"Người Khổng Lồ Ngủ Quên - Kazuo Ishiguro PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Người Khổng Lồ Ngủ Quên - Kazuo Ishiguro PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo THÔNG TIN EBOOK Tên sách Người khổng lồ ngủ quên Tác giả Kazuo Ishiguro Dịch giả Lan Young Thể loại Novel Phát hành Nhã Nam Nhà Xuất Bản NXB Văn Học Ebook 2020 ebook♥vctvegroup kindlekobovn —★— MỤC LỤC PHẦN I Chương Một Chương Hai Chương Ba Chương Bốn Chương Năm PHẦN II Chương Sáu Chương Bảy Chương Tám PHẦN III Chương Chín Dòng hồi tưởng thứ nhất của Gawain Chương Mười Chương Mười một Chương Mười hai Chương Mười ba Chương Mười bốn Dòng hồi tưởng thứ nhì của Gawain PHẦN IV Chương Mười lăm Chương Mười sáu Chương Mười bảy PHẦN I Chương Một N ếu muốn thấy quang cảnh kiểu như một con đường nhỏ uốn lượn quanh co hay một đồng cỏ thanh bình, những gì sau này đã khiến nước Anh trở nên nổi tiếng, hẳn bạn sẽ phải để mắt kiếm tìm thật lâu. Thay vào đó, chỉ có những dặm đất hoang tiêu điều; đây đó vài lối đi được phát quang sơ sài chạy qua những đồi đá lởm chởm hay những vùng đất không người ảm đạm mọc đầy thạch nam. Phần nhiều những con đường do người La Mã bỏ lại đến giờ hoặc đã bị hư hại hoặc bị cây cỏ vùi kín, để rồi đa số chìm dần trong hoang tàn quên lãng. Sương giá giăng khắp sông suối cùng những cánh đầm lầy, phụng sự đắc lực cho lũ quỷ ăn thịt người hồi ấy vẫn là thổ dân đất này. Người dân sống ở quanh đây - người ta phải tự hỏi không biết sự liều lĩnh tuyệt vọng nào đã khiến họ tới định cư tại những nơi chốn u ám đến vậy - có lẽ đã sợ chết khiếp những sinh vật này, khi mà hơi thở hổn hển của chúng vọng tới từ rất lâu, trước khi hình dáng quái dị của chúng hiện ra từ đám sương mù. Nhưng giống quái vật ấy không hề là lý do khiến người ta phải ngạc nhiên. Hồi ấy hẳn người ta coi chúng chẳng khác gì những rủi ro phải đối mặt hằng ngày, trong khi còn có rất nhiều điều khác phải bận tâm tới. Làm thế nào để thu hoạch được thức ăn từ mặt đất rắn câng; làm thế nào để không bao giờ hết củi; làm thế nào để chặn đứng thứ dịch bệnh có thể làm cả tá lợn lăn ra chết chỉ trong một ngày và gây ra những đốm phát ban màu xanh lá cây trên má trẻ nhỏ. Dù thế nào đi chăng nữa, lũ quỷ ăn thịt người cũng không đến nỗi quá hung tợn nếu không ai chọc tức chúng. Người ta vẫn phải chấp nhận rằng, thỉnh thoảng, có lẽ là sau một vụ tranh chấp khó hiểu nào đó về cấp bậc, một con sẽ loạng choạng lao vào một ngôi làng giữa cơn thịnh nộ ghê gớm, và bất chấp những tiếng la ó cùng đủ loại vũ khí khua lên loạn xạ, sẽ điên cuồng gây thương tích cho bất kỳ ai chậm chân không kịp tránh khỏi đường đi của nó. Hoặc rằng thỉnh thoảng, một con quỷ có thể sẽ bắt đi một đứa trẻ rồi biến vào trong lớp sương mù. Con người ngày ấy phải biết thản nhiên trước những lấn lướt trắng trợn như thế. Ở ế ầ ầ Ở một nơi như thế, bên rìa một đầm lầy rộng lớn, dưới bóng của mấy ngọn đồi lởm chởm, có cặp vợ chồng già Axl và Beatrice sinh sống. Có lẽ đây không phải là tên chính xác hay đầy đủ của họ, nhưng ta cứ gọi như vậy cho tiện. Tôi muốn nói rằng cặp vợ chồng này sống một cuộc đời tách biệt, nhưng vào thời đó, rất ít người “tách biệt” theo bất kỳ ý nghĩa nào chúng ta có thể lĩnh hội. Để giữ ấm và vì lý do an toàn, dân làng sống trong những căn hầm, nhiều căn được đào sâu vào sườn đồi, nối liền với nhau bởi những lối đi dưới lòng đất hoặc những hành lang kín. Cặp vợ chồng già của chúng ta sống trong một mê cung hầm ngầm như thế - gọi là “tòa nhà” e chừng to tát quá - với khoảng sáu mươi người dân làng khác. Nếu rời khỏi khu cư trú của họ rồi đi bộ hai mươi phút vòng quanh quả đồi, bạn sẽ tới khu dân cư kế tiếp, và trong mắt bạn, khu này có vẻ giống hệt khu đầu tiên. Nhưng với cư dân ở đây, mỗi nơi đều có rất nhiều chi tiết khác biệt khiến họ hoặc thấy tự hào hoặc phải hổ thẹn. Tôi không hề mong muốn tạo nên một ấn tượng rằng nước Anh thời ấy chỉ có thế; rằng khi những nền văn minh vĩ đại đã hưng thịnh ở nơi nào khác trên thế giới, thì tại đây chúng ta vẫn chưa vượt xa quá Thời kỳ Đồ Sắt là mấy. Nếu có điều kiện đi lang thang tùy hứng khắp các miền quê, bạn sẽ khám phá ra những lâu đài với âm nhạc, thức ăn cầu kỳ và các cuộc trình diễn thể thao đỉnh cao; hoặc các tu viện với các tu sĩ thông thái. Nhưng không có cách nào tránh cho được thực tế này. Kể cả khi có một chú ngựa tráng kiện, trong điều kiện thời tiết ôn hòa, rất có thể bạn sẽ phải cưỡi trên lưng ngựa cả mấy ngày trời mà vẫn không hề thấy một tòa lâu đài hay tu viện nào hiện ra giữa vùng xanh bát ngát. Chủ yếu bạn sẽ thấy những cộng đồng dân cư như tôi vừa kể, và trừ phi bạn mang theo mình những món quà là đồ ăn thức uống hay áo quần, hoặc được trang bị vũ khí dữ dội, bằng không thì bạn sẽ không dám chắc mình có được đón tiếp nồng nhiệt hay không. Tôi lấy làm tiếc khi phải vẽ nên một bức tranh như thế về đất nước của chúng ta vào thời ấy, nhưng quả là chỉ có thế. Quay trở lại với Axl và Beatrice. Như đã nói, cặp vợ chồng già này sống ở rìa ngoài của khu hầm ngầm, ở đó nơi trú ẩn của họ ít được chở che trước sức mạnh thiên nhiên và hầu như không nhờ ằ cậy được gì đám lửa tại hội trường, nơi dân làng tụ tập hằng đêm. Có thể đã có lúc họ sống gần đám lửa hơn; một thời gian họ còn sống với con cái. Thực ra, ý nghĩ ấy vẫn trôi dạt vào tâm trí Axl khi ông nằm trên giường trong những giờ khắc vắng vẻ trước bình minh, khi vợ ông vẫn ngủ ngon lành bên cạnh, và rồi cảm giác về một nỗi mất mát không tên cứ giày vò day dứt trong tim, khiến ông không tài nào chợp mắt lại được nữa. Có lẽ đó là lý do vì sao, vào chính buổi sáng hôm nay, Axl dậy luôn rồi nhẹ nhàng lỉnh ra ngoài mà ngồi trên băng ghế cũ kỹ cong vênh ngay trước lối ra vào khu hầm ngầm, chờ đón những dấu hiệu đầu tiên của ánh sáng ban ngày. Lúc đó đang là mùa xuân, nhưng không khí vẫn lạnh buốt, dù ông đã khoác trên người chiếc áo choàng không tay của Beatrice ông cầm theo luôn khi ra đây. Thế nhưng ông đã miên man đắm chìm trong suy nghĩ đến độ, khi chợt cảm thấy lạnh làm sao thì cũng là lúc ông nhận ra các vì sao đã lặn tự bao giờ, một sắc đỏ đang lan tỏa phía chân trời, và những nốt nhạc đầu tiên trong bài ca của chim chóc đang vang lên trong mờ tối. Ông chậm rãi đứng dậy, ân hận vì đã ngồi quá lâu ngoài này. Sức khỏe của ông vẫn tốt, nhưng cơn sốt gần đây nhất mãi mới dứt, và ông không muốn nó quay trở lại lần nữa. Lúc này, ông cảm nhận được cả hơi ẩm chạy dọc hai chân mình, nhưng khi quay người trở vào bên trong, ông cảm thấy vô cùng hài lòng: vì sáng nay ông đã nhớ lại được một số việc lâu nay vẫn cố tìm cách lảng tránh mình. Hơn thế nữa, ông cảm giác mình sắp có được một quyết định quan trọng nào đó - một quyết định đã bị trì hoãn quá lâu rồi - và trong người ông dâng lên một niềm phấn khích nóng lòng mong được sẻ chia với vợ. Ở bên trong, các lối đi trong khu hầm ngầm vẫn tối thui, nên ông buộc phải lần mò suốt quãng đường ngắn quay về cửa phòng mình. Rất nhiều “cửa ra vào” trong khu hầm ngầm chỉ đơn giản là một cấu trúc vòm để đánh dấu ngưỡng cửa bước vào phòng. Cách sắp xếp mở như vậy không khiến dân làng cảm thấy bị xâm phạm đời tư, mà cho phép các phòng được nhờ hơi ấm lùa dọc các dãy hành lang từ đám lửa lớn hay các đám lửa nhỏ được phép nhóm trong khu. Phòng của Axl và Beatrice, tuy không có may mắn được nằm gần bất cứ đám lửa nào, lại có một thứ có lẽ tất cả chúng ta đều nhận ra là ẳ ỗ một cánh cửa hẳn hoi: một khung gỗ lớn với những cành cây nhỏ, dây leo và các cây cúc gai đan chéo nhau mà mỗi lần ai đó muốn ra hay vào phòng đều sẽ phải nhấc qua một phía, nhưng cũng là thứ ngăn được những đợt gió lùa tê tái. Axl vui lòng sống không cần cánh cửa này, nhưng dần dà cánh cửa đã trở thành một vật thể hiện niềm tự hào lớn lao cho Beatrice. Mỗi khi trở về phòng, ông vẫn thường thấy vợ mình đang kéo bỏ các cành cây khô héo khỏi công trình này để thay vào những cành mới cắt bà thu nhặt được trong ngày. Sáng nay, Axl nhấc chướng ngại vật này chỉ vừa đủ chỗ để lách vào căn hầm, cố gắng làm sao không gây ra quá nhiều tiếng động. Trong này, những tia nắng ban mai đang lọt vào phòng qua các kẽ nứt trên bức tường phía ngoài. Ông có thể nhìn thấy bàn tay mình lờ mờ trước mặt, và trên chiếc giường đắp bằng đất cỏ, dáng hình Beatrice vẫn đang ngon lành ngủ dưới đống chăn dày. Ông thấy muốn đánh thức vợ dậy. Vì một phần trong ông cảm thấy chắc chắn rằng, nếu bà tỉnh giấc vào đúng thời khắc này mà trò chuyện với ông thì những rào cản cuối cùng ngăn cách ông với quyết định của mình, bất kể những rào cản đó là gì đi chăng nữa, cũng sẽ tan ra thành từng mảnh. Nhưng phải một lúc nữa cộng đồng dân làng mới tỉnh giấc và ngày làm việc mới bắt đầu, nên ông lại ngồi xuống chiếc ghế thấp trong góc phòng, áo choàng của vợ vẫn khoác chặt trên người. Ông tự hỏi không biết sáng nay sương mù sẽ dày đến mức nào, và khi bóng tối tan dần, liệu rồi ông có thấy sương đã kịp theo các kẽ nứt lan tỏa vào trong phòng từ trước hay không. Nhưng rồi suy nghĩ của ông lại dạt đi khỏi những chuyện như vậy, trở lại với những gì ông vốn đang bận tâm. Phải chăng họ vẫn luôn sống thế này, chỉ hai người bọn họ, ở ngoài rìa cộng đồng? Hay là có một lúc nào đó, mọi thứ đã từng hoàn toàn khác? Lúc nãy, khi ở ngoài trời, vài mảnh vụn ký ức đã tìm đường trở về với ông: một khoảnh khắc nhỏ nhoi khi ông bước trên hành lang trung tâm dài trong khu hầm ngầm, cánh tay ông quàng qua ôm lấy một trong mấy đứa con của mình, dáng đi của ông hơi cúi xuống, không phải vì tuổi tác, thứ rất có thể khiến ông phải còng xuống hiện giờ, mà vì ông muốn tránh đập đầu vào các thanh rầm trong thứ ánh sáng âm u. Hình như đứa trẻ vừa mới nói gì ề ố đó với ông, một điều vui vẻ, và cả hai bố con cùng cười vang. Nhưng lúc này, cũng như lúc nãy khi còn ở bên ngoài, chẳng có gì là chắc chắn trong tâm trí ông, và ông càng cố gắng tập trung, các mảnh ký ức dường như càng trở nên mờ nhạt hơn. Có lẽ đây chỉ là sự tưởng tượng dớ dẩn của tuổi già. Có lẽ Chúa chưa bao giờ ban cho họ đứa con nào. Có thể bạn đang băn khoăn tự hỏi tại sao Axl không nhờ tới dân làng để giúp ông tìm lại quá khứ, nhưng việc này không dễ như bạn hình dung. Vì trong cộng đồng này, quá khứ rất hiếm khi được bàn tới. Tôi không có ý nói đó là điều bị cấm kỵ. Tôi chỉ muốn nói không biết vì sao, quá khứ đã dần nhạt phai vào một đám sương mù dày như màn sương giăng trên các đầm lầy. Đơn giản là, dân làng không có nhu cầu nghĩ về quá khứ - kể cả quá khứ gần. Ví dụ thế này, có một chuyện đã khiến Axl phiền lòng suốt một thời gian. Ông biết chắc chắn rằng cách đây không lâu lắm, trong số dân làng có một phụ nữ với mái tóc dài màu đỏ - một phụ nữ được coi là trọng yếu trong làng. Bất cứ khi nào ai đó bị thương hay ngã bệnh thì người phụ nữ tóc đỏ này, rất mát tay trong việc chữa lành mọi vết thương, luôn lập tức được vời tới. Vậy mà bây giờ lại không thể tìm thấy chính người phụ nữ ấy ở bất cứ đâu, và không ai tỏ vẻ băn khoăn muốn biết chuyện gì đã xảy ra, hay thậm chí chỉ là tỏ vẻ tiếc nuối vì sự vắng mặt của cô. Vào một buổi sáng, Axl đã nhắc tới chuyện này với ba người hàng xóm khi cùng họ vỡ đất trên cánh đồng phủ đầy sương giá, và họ trả lời ông rằng họ thực lòng không biết ông đang nhắc đến chuyện gì. Một trong số họ còn ngừng tay để cố nhớ, nhưng cuối cùng cũng phải lắc đầu. “Chắc đã lâu lắm rồi,” anh ta đã nói thế. “Cả em cũng không hề nhớ có người phụ nữ nào như thế,” Beatrice đã nói như vậy khi ông nhắc đến chuyện này với bà vào một buổi tối. “Có lẽ anh đã bịa ra cô ấy vì nhu cầu riêng, Axl ạ, mặc dù anh có một người vợ ngồi ngay cạnh anh đây, người có cái lưng thẳng hơn lưng anh.” Chuyện này xảy ra lúc nào đó hồi mùa thu năm ngoái, khi họ đang nằm bên nhau trên giường trong bóng tối như mực, lắng nghe tiếng mưa đập vào tường phòng. ầ ố “Đúng là em hầu như không già đi chút nào trong suốt những năm tháng đã qua, công chúa ạ,” Axl nói. “Nhưng người phụ nữ này không phải là một giấc mơ, và em sẽ nhớ ra nếu em chịu dành chút thời gian nghĩ về cô ấy. Chỉ một tháng trước thôi, tấm lòng nhân hậu ấy đứng ngay chỗ cửa ra vào nhà mình mà hỏi liệu cô ấy có thể mang cái gì đến giúp chúng ta không. Chắc chắn là em nhớ chứ.” “Nhưng tại sao cô ấy lại muốn mang cái gì đó đến cho chúng ta mới được chứ? Cô ấy có họ hàng với chúng ta à?” “Anh không nghĩ thế, công chúa ạ. Chỉ vì cô ấy là người tốt. Chắc chắn là em nhớ. Cô ấy vẫn hay đến cửa phòng hỏi liệu chúng ta có bị lạnh hay đói không.” “Axl ơi, điều em muốn hỏi chính là, việc gì mà cô ấy phải chọn riêng chúng ta ra để tỏ lòng nhân hậu chứ?” “Khi đó anh cũng tự hỏi mình như thế, công chúa ạ. Anh nhớ mình đã nghĩ đây là người phụ nữ chuyên chăm sóc người ốm, trong khi ở đây cả hai chúng ta đều khỏe mạnh chẳng khác bất cứ ai trong làng. Có lẽ đã có tin đồn về một dịch bệnh đang trên đường tràn tới và cô ấy đến xem chúng ta ra sao chăng? Nhưng hóa ra chẳng có dịch bệnh gì hết, và chỉ vì cô ấy là một người nhân hậu. Khi chúng ta nói chuyện về cô ấy thế này, anh lại nhớ ra thêm nhiều chuyện nữa. Cô ấy đứng đó bảo chúng ta đừng bận tâm khi bọn trẻ con gọi chúng ta bằng những cái tên tục tĩu. Vậy đó. Rồi thì chúng ta không bao giờ thấy cô ấy nữa.” “Người phụ nữ tóc đỏ này không chỉ là một giấc mơ trong tâm trí anh đâu, Axl ạ, cô ấy còn là một kẻ ngốc khi tự giày vò bản thân chỉ vì vài đứa trẻ và mấy trò chơi của chúng.” “Hồi ấy anh cũng nghĩ y như thế, công chúa của anh ạ. Bọn trẻ chẳng làm gì hại đến chúng ta và chúng cũng chỉ chơi vui cho qua ngày khi mà thời tiết bên ngoài quá ảm đạm. Anh nói với cô ấy chúng ta chưa bao giờ nghĩ ngợi gì về bọn trẻ, nhưng cô ấy vẫn cứ tử tế như thế. Và rồi anh nhớ cô ấy bảo thật đáng tiếc khi chúng ta không có nến dùng vào ban đêm.” “Nếu con người ấy thương xót chúng ta vì chúng ta không có nến,” Beatrice nói, “thì ít ra cô ấy cũng đúng được một việc. Thực là một sự sỉ nhục, không cho chúng ta một ngọn nến thắp trong những đêm thế này trong khi tay chúng ta cũng vững vàng chẳng kém bất ế ắ kỳ ai trong bọn họ. Trong khi những người khác có nến thắp trong phòng, kẻ thì đêm nào cũng bất tỉnh vì rượu táo, kẻ thì để bọn trẻ con chạy tán loạn khắp nơi. Vậy mà họ lại lấy đi nến của chúng ta, và giờ đây em gần như không thể thấy hình dáng của anh, Axl ơi, cho dù anh nằm đây ngay cạnh em.” “Họ không có ý sỉ nhục chúng ta, công chúa ạ. Chỉ là vì mọi thứ đã luôn như thế và tất cả chỉ có thế.” “Chà, chẳng phải chỉ có người phụ nữ trong mơ của anh nghĩ việc chúng ta bị tước mất nến là điều kỳ cục đâu. Hôm qua hay là hôm kia nhỉ, khi đó em đang ở ngoài bờ sông, đi ngang qua chỗ vài phụ nữ và chắc chắn em nghe được họ nói, khi họ tưởng em đã đi xa không còn nghe thấy gì nữa, rằng thật là một sự bôi nhọ khi một cặp vợ chồng chính trực như chúng ta lại phải ngồi trong bóng tối hằng đêm. Vậy nên không riêng gì người phụ nữ trong mơ của anh mới suy nghĩ như vậy đâu.” “Cô ấy không phải là người phụ nữ trong mơ, anh đã bảo em biết bao lần rồi, công chúa của anh. Tất cả mọi người ở đây một tháng trước đều biết cô ấy và đều nói những điều tốt đẹp về cô ấy. Điều gì đã khiến tất cả mọi người, kể cả em nữa, quên rằng cô ấy đã từng có mặt trên đời?” Nhớ lại cuộc nói chuyện ấy vào một buổi sáng mùa xuân thế này, Axl có cảm giác mình sắp sẵn sàng thừa nhận mình đã lầm về người phụ nữ tóc đỏ. Rốt cuộc thì, ông chỉ là một người đàn ông ở tuổi xế chiều và thỉnh thoảng rất dễ bị nhầm lẫn. Ấy vậy mà, trường hợp người phụ nữ tóc đỏ này chỉ là một cơn quên lãng lâu dài sau những vụ việc rối bời diễn ra trong làng. Bực nhất là vì ngay lúc này, ông không thể nghĩ ra được nhiều ví dụ, nhưng không chút nghi ngờ gì, đã từng có rất nhiều vụ việc tương tự như thế. Ví dụ một sự việc liên quan đến Marta. Marta là một cô bé độ chín mười tuổi luôn nổi danh vì bạo dạn. Tất cả những câu chuyện dựng tóc gáy về những gì có thể xảy đến với những đứa trẻ thích đi lang thang dường như không làm nguội lạnh máu phiêu lưu trong cô bé. Vậy là vào một buổi tối, khi mà chưa đầy một tiếng nữa là trời tối, sương giá đương tràn tới và tiếng hú của lũ sói vọng đến từ phía sườn đồi, tin Marta mất tích lan ra, tất cả mọi người đều hốt hoảng dừng việc đang làm. Rồi trong khoảng thời ắ ế ắ ầ ầ gian ngắn ngủi tiếp sau đó, khắp nơi trong khu hầm ngầm vang lên tiếng mọi người gọi tên cô bé và tiếng những bước chân hối hả chạy ngược xuôi các dãy hành lang khi dân làng tìm kiếm trong từng phòng ngủ, các hang chứa đồ, cùng các hốc phía dưới lớp rui trần, kiểm tra bất cứ chỗ ẩn nấp nào một đứa trẻ có thể khoái chí chui vào. Thế rồi giữa cảnh hoảng loạn này, hai người chăn cừu trở về làng sau ca làm việc trên các sườn đồi vào tới hội trường rồi sưởi ấm bên đám lửa. Khi đó, một trong hai người thông báo là hôm trước họ đã thấy một con đại bàng đầu bạc lượn vòng phía trên đầu mình ra sao, một lần, hai lần, rồi đến ba lần liền. Không thể lầm được, anh ta nói, đó là một con đại bàng đầu bạc. Tin tức này lan nhanh khắp làng và chẳng mấy chốc, một đám đông đã kịp tụ tập quanh đống lửa để nghe chuyện của hai người chăn cừu. Đến cả Axl cũng đã vội vàng nhập hội, vì sự xuất hiện của một con đại bàng đầu bạc ở vùng này quả là một câu chuyện thời sự. Một trong số các sức mạnh được gán cho đại bàng đầu bạc là khả năng gieo rắc nỗi kinh hoàng cho lũ chó sói, và ở đâu đó trên đất này, nghe nói lũ sói đã hoàn toàn biến mất nhờ sự có mặt của giống chim này. Thoạt đầu, người ta hăm hở chất vấn hai người chăn cừu và buộc họ phải kể đi kể lại câu chuyện nhiều lần. Rồi một mối nghi ngờ bắt đầu lan rộng trong đám thính giả. Đã có quá nhiều lời tuyên bố tương tự thế này, một người lưu ý, và lần nào cũng hóa ra là vô căn cứ. Một người khác nói chính hai người chăn cừu này đã kể đúng chuyện này hồi mùa xuân năm ngoái, và đến giờ cũng chưa ai ngoài họ thấy gì. Hai người chăn cừu tức giận phủ nhận việc họ đã từng mang câu chuyện này về làng vào mùa xuân năm ngoái, và thế là đám đông nhanh chóng chia thành hai phe, một phe ủng hộ hai người chăn cừu và một phe tuyên bố có nhớ chút ít về chuyện được cho là đã diễn ra năm trước. Khi cuộc tranh cãi ngày càng nảy lửa hơn, Axl ngập tràn trong một cảm giác quen thuộc không nguôi rằng có điều gì đó không ổn, ông liền lánh xa khỏi những tiếng la ó và sự xô đẩy, bỏ ra ngoài ngắm nhìn bầu trời u ám và làn sương giá đang lan dần trên mặt đất. Một lát sau, những mảng ký ức bắt đầu ráp lại với nhau trong tâm trí ông, về cô bé Marta mất tích, về mối hiểm nguy, về việc chỉ mới đây thôi mọi người còn đang tìm kiếm cô bé thế nào. Nhưng những ký ức ố ễ này chưa gì đã trở nên lộn xộn, thật giống những gì diễn ra trong vài giây đồng hồ đầu tiên sau khi tỉnh dậy từ một giấc mơ, và phải với một sự tập trung cao độ, Axl mới có thể tiếp tục theo đuổi dòng suy nghĩ về Marta bé bỏng trong khi những giọng nói sau lưng ông tiếp tục cãi vã về đại bàng đầu bạc. Thế rồi, khi đang đứng như thế, ông bỗng nghe thấy tiếng hát của một bé gái và rồi Marta từ trong đám sương mù hiện ra trước mặt ông. “Cháu là một đứa bé kỳ quặc, cháu ạ,” Axl nói khi cô bé nhảy chân sáo về phía ông. “Cháu không sợ bóng tối sao? Không sợ chó sói hay quỷ ăn thịt người à?” “Ồ, cháu sợ chúng lắm ông ạ,” cô bé nói với một nụ cười. “Nhưng cháu biết cách trốn để chúng không tìm ra cháu. Cháu mong bố mẹ cháu vẫn chưa đi tìm cháu. Tuần trước cháu đã bị nện cho một trận nên thân đấy ông ạ.” “Tìm cháu ư? Tất nhiên họ đã đi tìm cháu. Chẳng phải cả làng đang tìm cháu đấy ư? Hãy lắng nghe những tiếng om sòm trong làng mà xem. Tất cả là vì cháu đấy, cháu bé ạ.” Marta cười to và nói: “Thôi ông đừng nói nữa, ông ơi! Cháu biết họ đâu có nhớ gì đến cháu. Và cháu có nghe thấy, họ đang la ó nhưng không phải về cháu.” Cô bé vừa nói đến đây, Axl chợt nhận ra quả là cô bé đã đúng: những tiếng tranh luận trong kia hoàn toàn không phải về cô bé, mà về một vấn đề khác hẳn. Ông nghiêng người về phía lối ra vào để nghe cho rõ hơn, và khi chợt nghe thấy những từ lẻ tẻ giữa những giọng nói bị kích động, ông bắt đầu nhớ ra câu chuyện về những người chăn cừu và đại bàng đầu bạc. Khi ông còn đang băn khoăn không biết có nên giải thích điều gì đó về chuyện này cho Marta hay không, cô bé đột nhiên nhảy chân sáo qua chỗ ông đứng để vào trong làng. Ông cũng đi theo có bé, đoán thấy sự khuây khỏa và niềm vui mà sự xuất hiện của cô bé sẽ mang lại cho mọi người. Và thật lòng mà nói, trong ông chợt nảy ra ý nghĩ, khi vào cùng cô bé thế này, người ta sẽ công nhận ông có chút công lao đưa cô bé an toàn trở về. Nhưng khi họ vào đến hội trường, dân làng vẫn đang mải mê tranh cãi về hai người chăn cừu đến độ chỉ có vài người để tâm nhìn về phía họ. Mẹ của Marta cũng chỉ tạm bỏ cuộc vui đủ lâu để nói với cô ế ề ồ ấ bé thế này: “Vậy là con đã về rồi đấy! Đừng có bỏ đi lang thang như thế chứ! Mẹ còn phải nhắc nhở thường xuyên đến thế nào nữa hả?” rồi lại toàn tâm chú ý vào cuộc tranh luận đang ác liệt diễn ra bên đám lửa. Thấy thế, Marta nhe răng ra cười với Axl như muốn nói: “Ông thấy cháu nói đúng chưa?” rồi biến mất vào trong bóng tối đi tìm bạn. Căn phòng đã sáng rõ hẳn. Nhờ nằm ở rìa của khu hầm ngầm nên buồng ngủ của họ có một cửa sổ nhỏ thông với bên ngoài, mặc dù ô cửa quá cao không thể nhìn ra nếu không đứng trên ghế. Một mảnh vải đang che kín ô cửa, nhưng đúng lúc này, một tia nắng sớm đã lọt qua một góc và rọi sáng tới chỗ Beatrice đương nằm ngủ. Lọt vào chùm sáng này, Axl nhìn thấy, hình như một con côn trùng đang lởn vởn trong không trung ngay phía trên đầu vợ mình. Rồi ông nhận ra đó chính là một con nhện, nó lửng lơ trên không nhờ một sợi tơ vô hình thẳng đứng, và khi ông đang theo dõi thế này, nó đã kịp bắt đầu nhịp nhàng hạ dần độ cao. Nhẹ nhàng đứng dậy, Axl bước ngang căn phòng nhỏ rồi lướt tay qua khoảng không bên trên người Beatrice, túm lấy con nhện trong lòng bàn tay. Rồi ông đứng nguyên đó một lát để ngắm bà. Một sự thanh thản, điều giờ đây thật hiếm thấy khi bà thức giấc, đang hiện ra trên gương mặt chìm trong giấc ngủ của bà, và cảm giác hạnh phúc do phát hiện này mang lại dồn tới đột ngột đến mức ông phải ngạc nhiên. Đó cũng là lúc ông biết mình đã đưa ra một quyết định và ông lại muốn đánh thức Beatrice dậy để có thể báo tin cho bà. Nhưng ông lại thấy sự ích kỷ của hành động này - và hơn nữa, làm sao ông biết chắc câu trả lời của bà sẽ ra sao? Cuối cùng, ông lại nhẹ bước trở lại chỗ chiếc ghế, và khi một lần nữa ngồi xuống, ông thận trọng mở lòng bàn tay vì chợt nhớ đến con nhện đang nằm trong đó. Lúc ngồi trên chiếc ghế dài ngoài trời chờ tia nắng đầu tiên vào sáng sớm hôm nay, ông đã cố nhớ xem lần đầu tiên hai vợ chồng nhắc tới ý tưởng về cuộc hành trình này là vì cái gì. Khi ấy, ông cứ nghĩ mình đã xác định rõ xuất phát điểm chính là từ một cuộc nói chuyện giữa hai người ngay tại căn phòng này, nhưng giờ đây, ngồi ngắm chú nhện chạy vòng quanh lòng bàn tay rồi rơi xuống nền đất phía dưới, ông chợt đinh ninh rằng lần đầu tiên họ đề cập tới vấn đề ố ố này lại là hôm người lạ mặt vận đống giẻ rách tối màu đi ngang qua làng. Đó là một buổi sáng xám xịt - có phải tít từ hồi tháng Mười một năm ngoái? - khi ấy Axl đang sải bước trên một lối mòn liễu rủ ven sông. Ông đương vội vã từ ngoài đồng trở về làng, chắc là để lấy một dụng cụ hoặc để nhận chỉ thị mới từ người quản đốc. Dù gì đi chăng nữa, một tràng những tiếng la lối bỗng nổi lên từ phía sau mấy lùm cây bên tay phải đã buộc ông dừng bước. Ý nghĩ đầu tiên là quỷ ăn thịt người, ông vội đưa mắt nhìn quanh tìm một hòn đá hoặc một cành cây. Nhưng rồi ông nhận ra những giọng nói ấy - toàn phụ nữ cả - mặc dù giận dữ và nóng nảy nhưng lại thiếu đi sự kinh hoảng thường thấy mỗi khi bị quỷ ăn thịt người tấn công. Biết vậy nhưng ông vẫn quả quyết chui qua bờ rào những bụi cây bách xù và loạng choạng bước ra một khoảng đất trống, nơi có năm phụ nữ - không còn là những cô gái mới lớn nhưng vẫn trong độ tuổi sinh nở - đang đứng sát vào nhau. Lưng họ quay về phía ông và họ đang tiếp tục la ó về phía một thứ gì đó đằng xa. Phải đến lúc ông đã đến gần thì một phụ nữ mới giật nảy mình nhận ra ông, nhưng sau đó những người còn lại đều quay cả lại và nhìn ông, vẻ xấc láo. “Chà, chà,” một người nói. “Không hiểu chỉ là ngẫu nhiên thôi hay sẽ còn chuyện gì nữa đây. Nhưng ông chồng đây rồi, hy vọng ông giúp được bà ấy hiểu ra lẽ phải.” Người phụ nữ đầu tiên trông thấy ông cất lời: “Chúng tôi đã bảo vợ ông đừng có đi, nhưng bà ấy không nghe. Bà ấy cứ khăng khăng sẽ mang thức ăn ra chỗ người lạ mặt cho dù đó không phải quỷ thì cũng hẳn là yêu tinh trá hình.” “Vợ tôi đang gặp nguy hiểm sao? Các cô hãy làm ơn giải thích cho tôi nghe với.” “Có một phụ nữ lạ mặt suốt sáng nay cứ lảng vảng quanh chỗ chúng tôi,” một người khác nói. “Tóc thả xuống lưng và áo choàng đen rách rưới. Ả nói mình là người Saxon nhưng ăn mặc thì chẳng giống bất kỳ người Saxon nào chúng tôi từng gặp. Ả rón rén tìm cách lẻn tới gần khi chúng tôi đang giặt quần áo bên bờ sông, nhưng chúng tôi đã kịp trông thấy và xua ả đi chỗ khác. Nhưng rồi ả ta cứ quay lại, hành động như thể trái tim đang tan vỡ vì điều gì đó, lúc khác nữa thì lại xin ăn. Chúng tôi đoán bùa mê của ả nhằm cả vào vợ ấ ầ ông đấy, ông ạ, vì nội trong sáng nay đã hai lần chúng tôi phải túm tay Beatrice giữ bà ấy lại, vì bà ấy một lòng muốn đến chỗ con quỷ ấy đến khiếp. Giờ thì bà ấy đã vùng vẫy thoát ra được mà lên tận chỗ bụi gai già nơi con quỷ lúc ấy đang ngồi chờ. Chúng tôi đã cố hết sức giữ bà ấy lại, ông ạ, nhưng hẳn là con quỷ đã kịp truyền năng lượng sang vợ ông, vì với một phụ nữ lớn tuổi gầy trơ xương như thế thì bà ấy khỏe lạ thường.” “Bụi gai già ư…” “Bà ấy vừa mới lên đó thôi, ông ạ. Nhưng chắc chắn đó là một con quỷ, nếu ông định đuổi theo vợ mình thì nhớ để ý đừng có giẫm lên hoặc để gai độc đâm vào người, nếu không thì sẽ chẳng bao giờ lành lại được đâu.” Axl phải cố gắng lắm mới giấu được nỗi khó chịu với những phụ nữ này, ông lịch sự nói: “Rất cảm ơn các cô. Để tôi đi xem vợ tôi đang làm gì. Tôi xin phép.” “Bụi gai già” là cái tên dân làng của chúng ta dành cho một địa điểm có phong cảnh đẹp trong vùng, mà thực chất thì chính là dành cho cây táo gai dường như mọc thẳng ra từ tảng đá nằm ở rìa mũi đất ở đó, cách ngôi làng của họ chỉ một quãng ngắn đường bộ. Vào một ngày nắng đẹp, nếu gió không quá mạnh, đây là một địa điểm dễ chịu để giết thì giờ. Bạn được thấy toàn cảnh phần đất chạy xuống tận triền sông, thấy khúc quanh của dòng sông cũng như khu đầm lầy bên kia sông. Vào những ngày Chủ nhật, trẻ con thường vui chơi quanh đám rễ cây đầy mấu, thỉnh thoảng còn cả gan nhảy xuống từ mỏm doi đất, thực ra thì chỗ này cũng chỉ thoai thoải dần nên độ cao không thể gây thương tích cho đứa trẻ nào, mà chỉ đủ khiến cho chúng lăn vòng như những thùng rượu trên con dốc cỏ. Nhưng vào một buổi sáng như sáng nay, khi cả người lớn lẫn trẻ con đều bận rộn công việc như nhau, sẽ chẳng có ai ngồi chơi chỗ này, nên sau khi vượt qua một đám sương mù giăng trên con đường dốc, Axl không ngạc nhiên chút nào khi thấy chỉ có hai người phụ nữ, gần như chỉ là hai cái bóng in trên nền trời xám trắng. Rõ thật, người phụ nữ lạ mặt đang ngồi tựa lưng vào tảng đá kia ăn mặc mới kỳ lạ làm sao. Ít ra thì nhìn từ xa thế này, áo choàng của cô ta có vẻ như được khâu lại từ rất nhiều mảnh vải lúc này bay lật phật trong gió, khiến cho chủ nhân của nó trông giống như một con chim khổng lồ đang ẩ ẫ ẫ chuẩn bị tung cánh. Beatrice vẫn đứng bên cạnh - dẫu cho bà đang cúi đầu xuống lắng nghe - trông có vẻ mong manh và yếu ớt. Đang trò chuyện một cách nghiêm túc, nhưng khi phát hiện Axl đang đi lên, họ liền ngưng lại nhìn. Sau đó, Beatrice ra chỗ mỏm mũi đất mà gọi với xuống: “Đứng yên đó, chồng ơi, đừng tiến xa thêm nữa! Em sẽ xuống với anh. Đừng có lên đây phá vỡ sự yên bình của người phụ nữ khốn khổ này khi mà giờ đây, cuối cùng cô ấy cũng được thư giãn đôi chân và ăn một chút bánh mì sót lại từ ngày hôm qua.” Axl đứng chờ đúng theo chỉ dẫn và chẳng mấy chốc, ông thấy vợ theo lối đi nhỏ trên đồng đất xuống chỗ mình. Bà đi thẳng đến chỗ ông và nói thật nhỏ, rõ là vì lo sợ gió sẽ đưa những gì mình nói lên tới chỗ người lạ mặt: “Có phải mấy cô gái ngớ ngẩn kia bảo anh lên đây tìm em không hả chồng? Hồi bằng tuổi họ, em cũng từng nghĩ những người lớn tuổi lúc nào cũng lo sợ và mang những niềm tin xuẩn ngốc, nghĩ viên đá nào cũng đã bị nguyền rủa và mỗi con mèo hoang đều là linh hồn của quỷ dữ. Nhưng bây giờ em đã già rồi, em chẳng thấy gì khác ngoài việc chính bọn trẻ mới là những kẻ đã mục ruỗng trong những tín ngưỡng mù quáng, như thể chúng chưa bao giờ được nghe lời hứa của Chúa, rằng Người lúc nào cũng sẽ song hành bên chúng ta. Hãy nhìn người phụ nữ lạ mặt tội nghiệp kia mà xem, anh hãy tự nhìn đi, kiệt sức và lẻ loi, cô ấy phải lang thang giữa rừng già và các cánh đồng đã bốn ngày trời, hết làng này tới làng khác yêu cầu cô ấy phải tiếp tục ra đi. Cô ấy đang bước chân trên vùng đất của đạo Thiên Chúa, thế mà lại bị coi là một con quỷ dữ hoặc có lẽ bị coi là một người hủi cũng nên, mặc dù chẳng có dấu hiệu gì của căn bệnh này trên da cô ấy. Giờ thì, chồng ơi, em hy vọng anh không định lên đây để cấm em an ủi cũng như mang chút thức ăn đạm bạc em có cho người phụ nữ tội nghiệp này nhé.” “Anh sẽ không bao giờ nói với em những điều như vậy, công chúa của anh, vì anh thấy những gì em vừa nói đều là đúng. Khi còn chưa lên đây, anh đã nghĩ thật đáng hổ thẹn làm sao khi chúng ta không thể đón tiếp một người lạ bằng lòng tốt của mình được nữa.” “Vậy thì hãy tiếp tục đi làm việc của anh đi, chồng của em, vì em biết chắc họ sẽ lại phàn nàn anh mới chậm chạp làm sao, và trước ể ễ khi anh kịp nhận ra, họ sẽ lại để bọn trẻ con hát vè giễu chúng ta mà xem.” “Chưa có ai nói anh làm việc chậm chạp hết, công chúa ạ. Em nghe từ đâu ra chuyện ấy? Anh chưa bao giờ nghe thấy lời phàn nàn nào như thế và anh hoàn toàn có thể hoàn thành những khối lượng công việc nặng nhọc hệt như những người trẻ hơn mình đến hai mươi tuổi.” “Em chỉ đùa thế thôi, chồng ơi. Đúng thế, chẳng có ai phàn nàn về anh hết.” “Nếu bọn trẻ con chửi rủa chúng ta, điều đó chẳng liên quan gì tới chuyện anh làm việc nhanh hay chậm, mà do bố mẹ chúng quá ngu ngốc hay đúng hơn là quá say xỉn đến nỗi không biết dạy chúng cư xử phải phép và kính trọng.” “Bình tĩnh lại, chồng của em. Em đã nói là em chỉ đùa thôi mà, và em sẽ không bao giờ đùa như thế nữa. Người lạ mặt kia đang cho em biết những điều em rất quan tâm và có thể lúc nào đó anh cũng sẽ quan tâm cho mà xem. Nhưng cô ấy phải nói cho hết, nên hãy cho phép em yêu cầu anh một lần nữa, hãy nhanh chân trở lại với việc anh đang làm để em được nghe tiếp chuyện của cô ấy và an ủi cô ấy nếu được.” “Anh xin lỗi, công chúa của anh, nếu anh nói năng có phần hà khắc với em.” Nhưng Beatrice đã kịp quay người và đang ngược dốc trở lại chỗ cây táo gai, đến với dáng người khoác áo choàng đương phần phật bay trong gió. Một lát sau, lo việc xong quay lại chỗ cánh đồng, như để thử thách lòng kiên nhẫn của dân làng, Axl rẽ chệch khỏi lộ trình để được đi qua chỗ bụi gai già thêm một lần nữa. Sự thực là, mặc dù hoàn toàn đứng về phía vợ mà coi khinh bản tính ngờ vực của những phụ nữ kia, ông vẫn không làm sao thoát khỏi ý nghĩ rằng người lạ mặt ấy đúng là có mang theo một mối đe dọa nào đó, và ông cứ lo lắng suốt kể từ khi để Beatrice lại một mình với cô ta. Ông nhẹ cả người khi trông thấy bóng dáng Beatrice ngồi một mình trước tảng đá trên mũi đất, nhìn ra bầu trời trước mặt. Dường như đang đắm chìm trong suy nghĩ, nên phải tới khi ông gọi với lên, bà mới nhận thấy sự hiện diện của ông. Quan sát vợ đi xuống trên lối mòn, chậm rãi hơn ế ấ ầ ề bao giờ hết, Axl thấy dáng đi của Beatrice gần đây có điều gì đó khác biệt, cho dù đây không phải là lần đầu tiên ông nhận thấy điều này. Bà không đi khập khiễng, nhưng dường như có một nỗi đau đang âm ỉ đâu đó trong bà. Lúc vợ tới gần, Axl hỏi chuyện gì đã xảy ra với người bạn kỳ quặc kia thì Beatrice chỉ nói đơn giản thế này: “Cô ấy đi rồi.” “Chắc rằng cô ấy đã rất biết ơn lòng tốt của em, công chúa ạ. Em nói chuyện với cô ấy có lâu không?” “Có, và cô ấy có rất nhiều chuyện để kể cho em nghe.” “Anh thấy cô ta đã nói điều gì đó khiến công chúa của anh phiền lòng. Có lẽ những người phụ nữ kia đã đúng và tốt hơn cả là tránh xa cô ta ra.” “Cô ấy không làm em khó chịu, Axl. Cô ấy chỉ khiến em phải suy nghĩ mà thôi.” “Tâm trạng của em kỳ quá. Em có chắc cô ta không phù phép em trước khi tan biến vào không khí không?” “Hãy lên chỗ bụi gai già mà nhìn, chồng ạ, anh sẽ thấy cô ấy trên đường sau khi vừa rời đi mới đây thôi. Cô ấy hy vọng sẽ tìm được những tấm lòng nhân hậu hơn từ những người dân sống phía sau quả đồi.” “Vậy thì anh sẽ để em yên, công chúa của anh, khi anh đã biết em không sao. Chúa sẽ hài lòng vì em đã bày tỏ lòng nhân hậu của mình như lúc nào em cũng thế.” Nhưng lần này, Beatrice có vẻ miễn cưỡng không muốn Axl bỏ đi. Bà níu lấy cánh tay ông, mặc dù trong giây lát có vẻ chỉ để đứng cho vững, nhưng rồi sau đó bỗng ngả đầu trên ngực chồng. Như được bản năng điều khiển, tay ông đưa lên vuốt ve mái tóc bà, mái tóc đã rối bời trong gió, và khi nhìn xuống, ông rất ngạc nhiên thấy mắt bà vẫn mở to. “Tâm trạng của em kỳ lạ quá, đúng vậy,” ông nói. “Người lạ mặt ấy đã nói gì với em?” Beatrice tựa đầu vào ngực Axl thêm một lát nữa. Rồi bà đứng thẳng dậy và buông tay khỏi ông. “Axl ơi, giờ đây sau khi đã suy nghĩ kỹ, em cảm thấy đúng là hình như có một sự thực nào đó trong những điều anh vẫn thường nhắc đến. Thế giới này mới kỳ quặc làm sao, khi người ta có thể lãng quên những người họ mới gặp hay những gì mới chỉ xảy ra ngày hôm qua hay hôm kia mà thôi. Sự lãng quên ấy giống như một căn bệnh bao phủ lấy tất cả chúng ta vậy.” “Đúng như những gì anh vẫn nói, công chúa ạ. Thử lấy người phụ nữ tóc đỏ ấy…” “Đừng bận tâm tới người phụ nữ tóc đỏ làm gì, Axl. Đó chỉ là một điều khác đã bị chúng ta quên lãng mà thôi.” Vợ ông nói câu này khi đưa mắt nhìn ra khoảng không tầng tầng sương giăng phía xa, nhưng lúc này bà đã quay lại nhìn thẳng vào ông, và ông có thể thấy nỗi buồn và khát khao dâng đầy trong mắt bà. Và đó chính là lúc - ông biết chắc vậy - bà nói với ông: “Đã từ lâu anh luôn phản đối việc này, Axl của em, em biết. Nhưng giờ đã đến lúc cần suy nghĩ lại. Chúng ta phải thực hiện chuyến đi ấy, không nên trì hoãn thêm chút nào nữa.” “Một chuyến đi ư, công chúa? Chuyến đi gì mới được chứ?” “Chuyến đi tới ngôi làng của con trai chúng ta. Không xa đâu, chồng ơi, chúng ta biết thế. Kể cả với những bước chân chậm chạp của hai ta, nó cũng chỉ mất vài ngày đi bộ là cùng, chỉ qua Đại Đồng Bằng rồi thêm một đoạn đường ngắn nữa về phía Đông mà thôi. Và cũng chẳng còn bao lâu nữa, mùa xuân sẽ tới.” “Chúng ta có thể thực hiện một chuyến đi như vậy, nhất định rồi, công chúa ạ. Có phải người lạ mặt kia vừa nói với em điều gì đó khiến em suy nghĩ về chuyện này?” “Em đã suy nghĩ về điều này từ lâu rồi, Axl ơi, những gì người phụ nữ khốn khổ kia nói với em chỉ khiến em không muốn trì hoãn thêm chút nào nữa mà thôi. Con trai của hai ta đang đợi chúng ta ở ngôi làng của nó. Chúng ta còn bắt con đợi chờ thêm bao lâu nữa đây?” “Khi mùa xuân tới, công chúa của anh, nhất định chúng ta sẽ nghĩ ngay tới một chuyến đi như thế. Nhưng tại sao em lại nói chính anh là người luôn muốn ngăn trở việc này chứ?” “Giờ thì em không còn nhớ những gì đã xảy ra giữa chúng ta liên quan tới việc này nữa, Axl ạ. Em chỉ biết anh lúc nào cũng kịch liệt phản đối việc này, kể cả khi em nóng lòng muốn đi.” “Thế này nhé, công chúa của anh, hãy tiếp tục bàn thêm về chuyện này khi nào công việc đã xong xuôi và không có người láng ề giềng nào chực ở đó mà gọi chúng ta là những kẻ chậm chạp. Giờ thì hãy để anh đi làm đã nhé. Chúng ta sẽ sớm bàn tiếp việc này.” Nhưng những ngày tiếp sau đó, kể cả những khi bóng gió nhắc tới chuyến đi này, họ lại chưa bao giờ trò chuyện một cách thực sự thích đáng về nó. Do cái cảm giác không thoải mái kỳ lạ cứ dâng lên trong họ mỗi khi họ đề cập tới vấn đề này, nên chẳng bao lâu sau, một mối cảm thông đã nảy sinh giữa hai người, sự cảm thông trong im lặng theo cách thường có giữa một cặp vợ chồng đã sống bên nhau nhiều năm, khiến họ cố gắng hết mức có thể để không đề cập tới chủ đề này nữa. Tôi nói “hết mức có thể”, vì đã nhiều lần một trong hai người như thấy một nhu cầu - một sự thôi thúc, bạn có thể gọi như vậy - phải nhắc tới chuyến đi. Nhưng mỗi khi thôi thúc ấy dâng lên trong lòng, thì cuộc thảo luận cuối cùng cũng nhanh chóng kết thúc hoặc bằng sự né tránh hoặc thái độ bực bội. Và có đúng một lần, khi Axl thắng thắn hỏi vợ xem người phụ nữ lạ mặt đã nói gì với bà trong cái ngày dưới bụi gai già ấy, nét mặt Beatrice bỗng tối sầm lại, và trong giây lát dường như nước mắt bà chực trào ra đến nơi. Sau bận ấy, Axl chú ý không nhắc gì đến người lạ mặt nữa. Thời gian cứ thế trôi đi và Axl không còn nhớ họ đã bắt đầu nói tới chuyến đi này như thế nào nữa, cũng như không thể nhớ nổi chuyến đi này mang ý nghĩa gì với hai vợ chồng. Nhưng rồi buổi sáng hôm nay, ngồi trong giá lạnh ngoài kia trước khí trời sáng, trí nhớ của ông dường như đã sáng tỏ ra, ít ra là một phần nào đó, và rất nhiều điều đã quay trở lại với ông: người phụ nữ tóc đỏ; Marta; người lạ mặt ăn mặc tả tơi tăm tối; cùng nhiều điều khác nữa mà chúng ta không cần phải để tâm tới ở đây. Ông cũng đã nhớ ra, khá sống động, chuyện xảy ra chỉ vài Chủ nhật trước, khi người ta lấy đi ngọn nến từ tay Beatrice. Chủ nhật là ngày nghỉ cho dân làng, ít nhất là trong chừng mực không ai phải làm việc ngoài đồng. Nhưng đàn gia súc vẫn cần được chăm sóc và vẫn còn biết bao việc khác chờ được giải quyết, nên vị mục sư của họ buộc phải chấp nhận rằng việc cấm đoán tất cả mọi thứ có liên quan đến lao động là một điều bất khả thi. Vậy là, khi Axl ra ngoài ánh nắng mùa xuân vào Chủ nhật hôm ấy sau cả buổi sáng ngồi sửa ủng, đón chào ông là cảnh hàng xóm láng giềng đang tản mát khắp khu đất ngay trước làng, một số ngồi trên bãi cỏ loang lổ ấ ố ố ồ ấ ế ế ẩ các mảng đất trống, số khác ngồi trên mấy chiếc ghế đẩu hoặc khúc gỗ, chuyện trò, cười đùa và làm việc. Trẻ em chạy chơi khắp mọi nơi, và trên đám cỏ đằng kia, một nhóm người tụ tập quanh hai người đàn ông đang đóng bánh xe cho một chiếc xe bò. Hôm ấy là ngày Chủ nhật đầu tiên trong năm thời tiết đủ ấm cho các hoạt động ngoài trời như thế, nên bầu không khí như mang một màu sắc lễ hội thật vui tươi. Tuy nhiên, khi đứng phía trước lối vào khu hầm ngầm và đưa mắt qua chỗ đám dân làng tới nơi mặt đất thoai thoải đổ dốc xuống các đầm lầy, Axl trông thấy những làn sương mù đang dâng lên, ông tin rằng đến buổi chiều, mọi thứ rồi sẽ lại bị nhận chìm trong một làn mưa phùn xám xịt. Ông đứng đó được một lúc rồi mới nhận thấy có một đám đông hỗn loạn ở đằng kia, gần chỗ hàng rào ngăn cách với đồng cỏ chăn nuôi gia súc. Thoạt đầu, đám đông cũng không khiến ông bận tâm cho lắm, nhưng gió thoảng đưa một điều gì đó lọt tới tai ông khiến ông phải ưỡn người đứng thẳng lên. Mặc dù thị giác đã mờ đi thật đáng ghét sau nhiều năm cuộc đời, thính giác của Axl lại vẫn đủ tinh tường, nên ông đã phân biệt ra được, trong mớ lộn xộn những tiếng quát tháo nổi lên giữa đám đông gần hàng rào, giọng Beatrice cất cao buồn bã. Những người khác cũng đã dừng tay giữa chừng để quay nhìn cả về phía ấy. Riêng Axl đã vội vã chạy qua đám đông, cẩn thận tránh lũ trẻ đang chạy chơi khắp nơi cũng như những đồ vật bỏ đầy trên cỏ. Nhưng trước khi ông tới nơi, tốp người đang chen lấn xô đẩy đột ngột giải tán, và Beatrice hiện ra từ giữa đám đông, hai tay giữ chặt một vật gì đó trước ngực. Đa số những người vây quanh bà tỏ rõ sự vui thích trên mặt, chỉ riêng người phụ nữ vừa nhanh như cắt xuất hiện ngay cạnh vợ ông - người vợ góa của một thợ rèn vừa qua đời năm ngoái sau một đợt sốt - là mang bộ mặt nhăn nhúm vì tức tối. Beatrice hất kẻ quấy rầy mình ra, giữ nguyên vẻ mặt lạnh lùng, một mặt nạ gần như vô hồn, nhưng khi thấy Axl đang chạy về phía mình, mặt bà bỗng vỡ òa cảm xúc. Nghĩ về chuyện ấy lúc này, Axl có cảm giác cái nhìn trên gương mặt vợ ông lúc bấy giờ, hơn bất cứ điều gì khác, chứa đựng cảm giác ngập tràn trong nhẹ nhõm. Không phải vì Beatrice tin rằng mọi điều sẽ ổn thỏa khi ông có mặt; mà chỉ vì sư hiện diện của ông đã ắ mang lại cả một trời khác biệt cho bà. Bà đã dán mắt nhìn ông không chỉ trong nhẹ nhõm, mà còn một điều gì nữa như nài nỉ van xin, và dang tay đưa cho ông cái vật thể bà đang điên cuồng bảo vệ. “Của chúng ta đấy, Axl! Chúng ta sẽ không phải ngồi trong bóng tối nữa. Cầm lấy, nhanh lên, chồng ơi, của chúng