"
Người Gia Sư - Anne Brontë PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Người Gia Sư - Anne Brontë PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Tác phẩm Tác giả
Người dịch Tủ sách
Thể loại
Phát hành NXB
THƯ VIỆN EBOOK (TVE-4U) Người Gia Sư - Agnes Grey Anne Brontë
Nguyễn Bích Lan
Văn học nước ngoài
Kinh điển phương Tây
LimBooks
NXB Hà Nội 08/2017
—✥—
EBOOK©VCTVEGROUP
20-05-2019
Chương I
Nhà xứ
Lịch sử đích thực chứa đựng những bài học tựa như những kho báu, mặc dù, trong một số trường hợp, kho báu không dễ phát hiện, và khi được tìm ra lại chẳng đáng kể về số lượng, đã cạn kiệt, phần cốt lõi đã teo tóp và hầu như chẳng bõ công cạy cục tìm tòi. Điều đó có đúng với lịch sử của tôi hay không, tôi không giỏi đánh giá cho lắm. Đôi khi tôi nghĩ có thể câu chuyện của mình có ích cho ai đó, có thể đem lại sự thú vị cho người khác, nhưng người đời có sự đánh giá của riêng mình. Được ít người biết đến, sau nhiều năm trôi qua, và với việc sử dụng một vài cái tên giả, tôi không sợ mạo hiểm, và tôi sẽ tiết lộ với các bạn những gì tôi thậm chí không tâm sự với ngay cả người bạn thân nhất của mình.
Cha tôi là một mục sư ở miền Bắc nước Anh, người đáng được tất cả những ai biết đến kính nể. Thời trai trẻ, ông sống khá thoải mái bằng thu nhập từ công việc của mình và chút sản nghiệp riêng. Mẹ tôi, người phụ nữ kết hôn với ông bất chấp sự phản đối của gia đình, là con gái của một địa chủ, và là một người ngoan đạo. Chẳng ích gì khi nói với bà rằng nếu trở thành vợ của một mục sư thì bà sẽ phải từ bỏ cỗ xe ngựa, cô hầu phòng, và tất cả những thứ xa xỉ, thanh nhã của sự giàu sang, điều mà đối với bà ít quan trọng hơn nhiều so với những thứ thiết yếu trong cuộc sống. Một cỗ xe ngựa và một cô người hầu tiện lợi thật đấy, nhưng, ơn Trời, bà có đôi chân để tự bước đi, có đôi tay để tự làm được những việc cần thiết của cá nhân. Một ngôi nhà đẹp và những mẫu đất không phải là những thứ chẳng đáng giá một xu, nhưng bà thích sống dưới mái nhà tranh cùng với Richard Grey hơn là
sống trong một cung điện với bất cứ người đàn ông nào khác trên đời này. Biết rằng tranh cãi, phản đối chẳng ích gì, cha của bà sau một thời gian dài, đã nói với đôi uyên ương rằng nếu thích thì họ cứ việc lấy nhau, nhưng, nếu như vậy, thì con gái của ông sẽ không được hưởng một mẩu của nả nào từ gia đình. Ông cụ hy vọng tuyên bố đó có thể dập tắt ngọn lửa tình yêu nồng nàn trong trái tim đôi trẻ, nhưng ông đã nhầm. Cha tôi biết quá rõ rằng giá trị vượt trội không dễ nhận thấy của mẹ tôi chính là kho báu ở trong con người bà và nếu bà ưng thuận về xây đắp tổ ấm của ông thì ông sẽ hân hoan đón nhận bà với bất cứ điều kiện nào. Trong khi đó, mẹ tôi thích lao động bằng đôi bàn tay của mình hơn là phải chia tay người đàn ông mà bà đã đem lòng yêu, người mà bà tình nguyện đem lại hạnh phúc, khi mà cả trái tim và tâm hồn của hai người đã hòa làm một. Vậy là tài sản thừa kế của bà đã làm căng cái ví của người chị gái khôn ngoan hơn, người đã kết hôn với một vị quan thái thú, còn bà đi chôn vùi bản thân trong ngôi nhà đơn sơ của vị mục sư giữa những ngọn đồi trong sự ngạc nhiên và thương hại của tất cả những người quen biết. Bất chấp tất cả những chuyện đã xảy ra, dù tính cách mạnh mẽ của mẹ tôi và những ý thích nhất thời của cha tôi, tôi tin rằng bạn tìm khắp cả nước Anh này cũng chẳng thể tìm nổi một đôi vợ chồng nào hạnh phúc hơn cha mẹ tôi.
Trong sáu đứa con của cha mẹ tôi, chỉ có chị Mary và tôi sống sót qua những trận đau ốm của thời sơ sinh và tuổi ấu thơ. Ít hơn chị của mình gần sáu tuổi, tôi luôn được coi là bé con, là cục cưng của cả nhà: cha mẹ, chị gái, tất cả hợp lại làm tôi hư − không phải bởi sự yêu thích mù quáng, khiến tôi trở nên cứng đầu và bất trị, mà bằng sự ân cần vô bờ bến khiến tôi trở nên quá yếu ớt và phụ thuộc − không thích nghi được với sự xô đẩy và những biến động của cuộc đời.
Mary và tôi được nuôi nấng trong sự ẩn dật của gia đình. Là một người mau chóng thạo việc nội trợ, hiểu biết, yêu lao động, mẹ tôi đích thân đảm nhiệm toàn bộ việc dạy dỗ chúng tôi, trừ môn tiếng Latin − môn học mà cha dạy chúng tôi − để chúng tôi thậm chí không khi nào phải đến trường. Không giao du với hàng xóm láng giềng nên sự giao thiệp xã hội duy nhất của chúng tôi với thế giới đều gói gọn trong một bữa tiệc trà trang trọng năm thì mười họa được tổ chức với các chủ trang trại và các thương gia của vùng lân cận (để tránh bị mang tiếng là quá kiêu, không giao du với hàng xóm), và một chuyến thăm hằng năm tới nhà ông nội của tôi, nơi chúng tôi chỉ gặp ông tôi, bà tôi, một bà cô chưa chồng, và hai hoặc ba ông bà cao tuổi. Thỉnh thoảng mẹ giúp chị em tôi giải trí bằng cách kể những câu chuyện và những giai thoại ngày thơ ấu của mẹ, những câu chuyện trong khi khiến chúng tôi vui cười một cách đáng ngạc nhiên, lại thường đánh thức − chí ít, trong tôi − một ao ước thầm kín muốn được thấy thế giới nhiều hơn nữa.
Tôi nghĩ hồi bé mẹ mình chắc hẳn rất hạnh phúc, nhưng mẹ dường như chưa bao giờ tỏ ra luyến tiếc quá khứ. Tuy nhiên, cha tôi, người có tính khí trầm lặng hơn hoặc bản chất không phải là người vui nhộn, thường bận suy nghĩ một cách thái quá về sự hy sinh mà người vợ yêu quý dành cho ông, và thường tự làm mình đau đầu bởi những kế hoạch quay như chong chóng, không bao giờ kết thúc nhằm làm tăng thêm chút tài sản khiêm tốn của mình, vì vợ con. Mẹ tôi cố gắng hết sức quả quyết với ông rằng bà hoàn toàn hài lòng về cuộc sống của mình và rằng, nếu ông dành dụm được chút ít cho các con thì cả gia đình chúng tôi thừa sức sống thoải mái ở hiện tại và trong tương lai. Nhưng tiết kiệm không phải là sở trường của cha tôi. Ông không rơi vào cảnh nợ nần (chí ít mẹ tôi cũng lưu tâm để ông không rơi vào cảnh đó), nhưng một khi cha tôi có tiền, ông phải tiêu. Ông thích thấy ngôi nhà
của mình đầy đủ tiện nghi, muốn thấy vợ con được mặc đẹp, được chú ý. Ngoài ra, ông sẵn sàng bố thí cho người nghèo, trong khả năng hoặc vượt quá cả khả năng của mình.
Thế rồi một người bạn tốt của cha tôi gợi ý cách để tăng gấp đôi tài sản của ông chỉ bằng một động thái, và từ đó làm cho nó tăng thêm nữa, đến mức vô kể. Người bạn đó là một thương gia, một người đàn ông có tài kinh doanh bị hạn chế vì thiếu vốn. Ông ta nói sẽ chia cho cha tôi một phần lợi nhuận không nhỏ, nếu như cha giao cho ông mảnh đất mà cha được thừa kế và chưa dùng đến, và ông hứa chắc như đinh đóng cột rằng dù sau này ông thu lời được bao nhiêu thì số tiền lời đó cũng được chia đều cho cha tôi, không thiếu một xu. Chút tài sản thừa kế nhỏ nhoi được bán đi một cách nhanh chóng, và toàn bộ khoản tiền được giao cho người bạn là thương gia ấy. Chẳng bao lâu sau ông ấy chất hàng lên tàu, chuẩn bị cho chuyến hải hành của mình.
Cha tôi vui mừng trước viễn cảnh tươi sáng của gia đình, và mẹ con tôi cũng vậy. Lúc bấy giờ, quả thực chúng tôi chỉ sống dựa vào khoản thu nhập từ chức mục sư của cha tôi, nhưng cha dường như nghĩ rằng không cần thiết phải tằn tiện trong chi tiêu đến mức ấy, vậy nên với một tấm phiếu mua hàng trả sau của tiệm nhà Jackson, một cái khác của hãng Smith, và cái thứ ba của hiệu Hobson, chúng tôi thậm chí sống thoải mái hơn trước. Mặc dù mẹ tôi quả quyết rằng chúng tôi nên chi tiêu trong giới hạn cho phép, bởi vì suy cho cùng các viễn cảnh về sự giàu có không thật chắc chắn, và rằng, nếu cha tôi tin tưởng vào tài xoay xở của mẹ thì ông không bao giờ cảm thấy mình phải gắng sức, nhưng ông không sửa mình được.
Chị Mary và tôi đã trải qua những giờ phút thật hạnh phúc khi chúng tôi ngồi thêu bên lò sưởi, hoặc dạo chơi trên những ngọn đồi phủ đầy cây thạch nam, hoặc nằm dài dưới tán cây bạch dương (trong vườn nhà chúng tôi chỉ
có cây bạch dương đó là đáng kể), nói về hạnh phúc tương lai của chị em tôi và của cha mẹ, về những gì chúng tôi sẽ làm, những nơi chúng tôi sẽ tham quan, những thứ chúng tôi sẽ sở hữu: không có nền tảng nào cho công trình tương lai vững chắc hơn sự giàu có mà chúng tôi mong đợi sẽ đến với mình qua sự thành công từ chuyện buôn bán của người thương gia kia. Cha của chúng tôi chẳng khác gì chúng tôi, chỉ có điều ông làm ra vẻ không sốt sắng đến thế: ông bộc lộ niềm hy vọng phơi phới, đầy lạc quan của mình trong những câu đùa và những cuộc dạo chơi vui vẻ khiến tôi luôn cảm thấy ông hóm hỉnh và khôi hài quá chừng. Mẹ tôi cười thật vui khi thấy ông sống hạnh phúc và tràn trề hy vọng như thế, nhưng bà vẫn sợ rằng ông quá hy vọng vào chuyện đó và có lần tôi nghe thấy mẹ thì thầm khi mẹ rời khỏi phòng: “Cầu xin Đức Chúa Trời đừng để nhà con thất vọng! Con không biết anh ấy có chịu đựng nổi sự thất vọng hay không!”
Cha tôi không chỉ thất vọng, mà thất vọng cay đắng. Cái tin chiếc tàu buôn mang theo toàn bộ gia sản của chúng tôi đã bị đắm, chìm xuống đáy biển sâu cùng toàn bộ hàng hóa trên tàu và vài thủy thủ cũng như vị thương gia xấu số đó ập đến với chúng tôi như sét đánh ngang tai. Tôi tiếc thương người thương gia ấy, tiếc cho sự sụp đổ của những lâu đài tưởng tượng mà chúng tôi đã xây nên, nhưng với sự vô tư của con trẻ, chẳng bao lâu sau tôi đã phục hồi tinh thần sau cú sốc.
Dẫu sự giàu có luôn có sức hấp dẫn, sự nghèo khổ lại không gây ra những nỗi kinh hoàng đối với một cô gái chưa trải nghiệm nhiều như tôi. Thật lòng mà nói, có gì đó khiến tôi hồ hởi trong ý nghĩ bị đẩy vào hoàn cảnh khó khăn, và phải tự xoay xở lấy. Tôi chỉ ước cha mẹ và chị Mary cũng có tâm trạng như tôi: thay vì than vãn vì tai ương trong quá khứ, tất cả chúng tôi có thể bắt tay vào khắc phục khó khăn và thử thách, sự túng thiếu hiện
thời của chúng tôi càng gay gắt, thì niềm vui vượt qua khó khăn mà sau này chúng tôi được hưởng càng lớn, và tinh thần vượt khó của chúng tôi càng được nâng cao.
Chị Mary không than vãn, nhưng chị ủ rũ triền miên, và chìm vào trạng thái chán nản mà tôi, dù cố gắng đến mức nào, cũng không vực chị dậy được. Tôi không thể khiến chị hướng tới mặt tích cực của vấn đề, và thực sự tôi sợ phải chịu trách nhiệm về sự bồng bột trẻ con, hoặc sự ngốc nghếch đến nỗi tôi thận trọng giữ hầu hết những ý nghĩ và ý tưởng lạc quan cho riêng mình, bởi tôi e rằng chúng có thể không được đánh giá đúng.
Mẹ tôi chỉ nghĩ đến việc an ủi cha tôi, lo trả các khoản nợ, tiết kiệm chi tiêu bằng mọi cách có thể, nhưng cha tôi thì hoàn toàn bị tai ương kia đánh gục: sức khỏe, sức mạnh, và tinh thần của ông đều sa sút sau tai họa đó, và ông không bao giờ có thể phục hồi hoàn toàn như trước. Mẹ tôi cố gắng đến tuyệt vọng làm cha vui bằng cách kêu gọi lòng mộ đạo, lòng dũng cảm, tình yêu dành cho vợ con nơi ông. Tình yêu dành cho vợ con cũng chính là nỗi đau khổ giày vò lớn nhất của ông: vì mẹ và chị em tôi mà ông tha thiết mong muốn gia tăng tài sản của mình − chính lợi ích của chúng tôi đã mang đến cho niềm hy vọng của ông sự tươi sáng chứa chan, và gây ra cho nỗi đau khổ của ông niềm cay đắng tràn trề. Giờ đây ông tự dằn vặt bản thân trong sự hối tiếc vì đã không nghe lời khuyên của vợ, lời khuyên mà chí ít cũng đã có thể tránh cho ông khỏi gánh nặng nợ nần chồng chất − ông tự trách mình một cách vô ích vì đã lôi mẹ tôi ra khỏi cuộc sống danh gia vọng tộc, nhàn hạ và giàu sang để rồi phải lao động cực nhọc cùng ông trong cảnh nghèo khó. Thật cay đắng và khổ sở cho tâm hồn khi ông phải chứng kiến người phụ nữ hiểu biết, xinh đẹp từng một thời được nhiều người theo đuổi và ngưỡng mộ ấy đã trở thành một bà nội trợ bận rộn, đầu tắt mặt tối, bị nỗi lo cơm áo gạo
tiền và những việc không tên làm cho cả đôi tay lẫn đầu óc bận liên miên không lúc nào ngơi. Thái độ tự nguyện của bà trong việc thực hiện mọi bổn phận, sự vui vẻ mà bà thể hiện khi bà chịu đựng những tai ương, và sự tử tế mà bà cho thấy khi bà kìm nén không hề trách cứ ông dù chỉ một lời bóng gió nhẹ nhất, tất cả những điều đó bị trạng thái tự dằn vặt bản thân của ông biến thành những yếu tố bổ sung cho sự đau khổ, sầu não. Tinh thần ủ dột làm tổn hại thể chất, và làm rối loạn hệ thần kinh, và kết quả làm trầm trọng thêm chính những vấn đề của tinh thần, cho đến khi sức khỏe của ông suy yếu nghiêm trọng và không ai trong chúng tôi có thể thuyết phục ông rằng hoàn cảnh của chúng tôi không u ám bằng nửa những gì ông nghĩ, không hoàn toàn tuyệt vọng như ông tưởng.
Chiếc xe ngựa bốn bánh của gia đình bị đem bán, cùng với bộ yên cương và chú ngựa béo tốt, dai sức − chú ngựa cưng mà chúng tôi đã từng quả quyết rằng sẽ nuôi nó đến ngày cuối cùng trong yên bình chứ không trao cho ai hết. Nhà để xe ngựa và chuồng ngựa bị bỏ lại trống trơn. Cậu nhỏ giữ ngựa, một người rất biết việc (và được trả công cao hơn những người làm công khác) và là một trong hai người làm công của gia đình, được cho nghỉ việc. Thay vì mua sắm quần áo mới, chúng tôi vá và sửa chữa những bộ đồ đang có sao cho chúng trông lịch sự hết mức có thể. Thức ăn của chúng tôi, luôn đơn giản, giờ đây được đơn giản hóa đến mức chưa từng thấy − trừ những món yêu thích của cha tôi. Than và nến được tiết kiệm một cách triệt để − hai cây nến giảm xuống còn một, và được dùng hết sức dè xẻn. Than được dùng tiết kiệm trong một vỉ lò sưởi để trống một nửa: nhất là khi cha tôi vắng nhà đi làm nhiệm vụ của một mục sư, hoặc nằm trên giường khi bị ốm − khi đó chúng tôi ngồi để chân trên vỉ lò, vun những mẩu than hồng lại với nhau, thỉnh thoảng mới thêm vào vài vụn than cám để giữ cho chúng
khỏi tàn. Với những tấm thảm cũng vậy, theo thời gian chúng bị sờn rách, và chúng tôi phải vá, mạng chúng nhiều hơn vá quần áo của mình. Để tiết kiệm khoản tiền thuê người làm vườn, chị em tôi tự làm lấy. Mẹ và chị gái tôi tự lo toàn bộ việc nấu nướng và nội trợ mà một chị hầu gái cũng không dễ dàng lo liệu được. Bản thân tôi đôi khi cũng giúp được chút ít: chỉ một chút thôi bởi vì mặc dù tôi tự đánh giá mình là một phụ nữ thực thụ, trong mắt cha mẹ và chị gái, tôi vẫn là một đứa trẻ, và mẹ tôi, giống như những phụ nữ tháo vát đảm đang nhất, không được trời ban cho những cô con gái nhanh nhẹn, bởi vì bản thân là một người tháo vát và nhanh nhẹn, bà không bao giờ đủ tin tưởng để giao phó việc của bà cho người được ủy quyền của mình, mà ngược lại, sẵn sàng hành động và suy nghĩ thay cho những người khác, và hễ có bất cứ việc gì cần phải làm là y như rằng mẹ có xu hướng nghĩ rằng không ai có thể làm việc đó tốt như mình. Vậy nên bất cứ khi nào ngỏ ý muốn giúp, tôi đều nhận được câu trả lời là: “Không, con yêu, con thực sự không thể làm được đâu − không có gì ở đây con có thể làm được hết. Hãy đi giúp chị của con đi, hoặc rủ chị con đi dạo − hãy nói với chị rằng nó không được ngồi nhiều và ở lì trong nhà như vậy − cứ như vậy nó sẽ bị suy nhược đấy.”
“Mary, mẹ bảo em đến giúp chị, hoặc rủ chị đi dạo. Mẹ bảo nếu chị cứ ngồi lì trong nhà như vậy, thì chị sẽ bị suy nhược đấy.”
