ý kiến xác đáng nào về ngài. Sao lại thế nhỉ? Thường thường tôi có ngay ấn tượng về bất cứ người nào tôi chạm trán. Hay do ông cao hơn người khác nên nhân cách cũng cao hơn? Bất cứ mối quan hệ nào ông cũng nổi trội hơn. Tôi không biết vì sao tôi lại nghĩ thế, tại sao tôi lại cảm thấy thế? Tôi cũng không biết cái nổi trội của ông là gì, và thực chất ông nổi hơn bao nhiêu. Thử hỏi rằng tại sao ông phải khác biệt với tất cả những người tôi từng gặp.
Tôi tin rằng dù sao đi nữa ngài quận công cũng thẩm định lại nhân cách của đại sư.
Đại sư tên là Bernardo, một cái tên rất đỗi bình thường.
Đại sư chẳng có gì hấp dẫn quận công phu nhân. Ông là một lão già. Còn những câu chuyện đàn ông rõ ràng hoàn toàn chẳng có gì lôi cuốn bà. Trong những buổi nói chuyện kì lạ của họ bà im lặng và suy nghĩ về mình. Thậm chí hình như bà còn không nghe thấy người đàn ông đáng kính ấy nói gì.
Thế nhưng quận công phu nhân lại cuốn hút ông quá đỗi. Tôi thấy lúc không ai để ý ông hay liếc trộm bà. Càng ngày ông càng trầm ngâm, hiếu kì quan sát khuôn mặt bà dường như muốn khám phá ra điều gì không hiểu bà có gì cuốn hút ông đến thế? Mặt bà chẳng có gì hấp dẫn. Rõ ràng đó là một con đĩ dù bà muốn che giấu bằng vẻ ngoài chất phác dối trá. Chẳng cần quan sát lâu la gì để hiểu được bản chất của bà. Khi đó cái gì cần xem xét, cái gì sẽ thấy trên khuôn mặt đầy tội lỗi kia? Liệu có còn vẻ quyến rũ của khuôn mặt đó không?
Nhưng tất cả mọi thứ trên đời đều lôi cuốn đại sư. Thí dụ, chính mắt tôi trông thấy, ông nhặt một viên đá dưới đất, xoay xoay, chăm chú ngắm nghía rồi bỏ vào túi như một báu vật. Chẳng có gì trên đời là không có sức cuốn hút ông. Phải chăng ông là người sung sướng?
Người sung sướng cũng đáng để ghen tị. Đó là người mà hòn đá cũng thành ngọc quý, mỗi bước đi đều chạm phải báu vật.
Ông tò mò đến mức khó tin. Việc gì ông cũng chen vào. Ông muốn biết tất cả, thích căn vấn bất cứ chuyện gì. Ông vặn hỏi những người làm công về những công cụ, cách thức làm ăn rồi nhận xét này nọ và lại còn khuyên bảo nữa. Những lần đi chơi ngoại ô về ông ôm những bó hoa, ngồi xuống và bắt đầu bứt bứt cánh hoa để xem đài hoa cấu tạo thế nào. Ông có thể đứng hàng giờ nhìn chim bay dường như sự bay của chim có một cái gì đó kì diệu. Thậm chí cả những chiếc đầu của những kẻ giết người và những tên cướp cắm trên những chiếc cọc trước cửa lâu đài mà mọi người ghê tởm vẫn khiến ông có thể ngắm hàng giờ, xem xét kĩ lưỡng dường như chúng có những bí ẩn diệu kì nào đó và vẽ bằng bút chì bạc vào quyển sổ ghi chép của mình. Vài ngày trước trên quảng trường treo cổ Franchesco, ông đứng ngay hàng đầu cùng đám trẻ con để nhìn rõ hơn. Đêm đêm ông lại ngắm sao. Tính hiếu kì của ông bao trùm lên tất cả mọi việc.
Vậy phải chăng ông có mối liên quan đến tất cả mọi thứ?
Tôi phải nhổ vào những nơi ông ta thọc mũi vào. Còn nếu ông ta động vào tôi lần nữa, tôi sẽ dùng dao găm đâm lại. Tôi nhất quyết sẽ làm thế nếu bị đe dọa.
Tối hôm nay khi tôi rót rượu hầu ông ta, ông cầm tay tôi để xem. Tôi bực tức hất ra. Nhưng ngài quận công mỉm cười bảo tôi cho xem tay. Đại sư nhìn rất kĩ, xem từng khớp tay, từng nếp nhăn ở cổ tay và còn định vén ống tay áo lên để xem phía trên. Tôi lại giật tay ra, tức điên người, giận sôi máu. Cả ngài quận công và đại sư cùng cười, còn tôi hằn học nhìn họ.
Nếu ông ta còn động tới tôi, tôi sẽ lấy máu ông ta. Tôi không chịu được sự đụng chạm của người khác, không thể chịu được chút nào sự xâm phạm thân thể của tôi.
Có những lời đồn đại kì quái rằng hình như đại sư thuyết phục ngài quận công giao cho ông ta thi thể của Franchesco để mổ xẻ và xem bên trong cơ thể cấu tạo thế nào. Điều ấy không thể được. Điều ấy không thể tưởng tượng được. Ngay việc hạ thi thể xuống cũng không được. Vì người ta muốn treo gã lủng lẳng trên dây để dọa dân chúng và răn đe những kẻ độc ác khác. Sao quạ lại không rỉa thịt kẻ vô lại, xấu xa như với những kẻ khác? Tiếc rằng tôi quen biết gã Franchesco và hiểu quá rõ người này. Anh
ta xứng với những hình phạt đó lắm. Anh ta đã hét vào tôi những lời thóa mạ trên đường phố. Nếu người ta hạ gã xuống thì hình phạt treo cổ phỏng nghĩa lí gì. Hôm nay tôi nghe thấy chuyện đó. Bây giờ là đêm và tôi chẳng rõ thây người chết còn lủng lẳng ở ngoài kia không?
Tôi không tin quận công lại đồng ý hạ xác xuống. Đó không phải là sự thật.
Nhưng đó là sự thật. Quân đê tiện không còn lủng lẳng trên giá treo cổ nữa và tôi biết rõ nó ở đâu. Tôi đã bắt được quả tang công việc bẩn thỉu của lão già uyên bác đó.
Tôi để ý rằng dưới tầng hầm không phải mọi việc đều bình thường. Cánh cửa bao giờ cũng đóng nay lại mở. Tôi thấy việc đó từ hôm qua, nhưng lại cho là chuyện thường tình. Hôm nay tôi đi kiểm tra xe có chuyện gì xảy ra không và thấy cảnh cửa khép hờ như thường lệ. Tôi đi theo hành lang hẹp, đến cửa tiếp theo và nó cũng không đóng. Tôi bước vào, cố không gây một tiếng động nào và tôi đã ở một phòng rộng thênh thang được cửa sổ tường phía nam chiếu sáng và tôi thấy vị đại sư già đang cúi xuống thi thể đã được mổ banh ra của Franchesco. Lúc đầu tôi không tin vào mắt mình, nhưng đó là Franchesco, hơn nữa lại còn bị banh ra, thấy hết tất cả cơ quan nội tạng, cả tim, cả phổi y hệt một con vật. Trong đời tôi chưa bao giờ nhìn cái gì ghê tởm hơn. Thậm chí không thể tưởng tượng sự gớm guốc của bộ lòng người. Còn đại sư cúi xuống cỗ lòng và chăm chú xem xét, cẩn thận lấy dao cắt cắt cái gì gần quả tim. Ông say mê công việc đến nỗi không biết tôi bước vào phòng, dường như với ông chẳng có gì tồn tại ngoài cái việc ghê tởm ông đang làm. Tôi có thể nhìn ông ta bao nhiêu tùy thích bởi vì ông ta đang ở chỗ sáng đèn, còn tôi đang trong bóng tối. Và ông cũng chẳng để ý gì. Ông phấn chấn như nhà tiên tri đang nói chuyện với Chúa. Tôi thấy vô cùng kinh tởm.
Y hệt các bậc quận công! Quý ông thanh tao, tinh tế biết tận gan ruột của tên tội phạm. Ngài còn xới tìm ở cái thây ma ấy.
Đêm hôm đó họ ngồi gần tới sáng, và chuyện trò mãi, chuyện mãi như trước đây chưa hề được trò chuyện. Họ nồng nhiệt đến phấn chấn thực sự. Họ nói về thiên nhiên, về sự vĩ đại và hào phóng của nó. Có một điều kì
diệu nhất thống, một sự toàn vẹn vĩ đại. Động mạch dẫn máu đi khắp cơ thể giống như con sông dẫn nước đi khắp mặt đất. Phổi để thở như đại dương với con nước thủy triều, khung xương là giá đỡ cho cơ thể như những lớp đá để tựa cho đất còn thân thể - như chính mặt đất vậy. Lửa trong lòng đất giống như cái nóng bỏng của tâm hồn được lấy từ mặt trời, vầng thái dương thiêng liêng, thần thánh đối với những người cổ đại, là ông tổ của các thần linh, cội nguồn, căn nguyên của tất cả sự sống ban phát ánh sáng của mình cho tất cả hành tinh trong vũ trụ. Bởi chính thế giới của chúng tôi - chỉ là một trong hàng ngàn vì sao trong vũ trụ.
Họ bị ám ảnh như ma ám. Và tôi không thể nào cưỡng lại muốn nghe tất cả mọi điều. Càng ngày tôi càng tin chắc rằng ngài đại sư thật sự hân hoan, vui sướng. Ông có thể lắm, sẽ biến quận công thành người như thế. Thật kì lạ, trong tay ông ta, ngài quận công mới dịu dàng, nhu nhược làm sao.
Sao lại có thể tin vào những chuyện bịa đặt như thế? Làm sao có thể tin vào cái nhất quán đó, vào sự hài hòa thần thánh như ông ta thể hiện. Thật khó biết xấu hổ khi dùng những lời lẽ vô nghĩa, to tát và khoa trương đó, kì diệu thay tự nhiên! Tôi nhớ đến nội tạng của Franchesco và suýt nôn mửa.
Hạnh phúc biết bao khi họ kêu lên trong niềm hân hoan phấn khởi được nhìn thấy cả khoang bụng bí ẩn của tự nhiên. Nó vẽ ra trước con mắt hiếu kì của nhà khảo sát biết bao nhiêu cái vô tận. Và nếu đạt được những cái đó, những sức mạnh - bí ẩn của tự nhiên, con người được đề cao bao nhiêu trong sự giàu có và hùng mạnh sau khi bắt chúng phục vụ cho lợi ích của mình. Bản năng và sự nhẫn nhục phải nghiêng mình trước ý chí của đại sư, ngọn lửa sẽ ngoan ngoãn phụng sự ông, được chế ngự trong cơn thịnh nộ, trái đất sẽ sinh sôi hoa trái gấp trăm lần bởi lẽ ông đã khám phá ra những quy luật của sự tiến triển, những con sông sẽ trở thành những nô lệ bị xích xiềng thuần phục của ông, còn đại dương sẽ đưa những con tàu đi khắp mọi nơi trong khoảng không vũ trụ. Thậm chí ông còn chinh phục cả khí trời bởi lẽ có lần ông đã học được cách bắt chước chim bay, ông giải phóng khỏi trọng lực giống những con chim và sao đổi ngôi trên bầu trời, tự ông bay đến những mục đích của mình mà ý tưởng con người không bao giờ đoán được, không bao giờ có khả năng vươn đến.
Ôi! Sống trên đời mới tuyệt diệu, tuyệt trần làm sao! Biết bao nhiêu cái kì vĩ của đời người không thể hiểu nổi.
Niềm hân hoan của quận công và đại sư là vô tận. Họ giống như những đứa trẻ ao ước đồ chơi, cả một núi đồ chơi mà chính họ cũng chưa biết sẽ làm gì với chúng. Tôi nhìn họ bằng cái nhìn thông thái, khôn ngoan của người lùn. Chẳng có thớ thịt nào rung động trên khuôn mặt cũ kĩ, nhiều nếp nhăn của tôi. Những người lùn không giống trẻ con. Và họ không bao giờ chơi bời cả. Tôi nhón chân, rót đầy cốc đã cạn trong lúc hàn huyên.
Họ biết gì về sự cao cả của cuộc đời? Vì sao họ biết được sự cao cả ấy? Đó chỉ là câu nói họ thích nhắc đi nhắc lại. Bằng cớ nào có thể khẳng định cuộc sống thật đê tiện, đớn hèn? Rằng cuộc sống thật vô dụng, nhỏ nhặt, là thứ sâu bọ mà ta có thể lấy chân dí nát còn bản thân cuộc sống ấy chẳng có một phản ứng gì. Cái chết chẳng làm nó bận tâm hơn là sự sống còn. Cuộc đời thờ ơ với tất cả. Tại sao lại không chứ? Tại sao khi lục vấn nó lại phải bảo vệ mình, cố gắng để tồn tại? Và tất cả những cái đó để làm gì? Quả thật vì sao lại phải xáo động cuộc sống?
Cần phải nhìn vào bản chất của tự nhiên. Nó có gì tốt? Nếu quận công và đại sư có khả năng làm điều đó thì chính họ sẽ sợ hãi và khiếp đảm.
Họ hình dung rằng tất cả mọi thứ của tự nhiên tồn tại riêng cho họ, bởi họ nghĩ rằng chúng dành riêng cho họ, cho lợi ích và niềm khoái lạc để cuộc đời họ thực sự tươi đẹp và oai phong. Họ biết gì về cái rốn tự nhiên đó? Vì sao họ nghĩ nó dành riêng cho họ để họ có thể thực thi những ước muốn phi lí, ấu trĩ của mình.
Họ tưởng rằng dường như họ biết đọc cuốn sách của tự nhiên, hình dung rằng cuốn sách đó do họ khám phá. Thậm chí họ nghĩ như có thể nhìn thấy tương lai, đọc được những gì chưa từng được viết, những trang giấy trắng tinh, sạch sẽ. Ôi những người ngu xuẩn thiếu suy nghĩ và quá tự tin làm sao! Cái tự thị trắng trợn của họ chẳng có giới hạn nào cả.
Ai có thể biết thiên nhiên thai nghén cái gì? Nó đơm hoa, kết trái gì trong bụng? Ai có thể biết trước điều gì đó? Phải chăng bà mẹ biết bà đang mang cái gì trong người dưới quả tim, vì đâu bà ta biết cái đó? Bà đang chờ
đợi kì sinh nở và chỉ khi đó mọi người mới biết bà sinh hạ được cái gì. Nếu hỏi anh lùn thì anh ta sẽ giải thích cho mọi người biết.
Đó là người khiêm tốn ư? Tôi nhầm lẫn xiết bao! Ngược lại ông ta là người tự cao tự đại. Ông ta tự tin đến nhường nào kể cả cái ý nghĩ cố bắt chước quốc vương điều khiển thế giới mà hoàn toàn không thuộc quyền hạn của ông.
Ông ta tỏ ra dường như rất khiêm tốn vì lúc nào cũng hỏi han đủ thứ như dò xét, nói rằng không hiểu cái này cái nọ nhưng lại muốn biết theo khả năng của mình. Song toàn bộ, như cách ông nói, ông biết rất rõ. Ông tưởng tượng ông đã hiểu được ý nghĩa của sự tồn tại. Ông đã hòa hoãn, nhún nhường cái nhỏ, còn cái lớn thì không. Sự khiêm nhường thật kì lạ.
Tất cả mọi thứ trên đời đều có ý nghĩa của nó, tất cả những gì đã xảy ra và tất cả những gì người ta làm. Nhưng chính cuộc sống thì chẳng có một nghĩa lí gì. Nó không thể tồn tại theo cách khác.
Niềm tin của tôi là vậy.
Nhục nhã biết bao! Ô danh biết bao! Trong đời tôi chưa bao giờ bị sỉ nhục như cái ngày đáng sợ đó. Tôi cố miêu tả lại chuyện gì đã xảy ra với tôi mặc dù tốt hơn hết chẳng nên nhớ lại làm gì.
Ngài quận công sai tôi tới chỗ Bernardo đang làm ở nhà ăn của nhà thờ Santa Croche vì ông ấy cần tôi làm gì đó. Tôi đi mặc dù rất bực bội vì phải làm đầy tớ cho kẻ tự cao tự đại xa lạ ấy. Ông đón tôi và thông báo trước rằng ông rất quan tâm tới người lùn. Tôi thầm nghĩ: Một khi ông ta tọc mạch cả ruột rà Franchesco và các vì sao thì còn gì ông chẳng bận tâm. Nhưng về tôi, gã lùn, ông chưa biết gì đâu, sau một vài câu lịch thiệp, vô nghĩa, ông nói rất muốn phác họa tôi. Tôi hiểu rằng ông muốn vẽ chân dung mà mà có thể quận công đã đặt và tôi không thể không cảm thấy sởn gai ốc mặc dù đã trả lời rằng tôi không thích. “Tại sao vậy?”, - ông ta hỏi. Tôi trả lời như cần phải có: “Tôi muốn mặt tôi chỉ là của mình tôi thôi!”. Ông ta cười khẩy, nói rằng đó là ý nghĩ độc đáo song lại đồng ý hiển nhiên điều ấy là đúng. Mặc dù nhìn chung, ông ta nói, trên thực tế bất kì khuôn mặt nào, kể cả trong tranh là sở hữu của nhiều người, nhưng nó sẽ thuộc về từng
người chiêm ngưỡng chúng. Vả lại ông chỉ đơn giản muốn vẽ tôi để nghiên cứu xem tôi cấu tạo thế nào, vì thế tôi cứ việc cởi quần áo để ông có thể phác họa bằng chì thân hình tôi. Tôi thấy nhợt nhạt. Cũng có thể do tức giận, có thể do sợ hãi. Tôi chẳng biết vì lẽ gì nhiều hơn. Cả cảm giác này, cả cảm giác kia xâm chiếm tôi và tôi run rẩy toàn thân.
Đại sư cũng nhận thấy sự trơ tráo của ông ta làm tôi phẫn nộ. Ông bắt đầu nói rằng chẳng có gì xấu hổ về việc anh là người lùn và cho người khác xem thân thể thực sự của mình. Ông ta nói, trước tạo hóa ông tôn thờ mọi vật như nhau, bình đẳng trong mọi trường hợp khi mà nó đã tạo ra một cái gì đó vì thói đỏng đảnh kì quặc, một cái gì đó ngoài khuôn khổ bình thường. Ông ta nói chẳng có gì xấu khi cho người khác xem thân thể tự nhiên của mình và chẳng có người nào thực sự chỉ thuộc về một mình cả. “Nhưng tôi thì thế!” - tôi hét lên giận dữ, - “Ông thì chẳng có gì thuộc về mình! Còn tôi thì có!”