ta đấy!” Bà đang giơ một thỏi nến ngắn choằn và có phần méo mó về phía Axl. Vợ góa của người thợ rèn lại một lần nữa tìm cách giật thỏi nến khỏi tay bà, nhưng Beatrice gạt bàn tay của kẻ xâm phạm ra. “Cầm lấy đi, chồng ơi! Cô bé kia, Nora bé nhỏ, sáng nay mang đến cho em sau khi tự tay làm đấy, nó nghĩ chúng ta chắc đã kiệt sức khi phải sống qua đêm như thế.” Những lời này làm nổ ra một tràng la ó khác, thậm chí cả những tiếng cười. Nhưng Beatrice vẫn không rời mắt khỏi Axl, nét mặt đầy tin tưởng và khẩn nài, và điều đầu tiên ông nhớ lại vào buổi sáng hôm nay khi ngồi trên chiếc ghế dài phía ngoài khu hầm ngầm chờ bình minh tới chính là gương mặt của bà vào khoảnh khắc đó. Làm sao ông lại quên sự việc này khi nó mới chỉ diễn ra không quá ba tuần trước? Làm sao ông lại không hề nghĩ tới chuyện này cho tới tận hôm nay? Mặc dù đã dang tay ra nhưng Axl cũng không đón được thỏi nến - đám đông ngăn trở ông tới gần - và ông nói, lớn tiếng và có phần tự tin: “Đừng lo, công chúa của anh. Đừng lo.” Vừa cất lời, ông vừa thấy rõ sự sáo rỗng trong câu nói của mình, nên ông vô cùng ngạc nhiên khi ngay sau đó đám đông bỗng trở nên im ắng, đến cả vợ góa của người thợ rèn cũng đã lùi lại một bước. Chỉ đến lúc ấy, Axl mới nhận ra những phản ứng đó không phải là do những lời nói của ông đưa đón, mà do vị mục sư của làng đang tiến lại gần từ phía sau lưng Axl. “Chúng ta đang làm gì trong ngày của Chúa thế này?” Vị mục sư sải bước đi qua Axl và nghiêm khắc nhìn đám đông đang im phăng phắc. “Hả?” “Là vì bà Beatrice, thưa ngài,” vợ góa của người thợ rèn nói. “Bà ta kiếm được một thỏi nến.” Beatrice một lần nữa đanh mặt lại, nhưng bà không tránh cái nhìn của vị mục sư khi ông đưa mắt tới chỗ bà. “Tôi thấy đó là sự thật, bà Beatrice,” vị mục sư nói. “Tôi nhắc để bà nhớ rằng hội đồng đã ra sắc lệnh vợ chồng bà không được dùng ế nến trong phòng.” “Hai chúng tôi cả đời chưa bao giờ đánh rơi một ngọn nến nào, thưa ngài. Chúng tôi sẽ không ngồi trong bóng tối đêm này sang đêm khác nữa.” “Quyết định đã được đưa ra và bà phải tuân lệnh, cho tới khi hội đồng ban hành một quyết định khác.” Axl thấy nỗi tức giận rực lên trong mắt vợ. “Điều đó thực là tàn nhẫn. Tất cả chỉ có thế.” Bà nói nhỏ điều này, gần như lí nhí, nhưng vẫn nhìn thẳng vào vị mục sư. “Lấy ngọn nến ra khỏi tay bà ấy,” vị mục sư nói. “Hãy làm những gì tôi nói. Lấy ngọn nến đi.” Khi vài bàn tay giơ về phía Beatrice, Axl có cảm giác hình như Beatrice không hoàn toàn hiểu rõ những gì vị mục sư vừa nói. Vì bà đứng đó với vẻ mặt bối rối, giữa đám đông đang chen lấn xô đẩy, tiếp tục nắm chặt ngọn nến như thể được xúi giục bởi một bản năng đã bị lãng quên nào đó. Rồi như chợt choáng ngợp trong hoảng hốt, bà lại chìa ngọn nến về phía Axl, kể cả khi vừa bị xô mất thăng bằng. Beatrice không ngã xuống đất khi bị xô đẩy, và sau khi lấy lại được thăng bằng, bà lại tiếp tục giơ ngọn nến về phía ông. Ông cố giành lấy, nhưng một bàn tay khác đã chộp được nó, và sau đó giọng nói của vị mục sư vang lên oang oang: “Đủ rồi! Hãy để bà Beatrice được yên, không ai được phép nói những lời tàn nhẫn nữa. Bà ấy là một phụ nữ lớn tuổi không hoàn toàn hiểu hết những hành động của mình. Tôi nói thế là đủ rồi! Đây không phải là thái độ phù hợp cho ngày của Chúa!” Cuối cùng cũng đã tới được bên vợ, Axl ôm bà trong vòng tay, và đám đông tản dần. Nhớ lại khoảnh khắc này, ông thấy hình như họ cứ đứng như vậy thật lâu, hai người bên nhau, đầu Beatrice tựa trên ngực ông, hệt như bà đã tựa vào ông trong cái ngày người phụ nữ lạ mặt ghé thăm, như thể chỉ vì kiệt sức và cần lấy lại hơi. Ông cứ ôm vợ như thế cho đến khi vị mục sư thêm một lần nữa yêu cầu mọi người giải tán. Khi cuối cùng cũng rời khỏi nhau và đưa mắt nhìn ra xung quanh, họ thấy mình đứng trơ trọi bên đồng cỏ nuôi bò có cánh cổng gỗ bằng thanh ngang. “Chuyện ấy có to tát gì đâu, hả công chúa?” ông nói. “Chúng ta đâu có cần nến? Chúng ta đã quá quen đi lại trong phòng mà không ế ẳ có nến. Và chẳng phải những cuộc nói chuyện của chúng ta đã quá đủ để vui vẻ rồi sao, có nến hay không cũng đâu khác gì?” Ông thận trọng đưa mắt quan sát vợ. Beatrice trông thực mơ màng, không tỏ vẻ gì tức giận. “Em xin lỗi, Axl,” bà nói. “Thế là mất nến rồi. Lẽ ra em nên giữ bí mật riêng cho hai ta. Nhưng khi cô bé đưa cho em ngọn nến nó làm riêng cho chúng ta, em đã quá sung sướng. Giờ thì hết rồi. Chẳng có gì.” “Hoàn toàn không có vấn đề gì hết, công chúa ạ.” “Họ nghĩ chúng ta là hai kẻ ngớ ngẩn, Axl ạ.” Bà tiến thêm một bước và lại tựa đầu vào ngực ông. Chính đây là lúc bà nói, giọng nghẹn ngào đến nỗi thoạt đầu ông tưởng mình nghe nhầm: “Con trai của chúng ta, Axl ơi. Anh có nhớ con trai của chúng ta không? Vừa rồi bị họ xô đẩy, em đã nghĩ tới con trai của chúng mình. Một chàng trai khỏe mạnh, đẹp đẽ và cương trực. Tại sao chúng ta phải sống ở đây? Hãy tới ngôi làng của con trai chúng ta. Con sẽ bảo vệ chúng ta và trông chừng để không ai cư xử tệ bạc với chúng ta. Sau ngần ấy năm trời, liệu trái tim anh có chịu thay đổi không, Axl? Liệu anh có còn nói chúng ta không được đi tìm con không?” Khi Beatrice dịu dàng thì thầm những điều này trên ngực Axl, biết bao mảnh ký ức cùng lúc ùa về trong ông, nhiều đến mức ông cảm thấy suýt té xỉu. Ông rời tay ôm vợ rồi lùi lại một bước, sợ rằng mình lảo đảo rồi khiến bà mất thăng bằng. “Em đang nói gì vậy, công chúa của anh? Đã bao giờ anh là người ngăn cản chúng ta lên đường tới làng của con trai chưa?” “Chắc chắn anh đã từng làm thế, Axl ạ. Chắc chắn đã từng như thế.” “Anh đã phản đối chuyến đi này khi nào, hả công chúa?” “Em luôn tưởng anh đã phản đối, chồng ơi. Nhưng trời ạ, Axl của em, khi anh hỏi em thế này, em không thể nhớ rõ nữa. Và tại sao chúng ta lại đứng ngoài này, cho dù hôm nay đẹp trời đến thế?” Beatrice lại trở nên bối rối. Bà nhìn ông, rồi lại nhìn ra xung quanh, trong ánh nắng mặt trời dễ chịu, những người hàng xóm một lần nữa đã quay trở lại với những việc họ đang làm. ồ ồ “Hãy vào ngồi trong nhà,” một lúc sau bà nói. “Hãy ngồi riêng với nhau một lúc. Một ngày đẹp trời, đúng, nhưng em mệt quá rồi. Hãy trở vào bên trong.” “Được thôi, công chúa của anh. Hãy vào trong nghỉ ngơi một lát, tránh xa khỏi ánh mặt trời này. Em sẽ lại thấy khỏe thôi.” Đã có thêm nhiều người thức giấc bên trong khu hầm ngầm. Những người chăn cừu có lẽ đã kịp ra ngoài tự bao giờ, mặc dù Axl chẳng hề nghe thấy gì khi còn mải chìm sâu trong suy ngẫm, ở góc phòng bên kia, Beatrice đang thì thầm trong cơn mê ngủ, nghe cứ như bà sắp sửa cất tiếng hát thành lời, rồi sau đó bà trở mình dưới lớp chăn. Đã quen thuộc với những dấu hiệu này, Axl đi qua phòng tới bên giường, thận trọng ngồi bên mép giường đợi chờ trong im lặng. Beatrice cựa mình nằm ngửa trên giường, mắt nửa nhắm nửa mở nhìn Axl. “Xin chào ông xã,” cuối cùng bà cũng nói. “Em rất mừng vì trong khi em còn ngủ, các vị thần không tới đón chồng em đi mất.” “Công chúa của anh, anh có điều này muốn nói với em.” Beatrice vẫn không rời mắt khỏi Axl, cho dù mắt bà vẫn chưa mở hẳn. Rồi bà tựa người ngồi dậy trên giường, và do vậy, tia sáng mặt trời lúc trước rọi vào con nhện giờ đang chiếu trên mặt bà. Mái tóc dày điểm bạc, xổ tung và xỉn màu, khô cứng xõa trên vai Beatrice, nhưng không vì thế mà Axl mất đi cảm giác hạnh phúc trong tim mỗi khi được ngắm vợ trong ánh nắng buổi sớm mỗi ngày như thế. “Có chuyện gì mà anh phải cho em biết ngay, trước cả khi em kịp dụi mắt cho tỉnh ngủ thế?” “Chúng ta đã nói tới chuyện này từ trước, công chúa của anh, về chuyến đi ấy. Thế này, mùa xuân đã tới rồi, và có lẽ đã đến lúc nên khởi hành.” “Khởi hành ư, Axl của em? Bao giờ thì khởi hành?” “Ngay khi có thể. Chúng ta sẽ chỉ vắng mặt vài ngày. Dân làng sẽ không cần đến chúng ta. Chúng ta sẽ thưa chuyện với vị mục sư.” “Vậy là chúng ta đi gặp con trai phải không, hả Axl?” “Đó chính là việc chúng ta sẽ làm. Đi tìm con trai mình.” Ngoài kia, lũ chim đang đồng thanh hót. Beatrice đưa mắt nhìn lên ô cửa sổ, ánh nắng mặt trời đang xuyên vào phòng qua tấm vải che. “Có những ngày hình ảnh con hiện ra rất rõ ràng trong em,” bà nói. “Rồi hôm sau, tựa như có một tấm màn từ đâu tới che phủ lên toàn bộ ký ức về nó. Nhưng con là một chàng thanh niên đẹp trai và tử tế, điều đó thì em biết chắc.” “Tại sao hiện giờ con không ở cùng chúng ta, hở công chúa?” “Em không biết anh ạ. Có thể vì nó đã cự cãi với người cao tuổi và buộc phải rời làng ra đi. Em đã hỏi han khắp lượt nhưng không ai trong ngôi làng này nhớ tới nó. Nhưng em biết rõ rằng, con đã không làm gì khiến nó phải hổ thẹn với lương tâm. Chẳng lẽ anh không nhớ một chút gì sao, Axl?” “Vừa rồi khi ngồi ngoài kia, cố hết sức gợi lại tất cả những gì anh còn nhớ được trong sự tĩnh lặng của sáng sớm, anh đã nhớ ra được rất nhiều điều. Nhưng anh không tài nào hình dung ra con trai mình, dù là nét mặt hay giọng nói, cho dù nhiều lúc anh có cảm giác thấy hình ảnh con lúc còn là một cậu bé, khi anh đang dắt tay nó đi bên bờ sông, hoặc có khi lại là lúc con đang khóc và anh đang chìa tay ra tìm cách an ủi nó. Nhưng giờ đây trông con ra sao, con đang sống ở đâu, liệu có phải nó đã có một cậu con trai hay không, thì anh không nhớ chút nào hết. Anh đã hy vọng em sẽ nhớ được nhiều hơn thế, công chúa ạ.” “Nó là con trai của chúng ta,” Beatrice nói. “Nên em cảm nhận được nhiều điều về nó, kể cả khi em không thể nhớ rõ. Và em biết con đang nóng lòng mong chúng ta rời khỏi chốn này đến sống trong vòng tay che chở của nó.” “Con là máu mủ của chúng ta, nhất định con sẽ muốn chúng ta đến sống cùng.” “Kể cả như thế, thì rồi em sẽ nhớ nơi này, Axl ạ. Căn phòng nhỏ của chúng ta và ngôi làng này. Chia tay với nơi ta đã sống cả cuộc đời chẳng phải là điều dễ dàng gì.” “Không ai bắt chúng ta phải ra đi mà không suy nghĩ trước, công chúa ạ. Khi ngồi ngoài kia chờ mặt trời mọc mới đây, anh đã nghĩ chúng ta nên tiến hành chuyến đi này, tìm tới làng của con để nói chuyện với con. Vì kể cả khi chúng ta là cha mẹ, không phải cứ thích là vào một ngày nắng đẹp chúng ta bỗng xuất hiện rồi đòi sống ở đó với dân làng của con.” ắ “Anh nói đúng lắm, ông xã của em ạ.” “Còn có một việc nữa khiến anh lo lắng, công chúa của anh. Ngôi làng nơi con sống có thể chỉ cách chúng ta vài ngày đường, như em đã nói. Nhưng làm sao để tìm được đến đó?” Beatrice ngồi yên, mắt nhìn ra khoảng không trước mặt, bờ vai nhẹ đưa theo nhịp thở. “Em tin rằng chúng ta sẽ tìm được đường đi không khó khăn gì, Axl ạ,” cuối cùng bà cũng nói. “Kể cả khi chúng ta vẫn chưa biết đích xác ngôi làng con đang sống ở đâu, nhưng đã nhiều lần em đi cùng đám phụ nữ tới các ngôi làng xung quanh trong những chuyến đi trao đổi mật ong và thiếc. Có bị bịt mắt thì em cũng vẫn tới được Đại Đồng Bằng, cũng như ngôi làng của người Saxon ngay phía bên kia đồng bằng, nơi bọn em vẫn thường nghỉ chân. Làng của con sẽ chỉ xa hơn chút nữa, nên chúng ta sẽ tìm ra mà không gặp phải phiền toái gì. Axl ơi, có thực là chúng ta sẽ sớm lên đường hay không?” “Có, công chúa ạ. Chúng ta sẽ bắt đầu chuẩn bị ngay trong hôm nay.” Chương Hai T uy thế, vẫn còn khá nhiều việc phải được thu xếp ổn thỏa rồi họ mới có thể lên đường. Trong một ngôi làng thế này, nhiều vật dụng cần thiết cho chuyến đi của họ - chăn gối, chai nước, bùi nhùi - đều thuộc sở hữu của cả cộng đồng và để được toàn quyền sử dụng ta phải nỗ lực thương thuyết với hàng xóm láng giềng. Hơn thế nữa, mặc dù tuổi đã cao nhưng cả Axl và Beatrice đều có một khối lượng công việc phải thực hiện hằng ngày, không thể cứ thích là đi mà không được sự đồng thuận của cộng đồng. Kể cả khi cuối cùng họ đã sẵn sàng, thời tiết bỗng thay đổi khiến họ phải lùi ngày khởi hành lại. Vì đánh liều với những rủi ro do sương mù, mưa và giá lạnh gây ra để làm gì trong khi ai cũng biết chẳng bao lâu nữa sẽ là nắng ấm? Rồi cuối cùng họ cũng được lên đường, gậy chống trong tay và đồ dùng gói ghém trên lưng, vào một buổi sáng rực rỡ với những dải mây trắng mong manh trong làn gió thổi mạnh. Axl muốn lên đường ngay khi tia sáng đầu tiên xuất hiện - ông thấy rõ hôm ấy sẽ là một ngày đẹp trời - nhưng Beatrice khăng khăng muốn chờ tới lúc mặt trời lên cao hơn chút nữa. Họ sẽ dễ dàng tới được ngôi làng của người Saxon, ở đó hai người sẽ nghỉ lại qua đêm đầu tiên, chỉ sau một ngày đi bộ - Beatrice lý luận - và ưu tiên hàng đầu nhất định phải là làm sao vượt được đoạn đường chạy qua một góc của Đại Đồng Bằng càng gần buổi trưa càng tốt, vì đó là lúc những thế lực đen tối nơi này ngủ yên không hoạt động. Đã lâu lắm rồi họ mới cùng nhau đi đâu đó thế này nên Axl khá lo lắng về khả năng chịu đựng của Beatrice. Nhưng chỉ một giờ đồng hồ sau đo, ông đã thấy yên tâm trở lại: mặc dù đi với tốc độ chậm rãi - một lần nữa ông lại nhận thấy dáng đi của vợ như lệch về một phía, như thể bà đang cố làm giảm nhẹ một cơn đau - Beatrice vẫn tiếp tục đều đặn tiến bước, cúi đầu trước gió khi đi qua những vùng đất trống và dũng cảm đương đầu khi gặp những đám cúc gai cùng những bụi cây mọc thấp. Trên những đoạn đường dốc, hay nơi mặt đất quá lầy lội khiến việc nhấc chân này theo chân kia là cả một nỗ lực to lớn, Beatrice có giảm tốc độ, nhưng vẫn không bao giờ dừng bước. Trong khoảng thời gian trước khi họ khởi hành, Beatrice càng ngày càng tin chắc mình sẽ nhớ đường, ít nhất là đoạn đường tới ngôi làng của người Saxon, nơi bà thường cùng các phụ nữ trong làng lui tới suốt những năm tháng qua. Nhưng khi ngọn đồi lởm chởm nơi họ cư ngụ đã khuất khỏi tầm mắt, và sau khi đã vượt qua thung lũng phía bên kia vùng đầm lầy, Beatrice bỗng tỏ ra kém tự tin hơn. Tại một ngã ba đường, hay khi đứng trước một cánh đồng lộng gió, bà sẽ dừng chân đứng yên tại chỗ một lúc thật lâu, cái nhìn dần lộ vẻ hoảng hốt khi bà đưa mắt quan sát xung quanh. “Đừng lo, công chúa ạ,” Axl thường nói vào những lúc ấy. “Đừng lo, cứ từ từ mà suy nghĩ cho kỹ.” “Nhưng Axl ơi,” bà sẽ nói, quay về phía ông, “chúng ta không có nhiều thời gian. Chúng ta phải đi qua Đại Đồng Bằng vào buổi trưa, nếu muốn được an toàn.” “Chúng ta sẽ kịp thôi, công chúa ạ. Cứ từ từ suy nghĩ cho kỹ.” Tới đây, tôi nên nói rõ để bạn biết, việc định hướng nơi đồng không mông quạnh hồi ấy khó khăn hơn rất nhiều so với bây giờ, không chỉ vì không có la bàn và bản đồ đáng tin cậy. Thời đó, chúng ta còn chưa có những hàng giậu dễ thương chia cắt miền quê thành những cánh đồng, lối đi cũng như các đồng cỏ. Người lữ hành thời bấy giờ thường thấy mình đứng trước một phong cảnh thiên nhiên chẳng có điểm gì đặc biệt, nhìn về phía nào cũng thấy hệt như nhau. Một dãy các tảng đá đứng dọc theo chân trời phía xa, một khúc quanh của dòng suối, hay những dốc những vực vốn là đặc trưng của một thung lũng: những manh mối như thế là cách duy nhất để tìm đường. Một lần rẽ nhầm có thể mang đến hậu quả chết người. Chưa cần bận tâm tới khả năng sẽ mất mạng vì thời tiết xấu: lạc đường có nghĩa bạn đã tự đẩy mình vào mối nguy hiểm hơn bao giờ hết là sẽ chạm trán với những kẻ chuyên tấn công - con người, động vật hay các thế lực siêu nhiên - rình rập ở khắp nơi cách xa những con đường đã được kiến lập. Có lẽ bạn sẽ rất ngạc nhiên khi thấy họ trò chuyện mới ít làm sao trên đường, trong khi cặp vợ chồng này vốn lúc nào cũng có biết bao nhiêu chuyện muốn được chia sẻ cùng nhau. Nhưng vào lúc mà một mắt cá chân bị dập hay một vệt xước bị nhiễm trùng trên da hoàn toàn có thể đe dọa đến tính mạng, ai cũng thấy rõ tập trung hoàn ầ ế ể toàn vào từng bước chân là một việc làm cần thiết. Cũng có thể, bạn sẽ để ý thấy rằng mỗi khi lối đi thu hẹp lại không đủ để cùng sánh bước, thì không phải Axl mà Beatrice sẽ luôn là người đi trước. Điều này có lẽ cũng sẽ khiến bạn phải ngạc nhiên, vì bình thường nam giới luôn là người dẫn đường khi đặt chân tới những khu vực nguy hiểm tiềm tàng, và đúng vậy, trong rừng cây hoặc ở những đoạn đường nơi chó sói hoặc gấu có khả năng xuất hiện, họ liền đảo vị trí cho nhau mà chẳng cần một lời bàn cãi. Nhưng phần lớn thời gian trên đường đi, Axl luôn đảm bảo để làm sao vợ mình luôn là người đi trước, lý do là vì ai cũng biết bọn quỷ sứ hay lũ yêu tinh họ có thể chạm trán trên đường đi luôn tấn công con mồi từ phía sau đoàn người - theo tôi hiểu thì giống một con mèo lớn lén theo sau chú linh dương đi sau cùng trong đàn. Đã có rất nhiều trường hợp một người lữ hành ngoảnh lại tìm bạn đồng hành đi sau mình, để rồi nhận ra rằng người bạn ấy đã biến mất không để lại vết tích. Nỗi sợ một biến cố như thế sẽ xảy ra khiến Beatrice cứ chốc chốc lại vừa đi vừa hỏi: “Anh vẫn còn đó chứ, hở Axl?” và đến lượt Axl lại đều đặn trả lời: “Vẫn ở đây, công chúa ạ.” Họ tới rìa Đại Đồng Bằng vào lúc gần trưa. Axl muốn tiếp tục đi cho xong để khỏi phải lo lắng tới mối hiểm nguy này nữa, nhưng Beatrice lại nhất quyết muốn chờ đến đúng trưa. Họ ngồi xuống một tảng đá trên đỉnh ngọn đồi dốc chạy xuống đồng bằng, chăm chú quan sát bóng hai cây gậy chống đang cắm trên đất ngay trước mặt cứ ngắn dần theo thời gian. “Ừ thì có thể hôm nay đẹp trời, Axl ạ,” bà nói. “Và em cũng chưa bao giờ nghe nói có chuyện gì tệ hại xảy ra với bất kỳ ai ở phía này của đồng bằng. Nhưng dù sao thì, tốt hơn cả là chờ tới trưa, khi ta biết chắc sẽ chẳng có con quỷ nào thèm để ý, dù chỉ là hé mắt ra nhìn chúng ta đi qua.” “Chúng ta sẽ chờ, như em mong muốn, công chúa của anh ạ. Và em nói rất đúng, dù sao đây cũng là Đại Đồng Bằng, cho dù là ở phía vốn nổi tiếng từ bi.” Họ ngồi như thế một lúc, mắt nhìn xuống miền đất dưới kia, hầu như không nói gì. Rồi Beatrice cất lời. “Axl ạ, khi gặp chúng ta, nhất định con sẽ muốn chúng ta ở lại sống cùng nó. Anh có thấy cảm giác lạ lùng khi phải chia tay với ề ầ ấ những người đã là hàng xóm láng giềng của mình ngần ấy năm trời, kể cả khi thỉnh thoảng họ vẫn chòng ghẹo hai mái đầu bạc của chúng mình?” “Chúng ta vẫn chưa quyết định điều gì cả, công chúa ạ. Chúng ta sẽ bàn bạc mọi chuyện khi gặp con.” Axl vẫn dõi mắt nhìn ra Đại Đồng Bằng. Rồi ông lắc đầu khẽ nói: “Thực là kỳ cục, làm sao anh không thể nhớ ra chút gì về nó.” “Em nghĩ là đêm qua em nằm mơ thấy con,” Beatrice nói. “Đứng bên một cái giếng, hơi xoay người sang một phía và đang gọi ai đó. Em không nhớ trước và sau đó thế nào nữa.” “Ít ra em đã nhìn thấy con, công chúa của anh, cho dù chỉ là trong mơ. Trông con thế nào?” “Một gương mặt nam tính, đẹp trai, em chỉ nhớ có thế. Nhưng màu mắt, góc cạnh trên gò má, thì em lại chẳng nhớ chút nào.” “Anh không hề nhớ nét mặt con,” Axl nói. “Hẳn là vì màn sương ấy. Có rất nhiều thứ anh sẵn lòng vui vẻ mà quên đi, nhưng thật tàn nhẫn làm sao khi chúng ta không nhớ chút nào về một điều quý giá đến thế.” Beatrice dịch sát lại gần chồng, để đầu mình ngả vào vai ông. Gió lúc này đang thổi mạnh khiến một phần áo choàng của bà bay tự do. Axl vòng tay qua người vợ, dùng bàn tay chặn áo lại và giữ cho nó ôm vào người Beatrice. “Thôi thì, anh đoan chắc một trong hai ta chẳng bao lâu nữa sẽ nhớ ra thôi,” ông nói. “Hãy cố gắng, Axl ạ. Cả hai chúng ta cùng cố. Như thể chúng ta đã để thất lạc một viên đá quý. Nhưng nếu cả hai cùng cố gắng, nhất định chúng ta sẽ tìm ra.” “Nhất định rồi, công chúa ạ. Nhưng nhìn kìa, bóng của hai cây gậy đã gần như biến mất. Đã đến lúc xuống dưới kia rồi đấy.” Beatrice ngồi thẳng người dậy và bắt đầu lục lọi trong bọc đồ của mình. “Đây, chúng ta sẽ cầm theo những thứ này.” Những thứ bà đưa cho ông nhìn giống như những viên sỏi nhẵn nhụi, nhưng khi nhìn kỹ, ông thấy trên bề mặt của chúng có khắc những hình vẽ phức tạp. “Nhét nó vào thắt lưng đi, Axl ơi, mà để ý đưa phía vạch đánh dấu ra ngoài. Vậy thì Chúa sẽ giữ cho vợ chồng mình an toàn. Còn em sẽ ầ ấ cầm mấy hòn này.” “Một viên là đủ cho anh rồi, công chúa ạ.” “Không, Axl của em, chúng ta sẽ chia đều. Giờ thì, em nhớ là có một lối đi dẫn xuống dưới kia, trừ phi mưa đã xóa nhòa tất cả, nếu không đoạn đường đi xuống Đại Đồng Bằng sẽ dễ dàng hơn phần lớn những đoạn chúng ta vừa đi qua. Nhưng có một vị trí chúng ta phải hết sức thận trọng. Axl này, anh có nghe em nói không đấy? Đó là đoạn lối đi chạy qua chỗ chôn người khổng lồ. Với những ai không biết thì chỗ ấy trông cũng chỉ giống như một mô đất bình thường, nhưng em sẽ ra hiệu cho anh, và khi thấy thế, anh phải đi vòng quanh mô đất và chúng ta sẽ gặp lại nhau trên lối đi ở phía bên kia. Giẫm chân lên nấm mồ ấy sẽ chẳng mang lại chuyện gì tốt đẹp, cho dù là giữa trưa hay không. Anh hiểu rõ em chứ, Axl?” “Đừng lo, công chúa ạ, anh hiểu em rất rõ.” “Và đừng để em phải nhắc nhở anh một lần nữa. Nếu gặp người lạ trên đường, hoặc nghe có ai gọi từ hai bên vệ đường, hay thấy một sinh vật khốn khổ mắc kẹt trong bẫy hoặc bị thương dưới rãnh, hay bất cứ điều gì như vậy khiến anh chú ý, đừng có hé răng nói dù chỉ một lời mà cũng đừng để chúng khiến anh dừng bước.” “Anh có phải là đồ ngốc đâu, hở công chúa của anh.” “Vậy thì được rồi, Axl, đã đến lúc lên đường.” Đúng như Beatrice hứa hẹn, họ chỉ phải cuốc bộ một quãng ngắn trên Đại Đồng Bằng. Mặc dù có nhiều đoạn lầy lội nhưng đường đi ở đây khá rõ ràng và không khi nào bị che khuất khỏi ánh nắng mặt trời. Sau đoạn xuống dốc ban đầu, con đường cứ thế đều đặn leo dốc, cho tới khi họ nhận thấy mình đang đi trên một dải đất hẹp trên đỉnh đồi cao, hai bên là đất hoang mọc đầy thạch nam. Gió thổi dữ dội, nhưng cảm giác không gì khác một liều thuốc giúp giải độc từ ánh mặt trời giữa trưa. Mặt đất khắp nơi phủ kín cây thạch nam và cây kim tước cao không quá gối, chỉ thỉnh thoảng mới xuất hiện một cây gỗ lớn - một loài cây già cỗi đơn độc nào đó, oằn mình trước những cơn gió mạnh không dứt. Rồi một thung lũng xuất hiện phía bên phải, nhắc họ nhớ tới sức mạnh và sự bí hiểm của Đại Đồng Bằng, và rằng họ chỉ đang cất bước qua một góc nhỏ của vùng đất này. ầ Họ đi sát vào nhau, sát tới mức Axl gần như chạm vào gót chân Beatrice. Mặc dù thế, trong suốt quãng đường vượt qua Đại Đồng Bằng, cứ năm hoặc sáu bước chân, Beatrice lại cất giọng hỏi, kiểu như một người đọc kinh cầu nguyện: “Anh còn đó không, Axl?” và Axl lại trả lời: “Có đây, công chúa.” Ngoài hai câu nghi thức ấy ra, họ không nói thêm gì khác. Ngay cả khi tới chỗ mô đất chôn người khổng lồ, và khi Beatrice khẩn cấp ra hiệu cho Axl bước chệch khỏi con đường xuống đám cây thạch nam bên rìa, họ vẫn hô ứng với giọng nói đều đều, như muốn đánh lừa không cho lũ quỷ đang giương tai nghe ngóng biết mục đích thực sự của mình. Axl vẫn luôn để mắt quan sát xem liệu có một đám sương mù vụt kéo qua hay những đám mây sẫm màu đột ngột xuất hiện trên bầu trời hay chăng, nhưng không có dấu hiệu gì của cả hai thứ này, và rồi cuối cùng họ đã bỏ Đại Đồng Bằng lại sau lưng. Khi họ leo qua một rừng cây nhỏ đầy tiếng chim hót, mặc dù Beatrice không nói gì, nhưng Axl thấy bà thả lỏng người và bà không hỏi đi hỏi lại điệp khúc đó nữa. Hai vợ chồng ngồi xuống nghỉ bên bờ suối, họ rửa chân, ăn bánh mì và đổ đầy nước vào bình. Từ đây trở đi, họ đi theo một lối mòn nhỏ có từ thời La Mã, vừa dài vừa trũng, dọc hai bên là những dãy cây sồi cùng những cây đu, tuy có dễ đi hơn nhưng lại phải thận trọng vì chắc chắn sẽ gặp những người đi đường khác ở đây. Và đúng như vậy, chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ đầu tiên, đi ngược lại với họ có một phụ nữ cùng hai đứa trẻ, một cậu bé cưỡi mấy chú lừa, và hai du khách đang rảo bước tìm về với đoàn du hành của mình. Lần nào họ cũng dừng lại trao đổi những lời nhận xét lịch sự, nhưng có một lần, khi nghe thấy tiếng lách cách bánh xe và móng guốc lại gần, họ liền nhảy xuống rãnh trốn. Nhưng không có gì đáng ngại - hóa ra cũng chỉ là một nông dân người Saxon với một xe ngựa chất củi cao ngất. Tới giữa buổi chiều, mây đen bắt đầu kéo tới che phủ bầu trời, báo hiệu một cơn bão. Họ đang ngồi nghỉ dưới gốc một cây sồi lớn, lưng xoay ra đường và khuất khỏi tầm mắt của những người qua lại. Trước mặt họ là một dải đất trống, vì thế ngay lập tức họ nhận thấy những thay đổi thời tiết này. “Đừng lo, công chúa ạ,” Axl nói. “Tán cây này sẽ giúp chúng ta khô ráo, cho đến khi mặt trời quay trở lại.” ề Nhưng Beatrice đã kịp đứng dậy, nghiêng mình về phía trước, một tay đưa lên che mắt. “Em thấy đoạn đường uốn cong ở phía xa, Axl ạ. Và em thấy chúng ta còn cách ngôi biệt thự cũ chẳng là bao. Đã có lần em với mấy phụ nữ trú chân ở đó. Một đống đổ nát, nhưng mái nhà vẫn còn tốt.” “Chúng ta có kịp tới đó trước khi trời đổ mưa không, hả công chúa?” “Nếu chúng ta đi ngay bây giờ thì sẽ kịp.” “Vậy thì nhanh chân lên thôi. Chẳng có lý do gì phải chịu chết vì ướt sũng nước mưa cả. Và cái cây này, giờ anh mới nhìn, đầy các khoảng trống đến nỗi anh gần như nhìn thấy cả bầu trời phía trên tán lá.” * * * Ngôi biệt thự đổ nát nằm xa hơn so với trong trí nhớ của Beatrice. Khi những giọt mưa đầu tiên lộp độp rơi xuống trong lúc bầu trời trên cao tối sầm lại, hai vợ chồng vẫn đang lặn lội trên một lối đi hẹp phủ đầy cây tầm ma cao đến ngang eo, khiến họ phải dùng gạt quật liên tục để mở đường. Mặc dầu từ ngoài đường có thể thấy rõ ngôi biệt thự nhưng khi đi theo lối này, đống đổ nát của nó lại bị cây cối và những tán lá rừng che khuất, vì thế hai nhà lữ hành của chúng ta vừa giật mình lại vừa nhẹ cả người khi ngôi biệt thự đột ngột hiện ra trước mắt. Biệt thự này chắc hẳn đã rất nguy nga tráng lệ vào thời La Mã, nhưng hiện giờ chỉ một phần nhỏ còn sót lại. Các nền nhà một thời lộng lẫy thì nay nằm trơ ra giữa nắng mưa, méo mó bởi các vũng nước tù, cây dại và cỏ đua nhau chồi lên giữa các viên gạch lát nền bạc màu. Những mảng tường còn lại, chỗ nào cũng chỉ cao không quá mắt cá chân, cho thấy vị trí ngay trước của các phòng. Axl và Beatrice lúc này đang thận trọng tiến về phía một vòm cửa xếp đá dẫn tới phần còn sót lại của cả công trình, họ dừng chân để nghe ngóng trước khi bước chân qua. Cuối cùng, Axl gọi với vào trong: “Có ai ở trong không?” Thế rồi vì không nghe tiếng đáp, ông nói: ổ ỗ “Chúng tôi là hai người Briton lớn tuổi tìm chỗ tránh bão. Chúng tôi đến với thiện ý.” Tất cả vẫn chìm trong im lặng, họ bước qua vòm cửa vào tới khu vực râm mát của chỗ trước đây hẳn là một hành lang. Rồi họ bước vào một căn phòng rộng rãi chìm trong một thứ ánh sáng xám màu, cho dù cả ở đây, toàn bộ một bức tường cũng đã đổ sụp. Căn phòng bên cạnh đã hoàn toàn biến mất, đám vạn niên thanh dày đặc mọc chen chúc nhau đến tận rìa nền nhà. Tuy nhiên, ba bức tường còn lại vẫn có mái che, đủ tạo nên một nơi trú mưa tốt. Ở đó, phía trước những mảng tường xây đầy bụi bẩn trước đây vốn là những bức tường quét vôi trắng, hiện ra hai bóng người, một đứng, một ngồi, cách nhau một quãng. Ngồi trên một mảng tường vỡ là một phụ nữ già cả, bé nhỏ như một con chim - lớn tuổi hơn cả Axl và Beatrice - mặc áo choàng đen, mũ tụt về phía sau đầu, để lộ ra một gương mặt nhăn nhúm. Mắt bà ta trũng sâu tới mức bạn khó lòng nhìn thấy chúng. Tấm lưng còng gần như không chạm tới bức tường sau lưng. Một vật gì đó đang cựa quậy trong lòng bà ta và Axl nhận ra đó là một con thỏ, nó bị bà ta giữ chặt trong hai bàn tay xương xẩu. Ở đầu đằng kia của bức tường ấy, như thể đang cố gắng tránh càng xa càng tốt khỏi bà già mà vẫn không bị ướt mưa, là một người đàn ông gầy gò, cao đến mức bất thường. Anh ta mặc một chiếc áo khoác dày cộp, loại áo những người chăn cừu thường dùng khi phải trông coi lũ cừu vào một đêm lạnh giá, nhưng lộ ra dưới phần lai áo là đôi cẳng chân trần. Chân anh ta mang một đôi giày thuộc loại Axl thấy vẫn thường được các ngư dân sử dụng. Mặc dù có lẽ vẫn còn trẻ, nhưng đỉnh đầu anh ta lại trọc lốc nhẵn nhụi, trong khi quanh hai tai lại lún phún những chùm lông đen. Anh ta đứng gượng gạo, lưng quay về phía căn phòng, một tay đặt trên bức tường trước mặt, như thể đang chăm chú lắng nghe chuyện gì đó đang diễn ra phía bên kia bức tường. Anh ta chẳng mở mồm nói lấy một câu mà chỉ đưa mắt nhìn qua vai khi Axl và Beatrice bước vào. Cả bà già kia cũng im lặng giương mắt nhìn họ, và chỉ đến khi Axl nói: “Cầu cho mọi người được an lành,” họ mới bớt căng thẳng. Người đàn ông cao lênh khênh nói: “Vào đây, các vị, nếu không sẽ bị ướt đấy.” ầ ố ố Quả vậy, bầu trời đã kịp mở toang và nước mưa đang xối xuống từ mấy chỗ thủng trên mái, bắn tung tóe trên nền nhà gần chỗ các vị khách của chúng ta đang đứng. Vừa cảm ơn anh ta, Axl vừa dẫn vợ tới gần bức tường, chọn một vị trí nằm ở khoảng giữa hai vị chủ nhà. Ông giúp Beatrice tháo bọc đồ trên lưng ra, sau đó đặt bọc đồ của mình xuống nền. Rồi cả bốn người cứ im lặng như vậy một lúc, trong khi cơn bão ngày càng dữ dội hơn, một tia chớp lóe lên rọi sáng nơi trú mưa của họ. Vẻ bất động kỳ cục của người đàn ông cao kều cùng bà già bé nhỏ kia như một thứ bùa mê khiến cả Axl và Beatrice giờ cũng đứng im không nhúc nhích. Cứ như thể sau khi tìm thấy một bức tranh rồi bước chân vào trong, đến lượt mình, họ cũng bất đắc dĩ phải sắm vai một nhân vật được khắc họa trong bức tranh ấy. Thế rồi, khi cơn mưa xối xả như trút nước dịu bớt thành một làn mưa đều đều, cuối cùng thì bà già bé nhỏ cũng phá tan bầu không khí im lặng. Một tay vuốt ve con thỏ, một tay túm chặt lấy nó, bà ta nói: “Chúa ở bên các bạn, hỡi những người anh em. Rồi các bạn sẽ tha thứ vì lúc nãy tôi không mời chào các bạn, nhưng tôi đã rất ngạc nhiên khi các bạn xuất hiện. Dù sao chăng nữa, các bạn biết mình được đón chào ở đây. Một ngày đẹp trời để đi lại, cho tới khi cơn bão ập đến. Nhưng loại bão này cũng sẽ tan đi đột ngột như lúc nó tới vậy thôi. Chuyến đi của các bạn sẽ không bị trì hoãn lâu và nghỉ chân một chốc cũng là điều cần thiết. Các bạn đi đâu vậy?” “Chúng tôi đang trên đường tới ngôi làng con trai mình sinh sống,” Axl nói, “nó đang nóng lòng chờ đón chúng tôi. Nhưng chúng tôi mong sẽ được nghỉ qua đêm ở một ngôi làng của người Saxon và hy vọng sẽ tới nơi trước khi màn đêm buông xuống.” “Người Saxon có cách sống hoang dại,” bà già nói. “Nhưng họ sẽ sẵn lòng đón tiếp người lỡ đường, hơn cả người Briton chúng ta. Hãy ngồi xuống đi hai bạn. Khúc gỗ phía sau các bạn còn khô nguyên và tôi vẫn thường mãn nguyện ngồi trên đó.” Axl và Beatrice làm theo lời bà ta, sau đó lại im lặng một hồi trong khi mưa vẫn tiếp tục đổ xuống. Cuối cùng, một cử chỉ của bà già khiến Axl phải đưa mắt nhìn. Bà ta đang kéo tai con thỏ về phía sau, và trong khi con thỏ đang cố vùng vẫy tìm cách thoát thân, bàn tay ố ấ ế ẫ trông như móng vuốt của bà ta giữ chặt lấy nó. Tiếp đó, khi Axl vẫn đang để mắt theo dõi, bà ta bỗng lấy ra một con dao lớn đã hoen gỉ gí vào họng con vật. Beatrice giật nảy mình bên cạnh Axl, và Axl chợt nhận ra những vũng sẫm màu dưới chân họ cũng như rải rác khắp nơi trên nền nhà đổ nát chính là các vệt máu cũ, và trộn lẫn với mùi của đám cây thường xuân cùng mùi mốc meo của các tảng đá ẩm ướt là một mùi sát sinh, tuy mờ nhạt nhưng phảng phất dây dưa trong không khí. Sau khi kề dao vào cổ họng con thỏ, bà già lại ngồi gần như im phăng phắc. Axl nhận thấy đôi mắt trũng sâu của bà ta giờ đang dán chặt vào người đàn ông cao kều ở đầu kia bức tường, như thể bà ta đang chờ hiệu lệnh từ anh ta. Nhưng người đàn ông vẫn giữ nguyên thế đứng cứng nhắc nãy giờ, trán gần chạm vào tường. Anh ta hoặc là không nhận thấy những gì bà già đang làm, hoặc đang nhất quyết lờ bà ta đi. “Bà ơi,” Axl nói, “giết con thỏ đi nếu phải giết nó. Nhưng vặn cổ cho gọn gàng. Hay là kiếm một hòn đá đập một phát cho xong bà ạ.” “Nếu tôi đủ sức, ông ạ, nhưng tôi quá yếu. Tôi có một con dao sắc lẹm, nhưng tất cả chỉ có thế.” “Thế thì tôi vui lòng được giúp bà. Không cần dùng đến con dao của bà làm gì.” Axl đứng dậy, chìa tay ra, nhưng bà già không tỏ vẻ muốn đưa con thỏ cho ông. Bà ta vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, dao kề cổ họng con thỏ, mắt dán chặt vào người đàn ông ở góc phòng đằng kia. Cuối cùng, người đàn ông cũng quay lại nhìn họ. “Các vị ạ,” anh ta nói. “Tôi rất ngạc nhiên lúc hai người bước vào khi nãy, nhưng giờ tôi lại thấy mừng. Vì tôi thấy hai vị là người tốt, và tôi cầu xin hai người, trong khi chờ cơn mưa dứt, hãy lắng nghe nỗi thống khổ của tôi. Tôi là một người chèo thuyền hèn mọn, đưa khách qua sông trên những con nước sóng vỗ bập bềnh. Tôi không quản ngại, cho dù giờ làm việc thật dài và khi có nhiều người chờ qua sông thì tôi chẳng ngủ được là bao còn hai cẳng chân tôi đau nhức mỗi khi phải mạnh tay khua chèo. Tôi làm việc cả khi mưa dầm gió bão hay dưới ánh nắng mặt trời nóng như rang. Nhưng tôi vẫn giữ vững tinh thần chờ tới ngày được nghỉ ngơi. Vì tôi chỉ là một trong số vài người chèo thuyền và mỗi chúng tôi đều lần lượt được nghỉ, nhưng phải sau vài ầ tuần dài lao động không ngừng. Trong ngày nghỉ của mình, ai trong số chúng tôi cũng đều có những nơi cần đến, và các vị ạ, nơi tôi muốn đến chính là nơi này. Tôi đã từng là một cậu bé vô tư lự sống trong ngôi nhà này. Nó không còn được như trước nữa, nhưng với tôi, đây là nơi chứa đầy những kỷ niệm vô giá, và tôi đến đây chỉ mong được yên tĩnh ôn lại những ký ức đó. Giờ thì hãy nghĩ tới điều này. Cứ mỗi lần tôi tới đây, chỉ trong vòng một giờ sau khi tôi có mặt, bà già này sẽ bước chân qua vòm cửa kia. Bà ta sẽ ngồi xuống rồi chửi bới tôi hết giờ này qua giờ khác, từ đêm tới sáng. Bà ta sẽ đưa ra những lời buộc tội độc ác và bất công. Lợi dụng màn đêm, bà ta sẽ nguyền rủa tôi những lời gớm ghiếc nhất trên đời. Bà ta không cho tôi dù chỉ một phút nghỉ ngơi. Nhiều lúc, như các vị thấy đấy, bà ta sẽ mang theo một con thỏ, hoặc một con vật nhỏ bé nào đó, để có thể xuống tay một cách hung bạo rồi làm ô uế nơi yêu dấu này bằng máu của chúng. Tôi đã làm mọi thứ có thể để thuyết phục bà ta hãy để tôi yên, nhưng bà ta đã học được cách lờ đi cho bằng hết lòng trắc ẩn Chúa đã gieo vào tâm hồn mình. Bà ta sẽ không chịu bỏ đi, và cũng không chịu ngừng mắng nhiếc tôi. Kể cả bây giờ, cũng chỉ vì sự xuất hiện bất ngờ của các vị bà ta mới tạm ngưng sự ngược đãi này. Chẳng bao lâu nữa, tôi sẽ phải lên đường trở lại với những tuần lễ dài lê thê trong công việc cực nhọc của mình trên sông nước. Các vị, tôi tha thiết đề nghị các vị, hãy làm gì đó để bà ta chịu bỏ đi. Hãy thuyết phục để bà ta thấy hành động của mình là tội lỗi. Có thể người ngoài cuộc như các vị sẽ tác động được tới bà ta cũng nên.” Không ai nói gì một lúc sau khi người đàn ông ngưng lời. Sau này, Axl nhớ rằng có một sự thôi thúc mơ hồ xui mình cất lời đáp lại, nhưng cùng lúc đó ông cũng có cảm tưởng rằng người đàn ông kia vừa nói những chuyện ấy trong một giấc mơ nên thật ra ông không có nghĩa vụ lên tiếng. Cả Beatrice dường như cũng không vội vã gì, mắt bà vẫn nhìn vào bà già kia, lúc ấy đã kịp buông con dao khỏi cổ họng con thỏ và đang dùng sống dao vuốt ve bộ lông của nó, gần như đầy vẻ yêu thương. Cuối cùng, Beatrice cũng nói: “Bà ơi, tôi xin bà, cho phép chồng tôi giúp bà và con thỏ. Không cần phải làm vấy máu chốn này, mà cũng chẳng có chậu để hứng. Bà sẽ đem vận rủi đến không chỉ cho người chèo thuyền chân chất này mà còn cho chính bản thân bà cùng những người khác tìm tới ố ấ ồ ế chốn này trú chân. Cất con dao kia đi rồi đi đâu mà giết con vật một cách êm ái thì đi. Và chửi mắng người đàn ông này, một người chèo thuyền chăm chỉ, như bà đang làm liệu có mang lại điều gì tốt đẹp không?” “Đừng vội nói những lời cay nghiệt với bà ấy, công chúa của anh,” Axl nói một cách nhẹ nhàng. “Chúng ta không biết chuyện gì đã xảy ra giữa bọn họ. Người chèo thuyền này xem ra có vẻ thực lòng, nhưng nghĩ mà xem, cũng có thể có lý do nào đó mới khiến bà ấy bỏ thời gian tới đây như thế.” “Ông nói chí phải,” bà già nói. “Liệu có phải vì tôi cho rằng đây là cách hay ho để qua nốt những ngày tháng tàn của cuộc đời? Tôi thà ở đâu đó thật xa chốn này, bên người chồng của tôi, và chính vì người chèo thuyền này mà giờ đây tôi phải xa lìa ông ấy. Chồng tôi là một người đàn ông cẩn thận và thông thái, thưa ông, và chúng tôi đã chuẩn bị cho chuyến đi của mình từ rất lâu, nói chuyện về nó và mơ về nó suốt nhiều năm trời. Và khi cuối cùng chúng tôi đã sẵn sàng đồng thời có đủ những thứ mình cần, chúng tôi lên đường và sau vài ngày, thấy một vịnh nước nhỏ từ đó có thể vượt sông sang đảo. Chúng tôi đứng chờ người chèo thuyền và cuối cùng cũng thấy một con thuyền đương tiến về phía mình. Nhưng chẳng biết trời xui đất khiến ra sao mà chính con người kia tới đón chúng tôi. Thấy hắn ta cao đến mức nào chưa. Đứng trong lòng thuyền trên sông, con sào dài trong tay trước nền trời, trông hắn ta vừa cao vừa gầy, hệt như những diễn viên tập tễnh đi trên cà kheo vậy. Hắn ta cập bến chỗ tôi cùng chồng mình đang đứng chờ trên mấy tảng đá rồi buộc thuyền lại. Cho đến tận hôm nay, tôi vẫn không hiểu hắn ta đã làm gì, nhưng bằng một cách nào đó, hắn ta đã đánh lừa chúng tôi. Chúng tôi đã quá cả tin. Hòn đảo kia chẳng còn xa là bao, và sau hơn bốn mươi năm chúng tôi làm bạn đời của nhau và hầu như chẳng bao giờ xa nhau dù chỉ một ngày, người chèo thuyền này đã đưa chồng tôi đi và bỏ tôi lại chờ đợi trên bờ. Tôi không thể hiểu nổi làm thế nào hắn ta làm được điều đó. Hẳn giọng nói của hắn ta đã đẩy chúng tôi vào một cơn mê, vì trước khi tôi kịp hiểu ra thì hắn ta đã đưa chồng tôi lên thuyền mà chèo đi mất, trong khi tôi vẫn đứng trên bờ. Kể cả lúc đó, tôi vẫn chưa hoài nghi gì. Vì ai ngờ một người chèo thuyền lại có thể độc ác đến thế? Nên tôi cứ đúng chờ. Tôi tự nhủ, chắc chỉ vì con ề ể ỗ ầ ấ thuyền không thể chở hơn một khách mỗi lần, vì hôm ấy nước động, và bầu trời thì tối đen gần như hôm nay. Tôi đứng trên tảng đá và nhìn theo con thuyền cứ nhỏ dần cho tới khi chỉ còn là một dấu chấm. Và tôi cứ đứng chờ ở đó, cho tới khi cuối cùng, đốm nhỏ ấy lại lớn dần lên và hắn ta quay trở lại chỗ tôi. Chẳng mấy chốc, tôi đã thấy rõ cái đầu nhẵn nhụi như một hòn sỏi của hắn ta, có điều trên thuyền chẳng có vị khách nào. Và tôi cứ tưởng đã đến lượt mình lên thuyền, và rồi tôi sẽ sớm được đoàn tụ với người yêu dấu của mình. Nhưng khi hắn ta tới chỗ tôi đang đợi, buộc sợi thừng vào cọc, hắn ta bỗng lắc đầu và không chịu đưa tôi sang đảo. Tôi cự cãi, khóc lóc và kêu xin, nhưng hắn ta nhất quyết không nghe. Thay vì đưa tôi qua sông, hắn ta lại đề nghị - thật độc ác làm sao! - hắn lại đề nghị tôi hãy nhận lấy con thỏ hắn nói vốn bị dính bẫy ven bờ trên đảo. Hắn ta mang nó về cho tôi vì cho rằng nó sẽ là một bữa phù hợp cho buổi tối cô đơn đầu tiên của đời tôi. Thế rồi, khi thấy chẳng còn ai khác chờ thuyền, hắn ta đẩy thuyền ra khơi, bỏ tôi ngồi khóc sướt mướt trên bờ với con thỏ bất hạnh trong tay. Một lát sau, tôi thả cho nó chạy biến vào trong những bụi cây thạch nam, vì để tôi nói cho các vị hay, tôi chẳng muốn ăn uống gì vào buổi tối hôm ấy, cũng như rất nhiều buổi tối sau đó. Đó là lý do vì sao tôi mang một món quà nhỏ cho hắn ta mỗi lần tôi đến đây. Một con thỏ cho món hầm để trả ơn lòng tốt của hắn ta hôm ấy.” “Con thỏ đó chính ra tôi định dành để ăn tối hôm ấy,” người chèo thuyền cắt ngang từ phía bên kia phòng. “Vì thấy tội nghiệp nên tôi đã tặng bà ta. Hoàn toàn chỉ xuất phát từ lòng tốt.” “Chúng tôi không biết gì về việc cậu làm,” Beatrice nói. “Nhưng bỏ bà ấy lại một mình trên bờ như thế nghe có vẻ là một sự lừa gạt nhẫn tâm. Điều gì đã khiến cậu hành động như vậy chứ?” “Thưa bà thân mến, hòn đảo bà ta nhắc đến không phải là một hòn đảo bình thường. Những người chèo thuyền chúng tôi nhiều năm qua đã đưa rất nhiều người sang đó, và cho tới bây giờ, có hàng trăm người sinh sống trên các cánh đồng cũng như trong những khu rừng trên đảo. Nhưng hòn đảo ấy có những đặc trưng kỳ lạ, nên bất cứ ai đặt chân lên đảo cũng sẽ chỉ thấy mình đơn độc bước đi giữa cây cỏ và không bao giờ gặp cho dù chỉ một người khác. Thỉnh thoảng vào một đêm trăng sáng hay trước khi một cơn ổ ố ấ ể mưa đổ xuống, người ấy có thể có cảm giác hình như có sự hiện diện của những người dân khác trên đảo. Nhưng phần lớn thời gian, ai cũng tưởng như mình là người duy nhất sinh sống ở đó. Tôi sẵn lòng đưa bà ta qua sông, nhưng khi bà ta nhận ra rằng mình sẽ không được ở cùng chồng, bà ta liền tuyên bố không muốn sống cuộc đời cô độc như thế và không muốn đi. Tôi nhượng bộ quyết định của bà ta, vì tôi buộc phải làm thế, rồi để bà ta đi theo ý riêng của mình. Như tôi đã nói, tôi tặng bà ta con thỏ hoàn toàn chỉ xuất phát từ lòng tốt. Các vị thấy bà ta trả ơn tôi thế đấy.” “Gã chèo thuyền này là một thằng cha quỷ quyệt,” bà lão nói. “Hắn ta sẽ cả gan đánh lừa cả các vị, mặc dù các vị chỉ là người ngoài. Hắn ta sẽ làm cho các vị tin rằng ai trên đảo cũng chỉ đi lang thang trong cô độc, trong khi điều đó hoàn toàn không phải là sự thực. Làm gì có chuyện tôi và nhà tôi nhiều năm lại đi mơ ước được tới một nơi như thế? Sự thực là, có rất nhiều