" Người Kể Chuyện Lúc Nửa Đêm Và Những Giấc Mộng PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Người Kể Chuyện Lúc Nửa Đêm Và Những Giấc Mộng PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng Tác giả: Nguyễn Quang Thiều Nhà xuất bản Trẻ 2016 Ebook: Hà Du, kimtrongnew, Trúc Quỳnh -------෭෭෭------- Trước kia, giấc mộng tôi thường gặp và bạn bè tôi cũng gặp là giấc mộng mà trong đó mình luôn luôn bị một ai đó, một cái gì đó săn đuổi. Những cuộc chạy trốn ấy lúc nào cũng thất bại vì đôi chân cứ ríu lại như chân người bại liệt. Bây giờ thì tôi không gặp giấc mộng ấy nữa. Phải chăng bây giờ tôi không tìm cách chạy trốn nữa. Mà trong cuộc đời, chúng ta càng chạy trốn chúng ta càng bị truy đuổi. Và khi bị truy đuổi thì ít khi chúng ta có thể chạy thoát. Con đường duy nhất để chúng ta thoát khỏi sự truy đuổi là dừng lại, quay về phía kẻ truy đuổi mình, ngẩng cao đầu bước lên và thách đấu. Cuộc chiến đấu này là cuộc chiến đấu với một ai đó, một cái gì đó và đôi khi là chính bản thân chúng ta. Kẻ thù của chúng ta nhiều lúc thật mơ hồ và chính vì thế mà hầu hết chúng ta luôn luôn thất bại. Cuốn sách này viết tặng Trang và hai con Thuật, Ngân NGUYỄN QUANG THIỀU Sinh: 13.02.1957 Quê quán: làng Chùa, Ứng Hòa, Hà Nội (Hà Tây cũ) Hiện sống ở thị xã Hà Đông Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1993 Giải thưởng của Hội các nhà dịch giả văn học Quốc gia Mỹ 1998 SÁCH ĐÃ XUẤT BẢN THƠ Ngôi nhà 17 tuổi (1990), Sự mất ngủ của lửa (1992), Những người đàn bà gánh nước sông (1995), Trường ca Những người lính của làng (1996), Nhịp điệu châu thổ mới (1997), Thơ Nguyễn Quang Thiều(1997), Thơ cho thiếu nhi (1998), Bài ca những con chim dêm (1999), Cây ánh sáng (2010), Châu thổ(2012) VĂN Vòng nguyệt quế cô đơn - tiểu thuyết (1991), Cỏ hoang - tiểu thuyết (1992), Tiếng gọi tình yêu - tiểu thuyết (1993), Người đàn bà tóc trắng - tập truyện ngắn (1994), Kẻ ám sát cánh đồng - tiểu thuyết (1995), Đứa con của hai dòng họ - truyện ngắn (1996), Truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều (1996), Người cha - truyện thiếu nhi (1997), Bí mật hồ cá thần - truyện thiếu nhi (1997), Con quỷ gỗ - truyện thiếu nhi (2000), Bí mật ngọn núi bà già mù - truyện thiếu nhi (2002), Người - chân dung văn học (2008, in chung với Lê Thiết Cương), Ba người - chân dung văn học (2005, in chung với Trần Tiến Dũng & Lê Thiết Cương), Nguyễn Quang Thiều: tác phẩm chọn lọc (2006), Có một kẻ rời bỏ thành phố - tạp văn và tiểu luận (2010), Mùa hoa cải bên sông - Tập truyện ngắn (2013) DỊCH Chó Đingô - tuyển truyện ngắn Australia thế kỷ XX (1995), Khoảng thời gian không ngủ - thơ Mỹ (1997, inchung), Năm nhà thơ hiện đại Hàn Quốc (2000) XUẤT BẢN Ở NƯỚC NGOÀI Petide La Fille Du Fleuve - truyện ngắn in tại Pháp (1997), La Petite Marchande De Vermicelles - truyện ngắn in tại Pháp (1998), The Women Carry River Water - thơ in tại Mỹ (1997). Ngoài ra đã in thơ và truyện ngắn trên các tạp chí ở Mỹ như AGNI, American Poetry Review, Boston Review, Gulf Coast, Manoa, Ploughshares, Fields, Compost, International Poetry... và trên tạp chí của các nước như: Anh, Na-uy, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Đài Loan, Nga, Úc, Ai-len, Trung Quốc,Colombia,Nhật,HànQuốc,ThổNhĩKỳ,TháiLan,Ai-cập, Yakustia... MỘT Đã có lúc tôi không muốn trở về mặt đất Ngày 5 tháng Tư năm 2003 tôi đến sân bay Chicago. Đây là lần thứ tư tôi đến Mỹ. Vậy là tròn mười năm kể từ chuyến đi đầu tiên. Ngày ấy tôi ba mươi sáu tuổi. Những chuyến đi của tuổi trẻ lúc nào cũng hồ hởi, cũng hấp dẫn và đôi khi liều lĩnh. Nhưng ba mươi sáu tuổi thì không thể gọi là còn trẻ nữa. Có thể mắc nhiều sai lầm, nhưng có một điều không được mắc sai lầm: đó là không được phép hão huyền về chính bản thân mình. Với tuổi ấy, nếu chưa chuẩn bị những gì cần thiết cho đường đời của mình thì khó chuẩn bị kịp nữa. Ngày ấy, đi Mỹ là một câu chuyện đối với cả người đi và người ở nhà. Trước đó, vào những năm tám mươi, một nhà văn đi Mỹ giống như một “anh hùng”. Lê Lựu là một anh hùng. Và chuyến đi của Lê Lựu đến Mỹ dệt nên bao câu chuyện đầy vẻ huyền thoại. Lê Lựu đã gặp lại kẻ thù cũ của ông ra sao, Lê Lựu đã ứng đối xuất sắc với kẻ thù cũ của ông như thế nào... Lúc đó, người Việt Nam coi ông như một ông Trạng đi sứ. Quả thực là như vậy. Sau chuyến đi Mỹ ông trở về và bắt đầu một “nghề mới”: nghề thuyết trình về nước Mỹ. Ông nói chuyện hay đến mức băng ghi âm cuộc nói chuyện của ông được phát hành không chính thức khắp cả nước. Người ta sao băng, cho mượn băng, bán băng. Lúc đó, băng của ông trở thành một con sốt hơn bất cứ album nào của tất cả các ca sỹ nổi tiếng nhất ở Việt Nam thời ấy. Số lượng tất nhiên có thể không bằng nhưng con sốt băng Lê Lựu thì luôn luôn ở nhiệt độ cao. Bởi tất cả những gì ông đã một mình ứng đối trên đất Mỹ mà ông kể lại hàng trăm lần làm cho không ít người Việt Nam mang khoái cảm thắng Mỹ một lần nữa. Chiến thắng tinh thần hình như là một liều thuốc an thần cho những dân tộc nhỏ bé, nghèo đói và thiếu tự tin. Sau đó, Lê Lựu xuất bản hai cuốn sách về hai chuyến đi liên tiếp: Một Thời Lầm Lỗi và Trở Lại Nước Mỹ. Đấy thực sự là hai cuốn best-seller ở Việt Nam trong thời gian đó. Tôi cũng đi Mỹ sau chuyến đi của Lê Lựu vài năm, nhưng sau chuyến đi, tôi chẳng biết nói thế nào về đất nước này cho thuận tai những người Việt Nam ngày ấy. Những câu chuyện đầy tính tò mò về nước Mỹ đã bị con bão khẩu khí của Lê Lựu quét sạch. Người đến sau như tôi giống kẻ đứng giữa sa mạc. Và trong lần thứ tư đến Mỹ, đất nước này đối với tôi vẫn là một cái gì đấy vừa tự do vừa đe dọa, vừa khắc nghiệt vừa dễ dãi, vừa khó hiểu vừa giản đơn. Đi chuyến đi dài này khi tôi đã bước sang tuổi bốn mươi sáu, bởi thế mà tôi mang cảm giác cô đơn hơn, dè dặt hơn và nhiều lúc rơi vào trạng thái thật khó tả. Nhưng những chuyến đi xa lúc nào cũng quyến rũ tôi. Nó luôn luôn hé lộ cho tôi một điều gì đó. Sau mỗi chuyến đi, tôi luôn luôn nhận thấy mình quá nhỏ bé, quá khờ khạo, quá ít hiểu biết trước thế gian này. Bởi thế đối với tôi, những chuyến đi làm cho tôi được sống nhiều hơn thời gian thực cuộc đời mình vốn có. Tôi biết được nhiều hơn những con đường, những ngôi nhà, những cái cây, những con người, những câu chuyện... Và những điều ấy làm tôi bớt đi trong lòng mình những phiền muộn, những tẻ nhạt, những tù đọng... Chuyến đi đầu tiên kỳ vĩ nhất của tôi là chuyến đi từ bờ bên này sang bờ bên kia sông Đáy. Ấy là khi tôi năm tuổi. Mẹ tôi sang quê ngoại của mẹ ăn giỗ và tôi được đi theo. Ngày ấy, hai bờ con sông chỉ cách nhau chừng hai trăm mét. Nhưng bờ bên kia quả là một thế giới diệu kỳ đối với cậu bé năm tuổi là tôi. Bờ bên kia có những lùm dứa dại chạy miên man dọc bờ sông. Bờ bên kia là một cây đa cổ thụ mọc đối diện với bến đò. Con đường nhỏ chạy từ bến nước lên đến gốc đa luôn mang một vẻ đẹp lạ lùng. Và sau con đường kia, sau những lùm dứa dại, sau cây đa cổ thụ là những ngôi nhà ẩn hiện trong những vòm lá, và sau tất cả những cái đó là dãy núi mờ xa và sau nữa là cái gì. Ngày còn bé, tôi thường ra bờ sông nhìn về phía bên kia sông trong những buổi chiều mùa hạ với trí tưởng tượng và lòng khao khát vô bờ. Tôi thật sự phấn khích khủng khiếp khi bước chân lên mạn đò. Và khi tôi bước đến dưới gốc đa và ngước nhìn lên cây đa cổ thụ thì người tôi run lên bởi một cảm giác lớn lao. Sự vĩ dại của những vòm lá lớn đang vang lên cùng tiếng gió đã trùm phủ tôi và tràn ngập trong tôi. Có một uy lực nào đó trong những vòm lá lớn từ trên cao đang chiếm ngự tôi. Cảm giác ấy và uy lực ấy đến bây giờ vẫn vậy. Có lẽ bởi thế mà sau này trong thơ của mình, tôi thường viết về những cái cây. Những cái cây lúc nào cũng kỳ vĩ, lúc nào cũng đầy uy lực và luôn luôn tỏa sáng cả trong đêm tối. Chuyến đi nước ngoài đầu tiên là chuyến đi từ thành phố Hồ Chí Minh đến Phnom Penh - Campuchia cuối năm 1979. Ngày ấy, Campuchia mới được giải phóng và lính quân đội Việt Nam có mặt trên đất nước bé nhỏ này. Con đường từ phà Niếc Lương đến Phnom Penh nham nhở dấu vết của những hố chống xe tăng. Chuyến đi ấy người ta cần một người biết tiếng Anh. Thế là người ta chọn tôi. Tôi phải mặc quần áo lính và mang theo súng AK báng gập. Trên đoạn đường ấy, chúng tôi phải ngồi quay mặt về phía sau để quan sát đề phòng bị tàn quân Pol Pot phục kích. Đã có một vài chuyến xe như vậy bị súng chống tăng của tàn quân bắn. Phnom Penh những ngày đó còn tan hoang. Những người dân thành phố này bỏ chạy hoặc bị bắt dời khỏi thành phố trong thời Pol Pot vẫn chưa trở về. Trong vườn của những ngôi biệt thự, cỏ dại mọc tràn lan. Một người lính Việt Nam đã đưa tôi đi lang thang trong thành phố. Và bất chợt, tôi nhìn thấy một quả xoài sót lại trên cây trong một khu vườn. Quả xoài chín vàng. Màu vàng ấy tỏa sáng rực rỡ trong một thành phố như đã chết. Sự tỏa sáng của quả xoài như niềm hy vọng cuối cùng và đầu tiên sau thời đại đen tối của chế độ diệt chủng. Nó như một đức hạnh còn sót lại của một dân tộc đã có một lúc lầm lạc và rồ dại. Quả xoài như một ngọn đèn, như một ngôi sao, như một gương mặt người ẩn nấp đâu đó giờ xuất hiện. Đêm đấy tôi đã làm một bài thơ ngắn về quả xoài. Đấy là bài thơ đầu tiên tôi làm với một sự ám ảnh. Và sáng sớm hôm sau, tôi đi qua khu vườn ấy. Tôi không còn nhìn thấy quả xoài nữa. Có thể ai đó đã hái. Có thể quả xoài đã rụng trong đêm. Và có thể nó hiện ra cho tôi một lần và chỉ một lần rồi biến mất. Bài thơ tôi làm không thành công. Và tôi chính là kẻ đã không lưu giữ được vẻ đẹp ấy. Khi nghệ thuật không đủ quyền lực thì nó không thể giữ lại được vẻ đẹp. Tôi đã thất bại chỉ vì khả năng thi ca lúc ấy của tôi quá vụng về. Tôi lúc đó là một thi sĩ không đủ quyền lực ngôn ngữ. Có lẽ bởi thế mà cho đến bây giờ, hơn hai mươi năm trôi qua, quả xoài ấy vẫn ẩn hiện đâu đấy trong ký ức tôi. Nó đợi một ngày nào đó, với khả năng ngôn ngữ của thi sĩ, lại hiện ra như một ngọn đèn, như một ngôi sao và như một gương mặt lấp lánh trong bóng tối của cái chết. Đấy là khát vọng của tôi và tôi nghĩ cũng là của mọi thi sĩ trong mọi thười đại. Tôi quá cảnh ở sân bay Narita - Tokyo trên đường đến Chicago. Tôi ngồi hút thuốc và nhìn qua cửa kính. Tokyo đang mưa. Bầu trời xám nặng. Những giọt mưa rơi vào cửa kính và chảy thành một vệt dài. Thật ý nghĩa khi được ngồi im lặng, một sự im lặng thật sự, ở một nơi mà tôi không biết ai và cũng không ai biết tôi. Khoảng thời gian ấy, tôi đắm chìm trong miên man bao ý nghĩ. Những người đến hút thuốc rồi vội vã ra đi. Tôi nhớ lần đầu tiên tôi đi một mình đến một nước tư bản - Australia. Tôi quá cảnh ở sân bay Singapore. Sân bay rộng mênh mông với hàng bao nhiêu cửa ra máy bay. Chính ở đấy, lần đầu tiên tôi thấy cô đơn vô cùng. Tôi ngồi im lặng ngắm những dòng người của mọi quốc tịch vội vã đi qua và biến mất. Họ là ai? Họ đi về đâu? Ai đang đợi họ? Họ mang trong lòng những nỗi niềm gì? Họ đang hạnh phúc hay đang khổ đau? Họ đang được chờ đợi đón tiếp hay họ đang chạy trốn, đang bị truy đuổi? Sân bay Singapore lúc đó như thế gian với bao số phận không thể sẻ chia, với bao câu hỏi không lời đáp, với bao cuộc hành trình về muôn hướng khác nhau, với bao bí ẩn trong mỗi sinh linh kia, rồi những chiếc máy bay rời mặt đất vào không gian bao la, rồi có thể có những tai nạn xảy ra, rồi biến mất mãi mãi. Những đêm ngồi chờ máy bay để đi tiếp ở sân bay quá cảnh nước ngoài, tôi thường có cảm giác muốn trở về ngôi nhà của mình ngay lúc đó. Nếu có thể làm được điều đó thì tôi chắc đã bỏ giữa chừng nhiều chuyến đi. Những bữa cơm tối bình dị trong ngôi nhà nhỏ cùng với người thân bỗng hiện lên ấm áp lạ kỳ. Nhiều lúc tôi nghĩ, vì lí do gì mà mình để lại một chiếc ghế trống trong những bữa tối ấy. Vì lí do gì mà mình lại có thể xa những đứa con bé bỏng yêu dấu của mình để ngồi đơn độc ở một nơi xa lạ mà nếu có chuyện gì xảy ra thì mình không thể về tới ngôi nhà của mình được. Thế nhưng sau mỗi chuyến đi xa trở về thì một chuyến đi xa khác lại lên tiếng gọi mình. Tiếng gọi ra đi cũng quyến rũ như tiếng gọi trở về. Nhưng dù thế nào thì tôi cũng là người may mắn hơn nhiều bạn bè của tôi. Những chuyến đi mỗi lần lại chất thêm vào lòng tôi những kỷ niệm. Tôi thấy mình là một kẻ giàu có. Và tôi cũng thấy mình buồn bã hơn. Chuyến đi mà bây giờ vẫn còn lại trong tôi một sự lôi cuốn mạnh mẽ và một nỗi buồn da diết là chuyến đi Cuba gần hai mươi năm về trước. Đấy là lần đầu tiên tôi có một chuyến đi xa như thế. Ngày ấy tôi hai mươi bảy tuổi. Vợ tôi lúc đó đang mang thai đứa con đầu lòng tháng thứ tám. Chỉ còn hơn một tháng nửa là con tôi ra đời. Tôi không bao giờ quên được đêm cuối cùng trước khi tôi đi. Tôi mệt quá và ngủ thiếp không hề tâm sự với người vợ trẻ. Gần sáng tôi nghe tiếng khóc và tỉnh giấc. Vợ tôi đang khóc. Thấy tôi tỉnh giấc, vợ tôi cắn môi im lặng. Tôi quờ tay lên mặt vợ và thấy đầm đìa nước mắt. Tôi hỏi vì sao em khóc. Vợ tôi nức nở mãi mới nói: anh ơi, anh đi em biết nuôi con thế nào? Đấy không phải là một câu hỏi. Đấy là một tiếng kêu. Đúng như vậy. Vợ tôi sẽ nuôi con tôi như thế nào? Tôi không trả lời được câu hỏi ấy. Vì ngày ấy, tôi chẳng có gì trong tay. Không nhà cửa, không cả một chiếc xe đạp cũ để đi làm, không tiền tiết kiệm, không quá ba bộ quần áo. Và vợ tôi lúc ấy mới ra trường, chưa công ăn việc làm. Thời ấy là những năm tháng đói khát vô cùng. Tôi không biết vợ tôi sẽ nuôi con như thế nào. Tôi hoàn toàn không biết. Lúc ấy, tôi muốn ở lại. Nhưng khi ban mai thức dậy thì tôi vẫn quyết ra đi. Có hai người tiễn tôi ra sân bay làm tôi đau lòng cho đến tận bây giờ. Cha tôi và vợ tôi. Cha tôi lúc đó đã về hưu. Người luôn luôn sợ hãi về tôi. Hình như tôi luôn luôn là sự bất trắc trong cuộc đời của ông. Vợ tôi lúc đó, hình ảnh một người phụ nữ trẻ, da trắng xanh, gầy gò, mang một cái thai lớn tiễn tôi trong câm lặng và ngơ ngác làm trái tim tôi tưởng vỡ tan. Khi tôi vào phòng đợi của sân bay, cửa kính đã cách biệt mọi âm thanh từ bên ngoài, tôi quay lại và thấy cha tôi đang đứng đó. Ông đứng bất động nhìn tôi. Tôi chỉ nhìn thấy ông thôi chứ không nghe thấy gì nữa. Cảm giác của tôi lúc đó giống như cảm giác của người đã chết. Linh hồn người ấy vẫn nhìn thấy người thân của họ nhưng không thể nào trò chuyện được nữa. Và lúc ấy, lần đầu tiên tôi mới thấy yêu và thương cha tôi thực sự. Lần đầu tiên tôi thấy gót chân tôi chạy đau trái tim ông suốt hai mươi sáu năm về trước. Sau cha tôi là vợ tôi. Bất động và như vô cảm. Tôi muốn bỏ chuyến đi và quay về. Nhưng tôi đã quay đi. Chuyến bay từ Hà Nội đi Matxcơva phải chậm lại vì trời mưa quá to. Lúc ấy, ý nghĩ quay trở về lại ùa đến. Lẽ nào tôi sẽ đi xa nơi chốn kia và những người thương yêu của tôi. Nhưng tôi đã không quay trở lại. Con người tôi vừa yếu đuối vừa giá lạnh. Và tôi đã xa gia đình bốn năm. Khi tôi trở về, con trai tôi đã bốn tuổi. Cháu gọi tôi là chú xưng con trong mấy tuần đầu sau khi tôi về nước. Bây giờ cháu đã mười chín tuổi. Thế nhưng tiếng kêu của vợ tôi trong đêm gần sáng cách đây gần hai mươi năm vẫn làm lòng tôi đau đớn. Nhiều lúc, tôi nghĩ lúc đó tôi là kẻ nhẫn tâm. Cũng có lẽ vì thế mà sau này trong mỗi chuyến đi xa, tôi không bao giờ cho vợ con tôi và người thân tiễn tôi. Tôi sợ nhìn thấy cảnh chia tay dù là chia tay trong khoảnh khắc. Chuyến bay đi Mỹ là chuyến bay dài nhất mà tôi từng đi. Trước kia đi Mỹ, tôi thường đi máy bay của hàng không Hàn Quốc. Từ Seoul đi New York thường mất mười bốn tiếng đồng hồ. Từ Tokyo đi Chicago gần hơn hai tiếng. Nỗi sợ hãi nhất khi ngồi trên một chuyến bay dài như thế không phải là một tai nạn. Vì tai nạn có xảy ra thì ngay sau đó người ta chẳng còn biết gì nữa. Mà nỗi sợ hãi lớn nhất chính là mang cảm giác của sự bất động. Người ta không có cảm giác người ta đang bay với tốc độ ghê gớm (khoảng 900 km/h). Tất cả như đứng im. Tất cả như đã chết. Tất cả như đã cách biệt hoàn toàn với thế gian. Lúc đó, tôi thèm được nhìn thấy tán lá si xao động trong gió trên ban công tầng hai nhà tôi. Thèm được nghe tiếng chuông gió vang lên lúc gần sáng khi trời trở gió. Những chuyến đi Mỹ trước đây, hầu hết thời gian tôi ở nhà một người bạn, một nhà thơ Mỹ, Kevin Bowen. Trên mái hiên cổng sau của nhà ông có treo những chiếc chuông gió. Tôi đã có những buổi chiều ngồi đó cho đến khi bóng tối tràn ngập ngôi nhà và nghe tiếng chuông gió vang lên. Và lúc đó, tôi nhận ra tôi thực sự là một kẻ lãng mạn và yếu đuối. Tiếng chuông gió luôn làm tôi thổn thức. Âm thanh giản dị ấy vang lên thật mơ hồ và lan xa, xa mãi. Tiếng chuông gió làm cho không gian trở lên thanh sạch lạ kỳ. Còn trên máy bay, tiếng động cơ rì rì như ở một thế giới khác. Ngồi trên máy bay ở độ cao 10.000 mét như vậy, chỉ có duy nhất một hình ảnh hùng vĩ và bi tráng nhất mà tôi nhìn thấy: ban mai. Lúc ấy, chiếc máy bay tôi đi đang bay trên một thảo nguyên mây bất tận. Và ban mai thức dậy trên thảo nguyên mây ấy. Một không khí cổ xưa tràn ngập con người tôi. Cho đến bây giờ tôi vẫn tin đó là hình ảnh chính xác của ban mai khởi nguyên. Hùng vĩ và bi tráng. Đơn độc và tinh khiết. Lúc đó, tôi như một cái cây, như một con thú nhỏ ngước nhìn ban mai với sự quyến rũ vĩ đại mang đầy sợ hãi và bừng tỉnh. Lúc đó, sự rực rỡ của ban mai ùa vào tôi như sự ban phước của Đấng tối cao. Giá lạnh, bóng tối, cô đơn... Vụt tan biến. Thay vào đó là sự hân hoan như một tiếng rống vang bỗng dội lên. Không. Dù có nói thế nào thì tôi cũng không tả hết được hình ảnh ban mai ấy. Cảm giác lúc đó làm con người muốn òa khóc. Nó như ban mai đầu tiên sau bất tận của bóng tối, của giá lạnh và cô độc. Nó không giống bất kỳ ban mai nào trên trái đất mà tôi đã gặp. Bởi trên lưng trời kia tôi chỉ có một mình. Tôi giống như một người cổ đại đứng trên đỉnh đồi trước ban mai và hú lên trong sự cô độc đến kinh hãi và hân hoan thống thiết. Hành khách quanh tôi đang chìm sâu trong giấc ngủ. Mà cho dù họ có thức thì sự hiện diện của những con người xa lạ kia liệu có ý nghĩa gì với tôi không? Ôi ban mai, ban mai, người chảy trong máu thịt tôi với toàn bộ sự tinh khiết, rực ấm, sinh sôi, bất tận, huy hoàng và cả thổn thức. Người đã cứu tôi ra khỏi bóng tối của giá lanh, sợ hãi và cô đơn. PHỤ LỤC Bài thơ: Buồn hơn cái chết Vào lúc nào đấy trong đêm tối như hốc mắt người chết Ai đó ghé xuống bên anh thì thào thông báo: ban mai ngươi sẽ ra đi Băng qua mọi sợ hãi, mọi thách thức anh đến tìm em Chúng ta ôm nhau im lặng nơi bậc cửa đầy gió Không còn đâu trên thế gian yên tĩnh như nơi này Chúng ta trút bỏ áo quần như trút bỏ thống khổ nằm xuống bên nhau Trong ánh sáng của ngôi sao đã chết một triệu năm Chúng ta thì thầm những tiếng thường vọng trong mơ Chợt phép nhiệm mầu lướt qua, ai đó mỉm cười Chúng ta trở nên tinh khiết và gánh nặng của da thịt tội lỗi Đã tan biến như chưa bao giờ có cùng những tuyệt vọng của đời sống Và chúng ta nghe bản chúc phúc của đồ đạc Vào lúc ban mai anh sẽ ra đi khỏi thế gian này Em đừng khóc, đừng thay đổi những chiếc ghế chúng ta thường ngồi trong bóng tối Đừng thay đổi những lí do, đừng thay đổi những sợ hãi Đừng thay đổi cả những cái cây chết ở góc vườn Em đừng khóc, đừng bao giờ khóc về chuyến đi này, hãy nhìn ra cửa sổ Anh sẽ ra đi từ đấy, một ngôi sao lấp lánh từ đêm anh sinh ra Ngôi nhà còn lại trên thế gian, em hãy đến, gồi xuống chiếc ghế trong bóng tối, hãy thì thào, hãy gọi Quần áo cũ của anh vẫn ấm mãi hơi thở ấy, vẫn bụi bặm ấy vã những mẩu thuốc trong túi Vẫn những cơn ho ấy, vẫn đau đớn ấy và dịu dàng ấy làm em bật khóc vì hạnh phúc Vào lúc ban mai anh sẽ ra đi khỏi thế gian này, chuyến đi kỳ vĩ Cờ sẽ rực rỡ biết nhường nào, âm nhạc sẽ tinh khiết đến nhường nào Giống cậu bé ham chơi trốn cha mẹ ra khỏi giường ngủ, anh đi bằng cách nhón chân của mèo hoang Và cúi xuống bên em thiếp ngủ, thì thầm anh nối: Đời sống này đôi lúc buồn hơn cái chết. Rút từ Cây Ánh Sáng, NXB Hội Nhà Văn 2008 HAI Đời sống mi đang sống có thực sự là một đời sống? (Giấc mộng thứ nhất) Khi càng xa tuổi trẻ, người ta càng gần những giấc mộng. Những năm gần đây, tôi gặp giấc mộng nhiều hơn. Một phần do những biến đổi tâm sinh lý khi người ta ngoài bốn mươi tuổi. Tôi đã sống trên thế gian này gần một nửa thế kỷ rồi. Nhiều chuyện có thể đã biết đúng sai. Ít đau buồn hơn nhưng đau buồn là đau buồn thực. Ít niềm vui hơn nhưng niềm vui là niềm vui thực. Tôi đã biết những hão huyền của đời sống này. Một điều nữa làm tôi những năm gần đây hay có những giấc mộng là vì những giày vò, những suy ngẫm và cả sợ hãi và cô đơn. Những điều ấy vẫn vây bủa tôi, đẩy tôi vào chân tường và bắt tôi trả lời một câu hỏi mà tôi không trả lời được: Đời sống mi đang sống có thực sự là một đời sống? Nhưng bây giờ thì tôi tin giấc mộng chính là khoảnh khắc sống liền mạch của đời sống tôi đang sống. Chuyến bay từ Tokyo đi Chicago là một chuyến bay quá dài. Trong cái khối kim loại hình thời ấy, người ta để mặc số phận cho Thượng đế. Đối với vũ trụ vô hạn này, thì chiếc máy bay không bằng một hạt bụi. Trong chặng đường bay như thế, người ta mất hết cảm giác và khái niệm về thời gian và không gian. Năm 1993, trong chuyến đi Mỹ cùng tôi có nhà văn Lê Minh Khuê. Và trong chuyến bay mù mịt ấy, Lê Minh Khuê đã thực sự sợ hãi. Chị nói với tôi rằng nếu có mệnh hệ gì thì làm sao mà quay về nhà được. Đúng thế, không thể quay về được. Chiếc Boeing của hãng hàng không Nhật Bản cứ nâng dần độ cao. Chưa bao giờ tôi thấy máy bay lại tăng độ cao kiểu như thế. Trên độ cao ấy, đôi tai ù dần đi và cuối cùng người ta không còn nghe thấy gì nữa. Không nghe thấy gì nhưng không phải kiểu không nghe được của người điếc. Đôi tai vẫn cảm thấy nhẹ. Nhưng tuyệt nhiên không còn một âm thanh nào nữa. Tất cả tĩnh lặng và mênh mang. Mọi người vẫn gọi hỏi nhau, các tiếp viên vẫn đi lại, nhưng tất cả chỉ như những cái bóng in trên tường. *** Hồi tôi còn bé. Một đêm học bài và ngủ gục xuống bàn. Khi tỉnh dậy bỗng thấy một cái bóng người in trên tường. Tôi chết đứng vì kinh hãi. Cả tôi và cái bóng kia đều bất động. Khi tôi biết đó là cái bóng của mình thì tôi hết sợ hãi. Nhưng tôi vẫn đứng im lặng rất lâu nhìn cái bóng và cứ tự hỏi đó có phải là mình không. Bây giờ thì có thể biết đó vừa là mình vừa không phải là mình. Tôi tin rằng cái bóng của chúng ta luôn luôn im lặng nhưng không phải không có cảm xúc gì. Cái bóng vẫn sống như chúng ta đang sống và vẫn tư duy như chúng ta tư duy, nhưng tư duy thế nào thì chúng ta không bao giờ biết được. Tôi nghĩ rằng cái bóng của chúng ta không bao giờ mất đi. Khi chúng ta không nhìn thấy nó là lúc nó tồn tại trên một bức tường khác. Có thể đó là một bức tường thời gian, một bức tường không gian. Máy bay vẫn lên cao. Tôi không thể nào nhìn thấy trái đất nữa. Những đám mây cũng không còn. Bao quanh tôi là một ánh sáng kỳ lạ. Một thứ ánh sáng không phải của mặt trời. Một thứ ánh sáng mà không một vật cản nào tạo ra được cái bóng của mình. Nó sáng từ đâu? Lúc đầu tôi nghĩ nó sáng từ bên trong chúng ta sáng ra. Nhưng không phải thế. Sáng từ bên trong ra hay từ ngoài vào cũng vậy. Nghĩa là nó vẫn phải chấp nhận một quy luật: nơi xuất phát và nơi đến. Nó cũng không sáng theo một vòng tròn bất tận. Nó sáng bởi tất cả mọi vật đều sáng. Nghĩa là mọi vật đều trở thành ánh sáng. Thứ ánh sáng ấy loại trừ mọi âm thanh phát theo hình sóng. Mặc dù mọi vật đều cất giọng và đều nghe thấy vật đối diện. Khi hiểu ra điều ấy cũng là lúc tôi nhận ra chiếc máy bay cùng chúng tôi đã sang một thế giới khác. Hoặc có thể chúng tôi không nhận biết được đường biên giới ấy. Đường biên giới ấy là điểm không thời gian và không gian. Làng Chùa bé bỏng của tôi lúc ấy hiện lên. Nhưng trong thế giới này, tôi hoàn toàn không có cảm giác gì của thương nhớ, khổ đau mặc dù tôi không hề đánh mất một chút nào của ký ức. Quá khứ lúc đó giống như những ngón tay tôi đang nối liền với bàn tay. Và bàn tay nối liền với cơ thể tôi. Cơ thể tôi là một khối thống nhất. Rồi chỉ ít phút sau, tôi mất đi hoàn toàn cảm giác đang ngồi trong một khối vật chất là chiếc máy bay. Mặc dù, cái ghế vẫn đấy, hành khách bên cạnh vẫn đấy, cái cánh máy bay nhìn qua cửa sổ máy bay vẫn đấy. Chúng tôi đã ở quá xa trái đất. Có lẽ chúng tôi không bao giờ trở về được nữa. Nhưng trở về để làm gì khi mà nơi trở về lại ở ngay trong chúng tôi. Hai không gian này không phải là xếp chồng lên nhau. Không phải lồng vào nhau. Nó đang ở trong một không gian khác: cái này chứa đựng cái kia và ngược lại. Sự chứa đựng ấy tưởng như hoán vị không ngừng nhưng thực ra nó chẳng hề như vậy. Tôi chỉ cảm nhận được khoảnh khắc ấy chứ không nhìn thấy được. Không ai và không cái gì có thể nhìn thấy được. Và chính ở nơi ấy, tôi thấy có một ai đó nhìn mình và mỉm cười. Cái nhìn không phải từ phía trước, không phải từ phía sau, không từ bên phải, không từ bên trái, cũng không phải ở trên cao, mà ở đâu đấy giống như trong đôi mắt kia tôi không hề hiển diện nhưng lại được nhìn thấu. Và nụ cười cũng vậy. Và trong thế giới ấy, tất cả những bộ phận trên cơ thể con người đã từng đày đọa chính con người từ từ biến mất. Đầu tiên là những cái lưỡi. Những cái lưỡi biến mất và ngôn ngữ con người ở đó cất lên giống như những tia nắng đầu tiên của ban mai ùa lên trái đất. Một thứ ngôn ngữ thông tuệ và ngân vang. Cảm giác như sau mỗi lời thốt ra là nắng sớm ngập tràn và hoa nở rực rỡ. Rồi những cái răng biến mất. Những cái răng biến mất trong vòm miệng chúng tôi tưởng như chưa bao giờ chúng tôi phải mang trong miệng mình những cái răng ấy. Sự mệt mỏi và đau đớn trong chuyển động của những hàm răng không còn. Lúc ấy, ánh sáng tràn qua miệng chúng tôi giống như ánh sáng tuôn chảy lộng lẫy qua các ô cửa thánh đường. Và dạ dày biến mất. Đấy là hành trang nặng nhọc và đau khổ nhất mà chúng ta từng phải mang theo từ lúc sinh ra cho tới khi chết. Nhiều lúc