“Agnes, em không giúp chị được đâu, và chị không thể đi dạo cùng em được − chị còn nhiều việc phải làm.”
“Vậy thì hãy để em giúp chị.”
“Em thực sự không thể giúp chị được đâu, bé con ạ. Hãy đi tập đàn đi, hoặc ra chơi với con mèo con đi.”
Luôn luôn có đầy việc khâu vá cần phải làm, nhưng tôi không được dạy cắt một tấm áo hay một chiếc quần, chỉ được giao cho việc khâu viền và
khâu nối đơn giản. Ngay cả trong khâu vá tôi cũng có rất ít việc để làm bởi vì mẹ và chị tôi quả quyết rằng họ tự làm dễ hơn nhiều so với việc chuẩn bị các thứ cho tôi làm, ngoài ra, họ muốn tôi theo đuổi việc học hoặc giải trí − đã đến lúc tôi phải ngồi cắm cúi vào bài vở như một mệnh phụ trang nghiêm khi con mèo cưng của tôi đã trở thành một con mèo già điềm tĩnh. Trong hoàn cảnh đó, dù tôi không được việc hơn một cô gái õng ẹo, sự lười biếng của tôi không phải là hoàn toàn không có căn cớ.
Qua tất cả những khó khăn của gia đình mình, chỉ một lần duy nhất tôi thấy mẹ phàn nàn về sự thiếu thốn tiền bạc. Mùa hè đến, mẹ bảo tôi và chị Mary: “Thật đáng ao ước một chuyến đi nghỉ mát ở biển cho cha các con. Mẹ tin rằng không khí biển và sự thay đổi cảnh quan sẽ có lợi vô kể cho ông ấy. Nhưng các con thấy đấy, chúng ta không có tiền”, mẹ nói thêm và thở dài. Cả hai chị em tôi đều vô cùng mong muốn chuyến đi đó được thực hiện, và rất tiếc khi biết đó là điều bất khả thi. “Ôi chao”, mẹ nói, “phàn nàn cũng chẳng ích gì. Mẹ con mình phải làm việc gì đó để thực hiện được kế hoạch ấy chứ. Mary, con vẽ đẹp đấy. Con nghĩ sao về việc vẽ vài bức tranh đẹp bằng màu nước như con đã vẽ rồi đóng khung chúng và thử gửi chúng tới một nhà bán tranh hào hiệp có thể đánh giá đúng chất lượng của chúng?”
“Mẹ, con sẽ rất vui nếu mẹ nghĩ chúng có thể bán được.”
“Dù sao cũng đáng để thử con ạ. Hãy cứ thử vẽ đi, và mẹ sẽ cố gắng tìm người mua.”
“Con ước mình có thể làm được việc gì đó”, tôi nói.
“Agnes! Ai mà biết được chứ? Con cũng vẽ giỏi mà. Nếu con chọn một đối tượng đơn giản thì mẹ dám nói rằng con có thể tạo ra một bức vẽ mà tất cả chúng ta sẽ tự hào để trưng bày.”
“Nhưng con có dự định khác trong đầu rồi mẹ ạ, và con đã ấp ủ nó từ lâu
rồi, con chỉ không thích nói ra mà thôi.”
“Thật ư! Nói cho mẹ biết dự định của con là gì đi.”
“Con muốn làm gia sư.”
Mẹ tôi “ồ” một tiếng đầy ngạc nhiên, và cười. Dừng việc đang làm dở vì ngạc nhiên, chị tôi kêu lên. “Agnes, em làm gia sư! Em đang mơ gì vậy hả?” “Ồ, con chẳng thấy việc đó có gì ghê gớm, to tát cả. Con không dám nói mình có thể làm gia sư cho những cô gái đã lớn, nhưng con chắc chắn có thể dạy những bé gái nhỏ tuổi và con thích làm việc đó lắm. Con rất thích trẻ con. Hãy để con thực hiện dự định của mình, mẹ ạ!”
“Nhưng, con yêu, con còn chưa biết tự chăm sóc mình nữa là. Và việc coi sóc những đứa trẻ nhỏ tuổi cần nhiều khả năng suy xét và trải nghiệm hơn đấy.”
“Nhưng mẹ ơi, con đã hơn mười tám tuổi rồi, con hoàn toàn có thể tự chăm sóc bản thân, và cũng có thể chăm sóc người khác. Mẹ mới chỉ biết đến một nửa trí khôn và sự cẩn thận mà con có thôi, bởi vì con chưa bao giờ cố thể hiện.”
“Hãy tưởng tượng xem em sẽ làm gì ở một ngôi nhà toàn những người lạ mà không có mẹ và chị ở đó nói và làm thay em − với một bầy trẻ con phải để mắt tới, và không có ai ở đó để cho em lời khuyên? Em thậm chí sẽ không biết phải mặc gì”, chị Mary nói.
“Bởi vì em luôn làm những gì chị sai bảo nên chị nghĩ em không có khả năng suy xét của riêng mình, nhưng chị cứ thử mà xem − đó là tất cả những gì em yêu cầu − chị sẽ thấy em có thể làm được những gì.”
Đúng lúc đó cha tôi bước vào và chủ đề mà chúng tôi đang bàn tới được giải thích cho ông nghe.
“Gì cơ, Agnes bé bỏng của tôi đi làm gia sư ư!” Ông kêu lên và dù thất vọng, ông bật cười trước ý tưởng đó.
“Đúng vậy, cha ạ, cha đừng phản đối nhé. Con thích làm việc đó lắm và con chắc chắn mình có thể làm một cách vui vẻ.”
“Nhưng, con ạ, chúng ta cần con.” Và mắt ông ngấn lệ khi ông nói thêm: “Không, không! Chúng ta gặp khó khăn nhưng chắc chắn chưa đến mức phải làm như thế đâu.”
“Đúng vậy!” Mẹ tôi nói. “Chưa đến mức phải làm như vậy đâu. Đó chỉ là ý thích nhất thời của con bé thôi. Vậy nên con phải cẩn thận khi nói năng, con gái bướng bỉnh của mẹ ạ, bởi vì dù con đã sẵn sàng rời xa chúng ta, thì con cũng biết rõ chúng ta không thể xa con.”
Ngày hôm đó tôi im lặng, và những ngày sau đó cũng vậy, nhưng tôi không từ bỏ ý định của mình. Chị Mary đã vẽ được một vài bức tranh, và chị làm việc rất tập trung. Tôi cũng có những bức vẽ của mình, nhưng trong khi vẽ, tôi nghĩ đến những chuyện khác. Vui biết nhường nào nếu tôi được làm gia sư! Được đi ra thế giới, bước vào một cuộc sống mới, được sống tự lập, được sử dụng những khả năng chưa được dùng đến, được thử những nguồn sức mạnh chưa được biết đến của mình, tự kiếm sống, làm điều gì đó để an ủi và giúp đỡ cha mẹ cùng chị gái, ngoài việc miễn cho họ việc lo cơm ăn áo mặc cho tôi để cha tôi thấy Agnes bé bỏng của ông có thể làm được những gì, để thuyết phục mẹ và chị tôi rằng tôi không hoàn toàn vô dụng, thiếu óc suy xét như họ nghĩ. Được tin tưởng giao cho việc chăm sóc và dạy dỗ các em bé thật thú vị biết chừng nào! Dù người khác nói gì thì nói, tôi vẫn cảm thấy mình có đủ khả năng cho việc đó: ký ức rõ ràng về suy nghĩ của tôi trong thời thơ ấu sẽ là sự dẫn đường chắc chắn hơn cả những chỉ dẫn của người cố vấn chín chắn nhất. Tôi đặt mình vào vị trí của những đứa trẻ ở tuổi
của chúng, và tôi sẽ biết cách mau chóng chiếm được tình cảm và sự tin cậy của chúng, cách đánh thức sự ăn năn khi mắc lỗi, cách khích lệ những đứa trẻ nhút nhát và an ủi những đứa trẻ gặp chuyện buồn, cách làm cho đức hạnh được thực hành, kiến thức được khao khát, và tôn giáo trở nên thú vị và dễ hiểu.
Một công việc thú vị!
Dạy những ý tưởng cách đâm chồi, nảy nở!
Uốn những nhành cây non, và theo dõi những chồi mới nhú lên từng ngày!
Chịu ảnh hưởng bởi nhiều sự thúc đẩy, tôi quyết tâm giữ ý định của mình. Mặc dù nỗi sợ làm mẹ giận, làm cha buồn đã ngăn tôi gợi lại chủ đề ấy trong vài ngày sau đó. Cuối cùng tôi lại nói chuyện riêng với mẹ, và với ít nhiều khó khăn, tôi đã khiến mẹ hứa sẽ ủng hộ tôi. Sau đó tôi giành được sự đồng ý miễn cưỡng của cha, và mặc dù chị Mary của tôi vẫn thở dài tỏ ý không tán thành, người mẹ tốt bụng của tôi đã bắt đầu tìm kiếm một chỗ để tôi đến làm gia sư. Bà viết thư cho họ hàng của cha tôi, tham khảo các tin quảng cáo trên báo − dò hỏi những người họ hàng đằng nhà đẻ mà lâu rồi bà không liên lạc: vài bức thư xã giao là tất cả những gì bà nhận được kể từ khi bà lấy chồng, và bà không hề gặp lại những người thân của mình lần nào. Nhưng sự tách biệt với thế giới của cha mẹ tôi toàn diện và kéo dài đến mức nhiều tuần trôi qua chúng tôi mới tìm được một trường hợp có nhu cầu tìm gia sư. Cuối cùng, tôi mừng quýnh khi biết tin mình được thuê làm gia sư cho những đứa con của một bà Bloomfield nào đó, người mà bà cô Grey nghiêm nghị và tốt bụng của tôi đã quen biết từ hồi còn trẻ, và được nhận xét là một người phụ nữ rất tử tế. Chồng của bà Bloomfield là một thương gia đã kết thúc sự nghiệp kinh doanh sau khi tích lũy một khối tài sản lớn, nhưng
không thể bị thuyết phục để chi ra một khoản tiền công vượt quá hai mươi lăm đô la cho sự giáo dục dành cho các con mình. Tuy nhiên, tôi vui vẻ chấp nhận mức lương đó hơn là từ chối làm việc cho nhà ấy − trong khi cha mẹ tôi tính đến việc tìm một chỗ khác khả dĩ hơn.
Nhưng phải mất vài tuần để tôi chuẩn bị cho việc đi làm gia sư. Những tuần ấy đối với tôi sao mà dài thế! Tuy nhiên đó là những tuần hạnh phúc − tràn ngập niềm hy vọng tươi sáng và những mong đợi mãnh liệt. Với sự hào hứng đặc biệt, tôi phụ giúp việc may quần áo mới cho mình, và sắp xếp tư trang cho những chiếc rương để mang theo! Nhưng cũng có một nỗi buồn len lỏi vào sự chuẩn bị bận rộn đó, và khi việc đó được hoàn thành − khi tất cả đã sẵn sàng để tôi lên đường vào ngày hôm sau, khi đêm cuối cùng tôi ở nhà đã đến − cảm giác đau khổ dường như dâng lên trong tim tôi. Những người thân yêu nhất của tôi trông thật buồn rầu, và ai cũng nói những lời thật ân cần khiến mắt tôi rớm lệ: nhưng tôi vẫn giả vờ vui vẻ. Tôi đi dạo với chị Mary lần cuối trên cánh đồng hoang, đi dạo lần cuối trong vườn, và quanh nhà. Tôi cùng chị cho những con chim bồ câu ăn lần cuối − những con vật xinh xắn đã trở nên thân quen với chúng tôi tới mức đến mổ thức ăn ngay trên tay chúng tôi. Tôi vuốt ve những tấm lưng mềm mượt của chúng thay cho lời tạm biệt khi chúng sà vào lòng tôi. Tôi hôn trìu mến đôi bồ câu đuôi quạt mà tôi đặc biệt yêu thích. Tôi chơi bản nhạc cuối cùng trên cây đàn piano cũ kỹ quen thuộc, hát bài hát cuối cùng cho cha tôi nghe. Tôi hy vọng đó không phải là bài ca cuối cùng mà là bài ca cuối cùng sau một thời gian dài đối với tôi. Và có lẽ, khi tôi trở về làm những điều đó một lần nữa, cảm giác của tôi sẽ khác. Hoàn cảnh có thể sẽ thay đổi, và ngôi nhà có thể sẽ chẳng còn như xưa nữa. Người bạn nhỏ của tôi, chú mèo cưng chắc chắn sẽ thay đổi. Nó đang lớn, chẳng bao lâu nữa sẽ chẳng còn là một con mèo con
và khi tôi trở về, thậm chí trong chuyến thăm vội vã vào dịp Giáng sinh, nó có thể đã quên cả người bạn chơi của mình lẫn những trò tinh nghịch vui vẻ. Tôi nô đùa với nó lần cuối, và khi tôi vuốt ve bộ lông mềm mượt của nó, trong khi nó nằm cuộn tròn trong lòng tôi, nó dường như cảm nhận được nỗi buồn mà tôi không dễ gì che giấu được. Sau đó vào giờ đi ngủ, khi tôi cùng chị Mary lui về căn buồng nhỏ yên tĩnh của chúng tôi, nơi những chiếc ngăn kéo tủ của tôi đã trống không, và các ngăn giá sách của tôi cũng trống không − nơi, mà sau đó, chị sẽ phải ngủ một mình, trong sự cô đơn buồn bã, như chị diễn tả − lòng tôi buồn hơn bao giờ hết. Tôi cảm thấy như thể mình thật ích kỷ và đã sai lầm khi khăng khăng bỏ chị mà đi, và khi tôi quỳ một lần nữa bên chiếc giường nhỏ của chị em tôi, tôi cầu nguyện cho chị và cha mẹ một cách tha thiết hơn bao giờ hết. Để che giấu cảm xúc của mình, tôi lấy tay bưng mặt và cả hai bàn tay đều đầm đìa nước mắt. Lúc đứng dậy, tôi thấy chị mình cũng khóc, nhưng không ai trong chúng tôi nói gì, và trong im lặng chúng tôi chìm vào giấc ngủ, cùng nhau tiến gần hơn đến ý thức rằng chẳng bao lâu nữa chị em tôi sẽ phải xa nhau.
Nhưng buổi sáng cũng khiến cho niềm hy vọng và sự hứng khởi thức dậy. Tôi sẽ khởi hành sớm, để xe chở tôi đi (một chiếc xe độc mã, mà chúng tôi thuê của ông Smith, một người buôn vải, trà và tạp phẩm ở trong làng) có thể quay về ngay trong ngày. Tôi thức dậy, tắm rửa, thay quần áo, ăn sáng qua loa, nhận những cái ôm trìu mến của cha, mẹ, chị gái, hôn con mèo cưng − cô nàng Sally hay gây rắc rối − tạm biệt nó, rồi trèo lên xe ngựa, kéo mạng che mặt xuống, và, chỉ đến khi đó, tôi mới khóc nấc lên. Cỗ xe ngựa lăn bánh, tôi ngoái đầu nhìn lại phía sau, mẹ và chị gái tôi vẫn đứng bên bậc cửa, nhìn theo tôi, vẫy tay tạm biệt. Tôi vẫy tay đáp lại họ và từ tận đáy lòng, tôi cầu Chúa phù hộ cho những người thân yêu của mình. Xe chạy lên đồi, và tôi
không còn nhìn thấy họ nữa.
“Một buổi sáng hơi lạnh đối với cô, cô Agnes ạ”, ông Smith bình luận, “và cũng hơi u ám nữa, nhưng chúng ta sẽ đến nơi trước khi trời đổ mưa.” “Vâng, tôi hy vọng như vậy”, tôi đáp bằng giọng bình tĩnh nhất có thể. “Đêm qua trời cũng mưa to.”
“Vâng.”
“Nhưng gió lạnh sẽ ngăn mưa lại.”
“Có lẽ vậy.”
Cuộc trò chuyện của chúng tôi kết thúc ở đó. Chúng tôi đi qua thung lũng, và bắt đầu tiến lên quả đồi ở trước mặt. Khi xe chạy chầm chậm lên đồi, tôi lại ngoái đầu nhìn về phía sau: ngọn tháp của làng tôi đứng đó, ngôi nhà màu xám của mục sư ở phía sau nó, nằm dưới tia nắng sớm xiên nghiêng − đó là một tia nắng yếu ớt, nhưng ngôi làng và những ngọn đồi bao quanh nó đều chìm trong màn sương u ám, và tôi coi tia nắng hiếm hoi đó là một điềm lành cho gia đình mình. Tôi chắp tay cầu nguyện sự an lành cho những người sống dưới mái nhà đó, và vội quay mặt đi chỗ khác, bởi vì tôi thấy tia nắng ấy đang biến mất, và tôi cố tránh không quay đầu nhìn ngôi nhà thân yêu của mình một lần nào nữa vì sợ rằng mình sẽ nhìn thấy nó trong màn sương u ám, như toàn bộ cảnh vật xung quanh.
Chương II
Những bài học đầu tiên trong nghề gia sư
Trên đường đi, tôi lấy lại tinh thần và với sự phấn khởi, tôi hướng suy nghĩ của mình tới cuộc sống mới mà tôi sắp bước vào. Mặc dù vừa mới qua tháng Chín, những đám mây nặng trĩu và gió mùa đông bắc thổi mạnh đã kết hợp với nhau làm cho ngày trở nên giá buốt, u ám. Cuộc hành trình dường như rất dài, bởi, như ông Smith đã nói, đường sá “rất nặng nề”, và dĩ nhiên, con ngựa của ông cũng rất nặng nề. Nó di chuyển như bò lên những ngọn đồi, rồi trườn xuống, và chỉ chiếu cố chạy nước kiệu ở những đoạn đường bằng phẳng hoặc những con dốc nhẵn thín rất hiếm có ở những vùng địa hình không bằng phẳng này. Vậy nên gần một giờ chiều, chúng tôi mới đến đích. Tuy nhiên, sau tất cả, khi chúng tôi đi qua cánh cổng sắt đồ sộ, cho xe ngựa chạy chầm chậm dọc lối đi phẳng được viền quanh bởi bãi cỏ xanh ở hai bên, được điểm xuyết bởi những cây non, và đến một ngôi biệt thự sang trọng còn mới của Wellwood nằm dưới những tán cây dương xòe rộng như tán ô, trái tim tôi như ngừng đập, và tôi ước gì ngôi nhà đó ở cách xa một hoặc hai dặm nữa. Lần đầu tiên trong đời tôi phải đứng một mình: không có đường lui. Tôi sắp phải bước vào ngôi nhà đó, phải tự giới thiệu bản thân với những người lạ. Biết giới thiệu như thế nào đây? Quả thực tôi sắp mười chín tuổi rồi, nhưng vì cuộc sống ẩn dật và sự che chở của mẹ và chị gái, tôi biết rằng nhiều cô gái mười lăm tuổi hoặc nhỏ tuổi hơn còn có cách nói năng thể hiện nữ tính, thoải mái và tự tin hơn tôi. Tuy nhiên, nếu bà Bloomfield là một phụ nữ tốt bụng và giàu lòng nhân ái của người mẹ, thì tôi sẽ xoay xở được, tất nhiên, tôi sẽ sớm cảm thấy dễ chịu với những đứa trẻ − và tôi hy
vọng, tôi sẽ không phải tiếp xúc với ông Bloomfield mấy khi. “Hãy bình tĩnh, bình tĩnh, dù bất cứ chuyện gì xảy ra”, tôi tự nhủ và thực sự quyết tâm tập trung giữ cho tinh thần thật bình tĩnh và giữ cho tim mình khỏi đập loạn đến nỗi khi tôi được mời vào sảnh và được dẫn tới gặp bà Bloomfield, tôi gần như quên không đáp lại lời chào lịch sự của bà. Về sau tôi hoảng hồn khi nhớ lại rằng mình đã nói vài từ ít ỏi bằng giọng của một người nghễnh ngãng hoặc đang ngái ngủ. Khi nhớ lại màn chào hỏi đó, tôi nhận thấy bà chủ cũng có thái độ hơi lạnh lùng. Bà là một phụ nữ nghiêm trang có vóc dáng cao gầy, mái tóc đen dày, đôi mắt xám toát lên vẻ lạnh lùng và nước da mai mái.