người được phép qua sông với tư cách vợ chồng để cùng nhau sinh sống trên đảo. Rất nhiều người được cùng nhau tay trong tay đi dạo trong các khu rừng và những bãi biển yên tĩnh. Cả tôi và chồng tôi đều biết điều đó. Chúng tôi biết điều đó từ khi còn là trẻ con. Hai người anh em ạ, nếu các bạn lục lại trí nhớ, các bạn sẽ nhớ ra sự thực tôi đang kể cho các bạn nghe. Khi ngồi chờ tại chỗ vịnh nước nhỏ ấy, chúng tôi hoàn toàn không có chút khái niệm mơ hồ nào, rằng một kẻ chèo thuyền độc ác đến vậy đang đến chỗ mình.” “Chỉ có một phần trong những gì bà ta vừa nói là sự thực,” người chèo thuyền nói. “Thỉnh thoảng, một cặp vợ chồng sẽ được phép cùng nhau sang đảo, nhưng chuyện đó rất hiếm khi xảy ra. Họ phải có một tình yêu bền chặt hơn bình thường. Thỉnh thoảng việc ấy có xảy ra, tôi không phủ nhận điều đó, và đó là lý do vì sao khi có một người đàn ông đi cùng vợ, hay thậm chí chỉ cần là hai người yêu nhau mà chưa kết hôn, đứng chờ để được sang bờ bên kia, chúng tôi có phận sự phải hỏi han kỹ lưỡng. Vì chúng tôi là người phải xác định cho rõ liệu tình cảm của họ có đủ mạnh để được phép đi cùng nhau hay không. Bà ta không chịu thừa nhận, nhưng tình cảm của bà ta với chồng đơn giản là quá ít ỏi. Hãy để bà ta nhìn vào sâu trong trái tim mình, rồi xem bà ta có dám tuyên bố tôi đã đánh giá sai lầm vào hôm ấy hay không.” ố “Thưa bà,” Beatrice nói. “Bà có muốn nói gì không?” Bà già ngồi im không nói gì. Bà ta vẫn nhìn xuống, sưng sỉa chạy sống dao trên bộ lông của con thỏ. “Bà ơi,” Axl nói, “khi trời ngừng mưa, chúng tôi sẽ quay trở ra đường. Bà có muốn đi cùng chúng tôi không? Chúng tôi sẽ vui lòng đi cùng bà một lúc. Chúng tôi có thể trò chuyện nhàn nhã với bà về bất cứ điều gì bà muốn. Hãy để yên cho người chèo thuyền tốt bụng này được vui vẻ với phần còn sót lại của ngôi nhà khi nó vẫn còn đứng đó. Bà được gì khi ngồi đây thế này chứ? Và nếu muốn, tôi sẽ giết con thỏ một cách gọn gàng trước khi đường đi của chúng ta chia thành hai ngả. Bà thấy thế có được không?” Bà già không thèm trả lời, mà cũng chẳng tỏ vẻ đã nghe thấy những gì Axl vừa nói. Một lúc sau, bà ta chậm rãi đứng lên, ôm chặt con thỏ trên ngực. Vóc dáng bé nhỏ của bà ta khiến chiếc áo choàng lết phết trên nền nhà khi bà ta bước về góc tường đổ nát của căn phòng. Nước từ chỗ dột trên trần nhà nhỏ tong tỏng xuống người bà ta, nhưng có vẻ bà ta chẳng thèm quan tâm. Khi đã tới phía bên kia của nền nhà, bà ta đưa mắt nhìn mưa rơi và đám cỏ cây mọc tùm lum phía ngoài. Sau đó, từ từ cúi xuống, bà ta thả con thỏ xuống ngay dưới chân mình. Con vật ấy thoạt đầu không động đậy, có lẽ vì đã sợ đến hóa đá. Rồi nó chạy biến vào trong đám cỏ. Bà già thận trọng đứng thẳng người dậy. Khi bà ta quay người lại, thật khó dám chắc điều gì với đôi mắt trũng sâu đến kỳ quặc ấy, nhưng hình như bà ta đang nhìn người chèo thuyền, vừa nhìn bà ta vừa nói: “Hai người lạ mặt này làm ta mất cả hứng. Nhưng ta tin chắc, rồi hứng sẽ trở lại thôi.” Nói xong, bà ta nhấc đuôi áo choàng lên rồi chậm rãi bước xuống chỗ đám cỏ, hệt như một người thanh thản bước xuống bể bơi. Mưa vẫn đều đặn rơi xuống người, bà ta kéo mũ trùm kín đầu trước khi bước chân vào đám cây tầm ma mọc cao. “Chờ một chút, chúng tôi sẽ đi cùng bà,” Axl gọi với theo. Nhưng ông thấy tay Beatrice đặt trên cánh tay mình và nghe thấy bà thì thầm: “Tốt hơn cả là đừng dính dáng gì tới bà ấy nữa, Axl ạ. Để yên cho bà ấy đi.” Khi Axl ra tới chỗ bà ta bước xuống đám cỏ bên ngoài căn phòng, ông nửa mong những tán lá cây đã cản trở khiến bà già không đi xa ấ thêm được nữa. Nhưng không thấy bóng dáng bà ta đâu cả. “Cảm ơn các bạn của tôi,” người chèo thuyền nói từ sau lưng Axl. “Có thể ít nhất là ngày hôm nay, tôi sẽ được yên thân ngồi ôn lại những kỷ niệm thời thơ ấu.” “Rồi chúng tôi cũng sẽ đi thôi, cậu ạ,” Axl nói. “Ngay khi mưa ngừng rơi.” “Không phải vội, các vị ạ. Các vị đã rất sáng suốt, và tôi xin cảm ơn các vị vì điều đó.” Axl tiếp tục nhìn ra mưa. Từ sau lưng, ông nghe thấy Beatrice nói: “Ngôi nhà này trước đây hẳn là rất nguy nga, đúng không cậu.” “Vâng, quả có thế, thưa bà. Khi còn là một cậu bé, tôi cũng chẳng hiểu nó nguy nga tới mức nào, vì tôi đâu có biết tới ngôi nhà nào khác. Có tranh ảnh đẹp và đồ đạc quý giá khắp nơi, cùng những người hầu khôn ngoan và tốt bụng. Ngay ở đằng kia trước đây vốn là phòng tiệc lớn.” “Chắc cậu buồn lắm khi thấy nó thế này.” “Tôi chỉ thấy may mắn, thưa bà, khi nó vẫn còn đứng đây. Vì ngôi nhà này đã phải trải qua những ngày tháng chiến tranh, khi rất nhiều ngôi nhà khác giống nó đã bị cháy rụi và chẳng còn gì sót lại ngoài vài ụ đất nằm dưới lớp cỏ cùng đám cây thạch nam.” Đến đây, Axl nghe thấy tiếng chân Beatrice rồi thấy bà đặt tay lên vai mình. “Có chuyện gì vậy hở Axl?” bà hỏi, hạ giọng khẽ nói. “Có chuyện gì đó khiến anh không vui, em thấy thế.” “Không có gì, công chúa của anh ạ. Chỉ vì đống đổ nát này. Anh chợt có cảm giác mình mới chính là người nhớ lại nhiều điều về chốn này.” “Những điều gì mới được chứ, hả Axl?” “Anh không biết, công chúa của anh. Khi người chèo thuyền nhắc tới chiến tranh và nhà cửa bị đốt cháy, anh gần như cảm thấy như mình đã nhớ lại một điều gì đó. Từ hồi anh còn chưa biết em, hẳn là thế.” “Chẳng lẽ đã có lúc chúng ta không biết nhau sao, Axl của em? Nhiều khi em thấy chúng ta chắc đã phải quen biết nhau từ khi còn là trẻ sơ sinh ấy chứ.” “Anh cũng thấy như thế, công chúa ạ. Chỉ vì cái nơi kỳ lạ này mà anh trở nên ngớ ngẩn quá mất rồi.” ầ ồ ế ồ Beatrice ân cần nhìn chồng. Sau đó, bà siết tay ông rồi khẽ nói: “Nơi này quả là kỳ quái và có lẽ sẽ gây hại hơn cả những gì mưa có thể gây ra cho chúng ta. Em nóng lòng muốn rời khỏi chỗ này, Axl ạ. Trước khi bà già ấy quay lại hoặc trước khi chuyện gì đó tệ hại hơn xảy ra.” Axl gật đầu. Quay người lại, ông gọi với ra góc phòng bên kia: “Thôi, cậu chèo thuyền này, xem ra trời bắt đầu quang đãng trở lại rồi, chúng tôi lên đường đây. Rất cảm ơn cậu đã cho chúng tôi trú mưa.” Người chèo thuyền không nói gì, nhưng anh ta tới giúp họ chất đồ lên lưng rồi đưa gậy chống cho họ. “Chúc các vị một chuyến đi an toàn,” anh ta nói. “Hy vọng con trai các vị khỏe mạnh khi được gặp các vị.” Họ cảm ơn anh ta một lần nữa, nhưng Beatrice bỗng dừng bước và nhìn lại khi hai người đang bước qua vòm cửa để ra ngoài. “Vì chúng tôi bỏ cậu lại đây,” bà nói, “và có lẽ sẽ không bao giờ gặp lại cậu nữa, tôi băn khoăn không biết cậu có cho phép tôi được hỏi một câu hỏi nhỏ được không.” Người chèo thuyền lúc ấy đang đứng ở chỗ của mình bên bức tường, thận trọng nhìn Beatrice. “Lúc nãy,” Beatrice tiếp tục, “cậu có nhắc tới nhiệm vụ phải hỏi han mỗi cặp nam nữ chờ được sang sông. Cậu nhắc tới việc phải tìm hiểu xem liệu sự gắn kết tình cảm của họ có đủ lớn để cho phép họ được cùng nhau sinh sống trên đảo hay không. Vậy thì thế này cậu ạ, có điều này tôi đang băn khoăn. Cậu hỏi thế nào để biết được điều cậu cần biết?” Người chèo thuyền thoáng tỏ ra lưỡng lự. Rồi anh ta nói: “Nói thật với bà, tôi không được phép nói tới những chuyện này. Theo lẽ công bằng mà nói, chúng ta lẽ ra không nên gặp mặt nhau hôm nay thế này, nhưng một sự tình cờ kỳ lạ nào đó đã đưa chúng ta đến với nhau, và tôi không lấy làm ân hận vì điều đó. Cả hai vị đều là người tử tế và tin tưởng vào câu chuyện của tôi, và tôi rất lấy làm biết ơn các vị. Vì thế, tôi sẽ đưa ra câu trả lời hay nhất có thể có. Như bà đã biết, tôi có nhiệm vụ phải hỏi han tất cả những người muốn vượt sông sang đảo. Nếu là một cặp như trong câu hỏi của bà, nói rằng tình cảm của họ rất bền chặt, thì tôi phải yêu cầu họ kể cho tôi nghe ấ ấ ồ những kỷ niệm yêu dấu nhất của họ. Tôi sẽ hỏi một người trước, rồi hỏi người kia sau. Mỗi người sẽ phải nói riêng cho tôi nghe. Cách làm này sẽ sớm phơi bày bản chất của sự gắn kết giữa hai người.” “Nhưng cậu này,” Beatrice nói. “Thực sự thấy được những gì nằm trong trái tim con người là một việc rất khó đúng không? Rất dễ bị đánh lừa bởi vẻ bề ngoài.” “Đúng vậy, thưa bà, nhưng dân chèo thuyền chúng tôi đã gặp quá nhiều người sau bao nhiêu năm, chẳng cần nhiều thời gian chúng tôi sẽ nhận ra ngay sự giả dối. Hơn nữa, khi những người lữ khách nói về những kỷ niệm yêu dấu nhất của họ, họ không thể nào che giấu được sự thực. Một cặp nam nữ có thể nói rằng họ yêu nhau đấy, nhưng thay vì tình yêu, những người chèo thuyền chúng tôi có thể lại nhìn thấy sự oán giận, bực tức, có khi cả sự căm ghét. Hay chúng tôi lại chỉ nhận thấy một sự khô khan nhạt nhẽo. Thỉnh thoảng là nỗi sợ phải sống đơn độc và chỉ vậy thôi. Tình yêu lâu dài vượt qua được thử thách của thời gian là thứ rất hiếm khi chúng tôi được gặp. Và khi được chứng kiến tình cảm như thế, chúng tôi quá vui lòng mà đưa cặp vợ chồng qua sông cùng nhau. Thưa bà, tôi đã nói nhiều hơn những gì nên nói.” “Tôi cảm ơn cậu. Những điều này chỉ để thỏa mãn tính tò mò của một bà già mà thôi. Bây giờ, chúng tôi sẽ để cậu được yên một mình.” “Chúc ông bà đi đường bình an.” * * * Họ trở ra theo vết chân của mình trên lối mòn được họ quật cây mở đường qua đám dương xỉ và tầm ma lúc trước. Cơn bão khiến mặt đất trở nên khó lường, nên mặc dù nóng lòng được đi xa khỏi căn biệt thự thật nhanh, họ vẫn phải tiến bước một cách thận trọng. Mưa vẫn chưa ngừng hẳn khi cuối cùng họ ra tới con đường trũng, họ bèn tạm trú chân dưới gốc cây lớn đầu tiên bắt gặp trên đường. “Em có bị ướt hết không thế công chúa?” “Đừng lo anh ạ. Cái áo này rất được việc. Anh thì sao?” “Mặt trời ló ra sẽ giúp làm khô mọi thứ.” ồ ố ồ ấ Họ đặt bọc đồ xuống và ngồi tựa vào thân cây, lấy lại hơi thở. Sau một hồi, Beatrice khẽ nói: “Axl này, em thấy sợ.” “Tại sao, em sợ gì, công chúa của anh? Đến giờ thì không gì có thể làm hại em được nữa.” “Anh còn nhớ người phụ nữ lạ mặt ăn mặc rách rưới tối tăm nói chuyện với em trên chỗ bụi gai già hôm đó không? Phải rồi, trông cô ấy giống một người điên đi lang thang, nhưng câu chuyện cô ấy kể lại rất giống những gì bà già kia vừa nói. Chồng cô ấy cũng bị một người chèo thuyền đưa đi mất và cô ấy bị bỏ lại trên bờ. Khi rời khỏi vịnh nước trở về, vừa đi vừa khóc vì cô đơn, cô ấy bỗng thấy mình đang đi dọc bên sườn một thung lũng trên cao, từ đó cô ấy nhìn thấy được toàn bộ đường đi cả phía trước lẫn phía sau, và thấy trên đường bao nhiêu người cũng đang khóc lóc như cô ấy. Em cũng chỉ hơi sợ khi nghe chuyện này, em tự nhủ chuyện ấy chẳng có gì liên quan tới anh và em Axl ạ. Nhưng cô ấy cứ tiếp tục nói, rằng vùng đất này đã bị nguyền rủa mà chìm trong màn sương quên lãng, điều này thì chính hai ta đã thấy nhiều lần. Rồi cồ ấy hỏi em: ‘Làm thế nào để bà và chồng bà chứng minh được tình yêu dành cho nhau khi không thể nhớ được những gì đã cùng nhau chia sẻ trong quá khứ?’ Kể từ đó, em cứ suy nghĩ mãi về điều này. Thỉnh thoảng, nó khiến em thấy vô cùng sợ hãi.” “Nhưng em sợ cái gì mới được chứ, hả công chúa? Chúng ta có định và có muốn đi tới một hòn đảo nào như vậy đâu?” “Kể cả như vậy Axl ạ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tình yêu của chúng ta tàn lụi trước cả khi chúng ta có cơ hội nghĩ tới việc đến một nơi như thế?” “Em đang nói gì thế, công chúa của anh? Làm sao tình yêu của chúng ta có thể lụi tàn cho được? Chẳng phải tình yêu ấy bây giờ còn sâu sắc hơn cả khi chúng ta còn trẻ con ngốc nghếch hay sao?” “Nhưng Axl ạ, chúng ta thậm chí còn không nhớ nổi những ngày ấy. Hay những năm tháng đã qua. Chúng ta không nhớ nổi những cuộc cãi cọ nảy lửa hay những khoảnh khắc bé nhỏ chúng ta cùng vui hưởng và nâng niu. Chúng ta không nhớ con trai của mình, không nhớ tại sao nó lại không sống cùng chung ta.” ố “Chúng ta sẽ làm cho những ký ức này sống lại trong mình, công chúa ạ. Hơn nữa, tình cảm trong trái tim anh dành cho em vẫn luôn luôn như một, nhớ hay quên cũng không thay đổi được gì. Em có thấy như vậy không, công chúa của anh?” “Có anh ạ. Nhưng rồi em lại băn khoăn liệu những gì chúng ta đang cảm nhận trong trái tim mình sẽ chẳng được như những hạt mưa đang rơi xuống người chúng ta từ những chiếc lá sũng nước trên kia, cho dù chính bầu trời đã tạnh mưa từ lâu. Em đang tự hỏi liệu khi không có những kỷ niệm, chẳng có gì nuôi dưỡng tình cảm trong tim thì rồi liệu tình yêu có nhạt phai mà chết hay không.” “Chúa sẽ không bao giờ để những chuyện như thế xảy ra, công chúa ạ.” Axl khẽ nói, gần như thì thầm, vì chính ông cũng chợt thấy một nỗi sợ không tên dâng lên trong lòng. “Hôm nói chuyện với nhau bên bụi gai già,” Beatrice tiếp tục, “người phụ nữ lạ mặt đã nhắc nhở em không được lãng phí một chút thời gian nào nữa. Cô ấy nói chúng ta phải làm tất cả những gì có thể làm để nhớ lại những gì chúng ta đã từng cùng nhau chia sẻ, cả điều hay lẫn điều dở. Và đến giờ, lúc chúng ta lên đường rời khỏi chỗ trú mưa, câu trả lời của người chèo thuyền kia chính là điều em vừa mong đợi vừa sợ hãi. Cơ hội của chúng ta là gì, hả Axl, khi chúng ta thế này? Nếu một ai như vậy hỏi chúng ta kỷ niệm yêu dấu nhất của chúng ta là gì? Axl, em sợ lắm.” “Chà, công chúa ơi, không có gì mà em phải sợ hãi. Chúng ta chưa mất hoàn toàn trí nhớ, chúng ta chỉ để thất lạc đâu đó vì màn sương phủ xấu xa này mà thôi. Chúng ta sẽ tìm lại được chúng, nếu cần thì từng kỷ niệm một. Chẳng phải đó là lý do chúng ta thực hiện hành trình này hay sao? Khi con trai đứng trước mặt chúng ta, anh tin chắc rất nhiều điều sẽ bắt đầu quay lại.” “Em hy vọng thế. Những gì người chèo thuyền ấy nói càng khiến em lo sợ hơn.” “Hãy quên anh ta đi, công chúa ạ. Chúng ta đâu có cần con thuyền của anh ta, cả hòn đảo của anh ta nữa? Mà em nói đúng đó, mưa đã tạnh và nếu bước chân ra khỏi tán cây này, chúng ta sẽ sớm khô ráo thôi. Hãy lên đường thôi nhỉ, và đừng bận tâm đến những ưu lo này nữa.” Chương Ba B ạn sẽ thấy ngôi làng của người Saxon, nhìn từ xa và từ một độ cao nhất định như thế này, mang một vẻ gì đó giống “làng” hơn so với khu hầm ngầm nơi Axl và Beatrice sinh sống. Vì một điều thế này - có lẽ bởi người Saxon nhạy cảm hơn với nỗi sợ bị giam cầm - nên ở đây không thấy cảnh đào sâu vào sườn đồi. Nếu bạn đi xuống sườn thung lũng dốc đứng như những gì Axl và Beatrice đang làm vào buổi chiều muộn hôm ấy, bạn sẽ thấy dưới kia là khoảng hơn bốn mươi ngôi nhà đứng tách biệt, nằm theo hai vòng tương đối tròn trên nền thung lũng, vòng này nằm trong lòng vòng kia. Có thể vẫn còn khá xa nên bạn sẽ không nhận ra sự khác biệt về độ lớn cũng như những nét riêng biệt của từng ngôi nhà, nhưng bạn sẽ nhận ra các mái rơm, cùng một sự thực là rất nhiều trong số chúng có dạng “nhà tròn” không khác biệt là mấy so với ngôi nhà mà một số bạn, hay có lẽ là cha mẹ các bạn, đã lớn lên. Và nếu người Saxon sẵn lòng hy sinh chút an toàn để đổi lấy những lợi ích của không gian bên ngoài, họ cũng đã cẩn thận bù trừ cho đủ: một hàng rào cao làm từ những cây gỗ cột dây, đầu cột nhọn hoắt như những cây bút chì khổng lồ, bao kín làng. Ở khúc nào cũng vậy, hàng rào này cao ít nhất là gấp đôi chiều cao của con người, và để ngăn mọi ý định leo qua rào, người ta đã đào một hào sâu chạy khắp xung quanh phía bên ngoài hàng rào. Đó chính là bức tranh hiện ra trước mắt Axl và Beatrice khi họ dừng chân lấy lại hơi thở trên đường xuống dốc. Mặt trời đã lặn khuất sau thung lũng, và vì có thị lực tốt hơn nên Beatrice đang một lần nữa nghiêng mình ngó xuống khi đứng trước Axl độ một hoặc hai bước chân, cỏ và cây bồ công anh xung quanh cao tới tận eo bà. “Em thấy có bốn, không, tới năm người đàn ông đứng gác cổng,” bà nói. “Hình như họ đang cầm giáo. Lần trước em tới đây với đám phụ nữ, chỉ có đúng một người gác cổng cùng hai con chó.” “Em có chắc chúng ta sẽ được đón chào ở đây không, hở công chúa?” ế ế “Đừng lo, Axl ạ, đến giờ thì họ đã biết em khá rõ. Hơn nữa, một trong số những người cao tuổi ở đây là người Briton, được mọi người coi là một vị trưởng lão thông thái, mặc dù ông ấy không mang trong người dòng máu của họ. Ông ấy sẽ lo liệu để đêm nay chúng ta có một nơi nghỉ chân an toàn. Nhưng cho dù như thế, em vẫn đang lo lắm, vì em nghĩ hình như có chuyện gì đó mới xảy ra. Giờ lại có một người đàn ông khác cầm giáo vừa mới tới, cùng một đàn chó dữ dằn.” “Ai mà biết được rồi sẽ có chuyện gì với người Saxon,” Axl nói. “Tốt hơn cả là đi tìm chỗ nào khác để trú chân đêm nay.” “Chẳng mấy chốc trời sẽ tối, Axl ạ, mà những ngọn giáo kia không dành cho chúng ta. Hơn nữa, em muốn gặp một phụ nữ trong làng này, cô ấy có hiểu biết về thuốc thang nhiều hơn bất cứ ai trong số chúng ta.” Axl đọi Beatrice nói tiếp, nhưng khi thấy bà cứ dõi mắt nhìn ra xa ông liền hỏi: “Tại sao em lại cần thuốc, hở công chúa?” “Chỉ là một cảm giác khó chịu nhỏ thỉnh thoảng xuất hiện. Người phụ nữ này có thể biết cách giúp em đỡ đau.” “Khó chịu như thế nào hả công chúa? Em đau ở đâu?” “Không có gì đâu. Chẳng qua là vì chúng ta cần trú chân ở đây nên em mới nghĩ tới chuyện này.” “Nhưng em đau ở đâu mới được chứ, công chúa của anh?” “Ồ…” Không quay người lại, bà đặt một tay bên sườn, ngay dưới lồng ngực, rồi cười to. “Không có gì đáng nói hết. Anh thấy rồi còn gì, nó đâu có khiến em chậm bước trên đường tới đây hôm nay “ “Đúng là em không hề chậm bước chút nào, công chúa ạ, anh mới là người suốt ngày cứ đòi dừng chân nghỉ.” “Ý em là thế đấy, Axl ạ. Nên anh không cần phải lo lắng.” “Nó hoàn toàn không khiến em chậm bước chút nào. Thực ra thì, công chúa này, em mạnh mẽ không kém những phụ nữ chỉ bằng nửa tuổi em. Nhưng nếu có thể tìm được thứ gì đó ở đây giúp em hết đau thì tìm gặp cô ấy có hại gì đâu?” “Anh nói đúng như những gì em nghĩ, Axl ạ. Em có mang theo một ít tiền để đổi lấy thuốc.” “Ai muốn phải chịu đau dù chỉ một chút chứ? Ai cũng đau chỗ này chỗ kia, và nếu thoát được thì ai cũng muốn thoát. Nhưng mà bằng ế ấ mọi giá, hãy tới gặp người phụ nữ này nếu cô ấy có mặt ở đây, và nếu mấy người gác cổng kia chịu cho chúng ta qua.” Trời đã gần tối lúc họ đi qua chiếc cầu bắc qua con hào bảo vệ, đuốc đã được thắp sáng hai bên cổng. Những người gác cổng tuy vạm vỡ to lớn nhưng lại tỏ vẻ hoảng hốt khi thấy họ lại gần. “Axl này, chờ một chút,” Beatrice nói nhỏ. “Để mình em ra nói chuyện với họ.” “Đừng lại gần mấy ngọn giáo nhé, công chúa của anh. Lũ chó có vẻ bình tĩnh đấy, nhưng nỗi sợ hãi khiến mấy người Saxon kia trông xuẩn ngốc quá.” “Nếu họ sợ một người lớn tuổi như anh, Axl ạ, em sẽ sớm cho họ thấy là họ lầm to.” Beatrice dũng cảm tiến bước về phía họ. Mấy người đàn ông xúm lại quanh bà và vừa nghe bà nói, họ vừa ném những cái nhìn nghi hoặc về phía Axl. Sau đó, một người cất giọng gọi bằng tiếng Saxon, bảo Axl bước gần về phía những ngọn đuốc, có lẽ để kiểm tra cho chắc ông không phải là một người trẻ tuổi trá hình. Rồi sau khi trao đổi thêm vài câu nữa với Beatrice, họ cho phép hai người đi qua cổng. Axl khá bối rối không hiểu vì sao hai vòng tròn nhà cửa khi nhìn từ xa lại có thể biến thành một mê hồn trận hỗn độn đến thế khi họ thực sự đặt chân trên những con ngõ chật hẹp trong làng. Phải thừa nhận là ánh sáng đang tàn lụi dần, nhưng vừa đi theo Beatrice, ông vừa thấy rõ nhà cửa ở đây được sắp xếp chẳng theo một nguyên lý hay mô hình nào hết. Một công trình bất chợt hiện ra lù lù trước mặt, chắn ngang đường khiến họ buộc phải luồn qua những lối đi lộn xộn bên hông nhà. Hơn nữa, họ còn phải thận trọng hơn cá khi đi ngoài đường: không chỉ vì nền đường lồi lõm và đầy các vũng nước do cơn mưa lúc nãy tạo ra, mà còn vì hình như người Saxon thấy việc vứt các đồ vật linh tinh ra giữa đường đi, kể cả những mảnh gạch vụn, là chuyện rất bình thường. Nhưng điều khiến Axl khó chịu nhất là thứ mùi cứ bám theo từng bước chân họ, tuy khi thoảng khi nồng nặc nhưng không bao giờ hết hẳn. Như bất cứ ai sống ở thời của ông, ông chịu đựng tốt mùi phân, cả phân người lẫn phân động vật, nhưng cái mùi này lại gớm ghiếc hơn rất nhiều. Chẳng bao lâu sau, ông đã định vị được nguồn gốc của nó: khắp làng, người ta bỏ trước ố ố ể ế nhà hoặc bên vệ đường vô số các mảng thịt thối để cúng tế các vị thần linh. Có một chỗ, giật mình vì mùi hôi thối bốc lên quá mạnh, ông đã quay đầu nhìn thì thấy một vật thể đen sì treo trên mái hiên của một túp lều, biến dạng ngay trước mắt ông khi cả một đàn ruồi bu kín trên đó bay vù đi. Một lát sau đó, họ gặp một lũ trẻ con đang kéo tai một con lợn lôi đi trên đường; chó, bò và lừa khắp nơi không ai trông giữ. Vài người