nó đẩy chúng ta vào trong con mê sảng của đói khát. Nó làm chúng ta u mê và không ít kẻ trong chúng ta bỗng trở thành những con thú dữ. Giờ nó tan biến như sự tan biến của một chiếc cùm đá, của một cơn ác mộng. Rồi bộ phận sinh dục tan biến. Nó đã làm cho con người được tận hưởng niềm sung sướng ghê gớm của thể xác nhưng nó lại đày đọa tinh thần con người. Tất cả hành khách trên chiếc máy bay ấy trở nên trong suốt và bồng bềnh trôi trong vũ trụ vô tận. Họ nhìn nhau và mỉm cười. Nụ cười của họ giống như sự mở cánh của một bông hoa trước ban mai trên cánh đồng chưa hề có dấu chân người. *** Tôi tỉnh khỏi cơn mộng khi máy bay xuống đường băng. Giấc mộng về một nơi chốn như tôi vừa thấy là mộng hay là thực. Có thể trong lúc tôi ngủ, mà chưa hẳn đó là giấc ngủ, thì một quyền năng kỳ diệu nào đó đã dẫn tôi tới chốn xa xăm kia. Mà tại sao tôi lại phải băn khoăn rằng nơi tôi đến chỉ là giấc mộng. Bởi tôi vẫn còn nhớ tất cả những gì đã diễn ra nơi ấy. Bởi tại sao tôi lại không thể được ban phước đến nơi kia. Và dù giấc mộng ấy chỉ diễn ra trong một phút thì tôi cũng đã sống thực với nơi ấy kia mà. Tất cả những giấc mộng cũng chính là một khoảnh khắc dài hay ngắn của một đời sống có thực mà tôi được sống. Có thể có lúc tôi đã không công nhận đời sống ấy. Nhưng nó vẫn là có thực. Cũng như con người sống trong giấc mộng ấy là chính tôi lúc đó có thể lại nghi ngờ cái khoảnh khắc của một đời sống mà tôi đang ngồi viết đây là một giấc mộng chăng? Và cuối cùng tôi tin, đến một ngày nào đó, với những nỗ lực và khát vọng sống của mình, con người sẽ đi đến một đời sống như vậy. Trong một bài thơ trước đó của tôi mang tên: Linh hồn những con bò, tôi viết về những con bò ra đi từ bóng tối đến ban mai và tan vào ánh sáng. Chúng đã đến được một thế giới như thế giới tôi đã mơ. Chúng đã sinh ra trên thế gian và ra đi. Chúng đã ra đi trong sự kiên nhẫn của cả cuộc đời chúng. Cuộc đời chúng là một sự kiên nhẫn tột cùng với những đường cày bất tận. Và chúng không một lần ngoái lại chiêm ngưỡng hay thỏa mãn với những vụ mùa chúng để lại phía sau. Và cứ thế cho đến một ngày mà chúng không hề biết trước: những chiếc ách nặng nề đeo vào đời sống của chúng bỗng tan biến và chúng đã bay lên. Chúng bay lên và thanh thản như những đám mây trắng trong ban mai rực rỡ và tinh khiết. Và bên dưới những đám mây là cánh đồng của những con bò khác với những chiếc ách và những đường cày bất tận. Bí mật của chúng là không than thở và không được bỏ dở bất cứ một đường cày nào. *** Những giấc mộng trong những năm tháng này của tôi hoàn toàn khác những giấc mộng mà trước kia tôi hay gặp. Nhiều năm trước kia có lần tôi mộng tôi được quá nhiều tiền. Và khi tỉnh giấc, tất cả đống tiền trong mơ đã biến mất. Tôi không khóc, nhưng nước mắt giàn giụa. Lúc đó tôi cần và rất cần tiền. Tiền cho tôi và cho những người thân nghèo túng của tôi. Bây giờ có khá giả hơn nhưng đó không phải lí do mà giấc mộng được nhiều tiền không đến nữa. Trước kia, giấc mộng tôi thường gặp và bạn bè tôi cũng gặp là giấc mộng mà trong đó mình luôn luôn bị một ai đó, một cái gì đó săn đuổi. Những cuộc chạy trốn ấy lúc nào cũng thất bại vì đôi chân cứ ríu lại như chân người bại liệt. Bây giờ thì tôi không gặp giấc mộng ấy nữa. Phải chăng bây giờ tôi không tìm cách chạy trốn nữa. Mà trong cuộc đời, chúng ta càng chạy trốn chúng ta càng bị truy đuổi. Và khi bị truy đuổi thì ít khi chúng ta có thể chạy thoát. Con đường duy nhất để chúng ta thoát khỏi sự truy đuổi là dừng lại, quay về phía kẻ truy đuổi mình, ngẩng cao đầu bước lên và thách đấu. Cuộc chiến đấu này là cuộc chiến đấu với một ai đó, một cái gì đó và đôi khi là chính bản thân chúng ta. Kẻ thù của chúng ta nhiều lúc thật mơ hồ và chính vì thế mà hầu hết chúng ta luôn luôn thất bại. PHỤ LỤC Bài thơ: Linh hồn những con bò Ra đi từ đêm Và bây giờ, những con bò bóng tối, đã đến cánh đồng cuối cùng Suốt đêm tiếng rống đàn bò rền rĩ những cách đồng câm lặng Suốt đêm hơi thở đàn bò phả nóng một đêm mùa hạ Chúng đã đi hết đường cày cuối cùng những chiếc ách biến mất gần sáng dấu chân chúng đã điểm chỉ trên những cánh đồng thế gian Trong ban mai đàn bò mỗi lúc vàng rực và tan vào ánh sáng Những tiếng rống vọng lại Dàn kèn đồng trong xóm đạo nhỏ đang tập buổi cuối cùng để đón lễ Phục sinh Giờ chỉ còn những đám mây Linh hồn của đàn bò bay trên cánh đồng của những con bò khác. Rút từ Cây Ánh Sáng, NXB Hội Nhà Văn 2008 BA Một hình ảnh của nhân tính Chuyến bay của tôi từ Chicago về Boston bị lỡ. Tôi đến sân bay Boston chậm ba tiếng đồng hồ. Khi tôi từ phòng đợi bước ra, tôi thấy bạn tôi, Kevin Bowen và cô con gái ông, Lily, đang đứng đợi tôi. Hầu như lần nào tôi đến Boston, Kevin cũng lái xe ra đón tôi. Lần này thật đặc biệt là có cả cô con gái của ông. Tôi nhớ năm 1993, khi chúng tôi đến Boston thì Lily vừa được mấy tháng. Một ngày chủ nhật, gia đình Kevin đưa chúng tôi ra cảng Boston chơi. Cô bé Lily khóc mãi. Vợ chồng Kevin không làm sao dỗ cô bé nín được. Và ngay lúc đó, nhà thơ già cùng đi với tôi đón cô bé bế vào lòng và ông quay mặt về phía biển xa rồi ông hát ru cô bé. Ông hát một bài hát ru mà những bà mẹ Việt Nam từ bao đời nay đã hát để ru con mình. Lúc ấy, nhìn ông thật cô đơn và thật đẹp. Chỉ sau đó ít phút, như có pháp thuật, ông đã làm cho cô bé Mỹ nín khóc và từ từ ngủ trong vòng tay của ông, vòng tay của một người xa lạ, người trước đó chừng hai mươi năm đã một sống một chết với cha cô ở chiến trường Việt Nam. Tôi nghĩ sau này lớn lên đến cái tuổi cho cô biết suy ngẫm và biết buồn thì câu chuyện ấy chắc sẽ cho cô nhiều cảm xúc và ý nghĩa. Câu chuyện ấy sẽ nói cho cô một điều gì đó thật bình dị mà cũng thật lớn lao. Sau mấy ngày ở nhà cô trong chuyến đi này, tôi đã kể cho cô bé mười tuổi câu chuyện đó như tôi đã kể một câu chuyện nào đó cho con gái tôi nghe. Lily ngồi nghe và mỉm cười. Rồi cô nói cô còn bé quá nên chẳng biết gì. Chiều ấy bên cảng Boston là một chiều đầy gió. Một người đàn ông xa lạ bế một cô bé mấy tháng tuổi xa lạ và hát ru cho cô bé ấy ngủ luôn luôn hiện lên trong tâm trí tôi như một hình ảnh đầy ý nghĩa và xúc động. Lúc ấy, cuộc sống đã mượn nhà thơ kia và cô bé Lily để nói với thế gian một điều đầy ý nghĩa. Hành động lúc đó của nhà thơ, tôi tin, chỉ là một hành động vô thức. Đấy là hành động bản năng của con người được thức dậy trong hoàn cảnh ấy. Nó không cho phép người ta thờ ơ trước tiếng khóc nức nở như không thể dứt của một đứa trẻ. Chúng ta không thể cầm lòng dù tiếng khóc ấy đôi khi là tiếng khóc sinh lý của một đứa bé hai tháng tuổi. Nhưng khoảnh khắc ấy quá ít trong đời sống chúng ta. Nó như cái đẹp bất chợt hiện ra. Nó xóa đi mọi ranh giới của thù hận và cảnh giác. Có thể nhà thơ già đó chẳng còn lúc nào nhớ lại buổi chiều ấy. Tôi tin rằng, nếu ở giữa thủ đô Hà Nội, trước các quan chức và công chức khác ông không bao giờ đủ bản lĩnh để làm cái điều giản dị và đẹp đẽ kia. Ông sẽ sợ người khác cho ông là một kẻ phi chính trị. Và có thể ông lại lên giọng nỏi những điều tồi tệ về đất nước của cô bé hai tháng tuổi ấy. Nhưng nỗi sợ hãi ấy của ông cũng hoàn toàn dễ hiểu. Ôi, một đứa trẻ khóc mãi bên bờ biển trong một chiều đầy gió lạnh chẳng lẽ không làm động lòng chúng ta hay sao? Dù nay mai nó là người Mỹ, là nước Mỹ, nó có thể trở thành tổng thống Mỹ và tiến hành một cuộc chiến tranh với hình thức nào đó với dân tộc chúng ta. Nhưng bây giờ nó bé bỏng nhường kia, trông sáng nhường kia, yếu đuối nhường kia, sợ hãi nhường kia. Tiếng khóc của nó không một chút gì khác với tiếng khóc của con ta. Tôi đã kể câu chuyện này cho cô bé. Nhưng Lily chưa đủ lớn để xúc động và tìm thấy ý nghĩa cua buổi chiều ấy. Nhưng buổi chiều ấy thi thoảng lại hiện lên trong tâm trí tôi. Nó giản dị nhưng thật diệu kỳ. Buổi chiều ấy như một hình ảnh chứa đựng chân dung nhân tính của thế gian. *** Năm 1997, tôi trở lại Mỹ lần thứ ba, Lily đã năm tuổi. Tôi tìm cách nói chuyện với cô bé nhưng cô luôn luôn tránh mặt. Mỗi lần tôi đưa máy ảnh lên chụp cô thì cô lại quay đi hoặc nấp sau lưng mẹ. Và bây giờ, cô đã mười tuổi. Cô lớn một cách tôi không thể hình dung nổi. Đôi mắt xanh, da trời trong sáng, mái tóc vàng để xõa. Cô bước đến mỉm cười chào tôi như một thiếu nữ thực thụ. Cách đây hai năm, Kevin viết thư cho tôi nói ông vừa làm sinh nhật lần thứ tám cho Lily và ông không ngờ cô bé đã lớn lên nhanh như vậy. Và bây giờ đến lượt tôi không thể hình dung thiếu nữ đứng trước tôi là cô bé hai tháng tuổi trên cảng Boston mười năm về trước, là cô bé năm tuổi thường nấp sau cửa nhìn tôi năm năm về trước. Thời gian thật kỳ diệu. Thời gian làm cho một cô bé hai tháng tuổi với những sợi tóc lơ thơ và hay khóc biến thành một thiếu nữ mười tuổi xinh đẹp và trong sáng đang đứng trước tôi. Nhưng thời gian cũng thật nghiệt ngã. Nó làm tôi từ một chàng trai tóc dày, ria mép rậm trở thành một người đàn ông tóc rụng, ria mép bạc và thường thức khuya để nghe tiếng chuông gió trên ban công hay tiếng mèo gào trên mái nhà hàng xóm. Thời gian đôi lúc tôi nghĩ giống như sự nở của hoa quỳnh. Nó làm cho mọi đời sống đi đến đỉnh điểm của cái đẹp và cũng làm cho tất cả một lúc nào đó rơi vào tận cùng của sự tàn lụi. Mỗi một ngày, tôi nghe được thời gian đang từ từ ra đi khỏi đời sống của tôi. Nhưng trong sự ra đi ấy, nó luôn luôn để lại trên đường đi của nó ánh sáng của những vẻ đẹp kỳ diệu. Thời gian đã ban phước cho mỗi một chúng ta quá nhiều. Chúng ta không thể cản được thời gian. Nhưng chúng ta có thể đồng hành cùng thời gian. Và khi chúng ta đồng hành được cùng với thời gian thì nghĩa là chúng ta tồn tại mãi mãi cùng nó. Đêm đầu tiên ở Boston, tôi ăn bữa tối cùng gia đình Kevin, và tôi nhớ ngôi nhà của mình vô hạn. Tôi nhớ con gái tôi với một nỗi nhớ riêng biệt không bao giờ có đối với bất cứ ai. Buổi sáng trước khi tôi ra sân bay, tôi vẫn ngồi trước màn hình computer để viết một tiểu phẩm nhỏ cho trường nơi con gái tôi học. Trước đó hai ngày, con gái tôi đến trước tôi và hỏi: “Con muốn nhờ bố một việc có được không?” “Bố sẵn sàng,” tôi nói. Và con gái tôi nhờ tôi viết một tiểu phẩm về bảo vệ môi trường. Tôi nghĩ mãi mà không biết sẽ viết như thế nào. Cuối cùng tôi đã viết về những cái cây trong cuộc rời bỏ mặt đất ra đi. Những cái cây ra đi như một thông điệp gửi lại con người về sự hung bạo của họ. Những đứa trẻ đã khóc mãi về sự ra đi của những cái cây và bầy chim. Mặt đất trở nên hoang vu và câm lặng. Nhưng rồi một đứa trẻ đã phát hiện ra nó có một cái hạt cây giấu trong cặp sách. Cái hạt cây đẹp như một viên ngọc. Và những đứa trẻ quyết định gieo cái hạt cây ấy xuống mặt đất của thế gian. Đêm qua tôi ngồi nói chuyện với Kevin. Chúng tôi nói chuyện về những đứa trẻ. Có bao nhiêu phần trăm trong những đứa trẻ trong sáng và đáng yêu đang lớn lên quanh chúng ta sẽ trở thành những kẻ giết người có tổ chức? Hoặc nhân danh hòa bình hay công lý? Có bao nhiêu đứa sẽ trở thành những người bệnh tật, đói khát và tuyệt vọng? Có bao nhiêu đứa sẽ trở thành thi sĩ và bao nhiêu đứa sẽ trở thành những tên độc tài có thể hủy hoại tinh thần của cả một dân tộc trong nhiều thế hệ? Sau cuộc nói chuyện ấy, tôi nằm và nghĩ mãi về các con tôi, về những đứa trẻ đang lớn lên trên xứ sở chúng ta. Những đứa trẻ ở xứ sở chúng ta đang ngày một mất đi tuổi thơ trong chính thời gian ấu thơ của chúng. Chúng học gì ở trường? Tôi cảm thấy chúng là những robot mỗi ngày đến trường để nạp thêm chương trình mới được soạn thảo vào trong ổ cứng. Và những cuộc thi cử giống như chúng ta gõ lệnh bằng con chuột để kiểm tra sự nạp chương trình của chúng ta mà thôi. Và chúng ta đang thỏa mãn. Một sự thỏa mãn đầy tội lỗi. Trong một lần nói chuyện với các giáo viên dạy văn giỏi toàn quốc do trường Đại học Văn hóa tổ chức, tôi có nói với các giáo viên dạy văn rằng, ngay chính tác phẩm bất hủ nhất của văn chương cổ điển Việt Nam là Truyện Kiều thì khi chúng ta đi học, chúng ta cũng không được học những phần nhân văn nhất, đẹp nhất của tác phẩm mà chúng ta chủ yếu học về lòng hận thù. Các giáo viên đã đồng ý với ý kiến của tôi. Chúng ta đã quên việc quan trọng nhất của một nền giáo dục là xây dựng nền mỹ học trong mỗi học sinh. Bởi khi con người có khả nàng nhận biết cái đẹp thì họ biết lựa chọn hành động cho cái đẹp. Khát vọng cuối cùng của chúng ta về con người là vậy. Những sai lầm của giáo dục chúng ta không phải do những cá nhân giáo viên. Những sai lầm ấy thuộc về một hệ thống khác. Có nhiều lúc con gái tôi nhờ tôi giảng cho cháu một bài thơ trong sách giáo khoa. Tôi hoàn toàn hoang mang. Bởi tôi không biết sẽ phải nói như thế nào với con gái tôi. Tôi không thể nói đó là một bài thơ dưới mức trung bình, một bài thơ nhạt nhẽo, càng không thể nói đó là một bài thơ giả dối. Con gái tôi còn nhỏ, cháu sẽ không thể chịu đựng được điều ấy. Vậy thì tôi phải làm gì? Tôi nhớ khi con gái tôi lên bốn tuổi. Có một lần cháu đã không nghe lời tôi. Cháu ném con búp bê tôi mua cho cháu xuống gầm giường và nói: không cần. Tôi không nói gì. Buổi tối hôm đó tôi đến bên con gái tôi và kể một câu chuyện. Có một người cha đi vào rừng. Một con hổ hung dữ nhảy ra chặn đường người cha và gầm lên: - Ta sẽ ăn thịt ngươi. Muốn sống, ngươi hãy quay trở lại. - Dù chết ta cũng không bao giờ quay lại, - người cha nói. - Ta phải vào rừng để ngắt bông hoa đẹp nhất ở đó mang về cho con gái ta. - Ngươi không sợ chết ư? - Hổ hỏi. - Không, - người cha mỉm cười nói. - Vì sao ngươi lại không sợ chết? - Hổ lại gầm lên. - Vì ta yêu con gái ta. - Người cha nói. - Vì niềm vui của con gái ta mà ta không sợ chết. Rồi người cha lại đi ra biển. Một con cá mập hung dữ bơi đến và nói: - Ta sẽ nuốt ngươi vào bụng ta. Nếu ngươi biết sợ thì hãy mau mau quay lại bờ. - Ta sẽ không bao giờ quay lại. - Người cha nói. - Ta phải lặn xuống nơi đáy biển sâu nhất để mang về cho con gái ta viên ngọc trai lớn nhất và đẹp nhất của biển cả. - Ngươi quả là một kẻ không biết sợ chết, - Cá mập nói và nhe hai hàm răng nhọn hoắt. - Cái gì làm cho ngươi không sợ hàm răng nhọn sắc kinh khủng của ta? - Tình yêu của ta với con gái ta làm cho ta không sợ chết, - người cha hãnh diện nói. - Vì con gái ta mà ta sẵn sàng chết. Nói xong, người cha cười vang. Tiếng cười của người cha làm cho con cá mập sợ hãi và biến mất. Khi tôi kể câu chuyện này trong buổi tối ấy, con gái tôi nằm trên giường im lặng lắng nghe. Rồi con gái tôi từ từ úp mặt vào gối. Khi tôi kể xong, con gái tôi vẫn nằm như vậy. Tôi nghĩ con tôi đã ngủ. Tôi khẽ khàng xoay người con tôi lại. Và tôi nhận thấy trên gương mặt tơ non của cô bé bốn tuổi đầm đìa nước mắt từ khi nào. Vâng, tất cả chỉ giản dị như vậy. Câu chuyện chỉ có thế. Năm nay con gái tôi đã ngoài 20 tuổi. Cháu có thể chẳng còn nhớ câu chuyện xưa tôi kể cho cháu nghe. Nhưng một buổi tối của một ngày ấu thơ cô bé bốn tuổi ấy đã nức nở. Cô bé ấy khóc không phải vì sợ hãi, không phải vì cô bé ấy thương người cha của mình, không phải vì cô bé ấy nhận ra khuyết điểm của mình. Cô bé khóc vì một điều gì đó đã xảy ra trong tâm hồn cô dù cô bé ấy chẳng thể nhận ra. Tôi gọi những điều xảy ra trong tâm hồn con người như thế là những sự kiện của tâm hồn. Bây giờ con tôi chẳng còn nhớ câu chuyện ấy giống như muôn vàn bài học đạo đức vụng về chúng ta vẫn dạy cho những đứa trẻ trong những tháng năm qua, nhưng buổi tối ấy có một điều gì đấy mà tôi cũng chưa kịp gọi tên đã nảy mầm trong tâm hồn một đứa trẻ. Tất cả bắt đầu như vậy và đơn giản chỉ là như vậy. *** Năm 2007, tôi trở lại nước Mỹ. Lily mười bốn tuổi và đẹp rực rỡ. Sau một chút ngỡ ngàng tôi mới nhận ra cô. Những người hàng xóm của Kevin đã đưa con cái họ đến chào tôi. Đêm ấy, bên cạnh chiếc lò sưởi, tôi đã thức gần tới sáng. Tôi lại nhớ tới lá thư Kevin viết cho tôi cách đó bốn năm: “Thiều thân mến, chiều qua Lily và tôi đã trèo lên đỉnh một ngọn đồi. Từ đó, cha con tôi như nhìn thấy phía bên kia trái đất và chúng tôi nghe thấy tiếng chó sủa ở làng Chùa.” Đấy là lá thư mà tôi không thể nào quên được. Bởi thế, khi trở lại vùng đồi ở ngoại ô Massachusetts, tôi như trở lại quê hương mình sau nhiều năm xa cách. Bởi ở đó có những người vẫn nghe thấy tiếng chó sủa ở làng tôi. Một tuần sau khi tôi đến Mỹ thì tới sinh nhật của Lily. Tôi đã nói với cha mẹ cô để tôi tổ chức sinh nhật cho cô. Trước đó mấy ngày, tôi hì hụi vẽ một bức sơn dầu những bông hoa tím tặng cô. Và trong buổi tối sinh nhật của Lily, tôi đã nói với những người tới dự sinh nhật của cô: “Tôi tổ chức sinh nhật cho Lily nhưng là để làm nên một buổi tối cho chúng ta, một buổi tối của hòa bình và của cái đẹp trên thế gian này. Rồi sẽ đến một ngày tôi không thể trở lại mảnh đất này được nữa. Con trai tôi sẽ lại đến đây để tổ chức sinh nhật cho một cô bé mười bốn tuổi nào đó. Và nó lại thay tôi làm nên một buổi tối hòa bình và của cái đẹp cho thế gian này.” PHỤ LỤC Bài thơ: Con gái ơi Cho con gái Tuyết Ngân Con mặc chiếc váy mỏng như khâu bằng những cánh hoa tầm xuân Con đi đôi giày nhỏ như làm bằng hai chiếc kén tằm vàng Trên con đường trước nhà ta đầy đá Con chạy ra đón cha Hai bên đường những cánh bướm còn non Bay như dính vào không gian Đó là chim bổ câu tí hon Trong miền riêng của con trong trắng Niềm xúc động trong cha dâng lên đến tận cùng Làm buốt chân tóc trên đỉnh đầu cha Những sợi tóc tơ con ròng ròng từng sợi nước Mát rượi chảy tràn từng ống xương cha Con gái của cha ơi Cha nghe thấy có tiếng cười lạ Cha nghe thấy có tiếng người lạ Dẫu không gọi tên con cũng không gọi tên cha Mà sao cha sợ run lên Cha mở đời cha như mở một tấm lót Bọc lấy con và bế con lên Chỉ như thế cha mới có thể nhắm đôi mắt lại Hôn dịu dàng lên mái tóc con Chỉ như thế chiều nay con mới không òa khóc. BỐN Thông điệp từ một đêm trăng Đêm qua tôi chợt tỉnh giấc. Ngay lúc đó tôi nhận ra căn phòng tôi ở tràn ngập ánh trăng. Tôi ngồi dậy đến bên cửa sổ. Đêm nay có lẽ sắp rằm. Trăng tròn quá và trong quá. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn trăng trên bầu trời từ một xứ sở xa lạ. Vầng trăng có gì khác khi tôi nhìn từ nơi này? Không có gì khác cả. Chỉ có nỗi nhớ cố hương từ nơi này trong một đêm trăng im ắng. Và lúc đó, tôi chợt nhớ đến câu thơ của nhà thơ Việt Phương: Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ. Thật hài hước và thật đau đớn. Nhà thơ đã nói đúng nỗi đau đớn ấy của chúng ta. Tại sao chúng ta lại có những năm tháng như thế? Tại sao? Dù có trả lời được thì tôi vẫn cứ phải hỏi tại sao? Tại sao? Vầng trăng, một biểu tượng của cái đẹp. Cái đẹp không thuộc quyền sở hữu của một quốc gia nào, của một quyền lực nào. Khi một quyền lực nào đó định chiếm hữu cái đẹp thì cái đẹp biến mất. Cái đẹp ấy luôn luôn ở trên mọi quyền lực, tỏa sáng chúng ta, ngự trị chúng ta và cứu rỗi chúng ta. Tôi ngắm trăng khi đang ở trên nước Mỹ. Và những người thân của tôi ngắm trăng từ mảnh đất cố hương tôi. Chúng tôi cùng nhận ra vẻ đẹp ấy và cùng chiêm ngưỡng. Tại sao chúng ta lại có những tháng năm như thế. Và tại sao chúng ta lại không nói như thế về những tháng năm tương tự của chúng ta. Sau chuyến đi Mỹ đầu tiên trở về, tôi về quê đúng dịp Trung thu, bác gái tôi, một người nông dân hơn tám mươi tuổi, gần như không biết chữ, hỏi: - Mỹ có rằm Trung thu không hở cháu? - Không có bác ạ. Nhưng họ cũng có trăng. - Trăng của họ thế nào? - Cả thế giới này chỉ có một vầng trăng thôi bác ạ. - Trăng đang ở giữa làng mình, xa thế mà họ cũng nhìn thấy à? - Khi trăng đang ở trên đầu mình thì nhiều nơi khác cũng thấy trăng trên đầu họ, bác ạ. - Lạ nhỉ! Tôi chỉ nói đến đó với bác tôi thôi. Bởi lúc đó, tôi nhận thấy gương mặt bác tôi vẻ tư lự. Bác tôi đã đang nghĩ tới một điều gì đó. Câu trả lời của tôi như vậy đã hoàn thành. Tôi có viết một truyện ngắn có tên: Chạy Trốn Khỏi Vầng Trăng. Chuyện kể về một người đàn bà góa chồng bởi chiến tranh. Chị cố trốn chạy khỏi tình yêu của một người đàn ông dành cho chị. Nhưng đêm đêm, vầng trăng lại mọc trên đỉnh đồi trước nhà chị. Trăng đẹp quá và chị không chịu nổi sự cô đơn và một điều gì đó thức dậy trong lòng chị. Chị không thể thờ ơ trước những điều kỳ diệu trong đời sống. Chị lao theo tiếng gọi của tình yêu. Những lời thị phi và cái phẩm hạnh phong kiến như đám mây đen vào khoảnh khắc nào đó lại che khuất vầng trăng trong lòng chị. Nhưng trăng lại hiện ra, lại tỏa sáng lộng lẫy, và chị lại lao ra khỏi nhà, vừa chạy chị vừa khóc trong hạnh phúc, trong đau đớn dằn vặt. Chị muốn có hạnh phúc, nhưng chị sợ hãi. Chị nghĩ: chỉ có một con đường là chị chạy trốn khỏi vầng trăng. Nghĩa là chị phải chạy trốn khỏi cái đẹp. Chị bỏ nhà vào sống trong hang núi tối tăm. Nhưng cái đẹp đã ở trong tâm hồn chị, vầng trăng luôn luôn ngự trị trong tâm hồn chị. Bởi thế, với những người như chị, càng ở trong tăm tối nó càng tỏa sáng rực rỡ. Trong một đêm mùa hạ ở quê, tôi cùng cha tôi ngồi ngoài sân rất khuya. Làng quê trong đêm trăng yên tĩnh trở nên huyền bí và mênh mang vô tận. Trăng vằng vặc trên sân nhà soi rõ cả những con kiến lang thang trong đêm. Thỉnh thoảng, những ngọn gió mùa hạ từ cánh đồng thổi về làm xôn xao những vòm lá trong vườn. Cả vòm cây lấp lánh như dát vàng. Và trong những con gió thổi về, tôi nghe tiếng cuốc từ cánh đồng xa buồn bã. Lâu lắm rồi tôi mới lại nghe tiếng cuốc. Có những năm tháng dài, những con cuốc không biết đi đâu. Tôi hỏi thì cha tôi bảo người ta săn bắn chim chóc nhiều quá đến chẳng còn một con nào. Nhưng đêm ấy, tôi lại được nghe cuốc kêu. Tiếng cuốc kêu đều đều suốt đêm. Kêu như lời của một kẻ tri âm. Kêu như một nỗi buồn đau dằng dặc. Kêu như đang xé từng mảnh phổi của mình. Kêu như những bước chân tiến dần về cái chết. Kêu như nỗi oan ức của mọi thời đại. Và kêu... Hai cha con tôi ngồi im lặng trong đêm trăng của làng quê. Cha tôi lúc đó đã tám mươi tuổi. Tôi đã ngoài bốn mươi. Cả hai người đàn ông ấy đã đủ thời gian sống để biết im lặng. Bỗng cha tôi quay về phía tôi và nói: “Nếu hai anh em con có tiền thì xây một chái nhà lên hai ba tầng, thành phố loạn lạc thì vợ chồng con cái về làng mà ở, nếu nước lớn thì có nơi mà chạy nước. Hai anh em cố mà làm sớm, con ạ.” Khi cha tôi vừa nói xong thì tôi cảm thấy một luồng khí lạnh tràn qua người tôi. Cha tôi là một người nông dân, sau này tham gia Cách mạng và về hưu, nhưng bản chất cha tôi vẫn là một người nông dân. Tôi chưa bao giờ nghe cha tôi nói những điều như vậy. Cha tôi không có ngôn ngữ ấy. Cái ông thường xuyên nói, nói cả đời, là đạo làm người. Ông nói một cách đơn giản và cụ thể. Những gì ông nói từ trước tới giờ không ngoài những việc cụ thể hàng ngày và với những người cụ thể trong làng, trong họ và trong gia đình. Câu nói của cha tôi đêm ấy là một thông điệp. Ai đó từ chốn cao xanh đã mượn cha tôi, một người già tám mươi tuổi, để truyền đi thông điệp ấy chăng? Sẽ có một thay đổi lớn lao hay một sự bất trắc khủng khiếp trong đời sống của chúng ta chăng? Có, tôi tin là có. Con người sẽ phải chịu những hậu họa khủng khiếp do chính con người gây ra. Khi cha tôi đi nằm vì ngồi lâu ông thấy đau lưng, tôi ngồi một mình giữa sân nhà giàn giụa ánh trăng. Những con kiến vẫn đi. Lúc nào những con kiến cũng vội vã. Chúng đi không ngưng nghỉ từ lúc sinh ra cho tới lúc chết. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy lũ kiến ngủ. Ngày còn bé, tôi hỏi mẹ: “Mẹ ơi, những con kiến không ngủ hở mẹ?” Mẹ tôi không trả lời được câu hỏi của tôi. Tôi ngồi im lặng trong tiếng cuốc kêu đều đều từ cánh đồng xa vọng về. Tôi đã kể câu chuyện về cha tôi cho một số người nghe. Nhưng tôi biết chỉ một hai người trong số đó suy nghĩ về câu chuyện ấy. Những người khác nghĩ tôi lãng mạn, nghĩ tôi bị bệnh tâm thần trong một giây khắc nào đó, nghĩ tôi là kẻ tuyệt vọng và có thể là kẻ hão huyền. Tôi không đợi chờ lòng tin của họ vào câu chuyện ấy. Nhưng với tôi, đó hoàn toàn là một thông điệp. Tôi đã nghe được thông điệp ấy và tôi có nghĩa vụ chuyển tiếp thông điệp ấy cho người khác. Tai họa sẽ giáng xuống đầu chúng ta bởi chính tội lỗi của chúng ta. Dù chúng ta vẫn ngày ngày đọc lời biện minh cho những tội lỗi ấy. *** Đã một lần cha tôi nói về việc xây dựng nhà cửa. Đó là năm 1986, khi tôi đang học ở Cuba. Tôi nhận được thư cha tôi. Trong thư có đoạn: “Bố vừa mới xây xong được chái bếp, để sau này bố có mất đi thì anh em có chỗ mà đun nấu.” Tôi đã rơi nước mắt khi đọc đến đoạn ấy. Cha tôi đi thoát ly hơn bốn mươi năm rồi về hưu. Ông trở về làng vì đấy là nguyện ước của ông. Nếu ở lại thành phố ông cũng không có một nơi nào để ở. Khi về hưu, ông được tặng một chiếc tủ đựng quần áo đánh vécni vàng như bôi nghệ có lẽ đóng bằng gỗ gạo, một loại gỗ mà tôi gọi là “gỗ giả dối” vì hầu như nó chẳng dùng được vào việc gì. Sau ba năm, chiếc tủ bị mọt gần hết. Cha tôi ngậm ngùi chẻ ra làm củi đun nhưng chỉ có khói mù mịt mà không có lửa. Sau này, những người khác làm quan quá sung sướng. Những người về hưu tay trắng như cha tôi tự an ủi: mình hy sinh làm cách mạng cho thế hệ sau sung sướng mà. Đúng, thế hệ những người cách mạng như cha tôi đã mang lại lòng tin bất diệt cho nhân dân. Tôi khó có thể tìm được những người cách mạng như thế sau thế hệ cha tôi. Vì thế khi về hưu, ông bắt tay nuôi lợn nái và dành dụm tiền nong để tám năm sau ông mới có cơ hội xây được gian bếp tạm tươm tất. Và ông hạnh phúc. Công việc xây dựng nhà cửa của cha tôi gần hai mươi năm trước là công việc chuẩn bị cho điều kiện sinh hoạt. Còn ý định xây dựng nhà cửa của cha tôi gần hai mươi năm sau là thông điệp về những tai họa của kiếp người một ngày nào đó có thể giáng xuống. PHỤ LỤC Bài thơ: Dưới trăng và một bậc cửa Tràn đến bậc cửa rồi. Những chiếc lá non mạ bạc Đang múc từng thìa trăng Những bóng cây say đổ vào nhau. Dạt theo những lớp sóng trăng Con dế mèn lãng mạn Con gián khát thèm Những mối tình đang