Ông bình tĩnh đón nhận cơn nóng nảy của tôi. Đã thế ông ta còn tò mò, thích thú ngắm nhìn tôi đến nỗi tôi càng tức khí hơn. Sau đó ông nói rằng đã đến lúc bắt tay vào việc và bước đến chỗ tôi: “Tôi không thể chịu được người khác xâm phạm thân thể tôi!”, tôi thét lên, hoàn toàn không kiềm chế được. Ông không mảy may đếm xỉa đến điều đó. Nhưng khi hiểu ra rằng tôi không đời nào tự nguyện cởi quần áo thì ông sẵn sàng cởi bỏ cho tôi. Tôi rút dao găm ra khỏi vỏ và tôi nghĩ ông rất ngạc nhiên khi nhìn thấy ánh thép lấp loáng. Nhưng ông bình tĩnh tước con dao, thận trọng đặt ra xa. “Anh chàng này hiển nhiên, rất nguy hiểm đấy”, - ông nói, ngạc nhiên nhìn tôi. Tôi độc địa cười khẩy những lời nói của ông. Sau đó ông hoàn toàn điềm nhiên cởi quần áo của tôi, trơ trẽn ôm lấy người tôi. Tôi tuyệt vọng chống trả và vật lộn với ông ta dường như vì sự sống còn. Nhưng tất cả đều vô ích bởi vì ông khỏe hơn tôi. Làm xong cái việc xấu xa đó, ông kéo tôi lên và đặt tôi lên một cái bệ ở giữa phòng ăn.
Tôi đứng đó yếu ớt, trần truồng, bất lực không làm gì được vì sự tức giận đang trào sôi trong tôi. Còn ông ta đứng cách bệ vài bước, lạnh lùng nhìn tôi, lạnh lùng đến vô cảm chiêm ngưỡng sự nhục nhã của tôi.
Tôi hoàn toàn bị ông thôi miên, điều khiển, dường như tôi là của riêng ông. Phải phô ra cho người khác ngắm nghía là một sự xỉ nhục vô chừng
đến nỗi cho đến giờ tôi vẫn không thể hiểu vì sao tôi lại chịu đựng được lão ta. Giờ tôi vẫn còn nhớ tiếng bút chì màu bạc vẽ trên giấy. Có thể đó chính là cái bút mà ông ta phác họa những cái đầu khô khốc ở cổng lâu đài và tất cả những điều xấu xa, đê tiện khác. Cái nhìn của ông ta cũng thay đổi. Nó trở nên sắc bén như mũi dao. Tôi cảm thấy hình như ông ta nhìn xoáy vào tôi.
Tôi chưa bao giờ căm thù con người như những giây phút đó. Sự hận thù có thể cảm thấy rõ rệt trong cơ thể tôi và tôi suýt nữa ngất. Mắt tôi tối sầm lại. Trên thế gian còn những tên súc sinh nào đốn mạt hơn, đáng căm giận hơn không.
Tôi thấy bức tranh lớn ngay trên bức tường đối diện. Đó chính là bức tranh mà mọi người nói sẽ trở thành một kiệt tác thực sự. Nó mới chỉ bắt đầu và chắc chắn phải vẽ một cuộc họp kín, Giêsu cùng tông đồ ngồi bên bàn ăn. Tôi tức điên nhìn những bộ mặt thanh bạch, trang nghiêm của những thánh tông đồ tưởng rằng họ cao siêu hơn tất cả họ đang cùng với các vị thiên thần trên đầu đang tỏa những ánh hào quang siêu phàm. Tôi độc địa nghĩ rằng Giu-đa đang co ro trong góc sắp phản lại Người rằng chừng nào Người còn được ái mộ và tôn thờ thì gã vẫn còn chễm trệ ngồi sau bàn tiệc. Trong khi đó tôi bị nhục mạ ở đây. Nhưng ai sẽ tới giờ phải khổ nhục của Chúa? Sắp tới Người sẽ không còn chễm trệ trong đám tông đồ của mình nữa. Trung thành với các tông đồ nhưng một mình Người sẽ bị đóng đinh câu rút trên cây thánh giá. Người sẽ bị treo trần truồng như tôi đứng bây giờ ở đây, cũng bị lăng nhục như thế, cũng bị phơi bày phỉ báng và mạt sát. Tại sao lại không vì lẽ gì mà Người không bị đớn đau như tôi đau đớn bây giờ? Người luôn luôn được nuôi dưỡng, được bao bọc bằng yêu thương trong lúc tôi chỉ được di dưỡng bằng hận thù. Tôi đã uống oán hờn cùng sữa mẹ, nếm thử vị đắng của nó. Tôi nằm trong lòng mẹ đầy bực bội, còn Người được bú Đức Mẹ đồng trinh hiền dịu, trìu mến nhất, tuyệt vời nhất trong các bà mẹ và uống dòng sữa mẹ ngọt ngào nhất trên đời mà chưa một người trần tục nào nếm. Người ngồi bao dung trong bè bạn của mình, một người tốt bụng hồn nhiên, chẳng nghi ngại rằng có thể reo rắc thù hận hay có thể một mình người nào đó sẽ làm hại Người. Vì sao lại không cơ chứ? Vì sao Người lại là ngoại lệ? Tất nhiên Người tưởng rằng chắc chắn sẽ được tất cả những người trần thế mộc mạc mến mộ vì được chúa trời đầu thai. Thật ngây ngô làm sao! Sự hiểu biết về con người mới ấu trĩ làm sao!
Chính vì sự kì diệu nhất ấy mà người ta che giấu sự hằn học Người tận nơi sâu kín. Những đứa trẻ trần tục không thích bị Chúa trời ức hiếp.
Đứng ở cửa của cái phòng ăn đáng nguyền rủa, nơi tôi nếm trải sự sỉ nhục nhiều nhất trong đời, tôi vẫn nhìn ông ta. Tôi nghĩ cũng chẳng làm sao nếu sắp tới sẽ bị bán cho các quý ông cao quý lấy mấy đồng êquy cũng hệt như tôi bị bán đi vậy.
Tôi điên tiết đóng sầm cánh cửa ngăn cách giữa tôi và Đức chúa và với người đang tái tạo Ngài, đại sư Bernardo, người đang trầm ngâm ngắm nhìn tác phẩm cao quý của mình dường như đã quên mất tôi, người đã được ngài ban phát cho khổ nhục.
Tốt nhất không nhớ đến nhà thờ Santa Croche, tốt nhất là cố quên đi. Đây chỉ có một điều không sao quên được. Khi tôi mặc quần áo thì lại thấy những bức tranh miêu tả những con thằn lằn, những con vật chưa ai thấy bao giờ, chưa bao giờ có trong tự nhiên. Có cái gì đó giữa con người và động vật. Phụ nữ có những chiếc cánh có màng của loài dơi, đàn ông có những cái đầu của con chim kền kền và thay vì tay là những chi có vuốt nhọn, hua hua trong không khí như những con ác quỷ độc ác và cả những con thằn lằn nào đó, không phải đàn ông, không phải đàn bà, cái gì đó tựa như những con thủy quái.
Phải chăng những kì quan thiên nhiên như tôi hay những viên đá kì lạ của ông ta, những vật quý giá mà ông ta nhặt nhạnh trên mặt đất vẫn chưa đủ để ông ta ngắm nghía thỏa thuê hay sao? Ông ta ngồi im, tỏ vẻ xúc động chân thành mặc dù cô bé ngồi yên như tượng và chẳng thốt ra lời nào. Sự im lặng trở nên nhức nhối.
Tôi chẳng biết cái gì khiến ông xúc động đến thế. Có thể ông đang tiếc thay cho cô bé vì cô không đẹp, bởi ông biết giá trị của cái đẹp và ông hiểu nó có ý nghĩa tới mức nào. Có lẽ thế nên ông mới nhìn cô bé bằng ánh mắt buồn bã, ái ngại nhường ấy. Tôi không biết và cũng chẳng muốn biết.
Cô bé không chịu nổi, và tất nhiên nhanh chóng rút lui. Cô chỉ ngồi một chút vừa đủ để giữ phép lịch sự, không hơn một phút nào và nhanh chóng xin phép quận công cho ra ngoài. Chậm chạp, rụt rè cô ta đứng dậy với cả
vẻ lúng túng thường lệ - cho tới bây giờ cô bé vẫn chỉ là một thiếu niên vụng về. Thật ngạc nhiên là sao trước đó cô cũng có thừa vẻ duyên dáng, yêu kiều. Lẽ dĩ nhiên cô ăn mặc cũng chỉ giản dị như mọi khi, chỉ chưa tới mức xoàng xĩnh. Với cô ấy hay với người khác thì việc cô ăn mặc thế nào cũng thế mà thôi.
Đại sư Bernardo chắc là chưa tìm thấy sự thỏa mãn đích thực trong công việc. Ông ta nay bắt tay vào việc này mai lại mó tay vào việc khác, chẳng đến đầu, đến đũa gì cả. Thế là tại làm sao? Lẽ ra bây giờ ông ta nên chú tâm làm độc một việc là hoàn thiện bức “Buổi họp mặt kín”. Thế mà ông ta lại hoàn toàn bỏ bê. Chắc là đã chán. Thay vào đó bỗng nhiên ông ta lại đi vẽ bức chân dung quận công phu nhân.
Theo mọi người thì chính phu nhân cũng tuyệt nhiên chẳng thích thú gì để người ta vẽ chân dung của mình. Đó chỉ là sở nguyện của ngài quận công. Tôi biết rằng để hiểu là bà thì chẳng khó khăn gì. Bạn có thể ngắm kĩ mình trong gương nhưng khi rời khỏi nó bạn hẳn không muốn hình ảnh của mình còn đọng lại ở đó để bất kì ai cũng có thể chiêm ngưỡng, chiếm lĩnh nó. Tôi hoàn toàn hiểu tại sao bà ta, cũng như tôi, không muốn ở đâu đó có lưu giữ hình ảnh của mình.
Không có ai thuộc sở hữu chính mình? Ôi cái ý nghĩ mới ghê tởm, bỉ ổi làm sao! Các bạn có cho là không ai thuộc chính bản thân mình không? Quyền sở hữu là của tất cả mọi người. Như vậy là các mặt tư hữu bạn hóa ra không phải đã thuộc về bạn đâu! Nó thuộc về bất kì người nào đang nhìn vào nó! Và cả cơ thể bạn nữa chứ? Hóa ra, bất kì ai khác cũng có thể làm chủ thể xác bạn! Nghĩ đến điều này tôi thấy thật ghê tởm.
Tôi muốn là người duy nhất nắm giữ tất cả những gì thuộc về tôi. Không ai dám cả gan chiếm hữu cho mình những gì là của tôi và xâm phạm những gì thuộc về tôi. Mọi thứ của tôi phải thuộc sở hữu của tôi chứ không thuộc về một ai khác. Tôi muốn thuộc về chính mình ngay cả sau khi chết. Không ai có quyền cả gan lục bới vào nội tạng tôi cả. Tôi không chịu để một người xa lạ nào đó xăm soi nó mặc dù chắc gì nội tạng của tôi đã đến mức đáng tởm như của tên vô lại Franchesco.
Dúng mũi vào tất cả mọi chuyện là thói quen của Đại sư Bernardo. Đó là thói tò mò cố hữu làm tôi ghét cay ghét đắng. Cái thói ấy có thể cung phụng cho cái gì kia chứ? Nó phục vụ cho mục đích khôn ngoan nào kia? Chỉ cần nghĩ là hình ảnh tôi vẫn lưu giữ lại ở chỗ ông ta, rằng ông ta dường như chiếm lĩnh được tôi là tôi đã cảm thấy khó chịu rồi. Mà tôi cũng đã hoàn toàn không làm chủ được bản thân, tựa như cùng lúc đó tôi cũng ở trong bè lũ những quái thai đê tiện của lão ta tại nhà thờ Santa Croche.
Thật tuyệt! Cứ để người ta vẽ bà quận công đi! Làm sao bà ta có thể nhẫn nhục bằng tôi cơ chứ! Tôi lấy làm sung sướng vì giờ đây bà sẽ trắng trợn đem cái con người trâng tráo ấy ra mà bình luận, phán xét rằng ông ta đã xâm phạm tới bà ra sao.
Người đàn bà phẩm hạnh dễ dãi kia thì hấp dẫn ở điểm nào kia chứ? Tôi không bao giờ cho rằng bà ta có được, dù chỉ một chút thôi, sức cuốn hút nào đó. Mà tôi thì hiểu bà rõ hơn ai hết. Tuy nhiên, ý đồ của bức chân dung rồi sẽ rõ cả thôi. Điều đó thì chẳng can hệ gì tới tôi.
Tôi không nghĩ đại sư lại am hiểu con người một cách đặc biệt hơn người.
Phải thú thật là Đại sư Bernardo làm tôi ngạc nhiên quá đỗi. Ông khiến tôi ngạc nhiên đến nỗi suốt đêm không thể chợp mắt và cứ nghĩ suốt về điều đó.
Chiều qua, như thường lệ họ ngồi nói chuyện - những đề tài cao siêu quen thuộc. Nhưng dễ thấy là đại sư đang mang một tâm trạng trầm uất, chán nản. Ông ngồi trầm ngâm suy nghĩ, tay vân vê chòm râu, hoàn toàn chìm trong những suy tưởng có lẽ là chẳng có gì vui vẻ, thú vị. Bỗng nhiên ông bắt đầu nói một cách say mê, hăng hái mặc dù ngọn lửa hăng say ấy dường như đã bị phủ tro. Tôi không nhận ra ông nữa, cứ như thể ông đang nghe một người hoàn toàn khác nói vậy.
Ý tưởng nhân loại, ông ta nói, suy cho cùng, thiếu sức mạnh. Đôi cánh ý tưởng thì mạnh mẽ, nhưng định mệnh ban tặng ta đôi cánh ấy còn mạnh mẽ hơn tất cả chúng ta. Chúng ta không thể thoát khỏi định mệnh. Nó không cho phép ta đi xa hơn những gì nó muốn. Chúng ta buộc phải chấp nhận
một giới hạn: cuộc chạy vòng ngắn ngủi sau khi gieo vào lòng ta sự hi vọng và niềm hạnh phúc thì chúng ta bị đuổi quay trở lại tựa như người thợ săn thít chặt sợi dây vào cổ chim ưng. Khi nào chúng ta mới tìm thấy tự do? Khi nào người ta cắt đứt dây trói và chim ưng tung cánh lên bầu trời bao la? Khi nào? Liệu điều đó có thành hiện thực không? Hoặc giả ngược lại, ngay những bí ẩn về sự tồn tại của chúng ta, rằng chúng ta bị buộc chặt vào tay người thợ săn và vĩnh viễn bị trói buộc có thực sự hay không? Rằng không thì chúng ta đã không phải là người như chúng ta vốn có và số phận chúng ta cũng không phải số phận con người.
Nhưng dù sao thì chúng ta được sinh ra đã khao khát bầu trời, cảm thấy mình có liên can tới nó. Dù sao thì nó vẫn tồn tại, nó mở tầm nhìn cho chúng ta như bất cứ một thực thể tuyệt đối nào đó. Nó tồn tại thực tế tựa như sự tù túng của chúng ta vậy.
Vì lẽ gì mà cái khoảng không vô hạn, bao la ấy tồn tại, chẳng phải đằng nào chúng ta cũng không nắm bắt được, không lĩnh hội được hay sao? Có nghĩa lí gì trong cái vô hạn bao bọc quanh ta, quanh cuộc sống, nếu như dù sao chúng ta vẫn chỉ là những kẻ tự do bất lực và cuộc sống vẫn chỉ đóng kín trong bản thân nó? Thế thì cái khoảng không vô hạn ấy tồn tại cho cái gì? Cái thế giới xung quanh bao la hùng vĩ nhường ấy đối với số phận hèn mọn của chúng ta, đối với thung lũng chật hẹp của chúng ta có nghĩa lí gì? Chẳng lẽ vì điều đó chúng ta bất hạnh hơn mà thôi sao?
Tôi quan sát ông ta một cách chăm chú. Có cái gì đó ẩn sau khuôn mặt ảm đạm, u sầu kia, sự mệt mỏi rã rời tràn lên trong ánh mắt già nua. Liệu khao khát chân lí có khiến chúng ta hạnh phúc hơn chăng? Ông nói tiếp. Tôi cũng không biết. Tôi chỉ tha thiết mong tìm ra nó. Cả đời tôi là những cuộc kiếm tìm chân lí không mệt mỏi. Có lẽ đã đến lúc tôi sáng mắt ra tựa hồ đã khám phá một phần chân lí của cái bầu trời trong xanh kia. Nhưng chưa lần nào bầu trời hé mở cho tôi điều gì. Cái nhìn của tôi chưa khi nào tận hưởng hết vẻ đẹp của cái khoảng không vô hạn mà thiếu nó thì chẳng có gì sáng tỏ trên thế gian này. Lúc này tôi chưa thể vươn tới được. Bởi thế những nỗ lực của tôi về bản chất không hề uổng phí. Vì lẽ ấy, tất cả những thứ tôi chưa đụng tới chỉ là những thứ phi lí, những đứa con đẻ non. Tôi đau đớn suy ngẫm về những tác phẩm của mình. Chắc hẳn mọi người cũng đau đớn, âu sầu nhìn chúng như thế, tựa như chúng ta nhìn những bức tượng cổ
cụt đầu, cụt tay chân. Tất cả những thứ tôi tạo ra đều tàn tật và khiếm khuyết! Tất cả những thứ tôi để lại sau mình đều không hoàn thiện.
Điều đó có lạ lùng không?
Số phận con người là thế đấy. Định mệnh không tránh khỏi của những nỗ lực, những sáng tạo của nhân loại là thế đấy! Tất cả những gì chúng ta tạo ra chỉ là bước chập chững đầu tiên trên con đường hướng tới những thứ mà chúng ta không khi nào vươn tới được, những thứ không cần và cũng không thể chiếm lĩnh được. Tất cả nền văn hóa nhân loại về bản chất chỉ là bước đi đầu tiên trên đường hướng tới những cái không thể đạt được và hoàn toàn vượt sức chúng ta. Nó vượt lên trên những khuyết tật, vượt lên trên cả cái tay cụt đáng thương bi đát kia. Tâm hồn con người chẳng lẽ không phải là những khuyết tật đáng thương ấy sao?
Đôi cánh ý tưởng kia thì ích gì khi nó chẳng sao đưa nổi chúng ta lên bầu trời. Nhẽ ra chúng giải thoát cho chúng ta gánh nặng thì lại chỉ làm nặng gánh. Chúng ta bị chúng đè nặng. Ta kéo lê chúng khắp thế gian. Cuối cùng chúng trở nên đáng ghét.
Chúng ta sẽ cảm thấy nhẹ nhõm khi người thợ săn mệt mỏi vì trò tiêu khiển tàn ác của mình mà chụp lên đầu chúng ta chiếc mũ và chúng ta đắm chìm trong bóng tối.