họ gặp đều chỉ im lặng giương mắt nhìn, nếu không thì cũng nhanh chóng biến mất sau cửa ra vào hoặc một cánh cửa chớp. “Có chuyện gì đó kỳ quặc ở đây đêm nay,” Beatrice vừa đi vừa thì thào. “Thông thường, dân làng ngồi trước nhà hoặc tụ lại thành những vòng tròn cười nói. Lũ trẻ bình thường ra tới lúc này đã lẽo đẽo đi theo chúng ta mà hỏi hàng trăm câu rồi băn khoăn không biết nên xua đuổi chúng ta hay làm bạn với chúng ta. Mọi thứ tĩnh lặng đến mức kỳ quái khiến em cảm thấy rất bất an.” “Công chúa này, có phải chúng ta đã lạc đường rồi không, hay là vẫn đang trên đường tới chỗ ta sẽ được trú chân nhờ qua đêm?” “Em đã định đến gặp người phụ nữ kia để hỏi về thuốc thang trước. Nhưng trong tình hình thế này, tốt hơn cả là đi thẳng tới chỗ ngôi nhà dài cổ để tránh gặp chuyện không hay.” “Nhà bà lang có còn xa không?” “Theo em nhớ thì cũng chẳng còn xa là mấy.” “Thế thì đến xem cô ấy có nhà không đi. Kể cả khi cơn đau chỉ là chuyện vặt vãnh, như chúng ta biết thế, chẳng có lý gì cứ phải chịu đựng khi biết có cách để thoát được nó.” “Chờ đến sáng cũng được, Axl ạ. Em thậm chí còn chẳng thấy đau gì, cho tới khi chúng ta nhắc đến nó.” “Kể cả như thế, công chúa ạ, tiện thể chúng ta đang ở đây, sao không đi gặp người phụ nữ thông thái ấy chứ?” “Chúng ta sẽ đi, nếu anh cứ nhất quyết muốn vậy. Mặc dù để đến sáng, thậm chí đợi đến khi em quay lại lần sau cũng chẳng sao.” Đúng lúc này, họ rẽ qua một góc đường tới một nơi trông có vẻ là khu quảng trường trong làng. Một đám lửa cháy sáng rực tại trung tâm, ánh lửa soi thấy một đám đông lớn đứng xung quanh. Toàn người Saxon đủ mọi lứa tuổi, kể cả những đứa bé nhỏ xíu trong vòng tay cha mẹ, Axl lập tức nghĩ họ đã tình cờ gặp phải một nghi lễ của ể những người ngoại giáo. Nhưng khi họ dừng bước để quan sát những gì đang diễn ra trước mắt, ông nhận thấy đám đông không thực sự tập trung chú ý vào một điều gì cụ thể. Những gương mặt ông thấy được đều tỏ vẻ nghiêm nghị, có lẽ là sợ hãi thì đúng hơn. Ai cũng hạ thấp giọng, thành thử tất cả hòa vào trong không khí mà tạo thành những âm thanh rì rầm lo lắng. Một con chó cất tiếng sủa khi thấy Axl và Beatrice và ngay lập tức bị những bóng người xung quanh đuổi đi chỗ khác. Những người nhận thấy có khách đang đến gần chỉ giương cặp mắt trống rỗng nhìn họ rồi chẳng buồn để ý tới họ nữa. “Ai mà biết được họ đang lo lắng chuyện gì, Axl nhỉ,” Beatrice nói. “Nếu không vì nhà của bà lang ở ngay gần đây thì em đã bỏ đi chỗ khác luôn rồi. Để xem liệu em có còn tìm ra đường hay không.” Khi lần bước dọc theo một dãy lều phía bên tay phải, họ nhận thấy hóa ra còn có rất nhiều người nữa đứng trong bóng tối, im lặng dõi theo đám đông đang vây quanh đám lửa. Beatrice dừng lại nói chuyện với một trong số họ, một phụ nữ đứng ngay trước cửa ra vào ngôi lều của chính cô ta, và phải một lúc sau đó Axl mới nhận ra đó chính là bà lang. Trong thứ ánh sáng tối như bưng thế này, Axl không nhìn thấy rõ cái gì, chỉ biết đó là một phụ nữ cao ráo lưng còn thẳng, có lẽ ở độ tuổi trung niên, với một chiếc khăn choàng quàng qua cánh tay và hai vai. Cô ta cùng Beatrice tiếp tục thì thầm bàn bạc, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn về phía đám đông, thỉnh thoảng nhìn sang Axl. Cuối cùng, người phụ nữ ra hiệu cho họ vào bên trong túp lều, nhưng Beatrice ra nói nhỏ với ông: “Để em nói chuyện riêng với cô ấy nhé, Axl. Giúp em bỏ bọc đồ này xuống rồi cứ đứng ngoài này chờ em.” “Anh không được vào với em sao, công chúa của anh, kể cả khi anh hầu như chẳng hiểu gì thứ ngôn ngữ của người Saxon?” “Đây là chuyện của phụ nữ, chồng ạ. Để em nói chuyện riêng với cô ấy, cô ấy nói sẽ khám kỹ tấm thân già của em.” “Anh xin lỗi, công chúa của anh, anh không suy nghĩ thấu đáo. Để anh tháo bọc đồ của em xuống rồi anh sẽ chờ ngoài này đến lúc nào em xong việc.” Sau khi hai người phụ nữ đã vào bên trong lều, Axl chợt thấy vô cùng mệt mỏi, đặc biệt là đôi chân và hai vai. Cởi bỏ bọc đồ của ằ ấ mình, ông dựa người vào bức tường làm bằng đất cỏ phía sau lưng rồi đưa mắt nhìn ra chỗ đám đông. Sự bồn chồn lúc này mỗi lúc một dâng cao: những người đứng gần chỗ ông ngồi trong bóng tối thì sải bước ra nhập vào đám đông, nhiều người khác lại vội vã rời khỏi chỗ đứng gần đám lửa, chỉ để một lúc sau vội quay trở lại. Ngọn lửa chiếu sáng rõ một vài khuôn mặt, trong khi những người khác vẫn chìm trong bóng tối, và một lúc sau thì Axl kết luận rằng tất cả bọn họ, trong một trạng thái lo lắng, đang chờ đợi một người nào đó hoặc một điều gì đó chuẩn bị xuất hiện từ ngôi nhà xây bằng gỗ nằm phía bên trái đống lửa. Tại ngôi nhà hẳn là nơi để tổ chức họp hành của người Saxon này cũng có một đống lửa được nhóm riêng ở bên trong, vì các cửa sổ của nó đều lập lòe sáng tối. Đúng lúc Axl sắp ngủ gật đến nơi, lưng dựa vào tường, giọng nói kìm nén của Beatrice và bà lang vọng tới đâu đó từ phía sau, đám đông bỗng xê dịch và nhốn nháo cả lên trong những tiếng làu bàu nhất loạt. Vài người đàn ông đã ra khỏi ngôi nhà gỗ và đang tiến về phía đám lửa. Đám đông tách ra nhường dường cho họ rồi trở nên im ắng, như thể đang chờ nghe một lời thông báo, nhưng khi không thấy ai nói gì, họ lại chen lấn xúm xít xung quanh những người mới đến mà ồn ã hết cả lên. Axl nhận thấy mọi sự chú ý đều gần như tập trung cả vào người đàn ông cuối cùng bước ra khỏi ngôi nhà lớn. Cậu ta hẳn mới chỉ khoảng ba mươi tuổi nhưng cả người toát ra một vẻ quyền thế trời cho. Mặc dù trang phục rất đơn giản chẳng khác gì một người nông dân bình thường, nhưng trông cậu ta không giống bất cứ ai trong làng. Không chỉ vì cách cậu ta khoác chiếc áo choàng một bên vai, để lộ ra chiếc thắt lưng cùng chuôi kiếm. Cũng chẳng đơn giản là do cậu ta có mái tóc dài hơn tất cả dân làng - mái tóc rủ gần chấm vai và một phần tóc được cột lại bằng một sợi dây da để không xòa vào mắt. Sự thực là, Axl đã nghĩ ngay rằng người đàn ông này cột dây như vậy để tóc không che mất tầm nhìn khi cậu ta lâm trận. Ý nghĩ này đến với Axl thật tự nhiên và ông chỉ thấy giật mình khi ngẫm nghĩ thêm về nó, vì đi kèm với nó là cảm giác ông thực sự nhận ra một điều gì đó. Hơn thế nữa, khi người lạ mặt này sải những bước dài giữa đám đông rồi thả cho tay rơi trên chuôi kiếm, trong Axl dấy lên một cảm giác, thực tới mức gần như chạm được tay vào, cảm giác ấy chứa đựng một sự pha trộn lạ thường ề ỗ của niềm khuây khỏa, sự khích động và nỗi sợ hãi mà một động tác như thế có thể mang tới. Ông tự nhủ sẽ suy nghĩ thêm về những cảm giác kỳ lạ này vào một lúc khác, còn hiện giờ ông gạt chúng ra khỏi tâm trí để tập trung vào cảnh tượng đang diễn ra trước mắt. Điều khiến chàng trai này khác hẳn với những người xung quanh chính là dáng điệu và cách đi đứng của cậu ta. “Cho dù cố tự biến mình thành một người Saxon bình thường,” Axl nghĩ bụng, “chàng trai này vẫn là một chiến binh. Có lẽ là một chiến binh có khả năng tàn phá ghê gớm nếu cậu ta muốn vậy.” Hai trong số những người đàn ông còn lại vừa ra khỏi căn nhà lớn đang lởn vởn một cách căng thẳng phía sau chàng trai, và mỗi khi người chiến binh lẫn sâu thêm vào trong đám đông, cả hai người này lại tìm mọi cách để làm sao vẫn bám sát không rời, giống lũ trẻ con lo lắng không muốn bị lạc khỏi cha mẹ. Hai người trẻ tuổi này cũng đeo kiếm, thêm vào đó, mỗi người còn nắm chặt một cây giáo, nhưng nhìn cũng thấy họ khá lóng ngóng với những vũ khí này. Còn hơn thế, họ rất căng thẳng vì sợ hãi và dường như không có khả năng đáp trả những lời hò reo cổ vũ của dân làng. Mắt họ đưa qua đưa lại trong hoảng loạn khi những bàn tay xung quanh vỗ lưng hoặc siết vai họ. “Cậu thanh niên tóc dài là một người lạ mặt mới tới làng một hoặc hai tiếng trước chúng ta,” giọng Beatrice vang lên sát tai Axl. “Một người Saxon, nhưng đến từ một miền đất xa xôi. Vùng đầm lầy ở phía Đông, cậu ta nói thế, nơi mới đây thôi cậu ta phải chiến đấu chống lại lũ giặc từ ngoài biển.” Axl nhận thấy giọng nói của hai người phụ nữ đã trở nên rõ ràng hơn, ông quay lại và thấy Beatrice cùng nữ chủ nhà đã ra khỏi căn lều và đang đứng ngoài cửa ngay phía sau lưng ông. Bà lang đang nói nhỏ bằng tiếng Saxon, và một lúc sau đó Beatrice ghé tai ông nói: “Xem ra là lúc nãy có một người đàn ông trở về làng, thở không ra hơi và bị thương ở vai, sau khi được mọi người giúp bình tĩnh trở lại, anh ta kể anh ta cùng anh trai và đứa cháu, một cậu bé mười hai tuổi, đang câu cá ở nơi họ vẫn thường câu ven sông thì bị hai con quỷ ăn thịt người tấn công. Có điều, theo lời anh ta, chúng chẳng phải là lũ quỷ bình thường. Khổng lồ đồng thời nhanh nhẹn và khéo léo hơn bất cứ con quỷ nào anh ta đã từng gặp. Hai con quỷ sứ - dân ế ế làng gọi chúng như vậy - hai con quỷ sứ ngay lập tức giết chết người anh trai và bắt thằng bé lúc ấy vẫn còn sống và đang giãy đạp đi mất. Người này thì bị thương chỉ chạy thoát sau một cuộc rượt đuổi dài dọc lối đi ven bờ, con vật hôi thối suốt cuộc rượt đuổi cứ gầm gừ ngay sát sau lưng, nhưng cuối cùng anh ta cũng cắt đuôi được nó. Axl này, người đeo nẹp trên cánh tay đang nói chuyện với người lạ mặt chính là anh ta đấy. Mặc dù bị thương nhưng vì quá lo lắng cho thằng cháu, anh ta đã dẫn một nhóm gồm toàn những nam giới khỏe mạnh nhất làng trở lại chỗ câu cá, ở đó họ thấy khói bốc lên từ một đám lửa trại gần bờ sông, và khi họ từ từ lén tiến lại gần, vũ khí sẵn sàng trong tay, mấy bụi cây bỗng mở tung ra, có vẻ như hai con quỷ sứ đã cài bẫy họ. Bà lang bảo em ba người đàn ông đã bị giết, trước cả khi những người còn lại kịp nghĩ tới việc chạy thoát thân, và mặc dù trở về không thương tích gì, nhưng gần như tất cả bọn họ đang nằm bẹp trên giường mà run lẩy bẩy và tự lẩm bẩm những gì không biết, họ sợ hãi đến nỗi không thể ra đây mà chúc may mắn cho những người đàn ông quả cảm kia, bất chấp bóng tối đương tràn tới và sương mù đương lan tỏa trong không gian, sẵn sàng lên đường hoàn thành việc mà mười hai người đàn ông khỏe mạnh không thể làm được giữa ban ngày.” “Có ai biết liệu thằng bé vẫn còn sống hay không?” “Họ không biết gì hết, nhưng họ vẫn sẽ ra ngoài bờ sông. Sau khi đoàn người đầu tiên trở về trong hoảng loạn, mặc dù các già làng đã kêu gọi nhưng không một ai đủ dũng cảm muốn tham gia cuộc thám hiểm tiếp theo. Thế rồi thật may mắn làm sao, vị khách lạ mặt kia xuất hiện xin ngủ nhờ một đêm vì con ngựa của cậu ta bị đau chân. Và mặc dù ta chẳng hề biết thằng bé cũng như gia đình của cậu bé từ trước, cậu ta tuyên bố sẽ giúp dân làng. Hai người đi cùng cậu ta là hai người cậu khác nữa của thằng bé, cứ nhìn điệu bộ của họ em cũng đủ thấy họ sẽ chỉ làm vướng chân người chiến binh kia thôi chứ có lẽ chẳng trợ giúp được gì. Nhìn kìa, Axl, sự sợ hãi đã khiến họ phát ốm.” “Anh cũng thấy thế, công chúa ạ. Nhưng dầu sao đi nữa, họ vẫn thật dũng cảm, dám lên đường trong khi trong lòng chứa đầy nỗi sợ. Chúng ta đã chọn nhầm ngày để mong nhận được lòng hiếu khách của dân làng rồi. Anh đang nghe thấy những tiếng khóc lóc vọng từ ấ ể ề đâu tới, và rất có thể sẽ còn nhiều người khóc hơn nữa trước khi qua được đêm nay.” Hình như người phụ nữ bốc thuốc hiểu được phần nào những gì Axl vừa nói, vì cô ta lại đang nói, bằng ngôn ngữ của mình, sau đó đến lượt Beatrice: “Cô ấy bảo chúng ta hãy đến thẳng chỗ ngôi nhà cổ và đừng ló mặt ra ngoài cho tới khi trời sáng. Nếu ta cứ đi lang thang trong làng, cô ấy bảo không thể biết trước được dân làng sẽ cư xử ra sao trong một đêm như thế này đâu.” “Anh thấy đúng đấy công chúa ạ. Hãy nghe theo lời khuyên của người phụ nữ tốt bụng này, nếu em vẫn còn nhớ đường tới đó.” Nhưng đúng lúc đó, đám đông đột nhiên ồn ào hẳn lên, rồi tiếng ồn chuyển thành những tiếng hoan hô, đám đông xê dịch như đang cố thay hình đổi dạng. Rồi đoàn người bắt đầu chuyển động, người chiến binh và hai bạn đồng hành ở vị trí gần giữa đoàn. Những lời cổ vũ khe khẽ bắt đầu vang lên, và chẳng mấy chốc sau đó, những khán giả đứng trong bóng tối - trong đó có cả bà lang - cũng bắt đầu tham gia cổ vũ. Đoàn diễu hành tiến gần về phía Axl và Beatrice, và mặc dù ánh sáng từ đám lửa đã bị bỏ lại sau lưng nhưng nhờ những ngọn đuốc được dân làng cầm theo mà Axl vẫn thoáng thấy được nét mặt của vài người, một số tỏ ra hoảng sợ, một số khác lại đầy kích động. Mỗi khi ánh đuốc soi tới chỗ người chiến binh, nét mặt cậu ta vẫn bình tĩnh, cậu ta đưa mắt nhìn sang trái rồi lại sang phải để cảm ơn những lời động viên của dân làng, tay cậu ta một lần nữa lại đặt trên chuôi kiếm. Họ đi qua chỗ Axl và Beatrice đương đứng, tiếp tục đi qua một dãy lều rồi khuất khỏi tầm mắt, cho dù những tiếng cổ vũ lầm rầm vẫn vọng lại thêm một lúc nữa. Hẳn đã bị tác động bởi bầu không khí này, cả Axl lẫn Beatrice đều đứng yên không động đậy một lúc. Sau đó, Beatrice bắt đầu hỏi bà lang đường tới ngôi nhà cổ và Axl thấy hình như chẳng bao lâu sau họ lại chuyển sang thảo luận đường đi tới một địa điểm nào khác nữa, vì họ đang ra hiệu và chỉ tay về phía những ngọn đồi xa nằm bên ngoài làng. Cuối cùng thì họ cũng lên đường tới nơi nghỉ chân qua đêm khi sự yên ắng đã trở lại bao trùm trong làng. Chẳng gì khó hơn việc tìm đường trong đêm tối, những ngọn đuốc thắp sáng đây đó ở vài góc đường dường như chỉ càng làm họ thêm bối rối. Họ đang đi ngược lại so với hướng đi của đám đông lúc nãy, ngang qua những ngôi nhà hai bên đường tối đen không mang dấu hiệu gì của sự sống. “Đi chậm thôi, công chúa cúa anh,” Axl nói khẽ. “Nếu một trong hai ta ngã một cú trời giáng xuống đất, chắc chắn sẽ chẳng có nổi dù chỉ một người ra giúp ta đâu.” “Axl này, hình như ta lại lạc đường rồi thì phải. Hãy quay trở lại góc rẽ cuối cùng, chắc là em sẽ tìm được đường từ vị trí đó.” Đúng lúc ấy, lối đi bỗng thẳng ra và hai người nhận thấy mình đang bước đi bên dãy hàng rào bao quanh làng họ đã nhìn thấy từ lúc còn đứng trên đồi. Những cây cột vót nhọn của nó lù lù hiện ra trên đầu, sẫm hơn cả bầu trời đêm. Vừa đi, Axl vừa nghe thấy những tiếng rì rầm từ trên cao vọng xuống. Rồi ông nhận ra không chỉ có mình họ ở đây: tít trên cao dọc theo dãy thành lũy, cách khoảng đều đặn, những bóng đen giờ ông đã nhận ra chính là dân làng đang đưa mắt nhìn ra màn đêm hoang vu phía bên ngoài dãy hàng rào. Axl còn chưa kịp nói cho Beatrice nghe những gì vừa nhìn thấy thì hai người đã nghe thấy tiếng chân bước lại gần từ phía sau lưng. Họ vội vàng tăng tốc, nhưng một ngọn đuốc đã tiến tới và nhiều bóng đen nhanh chóng chặn trước mặt họ. Thoạt đầu, Axl cứ tưởng họ chạm trán với một nhóm dân làng đi ngược lại từ chiều đằng kia, nhưng rồi ông thấy mình cùng Beatrice đã bị vây kín trong một vòng người. Nam giới người Saxon, đủ mọi lứa tuổi và tầm vóc, một số cầm giáo, số khác cầm cuốc, lưỡi hái hoặc các công cụ lao động khác, đang chen lấn quanh họ. Vài người cùng lúc nói gì đó với họ, và hình như thêm nhiều người nữa xuất hiện. Axl thấy hơi nóng từ các ngọn đuốc chĩa về phía họ, ông ôm sát Beatrice vào người và nhìn quanh một lượt để cố gắng nhìn xem đâu là người đứng đầu nhóm người này, nhưng ông không thế xác định nổi. Hơn nữa, mọi khuôn mặt đều chứa đầy vẻ hoảng sợ và ông hiểu ra chỉ cần một cử động bất cẩn cũng sẽ mang lại thảm họa. Vừa kéo Beatrice tránh xa khỏi tầm tay của một cậu thanh niên có cặp mắt đặc biệt hoang dại đang run rẩy giơ một con dao lên, Axl vừa lục trí nhớ tìm vài câu tiếng Saxon. Khi chẳng nghĩ ra được điều gì, ông đành nói đại mấy câu vỗ về, những gì ông thường dùng mỗi khi gặp phải một chú ngựa bất kham. “Dừng lại đi Axl,” Beatrice thì thào. “Họ sẽ không cảm ơn anh vì hát ru họ đâu.” Bà dùng tiếng Saxon nói với một người, rồi một người ế ắ khác nữa, nhưng tâm trạng của họ không vì thế mà khá hơn. Họ bắt đầu cao giọng cãi vã, một con chó giật mạnh sợi dây dẫn, qua mặt chủ mà gầm gừ với Axl và Beatrice. Bỗng nhiên những dáng người đầy căng thẳng quanh họ dường như đồng loạt chùng cả lại. Những tiếng nói nhỏ dần rồi tắt hẳn, cho đến khi cuối cùng chỉ còn lại tiếng quát tháo đầy giận dữ của một người đang ở đâu đó cách họ một quãng ngắn. Tiếng nói tiến lại gần hơn và đám đông rẽ ra cho một người dàn ông lùn mập, dáng người vẹo vọ, tựa vào một cây trượng lê chân bước vào trong quầng sáng. Ông ta đã khá lớn tuổi và mặc dù lưng còn khá thẳng nhưng cổ và đầu lại nhô ra từ hai vai một cách kỳ cục. Tuy vậy, tất cả những người đang có mặt ở đó lại có vẻ lép vế trước uy quyền của ông ta - ngay cả con chó cũng đã ngừng sủa rồi lẩn vào giữa những bóng người. Vốn từ Saxon lõm bõm của Axl đủ giúp ông hiểu rằng chỉ một phần nỗi tức giận của ông già vẹo vọ ấy có liên quan tới cách đối xử của dân làng với hai người lạ mặt: họ đang bị khiển trách vì dám bỏ vị trí canh gác, hiện ra trong ánh đuốc là những nét mặt tiu nghỉu mặc dù đầy vẻ bối rối. Và khi ông già càng tỏ ra tức giận hơn nữa, đám đông đàn ông hình như bắt đầu từ từ nhớ ra một điều gì đó và từng người lại rút lui vào màn đêm. Nhưng kể cả khi người cuối cùng đã đi mất và những tiếng chân trèo lên thang vang lên, ông già vẹo vọ vẫn tiếp tục ném theo họ những lời xỉ vả. Cuối cùng, ông ta cũng quay về phía Axl và Beatrice, chuyển sang dùng ngôn ngữ của họ mà hoàn toàn không pha giọng chút nào: “Làm sao họ có thể quên được một việc như thế, nhất lại là ngay sau khi người chiến binh vừa mới lên đường cùng hai người anh em của chính họ để làm những gì không ai trong số họ có đủ can đảm làm? Sự hổ thẹn hay nỗi sợ hãi đã làm trí nhớ của họ suy giảm đến thế?” “Đúng là họ đang rất khiếp sợ, Ivor ạ,” Beatrice nói. “Giờ chỉ cần một con nhện rơi sau lưng cũng đủ khiến họ làm om sòm hết cả lén. Đám người ông cử ra đón tiếp chúng tôi mới đáng buồn làm sao.” “Tôi xin lỗi, bà Beatrice ạ. Và xin lỗi cả ông nữa, thưa ông. Đó không phải là cách bình thường chúng tôi đón khách ở đây, nhưng như các bạn thấy đấy, các bạn đã đến vào đúng một đêm khiếp đảm.” ỗ ổ “Chúng tôi đi lạc đường tới chỗ ngôi nhà cổ, Ivor ạ,” Beatrice nói. “Chúng tôi xin đội ơn nếu ông chỉ đường giúp chúng tôi. Đặc biệt sau khi được đón tiếp như vừa rồi, tôi và chồng tôi rất nóng lòng được ở trong nhà nghỉ ngơi.” “Tôi những muốn hứa hẹn một sự đón tiếp ân cần tại hội trường cho các bạn, nhưng không thể biết được phản ứng của những người láng giềng sẽ ra sao trong một đêm như đêm nay. Nếu bà và chồng bà thuận tình mà tới trú qua đêm tại nhà tôi, nơi tôi biết hai bạn sẽ không bị ai quấy rầy, thì sẽ thuận tiện hơn rất nhiều.” “Chúng tôi hân hạnh đón nhận lòng tốt của ông, thưa ông,” Axl xen vào. “Tôi và vợ tôi thực sự cần được nghỉ ngoi.” “Vậy hai bạn hãy đi theo tôi. Đi sát vào tôi và hạ thấp giọng cho đến khi tới nơi.” Họ theo Ivor đi xuyên qua màn đêm cho đến khi tới một ngôi nhà, mặc dù về cấu trúc cũng không khác gì những ngôi nhà khác, nhưng lớn hơn và đứng tách biệt. Khi bước qua vòm cửa thấp tè, không khí đặc sệt mùi khói củi bên trong tuy khiến ngực Axl thắt lại nhưng đồng thời lại cho ông cảm giác ấm áp và ân cần. Một đám lửa cháy âm ỉ ngay giữa phòng, xung quanh là các tấm thảm dệt, các tấm da thú và bàn ghế đẽo từ gồ sồi và gỗ tần bì. Khi Axl gỡ các tấm chăn khỏi hai gói đồ, Beatrice sung sướng ngồi thụp xuống một chiếc ghế bập bênh. Ivor vẫn đứng gần cửa ra vào, nét mặt tỏ vẻ lo lắng. “Tôi vẫn rùng mình vì hổ thẹn,” ông nói, “khi nghĩ tới cách họ đối xử với các bạn mới đây.” “Xin ông đừng nghĩ tới chuyện ấy nữa, thưa ông,” Axl nói. “Ông đã đón tiếp chúng tôi ân cần hơn cả những gì chúng tôi xứng đáng được hưởng. Tối nay, chúng tôi tới đây thật đúng lúc nên đã được chứng kiến cảnh những chàng trai quả cảm lên đường thực hiện nhiệm vụ nguy hiểm của mình. Vì thế, chúng tôi hiểu rõ nỗi khiếp đảm treo lơ lửng trong không khí và chẳng có gì ngạc nhiên khi một số người cư xử ngốc nghếch.” “Nếu người lạ như hai bạn nhớ rõ những rắc rối của chúng tôi đến thế, tại sao những thằng ngốc ấy đã kịp quên biến? Họ được lệnh, rõ ràng đến cả trẻ con cũng hiểu, rằng bằng mọi giá phải giữ nguyên vị trí tại hàng rào, sự an toàn của cả cộng đồng phụ thuộc vào đó, chưa kể đến việc cần trợ giúp những người hùng của chúng ế ấ ổ ổ ế ta nếu họ xuất hiện ở cổng khi bị lũ quỷ đuổi theo sau. Thế mà họ đã làm gì? Hai người lạ đi qua, chẳng còn nhớ chút gì về mệnh lệnh hay thậm chí là nguyên do vì sao phải thực hiện những mệnh lệnh ấy, họ bám lấy hai bạn như những con chó sói điên khùng. Tôi chắc phải hồ nghi chính trí khôn của mình nếu không phải