Tuy nhiên, bà lịch sự chỉ cho tôi phòng riêng dành cho tôi và để tôi vào phòng nghỉ ngơi một lát. Tôi hơi thất vọng trước vẻ bề ngoài của mình khi nhìn vào gương, gió lạnh đã khiến đôi tay tôi sưng đỏ, làm rối tung những lọn tóc quăn của tôi, làm da mặt tôi tím tái; thêm vào đó, cổ áo của tôi bị nhàu kinh khủng, áo choàng lấm tấm những vết bùn, đôi chân tôi mất hút trong đôi giày cao cổ to sụ, và vì những chiếc rương đựng tư trang của tôi chưa được mang lên phòng, nên tôi chẳng có sự cứu cánh nào cả. Tôi cố vuốt tóc cho thật mượt, và cố kéo cho cổ áo phẳng lại, rồi bước xuống hai dãy bậc cầu thang, vừa đi vừa suy đoán và với một chút khó khăn, tôi tìm được đường tới căn phòng nơi bà Bloomfield đang đợi.
Bà dẫn tôi vào phòng ăn, nơi bữa trưa của gia đình đã được dọn ra bàn. Một ít thịt bò hầm và món khoai tây nguội được đặt trước mặt tôi. Trong khi tôi ăn, bà ngồi ở ghế đối diện, quan sát tôi (tôi nghĩ vậy) và cố duy trì một cuộc trò chuyện − chủ yếu gồm một chuỗi những lời bình luận xã giao, được diễn đạt bằng sự khách sáo nhạt nhẽo, nhưng đó là lỗi ở tôi chứ không phải ở bà, bởi vì tôi thực sự không thể trò chuyện. Quả thực, toàn bộ sự chú ý của
tôi hầu như được dồn vào bữa ăn: không phải vì tôi đói quá, mà vì món thịt hầm dai quá khiến việc ăn trở nên gian nan, vất vả trong khi tay tôi vẫn tê cóng và gần như run cầm cập sau năm tiếng đồng hồ phơi trong gió lạnh. Tôi muốn ăn hết chỗ khoai tây, bỏ thịt lại, nhưng trong đĩa của tôi vẫn còn một miếng thịt to, và tôi không thể bất lịch sự đến mức bỏ dở chỗ thịt; vậy nên sau nhiều lần cố gắng dùng dao cắt nhỏ hoặc xé và giật rời thành từng miếng nhỏ mà không thành công, trong khi biết rằng bà chủ nhà oai nghiêm đang quan sát toàn bộ quá trình xử lý ấy, cuối cùng tôi cầm dao và nĩa bằng hai nắm tay siết chặt như một đứa trẻ hai tuổi, tập trung vào việc với toàn bộ sức lực khiêm tốn mà mình có. Nhưng việc đó cần lời xin lỗi − cố gắng cười khe khẽ, tôi nói: “Tay tôi bị tê cóng vì lạnh đến mức tôi không thể cầm nổi dao, nĩa.”
“Tôi dám nói rằng cô cảm thấy món đó lạnh”, bà chủ đáp với vẻ nghiêm trang, lạnh lùng không thay đổi khiến tôi chắc chắn không an tâm. Khi nghi thức đó kết thúc, bà dẫn tôi trở lại phòng khách và gọi các con mình đến.
“Cô sẽ thấy chúng cần phải được dạy dỗ nhiều”, bà nói, “bởi vì tôi có rất ít thời gian để tự mình dạy dỗ chúng, vả lại, trước đây chúng tôi nghĩ bọn trẻ còn quá nhỏ để cần có gia sư, nhưng tôi nghĩ chúng là những đứa trẻ thông minh, rất ham hiểu biết, đặc biệt là thằng nhỏ. Tôi nghĩ thằng bé, bông hoa trong bầy trẻ này − là một đứa trẻ có tinh thần quý tộc, hào phóng, một đứa trẻ để hướng dẫn chứ không phải để điều khiển, và đặc biệt, nó luôn nói sự thật. Nó dường như khinh bỉ sự gian dối.” (Một điều tốt lành đây, tôi nghĩ). “Em gái nó, Mary Ann, cần phải để mắt đến nhiều”, bà tiếp tục nói, “nhưng nhìn chung nó là một bé gái ngoan. Mặc dù vậy, tôi không muốn để nó ở phòng trẻ nhiều, vì bây giờ nó sắp sáu tuổi rồi, và có thể nhiễm các thói quen
xấu của các vú em. Tôi đã cho đặt giường cũi của con bé trong phòng của cô, và nếu cô sẵn lòng lưu tâm đến việc tắm rửa và thay quần áo của con bé thì nó chẳng cần một người vú em nữa đâu.”
Tôi vừa mới trả lời rằng tôi sẵn sàng đảm nhận việc đó thì những học trò nhỏ của tôi bước vào phòng cùng với hai đứa em gái của chúng. Cậu chủ nhỏ Tom BloomField là một cậu bé bảy tuổi lớn phổng, với khung người rắn chắc, mái tóc màu nâu vàng, đôi mắt xanh, chiếc mũi nhỏ hơi hếch, và làn da trắng hồng. Mary Ann cũng là một cô bé có dáng người cao, da hơi đen giống mẹ, nhưng có khuôn mặt tròn đầy đặn và đôi má hồng hào. Cô em gái thứ hai tên là Fanny, một cô bé rất xinh xắn: bà Bloomfield quả quyết với tôi rằng đó là cô bé đặc biệt dịu dàng, và cần sự khích lệ. Cô bé chưa được dạy gì hết, nhưng vài ngày nữa bé tròn bốn tuổi, khi đó nó có thể bắt đầu học bảng chữ cái và có thể đến phòng học. Đứa nhỏ còn lại là Harriet, một đứa bé chắc mới chỉ hai tuổi, bụ bẫm, vui tươi mà tôi thích hơn tất cả những đứa còn lại − nhưng tôi không có việc gì liên quan đến đứa bé ấy.
Tôi nói chuyện với các học trò của mình một cách trìu mến hết mức có thể, và cố gắng thể hiện rằng mình dễ thương, nhưng tôi e là tôi không thành công cho lắm bởi vì sự có mặt của bà mẹ ở đó đã khiến tôi cảm thấy căng thẳng và không thoải mái. Tuy nhiên, bọn trẻ không hề nhút nhát. Chúng dường như đều là những đứa trẻ bạo dạn, giàu sức sống, và tôi hy vọng mình sẽ sớm trở nên thân thiết với chúng − đặc biệt là cậu bé, người mà tôi đã được bà mẹ cho biết sở hữu một tính cách đáng mến như thế. Cô bé Mary Ann có nụ cười điệu đà giả tạo, thích được chú ý và tôi rất tiếc phải nhận xét như thế. Nhưng anh của cô bé đã đòi chiếm toàn bộ sự chú ý của tôi. Cậu đứng thẳng người giữa tôi và lò sưởi, hai tay chắp sau lưng, nói như một nhà hùng biện, thỉnh thoảng ngừng lời để quở trách khá gay gắt mấy đứa em gái
vì chúng gây ồn ào quá.
“Ôi, Tom, con đáng yêu quá!” Bà mẹ thốt lên. “Lại đây hôn mẹ đi nào, rồi đưa cô Grey đi thăm phòng học và những cuốn sách mới tuyệt vời của con nhé?”
“Con sẽ không hôn mẹ đâu, mẹ ạ, nhưng con sẽ dẫn cô Grey đến phòng học xem những cuốn sách mới của con.”
“Và phòng của em, sách mới của em, Tom ạ”, Mary Ann nói. “Đó cũng là phòng của em, sách của em.”
“Đó là của anh”, cậu cả đáp một cách dứt khoát. “Đi thôi, cô Grey − em sẽ dẫn cô đi.”
Khi tôi đến phòng học, ngắm những cuốn sách, giữa màn cãi cọ qua lại của anh trai và em gái mà tôi cố gắng hết sức để xoa dịu hoặc khuyên giải, Mary Ann mang cho tôi xem con búp bê của nó, và bắt đầu khoe khoang về váy áo đẹp, giường, ngăn tủ đựng váy áo và các phụ kiện khác của con búp bê, nhưng Tom bảo nó đừng làm ồn, rằng cô Grey phải đi xem con ngựa gỗ bập bênh của cậu, nói lớn tiếng để thu hút sự chú ý của tôi. Sau đó, cậu ra lệnh cho đứa em gái phải cầm dây cương để cậu trèo lên ngựa, bắt tôi đứng khoảng mười phút, xem cậu sử dụng roi và thúc ngựa dũng mãnh như thế nào. Tuy nhiên, trong khi đó, tôi thích con búp bê của Mary Ann và các phụ kiện của nó. Tôi nói với cậu chủ Tom rằng cậu là một kỵ sĩ cừ khôi nhưng tôi hy vọng cậu không sử dụng roi và không thúc ngựa quá nhiều khi cậu cưỡi một con ngựa đẹp như thế.
“Ồ, có chứ, em sẽ sử dụng roi!” Cậu nói, càng quất ngựa mạnh hơn. “Em sẽ quất nó nát bét ra như khói! Đúng thế đấy! Em nói thế đấy! Nó sẽ sợ chết khiếp.”
Lời cậu nói khiến tôi bị sốc, nhưng tôi hy vọng qua thời gian, tôi có thể
tạo ra sự thay đổi.
“Bây giờ cô đội mũ, quàng khăn vào đi”, vị anh hùng nhỏ tuổi nói, “và em sẽ dẫn cô đi thăm khu vườn của em.”
“Của em chứ”, Mary Ann nói.
Tom giơ nắm đấm lên đe dọa. Em gái cậu kêu ré lên, chạy sang phía tôi, tức giận ra mặt với anh trai.
“Nào, Tom, em không được đánh em gái mình đâu! Cô hy vọng sẽ không bao giờ thấy em làm điều đó.”
“Thỉnh thoảng cô sẽ thấy em làm thế. Thỉnh thoảng em buộc phải làm điều đó để khiến nó trật tự.”
“Nhưng việc khiến em gái em trật tự không phải là việc của em, em biết mà − đó là việc −”
“Cô đội mũ vào ngay đi.”
“Cô không biết − trời rất u ám và lạnh, hình như đang mưa nữa − và em biết đấy, cô vừa phải vượt qua một chặng đường dài.”
“Không sao đâu − cô phải ra thăm vườn mới được. Không đi không được”, quý ông nhỏ tuổi kiêu căng nói. Còn tôi nghĩ bởi vì đó là ngày đầu tiên chúng tôi làm quen với nhau nên tôi có thể chiều cậu bé. Trời quá lạnh để Mary Ann ra ngoài, vậy nên cô bé ở trong nhà với mẹ, và trước sự dàn xếp đó, anh trai cô bé, người đang muốn chiếm trọn thời gian và sự chú ý của tôi, cảm thấy như thoát nợ.
Đó là một khu vườn rộng, được sắp xếp một cách có thẩm mỹ. Ngoài mấy khóm thược dược rực rỡ, có một số khóm hoa đẹp vẫn đang nở hoa, nhưng người dẫn tôi đi thăm vườn không cho tôi thời gian để ngắm nhìn chúng. Tôi phải đi với cậu qua bãi cỏ ướt, đến một góc khuất của khu vườn,
nơi quan trọng nhất trong vườn bởi nó là vườn của cậu chủ. Có hai khoảnh đất hình tròn, được trồng nhiều loại cây khác nhau. Trên một khoảnh đất có một cây hoa hồng nhỏ rất đẹp. Tôi dừng lại để ngắm những bông hoa xinh xinh.
“Ồ, đừng để ý đến thứ đó!” Cậu nói bằng giọng khinh khỉnh. “Đó là vườn của Mary Ann đấy. Hãy ngắm vườn của em đây này.” Sau khi đã ngắm nhìn mọi bông hoa, nghe một tràng diễn thuyết về từng cái cây, tôi được phép rời khỏi đó: trước hết, với sự long trọng rất kiểu cách, cậu ngắt một bông thủy tiên tặng tôi như tặng một người cậu vô cùng yêu mến. Nhìn thấy những thanh sắt và ngũ cốc trên cỏ quanh khu vườn của cậu, không kìm được, tôi liền hỏi đó là cái gì.
“Bẫy chim đấy.”
“Tại sao em lại đặt bẫy bắt chim?”
“Cha nói chúng gây hại.”
“Vậy em làm gì sau khi bắt được chúng?”
“Nhiều kiểu. Thỉnh thoảng em ném chúng cho mèo. Thỉnh thoảng em dùng dao nhíp cắt nhỏ chúng ra, nhưng còn một kiểu nữa, em muốn nướng sống chúng.”
“Tại sao em lại muốn làm điều khủng khiếp đó?”
“Vì hai lý do: thứ nhất, để xem chúng sống được bao lâu − và thứ hai, để xem mùi của chúng như thế nào.”
“Nhưng em không biết làm như thế là cực kỳ độc ác ư? Hãy nhớ rằng chim chóc cũng biết cảm nhận như em, và hãy thử nghĩ xem, em có thích mình bị như thế không?”
“Ồ, có gì đâu! Em không phải là chim, và em không thể cảm nhận những
gì em làm với chúng.”
“Nhưng đến một lúc nào đó em sẽ phải trải qua cảm giác đó, Tom ạ. Em biết những kẻ độc ác khi chết sẽ bị đày xuống đâu rồi đấy. Nếu em không dừng ngay việc hành hạ những con chim vô tội đó, thì hãy nhớ, em sẽ phải xuống địa ngục và sẽ phải chịu những gì em đã bắt chúng phải chịu đựng.”
“Ôi dào! Em sẽ không phải chịu như thế đâu. Cha biết em làm gì với chúng và cha chẳng bao giờ mắng em vì chuyện đó cả. Cha nói hồi bé cha cũng làm y như thế. Hè năm ngoái cha cho em một tổ chim đầy những con chim sẻ non, và cha nhìn em xé chân, xé cánh, vặt đầu chúng mà chẳng nói gì. Cha chỉ nói rằng chúng trông tởm quá, và rằng em không được làm bẩn quần. Cậu Robson cũng ở đó, và cậu cười, nói rằng em là một thằng con trai rất cừ.”
“Thế còn mẹ em nói gì?”
“Ồ, mẹ không quan tâm! Mẹ nói thật tiếc khi giết những con chim hót hay, nhưng với những con chim sẻ xấu xí như chuột thì em có thể làm gì tùy thích. Vậy nên cô Grey ạ, việc đó chẳng có gì độc ác hết.”
“Tom ạ, cô vẫn nghĩ làm như thế là độc ác, và có lẽ cha mẹ em cũng nghĩ như vậy, nếu như họ suy nghĩ nhiều hơn về chuyện đó. Tuy nhiên”, tôi nhủ thầm, “họ có thể nói những gì họ muốn, nhưng tôi quyết định rằng chừng nào tôi còn có khả năng ngăn chặn việc đó thì chừng đó cậu sẽ không được làm nó nữa.”
Tom dẫn tôi đi sang phía bên kia bãi cỏ để xem những cái bẫy chuột của cậu rồi sau đó đi vào trong sân chứa cỏ khô để xem những cái bẫy chồn của cậu. Cậu vui hớn hở khi thấy trong một cái bẫy có một con chồn chết. Sau đó chúng tôi đi tới chuồng ngựa, không phải để xem những con ngựa kéo xe đẹp mã mà để xem một con ngựa non trông khá hung dữ mà cậu cho biết là được
gây giống cho riêng cậu, và chẳng bao lâu nữa, khi con ngựa được nài một cách cẩn thận, cậu sẽ cưỡi nó. Tôi cố tỏ ra thích thú với người bạn nhỏ đó, và cố gắng nghe tất cả những gì cậu huyên thuyên một cách vui vẻ nhất có thể bởi vì tôi nghĩ nếu cậu có tình cảm, thì chắc chắn tôi sẽ cố gắng chiếm được tình cảm của cậu, và theo thời gian tôi sẽ có thể làm cậu nhận thức được những điều sai quấy trong cách hành xử của cậu. Tôi trông đợi một cách vô vọng tinh thần quý tộc, hào hiệp mà mẹ cậu đã nói tới mặc dù tôi có thể thấy rằng cậu không phải không nhanh và sắc sảo khi cậu muốn.
Khi chúng tôi quay trở vào nhà thì đã gần đến bữa trà. Cậu chủ Tom nói với tôi rằng, vì cha cậu không có nhà, cậu và tôi, cùng Mary Ann sẽ uống trà vói mẹ cậu, rằng như vậy thật thích bởi vì vào những dịp như thế mẹ cậu luôn dùng bữa chính vào buổi chiều cùng với bọn cậu, thay vì vào lúc sáu giờ tối. Chẳng bao lâu sau, Mary Ann đi ngủ, nhưng Tom muốn tôi nói chuyện với cậu đến tám giờ. Sau khi cậu rời khỏi phòng, bà Bloomfield cho tôi biết thêm về tính khí và khả năng của các con bà, những gì chúng sẽ học, chúng sẽ được dạy dỗ như thế nào, và dặn tôi không được đề cập đến những khuyết điểm của chúng với bất cứ ai ngoài bà. Trước đó mẹ tôi đã dặn tôi nên hạn chế đến mức tối đa việc nói về những thiếu sót của bọn trẻ với bà chủ, bởi vì người ta không thích nghe về các khiếm khuyết của con mình, vậy nên tôi kết luận rằng về chuyện đó tôi sẽ giữ im lặng. Khoảng chín rưỡi bà Bloomfield mời tôi cùng ăn một bữa ăn nhẹ gồm bánh mỳ và thịt nguội. Tôi mừng khi thấy bà chủ cầm giá nến lui về phòng ngủ ngay khi bữa ăn kết thúc bởi vì mặc dù tôi muốn nói chuyện vui vẻ với bà, nhưng sự có mặt của bà khiến tôi không được thoải mái cho lắm, và tôi không thể không cảm thấy bà lạnh lùng, trang nghiêm, và khó ưa − trái ngược hoàn toàn với một mệnh phụ phu nhân tốt bụng, giàu tình cảm mà tôi đã tưởng tượng ra trong niềm hy
vọng.