Ông ngồi bất động, u uất, cau có bóp miệng một cách cay đắng, trong mắt ông âm ỉ những ngọn lửa rất rõ, u ám. Thú thật là tôi ngạc nhiên kinh khủng. Chẳng lẽ đó lại là ông ta, con người mà vừa mới đây thôi còn xúc động vì sự vĩ đại vô hạn của loài người, người đã tiên tri về con người với sự toàn năng của mình tựa như vị quân vương đầy quyền lực và sức mạnh chinh phục lãnh địa hoàn mĩ của mình. Ai đã tạc ra con người nếu không phải chúa trời?
Không, tôi không thể hiểu nổi. Tôi chẳng hiểu gì cả.
Bị mê hoặc bởi những lời thông thái của đại sư, ngài quận công há hốc mồm nghe, mặc dù, những lời nói ấy hoàn toàn mâu thuẫn với những gì
ngài được nghe từ miệng ông ta từ trước tới nay. Ngài hoàn toàn đồng ý với ông ta. Quả thật là một học trò xuất sắc.
Làm sao mà điều này lại có thể liên quan tới điều khác hẳn? Làm thế nào mà họ khéo xoay sở kết hợp trong mình những mâu thuẫn như thế. Sao họ lại có thể có cùng một đức tin khi nói về bất cứ điều gì như thế? Bản thân tôi thì không bao giờ thay đổi và thật tôi không thể hiểu nổi điều đó.
Khi thì vui sướng liên miên, nói rằng ôi chao, được là một con người mới tuyệt vời và kì diệu làm sao. Khi thì đột nhiên triền miên thất vọng, chán nản, tiêu cực với bất kì ý nghĩ nào.
Đó không phải chuyện đùa đấy chứ?
Ông ta thôi không vẽ chân dung quận công phu nhân nữa. Ông nói rằng không thể hoàn tất bức chân dung được. Theo ông, ở bà ta có một cái gì đó khó nhận thấy mà ông không thể nắm bắt, không thể chiếm lĩnh nó và cũng không tài nào lí giải nổi. Thế là công việc của ông ta lại bỏ dở, cũng như bức “Buổi họp mặt kín”, cũng như tất cả những thứ ông từng bắt đầu làm.
Tôi có dịp nhìn thấy bức chân dung trong phòng ngài quận công. Tôi không hiểu nó xấu ở chỗ nào. Theo tôi bức tranh rất đẹp. Ông ta vẽ bà đúng như bà vốn là vậy, một người đàn bà buông thả và tuổi xế chiều. Tranh và người giống nhau lạ thường. Khuôn mặt biểu cảm với mí mắt sụp xuống và nụ cười bất hảo khó nhận thấy, tất cả điều đó rất giống. Ông lôi cái phần hồn của bà ta ra và đơn giản là thể hiện cái vẻ trần trụi đáng sợ của nó.
Không, dù sao thì ông cũng thấu hiểu con người.
Chẳng nhẽ lại còn thiếu cái gì đó? Bởi ông ta cho rằng còn có cái gì đó chưa đủ. Cái gì nhỉ? Chính ông cho rằng còn thiếu cái mà không có nó bà ta không thể là bà ta được. Nhưng nó là cái gì kia chứ. Tôi thật chẳng hiểu ra làm sao cả.
Tuy nhiên có một lần ông nói, bức chân dung không hoàn thiện bởi nó vốn thế. “Tôi để lại sau tôi những cái dở dang” - Ông ta đã nói như vậy. Và tất cả những cái đó chỉ là bước chập chững đầu tiên trên đường hướng tới
sự viển vông. Cả nền văn hóa nhân loại chỉ là bước đầu tiên, mới chỉ là sự khởi đầu, còn hoàn thành nó theo ông là điều không tưởng. Bởi thế suy cho cùng tất cả mọi thứ đều vô nghĩa.
Lẽ dĩ nhiên là vô nghĩa. Làm sao có thể hình dung cuộc sống theo một cách khác đây?
Bởi sự vô nghĩa đã chính là cơ sở của mọi cơ sở tạo ra nó. Liệu sự vô nghĩa có thể xây dựng trên cơ sở nào khác nữa đủ bền chặt và không thể lay chuyển được không? Bởi bất cứ một ý tưởng nào dù có vĩ đại đến đâu thì cũng sẽ bị đào bới bởi những ý tưởng vĩ đại khác và rồi cùng với thời gian nó sẽ bị căm hờn và bị tiêu diệt. Chỉ có sự vô nghĩa là không thể bị tổn thương và cũng không gì lay chuyển được. Nó chính là cơ sở xác đáng, vững chắc nhất và vì thế sự lựa chọn ngả về phía nó. Chẳng lẽ cần phải nát óc ra như thế để hiểu điều đó sao?
Điều ấy với tôi thế là đã rõ.
Bầu không khí trùm lên lan tỏa một mối âu lo mơ hồ. Có chuyện gì đây? Tôi không biết, nhưng linh cảm mách tôi biết có điều gì đó sắp xảy ra.
Nhìn bề ngoài tất thảy vẫn yên bình, cuộc sống trong lâu đài vẫn bình lặng trôi đi. Thậm chí yên bình hơn bình thường, khi mà lượng khách đã vơi đi nhiều, tuyệt nhiên không có cuộc tiếp đón nào, không có dự định nào tại thời điểm này như mọi năm. Nhưng điều đó chỉ làm bạn cảm nhận rõ hơn là sắp có những sự kiện quan trọng diễn ra.
Tôi luôn cảnh giác hơn, để ý tất cả nhưng hầu như chẳng phát hiện ra điều gì đặc biệt. Tất cả vẫn y như thường lệ. Nhưng có điều gì đó vẫn không ổn. Phải là một việc gì đó rất nghiêm trọng. Tôi tin như vậy.
Cần phải thu hút kiên nhẫn để chờ đợi xem điều đó rốt cục là gì.
Viên tư lệnh Boccaroza rời đi và lâu đài Gieraldi lại trống vắng. Không ai biết ông ta đi đâu. Ông ta biến mất tăm cứ như thể chui xuống đất vậy. Tất nhiên nhiều người có thể nghĩ là ông ta và ngài quận công đã đoạn tuyệt với nhau. Nhiều người lấy làm lạ là tại sao con người có học vấn cao như
ngài quận công lại có thể hài lòng sống trong cái xã hội của những kẻ lỗ mãng, thô bỉ này. Còn tôi lại nghĩ khác. Tất nhiên tôi không phủ nhận Boccaroza chỉ là một gã mọi rợ trái ngược hẳn với con người tinh tế và có giáo dục của ngài quận công. Nhưng chính ngài cũng xuất thân từ dòng dõi tư lệnh, điều này thì hầu hết mọi người đã quên hẳn. Thế tổ tiên ngài làm tư lệnh lâu không? Bao nhiêu thế hệ rồi? Mà vài thế hệ thì có gì là lạ! Tôi vẫn nghĩ hai con người này hiểu nhau chẳng khó khăn gì.
Hiện tại tình hình chưa có gì biến chuyển nhưng mọi bí ẩn vẫn trùm lên bầu không khí như trước.
Có thể nói ngài quận công đang hoạt động tích cực. Ngài đang làm gì? Ngài đón tiếp những vị khách nào đó và bàn bạc những câu chuyện bí mật. Họ có thể nói về cái gì nhỉ?
Những người báo tin hỏa tốc xuất hiện, họ trùm lên mình một bức màn bí mật. Họ chỉ được phép vào lâu đài vào ban đêm. Bây giờ trong lâu đài của chúng tôi chen chúc đủ loại người: những viên toàn quyền, những nhà cố vấn, những vị tướng quân đội, những người đứng đầu những dòng tộc lâu đời - những dòng tộc bị ngài quận công chinh phục. Bọn họ mỗi người đều làm một việc nào đó. Bây giờ, không thể nói là trong lâu đài còn yên tĩnh, bình lặng.
Rõ ràng, đại sư Bernardo không có vai trò gì trong tất cả những chuyện này. Vây quanh quận công lúc này là loại người khác. Vị cha bề trên rõ ràng là đã rút lui khỏi vũ đài và dù sao không thể so với xưa kia.
Tôi chỉ có thể đồng tình với ông ta về điều này. Ông ta đã gây quá nhiều sự chú ý trong lâu đài này.
Linh cảm của tôi về điều gì đó nghiêm trọng xảy ra giờ đã thành hiện thực. Không còn nghi ngờ gì nữa.
Tôi suy xét kĩ càng toàn bộ hàng loạt sự việc. Đầu tiên là các nhà chiêm tinh được triệu đến và ngồi rất lâu bên quận công cả nhà chiêm tinh của triều đình Nicodemus, cả những kẻ râu dài, sống như những con kí sinh trùng. Dấu hiệu không sai vào đâu được. Hơn thế ngài quận công còn nói
chuyện rất lâu với sứ giả của Medichi và đại biểu của nước cộng hòa Venezia và nhất là với ngài tổng giám mục, hiện thân của các ngai vàng thiêng liêng nhất. Cùng với những dấu hiệu khác trong mấy ngày gần đây đủ để thấy rõ là tất cả các sự kiện đều đang dồn về một hướng.
Thì ra người ta đang chuẩn bị cho một cuộc viễn chinh. Các nhà chiêm tinh được vời đến để cố vấn và xem các vì sao báo điềm gì về các kế hoạch - yếu tố đầu tiên mà bất cứ nhà cầm quyền nào cũng đều không thể bỏ qua. Những kẻ khốn khố đang ở sân sau, nơi ngài quận công đón tiếp bạn bè và đại sư Bernardo, người cũng thực sự tin vào sức mạnh của những vì sao, nhưng lần này lại có những ý tưởng hoàn toàn khác. Những ý tưởng do các nhà chiêm tinh của chúng tôi nghĩ ra là về tà đạo và những bóng ma quái đản. Rõ ràng, giờ đây ngài quận công cho rằng vì những cái tốt đẹp hơn cần phải lôi kéo chính giáo về phía mình. Những ý tưởng này suýt nữa có nguy cơ bị đổ vỡ bởi sự cách biệt về nhận thức. Tất nhiên, cuộc nói chuyện với sứ giả các nước chỉ nhằm mục đích làm đất nước họ ủng hộ hay chí ít cũng không phá vỡ kế hoạch. Tôi thiết nghĩ, quan trọng hơn tất thảy vẫn là thái độ của đấng tối cao với những kế hoạch này. Thiếu lời chúc phúc của chúa trời thì chẳng có điều gì thành công trên thế gian này hết.
Tôi hy vọng Người sẽ đồng tình bởi tôi hết sức nóng lòng chờ đợi xem rốt cục thì lúc nào chiến tranh xảy ra.
Sẽ có chiến tranh ư! Linh cảm chưa khi nào đánh lừa tôi. Tôi cảm thấy chiến tranh ở mọi nơi, mọi thứ: ở cả nỗi âu lo này, sự bí ẩn kia và cả trên những nét mặt thân quen... Ngay cả không khí cũng sặc mùi chiến tranh. Bầu không khí ẩn giấu một cái gì đó rất hào hứng mà tôi đã quá quen. Hiển nhiên bạn sẽ hồi sinh sau những ngày vô tích sự, ăn không ngồi rồi, lấp đầy thời gian rỗi bằng chỉ một câu chuyện phiếm, ba hoa, vớ vẩn bất tận. Ơn chúa, cuối cùng thì ngoài những chuyện rỗng tuếch thì con người cũng có việc để làm.
Thực tế thì tất cả mọi người đều muốn có chiến tranh. Khi chiến tranh xảy ra, mọi sự đều đơn giản hơn, chính thế chiến tranh mang đến sự nhẹ nhõm. Ai cũng cho rằng cuộc sống quá phức tạp. Đúng thế, bởi chính con người làm cho nó trở nên phức tạp. Cuộc sống vốn không phức tạp mà ngược lại, nó đơn giản kì lạ. Tuy nhiên, rõ ràng là con người không khi nào
chịu hiểu điều đó. Họ không hiểu rằng tốt hơn là cứ để yên tất cả như nó vốn có. Họ không thể để cuộc sống yên, không tài nào ngừng lợi dụng cuộc sống cho cơ man những mưu đồ kì quái nhất. Và rồi họ vẫn nghĩ rằng được sống đơn giản và được thở thôi đã là một điều tuyệt diệu rồi.
Ngài quận công bỗng chốc trở nên minh mẫn và làm việc rất hiệu quả. Khuôn mặt ngài ngời lên vẻ cương nghị và quyết đoán: chòm râu ngắn vuông vức, má hóp xanh xao, cái nhìn tinh anh, thâm trầm mà sắc sảo như mắt loài ác điểu đang bay lượn trên lãnh địa săn mồi của mình. Chắc hẳn ngài đang nhằm vào con thú săn ưa thích nhất của mình - kẻ thù không đội trời chung của dòng tộc ngài.
Hôm nay tôi nhìn thấy ngài chạy xuống cầu thang chính, theo sát gót là viên tướng đội cận vệ (Tôi nghĩ họ vừa đi kiểm tra việc chuẩn bị của quân đội). Bước vào phòng, ngài trao chiếc áo mưa vào tay người hầu mới đến, trên người còn độc chiếc áo ngắn tay màu đỏ, mạnh mẽ và linh hoạt, sắc tựa lưỡi dao, trên đôi môi dày nở một nụ cười ngạo mạn. Ngài như người vừa trút bỏ bộ lễ phục hóa trang. Cả cơ thể ngài toát lên vẻ cương nghị đầy nghị lực. Tất cả bộc lộ rõ một con người hành động trong ngài.
Tôi luôn biết rằng đó mới chính là con người thật của ngài.
Các nhà chiêm tinh tuyên bố, thời cơ ngàn năm có một đã đến, không thể chọn được cơ hội nào tốt hơn. Người ta xem tử vi của quận công và thấy ngài được cung sư tử chiếu mệnh (chẳng có gì mới mẻ cả, ngay từ khi chào đời điều đó đã rõ, nó được coi như một điềm lành hứa hẹn những điều tốt đẹp cho một nhà cầm quyền tương lai). Điều đó đã cổ vũ mãnh liệt trí tưởng tượng của những người thân của ngài. Nó cũng đã khơi dậy trong lòng thần dân không ít nghĩ suy và cả những nỗi sợ hãi nữa. Chính vì thế ông ta mới được đặt tên là Leo[3]. Cung hoàng đạo của ngài lại ngự ngay cạnh Hỏa tinh - sao chiếu mệnh của thần Chiến tranh. Chắc hẳn, chẳng bao lâu nữa chòm sao khát máu của vị thần Chiến Tranh kia sẽ hòa vào làm một với chòm sao hùng mạnh của ngài quận công. Bởi các hiện tượng kì lạ khác của bầu trời có ảnh hưởng tới số mệnh của ngài quận công đều rất thuận lành. Chính vì thế chúng, những thiên thể siêu nhiên ấy, có thể hứa hẹn một kết
cục có hậu cho cuộc chiến. Hơn nữa, hiển nhiên là không thể bỏ qua mà không tận dụng cơ hội quý hiếm nhường ấy.
Tôi hoàn toàn không hề ngạc nhiên về những lời tiên tri của họ, bởi họ luôn tiên đoán những điều mà người cầm quyền mong muốn, nhất là sau khi cha ngài quận công truyền lệnh trừng phạt một nhà chiêm tinh dám khẳng định dòng tộc của ngài sẽ bị cái chết đe dọa chừng nào còn tính toán đổ máu để leo lên ngai vàng của người lập nên cả triều đại, do cùng lúc đó trên bầu trời xuất hiện một ngôi sao dữ kéo lê sau mình cái đuôi lửa - lời tiên tri suýt nữa đã ứng nghiệm với dòng họ thống trị.
Tôi xin nhắc lại là tôi không hề ngạc nhiên chút nào về những điều họ tiên đoán, lần này tôi hoàn toàn đồng ý với họ. Họ biết công việc của mình. Vả chăng thì cuối cùng họ cũng có ích khi làm được một việc cực kì quan trọng khiến ngài quận công, binh lính và tất thảy thần dân đều tin rằng các vì sao báo điềm lành. Bây giờ tới lượt các vì sao nói lời của mình và mọi người đều rất hài lòng với những lời tiên tri đó.
Tôi thì chưa khi nào nói chuyện với các vì sao, thế mà mọi người thì lại say mê cái thú này. Đại sư Bernardo một lần nữa lại khiến tôi ngạc nhiên. Tối qua ông lại có chuyện bí mật nói với quận công, cũng như nhiều lần trước họ lại ngồi tới tận đêm khuya. Tôi cảm thấy rõ ràng là vị đại sư già thông thái này không làm mất vị trí của mình trong cung điện như tôi tưởng. Hơn nữa những nghiên cứu thông thái tuyệt đỉnh của ông tuyệt nhiên không hoàn toàn xa lạ với thế giới sôi động của chúng tôi. Tôi đã nhầm lẫn.
Ông làm tôi bực tức tới mức tôi nhầm lẫn, mặc dầu tôi hiểu ông ta như đi guốc vào bụng.
Khi tôi được gọi đến hầu, rót cho họ những cốc rượu vang như thường lệ, tôi bắt gặp cả hai đang cúi mình trên bức tranh kì lạ mà đầu tiên tôi chưa hiểu là cái gì. Sau đó, được nhìn gần hơn và qua câu chuyện của họ tôi đã hiểu. Bức tranh phác họa loại vũ khí quân sự bí mật chưa từng thấy bao giờ, thứ vũ khí gieo rắc cái chết và nỗi kinh hoàng vào hàng ngũ kẻ thù. Đó là một chiến xa tiêu diệt con người bằng những lưỡi hái dài, cắt người ta ra từng khúc trên đường tiến công. Còn có một số chi tiết rất kì quái trên bánh xe được kéo bằng những con ngựa phi nước đại đâm thẳng vào kẻ thù mà
không một sự dũng cảm nào chống cự được. Những chiếc xe có mái che với mũi tên sắc nhọn giấu kín bên trong, theo ông ta nói, nó có khả năng phá tan bất cứ một đội hình chiến đấu nào và yểm hộ cho bộ binh đột nhập vào đột phá khẩu đã mở và kết liễu số phận kẻ thù. Đó là thứ vũ khí giết người kinh khủng đến mức tôi không hiểu nổi sao người ta lại có thể nghĩ ra nó.
Rất tiếc tôi không có khả năng hiến cả đời mình cho nghệ thuật quân sự và thậm chí không hiểu được dù chỉ bằng ý nghĩ thôi rằng nó sẽ mang lại điều gì. Bức tranh còn vẽ biết bao nhiêu súng cối, đại bác phun ra lửa, đá và cả những viên đạn sắt có khả năng giật đứt phăng đầu hay tay chân của con người. Tất cả được phác họa rõ ràng, y như thật dường như ngài đại sư đã trình diễn nó đúng như công dụng của nó ở ngoài đời. Ông giải thích một cách tỉ mỉ về việc vũ khí phả hủy này, vũ khí kia hoạt động ra sao, nó có khả năng tàn phá kì diệu như thế nào. Như thường lệ, ông nói về điều ấy một cách bình thản và thành thạo tựa như nó xâm chiếm hết trí óc và sức tưởng tượng của ông. Rõ ràng, ông rất hài lòng nhìn những thứ vũ khí kia hoạt động, điều đó hoàn toàn dễ hiểu bởi chúng chính là những đứa con đẻ của ông ta. Mà có ai không muốn ngắm nhìn thành quả của chính bản thân mình cơ chứ?