đến và đang chia xa Những bối tóc góa bụa xổ tung cười ngất Những xé rách, những vá liền, những phân tán, những khô cong và những... Em đã đến trước trăng Em chỉ thở được trong khoảng đục của thời gian, không gian. Tràn qua bậc cửa rồi. Không thể nào tìm được người quen trong đêm nay Tôi bò qua bậc cửa nhà mình Con gián xòe xòe cánh bay Chuyển vận hành mông lung mang theo ổ trứng Vệt chói sáng ghê rợn và kỳ thú Càng xa... càng gắt... càng tê liệt Những rễ cây ân ái dưới đất nâu Sự ân ái phì nhiêu và rụng lá Nhân loại bày ra trong giấc ngủ mụ mị Càng mơ càng cuống bước chân Không có bậc cửa nào cho tôi bò qua. Những con sâu, những vệt sáng ngắn chảy từ gốc lên cành Chúng ngoan ngoãn liếm trăng trên những thìa lá mạ bạc Lũ trẻ còng queo ngủ Những dãy số đánh lừa và phản bội chúng Trong mơ chúng có liếm trăng trên vòm lá kia không? Sự cấu tạo trăng, sự cấu tạo côn trùng, sự cấu tạo người Sự cấu tạo nào nhiều máu hơn, sự cấu tạo nào nhiều bóng tối hơn Tội ác khe khẽ bế từ thiện ngủ mệt mỏi sang giường người khác Cơn mơ bàn chân trần tướp máu Đi trên những mảnh chuông vàng thánh thót Ngân trong cái lưỡi trăng chói sáng và sắc lẻm Lách vào hư vô nhựa chảy ròng ròng. Không thể nào tìm được em trong đêm nay Những ngôi nhà, những ổ đất nghi ngờ đóng cửa Dưới mái dạ sũng trăng Con Bống cái chửa hoang ngơ ngác và thường chết ngất Chỉ còn tiếng nước thánh thiện vang xa Niềm an ủi cuối cùng là sự kiệt sức Hai cánh tay tôi - hai vây cá rách tướp Dìu nỗi sợ chửa hoang đi tìm ổ đất buồn Chảy ướt nỗi buồn, chảy ướt niềm hạnh phúc Chảy ướt những gì nhân loại đang do dự Như một nồi bột bánh Đặc dần và bốc hơi trên mặt đất đói mềm Những con chó ngửa mặt tru trăng Không có chức năng canh giữ, không có cơn sốt dại, không có... Những cánh rừng đang khóc Linh hồn cây vục dậy từ ổ lá mục Mở ra đêm vũ hội bầy bọ chó Cố hương buồn rã cánh Cố hương mê mẩn và lạc đường Trong những cánh rừng đầy quỷ Không thể nào tìm được người quen trong đêm nay Đã tràn qua bên kia Những bầu vú tươi non trở lại Những hơi thở được đốt nóng trở lại Trên mảng tường ẩm mốc Bầy kiến lang thang theo tri giác của mình Con đường kiến - miên man cơn sốt Những con kiến tí hon với cái đầu vĩ đại Đi về đâu những điều đúng trong trăng Đi về đâu những điều sai trong trăng Và ôi, con dế mèn lãng du Hãy vì đồng loại mày trong đêm mê dại này mà đừng vuốt râu Chiếc đàn hình lá cỏ Bài ca xanh ngập ngụa lối mòn Không thể nào tìm được người quen trong đêm nay Tôi đã đánh mất tôi một nửa Tôi tự sinh cho tôi thêm một nửa Nửa nào có máu và nửa nào mất máu Hai bàn tay tôi hai chiếc thìa mạ bạc nham nhở Đang múc từng thìa trăng Tôi đói chưa bao giờ đói hơn Tôi khát chưa bao giô khát hơn Tôi khóc Những rễ cây chộp lấy tôi và nghiền tôi thành nước Tôi lao theo những thớ cây vùn vụt lên cành Không thể nào tìm được em trong đêm nay Tôi là bông hoa mướp cuối cùng của mùa hạ u mê rụng xuống Con cóc già lơ đễnh và tinh quái Nó vuốt trăng trên mặt nhìn tôi Bàn tay nó mềm và lạnh Sự khởi đầu bao giờ cũng giống sự vuốt ve. Bay qua... bay qua... Những đám mây mềm và ướt Chiếc khăn tay của người đàn bà Đẹp nhất và buồn nhất của thế gian này Đang thiêm thiếp ngủ trong sa mạc trăng Hình như có một bậc cửa cho tôi bò qua Đó là nơi sóng trăng đang vật vã. Rút từ Những người đàn bà gánh nước sông, NXB Văn Học 1995 NĂM Trong căn phòng một người bại liệt Năm tôi tám tuổi thì bà nội tôi ốm và nằm liệt giường suốt bốn năm cho tới khi chết. Bốn năm đó, chân tay bà tôi bất động. Nhưng đầu óc bà hoàn toàn minh mẫn. Bà tôi nằm trong một căn phòng có mái gác bằng tre. Cạnh giường bà tôi là một cửa sổ nhỏ mở sang vườn hàng xóm. Một chiếc ghế kê ở đuôi giường để bà tôi đi đại, tiểu tiện. Một chiếc ghế kê gần đầu giường dành cho khách khứa đến chơi. Lúc đầu, bà tôi còn để tóc dài. Mỗi lúc gội đầu cho bà, mẹ tôi để đầu bà sát mép giường và thả cho mái tóc chảy xuống đầy chiếc chậu thau đồng. Nhiều lần, bà bảo mẹ tôi cắt tóc cho bà. Mẹ tôi không nghe. Nhưng bà tôi hay đau đầu và bị chấy đốt. Và bố tôi quyết định cắt tóc bà. Bố tôi gói tóc bà vào một tấm vải sạch và ra một gò đất ngoài cánh đồng mai táng mái tóc ấy. Trong những năm tháng nằm bất động, bà tôi - một người đàn bà nông dân không biết chữ - bắt đầu tự ý thức về mình. Trước đó một người như bà tôi không mảy may ý thức về mình. Ý thức về bản thân mình của bà tôi không phải do học vấn dẫn dắt. Ý thức đó sinh ra từ sự biến mất của rất nhiều các hoạt động sống trước đó. Sự biến mất này đẩy con người vào một tâm lý hoảng loạn và đánh mất khả năng kiểm soát chính mình. Và thật kỳ lạ, trong những ngày đó, bà tôi rất muốn được nhìn thấy chính gương mặt mình. Tôi cầm một chiếc gương bé bằng bàn tay giơ lên cho bà tôi soi. Bà tôi nhìn vào gương giống như một con bồ câu soi mình trong chậu nước. Tôi thấy bà tôi thích thú và kinh hãi. Tôi chắc chắn một điều: bà tôi - một người bại liệt với bà tôi - người trong gương không hề quen biết nhau. Bà tôi không mảy may công nhận mình trong cái bản sao ở không gian phẳng của mặt gương. Bà tôi đã đúng. Điều này gần giống một đứa trẻ lên hai không thể xác nhận được nó khi nó nhìn ảnh nó hoặc nhìn nó trong gương. Nó chỉ có thể xác nhận lần thứ nhất hết sức mơ hồ khi trên tay nó cầm một cái kẹo hoặc một thứ đồ chơi quen thuộc. Và nó sẽ xác nhận nó rõ hơn khi một người là mẹ hoặc cha nó xuất hiện trước nó và cất tiếng nói. Bà tôi đã cố định nghĩa mình bằng dụng cụ - chiếc gương. Và tất nhiên, nó không mang lại kết quả gì. Tôi đã thử nghiệm các định nghĩa cái mà mình đinh ninh là biết quá rõ ràng - chính bản thân mình. Và khi tôi nhìn tôi trong gương, tôi hoàn toàn hoang mang. Sự hoang mang này mỗi lúc một tăng khi tôi cố thử lại nhiều lần nữa. Cũng như các họa sĩ vẽ chân dung chính họ. Và rất ít người thành công khi thực hiện định nghĩa chính bản thân bằng hội họa. Việc đầu tiên họ phải tìm một số nét để làm giống mặt họ. Những nét giống này chỉ là những ký hiệu đơn giản. Nếu họa sĩ tập trung quá nhiều những ký hiệu này và lấy đó làm mục đích, thì khi anh ta kết thúc bức chân dung tự họa, anh ta đã cắt đứt mọi quan hệ sống còn giữa anh ta và tác phẩm. Bà tôi đã thất bại trong việc kiếm tìm hình ảnh của mình trong chiếc gương. Ngay sau đó, dù chỉ là vô thức, bà tôi đã kiếm tìm sự hiện hữu. Không! Nó đúng là sự tồn tại của bà tôi. Bởi thế, bà tôi bắt đầu nói lan man đủ thứ chuyện từ sáng tới khi đi ngủ. Bà tôi không còn cảm giác gì với cơ thể bại liệt của mình. Nỗi sợ hãi không xác định được sự tồn tại của mình bằng những cảm nhận của thân xác khiến bà tôi phải dùng giọng nói đã trở thành tấm gương để bà tôi soi ký ức và ý thức sống của bà. Bà tôi nhận thấy sự hiển thị của mình trong giọng nói. Sự tồn tại này bây giờ lại đồng nghĩa với chân dung của bà tôi. Sự tồn tại ấy - chân dung ấy đã hiện lên bằng tiếng nói của bà tôi. Và chân dung của bà tôi được xây dựng nên bằng tiếng nói của người, đã tồn tại trong tôi mọi chiều của không gian, thời gian và mọi tầng suy ngẫm của tôi. Sau khi bà tôi mất đã nhiều năm, tôi vẫn có những buổi tối đứng im lặng trong căn phòng bà tôi nằm trước kia. Mọi đồ đạc đã thay đổi. Nghĩa là, mọi liên hệ mang tính chất giữa tôi và bà tôi và những phụ vật khác mang tính điều kiện đã bị xóa nhòa hoàn toàn. Nhưng tôi vẫn thấy bà tôi hiện hữu. Hiện hữu này không phải là hiện thực của thể xác mà là hiện thực của tinh thần bà tôi. Hiện thực của thể xác là một hiện thực bất động của đời sống. Nó giống như một cái chết được băng hóa. Còn hiện thực của tinh thần thì luôn chuyển động và sinh nở, và biến ảo. Và nó luôn tìm cách trở lại điểm đầu tiên của nó. Những câu chuyện được bà tôi kể liên miên trên giường bệnh trong suốt bốn năm lại không chỉ kể về bà tôi mà còn kể về những ám ảnh và trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến đời sống tinh thần của người. Bà tôi không hề có ý mù mờ hóa quá khứ của mình. Ngược lại, bà tôi đã dựng nên một cách sống động nhất lịch sử của mình. Hiện thực này, theo tôi, nó giống như hiện thực của một bài thơ. Năm 1995, tại một lớp tiếng Anh năm cuối cùng của đại học Huế, tôi cùng hai nhà thơ Mỹ đã dự lớp học này. Một sinh viên hỏi tôi thơ xuất hiện khi nào. Tôi đã lấy một ví dụ: Tôi đặt một viên phấn lên bàn và bảo họ hãy nhìn viên phấn. Sau đó tôi lấy một viên phấn khác đè gẫy viên phấn kia. Tôi nói với họ rằng tất cả những gì họ thấy đó là lịch sử. Sau đó tôi cất viên phấn đi và bảo họ hãy nhìn vào nơi có viên phấn để trước đó và nhớ lại. Nhớ gì cũng được. Và sự nhớ này không bao giờ có thứ tự. Nó luôn luôn có một sự kiện vô can chen vào. Lúc này văn xuôi xuất hiện. Cuối cùng tôi nói họ hãy nhắm mắt lại và nhìn vào nơi đã có viên phấn từ năm đến mười phút. Bạn hãy thực hiện một ví dụ tương tự và bạn thấy mọi việc xảy ra trong cái nhìn ấy thật kỳ lạ. Bạn không thể nào đoán trước được. Mỗi lần nhắm mắt và nhìn khác nhau thì mọi việc đều xảy ra khác nhau. Mặc dù sự kiện của viên phấn không thay đổi. Chỉ lúc này, thơ ca mới có khả năng xuất hiện. Tất nhiên, ví dụ trên là một ví dụ nhỏ và đôi lúc nó trở nên thô thiển. Nhưng không ai có thể chối cãi được là có một hiện thực của viên phấn và những sự kiện liên quan đến nó ở trong cái nhìn thứ ba kia. Trong căn phòng của bà tôi vào những buổi tối ấy, lúc đầu tôi tưởng là tôi nghe thấy tiếng bà tôi và tiếng của toàn bộ những nhân vật mà khi sống bà tôi đã kể. Nhưng sau đó tôi phát hiện ra đó là toàn bộ đời sống của bà tôi và của những mối liên hệ đến bà tôi. Đời sống ấy dựng bằng âm thanh. Văn bản của một tác phẩm giống như một cuộn băng lưu giữ những âm thanh của đời sống. Ý kiến này khó thuyết phục nhiều người nhưng chính lúc này, trong bạn đang vang lên những âm thanh ấy và nó không rời bỏ bạn. Và khi bạn đọc xong một bài thơ (cả trong im lặng) thì âm thanh đã rời bỏ bài thơ đó. Nó bước vào cuộc sống bạn và vang lên ở một không gian khác. *** Tôi đã từng nhìn một bức ảnh của một người họ hàng di cư vào Sài Gòn năm 1954. Bức ảnh được chụp với một công nghệ chụp ảnh hiện đại. Nhưng tôi không làm sao lập được mối quan hệ với người họ hàng kia. Năm 1980, tôi vào Sài Gòn công tác. Tôi tìm đến nhà người họ hàng ấy. Người đó đã mất. Anh con trai cả của ông bật ghi âm cho tôi nghe giọng nói của ông. Trong băng, ông kể về quê quán ông với những kỷ niệm. Tôi đã nghe cuốn băng ấy nhiều lần. Và toàn bộ lịch sử về ông được sống dậy. Cao hơn cả lịch sử ấy là số phận ông. Số phận của một đời sống đã xóa hết mọi dấu vết của hình thức. Nó tồn tại trong mọi chiều không gian. Nó giống như âm thanh nổi của các máy hát điện tử bây giờ. Tất nhiên chỉ là giống như thôi. Và tấm ảnh của ông lúc đó đối với tôi như một cái xác được nhập hồn. Giọng nói của bà tôi cũng như giọng nói của người họ hàng đã tạo dựng những mối liên hệ bí ẩn giữa họ và tôi. Giọng nói của họ vang lên dù không có một thông tin hay nội dung cụ thể nào, thì nó vẫn luôn như một quá khứ của đời sống vụt hiện. Khoảnh khắc của sự vụt hiện ấy dù chỉ lóe lên như một tia chớp thì nó cũng phô bày trước chúng ta một đời sống tươi ròng, thở hổn hển, mà chúng ta tưởng nó đã vĩnh viễn mất đi. Không gian chúng ta đang tồn tại bằng hình thể, ở đó như đêm tối dày đặc mà ta không nhìn thấy gì. Và khoảnh khắc của ánh sáng, của tia chớp làm cho chúng ta thấy toàn bộ đời sống và phong cảnh quanh ta. Nỗi cô đơn của ta trong đêm tối đã có nơi nương tựa và nó nhận ra con đường của nó. Charles Simic (nhà thơ Mỹ) viết: “Mục đích của bài thơ là cố gắng lưu giữ lại cho người đọc cái khoảnh khắc của đời sống mà họ không bao giờ tìm lại được nếu không có thơ.” Người ta hỏi Joseph Brodsky (giải Nobel Văn học năm 1987) rằng: “Bằng cách gì mà con người của một triệu năm sau hiểu được đời sống của chúng ta bây giờ?” Ông đã trả lời: “Bằng những bài thơ của chúng ta, ngoài ra không còn gì nữa.” Đúng vậy. Những thành tựu khoa học, những chủ nghĩa, những mối bất hòa xã hội v.v... trở nên ngớ ngẩn và vô nghĩa đối với con người của triệu năm sau. Nhưng linh hồn thì mãi mãi vẫn thế. Một bài thơ dù thế nào cũng phải mang tình thần tôn giáo. Tinh thần của tôn giáo luôn luôn thuộc về vũ trụ và mang tính vũ trụ. Những gì mang phẩm tính ấy đều có mẫu số chung. Vũ trụ đã quy chúng ta về một mà nhiều khi chúng ta không biết. Và một buổi tối khác lại đến. Tôi ở trong căn phòng bà tôi đã nằm suốt bốn năm bất động trên giường. Những âm thanh mơ hồ nào đấy trong căn phòng lại mang đến những gợi mở về một hình thức nào đó của vật chất đã mất. Tôi cảm thấy tôi đang lướt qua những khoảng tối trong nhà. Tôi ngửi thấy mùi trầu, mùi dầu cao Con hổ bà tôi vẫn thường dùng và mùi nước tiểu tràn ngập căn phòng. Tôi thấy cả một con chấy đang cố lẩn vào đám tóc bạc và dày của bà tôi. Hơn thế nữa, tôi thấy đời sống của bà tôi sau khi chết mà có lúc tôi gọi đó là tương lai của những kết thúc. Một đời sống mà nó không làm tôi