Chương III
Những bài học bổ sung
Bất chấp những nỗi thất vọng mà tôi đã trải nghiệm, sáng hôm sau tôi thức dậy với cảm giác phấn khởi đầy hy vọng, nhưng tôi nhận ra việc giúp Mary Ann thay quần áo và chải đầu không đơn giản chút nào bởi mái tóc dầy của cô bé được bôi đầy sáp thơm và được tết thành ba bím tóc dài, được buộc bằng nhiều dải ruy-băng thắt nơ, một việc mà với những ngón tay lóng ngóng tôi nhận thấy rất khó thực hiện. Cô bé nói với tôi rằng người vú em có thể tết tóc cho cô nhanh gấp đôi tôi làm và cứ ngọ nguậy một cách sốt ruột, khiến tôi càng mất nhiều thời gian hơn. Tết tóc và thay quần áo xong chúng tôi đi sang phòng học, nơi tôi gặp học sinh còn lại của mình, và nói chuyện với cả hai cho tới giờ xuống nhà ăn sáng. Bữa ăn kết thúc với một vài lời trao đổi qua lại giữa tôi và bà Bloomfield, sau đó chúng tôi quay trở lại phòng học, bắt đầu việc học của ngày hôm đó. Tôi nhận thấy các học trò của mình thực sự rất chậm tiến, nhưng Tom, mặc dù chúa ghét tất cả các kiểu nỗ lực về tinh thần, không phải là đứa trẻ không có khả năng. Mary Ann hầu như không thể đọc nổi một chữ, cẩu thả, mất tập trung đến mức tôi hầu như không thể xoay xở được với nó. Tuy nhiên, cứ cố gắng và kiên nhẫn miết, tôi đã có thể làm được điều gì đó trong buổi sáng, sau đó cùng những vị chỉ huy nhỏ tuổi của mình ra vườn và khu viên để giải lao một lát trước khi ăn trưa, ở đó chúng tôi khá hòa thuận với nhau, chỉ có điều, tôi nhận thấy chúng không hề có ý thức rằng chúng đang đi với tôi. Tôi phải đi với chúng, chúng dẫn tôi đi đâu thì tôi phải tới đó. Lúc nào tôi phải chạy, phải bước chậm, phải đứng lại, nhất cử nhất động của tôi đều phải tuân theo ý muốn của chúng. Tôi nghĩ
làm như vậy là đảo lộn trật tự và tôi càng không đồng tình bởi vì chúng dường như thích chơi ở những chỗ bẩn thỉu nhất và thích làm những việc tệ hại nhất. Nhưng chẳng có giải pháp nào cả. Tôi hoặc phải đi theo chúng, hoặc bị tách hẳn khỏi chúng, và như vậy có vẻ như tôi lơ là trách nhiệm. Hôm nay chúng cho thấy sự gắn bó đặc biệt với cái giếng ở ngoài bãi cỏ, nơi chúng dùng gậy khuấy nước và ném sỏi trong hơn nửa giờ đồng hồ. Trong suốt thời gian đó tôi lo sợ rằng bà mẹ sẽ nhìn thấy chúng từ cửa sổ và trách tôi đã để chúng lê lết làm bẩn quần áo, làm ướt chân tay, thay vì dạy chúng học, nhưng không lý lẽ, mệnh lệnh, hay lời khẩn nài nào có thể kéo chúng ra khỏi chỗ đó. Nếu bà chủ không nhìn thấy chúng, thì ai đó khác cũng nhìn thấy − một quý ông cưỡi ngựa tiến vào cổng và đi trên con đường dẫn vào nhà. Cách chúng tôi một đoạn chừng vài bước chân ông ấy dừng ngựa, gọi bọn trẻ bằng giọng rất đanh và gắt gỏng, bảo chúng “tránh xa cái giếng nước đó ngay”. “Cô Grey”, ông ấy nói, (tôi hy vọng ông ấy có dùng chữ “cô” trước tên tôi), “tôi lấy làm lạ là cô lại cho phép chúng làm bẩn quần áo như thế! Cô không thấy cô chủ Bloomfield đã làm bẩn áo choàng như thế nào sao? Cô không thấy quần soóc của cậu chủ Bloomfield ướt hết rồi sao? Và cả hai cô cậu đều không mang găng tay sao? Cô! Tôi yêu cầu từ nay trở đi, cô sẽ giữ cho quần áo của cô cậu chủ chí ít phải lịch sự!” Nói rồi ông quay đi, tiếp tục cưỡi ngựa về phía ngôi nhà. Đó là ông Bloomfield. Tôi ngạc nhiên khi thấy ông gọi các con mình là cậu chủ và cô chủ Bloomfield, và càng ngạc nhiên hơn khi thấy ông nói năng thô lỗ với tôi, gia sư của các con ông và là người ông mới gặp lần đầu. Đúng lúc đó chuông reo, gọi chúng tôi vào nhà. Ngay sau đó tôi ăn bữa chính cùng bọn trẻ trong khi ông bà chủ dùng bữa trưa tại cùng một bàn ăn. Cung cách của ông không được như tôi tưởng. Ông là một người đàn ông có vóc người bình thường − dưới mức trung bình hơn là trên mức đó − gầy gò hơn là chắc khỏe, tuổi lưng lửng giữa ba mươi
và bốn mươi. Ông có cái miệng rộng, nước da tái xám, đôi mắt màu xanh đục, và mái tóc giống màu sợi dầu gai. Một chiếc đùi cừu nướng được đặt trước mặt ông. Ông giúp bà Bloomfield, và muốn tôi cắt thịt cho bọn trẻ, sau đó vặn cái đùi cừu theo nhiều hướng, nhìn săm soi hết bên nọ đến bên kia rồi tuyên bố rằng nó không thích hợp để ăn, và gọi người hầu mang món thịt bò nguội ra.
“Đùi cừu làm sao hả mình?” Vợ ông hỏi.
“Nó bị nướng quá kỹ. Bà Bloomfield, bà không thấy là tất cả vị bổ béo đều bị mất hết rồi sao? Và bà không thấy rằng toàn bộ nước thịt đỏ, ngon ngọt đều khô kiệt rồi à?”
“Em nghĩ thịt bò hợp với mình hơn.”
Món thịt bò được đặt trước mặt ông, và ông bắt đầu cắt thịt với vẻ mặt thể hiện sự bất mãn.
“Thịt bò không ổn sao ông Bloomfield? Em nghĩ nó rất ngon.” “Nó đã rất ngon. Không thể có món nào ngon hơn, nhưng nó đã bị làm hỏng”, ông đáp bằng giọng chán nản.
“Làm sao lại hỏng được nhỉ?”
“Làm sao ư! Tại sao, bà không thấy nó được cắt như thế nào ư? Bà thân mến − ! Thật khó chịu!”
“Chắc chắn nó bị cắt không đúng cách trong nhà bếp, bởi vì em đã cắt nó đúng cách ở đây, ngày hôm qua.”
“Không nghi ngờ gì, đám người hầu đã cắt thịt không đúng cách ở trong bếp − bọn man di! Bà thân mến − thân mến! Đã ai nhìn thấy một miếng thịt bò ngon bị làm hỏng hoàn toàn chưa? Nhưng hãy nhớ rằng, từ nay về sau, khi một món ăn tử tế được đặt lên bàn này, chúng sẽ không được động vào ở
trong bếp. Nhớ đấy, bà Bloomfield!”
Dù món thịt bò đã bị “làm hỏng”, ông chủ vẫn xoay xở để cắt được vài lát thịt ngon và ngồi chén trong im lặng. Rồi bằng giọng đỡ cáu kỉnh hơn, ông hỏi có món gì cho bữa tối.
“Thịt gà tây và thịt gà gô”, lời đáp ngắn gọn vang lên.
“Còn gì nữa?”
“Cá.”
“Cá gì?”
“Em không biết.”
“Em không biết ư?” Ông chủ kêu lên; đang nhìn chăm chú vào đĩa của mình, ông ngẩng lên, để dao và nĩa bất động trong sự ngạc nhiên. “Không. Em bảo người nấu bếp mua cá − em không để ý đó là cá gì.” “Ồ, lạ nhỉ! Một phu nhân tự cho là có nhiệm vụ quán xuyến việc gia đình, ấy thế mà thậm chí không biết có món cá gì cho bữa tối! Tự nhận là đã sai làm món cá, vậy mà không để ý đó là cá gì!”
“Ông Bloomfield, có lẽ từ nay trở đi ông tự đặt món cho bữa tối đi.” Không ai nói gì thêm nữa. Và tôi mừng vì có thể cùng các học trò rời khỏi phòng, bởi vì trong đời tôi chưa bao giờ cảm thấy xấu hổ hoặc khó chịu đến thế vì một chuyện không phải do lỗi của mình.
Buổi chiều chúng tôi tiếp tục các bài học, rồi ra ngoài giải lao, và sau đó dùng trà ngay tại phòng học. Cuối chiều tôi thay quần áo cho Mary Ann để chuẩn bị ăn tối và khi cô bé cùng anh trai đã xuống phòng ăn, tôi tranh thủ viết thư cho người bạn thân ở nhà, nhưng tôi chưa hoàn thành việc đó thì bọn trẻ đã quay trở lại. Bảy giờ tôi phải cho Mary Ann đi ngủ, sau đó chơi với Tom đến tám giờ. Khi Tom cuối cùng cũng đi ngủ, tôi viết nốt bức thư và bỏ
quần áo trong rương ra, việc mà tôi không tìm được cơ hội để làm kể từ lúc đặt chân tới ngôi nhà này, rồi lên giường ngủ.
Một ngày bình thường ở đây diễn ra như vậy đó.
Nhiệm vụ dạy dỗ và giám sát của tôi không dễ dàng hơn khi các học trò và tôi quen nhau hơn, mà ngược lại, trở nên khó khăn hơn bởi tính cách của chúng bộc lộ theo thời gian. Tôi sớm phát hiện ra rằng cái danh gia sư gắn với tên tôi chỉ là thứ để đem ra chế nhạo. Các học trò của tôi không có ý thức nghe lời, lúc nào cũng như những con ngựa non hoang dã chưa được thuần hóa. Nhìn chung, nỗi sợ người cha có tính khí cáu bẳn đã trở thành thói quen và nỗi khiếp đảm trước những hình phạt mà ông ấy quen giáng xuống, khiến những đứa trẻ ấy không đi quá giới hạn chỉ khi cha chúng có mặt ở nhà. Những đứa con gái cũng sợ những cơn thịnh nộ của mẹ chúng, còn cậu chủ nhỏ thỉnh thoảng được hối lộ bằng các phần thưởng được hứa hẹn để làm theo ý mẹ cậu. Còn tôi, tôi chẳng có phần thưởng nào để đưa ra cả, và về chuyện phạt thì tôi đã được nói cho biết rằng chỉ cha mẹ chúng mới có quyền phạt chúng mà thôi, ấy thế mà họ trông đợi tôi làm cho các học trò trật tự. Những đứa trẻ khác có thể được dẫn dắt bởi nỗi sợ trước sự tức giận và khao khát được đồng tình, nhưng trong hai đứa học trò của tôi, không đứa nào chịu ảnh hưởng bởi những điều đó.
Cậu chủ Tom, không bằng lòng khi người khác không tuân theo ý cậu, chắc chắn có nhu cầu thống trị, và thể hiện quyết tâm khiến không chỉ những đứa em mà cả gia sư của mình cũng phải trật tự bằng cả vũ lực lẫn sự thỉnh cầu kiểu đòn bẩy. Là một cậu bé lên bảy to khỏe, cao lớn so với tuổi của mình, cách hành xử đó của cậu gây ra sự khó chịu không nhỏ. Vài lời nỉ non đôi khi có thể khiến vấn đề được giải quyết một cách dễ dàng, nhưng trong trường hợp đó cậu có thể bịa ra một câu chuyện để nói với mẹ cậu, mà chắc
chắn bà mẹ sẽ tin, bởi vì bà có niềm tin không gì lay chuyển nổi về tính trung thực của cậu − mặc dù tôi đã phát hiện ra rằng điều đó đáng ngờ − tôi quyết tâm kiềm chế không đối đầu với cậu, ngay cả khi để tự vệ, và vào lúc cậu hung dữ nhất, cách xoay xở duy nhất của tôi là giữ tay, giữ chân cậu cho tới khi cơn khùng của cậu dịu đi. Ngăn không cho cậu thực hiện những việc cậu không được phép làm đã khó, bắt buộc cậu làm những việc cậu phải làm càng khó hơn. Thường thì cậu khăng khăng không chịu học, từ chối ôn bài, thậm chí không chịu nhìn vào sách. Một lần nữa, cái roi bulô có thể được sử dụng, nhưng vì quyền lực của tôi có hạn, tôi phải sử dụng nó một cách hiệu quả nhất.
Bởi vì chẳng hề có sẵn quy định nào cho việc học và chơi, tôi quyết định giao cho các học trò của mình một việc cụ thể mà, với sự chăm chú khiêm tốn, chúng vẫn có thể hoàn thành trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, bắt buộc được chúng thực hiện việc được giao cũng đủ khiến tôi mệt nhoài. Chúng vốn ngoan cố, lại không bao giờ thiếu sự can thiệp của phụ huynh khiến tôi thất bại trong việc giữ chúng ở trong phòng học, cho dù tôi ngồi kiên định ở cửa để canh chúng. Sự kiên nhẫn, kiên quyết, và bền chí là những vũ khí duy nhất của tôi, và tôi cố gắng sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất. Tôi quyết tâm sẽ giữ mục tiêu nói đi đôi với làm cả khi đe nẹt lẫn khi tôi hứa hẹn, và để đạt được mục tiêu đó, tôi phải thận trọng không đe dọa và không hứa hẹn những gì mà mình không thể thực hiện được. Tôi sẽ phải kiềm chế mọi sự cáu giận và sự nuông chiều không có lợi. Khi chúng cư xử tốt, tôi sẽ phải thể hiện sự ân cần và lòng nhiệt tình trong khả năng của mình để chúng thấy sự khác biệt giữa tốt và xấu một cách rõ ràng nhất có thể. Tôi cũng sẽ tranh luận với chúng theo cách hiệu quả và đơn giản nhất. Khi tôi khiển trách chúng hoặc từ chối thỏa mãn ý thích của chúng, sau một lỗi rõ
rành rành, tôi sẽ thể hiện thái độ buồn hơn là tức giận. Tôi sẽ giảng giải ý nghĩa của những bài thánh ca và những lời cầu nguyện một cách đơn giản và rõ ràng cho chúng hiểu. Khi chúng cầu nguyện vào buổi tối và sám hối cho những tội lỗi mà chúng phạm phải, tôi sẽ nhắc chúng nhớ những tội lỗi của ngày đã qua, một cách nghiêm túc, nhưng bằng sự ân cần, để tránh đẩy cao tinh thần chống đối. Những đứa trẻ ngang bướng, vui nhộn sẽ đọc những lời sám hối một cách ngoan ngoãn và mọi kiến thức tôi truyền cho chúng qua những cuộc nói chuyện thú vị − sẽ là niềm thích thú hiện thời của chúng.
Tôi hy vọng theo thời gian, những cách này vừa có lợi cho bọn trẻ vừa giúp tăng thêm sự tán thành của cha mẹ chúng đối với tôi, và cũng thuyết phục những người thân của tôi ở nhà rằng tôi không quá thiếu kỹ năng và sự cẩn thận như họ nghĩ. Tôi biết những khó khăn mà mình phải đối mặt rất lớn, nhưng tôi biết (ít nhất tôi tin) lòng kiên nhẫn và sự kiên trì, bền bỉ có thể giúp tôi vượt qua những khó khăn đó. Tối nào, sáng nào tôi cũng cầu Chúa phù hộ cho tôi đạt được mục tiêu này. Nhưng hoặc là bọn trẻ ngang bướng quá, hoặc là cha mẹ chúng không biết điều, hoặc là tôi cũng mắc sai lầm trong cách nhìn, hoặc không có khả năng đảm nhiệm việc dạy dỗ chúng nên mọi thiện ý và những nỗ lực lớn nhất của tôi dường như chẳng đem lại kết quả nào, chỉ làm trò cười cho bọn trẻ, khiến cha mẹ chúng không hài lòng, và làm bản thân mình khổ sở.
Việc dạy dỗ ấy đối với tôi thực sự cực nhọc cả về thể xác lẫn tinh thần. Tôi phải chạy theo các học trò của mình để bắt chúng, để đưa hoặc lôi chúng vào bàn học, và thường buộc phải giữ chúng ở đó cho đến khi bài học kết thúc. Tom thường ngồi ở một góc, bắt tôi phải ngồi trên ghế trước mặt nó, với một cuốn sách có bài học nhỏ mà nó phải đọc, trước khi nó thoát ra khỏi đó. Nó không đủ khỏe để đẩy cả tôi và cái ghế ra, vậy nên nó đứng vặn vẹo
người, nhăn nhó theo cách kỳ cục và dị thường nhất − với một người không liên quan thì chắc chắn rất buồn cười, nhưng với tôi thì không − và bật ra những tiếng hú hét, kêu la, giả vờ khóc mà tuyệt nhiên không có một giọt nước mắt nào. Tôi biết nó làm thế chỉ để gây phiền phức cho tôi, vậy nên, tuy giận run người, tôi vẫn cố gắng dằn tất cả những biểu hiện cho thấy mình đang phiền lòng và giả vờ ngồi đó với sự bình tĩnh không lay chuyển, đợi cho tới khi nó từ bỏ trò tiêu khiển đó và chuẩn bị cho cuộc đào tẩu, bằng cách nhìn vào sách và đọc hoặc nhắc lại một số từ nó cần phải đọc. Thỉnh thoảng nó cố tình làm bài tập viết một cách rất tệ, và tôi phải cầm tay nó để ngăn không cho nó bôi bẩn hoặc vò nhàu giấy. Tôi thường dọa rằng nếu nó không viết một cách nghiêm túc hơn, thì nó sẽ phải viết thêm một dòng nữa, sau đó nó ngang bướng không chịu viết dòng đó và tôi giữ lời, cuối cùng phải dùng đến cách nắm bàn tay cầm bút của nó, bắt tay nó viết, cho đến khi, bất chấp sự phản kháng của nó, dòng chữ đó được viết xong.