Ngài đại sư Bernardo làm việc này nhưng đồng thời cũng say mê hàng nghìn việc khác nữa. Ông vừa nghiên cứu thiên nhiên với đủ những bí ẩn của nó, lại vừa nghiên cứu từng nhành hoa, hòn đá, và cũng cùng lúc lục lại cơ thể của Franchesco mà tôi nhớ là khi đó ông đã kể cho ngài quận công nghe như kể về những kiệt tác vĩ đại và bí ẩn của tạo hóa. Trong lúc ấy ông còn vẽ cả bức “Buổi họp mặt kín”, đưa vị chúa siêu nhiên ấy lên bức tượng đài vô hình, vị chúa mà tập hợp quanh mình những tín đồ trung thành và bị đóng đinh câu rút vì tên phản bội bán chúa.
Tôi tin rằng dù làm việc gì chăng nữa, ông vẫn bị cuốn hút, say mê như thế. Thế thì vì lẽ gì ông lại không say mê những thứ vũ khí kì lạ của mình nồng nhiệt như những niềm đam mê khác của ông!
Cứ cho là cơ thể con người thực tế được tổ chức rất phức tạp, mặc dù bản thân tôi cũng không biết điều này, nhưng chính những cỗ máy kia cũng không đơn giản hơn, thế mà, tôi xin nhắc lại, ông ta chính là người tạo ra chúng.
Rất lạ là ngài quận công không hẳn bị cuốn hút bởi vẻ ngoài kì lạ và đáng sợ của những thứ vũ khí kia, mặc dù theo lời thì chúng đặc biệt hữu hiệu, chỉ cần một loại vũ khí thôi đã làm cho cả một đội quân phải rút lui. Ngược lại, ngài bị hấp dẫn bởi theo ngài, vẻ đáng sợ của chúng làm cho ngài có cảm giác tin cậy. Theo ngài, chúng là những vũ khí đầu tiên, hay nói đúng hơn chúng được dành cho tương lai. Còn bây giờ cần sử dụng những gì có thể thực hiện được trên thực tế. Những thiết bị phong tỏa, những phương pháp đặt mìn dưới tường thành. Sự hoàn thiện tài tình trong cách chế tạo những cỗ máy bắn đá này đều được giữ bí mật với kẻ thù. Nói chung, một phần của tất cả những gì nhiều lần được bàn tới trước kia đã được thực hiện.
Nói chung, ngài quận công đang rất phấn chấn. Sự phong phú, đa dạng tới kinh ngạc, đáng tôn kính của những ý tưởng, giá trị đích thực của những vũ khí quý giá kia, sự bay bổng không kìm giữ nổi của trí tưởng tượng vô hạn - tất cả đều làm ngài say mê, khâm phục và ngài ca ngợi thiên tài của ngài đại sư thông thái bằng những lời lẽ tán dương, tâng bốc nhất. Chưa khi nào đại sư chứng minh sức mạnh của ý tưởng và trí tưởng tượng của mình rõ ràng đến thế. Hai con người thông thái đắm chìm trong thế giới say mê của trí tưởng tượng, những kế hoạch gìn giữ và tốt lành nhất nảy sinh trong những buổi tối cùng nhau sáng tạo. Tôi nghe họ với niềm vui sướng bởi lần này tâm hồn tôi tràn ngập niềm hân hoan và sùng kính.
Giờ đây tôi đã hoàn toàn hiểu tại sao ngài quận công mời ngài Bernardo đến cung điện, và tại sao ngài kết thân với ông ta, đối xử với ông như với những người đồng vai phải lứa, quan tâm tâng bốc và tán dương ông đến thế. Tôi cũng đã thấu hiểu niềm say mê cháy bỏng của đại sư với nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thiên nhiên của ông, hiểu những kiến thức mênh mông của ông với cái lợi, cái hại của nó. Tôi cũng đã hiểu những luận giải tinh anh, sắc sảo và đáng phục của ông về hội họa và về bức “Buổi họp mặt kín” của ông, cũng như đã hiểu tất cả những gì mà con người tài ba, kiệt xuất, toàn diện này đã làm. Bây giờ tôi đã rõ tất cả.
Ông thực sự là một vị tướng vĩ đại!
Hôm nay tôi mơ một giấc mơ rất kì lạ. Tôi mơ thấy ngài đại sư đứng cao cao trên một ngọn núi, cao hơn, vĩ đại, vầng hào quang lấp lánh trên mái tóc bạc phủ lên vầng trán thanh cao của nhà tư tưởng. Quanh ông những con quái vật lao vun vút, chính những quái vật tôi đã nhìn thấy ở Santa-Croche trên bức tranh của ông ta. Chúng lao quanh ông tựa những con quỷ dữ và dường như ông thống trị chúng. Bộ mặt của những tạo vật ghê tởm này giống như mặt thằn lằn và ếch. Trong khi, khuôn mặt đại sư như thường lệ vẫn trang trọng, nghiêm khắc và thanh cao. Bỗng nhiên, người ông cứ nhỏ dần đi, cơ thể co rúm lại trở nên kì quái và đáng thương. Trên người ông mọc ra hai cánh và những cái chân đầy lông tựa chân dơi. Giữ khuôn mặt trang nghiêm như trước, ông vẫy chúng lại và bỗng nhiên cùng đám quái thai gớm ghiếc kia biến khỏi mặt đất, lao vào bóng đêm.
Tôi không nghĩ giấc mơ ấy có nghĩa lí gì. Nó không mang ý nghĩa nào cả và cũng chẳng can hệ tới điều gì. Thực tế - đó mới chính là điều duy nhất có ý nghĩa nào đó.
Ông ta là con người kì quái! Điều đó tôi đã hiểu từ lâu.
Tư lệnh Boccaroza dẫn bốn nghìn binh sĩ đã vượt qua biên giới! Ông đã thọc sâu vào miền đất kia được hai dặm thì bất ngờ gặp Lodovico Montan, biệt danh Bò Đực, người này không ngờ, không lường tới cuộc tấn công này và không kịp trở tay.
Nguồn tin không thể tin nổi như một cú sét làm sửng sốt cả thành phố. Sự kiện khó tin này làm rung động tất cả mọi trí não.
Hoàn toàn bí mật, ngài tư lệnh tập trung lính đánh thuê trên một ngọn núi hiểm trở ở miền đông nam và tổ chức cuộc tấn công thần kì, thắng lợi oanh liệt đến thế.
Không một ai biết gì cả, kể cả chúng tôi. Không ai ngoài ngài quận công biết - người chỉ huy chân chính, người khởi xướng kế hoạch tấn công thiên tài ấy!
Bây giờ những ngày tồn tai của dòng họ Montan đã chấm dứt, đối với cả tên Lodovico đáng ghét kia, đối với đồng bào của hắn và cả với chúng tôi
thì cuối cùng cái cổ to của hắn đã bị bẻ gẫy và theo đó quyền lực dòng họ đê tiện của hắn cũng tiêu tan.
Mặc dù rất tinh quái nhưng hắn ta đã bị lừa rất khéo. Không hoài nghi gì việc hắn đã ngờ ngài quận công đã ấp ủ lâu kế hoạch tấn công nhằm vào hắn, nhưng vì hắn biết trong thành phố không hề có quân đội nên đã không hề lo lắng. Vả lại, hắn chờ đợi cuộc tấn công từ hướng khác, nơi địa hình hiểm trở, và cả ở phía thậm chí không có tường thành biên giới. Với Bò Đực thế là đã hết! Thời khắc bị trả thù đã điểm!
Khó mà diễn tả tâm trạng bao trùm lên cả thành phố. Ngoài phố, người người chen chúc nhau làm trò, hét vang, huyên náo, nhảy lên hoặc đứng yên lặng nhìn đội quân của ngài quận công. Không biết từ đâu họ hiện ra, cứ như thể từ dưới đất chui lên vậy. Tất cả cho thấy cuộc tiến công được chuẩn bị rất kĩ lưỡng.
Những hồi chuông vang lên trong không trung, nhà thờ đầy người, chen chúc nhau ở mọi lối vào. Cha đạo khấn những bài kinh mừng chiến thắng. Không nghi ngờ gì nữa, cuộc tấn công được thực hiện với lời chúc phúc và sự tán thành tuyệt đối của nhà thờ. Mà làm sao có thể khác được! Cuộc chiến của chúng tôi đã thắng lợi vẻ vang.
Toàn thể dân chúng hoan hỉ. Cung điện tràn ngập niềm vui - một sự phấn chấn chưa từng có còn ngài quận công được sùng kính vô bờ.
Quân đội chúng tôi được chuyển đến hoạt động ở vùng khác: Họ vượt qua biên giới miền Đông, men theo triền sông rộng - con đường tiến công cổ xưa. Họ sẽ dừng lại ở đồng bằng cạnh chân núi nơi địa hình rất thuận tiện cho cuộc tấn công, nơi mà mặt đất thấm đẫm máu anh hùng. Họ sẽ phối hợp với quân của ngài tư lệnh. Kế hoạch chiến dịch là thế. Chính tôi đã dò hỏi được cơ đấy!
Tôi đã biết điều đó là chính xác, nhưng lại muốn biết tất cả tường tận hơn nên nảy ra một ý định. Tôi bận bịu với việc làm thế nào để thám thính tình hình. Không bỏ lỡ cơ hội nào, tôi nghe trộm, nấp sau cánh cửa, sau tủ và các bức tường, trốn chui trốn lủi để nghe được nhiều nhất những sự kiện vĩ đại đang diễn ra.
Kế hoạch mới hoàn hảo làm sao! Chắc chắn chúng tôi sẽ giành thắng lợi. Sự thực là lần này khu vực chiến đấu có bức thành biên giới, nhưng rồi chúng sẽ sụp đổ. Chưa kể đến là kẻ thù sẽ tự đầu hàng, bởi bất cứ một sự kháng cự nào cũng đều vô nghĩa. Mà cũng có thể chúng sẽ phản công, nhưng đằng nào thì chúng cũng không làm gì nổi. Không gì có thể cản bước tiến của chúng tôi chừng nào cuộc tấn công còn bất ngờ, gây kinh hoàng, khiếp đảm kinh hồn đến thế. Ngài quận công của chúng tôi, vị thống soái mới tài ba kiệt xuất làm sao! Thật đúng là con cáo già đầy kinh nghiệm săn mồi. Mưu kế của ngài mới tinh quái, thông thái quá đỗi! Biết bao nhiêu sự vĩ đại ẩn trong những mưu lược chiến tranh này!
Tôi tự hào vì đã là người lùn của ngài.
Tất cả suy nghĩ của tôi lúc này đều dồn vào điều duy nhất là làm thế nào để được tham gia vào cuộc chiến. Tôi cần phải chiến đấu bằng bất kì giá nào. Tôi phải làm gì để thực hiện ước mơ của mình đây? Tôi chẳng có một chút kiến thức quân sự nào theo đúng nghĩa của từ này. Những kiến thức đòi hỏi ở một nhà lãnh đạo quân sự hay chí ít chỉ một người lính thôi cũng phải có. Nhưng tôi cũng có vũ khí đấy nhé! Tôi có thể đấu kiếm như một người đàn ông thực thụ. Thanh kiếm của tôi không tồi hơn lưỡi kiếm của người khác đâu! Chỉ có điều là nó ngắn hơn. Nhưng lưỡi kiếm ngắn hơn đôi khi còn nguy hiểm hơn những lưỡi kiếm dài chứ! Chính những kẻ thù kia sẽ được trải nghiệm điều đó.
Tôi phát ốm vì những ý nghĩ luôn ám ảnh trí não, vì sợ hãi phải ở nhà với phụ nữ và trẻ con. Tôi sợ phải ở nhà vào chính cái lúc mà điều gì đó rốt cuộc sẽ xảy đến. Bởi lẽ vụ thảm sát dường như sắp xảy ra ngay chính lúc này, khi cuộc chiến mới chỉ bắt đầu.
Tôi đang khát máu!
Người ta sẽ cho tôi đi! Sẽ mang tôi theo!
Cuối cùng, sáng nay tôi đã tâm sự tất cả cùng ngài quận công, nói cho ngài biết khao khát cháy bỏng của tôi là được tham chiến. Tôi nói ra đề nghị của mình tha thiết tới mức ngài không còn thờ ơ nữa. Thế là tôi đã gặp may.
Ngài vuốt những lọn tóc vừa chải vương trên trán - dấu hiệu chính xác cho thấy ngài đang trong tâm trạng thoải mái và khi nhìn tôi, cặp mắt đen của ngài sáng lên. “Tất nhiên, ngươi sẽ được đi chiến đấu” - ngài nói với tôi. Chính ngài sẽ đi chinh chiến và tất nhiên mang tôi đi cùng. Làm sao ngài quận công có thể đi mà không có người lùn của ngài ở bên? Ai có thể rót rượu cho ngài đây? Ngài vui vẻ nháy mắt với tôi.
Ngài sẽ cho tôi đi! Tôi sẽ được đi!
Bây giờ tôi ngồi trong chiếc lều dã chiến căng trên một ngọn đồi mọc đầy thông. Từ chỗ này nhìn bọn giặc dưới chân núi rõ như lòng bàn tay. Vải lều in sọc to màu vàng và đỏ - màu ưa thích của ngài quận công. Vải lều vỗ phần phật trong gió, thôi thúc và giục giã như âm thanh của chiếc kèn lệnh. Tôi đã đủ lệ bộ trong trang phục nhà binh, y hệt như ngài quận công: cũng giáp trụ, mũ và thanh kiếm đeo ở dây bạc bên hông. Trời đã về chiều, bây giờ ngoài tôi không có người nào ở đây. Vọng đến tai tôi lúc này là giọng nói của các tướng sĩ, bàn bạc kế hoạch cho trận đánh ngày mai, xa xa vọng lại giọng hát hùng dũng, âm vang của binh lính. Dưới đồng bằng, tôi nhìn thấy lều đen trắng của gã Bò Đực và những bóng người hối hả chạy ngược chạy xuôi, bé tí tẹo đến nỗi cảm tưởng như họ chẳng gây hại cho ai được. Xa xa bên trái, tôi nhìn thấy như lính kị binh không áo giáp, ở trần đang tắm cho đàn ngựa dưới sông.
Chúng tôi đã ở chiến trận hơn một tuần, thời gian được lấp đầy bằng những sự kiện vĩ đại. Cuộc chiến tiến triển đúng như tôi dự đoán. Chúng tôi đã chiếm được những thành trì biên giới của kẻ thù. Ngay sau loạt bắn phá đầu tiên, những quả trái phá tuyệt đích, độc nhất vô nhị của đại sư Bernardo đã chứng minh sức mạnh của mình. Kinh hoàng vì những loạt đại bác ghê hồn, cả doanh trại địch đã đầu hàng. Trong lúc hấp tấp, gã Bò Đực đã điều một số quân tinh nhuệ của mình hòng mưu toan dừng bước tiến của Boccaroza nhưng chúng tôi đã chiến thắng trong trận đấu ác liệt với gã. Chính vì thế kẻ thù càng không thể sánh với chúng tôi về binh lực. Giữa lúc đó, binh lính đánh thuê của Boccaroza phải đối mặt với sự kháng cự, bằng súng và kiếm họ dọn đường tiến về đồng bằng, không thèm tìm diệt đến bọn còn sống để phối hợp với chúng tôi ở phía Bắc.
Giữa trưa, cuộc gặp gỡ tối quan trọng được mong đợi từ lâu đã diễn ra nhằm chuẩn bị cho bước tiếp theo của chiến dịch. Giờ đây đội quân đã hợp nhất, chúng tôi gồm hơn mười lăm nghìn lính, trong đó có hai nghìn kị binh, đang đứng ở miền trung du, giữa đồng bằng và núi.
Tôi có mặt trong buổi gặp gỡ của ngài quận công và tư lệnh của ngài. Đó là những phút giây lịch sử trọng đại không thể nào quên. Ngài quận công làm tất cả mọi người ngạc nhiên vì vẻ trẻ trung lúc này của ngài. Ngài thật oai phong trong chiếc giáp bào làm bằng bạc mạ vàng. Trên mũ có hai chiếc lông vũ: một vàng, một đỏ, chúng lung linh đẹp kì lạ khi ngài, theo sau là đoàn tùy tùng đông đúc, chào người đồng minh nổi tiếng lạnh lùng của mình một cách thanh lịch. Khuôn mặt xanh xao vẻ quý tộc của ngài ửng hồng lên một chút, đôi môi dày nở nụ cười chân thành thân ái, nhưng ngay lúc đó, như thường lệ, lại bị kìm giữ lại, cứ như ngài đang trong mối lo âu, căng thẳng nào đó. Tư lệnh Boccaroza đứng đối diện với ngài, hùng dũng và cao lớn - một người khổng lồ thật sự. Trong tôi xuất hiện một cảm giác rất lạ, dường như tôi mới thấy ông ta lần đầu tiên. Nhưng đúng là lần đầu tiên tôi thấy ông như thế - bởi ông vừa từ chiến trận tới đây. Trên người ông vẫn giữ nguyên bộ giáp thép hết sức giản dị so với giáp bào của ngài quận công, vật trang sức duy nhất của chiếc áo là cái mặt thú làm bằng đồng đỏ treo trên ngực áo - cái mõm sư tử nhe nanh trong cơn giận dữ. Trên mũ ông chẳng có chiếc lông vũ nào, cũng chẳng có đồ trang trí gì, chỉ là chiếc mũ trống trơn. Tôi cảm giác, mặt ông ta đáng sợ nhất trong tất cả khuôn mặt của loài người. Khuôn mặt rỗ béo nung núc với hàm răng ghê đến nỗi bạn sẽ giật nảy mình nếu bất ngờ nhìn thấy, rồi còn cái mồm loài thú ăn thịt đỏ máu kia nữa. Đôi môi dày mím chặt, ánh mắt như ẩn sâu vào chốn xa xăm nhất tựa như mãnh thú trong lúc mai phục. Tôi nghĩ ông ta sẽ chiếu ánh mắt ấy vào bất cứ kẻ thù nào đang chạy trốn dù chỉ một khoảnh khắc thôi thì kẻ đó phải rời khỏi nơi ẩn náu của mình. Thật kinh sợ khi nhìn ông ta. Nhưng chưa khi nào tôi gặp một người có vẻ đàn ông nhường ấy. Đối với tôi, ông ta là hiện thân của quyền lực. Tôi như bị mê đi, nhìn ông bằng cái nhìn xa xăm của mình, cái nhìn đã soi rọi mọi thứ trên thế gian, cái nhìn của một người lùn giữ trong mình kinh nghiệm ngàn năm.