vì sự lãng quên như thế vẫn xảy ra quá thường xuyên ở chốn này.” “Vùng chúng tôi ở cũng vậy, thưa ông,” Axl nói. “Tôi và vợ tôi đã chứng kiến quá nhiều chuyện bị quên lãng ngay giữa hàng xóm láng giềng của mình.” “Thực là điều lý thú, thưa ông. Thế mà tôi lại tưởng loại dịch bệnh kiểu này chỉ lây lan trong vùng của chúng tôi. Liệu có phải vì tôi đã già, hay vì là một người Briton sống giữa người Saxon nên tôi thường là người duy nhất nhớ một số chuyện trong khi mọi người quanh mình đều đã quên tiệt hết cả?” “Chúng tôi cũng thấy hệt như vậy ông ạ. Mặc dù chúng tôi cũng bị ảnh hưởng bởi màn sương này - tôi và vợ tôi giờ đặt tên cho nó như vậy - có vẻ như chúng tôi không quên lãng nhiều bằng những người trẻ tuổi hơn thì phải. Ông có cách giải thích nào cho sự quên lãng này không, thưa ông?” “Tôi đã nghe người ta nói rất nhiều về chuyện này, ông bạn ạ, mà chủ yếu là do sự mê tín của người Saxon. Nhưng mùa đông năm ngoái, một người lạ mặt đi qua đây có nói về vấn đề này, và càng nghĩ lại những gì anh ta nói tôi lại càng tin hơn. Có chuyện gì vậy nhỉ?” Nãy giờ vẫn đứng chỗ cửa ra vào, trượng cầm trong tay, Ivor xoay người với sự lanh lợi đáng ngạc nhiên so với một người có cơ thể vẹo vọ đến thế. “Xin lỗi hai bạn. Có thể các chàng trai quả cảm của chúng ta đã về. Giờ thì tốt hơn cả là hai bạn hãy cứ ở nguyên trong này và đừng có thò mặt ra ngoài làm gì.” Sau khi vị chủ nhà đã đi khỏi, Axl và Beatrice cứ ngồi im lặng như vậy một lúc, mỗi người một ghế, hai mắt nhắm chặt, thầm biết ơn vì được ngồi nghỉ thế này. Sau đó, Beatrice khẽ nói: “Lúc nãy anh nghĩ Ivor sẽ nói gì, hả Axl?” “Về chuyện gì cơ, công chúa của anh?” “Ông ấy đang nói về màn sương và nguyên cớ của tấm màn ấy.” “Chỉ là tin đồn ông ấy đã nghe được. Dù sao thì cũng nên hỏi lại để ông ấy nói thêm cho ta biết. Một người đàn ông đáng mến. Ông ấy ố đã sống cả đời với người Saxon à?” “Suốt từ hồi ông ấy kết hôn với một phụ nữ Saxon, em nghe nói thế. Em không biết bà ấy giờ ra sao. Axl này, hẳn sẽ rất thú vị khi biết được nguyên nhân của màn sương ấy, phải không?” “Thực sự sẽ là một điều thú vị, nhưng biết rồi có mang lại ích lợi gì hay không, thì anh lại không rõ.” “Sao anh lại nói như vậy hả Axl? Làm sao anh lại có thể nói một điều vô tâm đến thế?” “Nói thế thì sao hở công chúa? Có chuyện gì vậy?” Axl ngồi thẳng dậy trên ghế và nhìn sang chỗ vợ. “Anh chỉ có ý nói rằng, biết được căn nguyên có khi cũng không giải quyết được vấn đề, cả ở đây lẫn ở vùng của chúng ta.” “Nếu có một cơ hội giúp chúng ta hiểu được màn sương phủ này, điều đó có thể mang lại cả một khác biệt cho chúng ta. Làm sao anh có thể nói năng một cách hời hợt đến vậy, hả Axl?” “Anh xin lỗi, công chúa của anh, anh không có ý nói như thế. Đầu óc anh đang nghĩ tới những việc khác.” “Làm sao anh có thể nghĩ tới việc khác, trong khi chỉ mới hôm nay thôi ta vừa nghe được những gì người chèo thuyền kia nói?” “Những thứ khác, công chúa ạ, thí dụ như nếu những người đàn ông quả cảm kia đã trở về và nếu như đứa trẻ kia không hề hấn gì. Hay chuyện gì sẽ xảy ra nếu ngôi làng với những người gác cổng sợ hãi cùng cánh cổng mong manh kia bị lũ quỷ sứ tàn ác tấn công để trả thù cho sự đón tiếp khiếm nhã dành cho chúng. Có rất nhiều việc để suy nghĩ, hơi đâu mà bận tâm tới màn sương phủ hay những điều mê tín dị đoan người chèo thuyền lạ mặt kia nói đến.” “Không việc gì phải gay gắt với em, Axl. Em không bao giờ muốn cãi nhau cả.” “Hãy tha thứ cho anh, công chúa của anh. Hẳn là tâm trạng chung ở đây đã tác động đến anh.” Nhưng Beatrice đã rơm rớm nước mắt. “Không việc gì phải nói năng gay gắt đến thế,” bà gần như lẩm bẩm một mình. Axl đứng dậy và đi về phía chiếc ghế bập bênh của vợ rồi hơi cúi xuống, ôm vợ vào ngực mình. “Anh xin lỗi, công chúa của anh,” ông nói. “Nhất định chúng ta sẽ nói chuyện với Ivor về màn sương phủ ấy trước khi đi khỏi ngôi làng này.” Rồi một lát sau đó, khi họ vẫn tiếp tục ế ôm nhau, ông nói tiếp: “Thực lòng mà nói, công chúa ạ, anh đang nghĩ tới một việc cụ thể.” “Việc gì vậy hả anh?” “Anh đang băn khoăn tự hỏi không biết bà lang nói gì với em về cơn đau của em.” “Cô ấy nói không có vấn đề gì và cho em biết sẽ có những thay đổi ra sao trong thời gian tới.” “Anh vẫn thường nói thế, công chúa ạ. Chẳng phải chính anh đã bảo em không phải lo lắng còn gì?” “Em có lo lắng gì đâu hả chồng. Chính anh cứ nhất định muốn tới gặp cô ấy đêm nay đấy chứ.” “Làm như vậy là tốt, vì đến giờ ta đã biết không có gì đáng lo, mà trước giờ chúng ta cũng có lo lắng gì đâu.” Bà nhẹ nhàng thoát khỏi vòng tay của chồng rồi để chiếc ghế đu đưa về phía sau. “Axl này,” bà nói. “Bà lang có nhắc đến một thầy tu già, cô ấy nói ông ấy còn thông thái hơn cô ấy nhiều. Ông ấy đã giúp rất nhiều người trong làng này, tên ông ấy là Jonus. Tu viện của ông ấy cách đây một ngày đường, theo con đường trên núi về phía Đông.” “Con đường lên núi về phía Đông hả.” Axl đi ra phía cửa Ivor mới chỉ khép hờ và nhìn ra ngoài màn đêm đen. “Anh nghĩ thế này, công chúa ạ, ngày mai ta có thể theo con đường trên núi cao mà đi, cũng dễ dàng chẳng khác gì con đường xuyên qua rừng bên dưới.” “Đường đó khó đi lắm, Axl ạ. Phải trèo rất nhiều. Sẽ mất thêm ít nhất một ngày đi đường nữa, trong khi con trai chúng ta đang nóng lòng đợi chúng ta tới nơi.” “Những gì em nói đều đúng cả. Nhưng thật đáng tiếc nếu đã tới tận đây rồi mà không ghé thăm thầy tu thông thái.” “Bà lang cũng chỉ nói thế vì tưởng chúng ta đằng nào cũng sẽ đi theo con đường ấy. Em bảo cô ấy là con đường phía dưới sẽ đưa chúng ta tới ngôi làng của con trai chúng ta thuận tiện hơn, và cô ấy đồng ý rằng thế thì cũng chẳng đáng bỏ công, vì em không có bệnh tật gì, chỉ là cơn ê ẩm thông thường của tuổi già mà thôi.” Axl vẫn nhìn ra màn đêm ngoài kia qua cánh cửa khép hờ. “Kể cả như vậy, công chúa ạ, hãy cứ tiếp tục nghĩ tới việc này. Nhưng Ivor đã trở lại đây rồi, trông ông ấy không vui chút nào.” ồ ồ ố ế Ivor sải bước vào nhà, thở nặng nhọc rồi ngồi xuống một chiếc ghế rộng chất đầy da thú, thả cho cây trượng rơi lạch cạch xuống bên chân. “Một thằng ranh ngu ngốc thề rằng nó thấy một con quỷ sứ trèo lên phía bên ngoài hàng rào và đang ngó nghiêng xuống từ trên đỉnh hàng rào. Một sự chấn động mới to lớn làm sao, chẳng cần nói các bạn cũng biết, tất cả những gì tôi có thể làm là cắt cử một nhóm ra xem sự thật có phải như vậy hay không. Tất nhiên là chỗ thằng ranh chí tới chẳng có gì khác ngoài bầu trời đêm, thế mà nó cứ tiếp tục bảo rằng con quỷ sứ trên đó vẫn đang nhìn xuống chỗ chúng tôi, thế là cả đám còn lại co rúm lại sau tôi như một lũ trẻ con cầm cuốc với giáo trong tay. Thế rồi thằng ngốc thú nhận nó ngủ gật khi canh gác và mơ thấy quỷ sứ, nhưng liệu nghe xong thế bọn họ có vội vã trở về vị trí hay không? Họ vẫn sợ chết khiếp, tôi phải thề sẽ nện cho một trận nhừ tử, cho tới khi chính người thân của họ nhầm tưởng họ là một đống thịt cừu.” Ông đưa mắt nhìn quanh, vẫn tiếp tục thở nặng nhọc. “Hãy thứ lỗi cho vị chủ nhà này, các bạn của tôi ạ. Tôi sẽ ngủ trong căn phòng bên trong kia nếu có ngủ được chút nào đêm nay, các bạn cứ tự nhiên sao cho thật thoải mái nhé, mặc dù tôi cũng chẳng có là bao để mời các bạn.” “Ngược lại thì có, thưa ông,” Axl nói, “ông đã cho chúng tôi một chỗ nghỉ chân thực êm ái tuyệt vời và chúng tôi rất lấy làm biết ơn vì điều đó. Tôi rất tiếc ông đã bị kéo ra khỏi nhà không phải vì một tin tức gì tốt đẹp.” “Cứ phải chờ thôi, có khi phải tới khuya hoặc tới tận sáng cũng nên. Các bạn đang trên đường đi đâu vậy?” “Ngày mai chúng tôi sẽ lên đường nhằm hướng Đông, thưa ông, tới làng của con trai mình, nó đang nóng lòng chờ chúng tôi ở đó. Nhưng có việc này chắc ông sẽ giúp được chúng tôi, chẳng là tôi và vợ tôi đang tranh cãi xem đi đường nào là tốt nhất. Chúng tôi nghe nói có một vị thầy tu thông thái tên là Jonus ngụ tại một tu viện trên con đường chạy trên núi, chúng tôi muốn được thỉnh giáo ông ấy về một vấn đề nho nhỏ.” “Jonus hẳn nhiên là một cái tên được tôn kính rồi, mặc dù chính tôi chưa bao giờ được diện kiến ông ấy. Bằng giá nào cũng nên tìm gặp ông ấy, nhưng hãy nhớ điều này, đường lên tu viện không dễ đi chút nào. Gần như cả ngày các bạn sẽ phải trèo dốc đứng. Và khi ố ố ằ ẳ ể cuối cùng lối đi trở nên bằng phẳng, lại phải chú ý để không lạc đường, vì đó là lúc bạn sẽ bước chân vào vùng của Querig.” “Querig, con rồng cái ư? Đã lâu lắm rồi tôi không nghe thấy ai nhắc đến nó. Dân vùng này vẫn sợ nó lắm sao?” “Nó hầu như không bao giờ xuống núi nữa,” Ivor nói. “Cho dù cũng có lúc nó chợt nảy ra ý thích tấn công người đi đường, nhưng người ta thường hay đổ tội cho nó trong khi kẻ tấn công thực sự lại là lũ thú hoang hoặc bọn cướp đấy thôi. Cứ như tôi thấy thì mối đe dọa của Querig đến từ sự hiện diện dai dẳng của nó nhiều hơn là từ những hành động của nó. Một khi nó vẫn còn tự do sống ngoài kia, mọi hành vi xấu xa vẫn tiếp tục lây lan khắp vùng như căn bệnh dịch hạch vậy. Cứ nghĩ đến hai con quỷ giáng họa xuống chúng ta đêm nay mà xem. Chúng từ đâu đến? Chúng không chỉ là quỷ ăn thịt người. Không một ai ở đây thấy thứ gì như chúng bao giờ. Tại sao chúng lại tới đây, rình bên bờ sông của chúng ta? Có thể Querig rất hiếm khi xuất hiện, nhưng những thế lực đen tối đều bắt nguồn từ nó và thật ô nhục làm sao khi bao nhiêu năm tháng đã trôi qua mà chưa ai tiêu diệt được nó.” “Nhưng Ivor này,” Beatrice nói, “liệu ai dám thách thức một con thú dữ như vậy chứ? Dù thế nào đi chăng nữa thì Querig vẫn là một con rồng vô cùng hung dữ, lại ẩn náu ở một địa hình phức tạp.” “Bà nói đúng lắm, Beatrice ạ, đó là một nhiệm vụ khó nhằn. Chuyện là có một hiệp sĩ lớn tuổi còn sót lại từ thời Vua Arthur, nhiều năm về trước đã được lệnh của vị vua vĩ đại này phải lên đường giết Querig. Nếu đi theo con đường trên núi, rất có thể các bạn sẽ gặp ông ta. Không dễ nhầm ông ta với ai khác, ông ta mặc một chiếc áo giáp đã hoen gỉ, cưỡi trên lưng một con chiến mã mệt mỏi, luôn hăm hở tuyên bố sứ mệnh thiêng liêng của mình, cho dù tôi đoán rằng ông già ngốc nghếch chưa bao giờ làm gì khiến con rồng cái ấy lo lắng dù chỉ trong giây lát. Rồi chúng ta sẽ già khụ trong đợi chờ cho tới ngày ông ta hoàn thành nhiệm vụ của mình. Nhưng nhất định rồi, các bạn ạ, hãy lên đường tới tu viện, có điều phải thận trọng và đảm bảo kiếm được một nơi trú chân an toàn trước khi màn đêm buông xuống.” Ivor toan bước chân vào phòng trong, nhưng Beatrice vội ngồi dậy nói: ề ằ “Ivor này, lúc nãy ông có nói về màn sương phủ. Có nói rằng ông đã nghe nhắc đến nguyên nhân gây ra nó, nhưng đúng lúc ấy lại bị gọi ra ngoài trước khi kịp nói thêm gì đó. Chúng tôi đương rất mong được nghe ông nói về vấn đề này.” “À, màn sương phủ ấy hả. Một cái tên hay đấy. Ai mà biết được có bao nhiêu phần sự thực trong những gì người ta nói cho chúng ta nghe, hả bà Beatrice? Tôi đoán là mình có nhắc tới người lạ mặt cưỡi ngựa qua vùng của chúng tôi năm ngoái và trú chân ở đây. Anh ta từ miền đầm lầy đến, giống như vị khách quả cảm của chúng ta đêm nay, mặc dù anh ta dùng một thứ ngôn ngữ địa phương thường rất khó hiểu. Tôi mời anh ta tới nghỉ tại ngôi nhà nghèo nàn này, cũng như tôi đã mời các bạn vậy, và suốt buổi tối chúng tôi đã trò chuyện về rất nhiều vấn đề, trong đó có màn sương này, gọi theo cái tên rất thích hợp các bạn đặt cho nó. Anh ta rất quan tâm tới mối ưu phiền kỳ lạ này của chúng tôi và cứ hỏi đi hỏi lại. Rồi anh ta mạo muội nêu lên một điều gì đó khi ấy tôi lập tức gạt đi, nhưng kể từ đó đã suy nghĩ thêm rất nhiều. Người lạ mặt cho rằng có lẽ chính Chúa đã lãng quên rất nhiều điều về quá khứ của chúng ta, về những sự kiện đã xảy ra từ xa xưa, về những gì mới xảy ra trong cùng ngày hôm ấy. Và nếu một sự kiện gì đó không còn hiện diện trong tâm trí của Chúa, cơ hội cho nó tồn tại trong trí óc con người được là bao?” Beatrice trân trân nhìn Ivor. “Chẳng lẽ lại như vậy được sao, ông Ivor? Mỗi chúng ta đều là một đứa con yêu quý của Người. Làm sao Chúa lại quên những gì chúng ta đã làm và những gì đã từng xảy ra với chúng ta được chứ?” “Đó cũng chính là câu hỏi của tôi, bà Beatrice ạ, và người lạ mặt không đưa ra được câu trả lời nào hết. Nhưng kể từ ngày ấy, tôi cứ nghĩ mãi về những gì anh ta nói. Có lẽ đó là một cách giải thích hợp lý cho cái mà hai ông bà gọi là màn sương phủ. Giờ thì xin phép hai bạn, tôi phải đi nghỉ một lát.” * * * Axl nhận ra Beatrice đang lay vai mình. Ông không biết họ đã ngủ bao lâu: trời vẫn tối, nhưng bên ngoài có những tiếng ồn ào và ông ấ ế ầ ể nghe thấy tiếng Ivor từ đâu đó trong nhà: “Hãy cầu nguyện để đây là tin tốt lành chứ không phải tận thế của chúng ta.” Nhưng khi Axl ngồi dậy, vị chủ nhà đã kịp đi mất, còn Beatrice thì đang nói: “Nhanh lên, Axl, để ra xem chuyện gì.” Mắt vẫn còn mờ vì chưa tỉnh ngủ hẳn, ông luồn tay qua tay vợ và hai người loạng choạng ra ngoài trời đêm. Thêm rất nhiều ngọn đuốc đã được thắp lên, vài ngọn đang cháy sáng rực trên tường thành, khiến cho việc tìm đường đi lối lại giờ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Tứ phía là người đi lại, chó sủa và trẻ con khóc. Thế rồi, như có một bàn tay vô hình sắp đặt, Axl và Beatrice bỗng thấy họ nhập vào một đoàn người vội vã hướng về cùng một phía. Đoàn người đột ngột dừng lại và Axl thực ngạc nhiên khi chưa gì đã thấy mình đứng ở hội trường - rõ ràng là từ nhà Ivor ra đây có một lối đi khác ngắn hơn so với lối họ đi lúc nãy. Đám lửa đang rực cháy dữ dội hơn bao giờ hết, đến mức Axl đã thoáng nghĩ sức nóng do lửa tỏa ra chính là nguyên nhân khiến dân làng dừng bước. Nhưng khi đưa mắt nhìn qua nhiều hàng người trước mặt, ông thấy người chiến binh đã quay về. Cậu ta đang đứng khá bình tĩnh ở đằng kia, phía bên trái đám lửa, nửa người sáng trong ánh lửa, nửa kia chìm trong bóng tối. Nửa mặt được chiếu sáng của cậu ta phủ đầy một thứ Axl nhận ra là những đốm máu li ti, như thể cậu ta vừa đi qua một đám bụi máu. Mặc dù vẫn được buộc nhưng mái tóc dài của cậu ta đã xổ ra phần nào, trông có vẻ ẩm ướt. Quần áo cậu ta mặc dính đầy bùn đất và có lẽ cả máu nữa, chiếc áo choàng khoác hờ một bên vai lúc lên đường giờ đây đã rách lỗ chỗ. Nhưng dường như cậu ta không mang thương tích gì và lúc này đang kín đáo nói chuyện với ba vị lão làng, một trong số đó chính là Ivor. Axl còn thấy người chiến binh đang giữ một vật gì đó ở chỗ gập khuỷu tay nữa. Trong lúc đó, những tiếng reo hò bắt đầu vang lên, thoạt đầu còn nhỏ nhẹ, sau đó cứ tiếp tục theo đà lớn dần, cho đến khi cuối cùng người chiến binh cũng xoay người ra sau để đón nhận sự cổ vũ. Thái độ của cậu ta không hề nghênh ngang vênh váo. Khi bắt đầu nói chuyện với đám đông, mặc dù giọng cậu ta đủ lớn cho tất cả mọi người đều nghe rõ, nhưng không hiểu bằng cách nào đó lại cho người nghe cảm giác cậu ta đang thấp giọng trò chuyện thực mật thiết, quả là thích hợp với những vấn đề nghiêm trọng như thế này. ố ấ ẳ ấ ố Các thính giả nín lặng nuốt lấy từng lời và chẳng mấy chốc, câu chuyện của cậu ta đã thu hút được những tiếng thốt ra hoặc vì kinh ngạc hoặc tỏ rõ sự tán thành. Có một lúc, cậu ta đưa tay chỉ vào một chỗ ngay sau lưng mình và lần đầu tiên Axl để ý thấy hai người đàn ông đi cùng người chiến binh, lúc ấy đang ngồi trên đất trong quầng sáng của ánh lửa. Trông như thể họ vừa ngã xuống từ trên cao và choáng váng tới mức không tài nào đứng dậy nổi. Đám đông bắt đầu hoan hô họ, nhưng cả hai người có vẻ chẳng hề để ý gì, vẫn chỉ ngồi trân trân nhìn ra khoảng không trước mặt. Người chiến binh quay lại nhìn đám đông rồi nói gì đó khiến những tiếng reo hò lắng dần. Cậu ta bước lại gần đám lửa, một tay túm chặt lấy vật thể vẫn đang mang theo mình rồi giơ lên. Những gì Axl trông thấy giống như đầu của một sinh vật có một cái cổ dày đã bị cắt rời ngay dưới họng. Những đám tóc xoăn sẫm màu từ đỉnh đầu phủ quanh một bộ mặt quái dị không còn tí đường nét nào: chỗ trước đây vốn là mắt, mũi và mồm giờ chỉ còn là một mảng thịt nổi đầy nhọt, giống như da ngỗng, với vài túm lông mọc rủ xuống từ hai má. Đám đông rên lên một tiếng và Axl thấy ai cũng co rúm cả lại. Chỉ đến lúc ấy, ông mới nhận ra cái họ đang nhìn hoàn toàn không phải là đầu mà chỉ là một phần vai và cánh tay phía trên của một sinh vật giống hình người nhưng to lớn khác thường. Thực ra người chiến binh đang giơ lên chiến lợi phẩm là một khúc bắp tay dính với vai, và đúng vào lúc đó, Axl nhận ra thứ mà ông tưởng là những đám tóc lại chính là gân lòng thòng từ vết chém cắt lìa đoạn thân này khỏi cơ thể con vật. Ngay sau đó, người chiến binh hạ chiến lợi phẩm xuống rồi để nó rơi xuống chân, như thể tới giờ mới gom đủ sự khinh miệt đối với phần cơ thể còn lại của con vật ấy. Đám đông một lần nữa co rúm đoạn lại nhích dần tới, rồi những tiếng hò reo lại vang lên. Nhưng lần này tiếng reo nhanh chóng tắt lịm khi người chiến binh tiếp tục cất lời, và mặc dù không hiểu dù chỉ một từ nhưng Axl vẫn cảm nhận rõ ràng trạng thái kích động đầy căng thẳng quanh ông. Beatrice nói vào tai Axl : “Người anh hùng của chúng ta đã giết chết cả hai con quái vật. Một con mang vết thương chí mạng chạy vào rừng và sẽ không thể qua khỏi đêm nay. Con kia ở lại chống cự và để bắt nó đền tội, người ế ề ầ ể ấ chiến binh đã mang về đây phần cơ thể của nó như anh thấy đang nằm trên mặt đất kia. Phần còn lại của con quỷ sứ đã bò xuống hồ hòng làm tê dịu đi cơn đau rồi chìm nghỉm dưới nước hồ tối sẫm. Thằng bé con, Axl ạ, anh có nhìn thấy thằng bé ở chỗ kia không?” Ở gần rìa ngoài quầng sáng từ đám lửa, một nhóm nhỏ mấy phụ nữ đang túm tụm quanh một cậu bé gầy còm có mái tóc sẫm màu ngồi trên một tảng đá. Cậu bé cao gần bằng một người trưởng thành, nhưng dưới tấm chăn đang quấn quanh người kia, ai cũng có thể thấy bên trong vẫn chỉ là dáng người cao lênh khênh và vụng về của một cậu con trai. Một phụ nữ đã mang ra một thùng nước và đang gột rửa những mảng ghét cáu bẩn trên mặt và cổ cậu, nhưng dường như cậu bé không hề để ý. Mắt cậu đang dán chặt vào lưng người chiến binh đứng ngay trước mặt mình, cho dù thỉnh thoảng cậu lại nghiêng đầu sang một bên, như thể đang cố vòng qua chân người chiến binh mà nhìn tới cái vật thể đương nằm trên mặt đất. Axl ngạc nhiên khi cảnh cậu bé mới được giải cứu, còn sống và rõ ràng không bị thương tích gì nghiêm trọng, không hề khiến ông cảm thấy nhẹ nhõm hay mừng vui, mà chỉ mang lại trong ông một cảm giác bất an mơ hồ nào đó. Thoạt đầu, ông nghĩ chắc hẳn đó là do thái độ kỳ cục của thằng bé, nhưng rồi ông chợt nhận ra vấn đề thực sự: có một điều gì đó không bình thường trong cách dân làng đón nhận thằng bé, người mà mới đây thôi sự an nguy còn là tâm điểm chú ý của ca cộng đồng. Một thái độ dè dặt, gần như lạnh lùng, gợi Axl nhớ lại sự việc xảy ra với cô bé Marta ở làng, khiến ông tự hỏi không biết có phải cậu bé này, cũng như Marta, đang dần bị lãng quên. Nhưng chuyện này không thể xảy ra ở đây. Mọi người ngay lúc này đang chỉ trỏ về phía thằng bé, còn những phụ nữ đang chăm sóc cho cậu thì đang nhìn đám đông với thái độ đầy phòng vệ. “Em không kịp hiểu họ đang nói gì nữa, Axl ạ,” Beatrice nói vào tai ông. “Đang cãi cọ gì đó về thằng bé, mặc dù ai cũng nhẹ nhõm hết cả người khi thằng bé trở về an toàn còn nó thì vẫn bình tĩnh đến lạ sau những gì đôi mắt con trẻ của nó phải chứng kiến.” Người chiến binh vẫn đang nói chuyện với đám đông, có thể thấy giọng nói của cậu ta đã mang vẻ nài xin. Hình như cậu ta đang đưa ra một lời buộc tội, và Axl thấy sự thay đổi thái độ của đám đông. Cảm giác biết ơn và kính sợ đang dần nhường chỗ cho một cảm xúc ố ố ế khác, còn có cả sự bối rối, thậm chí là hoảng sợ trong những tiếng quát tháo ầm ĩ đang dâng lên quanh ông. Người chiến binh lại nói, giọng nghiêm khắc, đưa tay về phía sau chỉ vào thằng bé. Thế rồi Ivor xuất hiện trong ánh lửa và dừng lại sau lưng người chiến binh, ông nói gì đó khiến những tiếng lầm rầm phản đối từ một bộ phận trong đám đông có phần nào bớt đi. Một người sau lưng Axl gào lên một câu gì đó, thế là những tiếng cãi cọ lại bùng lên từ cả tứ phía. Ivor nói thật to và mọi người lại im lặng được một chút, chỉ để ngay lập tức những tiếng quát tháo lại nổi lên, giờ thì những bóng đen còn chen lấn xô đẩy lẫn nhau. “Ôi, Axl này, hãy nhanh chân đi khỏi đây thôi!” Beatrice thốt lên vào tai chồng. “Đây không phải chỗ dành cho chúng ta.” Axl đưa tay ôm vai vợ và