Tuy nhiên Tom không phải là đứa học trò khó dạy nhất của tôi. Thỉnh thoảng, tôi thật mừng vì nó nhận ra rằng cách giải quyết khôn ngoan nhất là hoàn thành bài học, và ra ngoài chơi cho tới khi tôi và các em gái của nó ra chơi cùng. Thường thì tất cả không được ra ngoài chơi cùng một lúc, bởi vì Mary Ann hiếm khi noi gương anh nó ở điểm này. Nó có vẻ thích lăn trên sàn nhà hơn là ra ngoài chơi: nó lăn uỳnh uỵch trên sàn nhà như một vật nặng và khi tôi phải vất vả lắm mới có thể lôi nó dậy được, tôi vẫn phải dùng một tay giữ nó đứng, trong khi tay kia cầm cuốn sách mà nó phải đọc hoặc đánh vần bài học. Khi trọng lượng của một đứa bé sáu tuổi mập mạp trở nên quá nặng để một cánh tay của tôi có thể giữ, tôi đổi tay, hoặc nếu cả hai tay quá mỏi, tôi lôi nó vào một góc phòng, nói với nó rằng nó có thể ra ngoài để nó nhớ sử dụng đôi chân mà đứng dậy, nhưng nói chung nó thích nằm ở đó
như một khúc gỗ cho tới giờ ăn tối hoặc bữa trà, khi mà, vì tôi không thể tước đi của nó bữa ăn, nó chắc chắn được giải phóng và sẽ bò ra khỏi phòng với nụ cười đắc thắng nở trên khuôn mặt tròn, đỏ bừng của nó. Thường thì nó ngang bướng không chịu phát âm một từ cụ thể trong bài học, còn tôi thì tiếc bao công sức mà mình đã bỏ ra trong nỗ lực chiến thắng tính khó bảo của nó. Nếu tôi cho qua chuyện đó như bỏ qua một chuyện nhỏ nhặt, thì có thể sẽ tốt cho cả hai bên, hơn là cố chinh phục nó như tôi đã làm, nhưng tôi nghĩ nhiệm vụ thực chất của tôi là loại bỏ xu hướng xấu này khi nó vừa nảy nòi, và quả thực, nếu tôi có thể làm được điều đó, và nếu quyền lực của tôi không bị hạn chế, thì tôi đã có thể làm cho nó phải vâng lời, nhưng thực tế đó là một cuộc thử thách về sức mạnh giữa con bé và tôi, trong đó nó hầu như giành chiến thắng, và mọi chiến thắng đều có tác dụng khuyến khích nó, làm nó mạnh thêm cho một cuộc đấu tranh mới. Tôi tranh luận, dỗ dành, khẩn nài, đe dọa, mắng mỏ nó nhưng vô ích. Tôi bắt nó ở trong nhà cả ngày không được ra ngoài chơi, hoặc nếu nó nghe lời thì tôi sẽ cho nó ra, tôi từ chối chơi với nó, hoặc nói chuyện ân cần, làm bất cứ điều gì với nó đều chẳng ăn thua. Tôi cố gắng chỉ cho nó thấy những lợi ích của việc vâng lời, rằng nó sẽ được yêu mến, và được đối xử tốt nếu nó nghe lời và những bất lợi của việc khăng khăng giữ cái thói ngang bướng ngu xuẩn của nó. Thỉnh thoảng, khi nó bảo tôi làm việc gì đó cho nó, tôi trả lời − “Được, nếu em nói từ đó, thì cô sẽ làm, Mary Ann ạ. Lại đây, nói từ đó đi, và cô sẽ làm cho em, không vấn đề gì.”
“Không.”
“Vậy thì, dĩ nhiên, cô không thể làm gì cho em.”
Với tôi, ở tuổi của con bé, hoặc nhỏ hơn, sự không quan tâm và sự ghét bỏ là những hình phạt đáng sợ nhất, nhưng với nó những điều đó chẳng có
tác dụng gì. Đôi khi, giận đến cực điểm, tôi nắm vai nó lắc mạnh, giật bím tóc dài của nó hoặc kéo nó vào góc phòng, và nó trừng phạt tôi bằng những tiếng hét như dao đâm xuyên óc. Nó biết tôi ghét điều đó, và khi nó hét to nhất, nó nhìn thẳng vào mặt tôi với vẻ thỏa mãn của kẻ báo thù, rồi nó gào lên − “Đấy, cho cô đấy!” − và lại tiếp tục hét, cho đến khi tôi buộc phải bịt tai lại. Thường thì những tiếng hét đáng sợ đó sẽ khiến bà Bloomfield tìm đến phòng học xem có chuyện gì đang xảy ra.
“Mary Ann là một đứa bé gái bướng bỉnh thưa bà.”
“Nhưng tại sao nó lại hét kinh khủng như vậy?”
“Nó hét vì nó thích.”
“Tôi chưa bao giờ nghe thấy tiếng gì đáng sợ như thế! Cô có thể giết chết con bé đấy. Tại sao nó không được ra ngoài chơi với anh nó?” “Tôi không thể nào bắt bé hoàn thành bài học của nó được.” “Nhưng Mary Ann chắc chắn là một bé gái ngoan, và chắc chắn hoàn thành bài học của mình.” Câu này được nói một bằng giọng dịu dàng với đứa trẻ. “Và tôi hy vọng sẽ không bao giờ nghe thấy những tiếng hét kinh khủng như vậy nữa!”
Rồi nhìn chằm chằm vào tôi bằng ánh mắt lạnh lùng, bà đóng cửa lại và đi khỏi đó. Thỉnh thoảng tôi cố làm cho đứa trẻ ngang bướng đó bất ngờ bằng cách bất thình lình hỏi về từ nó phải học trong khi nó đang nghĩ đến thứ khác. Thường thì nó nói từ đó, rồi ngay lập tức tỏ ra hỗn xược, ném vào tôi một cái nhìn khiêu khích như muốn nói: “Đấy! Em quá thông minh đối với cô. Cô không thể đánh lừa em được đâu.”
Một lần khác, tôi giả vờ hoàn toàn quên chuyện học hành. Tôi nói chuyện và chơi với nó như bình thường cho đến tối, khi tôi cho nó đi ngủ, sau đó tôi cúi xuống bên nó, trong khi nó nằm đó mỉm cười trong tâm trạng
vui vẻ. Ngay trước khi rời khỏi phòng tôi nói bằng giọng vui vẻ và ân cần như trước: “Nào, Mary Ann, hãy nói cho cô nghe từ đó trước khi cô hôn chúc em ngủ ngon nào. Lúc này em là một cô bé ngoan, và tất nhiên, em sẽ nói từ đó.”
“Không, em sẽ không nói đâu.”
“Vậy thì cô không thể hôn em đâu.”
“Em cóc cần.”
Tôi có bộc lộ nỗi buồn của mình cũng vô ích. Dù tôi nấn ná chờ đợi một dấu hiệu nào đó của sự ăn năn cũng chẳng ăn thua. Con bé thực sự “cóc cần”, và tôi để nó ở đó một mình trong bóng tối, choáng váng trước bằng chứng cuối cùng của sự bướng bỉnh nhẫn tâm đó. Trong thời thơ ấu tôi không thể tưởng tượng nổi một hình phạt nào khiến tôi khổ sở hơn việc mẹ tôi từ chối hôn tôi trước khi đi ngủ: chỉ nghĩ đến điều đó thôi tôi cũng cảm thấy thật tệ. Tôi mới chỉ cảm nhận cảm giác đó trong sự tưởng tượng thôi, bởi thật hạnh phúc, tôi chưa bao giờ phạm lỗi đến mức đáng phải chịu hình phạt ấy, nhưng tôi nhớ có lần, vì một lỗi nào đó của chị tôi, mẹ tôi đã thực sự nghĩ đến việc bắt chị phải chịu hình phạt đó. Tôi không biết khi ấy chị tôi cảm thấy như thế nào, nhưng những giọt nước mắt thương cảm và buồn cho chị đã rơi trên má tôi khiến mãi sau này tôi vẫn nhớ trải nghiệm đó.
Một điều gây khó chịu khác ở Mary Ann là thói quen chạy vào phòng trẻ chơi với những đứa em gái nhỏ và người vú em của nó, một thói quen không thể sửa được. Đó là điều tự nhiên, nhưng nó trái với mong muốn của bà mẹ, nên tôi dĩ nhiên cấm nó không được làm như vậy, và cố gắng hết sức giữ nó ở chỗ tôi, nhưng điều đó chỉ càng làm tăng thêm cảm giác thích được đến phòng trẻ của nó, và tôi càng cố gắng ngăn nó không đến đó, thì nó càng hay đến đó hơn, càng ở đó lâu hơn, dẫn đến sự không hài lòng của bà
Bloomfield, người mà tôi biết rõ, sẽ quy mọi trách nhiệm cho tôi. Một thử thách khác của tôi là việc thay quần áo cho nó vào buổi sáng. Lần thì nó không chịu tắm rửa, lần khác nó không chịu mặc quần áo, trừ khi nó được mặc cái áo choàng mà mẹ nó không thích nó mặc. Có lần nó la hét và chạy trốn khi tôi cố chạm vào tóc nó. Vậy nên, thường thì phải đánh vật với nó rất vất vả tôi mới có thể đưa nó xuống nhà, khi mà bữa sáng đã diễn ra được một nửa thời gian, và cái nhìn chằm chằm như lườm nguýt từ “mẹ” và những lời bình phẩm đầy cáu gắt từ “cha” chắc chắn là phần thường dành cho tôi, bởi vì có một số điều gây bực tức cho người cha nhiều đến mức cứ đúng bữa ăn là ông phải xả. Khi đó cái thực tế tôi không có khả năng làm hài lòng bà Bloomfield trong việc giúp con gái bà chọn váy áo để mặc chỉ là một trong những nỗi buồn phiền nhỏ nhặt của tôi mà thôi. Và còn nữa, kiểu tóc của đứa trẻ “trông chẳng bao giờ hợp với nó”. Đôi khi, như một sự trách mắng dữ dội nhằm vào tôi, bà bộc lộ cách hành xử của người phụ nữ mệt mỏi, phàn nàn bằng giọng chua cay về sự khó chịu mà việc không ưng ý đó gây ra cho bà.
Khi con bé Fanny đến phòng học, tôi hy vọng nó hiền lành và không gây phiền nhiễu, nhưng chỉ vài ngày, nếu không muốn nói là vài giờ, đã đủ để phá tan cái ảo tưởng đó của tôi. Tôi nhận thấy nó là đứa trẻ tinh quái, khó bảo, dễ nhượng bộ trước sự giả dối và lừa gạt, mới tí tuổi đầu đã thích sử dụng hai thứ vũ khí ưa thích để tấn công và phòng vệ: đó là nhổ nước bọt vào mặt người nào nó tức giận, và gầm lên như bò rống khi những đòi hòi vô lý của nó không được đáp ứng. Nhìn chung nó khá trật tự khi có mặt cha mẹ, và họ ấn tượng với ý niệm rằng nó là một bé gái khá dịu dàng, kiểu hiền lành giả tạo của nó khiến người khác rất dễ tin, còn những tiếng gầm của nó khiến họ nghi ngờ rằng tôi đã đối xử thiếu suy nghĩ gây khó chịu đối với nó, và khi mà cuối cùng tính xấu của nó trở nên rõ ràng trước con mắt đầy thành kiến
của họ, tôi cảm thấy rằng họ nghĩ chính tôi đã làm con bé thành ra như vậy. “Con bé Fanny dạo này bướng thế!” Bà Bloomfield nói với chồng. “Mình không thấy nó thay đổi tính nết từ khi nó sang phòng học sao? Nó sẽ sớm hư như hai đứa kia thôi, và em rất tiếc phải nói rằng gần đây bọn trẻ sinh hư.”
“Em nói có lý”, là câu trả lời. “Anh cũng nghĩ như vậy. Anh cứ nghĩ khi chúng ta thuê gia sư thì bọn trẻ sẽ ngoan hơn cơ, nhưng, ngược lại, chúng càng ngày càng hư. Anh không biết chuyện học hành của chúng như thế nào nhưng anh biết những thói quen của chúng thì chẳng được cải thiện chút nào, càng ngày chúng càng hoang dã, bẩn thỉu và bất lịch sự hơn.”
Tôi biết những lời nhận xét đó nhằm vào tôi, và những lời nói ấy, cũng như tất cả những câu nói bóng gió khác, đều ảnh hưởng nặng nề đến tôi hơn bất cứ lời chỉ trích, buộc tội trực diện, công khai nào, bởi vì nếu họ phê bình thẳng thắn và công khai thì tôi còn có thể lên tiếng biện hộ cho bản thân. Tôi nghĩ rằng tốt nhất tôi nên chế ngự mọi cơn phẫn uất, kìm nén phản ứng co rúm người vì nhạy cảm, và kiên trì tiếp tục việc của mình, cố gắng hết mức có thể, bởi vì hoàn cảnh càng khó khăn, tôi càng tha thiết mong muốn mình trụ vững được. Tôi nghĩ nếu tôi có thể trụ được với sự kiên trì không thể lay chuyển, dần dần bọn trẻ sẽ trở nên nhân đạo hơn: mỗi tháng trôi qua chúng sẽ khôn lên một chút, và trở nên dễ quản lý hơn, bởi vì không lẽ một đứa trẻ chín hoặc mười tuổi lại hoang dã và khó bảo như những đứa trẻ sáu hoặc bảy tuổi.
Tôi tự vỗ về bản thân rằng tôi tiếp tục ở đây là có lợi cho cha mẹ và chị gái, bởi vì, dù ít ỏi, tôi vẫn đang kiếm được thu nhập và với sự dè xẻn, tôi có thể dễ dàng dành dụm được chút tiền cho gia đình, nếu như cha mẹ và chị tôi vui lòng nhận nó. Vả lại, chính tôi muốn đi làm gia sư. Tôi đã tự chuốc lấy
tất cả những nỗi khổ cực này, và tôi quyết tâm chịu đựng nó. Hơn thế, tôi thậm chí không hối tiếc về bước đi mà mình đã thực hiện. Thậm chí ngay cả bây giờ tôi vẫn muốn chứng tỏ cho người thân thấy rằng tôi vui lòng đảm nhận việc này và có thể hoàn thành nó từ đầu đến cuối một cách đáng tự hào và nếu tôi từng cảm thấy thấp kém đến mức lặng lẽ đầu hàng hoặc không thể chịu đựng nổi nỗi khổ cực triền miên, thì tôi sẽ quay về với gia đình và tự nhủ:
Gian nan, khổ cực có thể chèn ép, nhưng không thể khuất phục được tôi! “Nghĩ về người thân của mình, mà quên đi khó khăn.”
Dịp Giáng sinh tôi được phép về thăm nhà, nhưng kỳ nghỉ của tôi chỉ kéo dài hai tuần lễ, “bởi vì”, bà Bloomfield nói, “Cô mới xa người thân của mình chưa lâu lắm, nên cô sẽ không thích ở nhà lâu hơn đâu.” Bà ấy nghĩ thế nào thì tùy, nhưng bà ấy đâu biết mười bốn tuần xa nhà đối với tôi nặng nề và dài đến mức nào. Bà ấy đâu biết tôi mong đến kỳ nghỉ biết bao, tôi thất vọng biết chừng nào trước sự cắt xén của họ. Tuy nhiên tôi không trách bà về chuyện đó. Tôi chưa bao giờ nói cho bà biết cảm giác của mình, và bà cũng chẳng quan tâm đến những cảm giác đó. Tôi chưa làm việc cho bà đủ một kỳ học, và việc bà không cho phép tôi nghỉ trọn đợt phép của một kỳ học là điều có thể biện minh được.
Chương IV
Người bà
Khỏi phải nói các bạn cũng có thể hình dung tôi vui như thế nào khi được trở về nhà, hạnh phúc ra sao khi được ở bên gia đình − tận hưởng từng phút nghỉ ngơi và tự do ở nơi quen thuộc đó, giữa những người thân yêu − tôi cũng chẳng cần diễn tả nỗi buồn khi lại đành phải nói lời tạm biệt gia đình một lần nữa.
Tuy vậy, với sự mạnh mẽ không hề giảm sút, tôi trở lại với công việc − một công việc gian khổ đến mức khó hình dung nổi đối với bất cứ ai chưa từng cảm nhận sự khổ cực của việc phải chịu trách nhiệm chăm sóc và dạy dỗ một nhóm trẻ ngỗ ngược, tinh quái, thích nổi loạn mà ngay cả khi người đó cố gắng hết sức cũng không thể buộc chúng thực hiện nhiệm vụ học tập, trong khi, đồng thời, người đó phải chịu trách nhiệm về hạnh kiểm của chúng trước những người có quyền lực cao hơn đòi hỏi ở cô ta những điều không thể nào đạt được nếu như không có sự trợ giúp của người giám sát cấp trên: vì sự lười biếng, lơ là hoặc vì sợ không được nhóm trẻ nổi loạn kia yêu thích mà những người có quyền lực cao hơn ấy không chịu trợ giúp. Tôi có thể hình dung ra một số gia sư phải đương đầu với những khó khăn lớn hơn thế: dù bạn khao khát sự thành công, dù bạn nỗ lực để hoàn thành nhiệm vụ, những nỗ lực của bạn bị cản trở và bị những người dưới quyền của bạn làm cho trở thành công cốc, và bị những người ở trên bạn khiển trách một cách thiếu công bằng.
Tôi mới chỉ kể chưa đến một nửa những điều khó chịu mà những học trò của mình gây ra, cũng như những khó khăn nảy sinh từ công việc của mình,
vì tôi sợ xâm phạm quá nhiều sự kiên nhẫn của người đọc, nhưng có lẽ, dù muốn hay không, sự kiên nhẫn của các bạn cũng bị xâm phạm rồi. Mấy trang gần đây của tôi không thú vị gì, nhưng chúng có lợi cho những ai quan tâm. Người nào không quan tâm đến những vấn đề như vậy chắc chắn sẽ bỏ cách quãng những trang đó, chỉ đọc lướt qua mà thôi, và có lẽ người viết cuốn sách này sẽ bị chê trách vì sự dài dòng, nhưng nếu một bậc phụ huynh có thể thu thập được bất kỳ lời khuyên thực tế nào, hoặc một người gia sư kém may mắn có thể tìm thấy điều gì đó hữu ích từ những gì tôi kể, thì sự vất vả của tôi coi như đã được đền đáp xứng đáng.
Để tránh sự lộn xộn và làm cho bạn đọc dễ hiểu, tôi đã kể về từng học trò của mình, về tính cách khác biệt của chúng, nhưng làm như thế tôi không thể mang đến cho các bạn ý niệm đầy đủ về sự vất vả, khổ sở mà cả ba đứa trẻ cùng lúc gây ra cho tôi, khi mà, thường thì cả ba đều kiên quyết “ngang bướng, nghịch ngợm, để trêu cô Grey, và làm cho cô tức giận”.
Thỉnh thoảng, vào những lúc như thế, ý nghĩ này bỗng xuất hiện trong đầu tôi − “nếu như người thân của tôi ở nhà thấy tôi trong hoàn cảnh này!”, và ý nghĩ cha mẹ và chị gái sẽ thương xót tôi đến mức nào khiến tôi tủi thân − đến mức phải cố gắng hết sức mới kìm được nước mắt. Nhưng tôi đã kìm nén được, cho tới khi những kẻ hành hạ mới tí tuổi đầu ấy xuống nhà ăn bữa tráng miệng, hoặc đi ngủ (viễn cảnh duy nhất của tôi về sự giải thoát), để rồi sau đó trong niềm hạnh phúc được ở một mình, tôi đầu hàng trước nhu cầu giải phóng một cơn nức nở thỏa thuê. Đó là một nhược điểm không được tôi nuông chiều thường xuyên. Việc của tôi quá nhiều, những phút rảnh rỗi của tôi quá quý giá nên tôi không thể dành nhiều thời gian cho sự khóc than vô ích.
Tôi đặc biệt nhớ buổi trưa của một ngày thời tiết xấu, có tuyết rơi, sau
khi tôi trở lại đó vào tháng Một. Bọn trẻ đã xuống nhà ăn trưa, tuyên bố bằng giọng oang oang rằng, chúng muốn “ngang bướng”, và chúng sẽ tiếp tục thói xấu đó, mặc dù tôi đã nói khản cả giọng, mỏi cả mồm, đã cố gắng giảng giải và khuyên chúng đừng ngang bướng. Tôi đã bắt Tom đứng vào góc phòng, và nói rằng nó không được trốn khỏi đó cho đến khi nào làm xong bài tập. Trong khi đó, Fanny lấy chiếc túi đựng đồ khâu của tôi, lục lọi các thứ trong túi − và nhổ nước bọt vào đó. Tôi bảo nó để chiếc túi yên đó, nhưng tất nhiên không có tác dụng. “Đốt nó đi, Fanny!” Tom gào lên, và đứa em gái nghe lệnh của anh nó ngay lập tức. Tôi lao tới giật cái túi ra khỏi lò sưởi, còn Tom lao ra cửa như tên bắn. “Mary Ann, ném cái bàn viết của cô ta ra cửa sổ đi!” Nó gào lên. Và cái bàn viết quý giá trên đó có những bức thư, những tờ giấy và một chút tiền mặt, tất cả những thứ giá trị của tôi sắp sửa bị đẩy khỏi cửa sổ tầng ba. Tôi lao như bay tới để cứu nó. Trong khi đó Tom đã ra khỏi phòng, và đang chạy xuống thang gác, theo sau là Fanny. Cứu được cái bàn, tôi chạy xuống để bắt bọn trẻ, và Mary Ann chạy theo sau. Cả ba đứa trẻ đều đã trốn khỏi tôi, chạy ra vườn, nghịch tuyết, la hét một cách vui sướng, hả hê.