Ông ta là người trầm tĩnh, hầu như lúc nào cũng im lặng. Mọi người vẫn nói chuyện. Chỉ duy có một lần ông mỉm cười vì câu nói gì đó của ngài
quận công. Tôi không biết tại sao tôi nói là ông mỉm cười, nhưng nếu ở người khác thì đúng là nó được gọi là cười mỉm.
Thật thú vị là có lẽ cũng như tôi, ông không biết cười.
Mặt ông ta không nhẵn nhụi như người khác. Ông cũng sinh ra từ dòng giống cổ xưa, chỉ có điều không tới mức cổ xưa như tôi. Tôi có cảm giác là bên cạnh ông ta, ngài quận công chẳng là gì cả mặc dù lòng tôn kính với người chủ của tôi đã đặc biệt tăng lên trong thời gian gần đây như có lần tôi đã kể.
Tôi hy vọng được chiêm ngưỡng ông trong khi chiến trận đang diễn ra ác liệt.
Rạng đông ngày mai sẽ diễn ra một trận đánh quyết định. Tôi đã tưởng sẽ tấn công ngay không chậm trễ khi hai đội quân của chúng tôi đã hợp nhất và khi Lodovico chưa kịp định thần, đang cuống cuồng chuẩn bị lực lượng. Tôi bày tỏ những suy nghĩ của mình với ngài quận công nhưng ngài đáp rằng nên cho mọi người ngừng bắn. Theo ngài, cần phải xử sự như một hiệp sĩ với địch thủ của mình, cho hắn khả năng để chuẩn bị binh lực trước cuộc chiến trọng đại nhường ấy. Tôi hoài nghi về sự khôn ngoan, thận trọng, hợp lí của phương sách tác chiến ấy. Sự thận trọng lúc nào cũng chỉ là sự thận trọng, ngài nói, nhưng trước tiên ta là hiệp sĩ và phải xử sự như một hiệp sĩ. “Đạo luật ấy của chúng ta hẳn không nghĩa lí gì đối với ngươi.” Tôi lắc đầu. Phải cố mà hiểu, cố mà nắm giữ cái con người kì lạ này. Gíá tôi biết được quan điểm của tư lệnh Boccaroza.
Để thấy là gã Bò Đực không bỏ phí thời gian vô ích. Từ chỗ này chúng tôi quan sát thấy tất cả. Chỉ trong một ngày hắn đã vội vã tập trung khôi phục binh lực.
Lẽ tất nhiên là đằng nào chúng tôi vẫn chiến thắng, điều đó đã được định trước. Rất có thể còn chiến thắng oanh liệt hơn vì hắn ta đang gia tăng lực lượng sẽ có biết bao kẻ bị rơi đầu đây. Kẻ thù càng nhiều chiến thắng càng lẫy lừng. Có lẽ, hắn cũng hiểu rằng đằng nào cũng chết và càng ít lính hơn thì càng tốt cho hắn ta. Nhưng hắn là người kiêu ngạo và cực kì cứng đầu, đúng như bò đực.
Tuy nhiên sẽ là sai lầm lớn nếu nghĩ rằng hắn ta dù sao cũng không nguy hiểm. Thực chất hắn là một viên tướng kiệt xuất, ranh ma, táo bạo và khéo léo. Hắn sẽ là một địch thủ đáng gờm nếu như cuộc chiến này không giáng vào đầu hắn một đòn bất ngờ đến thế. Mỗi ngày, hẳn bạn càng hiểu rõ hơn tấn công bất ngờ như thế quan trọng tới mức nào, điều mà có lẽ suốt thời gian chinh chiến chúng tôi sẽ nhớ tới nhiều lần.
Tôi biết kế hoạch chiến đấu ngày mai rất chi tiết. Đội quân của chúng tôi, tức là quân của ngài quận công sẽ đánh vào trung tâm, còn quân của Boccaroza sẽ đột kích bên cánh trái. Như vậy, chúng tôi tấn công từ hai hướng chứ không phải từ một hướng. Đó cũng là lẽ hoàn toàn tự nhiên vì chúng tôi có hai cánh quân. Quân thù chỉ có một đội quân và sẽ phải đầu hàng ngay lập tức ở cả hai phía. Rõ ràng điều đó gây khó khăn cho kẻ thù còn chúng tôi lại chiếm ưu thế. Không còn nghi ngờ gì về kết cục của cuộc chiến. Dù vậy, tất nhiên chúng tôi vẫn phải chuẩn bị đón nhận những tổn thất đã được tính trước. Nói chung, tôi nghĩ đó sẽ là một cuộc chiến đẫm máu. Tuy nhiên sẽ chẳng đạt được gì nếu không hy sinh. Trận chiến này quan trọng vô cùng bởi kết cục của cả cuộc chiến tranh đều phụ thuộc vào đó. Và sự nghiệp đòi hỏi sự hy sinh.
Những bí mật nghệ thuật quân sự ngày càng cuốn hút tôi, những điều mà trước đây vẫn còn bí ẩn với tôi. Giờ đây sự phong phú và căng thẳng của cuộc sống chinh chiến thậm chí còn làm tôi hết sức thích thú. Cuộc sống mới tuyệt diệu làm sao! Tham gia chinh chiến, ấy là sự giải thoát, sự tự do tuyệt diệu cho cả thế xác lẫn tâm hồn! Bạn dường như trở thành con người hoàn toàn khác. Chưa bao giờ tôi cảm thấy sảng khoái như thế này. Cảm giác thật dễ thở. Kể cả đi lại cũng dễ dàng hơn. Cơ thể cứ như không có trọng lượng vậy.
Trong đời mình, chưa bao giờ tôi cảm thấy hạnh phúc đến thế. Phải nói thế nào nhỉ? Có lẽ tôi đã hiểu thế nào là hạnh phúc.
Ôi! Ngày mai!
Như một đứa trẻ, tôi vui mừng vì trận đánh sắp tới.
Tôi đang rất vội vã và sẽ nói vắn tắt thôi.
Cuộc chiến đã giành thắng lợi, thắng lợi oanh liệt. Bọn giặc đã bỏ chạy hỗn loạn, cố gắng một cách vô ích thu nhặt đám tàn quân. Chúng tôi đã truy kích sát gót! Giờ đây thành phố khó có thể xâm phạm của xứ Montan đã ngỏ lối dẫn vào.
Tôi sẽ kể cho các bạn nghe trận đánh thần kì này ngay khi có thời gian.
Các sự kiện tự nói bằng ngôn ngữ của mình - từ ngữ chẳng nghĩa lí gì nữa. Tôi thay ngòi bút bằng thanh kiếm.
Cuối cùng tôi cũng được rảnh rang một chút để nghĩ lại cái gì đó. Những ngày cuối cùng chúng tôi kiên trì tiến lên phía trước, trong chúng tôi cảm giác xúc động, phấn chấn vẫn nguyên vẹn như trước. Trước đây hàng đêm chúng tôi vẫn dựng lều còn bây giờ chúng tôi hạ trại ngay ngoài trời, giữa những lùm cây mẫu đơn và ôliu. Chúng tôi ngủ cuộn tròn trong áo mưa và gối đầu lên những tảng đá. Cuộc sống mới tuyệt diệu làm sao! Bây giờ, như đã nói, tôi đã rảnh rang hơn trước. Ngài quận công nói rằng chúng tôi được phép nghỉ ngơi. Có lẽ ngài nói đúng. Rốt cục thì những chiến thắng liên tiếp cũng khiến người ta mệt nhoài. Chúng tôi đứng cách thành phố thật gần, cả thành phố hiện rõ trước mắt chúng tôi như nhìn vào lòng bàn tay mình vậy. Tọa lạc giữa khu đồi là lâu đài cổ kính của Montan, vây bọc xung quanh là những nóc nhà nhọn, những ngọn tháp nhà thờ, những tháp 30 chuông. Xa xa là những ngôi nhà đơn sơ hơn, những ngôi nhà được bao bọc bằng những bức tường cao, thật đúng là một ổ cướp thực sự. Chuông nhà thờ đồng vọng tới chỗ chúng tôi - chắc hẳn bọn họ đang xin sự cứu rỗi của chúa. Chúng tôi cố gắng để không phải nghe những lời cầu nguyện của họ. Tên Bò Đực tập hợp nơi đây tất cả đám tàn quân của mình, trên đồng bằng giữa chúng tôi và đồi núi. Hắn tập trung tất cả những ai hắn có thể thu nhận. Dù có cẩn trọng đến đâu thì hắn cũng chẳng trụ được, chẳng thể chịu được những đòn trời giáng của chúng tôi. Có lẽ như một viên tướng tài ba kiệt xuất đến thế cũng không ý thức hết tình thế tuyệt vời của mình. Nhìn chung hắn cũng định chiến đấu trước khi bỏ tất cả những gì còn lại của mình vào cuộc để chạy thoát cái số phận đã được định đoạt. Đó là mưu toan cuối cùng của hắn để cứu cả thành phố của mình.
Mưu kế ấy hoàn toàn vô nghĩa lí. Số phận của triều đại Montan đã được định đoạt ngay từ buổi sáng lịch sử gần một tuần trước đây và giờ đây giờ khắc cuối cùng của nó đã điểm.
Dưới đây tôi sẽ cố gắng miêu tả một cách tỉ mỉ chính xác về trận đánh vĩ đại vô song này.
Trận đánh bắt đầu từ khi hai cánh quân của tôi nhất tề tấn công, chính xác như tôi dự đoán. Từ đỉnh đồi nhìn xuống, cảnh tượng vô cùng hùng vĩ trở nên niềm hân hoan, cổ vũ cho cả ánh mắt và tâm hồn. Quân nhạc vang lên, lá cờ của ngài quận công tung bay giữa lung linh rừng cờ rực rỡ, đẹp tuyệt. Những bức tường thành được soi rọi bằng ánh sáng mặt trời vừa rạng, theo âm thanh kêu vang của những chiếc kèn bằng bạc từ sườn núi, đoàn kị binh lao xuống ào ào như tuyết lở. Quân địch đã rình sẵn xông vào xiết chặt vòng vây và ngay lập tức những tên địch được trang bị tới tận răng sôi sục lao vào trong trận chiến giáp lá cà. Dường như, ở nơi ấy máu chảy thành sông. Những cơ thể người như bị cắt ra, thương tích, cố lê lết nhưng vẫn bị giết cho tới tận khi chết hoặc chí ít cũng bị xéo nát. Những tiếng kêu ai oán váng trời, như bất kì một cuộc chiến nào. Cuộc chiến đấu cuồn cuộn, chao đảo tựa như biển nổi cơn thịnh nộ, chỗ này, cảm tưởng như chúng tôi chiếm ưu thế, chỗ kia ưu thế lại thuộc về kẻ thù. Lúc đầu Boccaroza làm ra vẻ cùng một hướng tấn công với chúng tôi nhưng dần dần quân của ông hướng theo hình vòng cung, xông thẳng vào kẻ thù từ bên sườn. Quân giặc bị tấn công một cách bất ngờ, bởi mưu kế thông minh nên không cách gì chống cự được. Theo tôi, chiến thắng không chỉ ở sau dãy núi mà ở tận biên giới. Thời gian trôi đi, mặt trời đã đứng bóng.
Bỗng nhiên, một điều gì đó rất khủng khiếp xảy ra. Đội quân chúng tôi bên bờ sông đang dao động, khiếp sợ. Họ bắt đầu rút lui trước sức tấn công ồ ạt của quân bên phải của Lodovico. Chúng đẩy lùi họ mỗi lúc một sâu hơn, còn họ chỉ biết làm mỗi một việc là yếu ớt chống cự. Dường như họ đã mất hết tinh thần chiến đấu. Họ lùi dần, lùi dần như sợ cái chết tới mức sẵn sàng mua cuộc sống bằng bất cứ giá nào. Tôi không tin vào mắt mình nữa. Tôi không hiểu nổi đã xảy ra chuyện gì khi chúng tôi đang chiếm ưu thế về số lượng: tôi xấu hổ vô cùng vì sự hèn nhát đê tiện này! Tôi nổi điên lên, tôi hét, tôi giậm chân, tôi giơ nắm tay dọa họ trong cơn giận dữ điên cuồng, trút lên họ những lời nguyền rủa thậm tệ, trút ra tất cả sự phẫn nộ và miệt
thị của mình. Nhưng ích gì đâu kia chứ! Tất nhiên là họ không nghe thấy tôi nói - họ cứ lui, mặc tôi cảm thấy mình như phát điên lên. Mà cũng chẳng có ai đến cứu giúp họ! Không ai để ý đến tình cảnh khốn khó của họ. Mà họ cũng chẳng đáng được cứu giúp!
Bỗng nhiên tôi nhìn thấy ngài quận công, người đang chỉ huy ở phía trung tâm, ra hiệu cho đội quân phía sau mình. Quân lính tiến lên phía trước theo hướng bờ sông và dũng mãnh lướt qua hàng loạt kẻ thù. Với sức mạnh vô song, không kìm giữ nổi họ giành lại từng tấc đất trên đường tới con sông. Cho tới khi ùa ra bờ sông với những tiếng hô hân hoan. Cuộc phản công của kẻ thù đã bị đập tan! Không dưới năm trăm, sáu trăm con người đã ở trong vòng vây. Chúng bị bao vây và không còn cách nào khác ngoài việc chờ đợi người ta tàn sát mình.
Tôi sững sờ vì kinh ngạc. Tôi chưa từng biết đến mưu mô chiến đấu nào tương tự như thế. Tôi như vừa trút được một trái núi khỏi vai.
Đằng xa, cảnh chinh chiến vẫn tiếp diễn. Đội quân của chúng tôi bắt đầu bao vây địch từ mọi hướng, ép chúng vào dải đất hẹp ở giữa chiến trường và dòng sông. Cuối cùng, bọn giặc bị xiết chặt đến độ không cựa quậy được và bị chúng tôi tàn sát không thương tiếc. Trong đời mình tôi chưa từng nhìn thấy bể máu như thế. Bể máu ấy còn chan chứa hơn, kinh khủng hơn khi chúng tôi dồn thẳng chúng xuống sông, đổ xuống đấy cả đống giặc, dìm chúng như những con mèo. Chúng bị dòng nước cuốn đi một cách tuyệt vọng, chìm xuống chỗ nước xoáy, la thét, kêu cứu, chúng xử sự hoàn toàn không như một người lính. Hầu như chẳng ai trong số chúng biết bơi, có lẽ đây là lần đầu chúng bị rơi xuống nước. Còn những kẻ có ngoi lên được thì cũng ngay lập tức bị đâm chết. Ngay cả những kẻ cố dướn sang bờ bên kia thì cũng bị dòng nước xiết cuốn đi. Hầu như không tên nào thoát khỏi cái chết.
Sự ô nhục đã chuyển thành chiến thắng vẻ vang.
Từ giờ phút này các sự kiện đều dồn dập ồ ạt tới mức khó tin. Cánh quân ở giữa đột kích dồn dập vào kẻ thù, ở cánh trái tình thế tương tự, bên cánh phải đội quân của Boccaroza tàn sát quân giặc với sức phẫn nộ gấp đôi. Từ sườn núi, đoàn kị binh được nghỉ ngơi, tràn đầy sinh lực và lao
thẳng vào đám tàn quân, gây ra một nỗi khiếp đảm, kinh hoàng cho đội quân bị bao vây, và mệt lử của Lodovico. Không thể chịu nổi, chúng nhanh chóng giơ lưng ra đỡ đòn của chúng tôi. Đoàn kị binh dẫn đầu, chúng tôi theo sau, truy kích địch để hưởng thụ tận cùng cái chiến thắng vẻ vang ấy. Lẽ tất nhiên ngài quận công không dành cho chúng một cơ hội tẩu thoát nào. Một vài cánh quân, cả kị binh và bộ binh bỗng nhiên tách khỏi hàng quân, tiến theo sườn núi - rõ ràng là để cắt đường rút của địch. Cuộc chiến vẫn tiếp diễn nhưng chúng tôi không thể nhìn thấy bởi ngọn núi đã che khuất cuộc giao tranh. Cảnh tượng đột ngột mất hút tầm mắt, bị che khuất giữa những đồi núi đầy nho dọc phía bên kia của đồng bằng, nơi vừa mới đây còn là chiến trường.
Trên đồi, trại của chúng tôi bắt đầu chuyển quân, tất cả đều nhộn nhịp. Chúng tôi thắng ngựa vào xe tải, hối hả chở theo tất cả vũ khí, quân trang, tất cả mọi người đều chạy, bận rộn, hối hả. Đoàn xe chuẩn bị lên đường. Tôi phải đi trên chiếc xe tải chở lều của ngài quận công. Tín hiệu xuất phát vang lên, chúng tôi xuống núi, lao ra chiến trường mà bây giờ tựa hồ một sa mạc tiêu điều, thê lương rải đầy xác chết và thương binh. Xác người nhiều đến nỗi chốc chốc chúng tôi đành phải đi đè lên. Phần lớn bọn chúng đã chết nhưng một số mới bắt đầu kêu la như bị chọc tiết. Những binh lính bị thương của chúng tôi hét lên để ra hiệu, cầu xin chúng tôi chở họ theo, nhưng chúng tôi không thể, bởi phải nhanh chóng đuổi kịp đội quân. Dường như chiến tranh tôi luyện để bạn phải quen với mọi thứ. Dù sao tôi cũng chưa có dịp nhìn thấy một cái gì tương tự như thế. Người ngựa nằm hỗn độn, la liệt. Chúng tôi lướt qua một thây ngựa nằm phơi cái bụng bị vỡ tung, lòng ruột phòi hết ra ngoài. Tôi không thể nhìn cái cảnh suýt nữa nôn ọe.
Chính tôi cũng không biết tại sao điều đó tác động mạnh tới tôi đến thế. Tôi quát người đánh ngựa đuổi theo nhanh. Ông ta quất roi vun vút và chúng tôi lao về phía trước.
Thật là kì lạ. Đã nhiều lần tôi nhận ra là mình khá mẫn cảm trong các mối quan hệ. Có những thứ, những việc mà tôi hoàn toàn không chịu nổi. Chúng làm tôi thấy lợm giọng, ghê tởm và bắt tôi nhớ lại ruột rà của Franchesco. Dường như những gì tự nhiên nhất vì sao đó cũng luôn tanh hôi, ghê tởm.
Ngày dần tàn. Đáng tiếc là mọi thứ trên thế gian này đều có hồi kết thúc. Mặt trời lấp ló nơi đỉnh núi chiếu những tia tiễn biệt cuối ngày xuống chiến trường - một minh chứng của sự dũng cảm vô song, của vinh quang tuyệt đích và sự thất bại thảm hại.
Ngồi trên xe tải lắc lư, xoay lưng về phía những con ngựa tôi nhìn hoàng hôn phủ đặc quánh trên đồng bằng.