ngưỡng vọng như con chiên ngưỡng vọng Chúa. Nó giải tỏa những đau đớn về tinh thần. Nó lập lại quan hệ của bà tôi với tôi - một quan hệ chứa đầy ý nghĩa của bản chất đời sống. Tôi không yêu bà tôi hơn bố tôi, hơn mẹ tôi (người con dâu hiếu thảo một cách kỳ lạ của bà tôi) và hơn cô ruột tôi. Nhưng bố tôi, mẹ tôi, cô tôi không bao giờ thấy bà tôi sau khi chết như tôi thấy. Bởi vì họ đang giữ mối quan hệ với bà tôi bằng những kinh nghiệm. Còn tôi giữ bà tôi bằng trí tưởng tượng vô cùng hoang dại, và bằng những cơn mơ bất tận, đầy nhạc tính bởi sự va chạm của những đồ vật quen biết và gắn bó trong tuổi thơ của tôi. *** Có một lần tôi đã nói rằng, bà tôi - một nông dân không biết chữ - là nhà văn đầu tiên và vĩ đại của tuổi thơ tôi. Khi bà tôi chưa bị bại liệt, có một số câu chuyện bà tôi kể cho tôi nghe, tôi không có được ấn tượng dữ dội như khi bà tôi nằm bất động trên giường. Bởi khi nằm bất động trên giường, bà tôi mất đi toàn bộ cảm giác về thể xác mình, nhiều lúc bà tôi không tin mình hiển thị trước mọi người. Bà tôi hoảng sợ với cảm giác mình đã trở thành vô hình. Cùng lúc đó, nhà cửa, đường sá, cánh đồng, dòng sông, trâu bò và những người thân quen, những thứ mà trước đó ngày ngày bà tôi tiếp xúc, trò chuyện và chứng kiến đang có nguy cơ biến mất (không gặp lại) vĩnh viễn. Trong trạng thái sợ hãi ấy, giọng nói bà tôi cất lên. Giọng nói được cất lên không với ý thức là để lưu giữ những điều kia, mà cất lên như sự kêu cứu trong phút giây tuyệt vọng nhất rằng toàn bộ con người mình sẽ bị hủy hoại. Chính vì trạng thái đó mà những gì bà tôi hỏi, bà tôi kể hiện lên trong một hình ảnh, một sức sống, một khát vọng cuồng dại giống như một cơn hỏa hoạn khổng lồ. Bà tôi nói những lời thật kinh dị về con lợn nái và những con lợn con bị chính lợn mẹ ăn thịt sau khi đẻ ra, về bệnh phù thũng của người chị họ gần 80 tuổi dùng da cóc dán vào những chỗ rỉ nước vàng với hy vọng khỏi bệnh, về những con cá trê trắng bệch trong một ngôi mộ ngập nước ven bờ đầm, về bà cô ruột của tôi chết vì viêm phổi năm 16 tuổi, v.v... Qua giọng kể của bà tôi, một đời sống khác của những gì tôi đã từng biết hiện lên. Khi còn nhỏ, đời sống khác ấy ám ảnh tôi và đôi lúc nó làm tôi sợ hãi, nhưng sau sự sợ hãi ấy tôi lại khát khao được nhìn thấy, được ở giữa đời sống khác ấy. Còn khi tôi lớn lên, đời sống khác ấy đặt trước tôi một câu hỏi và tôi đi tìm câu trả lời đến kiệt sức mà chưa thấy, hoặc nó chỉ lướt qua như một giấc ngủ trong lúc tôi đang điều khiển xe máy trên đường. Nó lướt qua nhanh đến mức tôi khó lòng thuyết phục nổi rằng mình đã ngủ. Một giấc ngủ sâu, dài nhất và giải tỏa toàn bộ mệt mỏi trong phần đời tôi đã sống. Nhưng nó lại đặt tôi sang một nhận biết khác. Và qua chính giọng nói ấy của bà tôi, tôi đã lưu giữ trọn vẹn những gì đã qua đời sống này ở làng quê của tôi. Một đời sống mà chẳng bao giờ mất đi như ta tưởng. Một đời sống làm chúng ta hình dung đầy đủ hơn về vũ trụ. Một đời sống đã hóa giải dục vọng của chúng ta. Nó đôi lúc mang đến cho tôi một cảm giác nếu tôi chém vào không gian một nhát dao thì ở đó một cái cây trong suốt bị đổ gục, một ngón tay trong suốt bị đứt lìa... Và kỳ diệu hơn, là trong thế giới trong suốt, hay trong cõi hư vô làm ta có thể chết vì khiếp sợ lại hiện lên một phong cảnh đầy đủ nhất. Phong cảnh ấy, đối với tôi, nó là một cõi. Cái cõi ta vừa làm đầy nó vừa không chiếm lấy dù chỉ là một điểm nhỏ nhất, mà chỉ có trí tưởng tượng kỳ diệu mới có thể lờ mờ nhận ra. PHỤ LỤC Bài thơ: Hồi tưởng tháng Hai Đó là tháng sực nức mùi thuốc bắc Những ngón tay xanh nhợt mép giường Và tháng Hai, đúng là tháng Hai, tôi nhớ tiếng khóc trong câu chuyện Những đồng tiền bà tôi giấu dưới chiếu ố vàng Trong bóng tối ấu thơ, tôi cần giọng nói Từ góc buồng ẩm mốc của bà tôi Cây đèn của ký ức ốm đau cạn dầu và sợi bấc Bò đến sát tai tôi nức nở nguyện cầu Đó là tháng bà tôi đời cắt tóc Cha tôi mang tóc bà tôi chôn xuống cánh đồng Cỏ mộ tóc tốt tươi trong bóng tối Tôi trốn bà ra khóc tóc bà tôi. Đó là tháng có tiếng ho vỡ đờm trong cổ họng Tôi thấy ngôi nhà xưa dựng bóng cuối khu vườn Mùi thuốc bắc tự tin bay ra từ bếp lửa Sống lại người đàn bà chết yểu tự ngàn xưa. Rút từ Bài ca những con chim đêm, NXB Hội Nhà Văn 1999 SÁU Một lối đi của thế gian Lúc nào cũng có một lối đi xuyên qua tất cả mọi lối đi. Nó dẫn chúng ta, chỉ trong chớp mắt, đến được nơi chốn mà hầu hết chúng ta không bao giờ đến được bằng những lối đi thông thường và có vẻ an toàn nhất mà chúng ta thường lựa chọn với một khoái cảm ngu ngốc là chúng ta đã khôn hơn những kẻ khác. Nhưng chúng ta không nhận ra lối đi đó. Và nếu có một lần nào đó, chúng ta bất chợt nhìn thấy nó hiện ra trước mắt thì đôi mắt chúng ta lại chứa đầy sự ngờ vực. Không phải chỉ vì chúng ta thiếu lòng tin mà là chúng ta thật sự không hiểu được nó. Thuở ấu thơ, tôi sống ở làng quê, nơi có những khu vườn hoang nối nhau từ đầu làng chạy đến cuối làng. Suốt ba năm liền, từ bảy tuổi đến mười tuổi, tôi mắc bệnh mộng du. Đấy là sau này mẹ tôi nói lại với tôi như thế. Suốt ba năm đó, bà nội tôi và mẹ tôi đã lo sợ cho tôi. Cứ đêm xuống, bà và mẹ tôi bắt đầu đóng cửa kĩ lưỡng và canh chừng tôi. Bà tôi để một chiếc thúng đựng đầy tro bếp để tôi đi tiểu vào đó mà không phải ra ngoài. Vì lần nào cũng vậy, hễ tôi ra ngoài đi tiểu là tôi bắt đầu đi xuyên qua khu vườn hoang trong khi mắt tôi vẫn nhắm nghiền. Mẹ tôi bảo lúc đó tôi vẫn đang ngủ. Trong những khu vườn hoang, cây cối mọc rậm rì. Nhưng chưa một lần nào tôi đâm vào một bụi cây gai hay va vào một thân cây. Thỉnh thoảng, lối đi đó lại chạy sát mép một cái ao hoặc một đầm nước. Tôi đã vừa ngủ vừa đi men theo bờ đầm mà chưa một lần nào rơi xuống nước. Ai đã dắt tôi đi xuyên qua những khu vườn hoang trong đêm tối một cách chính xác như vậy. Cuối cùng thì bà và mẹ tôi vẫn tìm thấy tôi đang nấp sau một gốc cây, đang ngủ bên một bụi cây gai hoặc đang nhắm nghiền mắt đứng sát mép đầm nước. Tôi được dắt về nhà và bị đánh mấy roi cho tỉnh lại. Lần nào cũng vậy, sau khi tỉnh dậy, tôi cũng không hề biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng một lúc nào đó khi đi qua khu vườn, tôi bất chợt nhìn thấy con đường chạy vòng vèo qua những bụi cây gai và những thân cây. Con đường đó hiện ra rõ nét như tôi đã đi trên đó hàng thế kỷ. Đó chính là con đường tôi vẫn đi trong những đêm tối với một đôi mắt nhắm nghiền. Tôi không có ý định nhờ các nhà tâm lý học hay các bác sỹ chuyên ngành thần kinh lý giải cho tôi vì sao tôi lại có thể đi trong khi ngủ. Nhưng một hiện thực cho thấy, cho dù khi mộng du, đôi mắt tôi nhắm nghiền thì chắc chắn có một đôi mắt khác mở to và rọi thẳng về phía trước con đường mà những bước chân tôi sẽ tới. Đôi mắt đó có thể là của ký ức. Bởi trước đó, khi thức, tôi đã đi biết bao lần trên lối đi đó và toàn bộ cảnh vật trên lối đi đó đã được ký ức hóa trong tôi. Việc ký ức hóa có phải là sự mã hóa sơ đồ con đường không? Đúng là vậy ở một góc cạnh nào đó. Nhưng nếu chỉ là sự mã hóa sơ đồ con đường một cách máy móc như người ta lập trình cho các máy móc tự động thì tôi sẽ bị rơi xuống hồ nước hoặc đâm vào một bụi cây khi con đường đó thay đổi ở một khúc nào đó và một bụi cây vừa mọc lên. Thực tế con đường chạy qua khu vườn hoang và men theo bờ đầm nước trong những năm tôi mắc bệnh mộng du đã có những thay đổi. Có một điều kỳ diệu đã hiện ra ở đây. Đó là con mắt của ký ức cũng lại chính là con mắt của tương lai - con mắt của trí tưởng tượng phong phú. Chính cái phần tương lai của con mắt ấy đã chỉ dẫn cho đôi chân của tôi đi qua những thay đổi của con đường. Và một điều tối quan trọng giúp tôi hay bất cứ ai đó đi qua con đường một cách kỳ diệu khi đôi mắt thông thường của chúng ta vẫn nhắm nghiền. Điều tối quan trọng ấy chính là sự không sợ hãi và thấm đẫm tinh thần lãng mạn của chúng ta. Khi đôi mắt trần tục của chúng ta mở ra thì có quá nhiều những trần tục cũng ùa vào và nhiều lúc làm chúng ta rối loạn. Những rối loạn này sinh ra trong chúng ta một điều vô cùng tồi tệ. Đó là nỗi sợ hãi. Chúng ta thật dễ dàng đi qua một tấm ván đặt trên mặt đất chỉ vừa hai bàn chân. Nhưng chúng ta lại không thể nào đi qua nổi một tấm ván rộng một mét hoặc rộng hơn nữa bắc qua hai tòa nhà cao tầng. Nỗi sợ hãi bị rơi xuống đã giết chết toàn bộ khả năng và cảm hứng của chúng ta. Một đứa trẻ chạy vô tư và thích thú dọc mép một ban công trên tòa nhà cao giữa bầu trời rộng lớn đầy gió trong khi chúng ta có thể vỡ tim vì kinh hãi. Bởi đứa trẻ kia không nghĩ tới những nguy hiểm có thể xảy ra với nó, còn chúng ta ngập tràn những sợ hãi và tính toán. Và bởi đứa trẻ kia đang tìm thấy niềm hứng khởi và bao điều lạ lùng đang mở ra theo từng bước chạy của nó. Còn chúng ta rúm mình lại bạc nhược và kinh hãi khi nghĩ mình sẽ bị giết chết. Nỗi đau đớn và trí tưởng tượng càng lớn thì sự sáng tạo của chúng ta càng kỳ diệu trong khi đó nỗi sợ hãi càng lớn thì cái chết của sáng tạo càng đến nhanh. Và bây giờ, không ít người viết trong chúng ta mang quá nhiều nỗi sợ hãi trong mình. Nỗi sợ hãi ấy làm cho trang viết của chúng ta trở nên tẻ nhạt và xa cách. Ngay cả trong trí tưởng tượng của nhà văn, chúng ta cũng không dám đập cánh một cách quyết liệt và vang dội để bay lên. Bởi chúng ta đang mở quá to, mở đến rách cả khóe mắt đôi mắt trần tục của mình. Chính vì thế, chúng ta nhìn thấy quá nhiều những danh vọng thường ngày, những lợi ích cá nhân, những khó chịu, những ghen ghét, những than thở... Và chính tất cả những điều đó đã làm nên nỗi sợ hãi của chúng ta. Hãy mở một đôi mắt khác trong sáng tạo của mình. Đôi mắt ấy sẽ dẫn chúng ta đi qua những con đường mà chính chúng ta đã từng chùn bước vì sợ hãi. PHỤ LỤC Bài thơ: Hoa tiêu Hãy nhắm mắt và đặt từng bước chân như đặt từng quân cờ nếu mở mắt anh sẽ chẳng thể nào đi qua cái quảng trường ấy được chúng sẽ lao vào anh - những kẻ rồ dại của thế kỷ trên xứ sở chúng ta Hãy đi thật nhẹ và tự đọc bản thảo cuốn sách anh viết trong sợ hãi mê dại một con rắn rúc vào đám tóc anh và nằm phục cái lưỡi anh lộ ra nó muốn giết anh khi đơn âm đầu tiên của anh phát nổ Hãy rẽ sang bên trái. Có nghe thấy tôi nói không. Nhưng đừng mở mắt chỉ hé mở một lần anh sẽ suốt đời không dám bước thêm một bước anh có nhớ cái cây ở ngã tư đường nơi có một kẻ đi theo anh và gã viết một con số vào chiếc sổ nhỏ hơn lòng tay của gã Hãy rẽ trái một lần nữa. Anh không nhìn thấy tôi đâu. Vì thế đừng ngoái lại và đừng mở mắt. Phía trước có rất nhiều kẻ đang lao tới nhưng chúng sẽ không đâm vào anh chúng vẫn nghĩ anh là một gã mù và chúng sẽ không tức tối vì nghĩ anh cản đường chúng Hãy rẽ trái một lần nữa. Chúng nhổ nước bọt trước mặt anh. Nhưng đừng cho chúng biết anh đã nhìn thấy Chúng phóng một cú đấm gió về phía mặt anh. Đừng giật mình. Anh phải làm như là một gã mù thực sự Nghĩa là anh không nhìn thấy gì kể cả khi một người yêu dấu của anh đang đứng khóc trước anh Nếu anh mở mắt ra, dù mở giống một cái chớp mắt, chúng sẽ rú lên trong sự khoái trá chúng đánh mất từ lâu giờ tìm lại được với bằng chứng là anh đã mở đôi mắt của mình và sự khoái trá ấy chi ăn một thứ thức ăn là máu Tôi vẫn đứng ở nơi anh xuất phát. Tôi không hề thay đổi dù một cái nhích chân Tôi đang dõi theo anh với đôi mắt mở không được phép nhắm lại dù cái khoảnh khắc nhắm mắt ấy chỉ bằng 1/1000 thời gian của một cái chớp mắt khoảng thời gian ấy đủ cho anh bị nghiền nát Anh lại phải rẽ trái một lần nữa. Đừng dừng lại ngờ vực. Và chuẩn bị rẽ trái một lần nữa Tôi đã thấy anh cố giấu bước chân lưỡng lự. Anh cố giấu sự nghi ngờ Nhưng tôi vẫn nhận ra bởi cái nuốt nước bọt của nặng nhọc và khó khăn anh. Nào, chuẩn bị rẽ thêm lần nữa. Nhưng vẫn là rẽ trái. Chỉ có rẽ trái. Đấy là lần rẽ trái cuối cùng Và bây giờ anh hãy mở mắt ra. Thị xã Hà Đông, đêm 4/10 Rút từ tập Châu thổ, NXB Hội Nhà văn 2012 BẢY Một người lính vẫn trên đường trở về quê mẹ Mặc dù người ta đã báo tử anh. Nhưng không có lí do nào khuất phục được ý nghĩ của tôi rằng anh vẫn sống và đang trên đường trở về quê mẹ. Làng quê của anh vẫn còn đó nhưng mẹ anh đã mất. Anh là Lê Xuân Nghiệp. Mẹ anh là cô tôi. Ở quê tôi chị hay em gái của bố đều gọi là cô. Cô tôi chỉ có mình anh. Anh nhập ngũ năm 1967. Năm năm sau người ta báo tử anh. Sau này cô tôi trở thành Bà mẹ Việt Nam anh hùng được Hàng không Việt Nam nhận nuôi dưỡng. Hồi bé tôi thích nhất là được lẽo đẽo theo anh đi câu sông vào mùa nước. Anh cắm một giàn mười chiếc cần câu. Lúc nào anh cũng cho tôi được quyền canh giữ một chiếc. Trong khi hai anh em tôi đứng trong mưa, dầm chân trong nước sông ngầu đục và mắt không dời những chiếc phao hoa ngô nổi bồng bềnh trên mặt sông thì anh lại kể đủ thứ chuyện cho tôi nghe. Hầu hết là chuyện anh cùng lũ bạn đi ăn trộm chuối, trộm ổi hay mít nhà ai đó trong làng. Mặc dù anh kể chẳng chuyện nào ra chuyện nào nhưng tôi vẫn bị cuốn đi bởi giọng kể