Tôi phải làm gì đây? Nếu tôi chạy đuổi theo chúng, có lẽ tôi sẽ không thể bắt được một đứa nào, và chỉ càng khiến chúng chạy xa hơn. Nếu tôi không đuổi theo chúng, thì làm thế nào tôi bắt chúng quay vào nhà được? Cha mẹ chúng sẽ nghĩ gì về tôi, nếu họ nhìn thấy, nghe thấy bọn trẻ nô nghịch trong tuyết dày, không đội mũ, không đi giày cao cổ, không mang găng tay? Đang đứng ở gần của trong sự bối rối, cố gắng làm chúng sợ và khuất phục bằng cái nhìn trừng trừng và những lời tức giận, tôi nghe thấy một giọng nói chua cay, gay gắt vang lên từ phía sau −”
“Cô Grey! Liệu có thể như thế được chăng? Trời đất quỷ thần ơi, cô đang
nghĩ gì thế hả?”
“Tôi không thể bắt chúng vào nhà được, thưa ông”, tôi nói, quay đầu lại và trông thấy ông Bloomfield với đôi mắt màu xanh đục long sòng sọc. “Nhưng tôi muốn chúng phải vào nhà ngay lập tức!” Ông ta gào lên, tiến đến gần, trông thực sự dữ tợn.
“Vậy thì, thưa ông, ông có thể gọi bọn trẻ vào, nếu ông muốn, bởi vì chúng không nghe lời tôi”, tôi đáp, và bước lùi lại.
“Vào ngay, những đứa trẻ hỗn xược bẩn thỉu, nếu không ta sẽ dùng roi ngựa quất từng đứa một!” Ông ta gầm lên, và bọn trẻ nghe lời ông ngay lập tức. “Đấy, cô thấy chưa! Tôi nói một tiếng là chúng vào ngay!” “Vâng, khi ông lên tiếng.”
“Thật lạ, khi cô là người trông nom bọn chúng mà cô không thể điều khiển được bọn chúng tốt hơn thế! − Bây giờ chúng đi lên gác − những cái chân đầy tuyết thật kinh tởm! Đi theo chúng mau đi và làm cho chúng sạch sẽ, lịch sự đi, vì Chúa!”
Khi đó mẹ đẻ của ông đang ở trong nhà, và khi tôi bước về phía cầu thang, đi ngang qua của phòng khách, tôi nghe thấy bà ấy nói với con dâu những lời này. (Tôi chỉ có thể nghe được những từ được nhấn mạnh).
“Ôi, trời ơi! − Trong đời mình mẹ chưa từng thấy! − Chắc chắn sẽ làm chúng chết mất − ! Con à, con nghĩ cô ta có phải là một con người không hả? Hãy tin lời mẹ nói −”
Tôi không nghe được gì nữa, nhưng như thế là đủ.
Từ trước đến giờ lão bà Bloomfield quan tâm và rất lịch sự với tôi. Cho đến tận bây giờ tôi cứ nghĩ đó là một bà lão tốt bụng, có trái tim nhân hậu, vui tính. Bà thường đến chỗ tôi và nói chuyện bằng giọng thầm thì đầy vẻ bí
mật, gật và lắc đầu, ra hiệu bằng tay và mắt. Tôi chưa bao giờ biết một quý bà nào mang phong cách kỳ quặc ấy. Bà thậm chí thông cảm với những khó khăn mà tôi gặp phải với bọn trẻ, và đã nhiều lần, bằng những câu nói bị bỏ lửng, những cái gật đầu và nháy mắt lém lỉnh, bà bày tỏ rằng bà hiểu cách chỉ đạo thiếu suy nghĩ trong việc hạn chế quyền lực của tôi, và sự lơ là trong việc sử dụng quyền lực của mình để hỗ trợ tôi của mẹ bọn trẻ. Tôi không thích cái kiểu biểu lộ sự không tán thành ngầm như thế, và nhìn chung tôi không sẵn sàng tin, hoặc không thực sự hiểu nó bằng những lời nói công khai. Tôi chưa bao giờ đi xa hơn việc biểu lộ rằng nếu mọi chuyện đều theo quy củ và trật tự, thì công việc của tôi sẽ bớt khó khăn hơn, và tôi sẽ có thể hướng dẫn và dạy dỗ các học trò của mình tốt hơn, nhưng bây giờ, không còn nghi ngờ gì, tôi phải thận trọng. Trước đây, mặc dù tôi nhận thấy bà cụ có những nhược điểm (một trong những nhược điểm đó là xu hướng khoe khoang những khả năng hoàn hảo của mình), tôi luôn muốn biện minh cho những nhược điểm ấy, và khen ngợi mọi đức tính tốt mà bà sở hữu, thậm chí tưởng tượng ra những nết tốt khác chưa bộc lộ. Sự tử tế vốn là nguồn dinh dưỡng của cuộc đời tôi trong nhiều năm, ấy thế mà gần đây tôi đã bị từ chối, không được hưởng sự tử tế mà dù chỉ một dấu hiệu nhẹ nhất của nó cũng được tôi đón chào bằng niềm vui sướng đầy biết ơn. Không ngạc nhiên vì trái tim tôi dành sự ấm áp cho bà cụ ấy và luôn vui khi thấy bà xuất hiện và tiếc nuối khi bà rời khỏi đó.
Nhưng bây giờ, vài lời mà do may hoặc không may tôi nghe lỏm được khi đi ngang qua cửa phòng khách đã cách mạng hóa toàn bộ những ý nghĩ kính trọng bà trong tôi: giờ đây tôi coi bà là một kẻ đạo đức giả, không chân thành, một kẻ nịnh bợ, hay xét nét. Chắc chắn sẽ có lợi cho tôi nếu tôi vẫn gặp bà với nụ cười vui vẻ và giọng nói chân thành đầy kính trọng như trước,
nhưng tôi không thể. Thái độ của tôi thay đổi theo tình cảm trong tôi, và tôi trở nên xa cách và cảnh giác đến mức bà cụ không thể không để ý. Ngay khi nhận ra sự thay đổi đó ở tôi, thái độ của bà cụ cũng thay đổi: cái gật đầu thân thiện đã được đổi thành động tác gật đầu chào cứng nhắc, và nụ cười hòa nhã đã được thay thế bằng cái nhìn trừng trừng đầy giận dữ. Tính hay nói, đầy sôi nổi của bà giờ đây không dành cho tôi mà dành cho “cháu trai và các cháu gái yêu quý”, những đứa trẻ mà bà cưng nịnh và nuông chiều một cách lố bịch hơn cả mẹ của chúng.
Phải thú thật rằng tôi cảm thấy buồn đôi chút vì sự thay đổi này. Tôi sợ những hậu quả từ sự không hài lòng của bà và thậm chí cố gắng để giành lại “sân” mà tôi đã để mất − và tôi đã biết trước thế nào tôi cũng sẽ thành công ít nhiều. Một lần, tôi đơn giản chỉ hỏi thăm sau khi thấy bà ho: ngay lập tức khuôn mặt dài của bà nở nụ cười, và bà hạ cố nói cho tôi biết lịch sử đặc thù của chứng ho đó cùng những chứng bệnh khác, kèm theo đó là câu chuyện về sự chịu đựng đầy ngoan đạo của bà, một câu chuyện được kể theo phong cách hùng hồn, thừa thãi sự nhấn giọng, mà không cuốn sách nào có thể miêu tả hết được.
“Nhưng có một cách giải quyết tất cả các chứng bệnh, cô gái thân mến ạ, và đó là sự tuân phục” (kèm động tác hất đầu), “thuận theo ý Trời!” (kèm theo động tác giơ hai tay và ngước mắt lên cao). “Cách đó luôn giúp ta vượt qua các thử thách, và luôn có tác dụng” (gật đầu lia lịa). “Nhưng không phải ai cũng có thể nói điều đó đâu” (lắc đầu), “nhưng ta là người ngoan đạo, cô Grey ạ!” (một động tác gật và hất đầu đầy hàm ý). “Và ơn Trời, ta luôn như vậy” (thêm một cái gật đầu nữa), “và ta hãnh diện vì điều đó!” (vỗ tay và lắc đầu). Và với một câu trong Kinh thánh, được trích dẫn sai hoặc áp dụng không đúng chỗ, và những từ cảm thán tôn giáo lố bịch trong cách nói và
thái độ biểu đạt đến nỗi tôi không muốn nhắc lại, bà đi chỗ khác, hất cái đầu to của bà một cái trong sự hài lòng − ít nhất là với chính bản thân mình. Trong chuyến viếng thăm tiếp theo của bà tới Wellwood, tôi tiến xa đến mức nói rằng tôi vui khi thấy bà trông thật khỏe khoắn. Tác dụng của câu nói đó thật kỳ diệu: những lời nhận xét kiểu xã giao như vậy lại được hiểu như một lời khen nịnh, vẻ mặt của bà cụ rạng rỡ hẳn lên, và từ lúc đó trở đi bà đối xử với tôi hòa nhã và tốt bụng hết mực − ít nhất là qua những gì bà biểu lộ. Từ những gì giờ đây tôi thấy ở bà, và từ những gì tôi nghe được qua bọn trẻ, tôi biết rằng, để có được tình bạn thân ái với bà, tôi phải thốt ra một lời khen nịnh vào mỗi dịp thuận tiện, nhưng điều đó trái với nguyên tắc sống của tôi và bởi vì thiếu điều này, quý bà đồng bóng đó sẽ lại mau chóng tước mất sự ưu ái dành cho tôi và tôi tin bà sẽ lại ngấm ngầm làm tổn thương tôi. Bà không có ảnh hưởng lớn đối với con dâu trong việc chống lại tôi, bởi vì mẹ con họ không ưa nhau. Điều đó chủ yếu được bộc lộ qua sự gièm pha và nói xấu sau lưng con dâu của bà. Còn con dâu bà thể hiện điều đó qua sự trang nghiêm lạnh lùng trong cách xử sự, và không có sự khen nịnh nào của bà mẹ chồng có thể làm tan bức tường băng giá mà người con dâu dựng lên giữa họ. Nhưng với con trai mình, bà cụ thành công hơn. Ông chủ nhất nhất nghe lời mẹ, miễn sao bà xoa dịu tính khí cáu kỉnh của ông, và biết kiềm chế không làm ông ta điên tiết bởi sự nghiêm khắc của bà. Và tôi có lý do để tin rằng bà mẹ ấy làm tăng một cách đáng kể những thành kiến của con trai bà đối với tôi. Bà thường nói với con trai rằng tôi lơ là việc dạy dỗ bọn trẻ một cách đáng xấu hổ, và ngay cả mẹ của chúng cũng không quan tâm đến chúng đúng mức, và rằng con trai bà phải đích thân để mắt đến chúng nếu không, chúng sẽ hư hỏng cả lũ.
Bị xúi bẩy như vậy, ông chủ thường tự chuốc lấy bận rộn khi theo dõi
bọn trẻ chơi ở bên ngoài qua cửa sổ. Nhiều khi ông theo chúng ra sân và cũng thường bất ngờ xuất hiện khi chúng đang ném sỏi xuống cái giếng mà chúng bị cấm bén mảng tới hoặc nói chuyện với người đánh xe trong chuồng ngựa, hoặc đang mê chơi trong cái sân trang trại bẩn thỉu − trong khi đó, tôi đứng trong cảm giác mệt lử vì đã vắt kiệt sức lực để cố gắng ngăn cản chúng nhưng vô ích. Thường thì ông cũng bất ngờ ngó vào phòng học trong khi bọn trẻ đang ăn, chứng kiến cảnh chúng phun sữa ra khắp bàn và lên người chúng, thò ngón tay vào cốc của nhau, hoặc cãi nhau ỏm tỏi vì thức ăn như một đàn hổ con. Lúc đó nếu tôi im lặng, thì có nghĩa là tôi đồng lõa với hành vi bừa bãi của chúng. Nếu (như thường thấy) tôi quát mắng chúng để lập lại trật tự, thì có nghĩa là tôi sử dụng bạo lực một cách thái quá và nêu gương xấu cho những đứa bé gái về sự thô lỗ, thiếu dịu dàng trong lời ăn tiếng nói.
Tôi nhớ một buổi trưa mùa xuân, khi mà, may nhờ trời mưa, chúng không thể ra ngoài, và với sự may mắn đáng ngạc nhiên, tất cả chúng đều hoàn thành bài học của mình, kiềm chế việc chạy xuống nhà trêu chọc cha mẹ − một trò ma mãnh khiến tôi rất bực mình mà vào những ngày mưa tôi hiếm khi có thể ngăn cản được chúng bởi vì ở dưới đó, chúng tìm thấy sự mới lạ và cuốn hút − nhất là khi nhà đang có khách. Còn mẹ chúng, dù bà ấy bắt tôi phải giữ chúng trong phòng học, lại không bao giờ rầy la buộc chúng phải đi chỗ khác, hoặc tự mình bắt chúng phải quay trở lại phòng học. Nhưng ngày hôm đó chúng có vẻ hài lòng với nơi chúng đang ở, và tuyệt vời hơn, chúng dường như tự chơi với nhau mà không cần tôi phải bày trò vui, và không cãi nhau. Sự bận rộn của chúng là một điều khó hiểu. Chúng ngồi xổm với nhau trên một đống đồ chơi vỡ và một lô những quả trứng chim − hay đúng hơn là đống vỏ trứng bởi vì lòng trứng đã được lấy ra. Những vỏ trứng đó đã bị chúng làm vỡ và bị nghiền thành những mảnh nhỏ đến mức
tôi không thể hình dung nổi. Nhưng tôi không bận tâm miễn là chúng không gây ồn, và không giở trò tinh quái. Với cảm giác được nghỉ ngơi hiếm có, tôi ngồi bên lò sưởi, hoàn thành chiếc váy dài cho con búp bê của Mary Ann. Tôi định khi xong việc sẽ viết thư cho mẹ. Bỗng nhiên cánh cửa bật mở, và cái đầu xám xịt của ông Bloomfield thò vào.
“Ở đây im ắng thế? Các con đang làm gì vậy?” Ông nói. “Chí ít thì ngày hôm nay chúng không gây hại gì”, tôi nghĩ. Nhưng ông lại có một ý kiến khác. Bước đến bên cửa sổ và nhìn các con mình đang mải chơi, ông kêu lên bằng giọng cáu kỉnh: “Chúng mày định làm cái quái gì thế này?”
“Chúng con đang nghiền vỏ trứng, cha ạ!” Tom trả lời rõ to. “Sao chúng mày dám bày ra cái đống bẩn thỉu này hả, lũ quỷ con? Chúng mày không thấy chúng mày đã làm gì tấm thảm trải sàn hả?” Rồi ông quay sang tôi hỏi:
“Cô Grey, cô không biết chúng đang làm gì sao?”
“Có, thưa ông.”
“Cô biết á?”
“Vâng.”
“Cô biết! Và cô cứ ngồi đó, cho phép chúng tiếp tục làm trò này mà không có một lời quở trách sao?”
“Tôi nghĩ chúng không làm điều gì có hại cả.”
“Không làm gì có hại! Tại sao, cô nhìn xem! Nhìn tấm thảm mà xem, cô sẽ thấy − có thứ gì tệ như thế này trong một ngôi nhà của Chúa không hả? Hèn nào phòng của cô còn không được bằng một cái chuồng lợn − hèn nào học trò của cô chẳng được bằng một đàn lợn! − hèn nào − ôi! Tôi nói thế đấy, chuyện này vượt quá sự kiên nhẫn của tôi”, nói rồi ông bỏ đi, đóng cửa
đánh sầm một cái khiến bọn trẻ cười phá lên.
“Chuyện này cũng vượt quá sự kiên nhẫn của tôi!” Tôi vừa lẩm bẩm vừa đứng dậy, cầm chiếc que cời lửa đập lia lịa vào đám than xỉ, khuấy chúng lên bằng sức mạnh hiếm thấy. Tôi làm dịu sự tức giận của mình bằng cách giả vờ cời than trong lò sưởi.
Sau đó ông Bloomfield lại tiếp tục ngó vào phòng xem liệu phòng học của bọn trẻ đã sạch sẽ, ngăn nắp chưa, và khi bọn trẻ vẫn đang bầy bừa những mảnh đồ chơi, que gậy, những viên đá cuội, rơm rạ, lá lẩu, và những thứ rác rưởi khác trên sàn mà tôi không thể ngăn nổi hoặc ra lệnh cho chúng thu dọn còn người hầu thì không chịu “đi theo sau chúng thu dọn”, tôi đã phải dùng phần lớn khoảng thời gian nghỉ ngơi hiếm hoi của mình, quỳ trên sàn một cách vất vả, để dọn dẹp. Tôi đã từng nói với chúng rằng khi nào chúng dọn dẹp tất cả mọi thứ trên thảm, chúng mới được ăn tối. Fanny phải dọn một phần, Mary Ann dọn nhiều gấp đôi, còn Tom dọn phần còn lại. Hai đứa bé gái làm phần việc của mình, nhưng Tom tức giận đến mức nó lao thẳng ra bàn, làm bánh mỳ và sữa rơi khắp sàn, đánh hai đứa em, đá những cục than trong khay đựng than rơi tung tóe, cố tình hất đổ bàn ghế, và sắp sửa biến căn phòng thành một bãi rác, nhưng tôi túm được nó và sai Mary Ann đi gọi mẹ bọn trẻ, giữ chặt nó, trong khi nó đấm, đá, gào hét, chửi rủa, cho đến khi bà Bloomfield xuất hiện.
“Có chuyện gì với con trai tôi thế này?” Bà hỏi.
Và khi mọi sự được giải thích cho bà nghe, tất cả những gì bà làm là gọi một vú em đến dọn phòng, và mang bữa tối đến cho cậu chủ Bloomfield. “Đây”, Tom gào lên bằng giọng đắc thắng, rời mắt khỏi đĩa thức ăn, ngẩng lên với cái miệng đầy thức ăn nói. “Đây, cô Grey! Cô thấy chưa, em không cần dọn dẹp bất cứ thứ gì, em vẫn được ăn tối!”
Người duy nhất trong nhà thực sự thông cảm với tôi là chị vú em bởi vì bản thân chị đã phải chịu đựng những nỗi khổ sở tương tự mặc dù ở mức độ nhẹ hơn. Chị không có nhiệm vụ dạy dỗ bọn trẻ nên chị không phải chịu trách nhiệm về cách cư xử của chúng.
“Ôi! Cô Grey!”, chị thường nói, “cô dạy bọn trẻ vất vả quá!” “Đúng vậy, Betty, và tôi dám nói rằng chị hiểu nỗi vất vả đó.” “Vâng, tôi hiểu! Nhưng tôi không làm bản thân mình hoặc bọn trẻ tức
giận như cô đâu. Và cô thấy đấy, thi thoảng tôi đét đít chúng: mấy đứa – thỉnh thoảng tôi cho chúng ăn roi, không có cách khác đâu. Dù sao tôi cũng đã mất việc vì làm như vậy.”