Chiếc sân khấu vừa trình diễn thảm kịch đẫm máu kia, giờ đã là tài sản vô giá của lịch sử, nó đang chìm dần vào bóng tối.
Bây giờ tôi có thể làm bao nhiêu tùy thích công việc viết lách của mình. Trời mưa dai dẳng.
Bầu trời như tách ra đổ xuống những cột nước. Mưa đổ cả ngày, cả đêm.
Đáng ghét là trong trang trại rất bẩn thỉu và lầy lội. Lối đi giữa các lều trở nên đặc quánh những bùn và đất sét mà bạn rất có thể bị sa lầy đến tận gối ở các nơi ngập ngụa, hỗn độn phân người, phân ngựa này. Tất cả đều nhớp nhúa, bẩn thỉu, khó chịu mỗi khi phải chạm vào. Nước dội vào bên trong qua tấm vải lều làm tất cả đều ướt nhoét. Dĩ nhiên điều đó cũng ít nhiều tác động đến tinh thần. Mỗi ngày chúng tôi đều hi vọng rằng ngày mai thời tiết sẽ đẹp hơn nhưng khi tỉnh dậy lại nghe thấy tiếng mưa lộp độp trên mái lều.
Chẳng lợi lộc gì trong cơn mưa bất tận này! Nó ảnh hưởng đến việc chinh chiến, cả cuộc chiến tranh phải dừng lại. Mà lại đúng lúc mà chúng tôi có thể thụ hưởng những thành quả chiến tranh tuyệt vời của chúng tôi. Vì lẽ gì mà trời lại mưa cơ chứ!
Binh lính đều chán nản, rầu rĩ. Họ chỉ biết làm một việc là ngủ và chơi xúc xắc. Lẽ dĩ nhiên là học mất hết tinh thần chiến đấu. Gã Bò Đực, không còn nghi ngờ gì nữa, đang tận dụng thời gian để chuẩn bị lực lượng. Còn chúng tôi cũng chẳng mạnh hơn chút nào. Chẳng có gì phải lo lắng, nhưng dĩ nhiên là rất bực mình.
Thật chẳng có gì hủy hoại tinh thần chiến đấu của binh lính hơn là mưa. Cảnh tượng chinh chiến không còn gây hưng phấn nữa, tất cả như mờ đục đi, mất hết vẻ bóng bẩy vốn có, ấy là tất cả những gì vốn rực rỡ, lung linh, tươi vui gắn với chiến tranh. Mọi vẻ đẹp bị lu mờ. Tuy nhiên không nên hình dung chiến tranh như một ngày hội vĩnh hằng. Chiến tranh không phải trò đùa, đó là việc nghiêm túc. Đó là sự chết chóc, sự hủy diệt và tiêu vong. Nó không chỉ đơn giản là một cách giết thời gian dễ chịu trong cuộc giao tranh hấp dẫn với kẻ địch đã bị suy yếu về binh lực. Ở đó cần phải học sự kiên nhẫn, lòng nhẫn nại, cam chịu và khả năng chịu đựng bất cứ sự mất mát, bất hạnh, gian khổ và nỗi đau nào. Và điểu đó là thực sự cần thiết.
Nếu sự chán nản xâm chiếm cả đoàn quân thì đó là sự việc có thể sẽ chuyển hướng nguy cấp. Chúng tôi còn không ít việc phải hoàn thành, trước tiên chúng tôi phải chiến thắng! Bọn giặc chưa bị đánh bại, tất nhiên đánh bại chúng cũng chẳng cần đợi lâu nữa. Phải thừa nhận là bọn chúng đã khéo léo rút quân sau trận thất bại khiếp đảm bên bờ sông, chúng đã rút từng bộ phận ra khỏi vòng vây. Còn bây giờ, tôi xin nhắc lại, bọn chúng đang chuẩn bị binh lực. Bởi thế, để tiêu diệt tận gốc bọn chúng, chúng tôi phải có tinh thần chiến đấu như trước, đó là đòi hỏi cấp bách lúc này.
Tất nhiên, không thể nhận thấy sự chán nản dù nhỏ nhất ở ngài quận công. Ngài thuộc loại người thực sự yêu thích chiến tranh. Vời tất cả cách biểu hiện của nó. Ngài bình tĩnh, lạc quan và đầy nghị lực, thường xuyên trong trạng thái tinh thần thăng bằng và minh mẫn. Không giây phút nào ngài đánh mất sự hùng dũng và niềm tin tưởng vào chiến thắng. Thật là một chiến binh ưu tú! Trong chinh chiến tôi và ngài giống nhau kì lạ.
Chỉ duy nhất có điều tôi cực lực phản đối ngài và không thể tha thứ cho ngài, là nguyên nhân của những lời chửi rủa thậm tệ nhất của tôi, đó là việc ngài cương quyết loại tôi khỏi cuộc chiến. Tôi không hiểu vì lẽ gì, ngài từ chối tôi? Vì lẽ gì ngài ngăn cản tôi? Trước mỗi cuộc giao tranh tôi đều cầu xin ngài, thậm chí có lần tôi quỳ xuống ôm lấy chân ngài mà kêu than một cách đau khổ! Nhưng khi thì ngài giả vờ không nghe thấy, khi thì đáp lại bằng nụ cười, ngài nói rằng ngài rất yêu quý tôi và cầu trời cho đừng có chuyện gì xảy ra với tôi. Nó sẽ xảy ra! Thậm chí tôi chỉ luôn mơ ước tới điều đó! Ngài không muốn hiểu rằng điều đó xiết bao quan trọng với tôi. Ngài không hiểu rằng, bằng cả tâm hồn mình tôi hướng ra cuộc chiến, y
như các chiến binh của ngài, mà còn hăng hái hơn, nhiệt tâm hơn, chân thành hơn và cũng say mê hơn cả họ. Đối với tôi chiến tranh không phải trò đùa mà chính là cuộc sống. Tôi khao khát chinh chiến, khao khát được tàn sát xiết bao! Không phải vì tôi muốn nổi trội mà vì chính cuộc chiến. Tôi muốn nhìn thấy những kẻ bị đánh tơi tả ngã xuống xung quanh tôi, tôi muốn nhìn thấy cái chết và sự diệt vong. Ngài không có nghi ngờ xem tôi chính là người như thế nào. Tôi phải lấy rượu vang dâng ngài, phải hầu hạ ngài và không được rời khỏi lều một bước trong lúc tâm hồn tôi khao khát chiến đấu. Tôi phải làm khán giả, buộc phải xem người khác làm những việc mà cả tâm trí, ý nghĩ của tôi dồn vào đó - bởi tôi không được phép tham gia chinh chiến. Thật một sự sỉ nhục không thể chịu nổi. Cho tới giờ tôi chưa từng giết được một người nào! Giá như ngài biết được ngài gây đau khổ cho tôi ra sao khi cướp mất của tôi khả năng ấy!
Chính vì thế tôi chưa thật sự chân thành khi khẳng định rằng tôi hạnh phúc một cách đích thực.
Tất nhiên, người khác cũng nhận ra lòng nhiệt thành chinh chiến của tôi. Nhưng khác với ngài quận công, họ không biết điều đó quan trọng với tôi tới nhường nào. Họ chỉ nhìn thấy tôi lúc nào cũng mặc giáp lính, và họ rất ngạc nhiên. Tôi hoàn toàn bàng quang với ý nghĩ của họ về tôi và về vai trò của tôi trong cuộc viễn chinh này.
Dĩ nhiên, tôi biết rõ nhiều người trong số những kẻ đang vây quanh quận công lúc này. Đó là những vị khách quý tộc thường xuyên của lâu đài, những viên tướng trứ danh xuất thân từ dòng dõi danh giá cổ xưa, cả những nhân vật cấp cao mà chỉ nhờ địa vị của mình mà họ bước vào cuộc chiến trong vai trò chỉ huy quân đội. Tất cả các tướng lĩnh quân đội hiện giờ tôi đều biết tường tận cũng như họ biết tôi vậy. Thực sự mà nói, cả một xã hội thượng lưu vây quanh ngài - những đại biểu sáng giá nhất của tầng lớp quý tộc quân sự nước nhà.
Việc gã quý tộc Riccardo cũng tham gia vào cuộc chiến làm tôi tức điên lên. Kẻ huênh hoang mới phất lên này (thích hơn cả là được ngồi cạnh quận công) lúc nào cũng giải trí cho người khác bằng những chuyện đùa xuẩn ngốc, lố bịch của mình. Má của hắn ta lúc nào cũng đỏ ửng, những chiếc răng trắng thô kệch cứ nhe ra bởi tất cả đều có vẻ buồn cười với gã - thật
đúng là một nhân cách thô lậu tới mức kì dị! Vì lẽ gì mà lúc nào hắn cũng lắc lắc mái tóc và vân vê chòm râu loăn quăn màu đen giữa các ngón tay với vẻ tự mãn. Tôi không hiểu làm thế nào ngài quận công có thể chịu đựng được sự có mặt củ hắn cơ chứ.
Tôi hoàn toàn không thể hiểu nổi phu nhân quận công say mê gì ở gã quý tộc tầm thường này. Tuy nhiên, điều đó cũng chẳng can gì tới tôi và công việc.
Chỉ đơn giản là tôi không thích.
Khi bạn nghe câu chuyện rằng hắn có vẻ dũng cảm thì bạn không tài nào hiểu nổi có ngụ ý gì. Tôi thì dù trong bất cứ trường hợp nào cũng không hiểu nổi. Hắn cùng với người khác tham gia trận chiến bên bờ sông nhưng tôi không thể tìm được hắn làm gì để nổi trội dù chỉ một chút thôi. Ví như, tôi hầu như không nhận ra hắn ta đã ở đó. Chắc chắn là hắn tự huênh hoang như thế. Mà chừng nào mọi người còn nhìn vào mồm hắn ta, nuốt lấy từng lời của hắn thì hắn chẳng nể gì mà không thuyết dụ người ta. Bản thân tôi thì hoàn toàn không tin hắn ta lại thể hiện được cái gì đó của lòng dũng cảm ở đó cả. Hắn ta thật đúng là kẻ khoác lác, ba hoa không chịu đựng nổi.
Người can đảm cơ đấy! Thậm chí chỉ nghĩ đến thôi đã thấy nực cười rồi!
Ngài quận công mới thực sự là người can đảm. Ngài ta luôn có mặt ở những chỗ nóng bỏng, ác liệt nhất, bạn sẽ luôn nhận ra ngay con ngựa bạch của ngài với mũ lông rực rỡ luôn xông vào những chỗ đông đúc nhất của trận chiến, bọn giặc nếu muốn thì bất cứ lúc nào cũng có thể chiến đấu một đôi một với ngài. Ngài thường đẩy cuộc sống của mình đến chỗ nguy hiểm. Ngài rất thích đánh giáp lá cà, đó là lúc ngay lập tức có thể nhận ra ngài đang say sưa. Và lẽ dĩ nhiên Boccaroza cũng dũng cảm. Tuy từ này có lẽ không xứng để nói về ông ta. Nó quá nhỏ mọn, không thể đưa ra ý niệm ông là người thế nào trong chiến trận. Người ta kể cho tôi rằng: khi ông đi ngang qua bọn giặc, ông đã reo rắc nỗi khiếp sợ cho ngay cả những tên giặc được tôi luyện gan dạ nhất! Người ta còn kể, nỗi khiếp sợ nhất là ông dường như không phát khùng lên, không say sưa chiến trận mà đơn giản ông chỉ tập trung làm công vụ của mình, tàn sát điềm tĩnh và đúng chiến
thuật. Người ta còn kể ông thường xuống ngựa chiến đấu, có lẽ là để đi gần hơn tới nạn nhân của mình. Đơn giản là ông muốn thả kẻ thù vào vũng máu, đâm xuyên thủng chúng. Theo mọi người, so với ông ta thì việc chinh chiến của ngài quận công và những người khác nữa chỉ là trò tiêu khiển trẻ con. Chính tôi cũng không được tận mắt chứng kiến bởi từ xa tôi không thể theo dõi cặn kẽ, tôi chỉ biết qua lời kể của người khác. Không thể tả nổi là tôi đã bực mình thế nào vì không thể nhìn gần được ông ta.
Những người như ngài quận công và ông ta mới chính là những con người dũng cảm thực sự, mỗi người theo cách riêng của mình. Còn gã quý tộc Riccardo. Thật nực cười khi nhắc đến hắn bên cạnh họ.
Tuy nhiên, Boccaroza cũng như những tên lính đánh thuê của ông ta đều thiêu ra tro tất cả mọi thứ trên đường đi của mình và tiêu diệt, phá hủy và tàn phá tất cả tới mức sạch trơn. Theo ngài quận công, điều đó hơi quá, chiến tranh không nhất thiết phải như vậy. Mặc dù chính ngài không ngăn cản tàn phá. Theo mọi người kể lại, nơi nào có Boccaroza đi qua thì không còn dấu hiệu của sự sống. Nói chung, tất nhiên là nếu những câu chuyện này đáng tin, thì ngài quận công và viên tư lệnh của ngài bất đồng quan điểm. Riêng tôi càng tôn kính và khâm phục quan điểm của Boccaroza hơn. Mảnh đất của giặc thì vẫn là đất giặc và cần đối xử thích đáng với nó. Qui luật của chiến tranh là thế. Cứ để cho điều đó được gọi là sự tàn bạo, nhưng chiến tranh và sự tàn bạo luôn đi đôi, không thể chia cắt được, bạn không thể làm khác được. Dù muốn hay không bạn vẫn phải tiêu diệt những kẻ chiến đấu với ta và tàn phá đất nước chúng đến trống trơn để nó không thể khôi phục được. Thật nguy hiểm nếu để lại sau mình ổ đề kháng, cần phải tin tưởng rằng hậu phương không nguy hiểm. Không, Boccaroza đúng, điều này là không thể chối cãi được.
Ngài quận công đôi khi quên là mình đang ở giữa lòng địch. Theo tôi, việc ngài quá chú ý tới dân cư là điều không thể chấp nhận được. Lấy ví dụ trường hợp sau. Một lần chúng tôi đi ngang qua một bản miền núi nhỏ, xấu xí, ngài đứng lại và xem họ tổ chức lễ hội gì đó. Ngài đứng và chăm chú nghe họ thổi sáo cứ như đó mới chính là âm nhạc và vì nó phải dừng lại. Tôi không hiểu ngài tìm thấy sự thỏa mãn nào ở nó. Cái gì làm cho ngài thấy thú vị khi nói chuyện với những kẻ gần như hoang dại này. Bản thân
tôi hoàn toàn không hiểu nổi điều đó. Và ngay cả ý định của họ cũng hoàn toàn nhảm nhí, vô nghĩa.
Hình như đấy là ngày hội mùa hay ngày lễ gì đó tương tự. Một người phụ nữ mang thai đổ xuống đất một ít rượu nho và dầu ôliu, tất cả ngồi vòng quanh chỗ đó bắt đầu truyền cho nhau bánh mì, rượu vang và pho mát tự làm bằng sữa để theo vòng tròn. Họ ngồi ăn và uống. Ngài quận công cũng ngồi xuống và bắt đầu ăn cùng họ, ngài khen ngợi những quả ôliu của họ và cả miếng pho mát mỏng dẹt trông phát ghê kia. Khi tôi lướt mình, ngài nâng chiếc bình rượu nho cũ và bẩn lên miệng và uống như mọi người. Nhìn thật phát ghê. Tôi không thể hiểu nổi ngài. Tôi chưa bao giờ lại nghĩ rằng ngài có thể xử sự như vậy. Ngài luôn làm tôi ngạc nhiên chứ không như những người khác.
Khi ngài hỏi người phụ nữ kia đổ rượu và dầu ăn ra đất để làm gì, điều đó có ý nghĩa gì thì họ lúng túng và im lặng, như thể đó là điều bí mật. Trên khuôn mặt nông dân ngơ ngẩn của họ luôn hiện lên một nụ cười tinh quái, ranh mãnh. Cuối cùng chúng tôi cũng biết họ làm thế để mặt đất sản sinh nhiều nho và ôliu cho năm sau. Thật buồn cười. Cứ như là đất có thể biết họ đổ rượu và dầu lên nó và họ muốn gì ở nó vậy.
“Chúng tôi luôn có những ngày hội như thế” - một người nói. Một lão già có bộ râu dài rối bù, có vẻ đã uống khá nhiều rượu, tiến lại gần ngài quận công, quỳ xuống, nhìn thẳng vào mắt ngài và nói một cách quả quyết: “Cha ông chúng tôi đã làm thế và chúng tôi không bỏ truyền thống của tổ tiên”.
Sau đó họ bắt đầu nhảy những điệu nhảy quê mùa, vụng về, cả già, cả trẻ, ngay cả những người già đã gần kề miệng lỗ. Nhạc công thổi những chiếc sáo mục ca tự làm của mình, những chiếc sáo có hai - ba thanh âm và âm thanh của chúng gần giống nhau. Tôi không hiểu ngài quận công thích thứ gì ở cái thứ nhạc nguyên thủy của thế gian này. Gã quý tộc Riccardo cũng có mặt cùng chúng tôi, hắn ta đứng đờ ra tại chỗ dường như quên hẳn là chiến tranh đang diễn ra và bọn giặc đang vây quanh. Còn khi những người mọi rợ này bắt đầu hát những bài buồn tẻ và dài lê thê thì như họ không thể dứt ra được. Và họ ngồi đến tận khuya. Họ không hình dung nổi qua đêm trên núi là nguy hiểm.
“Một buổi tối thật tuyệt vời” - Trên đường trở về trại họ không ngừng khẳng định điều đó. Còn gã Riccardo, kẻ dễ thán phục và mủi lòng bắt đầu thuyết giảng về vẻ đẹp của phong cách bằng cái vẻ huênh hoang, tự đắc mặc dù chẳng có gì là đẹp. Chốc chốc hắn lại dừng lại, lắng nghe tiếng sáo và tiếng hát từ cái bản xấu xí, bẩn thỉu và hẻo lánh trên núi cao kia hồi lại vẫn còn vọng tới chỗ chúng tôi.
Buổi chiều Riccardo đến trại của ngài quận công cùng với hai người phụ nữ làng chơi mà không hiểu bằng cách nào đã từ thành phố lọt vào chỗ chúng tôi, vượt qua nơi nước sôi lửa bỏng của cuộc chiến đấu, chắc chắn họ đến với hy vọng kiếm chác trong lúc ở chỗ chúng tôi thứ mặt hàng này còn chưa tốt lắm. Hơn nữa phụ nữ luôn thích qua đêm với kẻ thù, chính họ đã nói như thế. Lúc đầu nhìn vẻ mặt ngài quận công rất khó chịu, tôi đã không nghi ngờ là ngài sẽ nổi cơn thịnh nộ và đuổi những mụ đàn bà hư đốn này đi, còn gã quý tộc Riccardo sẽ bị trừng phạt thích đáng vì sự hỗn xược chưa từng thấy này. Nhưng ngài làm tôi hết sức kinh ngạc khi ngài bỗng nhiên cười lớn, đặt một trong số mụ đàn bà kia ngồi lên đùi và sai tôi rót thứ rượu quý nhất của chúng tôi. Tôi mong ước trả bằng bất cứ giá nào để không phải có mặt trong cuộc chè chén thâu đêm của họ: Bây giờ tôi không thể nào dứt ra khỏi cái hồi ức tởm lợm ấy.