của anh. Thỉnh thoảng tôi lại xin mẹ được ngủ với anh một đêm. Những đêm như thế, tôi nằm bên cạnh anh thỏa thuê nghe những câu chuyện trên giời dưới bể. Chốc chốc anh lại ngồi dậy và nói: “Tao sẽ đi bộ đội và trở thành anh hùng cho mà xem.” Ngày anh nhập ngũ tôi bám theo anh xuống tận huyện đội ở thị trấn Vân Đình nơi bây giờ ngập tràn những quán vịt cỏ nướng. Tôi hạnh phúc như phát điên khi được anh nhờ cầm giúp chiếc mũ cối có ngôi sao vàng gắn trên đó. Rồi anh Nghiệp trèo lên thùng xe tải của quân đội. Anh đứng trên thùng xe nhìn tôi và đưa tay vẫy. Lúc đó, tôi thấy anh uy nghi như một người anh hùng. Khi những chiếc xe tải cài đầy lá ngụy trang rời khỏi thị trấn thì tôi bật khóc. Lúc đó, tôi chẳng bao giờ nghĩ được rằng anh sẽ không bao giờ trở về nữa. Một năm sau ngày anh mất, cô tôi lấy tất cả những chiếc cần câu của anh mà cô vẫn cất kĩ trên gác bếp đưa cho tôi. Nhưng từ ngày anh mất tôi không còn thú câu sông nữa. Vào mùa nước, có lúc tôi cũng mang những chiếc cần câu anh tôi để lại ra sông. Nhưng tôi không nhìn đắm đuối vào những chiếc phao hoa ngô nữa. Tôi nhìn sang bên kia bờ sông và nghĩ lan man về anh Nghiệp. *** Một đêm tôi thức giấc bởi tiếng nói chuyện rì rầm. Tôi nhận ra cha tôi mới đi công tác về. Ông nói với mẹ tôi anh Nghiệp không hy sinh mà vẫn còn sống, đang được nuôi dưỡng trong một trại thương binh đặc biệt. Ông nói sẽ đi tìm anh Nghiệp. Sau này, khi tôi bắt đầu đi làm, cha mới kể cho tôi nghe chuyến đi tìm anh Nghiệp của ông. Một người bạn cha tôi đã mách anh Nghiệp còn sống và hiện đang ở một trại thương binh. Nhưng anh cụt hết cả hai tay hai chân và thêm những vết thương khác nữa. Cha tôi đã đến trại thương binh đó và nói chuyện với lãnh đạo trại xin gặp anh. Cha tôi lấy danh dự một Đảng viên hứa sẽ giữ mọi bí mật về anh. Lãnh đạo trại để cha tôi chờ ngoài phòng khách rất lâu. Sau đó họ gặp cha tôi và rất lúng túng thông báo cho ông biết không có ai tên là Nghiệp ở đó. Cha tôi nhận ra sự không bình thường trong khi nói chuyện của họ. Cha tôi vừa năn nỉ vừa nghiêm nghị nói với họ về chuyện gặp anh. Nhưng những người tiếp cha tôi vẫn một mực nói không có anh Nghiệp ở đó trong khi nước mắt họ giàn giụa. Cha tôi phải quay về nhưng ông vẫn tin anh Nghiệp đang ở trại thương binh đó. Năm nay cha tôi đã 87 tuổi và ông vẫn tin anh Nghiệp còn sống. Tôi biết có một số thương binh đã đề nghị tổ chức báo tử vì họ bị thương quá nặng. Họ không muốn làm đau lòng những người thân khi nhìn thấy họ. Và tôi tin anh Nghiệp cũng là một người như thế. Tôi nghĩ anh đã đề nghị tổ chức báo tử anh. Anh không muốn cô tôi nhìn thấy đứa con trai duy nhất của mình như thế. Thời gian mà lãnh đạo trại để cha tôi đợi lâu có thể là thời gian họ nói chuyện với anh Nghiệp. Và anh quyết không gặp cha tôi. Tôi biết anh vô cùng đau đớn khi phải quyết định vậy. Bởi lúc ấy, mẹ anh vẫn sống mà anh không dám nhìn thấy mẹ và không dám nghe tiếng mẹ. Mẹ anh đã khóc bao ngày bao tháng khi nghe tin anh hy sinh. Nhưng anh sẽ khóc hết cuộc đời khi nghĩ đến mẹ. Nỗi đau đớn ấy còn đau đớn hơn cả khi anh bị bom đạn cắt đứt hết chân tay mình. Khi còn sống, cô tôi không được biết câu chuyện cha tôi đi tìm anh. Những năm cuối đời cô tôi bị lẫn nhiều. Thỉnh thoảng cô tôi lại hỏi: “Thằng Nghiệp đi đâu mà chưa thấy về ăn cơm?” Lúc đầu mấy đứa cháu họ lại trả lời là chú Nghiệp hy sinh lâu rồi. Nhưng sau này cứ nghe cô hỏi vậy thì mọi người đều trả lời là chú Nghiệp ăn cơm và đi chơi rồi. Cô tôi lại lầu bầu: “Lại đi câu chứ gì. Suốt ngày câu với kéo.” Mỗi lần về quê, tôi lại đến qua thăm cô. Tôi cầm tay cô và xưng tên. Cô nhìn tôi rất lâu mà chẳng nói gì. Nhưng có lúc cô cũng nhận ra tôi và nói: “Tìm anh mày à? Đang ngoài bến sông ấy.” Ngày chính quyền địa phương làm lễ trao danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng cho cô, các cháu phải bế cô đặt cô ngồi lên ghế giữa đình làng. Suốt buổi làm lễ, cô tôi không nói gì. Có lẽ cô không còn nhớ được gì nữa. Sau đó đôi lần tôi thấy xe của Hàng không Việt Nam đỗ trước cửa nhà cô. Tôi biết họ mang tiền trợ cấp và quà về cho cô vì Hàng không Việt Nam nhận nuôi dưỡng cô. Cũng có lúc cô tôi hồi phục trí nhớ. Những lúc ấy, mấy đứa cháu lại lấy tiền trợ cấp Bà mẹ Việt Nam anh hùng đưa cho cô. Đã 35 năm trôi qua kể từ ngày anh Nghiệp mất. Nhưng thực sự chưa bao giờ tôi nghĩ anh đã chết. Có lẽ bởi câu chuyện anh vẫn sống ở trong trại thương binh đặc biệt mà cha kể lại cho tôi. Và lúc nào nghĩ đến anh, tôi vẫn thấy anh mặc bộ quân phục mới tinh của ngày nhập ngũ ở thị trấn Vân Đình, lưng đeo balô, đầu đội chiếc mũ cối có ngôi sao vàng vẫn đang đi bộ trở về quê mẹ. Trong khi chúng ta hối hả chen nhau với bao nhiêu sự hấp dẫn của danh vọng và vật chất thì bao người lính đã hy sinh và bao người lính như anh tôi không hề nghỉ một chút nào trên con đường hành hương trở về quê mẹ. Và bao giờ thì họ về đến quê mẹ của họ? Tôi không trả lời được câu hỏi này. PHỤ LỤC Bài thơ: Về những đồ vật có trên bàn viết Trong thầm thĩ mưa đêm, mùa hạ tạ từ Thức dậy cánh cửa gỗ hơn mười năm mệt mỏi Hơn mười năm, những viên an thần lăn đi rền rĩ Tiếng nghiến vọng vào giấc ngủ bỏ hoang Ngoài kìa, những vòm cây sũng nước như đàn bà mang thai tháng đẻ Nhưng tôi gần hơn chiếc kéo bằng inox sáng choang Tôi đánh cắp con bò tót đất nung, nhưng quên vuông vải Hai lá phổi tôi có thay thế được trò chơi? Trong thầm thĩ mưa đêm, mùa hạ bị thương lê gót trên mái nhà Tôi đi qua những cánh đồng ngôn ngữ khác nhau với cùng câu hỏi: Lông cánh của những con gà bị giết Có phủi sạch bụi trên những con gà bằng sứ kia không? Rút từ tập thơ Nhịp điệu châu thổ mới, NXB Hội Nhà Văn 1997 TÁM Beua Jack Gilley - một thi sỹ đích thực của nước Mỹ New York bán tất cả những gì có trên thế gian này. Một trong những sở thích của tôi là đi bộ lang thang dọc các đường phố New York đến khi nào không thể đi được thì bắt taxi về khách sạn. Có thể nói, hầu hết các ngôi nhà mặt tiền của biết bao khu phố ở thành phố khổng lồ nhất thế giới này đều là cửa hiệu. Và trong những cửa hiệu ấy, chúng ta có thể mua được mọi thứ: từ sách thánh đến tạp chí Playboy, từ hiệu sách chỉ bán thơ đến cửa hàng bán súng, từ những tấm bưu thiếp sang trọng đến những dụng cụ tình dục quái đản... Nhưng có hai thứ người ta bán để lại trong tôi hai cảm giác trái ngược nhau và đều làm cho tôi mất ngủ. Một cảm giác vùi tôi vào vực thẳm của sự kinh sợ. Đó là những cửa hiệu bán tất cả những gì phục vụ cho những người đồng tính. Một cảm giác che chở và đưa tôi thoát nỗi kinh sợ của vực thẳm kia. Đó là hình ảnh một chàng trai ngồi bán thơ của mình cũng trên đường phố ấy: phố Flecker. Đấy là hai mặt của tự do ở thành phố này. *** Tôi đã vào một cửa hiệu dành cho đồng tính nam và một cửa hiệu dành cho đồng tính nữ. Một Việt kiều là người quen của tôi hỏi: “Ông viết những chuyện này mà không sợ trong nước nghĩ xấu về ông à?” Tôi trả lời: “Không.” Thực ra cho đến bây giờ tôi mới đủ lòng tin để nói điều này. Mười hay mười lăm năm trước thì không dám viết thật. Thành phố Sidney của Australia có khu Kings Cross nổi tiếng của chủ nghĩa tình dục. Người thành phố Sidney nói: “Tất cả mọi người đều có quyền bước vào khu phố này. Vấn đề là khi từ khu phố đó bước ra người đó là ai và sẽ sống thế nào mới là điều quan trọng.” Đời sống tình dục càng ngày càng thay đổi ngay cả ở những nước theo đạo Phật. Việt Nam thì sao? Xin thưa đã thay đổi quá nhiều. Chúng ta không cần nói ra điều này vì mọi người đều biết cả. Cửa hiệu đồng tính nữ có tên Quà Sinh Nhật. Thực ra lúc đầu tôi nhìn thấy dòng chữ dễ thương ấy thì bước vào chứ không hề biết trong ấy bán những gì. Nhưng khi vào rồi thì mới kinh hoàng nhận ra người ta bán những gì trong đó. Họ bán tất cả các bộ phận sinh dục nam giới để cho những đồng tính nữ mua về ân ái cùng nhau. Ngoài ra là sách, băng hình, băng nhạc và tất cả những gì có thể phục vụ cho sinh hoạt tình dục của đồng tính nữ. Từng đôi, từng đôi nhân tình đồng tính bước vào. Không hề mặc cảm, không hề e thẹn, họ cùng nhau bàn bạc và cùng nhau chọn lựa đồ dùng cho cả hai chẳng khác gì hai vợ chồng đi mua sắm ngày chủ nhật ở Việt Nam. Cửa hiệu đồng tính nam cũng vậy. Những đôi đồng tính nam dắt tay nhau, ôm eo nhau đi chầm chậm, ngắm từng dãy hàng. Tạp chí đồng tính nam in hình các đôi nam giới khỏa thân ôm ấp nhau, hôn nhau đầy “say đắm”. Tôi thấy có cả những chàng trai châu Á. Và tôi tự hỏi trong những chàng trai châu Á kia có ai là người Việt Nam? Có thể có. Việc chụp ảnh khỏa thân, ảnh quảng cáo cho các tạp chí là một nghề ở Mỹ. Tất nhiên nó không phải là một nghề mà nhiều người chấp nhận. Tôi chỉ có thể đứng ở đó đôi ba phút và vội bước ra ngay. Hầu hết những người đồng tính ở Mỹ hay nhiều nước trên thế giới là do cách sống. Số người đồng tính từ lúc sinh ra chiếm một tỷ lệ thấp. Với những người ấy, tôi thấy thương cảm và muốn chia sẻ sự cảm thông với họ. Năm 1991, tôi vẫn đi làm trong một thời gian dài bằng xe buýt trên tuyến đường Hà Đông - Bờ Hồ - Bác Cổ. Và trên chiếc xe buýt ấy, tôi đã gặp một người đồng tính. Đấy là một người đẹp trai, lịch sự và hiểu biết. Chúng tôi thường gặp nhau trên xe buýt và trở nên quen nhau. Thỉnh thoảng anh lại cho tôi một bao thuốc nói của một người thân đi công tác nước ngoài về cho. Anh thấy tôi hút thuốc và anh để phần tôi. Rồi một hôm anh mời tôi về nhà chơi. Nhà anh ở phố Nam Đồng. Tôi đã đồng ý. Anh đưa tôi vào phòng anh. Chúng tôi nói chuyện về âm nhạc. Tôi nhớ anh đã mở đĩa hát cho tôi nghe một bản của Beethoven, về âm nhạc thì anh hiểu biết quá nhiều so với tôi. Anh nhìn tôi trìu mến. Rồi anh cầm tay tôi và nói: “Mình nói điều này có lẽ còn sớm và bất ngờ với Thiều, nhưng mình yêu Thiều.” Tôi nhớ gương mặt anh lúc đó vừa đau khổ, vừa tội nghiệp, vừa lo sợ, vừa chờ đợi. Thực ra tôi cũng không quá bất ngờ. Bởi khi bước vào phòng anh tôi đã bắt đầu nhận ra nhiều sự khác thường. Tôi đã từng biết những người đồng tính trong các quán cafe và quán ăn ở Cuba những năm trước đó. Tôi lặng người một lúc lâu. Tôi không có cảm giác sợ hãi. Nhưng một cảm giác rất lạ xâm chiếm tôi: một chút của căm ghét, một chút của hoang mang, một chút của thương cảm và một chút của buồn bã. Tôi nói với anh rằng tôi rất hiểu và thương anh, nhưng tôi không thể làm cách nào được. Rồi tôi đứng dậy chào anh và bước ra cửa. Tôi bỗng dừng lại khi nghe tiếng anh bật khóc. Ra khỏi nhà anh, tôi đi lang thang mãi về đến tận Bách hóa Thanh Xuân. Và từ ngày đó, tôi không đi xe buýt nữa. Có những lần đạp xe qua phố Nam Đồng, tôi nhìn thấy anh đang đứng đợi xe. Tôi muốn dừng lại để hỏi thăm và nói với anh một điều gì đó. Nhưng tôi đã không đứng lại. Tôi thấy anh chẳng có tội gì. Anh chỉ là nạn nhân của sự nổi giận của Đấng tạo hóa mà thôi. Anh khác những kẻ đồng tính khác. Có nhiều người, có nhiều nghệ sĩ đã lao vào cái trò chơi đồng tính. Họ không phải là nạn nhân như anh. Phần lớn họ là những kẻ thác loạn. Rời khỏi những cửa hiệu kia, tôi lại lang thang trên phố Becker. Và tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy một thanh niên ngồi trên vỉa hè bán thơ. Lúc đầu tôi tưởng anh là một người vô gia cư ngồi bên lề đường để xin tiền lẻ của những người qua lại như những người vô gia cư và nghèo khổ khác ở New York. Nhưng đến gần tôi nhận thấy trước anh là một tấm biển nhỏ có viết một dòng chữ: Poetry (Thơ). Dưới dòng chữ Thơ là giá một bài thơ. 25 cents per one poem (hai mươi lăm xu một bài), khoảng 5000 đồng. Anh sáng tác và chép tay những bài thơ của mình và đựng trong một chiếc giỏ. Tôi chào anh và ngồi xuống nhìn những bài thơ trong giỏ của anh. Một cảm giác thanh sạch dâng lên. Nó tẩy rửa tất cả những gì trong hai cửa hiệu đồng tính mà tôi vừa ra khỏi đó. Tôi hỏi anh mỗi ngày bán được bao nhiêu bài thơ? Anh nói có ngày anh đã bán được 100 bài và có ngày chỉ bán được dăm bài. Có những người tưởng anh dùng cách đó để ăn xin và họ ném cho anh mấy đồng xu lẻ rồi bỏ đi. Nhưng anh không hề tự ái hay nổi giận. Với anh, mỗi người cúi xuống cầm một bài thơ của anh và ra đi là một người bạn tri kỷ dẫu anh sẽ chẳng bao giờ gặp lại người ấy nữa. Họ là bạn đọc của anh. Bạn đọc của một thi sĩ không ai biết tên tuổi. Và số phận bài thơ không thuộc về anh nữa. Tôi đã từng tâm sự với một vài người bạn thi sĩ rằng: chúng ta đã xuất bản những tập thơ của mình. Những tập thơ của chúng ta có lúc bị một số kẻ nguyền rủa, có lúc bị rơi vào im lặng. Nhưng đấy không phải là nỗi buồn của chúng ta. Chúng ta hãy sống và sáng tạo. Hãy đọc câu thơ của Brosky: Chỉ cần khóc, chỉ cần hát và chỉ cần sống. Tất cả là vậy. Và đến một lúc nào đó, có thể khi chúng ta đã giã từ thế gian, có một cô bé hoặc một cậu bé trong đau buồn, trong tuyệt vọng vô tình rút cuốn sách của chúng ta trong một góc mờ tối và bụi bặm của một thư viện nhỏ, mở ra và đọc. Rồi cô bé ấy hoặc cậu bé ấy gấp cuốn sách lại và ngồi im