“Vậy ư Betty? Tôi nghe nói chị sắp rời khỏi đây.”
“Đúng vậy, cầu Chúa ban phước cho cô! Bà chủ đã cảnh báo tôi. Bà ấy nói nếu tôi còn đánh chúng thì tôi sẽ phải rời khỏi đây trước Giáng sinh, nhưng tôi không thể dừng tay được. Tôi không biết cô có thể nhịn được, bởi vì Mary Ann chỉ bướng bằng nửa các em gái của nó thôi.”
Chương V
Ông cậu
Ngoài bà mẹ của ông chủ còn có một người họ hàng nữa của gia đình thường đến thăm nhà khiến tôi phải chịu nhiều phiền phức − đó là “cậu Robson”, em trai của bà Bloomfield, một người đàn ông tự phụ có dáng người cao, mái tóc đen và nước da mai mái như chị gái của ông, với cái mũi đầy vẻ khinh khỉnh, đôi mắt xám ti hí, thường ở trong trạng thái lim dim, với sự thiếu hiểu biết kết hợp cùng thái độ khinh thường tất thảy mọi thứ xung quanh. Ông ta là một người đàn ông to béo, nhưng biết cách thắt đai làm cho bụng mình nhỏ lại một cách đáng kể và với dáng người cứng nhắc không tự nhiên, ông Robson cao lớn đạo mạo ấy cho thấy tính kiêu ngạo, thái độ khinh rẻ phụ nữ ẩn đằng sau vẻ công tử bột. Ông ta hiếm khi hạ cố chú ý đến tôi, và khi ông ta chú ý, sự xấc láo khinh miệt trong giọng nói và thái độ của ông khiến tôi tin rằng ông chẳng xứng làm một quý ông. Nhưng đó không phải là lý do khiến tôi ghét sự có mặt của ông ở nhà đó, dù những ảnh hưởng xấu của ông đối với bọn trẻ − khuyến khích tất cả những thói xấu của chúng, và làm cho kết quả lao động của tôi trong nhiều tháng trở thành công cốc.
Ông ta hiếm khi hạ cố chú ý đến Fanny và Harriet, nhưng lại có vẻ thích Mary Ann. Ông ta liên tục khuyến khích cái thói điệu đà, màu mè của con bé (cái thói mà tôi đã cố gắng ở mức cao nhất để loại bỏ), luôn miệng huyên thuyên về khuôn mặt xinh xắn của nó, nhồi vào đầu nó đủ mọi ý niệm tự phụ liên quan đến hình thức của mình (trong khi tôi dạy nó coi đó là điều nhỏ nhặt so với sự tu dưỡng trí tuệ và tính cách), và tôi chưa bao giờ thấy một đứa trẻ nào dễ bị ảnh hưởng bởi sự khen nịnh như nó. Dù nó hay anh trai nó
làm điều gì sai quấy, ông cậu cũng khuyến khích bằng cách cười lớn, nếu không phải là bằng sự khen ngợi lộ liễu. Người lớn biết rất ít về tác hại mà họ gây ra cho con trẻ qua việc cười trước những lỗi lầm của chúng, và chế giễu những gì mà những người bạn thực sự đã cố gắng dạy chúng trân trọng.
Mặc dù không phải là một kẻ nghiện ngập, ông Robson có thói quen nốc một lượng lớn rượu vang và thỉnh thoảng khoái uống nước lọc pha với rượu brandy. Ông ta cố hết sức dạy thằng cháu trai bắt chước mình uống thứ đó, và dạy nó tin rằng càng uống nhiều rượu thì tinh thần càng sảng khoái, và nó càng thích rượu, thì nó càng chứng tỏ chất đàn ông của mình và càng chứng tỏ rằng mình vượt trội so với những đứa em gái. Ông Bloomfield hầu như không nói gì để phản đối việc ấy, bởi vì thứ đồ uống ưa thích của ông là rượu gin pha nước lọc, thứ mà ông uống một lượng khá lớn mỗi ngày − và tôi cho rằng chính vì thế mà da của ông tai tái và tính khí của ông luôn cáu bẳn.
Ông Robson cũng khuyến khích xu hướng hành hạ các loài vật của Tom, bằng cả sự giáo huấn lẫn sự làm gương của chính ông. Vì thường xuyên đến để săn bắn trên đất của anh rể, ông ta thường mang theo những con chó cưng của mình và đối xử với chúng một cách tàn nhẫn đến nỗi, khiến tôi có ý nghĩ xấu xa rằng tôi sẵn sàng bỏ ra một đồng tiền vàng vào bất cứ ngày nào để xem một trong những con chó đó cắn ông ta, miễn là nó có thể làm điều đó mà không bị trừng phạt. Thi thoảng khi đang trong tâm trạng đầy tự mãn, ông ta đi săn tổ chim với bọn trẻ, một việc khiến tôi tức giận và phiền lòng không thể tả nổi. Bởi vì bằng những nỗ lực thường xuyên và kiên trì, tôi tự an ủi bản thân rằng tôi đã làm cho chúng hiểu được phần nào sự ác độc trong thú vui đó, và hy vọng theo thời gian chúng sẽ hiểu được ý nghĩa của sự công bằng và lòng nhân ái, nhưng mười phút đi lùng tổ chim với cậu Robson, hay thậm chí chỉ một tiếng cười của ông ta liên quan đến những
hành động dã man của chúng trước kia, cũng đủ để phá hủy ngay lập tức kết quả của quá trình thuyết phục và giảng giải công phu của tôi. Tuy nhiên, thật may mắn, trong mùa xuân đó, nhóm đi săn tổ chim ấy, chẳng săn được gì, ngoài những tổ chim trống không, hoặc vài quả trứng − không đủ kiên nhẫn để những cái tổ ấy yên cho tới khi những con chim ấp trứng − trừ một lần. Lần ấy Tom cùng ông cậu sang khu đất gần đó để săn tổ chim và hớn hở chạy vào vườn, với một ổ chim mới đẻ trong tay. Vừa mới được tôi đưa ra ngoài chơi, Mary Ann và Fanny liền chạy đến ngắm say sưa chiến lợi phẩm của anh mình, và nài nỉ xin mỗi đứa một con chim non. “Không, không cho một con nào hết!” Tom quát lớn. “Tất cả là của tao, cậu Robson cho tao đấy − một, hai, ba, bốn, năm con − chúng mày không được động vào con nào hết! Không, không một con nào, động vào chết với tao!”, nó nói bằng giọng đắc chí. Đặt tổ chim xuống đất, nó đứng giạng chân trước tổ chim, hai tay xỏ túi quần, cúi người về phía trước, thể hiện cảm giác khoái chí theo đủ kiểu qua vẻ mặt.
“Nhưng chúng mày sẽ được xem anh giải quyết chúng nhé. Anh nói thế đấy, anh sẽ lấy roi quất chúng nhé? Hãy xem anh có dám không nhé. Ôi! Có trò hay dành cho anh trong cái tổ chim đó.”
“Nhưng, Tom”, tôi nói, “cô sẽ không cho phép em hành hạ những con chim đó. Hoặc là để chúng chết thật nhanh, ngay lập tức, hoặc là trả chúng về nơi em đã bắt chúng để chim mẹ có thể tiếp tục cho chúng ăn.”
“Nhưng cô không biết nơi đó là nơi nào đâu. Chỉ có em và cậu Robson biết thôi.”
“Nhưng nếu em không nói cho cô biết, thì tự cô sẽ giết chúng − dù cô ghét làm việc đó vô cùng.”
“Cô không dám đâu. Cô không dám động vào chúng đâu! Bởi vì cô biết
cha, mẹ, và cậu Robson sẽ tức giận. Ha, ha! Em biết thừa rồi!” “Cô sẽ làm những gì cô nghĩ là đúng trong trường hợp cần thiết mà không cần phải hỏi ý kiến ai. Nếu cha mẹ em không ủng hộ việc làm của cô, thì cô rất tiếc sẽ phải làm họ bực mình, và dĩ nhiên ý kiến của cậu Robson của em không quan trọng đối với cô.”
Nói như vậy − bị thúc đẩy bởi ý thức trách nhiệm − là đối mặt với rủi ro tự làm khó cho mình và kích động sự tức giận ở ông bà chủ. Tôi lấy một hòn đá nhẵn, được người làm vườn xếp làm bẫy chuột. Sau đó tôi cố gắng thuyết phục tên bạo chúa nhỏ đó trả những con chim non về tổ của chúng, tôi hỏi lại một lần nữa xem nó định làm gì với chúng. Với vẻ hớn hở đầy độc ác, nó bắt đầu liệt kê ra một loạt các kiểu tra tấn, và trong khi nó mải liệt kê, tôi thả hòn đá xuống những nạn nhân sắp bị tra tấn của nó và làm cho chúng chết một cách nhanh chóng nhất có thể. Những tiếng kêu the thé vang lên, những lời nguyền rủa tồi tệ, kèm theo đó là sự xúc phạm trơ tráo. Ông cậu Robson đi tới với khẩu súng trên tay và vừa mới dừng lại để đá con chó của ông ta. Tom lao về phía ông ta, thề rằng ông ta cần phải đá tôi thay vì đá con chó Juno. Ông Robson đứng nghiêng người bên cây súng, cười hô hố trước cơn cuồng bạo lực của thằng cháu cũng như những lời nguyền rủa và những cái tên có tính chất lăng nhục mà nó ném tới tấp vào tôi. “Ô, hô, mày là một chàng trai cừ đấy!” Ông ta thốt lên, rồi cầm súng và đi về phía ngôi nhà. “Thằng bé gan dạ đấy. Tôi thề, chưa bao giờ tôi thấy một thằng nhóc có phong độ quý tộc như thế. Nó đã vượt ra khỏi sự cai quản của đám đàn bà rồi: Lạy Chúa! Nó không vâng lời mẹ, bà, gia sư, và tất cả đám đàn bà! Ha, ha, ha! Đừng cáu thế, Tom, ngày mai cậu sẽ kiếm cho mày một ổ chim non khác.”
“Ông Robson, nếu ông kiếm một ổ chim non khác, thì tôi cũng sẽ giết
chúng”, tôi nói.
“Hừm!” Ông ta đáp, và ném về phía tôi một cái nhìn trừng trừng − cái nhìn mà trái với sự mong đợi của ông ta, tôi đã đối diện không hề nao núng − rồi với vẻ khinh miệt của kẻ bề trên, ông ta quay gót, bước vào nhà. Sau đó Tom hầm hầm bước vào nhà, kể mọi chuyện với mẹ. Bà mẹ thường không nói nhiều về bất cứ chủ đề gì, nhưng, sau đó khi bà gặp tôi, vẻ mặt bà sa sầm và cách cư xử của bà thật lạnh lùng. Sau một vài lời nhận xét lấy lệ về thời tiết, bà nói − “Tôi rất tiếc, cô Grey, cô nghĩ rằng can thiệp vào những thú vui của cậu chủ Bloomfield là việc cần thiết, nhưng cậu chủ rất bực mình vì cô đã giết những con chim non của cậu.”
“Khi những trò vui của cậu Bloomfield bao gồm trò tra tấn những con vật biết đau đớn”, tôi trả lời, “thì tôi nghĩ can thiệp là trách nhiệm của tôi.” “Dường như cô đã quên”, bà ta nói bằng giọng lạnh lùng, “rằng tất cả những sinh vật đó đều được sinh ra vì lợi ích của chúng ta.” Tôi nghi ngờ cái học thuyết đó, nhưng tôi đáp một cách đơn giản − “Nếu đúng như vậy, thì chúng ta càng không có quyền hành hạ chúng để mua vui.” “Tôi nghĩ”, bà nói, “niềm vui của một đứa trẻ chắc chắn không đủ sức nặng để chống lại lợi ích của một kẻ cục súc không có tâm hồn.” “Nhưng, vì lợi ích của đứa trẻ, những thú vui như thế không thể được khuyến khích”, tôi trả lời bằng giọng nhẹ nhàng, để bù cho sự cố chấp. “Hạnh phúc thuộc về người biết khoan dung, bởi vì họ sẽ nhận được sự khoan dung.”
“Chao ôi! Tất nhiên rồi, nhưng đó là nói về cách đối xử giữa người và người.”
“Con người biết khoan dung thể hiện lòng khoan dung cả với những con vật”, tôi mạnh dạn nói thêm.
“Tôi nghĩ cô chẳng có lòng khoan dung lắm đâu”, bà ta đáp bằng giọng chua cay, cùng với một nụ cười vội nở rồi tắt ngấm ngay sau đó. “Cô đã giết những con chim đó theo cái cách gây kinh hoàng, và khiến cho đứa bé đáng yêu ấy buồn chỉ vì ý thích nhất thời của cô.”
Tôi cho rằng tốt nhất không nên nói thêm nữa. Cuộc tranh luận đã bị đẩy đến bên bờ của một cuộc cãi vã chưa từng có giữa tôi và bà Bloomfield. Chưa bao giờ tôi với bà ta nói qua nói lại với nhau nhiều và căng thẳng như thế kể từ ngày tôi đặt chân tới đây.
Nhưng ông Robson và bà cụ Bloomfield không phải là những vị khách duy nhất thường xuyên đến Wellwood khiến tôi gặp phiền phức. Mỗi vị khách đến nhà ấy ít nhiều đều khiến tôi khó chịu, không hẳn là vì họ không thèm để ý đến tôi (mặc dù tôi cảm thấy chỉ riêng về mặt này, cách cư xử của họ thật kỳ cục), mà bởi tôi nhận thấy dù muốn đến mức nào tôi cũng chẳng thể tách các học trò của mình khỏi họ. Tom nhất định phải nói chuyện với họ, và Mary Ann nhất định phải được họ chú ý. Tom và Mary Ann không đứa nào biết xấu hổ là gì, thậm chí không biết đến sự khiêm tốn thông thường. Chúng cắt ngang các cuộc trò chuyện của người lớn một cách sỗ sàng và ầm ĩ, trêu chọc họ bằng những câu hỏi xấc xược nhất, túm cổ áo những người đàn ông một cách thô lỗ, trèo lên đầu gối những vị khách, bá vai họ hoặc lục lọi túi áo của họ, giật váy của những quý bà, làm tóc họ rối tung, dựng cổ áo của họ lên, và mè nheo xin nữ trang của họ.
Bà Bloomfield có đủ ý thức để có thể bị sốc và bực mình trước tất cả những hành động đó, nhưng bà không có đủ ý thức ngăn cản chúng. Bà trông đợi tôi làm việc ấy. Nhưng làm sao tôi có thể cơ chứ − khi mà các vị khách, với những bộ đồ lịch sự và những khuôn mặt mới, không ngừng khen nịnh và nuông chiều chúng, để lấy lòng cha mẹ chúng − với bộ quần áo mộc mạc,
khuôn mặt không có gì nổi bật và những lời trung thực, làm sao tôi có thể kéo chúng ra khỏi đó? Tôi suy nghĩ nát óc để có thể thực hiện được việc đó và bằng cách cố gắng làm trò vui cho chúng, tôi cố thu hút chúng về phía mình: bằng cách sử dụng quyền lực mà tôi có, sự nghiêm khắc mà tôi dám sử dụng, tôi cố ngăn cản không cho chúng quấy rầy những vị khách, và bằng cách phê bình cách cư xử vô lễ của chúng để khiến chúng xấu hổ, không lặp lại hành động đó nữa. Nhưng chúng đâu biết xấu hổ là gì. Chúng coi khinh thứ quyền lực không có sự khủng bố hậu thuẫn, và bởi chúng không có trái tim dành cho lòng tốt và tình cảm, hoặc những điều đó được bảo vệ quá chắc chắn và bị giấu giếm quá kỹ đến nỗi tôi dù có cố gắng đến mấy cũng không thể nào tìm ra cách để chạm tới.
Nhưng những thử thách của tôi trong thời gian đó đã kết thúc − sớm hơn tôi nghĩ hoặc mong muốn, bởi vào một buổi tối đẹp trời ngay trước thềm tháng Năm, khi tôi khấp khởi mừng vì kỳ nghỉ đang đến gần, và tự chúc mừng bản thân đã đạt được chút ít tiến bộ trong việc dạy dỗ bọn trẻ (ít nhất, việc học tập của chúng vẫn được duy trì, vì tôi đã nạp vào đầu chúng được chút gì đó, và cuối cùng tôi đã khiến chúng hiểu ra − dù chỉ chút ít − rằng sẽ khôn ngoan hơn nếu chúng hoàn thành bài tập của mình đúng giờ để có thời gian giải trí thay vì tra tấn bản thân mình và tôi suốt thời gian dài mà chẳng có mục đích gì). Buổi chiều hôm đó bà Bloomfield gọi tôi đến gặp bà và lạnh lùng thông báo rằng sau ngày hạ chí, họ không cần tôi ở nhà họ nữa. Bà khẳng định với tôi rằng tính cách và hạnh kiểm của tôi nói chung không thể chấp nhận được, nhưng bọn trẻ đã có được chút tiến bộ kể từ khi tôi tới nên ông Bloomfield và bà cảm thấy họ có trách nhiệm tìm kiếm một phương pháp giáo dục khác. Mặc dù trội hơn những đứa trẻ cùng tuổi về khả năng, những đứa trẻ nhà Bloomfield rõ ràng tụt hậu so với trẻ cùng trang lứa về
học thức. Cách cư xử của chúng thiếu văn hóa, và tính cách của chúng ngỗ ngược. Mẹ của chúng cho rằng sở dĩ chúng như vậy một phần là do sự thiếu cứng rắn, thiếu sự cần cù và quan tâm một cách kiên trì của tôi.
Sự cứng rắn không gì lay chuyển nổi, sự cần cù đến mức quên mình, sự kiên trì không biết mệt mỏi, sự quan tâm không ngừng nghỉ là những phẩm chất mà tôi thầm tự hào về bản thân mình, và tôi hy vọng qua thời gian, những phẩm chất ấy sẽ giúp tôi vượt qua những khó khăn để đi đến thành công. Tôi muốn nói điều gì đó để bào chữa cho bản thân, nhưng trong khi cố gắng lên tiếng, tôi cảm thấy giọng nói của mình không thoát ra được, và thay vì bộc lộ bất cứ cảm xúc nào hoặc để mặc những giọt nước mắt dâng trào trong mắt, tôi chọn im lặng, và chịu đựng tất cả như một kẻ phạm tội tự nhận hình phạt.
Vậy là tôi bị đuổi việc, và buộc phải về nhà. Chao ôi! Mọi người ở nhà sẽ nghĩ gì về tôi? Sau tất cả những gì tôi đã khoác lác, tôi không thể giữ được việc làm gia sư trong vòng chỉ một năm cho ba đứa trẻ nhỏ có bà mẹ được chính bà cô của tôi đánh giá là “một phụ nữ tử tế”. Tôi không cần phải hy vọng những người thân của mình sẵn lòng để tôi thử lần nữa. Đó là một ý nghĩ không dễ chịu bởi vì tôi bực tức, phiền não, thất vọng, vì tôi đã biết yêu thương, quý trọng gia đình, và vẫn chưa mệt mỏi vì phiêu lưu, hoặc chưa sẵn sàng buông xuôi. Tôi biết không phải tất cả các bậc cha mẹ đều giống như ông bà Bloomfield, và tôi dám chắc rằng, không phải đứa trẻ nào cũng giống như những đứa con của họ. Gia đình tiếp theo mà tôi đến làm gia sư chắc chắn khác, và bất cứ sự thay đổi nào cũng vì điều tốt đẹp hơn. Tôi đã được rèn luyện qua nghịch cảnh, được giáo dục qua trải nghiệm thực tế, và tôi khát khao chuộc lại danh dự đã mất của mình trong mắt của những người có ý kiến quan trọng hơn ý kiến của toàn thế giới này về tôi.