Làm sao mà bọn chúng lại lọt vào được cơ chứ! Thật không thể hiểu nổi. Tuy nhiên, đàn bà, nhất là những mụ đàn bà thuộc loại này thì cũng giống như lũ chuột mà thôi, với chúng thì chẳng có một rào cản nào có hiệu lực, chúng sẽ gặm thủng hết đường nào chúng muốn đi qua. Ngay lúc tôi định về lều của mình để ngủ thì lại phải ở lại hầu hạ họ - không phải chỉ có quý ngài của tôi mà còn cả gã quý tộc Riccardo, rồi đến cả cái thứ đàn bà đốn mạt này, bọn đàn bà nhễ nhại mồ hôi, mặt đỏ bừng, bôi trát lên mặt các thứ phấn xứ Venezia mà đứng cách hàng trăm bước cũng sặc sụa bốc mùi. Không lời nào có thể diễn tả hết sự ghê tởm cùng cực của tôi.
Gã quý tộc Riccardo không ngớt lời ca tụng vẻ đẹp của bọn chúng, đặc biệt là một ả, gã ta thích cặp mắt của ả, tóc ả và đôi chân của ả và gã lần lượt chỉ cho ngài quận công xem. Giá mà tôi có thể làm cho kẻ mặt dày mày dạn này im mồm đi nhỉ!, sau đó, quay lại với ả kia gã lại tán dương ả bằng những lời lẽ xu nịnh hết cỡ để ả khỏi mếch lòng. Tất cả phụ nữ đều
tuyệt đẹp! - gã thốt lên. Trong con người họ là cả sự khoái lạc mê li của cuộc đời. Nhưng đáng trọng hơn cả là kĩ nữ, những người hiến dâng cả cuộc đời cho tình yêu và không thay lòng đổi dạ chỉ một khoảnh khắc thôi! Gã ta xử sự xuẩn ngốc và đê hèn kinh khủng, và dù tôi vẫn luôn nghĩ gã ta là kẻ đê tiện và ngu ngốc nhất trong số đàn ông, thì cũng chưa thể nghi là gã lố bịch và ngu độn đến mức ấy.
Họ uống rất nhiều, và dần dần rượu cũng phát huy tác dụng. Gã quý tộc Riccardo lẽ dĩ nhiên lại kích động, bắt đầu thao thao diễn thuyết về tình yêu và kết thúc bằng những vần thơ, những vần thơ ảo não, buồn thảm, nhiều nhất là những bài Sonnet trữ tình về một cô nàng Lara nào đó - những con ngốc kia thậm chí còn rơm rớm nước mắt. Gã ta đặt đầu lên đùi một cô, còn ngài quận công gối đầu lên ả kia và những mụ đàn bà khốn nạn này vuốt ve mái tóc họ và mê đi trong khoái lạc khi nghe những điều ba hoa xuẩn ngốc kia. Trong lòng gã quý tộc là ả đàn bà đẹp hơn và tôi không thể không nhận thấy cái nhìn lạ lùng, trừng trừng của ngài quận công hướng vào gã khi nghe các mụ đàn bà ngu xuẩn kia bắt đầu ồ, à thán phục những gì gã nói hay những việc hắn làm. Đàn bà luôn thích những gã đàn ông thô lậu và hèn mọn, bởi vậy giữa họ sẽ có nhiều điểm chung hơn.
Nhưng bỗng nhiên Riccardo bật dậy và tuyên bố thế là đã đủ, những khoái lạc tình yêu đa cảm thế là đủ, chúng ta sẽ uống và sẽ vui vẻ! Và bây giờ cuộc chè chén mới thực sự bắt đầu, say mềm, những câu nói đùa, những tiếng cười hô hố, những câu chuyện tiếu lâm thô tục đến mức tôi thậm chí không thể kể lại. Vào lúc sôi nổi nhất của cuộc nhậu nhẹt, nâng cốc chúc sức khỏe gã quý tộc Riccardo, ngài quận công bỗng nhiên hét lên “Ngày mai người sẽ là người cầm cờ cho ta trong trận chiến!” Hân hoan vì sự trìu mến không mong đợi ấy, mắt Riccardo sáng rực lên. “Hi vọng rằng cuộc chiến ngày mai sẽ khốc liệt!” Hắn hét lên, khoác lác trước mặt các mụ đàn bà kia để họ đánh giá sự dũng cảm của gã một cách xứng đáng! “Không thể biết trước được nhưng có thể sẽ như thế” ngài quận công đáp lời. Và gã quý tộc nắm tay ngài hôn lên nó một cách tôn kính và biết ơn tựa như chàng hiệp sĩ với lãnh chúa của mình vậy. “ Ngài quận công thông thái của tôi ơi, hãy nhớ rằng chính ngài đã hứa lần nào chúng ta sẽ say sưa vui vẻ!” - “Cứ yên tâm. Ta không quên đâu”.
Những mụ điếm kia, như phát hiện ra một sân khấu tráng lệ, dán mắt vào cả hai người. Tất nhiên, nhất là với người được cầm cờ vào trận chiến.
Ngay sau khi kết thúc cái cảnh chuyển hồi này, cuộc nhậu nhẹt phóng túng lại tiếp tục, họ cư xử hết sức bất nhã, thô bỉ và vô sỉ. Tôi, khán giả bất đắc dĩ này nhìn họ bằng con mắt lúng túng đầy căm hờn. Họ ôm nhau, hôn nhau, đỏ mặt, bừng lên trước nhục dục đê hèn, buông thả, mãnh liệt. Một sự nhơ nhuốc, ghê tởm không tả nổi! Mặc dù các mụ đàn bà có vẻ phản đối nhưng những gã đàn ông kia vẫn kéo váy của họ lên tận thắt lưng, lột trần bộ ngực, ở ngực của ả đẹp hơn, núm vú có vẻ màu hồng và trên đó có một nốt ruồi không lớn lắm nhưng dễ nhận thấy.
Khi tôi rót rượu cho ả, tôi khổ sở từ cái mùi bốc lên từ cơ thể ả. Mùi của ả đúng như mùi của quận công phu nhân mỗi buổi sáng khi bà ta vừa rời giường ngủ, biết thế nên tôi không bao giờ đến gần bà ta. Khi gã Riccardo động tay vào ngực ả, trong tôi dâng lên sự kinh tởm và căm thù đến nỗi tôi sẵn sàng bóp chết gã bằng bàn tay của chính mình hay đâm chết hắn tại chỗ bằng một con dao găm, để tất cả dòng máu dâm đãng kia chảy hết khỏi hắn ta, để hắn ta không bao giờ còn chạm vào đàn bà được nữa. Run lên vì cảm giác ghê tởm xâm chiếm cả cơ thể, đứng trong góc phòng tôi nghĩ: Tất cả lũ người bỉ ổi kia cũng chỉ là một lũ súc sinh. Cứ để chúng bị thiêu đi trong ngọn lửa dữ dội!
Tự nhiên gã Riccardo, kẻ cố ý hay vô ý vồ vập con bé xinh đẹp hơn kia, có lẽ vì ả cứ bám chặt lấy hắn, bỗng nảy ra một ý nghĩ thật dấm dớ, là chơi xúc xắc để giành ả đàn bà xinh đẹp ấy: ai thắng thì kẻ đó sở hữu ả. Ý tưởng ấy làm cả bốn người đều thích, cả ngài quận công, cả hai mụ đàn bà, còn ả gái làng chơi vừa nói tới kia thì lõa thể đến phần nửa ngồi ngửa người về đằng sau, và cười the thé vì khoái chí với cuộc đấu sắp tới. Tôi nhìn ả mà chực buồn nôn, tôi không thể hiểu họ tìm được lẽ gì đẹp và quyến rũ nơi ả để mà có thể đạt được cái giải thưởng ghê tởm ấy. Ả đàn bà đó có mái tóc sáng và làn da trắng với đôi mắt to, xanh và hai nách mọc lông rậm rì, theo tôi ả thực đáng tởm. Tôi không bao giờ có thể hiểu được là lông nách ở con người cần để làm gì; và bất cứ lúc nào mà tôi nhìn thấy lông nách tôi đều thấy kinh tởm, đặc biệt khi nách đầy mồ hôi. Mọi sự đều khác nơi người lùn chúng tôi, bởi vậy điều đó khiến chúng tôi lợm giọng. Nếu như mà lại có
lông ở nơi nào đó trên cơ thể tôi ngoài trên đầu chỗ con người thực sự cần tóc, thì có lẽ tôi sẽ chẳng biết độn thổ đi đâu vì xấu hổ.
Họ sai tôi đi lấy xúc xắc. Ngài quận công gieo trước tiên, ngài được sáu và một. Theo thỏa thuận thì ả xinh đẹp phải được giao cho người năm mươi điểm trước tiên. Họ lần lượt gieo xúc xắc, còn hai ả theo dõi chẳng rời mắt, chúng quan tâm say sưa, buông những lời nhận xét cợt nhả, the thé và cười sằng sặc. Ngài quận công thắng cuộc, thế là cả bốn người đều nhẩy cẫng lên, họ cười và gào thét tranh nhau cướp lời.
Và rồi cả hai người đàn ông vồ lấy hai ả đàn bà, mỗi người chộp một đứa, họ xé toạc áo váy khỏi người hai ả và bắt đầu những trò nhục dục, đốn mạt không thể tưởng tượng nổi đến mức tôi không chịu được nữa bèn lao ra khỏi căn lều và trong người thấy sôi sục. Khắp người tôi toát ra mồ hôi lạnh, da tôi sởn gai ốc. Run rẩy vì ớn lạnh, tôi chui vào cái lều dành cho đầy tớ và ngả lưng nằm trên ổ rơm của mình giữa tay đầu bếp và gã chăn ngựa thô lậu. Người gã sặc sụa mùi ngựa và cứ sáng sáng khi gã dậy đi tắm cho ngựa thì gã lại lấy chân đạp tôi một cái, tôi không hiểu vì sao gã làm vậy. Tuy nhiên như gã nói rằng làm thế chỉ đơn thuần là gã thích đạp tôi thôi.
Có thế lí do ở chỗ tôi là một sinh linh khác loài, nhạy cảm hơn, tinh tế hơn và bởi thế tôi phản ứng rất mau lẹ và rành rẽ với nhiều điều mà vốn chẳng khiến họ phải bận lòng. Tôi không biết về yêu đương. Tôi chưa bao giờ nếm trải cái mà người ta gọi là ái tình, vả lại tôi đâu có mong muốn, không một mảy may ham muốn. Có một lần người ta đề nghị tôi cầu hôn một cô gái lùn, một cô gái xinh đẹp với đôi mắt nhỏ tinh tường như mắt tôi trên khuôn mặt nhăn nheo và còn làn da như giấy da cừu - một khuôn mặt đích thực xứng đáng là con người. Nhưng cô ta không hề kích thích nơi tôi bất cứ một cảm giác nào cả, mặc dầu tôi đã nhìn nhận thấy rằng trong vẻ đẹp của cô không có gì là gây khó chịu cả như điều thường thấy ở mọi người, vẻ đẹp của cô mang tính chất hoàn toàn khác. Có thể, nguyên nhân là do chính quận công phu nhân đã đề nghị cô ta đến với tôi vì toan tính chúng tôi kết hôn với niềm hy vọng chúng tôi sẽ sinh ra một chú lùn tí hon mà khi đó bà ta rất muốn có. Việc ấy xảy ra trước lúc bà sinh hạ Angelica, cho nên bà mơ ước muốn có một thứ đồ chơi cho mình. Bà ta bảo thật là vui khi có một đứa bé lùn mà. Song tôi hoàn toàn không có ý định cung phụng
bà ta như vậy và cũng chẳng chịu hạ nhục dòng giống mình vì phải đồng ý với lời đề nghị đê tiện như thế.
Cần nói rõ là bà ta đã nhầm khi nghĩ chúng tôi sẽ có thể ban tặng bà ta một đứa bé. Những người lùn chúng tôi không đẻ em bé, về bản chất của mình chúng tôi là vô sinh. Chúng tôi không có khả năng duy trì nòi giống mà chúng tôi cũng chẳng muốn việc này. Chúng tôi chẳng bận lòng việc sinh hạ con cháu vì loài người tự mình cho ra đời những người lùn. Cứ để những sinh linh cao ngạo đó tự sinh hạ ra chúng tôi trong những cơn đau vật vã. Dòng giống xa xưa lâu đời chúng tôi được kế tiếp bởi những nỗ lực của chính họ và chỉ có như thế mà chúng tôi phải lần lượt ra đời. Trong sự vô sinh của chúng tôi hàm chứa một ý nghĩa sâu sắc. Chúng tôi có cùng nguồn gốc với họ và đồng thời cũng hoàn toàn khác họ. Chúng tôi là khách trên thế gian này. Những vị khác xa xưa, đầy nếp nhăn, những vị khách suốt hàng thiên niên kỉ, những vị khách, mãi mãi.
Nhưng tôi đã đi quá xa khỏi đề tài câu chuyện của mình rồi. Vậy thì tôi xin tiếp tục.
Thực sự là Don Riccardo mang lá cờ của quận công vào sáng hôm sau. Tôi đã nghe nhiều người nói về việc tại sao điều đó lại xảy ra như thế! Song tôi có ý kiến riêng về việc này, tôi nghi ngờ có điều uẩn khúc thực sự trong sự thể đã diễn ra. Người ta kháo nhau dường như sau khi ra mệnh lệnh kì cục đó mà ngài quận công đã khiến sinh mạng Don Riccardo lâm vào một tình huống nguy hiểm không cần thiết và không bị tử thương chỉ là nhờ sự may mắn kì diệu, bởi lẽ anh ta đã lâm vào một tình thế cực kì nguy hiểm khi bị buộc phải cùng một đội khinh kị nhỏ nhoi dẫn đầu tấn công quân thù. Đồng thời người ta cũng khẳng định rằng Don Riccardo đã chiến đấu với lòng can đảm chưa từng thấy. Khi anh ta chỉ còn có một nhóm quá ít ỏi các tay kị binh thì tất cả họ tập trung lại như một xung quanh lá cờ và chống trả quyết liệt hoàn toàn, mặc dù họ chỉ còn là một giọt nước trong biển cả nếu so sánh với quân địch. Và khi mọi sự như đã sụp đổ thì ngài quận công dường lao thẳng vào đám quân lính đang hỗn chiến, hoặc là do đơn thuần ngài không thể đứng im không tham gia một cuộc chơi mạo hiểm nhường ấy, hoặc do một nguyên nhân nào khác nữa. Có trời mà biết sự thật. Với sự tháp tùng của một nhúm nhỏ lính kị binh, ngài xông thẳng vào hàng ngũ địch quân và bắt đầu chém lia lịa khi lao tới giúp giải thoát cho Don
Riccardo. Nhưng bỗng ngựa của ngài bị một ngọn lao đâm vào ngực khiến nó đổ gục xuống đất. Ngài quận công văng ra khỏi yên ngựa và lăn xuống đất trong vòng vây của quân giặc. Điều đó dường như đã làm cho Don Riccardo trở nên nổi giận và dũng mãnh đến nỗi anh ta cùng các chiến sĩ của mình chọc thủng vòng bao vây của quân giặc, và dưới sự yểm hộ từ phía các kị binh của ngài quận công, anh ta đã không cho phép kẻ thù đến gần chỗ ngài ngã ngựa. Chắc Don Riccardo đã mất nhiều máu vì bao nhiêu vết thương. Người ta đồn rằng chắc hẳn anh ta đã hiểu việc ngài quận công mong cho anh ta chết, tuy nhiên anh ta vẫn lập công như vậy và cứu mạng sống của chính ngài quận công.
Tôi không tin vào ức thuyết ấy. Ức thuyết này với tôi có vẻ hoàn toàn không giống thực tế. Song tôi truyền đạt lại nó chỉ để kể lại những điều người ta kể về các sự kiện bi thảm vào buổi sáng hôm đó.Nếu như tôi nhìn sự thật theo một nhãn quan khác thì điều này được giải thích trước hết bởi lẽ là tôi hiểu quá rõ tính cách của Don Riccardo. Tôi biết rõ anh ta hơn ai hết. Anh ta không phải là một con người như vậy.
Như tôi mường tượng thì ức thuyết này tỏ ra được tô mầu quá lộ liễu bởi cách hình dung về Don Riccardo đã hình thành trong tâm não tất cả mọi người, và cũng bởi chính quan niệm của anh ta về bản thâm mình. Một câu chuyện truyền thuyết đẹp đẽ được sắp đặt ra, chẳng có ai lại đoái hoài xem nó có phù hợp với sự thật hay không. Người ta cho rằng anh ta là hiện thân của lòng can đảm và tất thảy những gì anh ta làm đều cao thượng đẹp đẽ và tuyệt vời. Mà nguyên do của điều đó chỉ là khả năng kì lạ của anh ta khiến mọi người bắt mắt và thu hút mọi sự chú ý tới mình. Hành vi của anh ta ngoài sa trường nổi bật nhờ thói hư danh nực cười và toàn bộ lối cư xử và mọi hành động của anh ta cũng thế. Đó là thói khinh suất liều lĩnh của anh ta, cái thói đã khiến mọi người vị nể, mà lẽ đó chỉ đơn thuần được giải thích bằng sự xuẩn ngốc của anh ta mà thôi. Thói khinh suất liều lĩnh ngu xuẩn của anh ta bị nhận nhầm là lòng dũng cảm.
Nếu thực tế anh ta can trường đến vậy, nếu anh ta thường dấn thân vào mọi mối nguy hiểm như anh ta thường nói thì vì sao anh ta lại không bao giờ chết, người ta có thể tự hỏi như vậy. Câu hỏi tự nó nổi lên trong óc mọi người. Chắc chẳng có ai thương xót anh ta nếu anh ta chết, tôi lại càng không.
Đến lần này thì dường như anh ta bị thương khắp người. Đó là sự thật hay không, tôi chẳng rõ, nhưng tôi tự cho phép mình được hoài nghi. Có lẽ mọi sự kinh khủng không đến nỗi ấy. Có thể những vết thương chỉ xoàng xĩnh mà thôi. Bất luận thế nào đi nữa thì cũng từ khi đó, tôi chẳng còn phải gặp anh ta nữa.