bắt đầu chen chân tìm đường thoát, nhưng một điều gì đó khiến ông phải ngoái nhìn một lần nữa. Tháng bé vẫn ngồi nguyên như cũ và trân trân nhìn vào lưng người chiến binh, hình như không nhận thấy cảnh náo loạn đang diễn ra ngay trước mắt. Nhưng những phụ nữ lúc nãy chăm sóc cho nó giờ đã lùi lại vài bước và đang lưỡng lự hết nhìn thằng bé lại nhìn đám đông. Beatrice kéo mạnh tay ông. “Axl, em xin anh đấy, hãy đưa chúng ta thoát khỏi chỗ này. Em sợ rồi chúng ta sẽ bị vạ lây mất.” Hẳn là cả làng đã tập trung hết tại hội trường, vì chẳng hề có một bóng người trên đường họ quay trở lại nhà Ivor. Chỉ tới khi đã nhìn thấy ngôi nhà, Axl mới hỏi: “Họ vừa nói những gì thế, công chúa của anh?” “Em không biết chắc cho lắm, Axl ạ. Có quá nhiều điều dồn dập cùng một lúc nên em không thể hiểu cho hết. Họ cãi nhau về thằng bé mới được cứu sống và bắt đầu mất bình tĩnh. Thật may là chúng ta đã thoát được, rồi chúng ta sẽ biết chuyện gì đã xảy ra thôi.” * * * Sáng ra khi Axl thức dậy, những tia nắng mặt trời đang rọi sáng khắp phòng. Ông đang nằm trên nền nhà, nhưng đã ngủ cả đêm trên một chiếc giường lót thảm mềm mại dưới lớp chăn ấm áp - thực là một sự sắp đặt tiện nghi hơn những gì vốn quen thuộc trong cuộc ố sống của ông - đôi chân mệt mỏi của ông đã được nghỉ ngơi ra trò. Hơn thế nữa, ông còn cảm thấy tinh thần thật sảng khoái, vì ông tỉnh dậy đúng lúc một kỷ niệm dễ chịu đang vấn vương trong tâm trí. Beatrice cựa quậy bên cạnh nhưng mắt vẫn nhắm nghiền và hơi thở vẫn đều đặn. Axl ngắm vợ, như vẫn thường làm vào những lúc như thế này, chờ đợi một tình cảm vui sướng dịu dàng dâng lên trong ngực. Đúng như ông mong muốn, cảm giác này đến ngay sau đó, nhưng hôm nay trong đó còn vương cả một chút buồn. Điều này khiến Axl ngạc nhiên, ông nhẹ đưa tay vuốt vai vợ, như thể mong rằng làm như vậy sẽ xua đuổi được bóng đen u ám. Ông nghe thấy tiếng người ngoài kia, nhưng không giống những tiếng ồn đã đánh thức hai vợ chồng đêm qua, đây là âm thanh của cuộc sống vào một buổi sáng bình thường. Ông chợt nhận ra mình và Beatrice đã dại dột mà ngủ dậy quá muộn, nhưng ông vẫn không muốn đánh thức Beatrice dậy mà cứ tiếp tục ngồi đó ngắm bà. Mãi rồi ông cũng nhẹ nhàng đứng dậy, bước lại gần cánh cửa ra vào làm bằng gỗ và đẩy nhẹ cho nó mở ra một chút. Cánh cửa này - nếu có bản lề gỗ thì cũng sẽ là một cánh cửa “hẳn hoi” - kẽo kẹt kêu và ánh nắng tràn vào phòng qua khe hở, nhưng Beatrice vẫn ngủ yên. Hơi lo lắng, Axl quay trở lại chỗ bà đang nằm và cúi xuống gần vợ, cảm giác cứng nhắc khó nhọc ở hai đầu gối hiện rõ. Cuối cùng thì Beatrice cũng mở mắt ra nhìn chồng. “Đã đến lúc dậy rồi, công chúa ạ,” ông nói, cố giấu đi cảm giác nhẹ nhõm. “Cả làng đã bận rộn ngoài kia, ông chủ nhà của chúng ta đã đi đâu mất từ bao giờ rồi ấy.” “Lẽ ra anh nên đánh thức em dậy từ nãy mới phải, Axl ạ.” “Nhìn em ngủ thật thanh thản, và sau một ngày dài như hôm qua, anh cứ nghĩ em muốn ngủ thêm nữa. Anh biết mình đã đúng, vì bây giờ nhìn em tươi tắn như một cô gái trẻ.” “Anh lại đã bắt đầu nói năng linh tinh rồi đấy, trong khi chúng ta thậm chí còn chưa biết đêm qua đã xảy ra chuyện gì. Những âm thanh ngoài kia cho em biết họ vẫn chưa nện nhau thành bột nhão. Nghe có vẻ bọn trẻ con và lũ chó ngoài kia đã được ăn uống no say và đang vui sướng. Alx này, không biết trong nhà có nước để rửa mặt không nhỉ?” ố ắ ế Một lát sau đó, sau khi đã cố gắng hết sức ăn mặc sao cho thật chỉnh tề - trong khi Ivor vẫn đi đâu chưa quay lại - hai vợ chồng ra khỏi nhà và đi lang thang ngoài trời trong làn không khí khô lạnh tươi sáng vì muốn tìm gì đó để ăn. Với Axl, ngôi làng lúc này trông có vẻ khoan dung hơn rất nhiều. Những căn lều tròn trong bóng đêm dường như nằm lộn xộn bừa bãi khắp nơi thì nay xếp thành những hàng dài ngay ngắn trước mặt, bóng của chúng đều đặn ngả xuống mặt đất tạo thành một lối đi gọn gàng xuyên suốt ngôi làng. Rất nhiều người, cả nam lẫn nữ, mang dụng cụ và chậu giặt hối hả đi lại khắp nơi, với một lũ trẻ con chạy theo đuôi. Mặc dù nhiều đến độ không đếm xuể nhưng lũ chó có vẻ ngoan ngoãn dễ bảo. Cảnh một con lừa đang khoái chí ị bậy trong ánh nắng mặt trời trước một giếng nước là điều duy nhất nhắc Axl nhớ tới sự lộn xộn của nơi này đêm qua khi họ mới tới. Dân làng thậm chí còn gật đầu hay kín đáo chào khi họ đi qua, mặc dù không ai tiến xa tới mức bắt chuyện với hai người. Họ mới đi được một đoạn ngắn thì đã trông thấy hai dáng người tương phản của Ivor và người chiến binh đứng đằng xa trên đường đương chụm đầu bàn bạc. Khi Axl và Beatrice tiến lại gần, Ivor lùi lại một bước và mỉm cười một cách e dè. “Tôi không muốn đánh thức các bạn quá sớm,” ông nói với họ. “Nhưng tôi là một chủ nhà tồi và chắc hai bạn đang chết đói rồi. Đi theo tôi tới ngôi nhà cổ và tôi sẽ lo liệu để hai bạn được ăn uống đầy đủ. Nhưng đầu tiên, mời hai bạn gặp người hùng đêm qua của chúng ta. Hai bạn sẽ thấy cậu Wistan hiểu rõ ngôn ngữ của hai bạn mà chẳng gặp chút khó khăn gì.” Axl quay về phía người chiến binh và cúi đầu chào. “Vợ chồng tôi rất hân hạnh được gặp một người dũng cảm, rộng lượng và thiện nghệ như cậu. Việc làm của cậu đêm qua thực là đáng nể.” “Những gì cháu làm không có gì phi thường cả bác ạ, và kỹ năng của cháu cũng vậy.” Giọng nói của người chiến binh vẫn nhẹ nhàng như trước, ánh mắt cậu ta phảng phất một nụ cười. “Đêm qua cháu gặp may, hơn nữa, còn nhận được sự trợ giúp khéo léo của các bạn đồng hành dũng cảm.” “Các bạn đồng hành mà cậu ấy vừa nhắc đến,” Ivor nói, “còn bận tự bôi nhọ thanh danh nên không thể tham gia trận chiến. Cậu ấy là người duy nhất tiêu diệt hai con quỷ sứ.” “Thực vậy sao, thưa ông, hãy thôi không bàn tới chuyện này nữa.” Người chiến binh đã nói vậy với Ivor, còn lúc này cậu ta đang chăm chú nhìn Axl, như thể một vết gì đó trên mặt ông đã hoàn toàn thôi miên cậu ta. “Cậu nói tiếng của chúng tôi rất tốt đấy cậu ạ,” Axl nói, sửng sốt khi bị soi xét kỹ lưỡng. Người chiến binh vẫn tiếp tục nhìn Axl thật kỹ, rồi như chợt nhận ra những gì mình đang làm, cậu ta liền phá lên cười to. “Hãy tha thứ cho cháu, thưa bác. Cháu cứ tưởng… Nhưng mong bác hãy tha thứ cho cháu. Cháu mang trong mình dòng máu Saxon chính cống, nhưng lớn lên ở một xứ không xa đây là mấy và thường xuyên sống với người Briton. Vì thế nên ngoài ngôn ngữ của mình, cháu còn nói được ngôn ngữ của các bác. Dạo này cháu cũng ít dùng hơn, vì cháu sống quá xa tít tận vùng đầm lầy, nơi người ta nghe thấy rất nhiều ngôn ngữ lạ nhưng trong đó không có tiếng của các bác. Vì thế, cháu mong các bác thông cảm nếu cháu mắc lỗi.” “Hoàn toàn không phải thế, cậu ạ,” Axl nói. “Không ai có thể nhận ra đó không phải là tiếng mẹ đẻ của cậu. Thực tế là, đêm qua, tôi không thể không đế ý tới cách cậu đeo kiếm, sát vào người và cao phía trên eo hơn so với thói quen thường thấy của người Saxon, bàn tay cậu đặt trên chuôi kiếm uyển chuyến theo từng bước chân. Tôi hy vọng không khiến cậu bực mình khi nói đó là hiểu theo cách của người Briton.” Wistan lại cười to. “Các bạn đồng hành người Saxon của cháu vẫn liên tục chế giễu không chỉ cách đeo kiếm mà cả cách cháu cầm kiếm nữa. Nhưng như bác thấy đấy, người Briton dạy cháu những kỹ năng này, và cháu không bao giờ ước được học từ bất kỳ ai khác. Những gì cháu học được đã bảo toàn tính mạng cho cháu qua biết bao hiểm nguy, và đêm qua lại một lần nữa giúp cháu. Hãy tha thứ cho sự mạo muội của cháu, thưa bác, nhưng cháu thấy là hai bác không phải người vùng này. Liệu có phải quê hương hai bác nằm đâu đó ở phía Tây?” “Chúng tôi đến ngay từ vùng bên cạnh đây thôi, cậu ạ. Đi bộ mất không hơn một ngày đường.” “Vậy có lẽ trước đây hai bác đã từng sống ở phía Tây cũng nên?” “Như tôi đã nói, thưa cậu. Chúng tôi đến từ xứ bên cạnh đây thôi.” ỗ ề “Hãy thứ lỗi cho cách xử sự kém cỏi của cháu. Đi xa về phía Tây thế này, cháu luôn thấy nỗi nhớ quê hương thời thơ ấu, mặc dù cháu biết quê mình vẫn còn cách đây một quãng đường khá xa. Cháu thấy khắp nơi dường như đều là những khuôn mặt nửa quen nửa lạ. Bác và bác gái chắc sáng nay sẽ trở về nhà hay chăng?” “Không cậu ạ, chúng tôi sẽ đi về phía Đông, tới làng của con trai mình, chúng tôi hy vọng sẽ tới nơi sau hai ngày nữa.” “A. Nghĩa là hai bác sẽ đi theo con đường xuyên qua rừng.” “Thực ra thì, chúng tôi định sẽ đi theo con đường trên cao vượt qua các dãy núi, lối ấy đi qua nơi một người đàn ông thông thái sống trong một tu viện, hy vọng ông ta sẽ đồng ý cho chúng tôi gặp mặt.” “Vậy sao?” Wistan gật đầu tư lự, một lần nữa lại nhìn kỹ Axl. “Cháu nghe nói đường đi đó dốc lắm.” “Các vị khách của tôi vẫn chưa ăn sáng,” Ivor xen vào. “Cậu Wistan này, xin phép cậu cho tôi đưa họ tới chỗ ngôi nhà dài. Sau đó, nếu được, tôi muốn tiếp tục câu chuyện chúng ta đang bàn dở.” Ông hạ giọng rồi tiếp tục nói bằng tiếng Saxon và Wistan dáp lại bằng một cái gật đầu. Sau đó, quay sang Axl và Beatrice, Ivor lắc đầu nói một cách nghiêm trọng: “Bất chấp những nỗ lực lớn lao của cậu ấy đêm qua, mọi chuyện vẫn chưa kết thúc. Nhưng hãy đi theo tôi, các bạn của tôi, hẳn các bạn đang đói meo.” Ivor bước đi, dáng người lắc lư, cây trượng nện thình thịch xuống đất theo từng bước chân. Dường như tâm trí ông đang quá rối bời nên không nhận thấy hai vị khách đã bị rớt lại phía sau trên những lối đi đông người. Đến lúc Ivor đã cách họ vài bước chân, Axl nói với Beatrice: “Người chiến binh ấy đúng là một chàng trai dễ mến, em có thấy vậy không công chúa của anh?” “Không nghi ngờ gì,” bà nói khẽ. “Nhưng thật kỳ cục khi cậu ta cứ nhìn anh chằm chằm như thế, Axl ạ.” Họ không kịp nói gì thêm nữa, vì khi nhận ra mình sắp bỏ rơi họ dọc đường, Ivor đã dừng lại chờ sẵn ở góc đường. Chẳng bao lâu sau họ tới một khoảnh sân nhỏ chan hòa ánh nắng. Một đàn ngỗng đang lang thang trên sân, một dòng chảy nhân tạo cắt ngang khu đất - một kênh nước nông đào trong đất, nơi có dòng nước nhỏ hối hả chảy qua. Một cây cầu nhỏ đơn sơ xếp từ hai tảng đá phẳng được đặt tại điểm rộng nhất của kênh đào, trên một ấ ồ ổ ầ tảng khi ấy đang có một cậu con trai ngồi xổm giặt quần áo. Cảnh tượng ấy mang lại ấn tượng bình dị của một khúc đồng quê cho Axl, ông những muốn dừng bước để ngắm nhìn lâu hơn nữa nếu Ivor không tiếp tục kiên quyết dấn bước về phía ngôi nhà thấp lợp mái rạ dày chạy dọc hết phía xa của khu đất. Bước chân vào bên trong, bạn sẽ thấy ngôi nhà này không khác gì mấy so với một bếp ăn mộc mạc rất nhiều người trong số các bạn từng thấy ở nơi này hay nơi khác. Có rất nhiều dãy bàn kèm ghế dài, và ở một đầu nhà là bếp và khu phục vụ. Điều khác biệt chủ chốt so với một nơi như thế của thời hiện đại chính là sự hiện diện khắp nơi của cỏ khô: cỏ khô trên đầu, dưới chân, và mặc dù không phải là một phần trong thiết kế nhưng cỏ khô còn phủ đầy trên các mặt bàn, bị những cơn gió mạnh thường xuyên quét qua nơi này thổi bay tứ tung. Vào một buổi sáng như sáng nay, khi hai nhà lữ hành của chúng ta ngồi xuống ăn sáng, ánh mặt trời chiếu vào qua những ô cửa sổ dạng như cửa sổ trên mạn tàu sẽ cho thấy trong phòng đầy những sợi cỏ khô li ti bay lả tả trên không. Khi họ tới nơi, bên trong ngôi nhà dài không có lấy một bóng người, nhưng Ivor bước vào khu bếp và chỉ một lát sau, hai phụ nữ lớn tuổi xuất hiện với bánh mì, mật ong, bánh quy cùng hai bình sữa và nước. Đến lượt Ivor trở ra với một khay đựng thịt gia cầm đã được cắt sẵn thành miếng, Axl và Beatrice bắt đầu ngấu nghiến ăn một cách biết ơn. Thoạt đầu họ lẳng lặng ăn, vì tới giờ mới nhận ra mình đã đói bụng đến mức nào. Ivor ngồi ở phía bên kia bàn, tiếp tục ủ ê nghiền ngẫm, mắt đăm chiêu nhìn xa xăm, một lúc lâu sau Beatrice mới nói: “Những người Saxon này là một gánh nặng to lớn cho ông, Ivor ạ. Có lẽ ông đang ước được trở về sống với người cùng dòng máu với mình, khi mà giờ đây thằng bé đã trở về an toàn và bọn quỷ ăn thịt người đã bị tiêu diệt.” “Đây không phải là quỷ ăn thịt người bà ạ, cũng chẳng phải bất cứ loài vật nào từng xuất hiện ở quanh đây. Nỗi kinh hoàng đã tan biến khi dân làng biết chúng không bao giờ còn lởn vởn phía ngoài cổng làng nữa. Nhưng thằng bé lại là chuyện khác. Đúng là nó đã trở về, nhưng còn lâu mới được an toàn.” Ivor nghiêng người qua mặt bàn về phía hai vợ chồng rồi hạ giọng, mặc dù một lần nữa lại chỉ có ắ ẫ ba người bọn họ trong nhà. “Bà nói đúng lắm, bà Beatrice ạ, tôi vẫn tự hỏi tại sao mình lại chịu sống giữa những con người man rợ này. Thà sống trong hang chuột còn hơn. Liệu người lạ mặt quả cảm ấy sẽ nghĩ gì về chúng tôi, nhất là sau những gì cậu ấy đã làm đêm qua?” “Tại sao, có chuyện gì thế hở ông?” Axl hỏi. “Chúng tôi có ra chỗ đám lửa đêm qua, nhưng khi thấy mọi người cãi cọ kịch liệt, chúng tôi đã bỏ đi và đến giờ vẫn không biết chuyện gì đã xảy ra.” “Các bạn đã rất sáng suốt khi quyết định không ở lại, các bạn ạ. Những kẻ tối dạ kia đã bị kích động đến nỗi sẵn sàng móc mắt lẫn nhau. Tôi sợ đến nỗi chẳng dám nghĩ tới việc họ sẽ làm gì với một cặp khách lạ người Briton nếu họ thấy các vị đứng lẫn trong đám đông nữa. Thằng bé Edwin đã trở về an toàn, nhưng đúng lúc dân làng bắt đầu hân hoan trở lại, đám phụ nữ lại thấy một vết thương nhỏ trên người nó. Chính tôi đã kiểm tra cùng các già làng khác. Một vệt xước ngay dưới ngực nó, không khác gì vết xước sau khi một đứa trẻ bị ngã. Nhưng đám phụ nữ, chính là người nhà của thằng bé, lại tuyên bố đó là một vết cắn, và cả làng sáng nay đã gọi đó là vết cắn. Tôi đã phải khóa kín thằng bé lại trong nhà kho để giữ an toàn cho nó, nhưng mặc dù vậy, bạn bè của nó và chính người nhà của nó lại liên tục ném đá vào cửa, đòi đưa nó ra để giết.” “Làm sao lại như vậy được hả Ivor?” Beatrice hỏi. “Có phải vì lớp sương mù che phủ ấy mà họ đã không còn nhớ chút nào những kinh hoàng thằng bé vừa mới phải trải qua?” “Giá mà như vậy thì tốt quá bà ạ. Nhưng lần này, dường như họ lại nhớ quá rõ. Những kẻ tối dạ ấy không chịu nhìn đâu xa hơn sự mê tín dị đoan của mình. Họ cứ khăng khăng cho rằng nếu đã bị quỷ sứ cắn, chính thằng bé chẳng bao lâu sau sẽ biến thành một con quỷ và rồi gieo rắc kinh hoàng ngay tại đây, bên trong các bức tường làng. Họ sợ nó và nếu nó còn sống ở đây, nó sẽ phải chịu một số phận kinh khủng không kém số phận nó đã được cậu Wistan giải thoát khỏi đêm qua.” “Ông này,” Axl nói, “chắc chắn ở đây có nhiều người đủ trí thông minh để thuyết phục họ hiểu ra lẽ phải chứ.” “Nếu có thì chúng tôi cũng bị số đông đánh bại, và kể cả khi chúng tôi có thể ra lệnh cấm và ngăn cản được một hoặc hai ngày, lũ ố ồ ố người dốt nát kia rồi sẽ tìm được cách làm những gì họ muốn mà thôi.” “Vậy phải làm gì bây giờ, thưa ông?” “Người chiến binh cũng kinh ngạc như hai bạn vậy, tôi và cậu ấy đã bàn bạc chuyện này suốt cả buổi sáng hôm nay. Mặc dù đòi hỏi này thật là quá đáng, nhưng tôi đã đề nghị cậu ấy mang thằng bé theo lúc cậu ấy cưỡi ngựa rời khỏi làng, rồi bỏ thằng bé lại ở một ngôi làng nào đó đủ xa, nơi nó có cơ hội sống một cuộc đời mới. Sâu thẳm trong thâm tâm, tôi thấy thật là xấu hổ khi đòi hỏi cậu ấy làm một việc như thế, nhất là ngay sau khi cậu ấy vừa mạo hiểm tính mạng cho chúng tôi, nhưng tôi không thể nghĩ ra cách nào khác nữa. Wistan đang suy nghĩ thêm về đề nghị này, cho dù cậu ấy còn phải hoàn thành một công việc được nhà vua giao phó và đã chậm trễ vì con ngựa và vì chuyện xảy ra đêm qua. Bây giờ tôi phải đi kiểm tra tình hình thằng bé, rồi xem liệu người chiến binh đã quyết định ra sao.” Ivor đứng dậy và cầm lấy cây trượng. “Nhớ đến chào từ biệt tôi trước khi các bạn lên đường nhé. Mặc dù có lẽ sau những gì tôi vừa kể, tôi cũng sẽ thông cảm thôi nếu các bạn muốn nhanh chân rời khỏi nơi này mà không một lần ngoái đầu nhìn lại.” * * * Axl nhìn theo khi Ivor ra khỏi cửa nhà và sải bước đi ngang qua khoảng sân đầy nắng. “Thực là một tin buồn, công chúa ạ,” ông nói. “Thật buồn anh ạ, nhưng chẳng liên quan gì tới chúng ta. Đừng lãng phí thời gian ở đây nữa. Đường đi của chúng ta hôm nay sẽ rất dốc.” Đồ ăn và sữa rất tươi ngon, họ tiếp tục ăn trong im lặng. Rồi Beatrice lại nói: “Anh có tin không, hả Axl? Những gì Ivor nói đêm hôm qua về màn sương che phủ, rằng chính Chúa là người khiến chúng ta quên lãng.” “Anh không biết phải nghĩ thê nào nữa, công chúa ạ.” “Axl này, sáng nay em mới nghĩ ra điều này, lúc đi bộ trên đường làng.” “Em nghĩ ra cái gì cơ, công chúa của anh?” “Chỉ là một suy nghĩ thôi. Rằng có lẽ Chúa rất giận vì một việc nào đó chúng ta đã làm. Hoặc có thể không phải là tức giận, Chúa thấy hổ thẹn thì đúng hơn.” “Một suy nghĩ kỳ lạ, công chúa ạ. Nhưng nếu đúng như những gì em nói, tại sao Người không trừng phạt chúng ta? Tại sao lại khiến chúng ta quên lãng như một lũ ngốc, cả những việc mới chỉ xảy ra một vài giờ trước?” “Có thể Chúa quá hổ thẹn vì chúng ta, hoặc vì một việc nào đó chúng ta làm, nên Người ước giá mình tự quên đi được. Và như người lạ mặt đã nói với Ivor, khi Chúa không nhớ, thì quá dễ hiểu vì sao chúng ta cũng không thể nhớ nổi điều gì.” “Nhưng chúng ta đã làm gì đến nông nỗi Chúa phải hổ thẹn đến vậy?” “Em không biết Axl ạ. Nhưng nhất định không phải việc gì anh và em từng làm, vì Người vẫn luôn thương yêu chúng ta hết mực. Nếu chúng ta cứ cầu xin Người, cầu xin Người hãy nhớ lại ít nhất vài điều quý giá nhất đối với hai ta, ai mà biết được, có khi lời xin sẽ thấu tai Người và Người sẽ ban cho chúng ta điều ta mong ước.” Một tràng cười nổ ra phía bên ngoài ngôi nhà. Nghiêng đầu một chút để nhìn, Axl trông thấy ngoài sân một lũ trẻ con đang chơi trò giữ thăng bằng trên hai tảng đá phẳng bắc ngang con kênh nhỏ. Trong khi ông quan sát, một đứa kêu ré lên khi ngã tòm xuống nước. “Ai biết được hả công chúa,” ông nói. “Có lẽ vị thầy tu thông thái trên núi biết cách giải thích cho chúng ta nghe. Nhưng, khi em nhắc tới chuyện thức dậy hồi sáng nay, anh cũng chợt nghĩ tới một việc, biết đâu lại cũng đúng vào lúc em đang nghĩ tới chuyện này. Là một kỷ niệm, nhỏ thôi, nhưng cũng khiến anh thấy rất vui lòng.” “Ôi Axl của em. Chuyện gì thế?” “Anh nhớ tới lần hai ta đi chợ, hoặc cũng có thể là đi xem một hội chợ nào đó. Tại một ngôi làng lớn, nhưng không phải làng của chúng mình, hôm ấy em mặc chiếc áo choàng màu xanh lá cây nhạt có mũ đội đầu.” “Hoặc đó là một giấc mơ hoặc chuyện xảy ra đã lâu lắm rồi, chồng của em ạ. Vì em không có cái áo choàng nào màu xanh hết.” ấ ồ “Đúng là việc này xảy ra từ rất lâu rồi, công chúa ạ. Một ngày mùa hè, nhưng vẫn có những con gió lạnh nơi chúng ta ghé chân, em choàng chiếc áo quanh người, cho dù không đội mũ lên đầu. Một cái chợ, mà cũng có thể là một lễ hội. Ngôi làng ấy nằm ở sườn đồi, ngay khi vừa bước chân vào làng là thấy ngay một lũ dê được nhốt trong chuồng.” “Thế chúng ta làm gì ở đó hả Axl?” “Chúng ta cứ đi lang thang tay trong tay thôi, rồi sau đó một người lạ mặt, một người đàn ông là dân làng, bỗng dưng xuất hiện trên đường chúng ta đi. Anh ta đưa mắt nhìn em rồi cứ thế nhìn trân trân như thể đang ngắm một nữ thần vậy. Em có nhớ không, công chúa của anh? Một thanh niên, mà anh nghĩ hồi ấy chúng ta cũng vẫn còn trẻ. Rồi anh ta thốt lên, rằng chưa bao giờ được chiêm ngưỡng một cô gái nào xinh đẹp đến thế. Xong anh ta đưa tay ra chạm vào cánh tay em. Em có nhớ chút nào không, công chúa của anh?” “Em cũng nhớ mang máng cái gì đó, nhưng không được rõ ràng cho lắm. Hình như anh đang nhắc đến cậu thanh niên say rượu thì phải.” “Có lẽ cũng có say một chút, anh không biết nữa, công chúa ạ. Hôm ấy là một ngày hội, như anh đã nói. Dù sao thì, anh ta đã rất sửng sốt khi nhìn thấy em. Nói rằng em là người đẹp nhất trên đời anh ta từng gặp.” “Vậy thì đúng là chuyện này đã xảy ra từ lâu lắm rồi! Có phải cuối cùng anh nổi ghen rồi cãi cọ với anh ta, đến nỗi hai ta gần như phải tháo chạy khỏi làng, đúng không?” “Anh không nhớ có chuyện như thế, công chúa ạ. Chuyện anh đang nói đến là hôm em mặc áo choàng xanh, vào một ngày lễ hội, và anh chàng lạ mặt ấy, khi biết anh là người hộ tống em, đã quay sang anh mà nói, cô ấy là hình ảnh đáng yêu nhất đời mà tôi từng được thấy nên anh hãy chăm sóc cho cô ấy thật cẩn thận đấy nhé, anh bạn của tôi ạ. Anh ta nói thế đấy.” “Em có nhớ một chút, nhưng em nhớ rõ là hôm ấy anh cãi nhau với anh ta vì ghen tuông mà.” “Làm sao anh có thể làm một việc như thế chứ, trong khi ngay lúc này những lời nói của người lạ mặt vẫn khiến anh cảm thấy một nỗi ấ ấ """