lặng, ngước nhìn bầu trời qua ô cửa sổ. Một giọt nước mắt lấp lánh trên giương mặt đang sáng dần lên. Tất cả chỉ có thế. Sứ mệnh của chúng ta chỉ có thế. Lặng lẽ như ánh sáng. Sau một lúc trò chuyện với anh, tôi mua hai bài thơ của anh. Anh đưa chiếc giỏ đựng thơ của mình và bảo tôi tự chọn. Nhưng tôi không chọn. Anh mỉm cười và lấy ra hai bài thơ đưa cho tôi. Tôi mở ví lấy năm đô đưa cho anh và nói với anh không phải trả lại. Năm đôla chỉ mua được một phần tư cái đĩa DVD phim sex trong cửa hiệu đồng tính. Nhưng đấy là lòng tôn trọng của tôi đối với anh. Đấy như là một lễ vật nhỏ nhoi của tôi dâng tạ thi ca. Thi ca, hay nghệ thuật nói chung là vậy, thường bị những hưởng thụ, những tham vọng và những điên loạn của đời sống hiện đại che khuất. Nhưng nó vẫn ẩn khuất ở đâu đấy thật bình dị trong đời sống chúng ta và bất ngờ hiện lên. Nó làm cho chúng ta, như tôi là một ví dụ, thoát khỏi những kinh sợ của đời sống quá nhiều tăm tối, tham lam, độc ác, bạo lực và vô cảm. Trở về khách sạn, tôi mở hai bài thơ ra để đọc. Một bài có tên là Những Giấc Mơ Thức Dậy và một bài có tên Cửa sổ. Có lẽ chỉ rất ít người ở New York biết anh làm thơ. Và hai bài thơ của anh đã vạch ra một con đường dù vô cùng mỏng manh và mơ hồ nhưng sẽ dẫn ai đó đi qua được không ít nỗi kinh sợ của đời sống hiện đại tại nhiều thành phố trên thế giới như New York. Một thành phố như New York, nếu không mang trong mình một tinh thần như tinh thần của thi ca thì con người không thể nào đi qua được thành phố ấy. Hôm sau tôi trở lại tìm anh trên đường phố ấy. Tôi không tìm được anh. Anh lại lang thang đến một khu phố nào đó và ngồi xuống vỉa hè với những bài thơ của mình. Ngồi im lặng không mời chào với một tấm biển nhỏ đề một chữ Thơ. Anh làm vậy không phải để kiếm mươi đôla một ngày. Với sức khỏe của mình, anh có thể dễ dàng kiếm một công việc nào đó ở New York với giá ít nhất 8 USD một giờ để nuôi thân. Nhưng anh đã chọn con đường của anh. Đêm đêm anh làm thơ để khi ban mai thức dậy anh lại mang những bài thơ chép trên những tờ giấy mỏng manh, khiêm nhường đến cho những ai đó. Anh giống như một nhà truyền đạo im lặng. Anh tên là Beua Jack Gilley. Và trong tâm trí tôi, Beua Jack Gilley là một thi sỹ đích thực của thành phố New York. PHỤ LỤC Bài thơ: Người thổi kèn rắn Gửi một nhà thơ Tựa tường, ngồi ngủ như đã quên thế gian trên con đường ven biển. Chiếc kèn nằm bên đôi giày rách. Những gì đã diễn ra khoảng khắc trước đó giai điệu cây kèn, điệu múa con rắn, sự quyến rũ của nỗi sợ hãi? Không trí tuệ, không pháp thuật, không phải những đồng xu, chỉ sự điên rồ chăng? Của cả hai ta, không lời nào để nói. Không đánh lừa được ai kể cả kẻ đần độn, chỉ đánh lừa chính mình Ôi hai ta, những kẻ biết được sự trống rỗng trong âm nhạc ấy, trong vũ điệu ấy Cả nỗi hoảng sợ ấy cũng không có thực Bi kịch đến quá sớm khi ngày chưa tàn Trong chiếc giỏ nhiều màu không còn con rắn nào Nhưng không vì thế mà mọi chuyện kết thúc Vẫn tựa tường ngồi ngủ, hỡi người thổi kèn rắn, du khách đến rồi đi Bóng tối phủ lên người tấm vải đen, người vẫn không thức dậy Phải chăng chính nọc độc của kẻ trong cuộc đã tìm cách giải thoát cả hai khỏi sự trống rỗng, dối lừa từng nhân danh những điều huyền diệu. Karachi, tháng 10 năm 2002 Rút từ tập thơ Cây ánh sáng, NXB Hội Nhà Văn 2010 CHÍN Giấc mộng tôi kể không phải là một giấc mộng (Giấc mộng thứ hai) Một đêm tháng Mười lộng lẫy. Mùa màng đã thu hoạch xong. Thôn quê thanh sạch như chưa từng như vậy. Đó là một đêm trăng kỳ lạ. Chưa bao giờ tôi thấy dòng sông Đáy hiện lên như đêm nay. Hai bờ sông ảo huyền sương khói như chốn thiên thai. Cả dòng sông như một dòng vàng lấp lánh trôi và tỏa hương ngào ngạt. Một đám rước lớn từ mặt đê đi xuống bến sông. Trống chiêng cùng đàn sáo rộn vang. Tất cả những người chơi trong tốp nhạc đi đầu là những người đã từng chơi nhạc trong đội bát âm của làng. Sau tốp nhạc công là tất cả người làng tôi. Cả người sống và người đã chết từ xa xưa mà tôi chưa bao giờ biết. Đêm nay, tất cả trở về đầy đủ. Tôi nhận ra tất cả mọi người đều không mặc quần áo. Thân thể họ như được dát trăng. Cả đàn ông đàn bà đều không có bộ phận sinh dục trên người. Tôi vội nhìn thân thể tôi. Và tôi nhận thấy thân thể tôi cũng vậy. Trăng lấp lánh như nước trên da thịt mọi người. Những sợi tóc lấp lánh như những tia sáng. Tôi thấy bà nội tôi đi trong đám rước. Bà tôi vẫn nhai trầu như ngày xưa. Tôi chạy đến bên bà tôi và hỏi cả làng ra sông làm gì. Bà tôi cười và bảo: “Ngày xưa, từ thời nào chẳng rõ, làng mình có tục tắm sông sau vụ mùa bội thu và không tội lỗi. Vụ mùa năm nay làng bội thu và không có ai mắc tội lỗi gì nên hội tắm sông trăng lại được mở.” Hồi còn bé, đã có lần tôi nghe nói về hội tắm sông trăng. Nhưng tôi đã quên câu chuyện ấy từ lâu lắm rồi. Khi đám rước xuống đến bờ sông thì tôi nhận thấy từ dưới lòng sông và từ phía nguồn sông chảy ra biển từ từ hiện lên những con thuyền. Bây giờ tất cả thuyền xưa đã trở về. Những con cá cũng lũ lượt trở về. Chúng bơi thành từng luồng và sáng lấp lánh như những mảnh trăng. Người làng ùa xuống dòng sông. Những giọt nước lung linh như những viên ngọc trong chuyện cổ tích tung lên. Dòng sông như cũng dâng cao hơn cùng tiếng đàn tiếng sáo và chiêng trống tưng bừng. Những nhạc công ngồi bên mép nước say đắm chơi nhạc. Bầy trẻ rực rỡ té nước vào nhau và cười vang. Những người đàn bà xõa tóc trong nước. Tóc họ bồng bềnh tỏa sáng trên mặt sông. Những người đàn ông cười sáng lóa hai hàm răng bơi lẫn vào những dòng cá lấp lánh. Một tháng Mười như không phải của thế gian. Thóc vàng rực trên những cánh đồng và trên những sân phơi. Những ngọn gió của tháng Mười cũng như nhìn thấy được. Những ngọn gió giống như những dải lụa mỏng đến mơ hồ bồng bềnh trôi trên những cánh đồng, những ngôi nhà và dọc hai triền sông. Những con chuột đồng lấp lánh như những giọt nước lớn trôi trên những lối mòn ven chân đê. Dòng sông vẫn dịu dàng chảy ra biển cả. Những người làng vừa tắm trên dòng sông vừa hát. Tôi nhận ra những bài hát họ hát phảng phất những làn điệu chèo cổ. Có những lời bài hát tôi không hiểu nổi. Trong khi hát, các cô gái làng nâng trên tay họ những con cá chép vàng rực. Những con cá nhìn họ với đôi mắt lấp lánh. Rồi chúng trườn khỏi vòng tay các cô gái bơi xuống dòng nước. Chúng xòe xòe đôi vây và cái đuôi rực rỡ lượn quanh các cô gái làng thành những vòng tròn theo một điệu vũ. Những con trai từ đáy sông từ từ mở ra và thả những viên ngọc trai. Những viên ngọc trai lóng lánh từ từ nổi lên mặt sông quanh các cô gái. Tôi khỏa đôi tay như một đội vây cá bơi chầm chậm qua những những người làng. Ai ai cũng mỉm cười nhìn tôi. Tôi thấy hương thơm của nước sông tỏa ngào ngạt và thấm vào da thịt tôi. Trăng mỗi lúc như một xuống gần hơn. Vầng trăng hình như cũng mang hương thơm của mùa màng ấm áp. Bỗng có tiếng kêu thất thanh của một cô gái giữa dòng sông. Các nhạc công ngừng chơi nhạc. Trẻ con ngừng té nước. Những người đàn bà ngừng hát. Bầy cá ngừng bơi. Tất cả vụt trở nên im lặng. Mặt sông hình như chợt mờ đi. Một đám mây đen đang trôi về phía vầng trăng. Mọi người nhìn về phía cô gái vừa kêu. Và tất cả nhận ra một người đàn ông đang tiến về phía cô gái. Từ thân thể người đàn ông lông lá đen cứng đang mọc ra, bộ phận sinh dục đang mọc ra, miệng phát ra tiếng gầm gừ. Lông lá từ từ phủ kín thân thể người đàn ông. Gã đã dùng bạo lực hòng chiếm đoạt cô gái. Đến lúc đó, tôi nhận ra dòng sông đang dần dần đục và sẫm tối. Những người làng tắm sông dần dần biến mất. Đầu tiên là những người già và các nhạc công. Rồi đến những người đàn bà, các cô gái và bầy trẻ. Những con thuyền từ từ chìm xuống nước. Chỉ trong khoảnh khắc tất cả đã biến mất. Dòng sông vụt trở nên hoang vắng. Nước sông từ từ rút xuống. Rác rưởi từ đâu đó nổi lên dọc hai bờ sông. Tôi bị bùn sông chôn chặt đôi chân không thể nào rút ra được. Tôi gọi bà tôi. Nhưng bà tôi đã biến mất từ lúc nào. Tôi hoảng sợ kêu lên. Tôi tỉnh giấc và lần mò bật công tắc đèn đầu giường. Tôi nhìn đồng hồ thấy đã ba giờ sáng. Tôi ngồi dậy và thở nặng nhọc. Tôi đang ở trong căn phòng của khách sạn có tên là Iowa House Hotel ở thành phố Cedar Rapids. Cedar Rapids là thành phố nhỏ và yên tĩnh nhất ở Mỹ mà tôi được biết nằm trên một vùng đồi. Thành phố này có quá ít nhà cao tầng và phủ kín cây. Sau mấy ngày ở đây, tôi cứ cảm tưởng như thành phố này không bao giờ xảy ra chuyện gì đáng buồn. Tôi chưa gặp một vụ tai nạn giao thông nào, chưa gặp gã say rượu chửi bới lảm nhảm nào, chưa gặp cuộc ẩu đả nào... Bên cạnh khách sạn là sông Iowa. Suốt chiều qua tôi đi lang thang dọc bờ sông Iowa. Hai bờ sông giống như một công viên. Hoa nở rực rỡ khắp nơi. Gió xuân dào dạt thổi. Từng đôi vịt trời và thiên nga đang tắm trên sông. Thi thoảng tiếng kêu của một con thiên nga cất lên như tiếng kèn đồng, dội vào mặt nước và lan rộng dọc hai bờ sông. Trong lúc lang thang dọc bờ sông Iowa, tôi lại nhớ về con sông Đáy làng mình. Tôi rời giường ngủ đến bên cửa sổ. Ngoài kia sông Iowa lấp lánh trong ánh đèn đêm. Tôi nghe tiếng gió thổi qua những vòm lá của những cái cây bên bờ sông. Có lẽ giấc mơ của tôi sinh ra bởi nỗi nhớ con sông làng mình. Những năm tháng này, tôi thường mơ thấy cố hương và cố nhân. Giấc mơ về một đêm tắm trên dòng sông trăng có phải chính là giấc mơ về một cuộc sống thanh bình nơi thôn dã? Thực ra, đã có những khoảnh khắc thanh bình và lộng lẫy như thế nơi cố hương tôi. Những khoảnh khắc như thế thật ngắn ngủi nhưng có thật. Đã có những buổi chiều tháng Mười kỳ diệu nào đấy ở làng tôi trong ký ức. Tôi lang thang trên cánh đồng sau vụ gặt. Hương lúa mới vẫn còn thoang thoảng trên cánh đồng. Đất đai khô sạch. Tôi đã từng nằm trên một đống rạ khô trên cánh đồng và ngủ thiếp đi cho tới lúc hoàng hôn. Những giây phút ấy, tôi chẳng có gì phải phiền muộn, phải lo âu, chỉ còn lại cảm giác thanh sạch và yên bình bất tận. Đã có những đêm trăng tôi về quê nghỉ hè và ra sông tắm. Dòng nước trong đêm trăng mát rượi chảy qua tôi làm tan đi mọi ưu phiền, mệt mỏi. Nơi cố hương tôi, con sông là hình ảnh kỳ vĩ nhất trong ký ức. Tôi đã sinh ra và lớn lên bên dòng sông ấy. Bên triền sông là những gò đất mọc đầy những bụi hoa tầm xuân. Vào những ngày đầu xuân, khi nắng ấm hừng lên, hoa tầm xuân nở như không thể nào kìm giữ. Con gái làng tôi rất đa tình. Bà tôi bảo: “Vì lũ con gái từ bé đã ngắm sắc hoa tầm xuân, đã ngửi hương tầm xuân, chính thế mà lớn lên chúng đa tình.” Sau này đã lớn, khi nhớ đến câu nói của bà, tôi thường mỉm cười một mình. Tôi không biết câu nói của bà tôi có đúng như thế không. Nhưng tôi biết rằng, khi tôi lang thang trên những gò sông vào mùa hoa tầm xuân nở rộ, tôi không thể cầm lòng. Tôi muốn chạy về làng nói với bất kỳ cô gái làng nào đó rằng tôi yêu làng và yêu cô. Cảm giác ấy là có thật. Đôi khi đến tận bây giờ tôi vẫn mang cảm giác ấy. Và ngày ấy, tôi nghe nói ở khúc sông phía dưới khúc sông làng tôi có một cô gái trẻ ra sông tắm đêm bị một gã đàn ông cưỡng hiếp và dìm chết. Nghe nói gã đàn ông này từng theo đuổi cô gái nhưng bị cô chối từ. Oan hồn cô gái trẻ vẫn luẩn quẩn ở khúc sông. Người ta nói vẫn nhìn thấy một cô gái khỏa thân tắm giữa sông trong những đêm trăng đẹp. Oan hồn cô gái rủ rê những người đàn ông háo sắc và dìm chết họ. Những năm trước kia, không năm nào là không có những người đàn ông chết đuối ở khúc sông đó. Và thế là người ta không tắm ở khúc sông ấy nữa. Những người sống hai bên bờ của khúc sông ấy đã làm lễ cúng hồn cô gái và thả đồ cúng xuống sông. Một trong những nơi sinh ra nhiều câu chuyện kỳ bí là những xóm cư dân dọc hai bờ của những dòng sông. Hồi truyện ngắn Mùa Hoa Cải Bên Sông của tôi in ra, có người cho là tôi lấy cốt truyện của một tác giả nước ngoài nào đó và viết lại. Có lẽ họ đã rời bỏ làng quê trong tâm trí họ lâu quá rồi nên không còn nhớ gì về làng quê của họ nữa. Nếu chúng ta nghe và chúng ta nhớ thì chúng ta có cả một kho chuyện về làng quê của mình. Chúng ta không có những nhà văn lang thang và lắng nghe rồi ghi chép hoặc nhớ những câu chuyện như thế để rồi sáng tạo ra một câu chuyện với tư tưởng của mình. Chúng ta mất quá nhiều thời gian đi thực tế để viết về một người chăn bò, chăn lợn hay một giám đốc nông trường đã chăn nuôi hay sản xuất như thế nào. Văn học không bao giờ bỏ qua họ nhưng không phải viết về họ như thế. Khi bà tôi còn sống, bà tôi là một kho những câu chuyện kỳ bí mà tôi chưa hề thấy trong sách bao giờ. Sau cuốn sách này, tôi sẽ bắt tay vào viết cuốn sách về một số những người đã khuất của làng tôi. Họ là ông nội tôi, là bà nội tôi, là một người thợ may lừng danh chốn Hà Thành thuở xưa hiến toàn bộ tài sản cho cách mạng trở về quê sống trong nghèo khó một cách im lặng, là một gia đình Việt kiều ở Thái Lan đã trở về làng sống và chết thật kỳ bí chỉ còn lại một người, là một cô dâu thường mơ thấy """