Thế nhưng tôi vẫn tin là anh ta có cớ để lâm chiến cùng với những mũ lông của quận công phu nhân mà như người ta nói là chính bà ta đã tặng anh ta trước khi chúng tôi hành quân, điều này có nghĩa là buổi sáng hôm ấy, những cái lông ấy đã phấp phới trên chiếc mũ sắt của Don Riccardo, và anh ta đã công khai chiến đấu vì ý trung nhân của mình. Khi bảo vệ lá cờ của quận công, gan dạ nhường ấy, anh ta đã chiến đấu có lẽ vì người yêu của mình. Và khi cứu mạng sống cho ngài quận công thì chắc anh ta cũng lao vào huyết chiến vì bà ta. Mà anh ta cũng vừa mới ôm người đàn bà khác. Có thể là anh ta ra trận ngay từ giường ngủ của ả, sau khi trang trí cho mình bằng mũ lông do người đàn bà của con tim vừa tặng, ấy là một đồ vật của một tình yêu vĩ đại và nồng cháy. Tình yêu đích thực của anh ta nở ra thành một đóa hoa tươi tốt trên chiếc mũ che mặt để ngỏ của người hiệp sĩ, vả lại khi ấy, cái xác thịt phản bội vẫn còn nồng ấm thứ đam mê nhục dục đầy tội lỗi. Thực sự thì tình yêu giữa mọi người với nhau quả là một ẩn số. Không lạ lùng ngạc nhiên gì việc tình yêu không thể đạt thấu được đối với tôi.
Cũng thật bí ẩn những mối quan hệ giữa hai người đàn ông vốn cùng gắn bó với một người đàn bà. Liệu điều đó có phải đã gây nên những mối ràng buộc bí mật giữa họ với nhau hay không? Đôi khi bắt đầu có cảm giác rằng chính là như vậy. Liệu có phải thực sự như người ta khẳng định rằng Don Riccardo đã cứu mạng cho ngài quận công? Tôi không nghĩ như vậy. Tuy nhiên, có thể lắm chứ - nhưng chỉ trong trường hợp xảy ra do tính hiếu danh để bằng một hành vi hiệp sĩ của mình mà đem ơn trả oán với ngài quận công, người đã mong anh ta chết, để chứng minh cho tất thảy mọi người thấy rằng anh ta cao thượng đến nhường nào. Điều này hoàn toàn phù hợp với khí chất của anh ta. Và cũng có thực sự như người ta muốn cam đoan rằng ngài quận công khi đó đã lao vào cứu sống Don Riccardo, cho dù ngài vừa mới mong cái chết ập đến với anh ta. Tôi không biết rõ. Dầu sao tôi cũng không hiểu được điều này. Liệu một con người có thể đồng thời vừa yêu vừa căm thù không nhỉ?
Tôi nhớ tới cái nhìn chăm chú, lạ lùng của ngài quận công đêm hôm ấy khi ông báo trước cái chết. Nhưng tôi cũng nhớ rằng với ngài có cặp mắt mơ mộng và ướt át đến mức nào khi ngài đang nghe Don Riccardo đọc thơ về ái tình, một tình yêu vĩ đại đang cuốn hút chúng ta bằng ngọn lửa nồng nàn, ngấu nghiến và thiêu đốt hết tất cả thân xác chúng ta. Có thể tình yêu ấy chỉ là những dòng thơ đẹp đẽ không có một nội dung xác định nào, chỉ đơn thuần êm ái cho thính giác nếu đọc to và xúc động hay chăng? Tôi không rõ. Song cũng không loại trừ việc chính tình yêu là như vậy. Con người ta là những kẻ đúc tiền giả đặc biệt.
Cái đêm bên cạnh ả gái điếm cũng khiến tôi ngạc nhiên. Tôi luôn luôn nghĩ rằng ngài không thể suy đồi đến mức như vậy. Tôi vốn đã quen với việc ngài thường tỏ ra khác với những gì tôi vẫn hình dung về ngài. Hôm sau đó tôi dùng lối nói ngụ ý khéo léo, cẩn thận kể lại điều đó cho một người đầy tớ nghe, và tôi đã thật sửng sốt. Anh ta tuyệt chẳng ngạc nhiên chút nào. Anh ta bảo tôi, ngài quận công đã luôn luôn có nhân tình trong số các lệnh bà hay các nữ thị dân, đôi khi là những kĩ nữ nổi tiếng. Bây giờ ngài có một nữ gia nhân của bà quận công Phiametta là người tình. Ngài thay đổi tình nhân như găng tay, anh ta vừa nói vừa cười vì ngạc nhiên với sự kém hiểu biết nơi tôi.
Thật lạ lùng vì lẽ gì lại có thể lọt qua cái nhìn nói chung là tinh tường hiếm có của tôi cơ chứ. Vậy là sự thuần phục vô điều kiện trước ông chủ đã làm tôi mờ mắt đi đến mức độ nào.
Tôi chẳng động lòng khi ngài phản bội quận công phu nhân. Tôi căm ghét bà ta và thậm chí còn vui sướng khi người ta lừa dối bà. Hơn nữa, bà ta còn yêu Don Riccardo. Bà ta đã viết những lời lẽ yêu đương cháy bỏng mà tôi phải giấu trong áo ngực để gửi không phải cho ngài quận công mà là cho anh ta. Trong thâm tâm tôi hi vọng cuối cùng anh ta sẽ bị triệt hạ.
Ơn Chúa, mưa đã tạnh. Khi chúng tôi ra khỏi lều thì mặt trời đã tỏa nắng nóng nực, những đường viền của núi non nom thật rõ ràng và rành rẽ mặc dù đương nhiên tất thảy xung quanh thấm đẫm khí ẩm ướt, khắp nơi là những vùng nước, những dòng nước chảy róc rách. Buổi sáng gieo niềm hưng phấn lạ lùng. Bầu trời quang quẻ, trước tầm mắt hiện ra thành phố của
quân cướp bóc xứ Montan nhô cao trên ngọn đồi, chúng tôi đã hơi quên đi hình dạng của nó, song bây giờ nhìn rõ từng căn nhà sàn bức tường thành, những lỗ châu mai nơi những ngọn tháp pháo đài cổ xưa, tất cả đều rõ ràng, cho tới tận những cây thập tự mạ vàng trên nóc các nhà thờ và tháp chuông, sau mưa mọi thứ nom thật rõ ràng đặc biệt. Chẳng còn xa nữa cái ngày thành phố đáng nguyền rủa kia sẽ bị chiếm và sẽ biến mất khỏi mặt đất.
Tất cả mọi người đều vui sướng chui ra khỏi lều và khoan khoái dưới làn không khí tươi mát, thời tiết đẹp và dễ chịu làm người ta khoái hoạt và nâng cao tinh thần chiến đấu. Sự uể oải, hờ hững dường như đã bị gió cuốn đi đâu hết. Tất cả binh sĩ đều mong ra trận. Tôi thật sai lầm khi cho rằng mưa có tác động tai hại tới tinh thần quyết chiến của quân đội. Có lẽ, mưa chỉ ngăn chặn được tinh thần đó trong một khoảng thời gian ngắn mà thôi.
Cuộc sông của chúng tôi ở trong trại sôi nổi. Các binh sĩ râm ran chuyện trò và lau vũ khí. Bọn đầy tớ lau giáp trụ hiệp sĩ đến sáng bóng, đàn ngựa được lùa tới tắm trên những dòng suối chảy xiết giờ đây cuồn cuộn chảy dọc triền dốc giữa những rặng mận chín. Tất cả mọi người đều đang chuẩn bị cho trận đánh sắp tới. Khu trại trở lại dáng vẻ xưa kia vốn có, còn chiến tranh lại trở về với vẻ đẹp và tính chất ngày hội của nó, điều mà dứt khoát phù hợp với cuộc chiến này. Những bộ binh phục rực rỡ, những bộ giáp phục kị sĩ, những bộ yên ngựa đắt tiền bằng bạc - tất thảy đều lấp lánh và long lanh dưới ánh mặt trời.
Tôi đứng hồi lâu lặng ngắm thành phố, cái cứ điểm là mục tiêu cuối cùng của cuộc hành quân. Nom thoạt đầu nó thật vũng chãi, các bức tường và các công trình bố phòng có thể tỏ ra không gì vượt qua nổi. Nhưng chúng tôi sẽ chiếm được nó, và đại sư Bernardo sẽ giúp chúng tôi thật đắc lực trong việc này. Tôi đã thấy những cỗ súng bắn đá, những thiết bị phong tỏa khôn ngoan và những trái đạn to tướng khủng khiếp của ông. Không có lâu đài nào trên thế giới có thể đương đầu được với những vũ khí thế này. Chúng tôi sẽ chọc thủng qua bất cứ những chiến lũy nào, sẽ nghiền nát và đập tan chúng, chúng tôi sẽ làm nổ tung từng đoạn tường bằng cách cho nổ mìn, chúng tôi sẽ giao chiến bằng tất cả các phương tiện có thể nghĩ ra được, sẽ đem vào thực thi tác chiến tất cả những gì mà thiên tài của ông đã sáng chế ra. Và chúng tôi sẽ lao vào thành phố, tiếp bước trên các đường phố và gieo cái chết và hoang tàn khắp mọi nơi. Thành phố sẽ bị đốt cháy,
bị tàn phá, bị xóa sạch khỏi mặt đất. Nó sẽ chỉ còn những đống gạch đá vụn mà thôi. Còn cư dân nơi thành phố này, tức là bọn thổ phỉ cướp đường cướp chợ, sẽ chịu nhận trừng phạt đúng tội, sẽ bị tiêu diệt hoặc bị bắt làm tù binh, và chỉ những đống đổ nát tỏa khói là còn gợi nhớ tới sự hùng mạnh xưa kia của đô thị đó mà thôi. Tôi tin chắc ngài quận công sẽ thẳng tay trừng trị kẻ thù. Còn đám lính đánh thuê của Boccaroza thì sẽ thực kinh khủng khi hình dung cảnh chúng kinh hoàng gào thét thế nào. Đó là chiến thắng cuối cùng và trọn vẹn của chúng tôi.
Nhưng trước hết, chúng tôi phải tiêu diệt đám quân lính đang chặn giữa chúng tôi và thành phố. Thật chẳng khó khăn khi nhận thấy rằng số lượng đám lính đó đã tăng lên đáng kể như tôi đã từng tiên liệu. Có ai đó đã khẳng định rằng, đội quân hùng hậu đó hầu như đông đảo như quân đội chúng tôi cũng gồm cả các binh đội của Boccaroza. Đó là một sự phóng đại. Đội quân đấy bây giờ thực sự chiếm một vùng lãnh thổ lớn hơn trước đây, nhưng gọi đó là đội quân hùng hậu thì theo tôi là đánh giá quá cao lực lượng kè thù. Khi ngài quận công thấy đội quân ấy lần đầu tiên ông thoạt đầu dường như nhíu mày, nhưng lập tức ông lại thấy vui vẻ, khoái hoạt như thường thấy do sự khinh bỉ các lực lượng quân địch, ông vui vẻ với ý nghĩ về trận đánh sắp tới, về khả năng được tham gia vào trận đánh quyết định. Đó mới đúng là một chiến binh chân chính! Không giây phút nào ông hoài nghi về chiến thắng của chúng tôi, vả lại, cũng không có ai trong số các tướng lĩnh của chúng tôi lại hoài nghi cả như tôi từng biết từ quan sát và nghe bình luận.
Được tham dự vào trận công phá thành phố quả là vui vẻ. Từ trước tới giờ tôi chưa bao giờ hể hả như thế.
Tôi lặng lẽ ngồi trong mé đằng đông của tòa lâu đài, cái nơi tôi vẫn thường làm công việc viết lách. Trước mặt là một chiếc bàn thâm thấp rất tiện mỗi khi tôi viết lách và tôi lại tiếp tục công việc ghi chép những sự kiện trọng đại có liên quan đến số mệnh của cuộc đời. Các bạn sẽ thắc mắc rằng bằng cách nào tôi lại trở về ở chính trong nhà mình? Đơn giản mọi sự tình sẽ được làm rõ ngay thôi. Chúng tôi thắng trận. Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng tôi thắng không dễ dàng mà phải trả bằng những mất mát đau thương. Dù phía này hay phía kia nạn nhân bị giết hại thế là quá đủ, nhưng mất mát chúng gây ra lớn hơn gấp bội lần. Đến tận bây giờ tất chưa có một sự phản kháng quyết liệt nào như thế. Tôi muốn nói, đối với chúng tôi đó là
một trận huyết chiến. Đặc biệt là ngày thứ hai của trận đánh đối với những người lính tham chiến. Chưa có một trận nào hãi hùng như vậy diễn ra cả. Người ta tha hồ mà tán quanh. Lí do đơn giản cho việc chúng tôi ở nhà lúc này là ngài quận công buộc phải trở về chuẩn bị lực lượng để kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh này. Ngoài ra tôi còn nghe cần phải tích trữ những khoản tiền cần thiết cho cuộc chiến trên. Những trận đánh như thế cần đến những khoản tiền kha khá. Người ta nói ngài quận công bây giờ đang tiến hành thỏa thuận với đám thương nhân, đám này đang nắm trong tay vô khối hàng hóa mà ta đang cần, và tất nhiên mọi việc cần phải được giải quyết càng sớm càng tốt. Sau đó, ngay lập tức chúng ta sẽ tiếp tục hành quân.
Boccaroza và những thuộc hạ của ông quả quyết đòi tăng tiền thù lao, không thì họ sẽ chẳng làm gì sất ngay sau lần thỏa thuận đầu tiên. Vì lí do này mà bây giờ họ mới phái người đến chỗ chúng tôi. Tôi phải ông nhận rằng họ có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc chiến vì không có một ai có thể chiến đấu dũng cảm gan dạ như họ. Tôi cho họ thích chiến tranh chỉ đơn thuần là thích chiến tranh thôi, vì cũng như tôi đây. Vả lại có thể đâu cần sự hào hiệp như thế, có lẽ đơn giản họ cũng đã quan tâm đến các khoản thù lao hơn cơ. Nhưng dẫu sao họ cũng đã nhận rồi còn gì. Còn những bất đồng giữa người cầm đầu và ngài quận công nói nữa mà làm gì. Khi quân lính phải chịu tổn thất cộng với mọi việc diễn ra không thuận buồm xuôi gió thì thường họ dễ sinh ra chán nản. Không được việc gì thì họ đổ vấy cho nhau, rồi đổ cho mệt mỏi, sau đó thường họ so sánh những tổn thất giữa họ và phía quân địch. Nói chung là vậy. Còn những quân lính của Boccaroza thì họ là những chiến binh tinh nhuệ, chiến đấu như điên, nhưng rất có thể là họ không hiểu khi thực hiện những toan tính sâu xa của ngài quận công. Cũng rất có khả năng là họ còn có điều gì khác chăng? Nhưng tất cả chỉ là vặt vãnh, hoàn toàn không quan trọng và nhất thời mà thôi.
Nhưng với tôi điều này chẳng hay ho gì sất, trong chuyện này, những khoản tiền thù lao nhờ đánh thuê mà có được hết sức tầm thường, và tôi cũng không có ý định tiếp tục chủ đề này nữa. Quả ngồi ở nhà thì buồn chết khiếp! Đối với một người lính ra sinh vào tử thì sống như vậy quả là trống rỗng và buồn tẻ. Thời gian thì không ngừng trôi, và bạn sẽ chẳng biết làm gì, do vậy, bất kì một hoạt động sống nào cũng cảm thấy như bị tê liệt. Ấy vậy rồi mọi việc sẽ được giải tỏa, và chẳng bao lâu lại lên đường hành quân. Cuộc sống, con người nơi đây quả buồn cười, tôi muốn nói đám gia nhân và
tất cả những người khác, những người không tham gia vào cuộc chiến. Họ dường như đang sống trong một thế giới khác, tựa hồ như không nghi ngờ rằng đất nước đang rơi vào cảnh nước sôi lửa bỏng. Khi họ nhìn vào quân phục của tôi đang mặc, họ há hốc mồm đờ đẫn vì ngạc nhiên, cứ như là họ không biết người ta vẫn mặc như thế trên chiến trường, nơi mà đôi khi chỉ loáng một cái bạn có thể bị bắt hay bỏ mạng. Họ nói ở đây không hề chi, chẳng có nguy hiểm gì hết. Nhưng còn chiến tranh thì vẫn cứ nổ ra, và chẳng bao lâu tôi lại lên đường hành quân. Bất cứ thời khắc nào cũng sẵn sàng chờ lệnh ngài quận công ban xuống, và luôn phải ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu cao nhất. Đó là lí do tôi luôn mặc binh phục. Còn phải giải thích gì nữa? Lẽ tất nhiên đối với họ, nếu như chưa một lần ra trận, ắt họ chẳng thể nào tưởng tượng tại sao lại như thế, và khi bạn gắng sức tả lại dù là một phần nhỏ cảnh cuộc sống nơi sa trường đầy rẫy những niềm trắc ẩn ngờ nghệch, không thể giấu những tính ghen tỵ bấy lâu họ vẫn giấu kín. Bằng những bộ dạng như thế, dường như họ cũng muốn nói rằng tôi chưa có dịp nếm trải và tham gia vào bất kì trận đánh nào như tôi vẫn kể. Dễ dàng có thể hiểu được rằng họ là những con người luôn bị tính đố kị thường nhật nhất xâm lấn. Họ chưa nếm trải nên họ cũng sẽ không biết rằng lưỡi gươm của tôi vẫn còn rớm vết máu của trận đánh khốc liệt gần đây nhất. Tôi thì tôi không bộc lộ ra đâu bởi lẽ tôi vốn không chịu được cái thói ba hoa chích tốc, thường thì người lính vẫn có thói này, ví như trường hợp Don Riccardo. Tôi chỉ có thể nắm lấy chuôi gươm chặt hơn và quay lưng lại về phía họ mà thôi.
Chuyện là thế này. Trong một trận chiến đấu kéo dài hai ngày gần đây nhất chúng tôi có nhiệm vụ phải chiếm cho được cao điểm nằm giữa một bên là sườn bên phải cánh quân của chúng tôi và một bên là thành phố, và chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ. Cái giá chúng tôi phải trả không hề rẻ chút nào. Ngay lập tức sau đó tình hình của chúng tôi đã được cải thiện. Cả ngài quận công ngay lúc đấy cũng nhận thấy những lợi thế mà chúng tôi có được nhờ chiếm được cao điểm này. Lẽ tất nhiên là cả tôi đi cùng ông. Ở trên độ cao này chúng tôi có thể nhìn thấy tòa lâu đài ở ngoại ô thành phố của Lodovico. Cao điểm này là điểm đã được lựa chọn đúng vì có thể nhìn thấy tòa lâu đài vốn được bao quanh bởi cánh rừng thông và diệp bách thật ấn tượng. Một vài người lính đã cùng tôi đi thị sát xem ở đó có kẻ thù mai phục chăng, nơi lũ địch có thể phục kích và giáng đòn bất ngờ nhằm ám sát cho được ngài quận công. Tòa lâu đài hoàn toàn trống rỗng nếu như chưa kể
"""