Chương VI
Trở về nhà xứ
Tôi ở nhà mấy tháng trong yên ổn, trong sự thú vị bình lặng của tự do, thư giãn, và tình cảm chân thành từ tất cả những gì tôi đã gắn bó keo sơn bấy lâu nay, trong sự theo đuổi nhiệt tình đối với việc học hành để bù đắp cho những gì tôi đã mất trong thời gian ở Wellwood, và để tích lũy kiến thức cho tương lai. Sức khỏe của cha tôi rất xấu, nhưng không xấu hơn một cách rõ rệt so với lần trước tôi về thăm nhà, và tôi mừng vì bằng sự trở về của mình, tôi có thể làm cha vui lên, có thể giúp ông khuây khỏa bằng cách hát cho ông nghe những bài ca ông yêu thích.
Không ai vui mừng trước thất bại của tôi, không ai nói đáng lẽ tôi nên nghe lời khuyên của người thân, không nên xa nhà đi làm gia sư. Tất cả người thân của tôi đều vui mừng đón nhận tôi trở về, thậm chí dành cho tôi sự yêu thương và ân cần hết mực, để bù đắp cho những nỗi khổ sở mà tôi đã trải qua. Nhưng không ai đụng tới một đồng từ số tiền tôi kiếm được và đã giữ cẩn thận với hy vọng chia sẻ nó với gia đình của mình. Nhờ biết chắt bóp, biết giật gấu vá vai, các khoản nợ của gia đình tôi đã được trả gần hết. Chị Mary đã thu được thành công đáng kể trong việc bán tranh, nhưng cha tôi khăng khăng bắt chị giữ tất cả những thành quả chị làm ra cho bản thân chị. Tất cả chúng tôi có thể tiết kiệm chi tiêu bằng cách hạn chế mua váy áo và những khoản chi tiêu không cần thiết, cha tôi bảo chúng tôi hãy đem số tiền kiếm được gửi tiết kiệm, nói rằng chúng tôi chẳng biết khi nào mình sẽ phải phụ thuộc vào tiền tiết kiệm để sống, bởi vì ông cảm thấy ông chẳng còn ở bên chúng tôi được bao lâu nữa, và chỉ Chúa mới biết mẹ con tôi sẽ
thành ra như thế nào khi ông không còn nữa!
Ôi, người cha thân yêu của tôi! Nếu ông bớt lo lắng hơn về những nỗi khổ sở đe dọa chúng tôi khi ông không còn nữa, thì tôi tin rằng điều đáng sợ nhất sẽ không xảy ra sớm như vậy. Nếu có thể kiềm chế được thì mẹ tôi chẳng bao giờ nhắc đến chủ đề đó để ông khỏi lo buồn.
“Ôi, Richard!” Có lần mẹ kêu lên, “nếu anh loại bỏ những chuyện buồn phiền, u ám ấy khỏi tâm trí thì anh sẽ sống lâu như mẹ con em: ít nhất anh sẽ sống để thấy các con gái của chúng ta lấy chồng, và anh sẽ trở thành người ông ngoại hạnh phúc, cùng với phu nhân già vui tính của anh.”
Mẹ tôi cười, và cha tôi cũng cười, nhưng tiếng cười của cha mau chóng tắt lịm, thay vào đó là tiếng thở dài buồn bã.
“Chúng lấy chồng − không có một xu dính túi!” Ông nói: “Tôi không biết ai sẽ chịu cưới chúng đây.”
“Tại sao chứ, chẳng lẽ không người nào sẽ cảm thấy biết ơn vì cưới được chúng ư? Chẳng phải khi anh cưới em, em cũng chẳng có một xu dính túi ư? Và anh, ít nhất, đã giả vờ hài lòng với những gì mình giành được. Nhưng chúng có lấy chồng hay không không quan trọng. Chúng ta có thể nghĩ ra cả nghìn cách để kiếm sống một cách lương thiện. Richard ạ, em không hiểu sao anh có thể nghĩ đến việc làm mệt cái đầu mình với nỗi lo về sự nghèo khổ nếu anh qua đời cứ như thể sự nghèo khổ có thể so sánh được với nỗi đau mất anh − một nỗi đau khổ mà anh biết sẽ nhấn chìm tất cả những người thân của anh, và là nỗi đau khổ mà anh phải cố gắng hết sức mình để tránh cho mẹ con em. Muốn làm cho thể xác khỏe mạnh thì chẳng gì bằng giữ tinh thần vui vẻ, anh ạ.”
“Alice, anh biết, anh cứ phiền não như thế này thật không phải, nhưng anh không thể không buồn phiền: em cứ phải chịu đựng cùng anh mãi thế
này.”
“Em sẽ không phải chịu đựng cùng anh đâu, nếu em có thể làm anh thay đổi”, mẹ tôi đáp. Nhưng sự gay gắt trong lời nói ấy bị vô hiệu hóa bởi sự âu yếm trong giọng nói và nụ cười dịu dàng của mẹ, nụ cười khiến gương mặt của cha tôi trở nên tươi tắn hơn, khiến nụ cười trên gương mặt của cha tôi quay trở lại.
“Mẹ”, tôi nói, ngay khi tôi có thể tìm được cơ hội nói chuyện riêng với mẹ, “tiền của con không nhiều, chẳng giúp gia đình ta được bao lâu: nếu con có thể kiếm được thêm, thì con sẽ làm giảm nỗi lo của cha, ít nhất là về một vấn đề. Con không thể vẽ được như chị Mary, vậy nên việc tốt nhất con có thể làm là tìm một gia đình khác để xin làm gia sư.”
“Vậy là con sẽ lại thử lần nữa sao, Agnes?”
“Vâng.”
“Con yêu, tại sao chứ, mẹ cứ nghĩ con đã chịu đựng đủ rồi.” “Con biết”, tôi nói, “không phải ai cũng giống ông bà Bloomfield đâu.” “Một số người còn tệ hơn họ”, mẹ ngắt lời tôi.
“Nhưng con nghĩ không có nhiều người như vậy”, tôi đáp, “và con chắc chắn rằng không phải tất cả trẻ con đều như bọn trẻ nhà ấy bởi vì con và chị Mary có như vậy đâu. Chúng con luôn vâng lời cha mẹ, đúng không nào?”
“Đúng vậy, nhưng, mẹ không nuông chiều làm các con hư hỏng, và các con không phải là những thiên thần hoàn hảo. Mary có tính bướng ngầm, và con cũng có nết xấu, nhưng nhìn chung các con là những đứa con ngoan.”
“Con biết đôi khi con dỗi hờn, và con mừng nếu những đứa trẻ ấy thỉnh thoảng dỗi hờn bởi vì như vậy con có thể hiểu chúng, nhưng chúng không bao giờ dỗi hờn, bởi vì chúng không biết đến cảm giác bị xúc phạm, tổn
thương, hay xấu hổ. Chúng không biết thế nào là hạnh phúc trừ khi chúng mê chơi.”
“Nếu chúng không biết cảm nhận, thì đó không phải là lỗi ở chúng. Con không thể mong hòn đá mềm và dễ nặn như đất sét được.” “Không, nhưng sống với những đứa trẻ vô cảm, khó hiểu ấy rất khó chịu. Mẹ không thể yêu chúng, và nếu mẹ có thể, thì tình yêu của mẹ sẽ bị gạt đi. Chúng không thể đáp lại tình cảm, không trân trọng và không hiểu được tình yêu. Nhưng, cho dù con lại sa vào gia đình đó lần nữa − điều không thể xảy ra − thì bây giờ con đã có kinh nghiệm để bắt đầu lại, và con sẽ làm tốt hơn lần trước. Nói tóm lại, hãy để con thử một lần nữa.”
“Ôi, con gái, mẹ hiểu con không dễ nản lòng. Mẹ mừng vì điều đó. Nhưng hãy để mẹ nói cho con nghe, con xanh xao và gầy hơn khi con rời nhà đi làm, và mẹ không thể để con làm tổn hại sức khỏe của mình để kiếm tiền cho bản thân con hay cho người khác.”
“Chị Mary cũng nói với con rằng con đã thay đổi, và con không ngạc nhiên vì điều đó, bởi vì trong thời gian ở đó con luôn ở trong trạng thái bối rối và lo âu triền miên, nhưng lần tới con quyết tâm chấp nhận mọi sự một cách bình thản.”
Sau khi bàn kỹ hơn, mẹ hứa sẽ ủng hộ tôi một lần nữa, miễn là tôi biết chờ đợi và kiên nhẫn. Tôi nhờ mẹ lựa lời nói chuyện với cha, vào lúc nào và bằng cách nào mẹ thấy thích hợp nhất. Tôi chưa bao giờ nghi ngờ khả năng thuyết phục cha của mẹ. Trong khi đó, với sự tập trung, tôi tìm kiếm thông tin trên những trang quảng cáo trên báo, và viết thư trả lời từng trường hợp “cần tìm nữ gia sư” mà tôi cảm thấy có vẻ thích hợp với mình. Tất cả những bức thư, cũng như những hồi đáp mà tôi nhận đều được đưa cho mẹ xem, và mẹ buộc tôi phải loại bỏ hết trường hợp này đến trường hợp khác. Đó là
những người tầm thường, đó là những người đòi hỏi quá khắt khe, đó là những người keo kiệt.
“Tài năng của con không phải là những gì mà mọi đứa con gái của bất cứ mục sư nghèo khó nào cũng có, Agnes ạ”, mẹ nói, “và con không được phung phí nó. Hãy nhớ rằng con đã hứa sẽ kiên nhẫn đợi. Không cần phải vội con ạ. Con có nhiều thời gian và nhiều cơ hội ở phía trước.”
Cuối cùng, mẹ khuyên tôi tự đăng quảng cáo trên báo, tự giới thiệu những khả năng của mình.
“Có thể chơi đàn, có thể hát, có thể vẽ, biết tiếng Pháp, tiếng Latin, tiếng Đức”, mẹ nói, “như con không phải tầm thường đâu nhé. Nhiều người sẽ vui mừng khi thấy có nhiều khả năng như vậy ở một gia sư và lần này con sẽ thử vận may trong một gia đình thực sự có nền tảng cao hơn bởi vì một gia đình như thế có thể sẽ đối xử với con bằng sự tôn trọng và quan tâm hơn những tay trưởng giả học làm sang và những người mới phất kiêu căng, ngạo mạn. Mẹ biết vài nhà quý tộc thuộc dòng dõi cao quý đối xử với gia sư của họ như thành viên trong gia đình, mặc dù, có vài người mẹ phải thừa nhận là cũng xấc láo như bất cứ ai bởi vì trong mọi tầng lớp đều có người tốt, người xấu.”
Những dòng quảng cáo mau chóng được viết và gửi đi. Trong số hai người trả lời mục quảng cáo tôi đăng báo, một người đồng ý trả tôi năm mươi bảng, mức lương mà mẹ tôi bảo tôi nên đặt ra. Và với trường hợp này, chính tôi lại ngần ngại vì tôi sợ các học trò quá lớn, và cha mẹ của chúng sẽ đòi hỏi một người gia sư có nhiều kinh nghiệm hơn tôi, nếu không muốn nói là nhiều kiến thức hơn tôi. Nhưng mẹ khuyên tôi không nên từ chối: mẹ nói tôi sẽ làm tốt, nếu như tôi gạt sự khiêm tốn của mình sang một bên và tự tin hơn nữa. Tôi chỉ phải gửi tới họ một bản liệt kê những khả năng và trình độ của mình, nêu ra những điều kiện, và đợi kết quả. Điều kiện duy nhất mà tôi
đánh liều đưa ra là, tôi được cho phép có các kỳ nghỉ tổng cộng hai tháng trong năm để về thăm gia đình vào dịp Hạ chí và Giáng sinh. Trong thư hồi âm, quý bà mà tôi không quen biết tuyên bố rằng bà hoàn toàn đồng ý với những điều kiện tôi đưa ra, nhưng trong việc thuê gia sư, bà cân nhắc đến những điểm này: vì nhà bà ở gần O − bà có thể tìm được những người thầy đáp ứng những khả năng thiếu hụt, nhưng theo bà, ngoài phẩm chất đạo đức bắt buộc phải có, tính tình dịu dàng, vui vẻ và tinh thần sẵn sàng phục vụ là những yêu cầu không thể thiếu.
Mẹ tôi không ưa sự đòi hỏi đó chút nào, và giờ đây mẹ phản đối tôi chấp nhận chỗ làm đó. Chị tôi ủng hộ mẹ nhiệt tình, nhưng không muốn chùn bước, tôi bác bỏ sự phản đối của họ. Giành được sự đồng ý của cha tôi đầu tiên (người mới được thông báo cho biết về việc đó), tôi viết một bức thư đầy hào hứng tới người đã liên lạc với mình và cuối cùng mọi sự được thỏa thuận xong xuôi.
Tôi được thông báo rằng vào ngày cuối cùng của tháng Một, tôi sẽ phải có mặt tại chỗ làm việc mới của mình với tư cách là gia sư trong gia đình của ông Murray ở Horton Lodge, gần O − cách làng tôi khoảng bảy mươi dặm, khá xa đối với tôi bởi vì trong hai mươi năm có mặt trên đời này, tôi chưa từng đi xa nhà quá hai mươi dặm. Thêm vào đó, tôi cũng như những người thân của tôi không quen biết một ai trong gia đình đó cũng như những người sống quanh khu vực ấy. Nhưng điều đó càng khiến cho chỗ làm mới trở nên cuốn hút đối với tôi hơn. Ở một mức độ nào đó, giờ đây tôi đã hạn chế được cảm giác nhút nhát mà trước đây đã cản trở tôi rất nhiều. Tôi cảm thấy háo hức khi nghĩ mình sẽ tới vùng đất mới, sẽ sống tự lập giữa những người mà tôi chưa quen biết. Giờ đây tôi tự nhủ rằng mình sẽ có cơ hội khám phá nhiều điều tôi chưa biết trên thế giới. Nhà ông Murray ở gần một thành phố
lớn và không phải ở một vùng có nhiều nhà máy, nơi người dân chẳng có gì để làm ngoài việc kiếm tiền. Từ những gì tôi tìm hiểu được, tôi biết đẳng cấp của ông dường như cao hơn ông Bloomfield, và rõ ràng, ông là một trong những nhà quý tộc thực sự thuộc gia đình dòng dõi mà mẹ tôi đã nói đến, người sẽ đối xử với gia sư của mình bằng sự tôn trọng như đối với một phụ nữ có giáo dục, một người thầy, người dạy dỗ các con ông, chứ không phải một người hầu. Các học trò của tôi lớn tuổi hơn các con của ông Bloomfield, sẽ biết điều hơn, dễ dạy hơn, và ít gây chuyện hơn. Chúng sẽ ít bị hạn chế trong phòng học hơn, và không đòi hỏi sự lao động liên tục của gia sư, không cần lúc nào cũng phải được để mắt tới. Những viễn cảnh tươi sáng hòa lẫn với niềm hy vọng trong tôi, và với những viễn cảnh đó, việc chăm sóc trẻ và những nhiệm vụ đơn thuần của một gia sư dường như không đến nỗi quá vất vả. Các bạn sẽ thấy rằng tôi không tự coi mình là một người sẵn sàng quên bản thân vì lòng hiếu thảo của đạo làm con, sẵn sàng hy sinh sự yên bình và tự do để an ủi và giúp đỡ cha mẹ, mặc dù chắc chắn sự an ủi đối với cha tôi, và sự giúp đỡ đối với mẹ tôi trong tương lai chiếm một phần quan trọng trong các phép tính của tôi, và năm mươi bảng đối với tôi là một khoản tiền không nhỏ. Tôi cần có quần áo tươm tất để đến chỗ làm mới. Có lẽ tôi phải trả tiền giặt đồ và cũng phải tự lo lộ phí cho các chuyến đi về giữa Horton Lodge và nhà tôi, nhưng với sự chi tiêu tằn tiện, chắc chắn chỉ hai mươi bảng là đủ cho những việc đó, và như vậy ít nhất mỗi tháng tôi sẽ tiết kiệm được ba mươi bảng. Một khoản đáng kể để thêm vào số tiền dành dụm của chúng tôi! Tôi phải cố gắng giữ việc làm này, dù nó như thế nào! Vì danh dự của bản thân tôi trước những người thân và vì sự giúp đỡ cha mẹ mà tôi có thể thực hiện khi có việc làm.
Chương VII
Horton Lodge
Ngày 31 tháng Một là một ngày giống tố. Gió bấc thổi mạnh kèm theo bão tuyết kéo dài khiến những bông tuyết bay là là trên mặt đất, xoáy trên không trung. Người thân của tôi khuyên tôi hoãn chuyến đi, nhưng sợ rằng những người thuê tôi sẽ có thành kiến rằng, mới bắt đầu đi làm tôi đã không đúng giờ, nên tôi nhất quyết lên đường.
Tôi sẽ không tra tấn các độc giả của mình bằng việc kể lể chi tiết cảnh tôi rời nhà ra đi trong cái buổi sáng mùa đông u ám ấy. Những lời tạm biệt đầy trìu mến, hành trình dài tới O − những cuộc chờ xe ngựa hoặc xe hỏa một mình trong quán trọ − bởi vì có những chặng đường tôi có thể đi tàu hỏa − và cuối cùng là cuộc gặp ở O − với người hầu của ông Murray, người được cử đánh xe ngựa đến đó đón tôi tới Horton Lodge. Tôi sẽ chỉ kể rằng tuyết rơi dày đã gây nhiều trở ngại cho cả xe ngựa lẫn tàu hỏa, vậy nên đến tận tối khuya tôi mới xuống tàu, và cơn giông gây hoang mang ấy vẫn tiếp tục khiến cho vài dặm đường từ O − tới Horton trở nên dài và đầy bão táp. Tôi ngồi trên xe ngựa trong sự cam chịu, với những bông tuyết lạnh bay xuyên qua mạng che mặt, rơi vào lòng tôi, ngồi mà không nhìn gì cả, tự hỏi không biết con ngựa và người đánh xe kém may mắn này có đi nổi hay không, và quả thực cỗ xe di chuyển như bò ra đường rất vất vả. Cuối cùng chúng tôi dừng lại, và sau tiếng gọi của người đánh xe, ai đó đã mở chốt của một cánh cổng trông như cổng công viên. Sau đó chúng tôi tiến vào sâu bên trong trên một con đường nhẵn và thỉnh thoảng trong bóng tối, tôi nhìn thấy những khối màu xám khổng lồ lấp lánh mà tôi đoán là một cái cây phủ đầy tuyết. Một
lúc lâu sau chúng tôi lại dừng lại, lần này trước mái cổng của một ngôi nhà lớn có những ô cửa sổ dài được trổ tới tận sàn. Khá vất vả, tôi đứng dậy dưới màn tuyết rơi dày, bước ra khỏi xe, hy vọng rằng sự đón tiếp đầy mến khách và ân cần sẽ bù đắp cho sự vất vả, cực nhọc của một ngày đi đường. Một người đàn ông mặc đồ đen ra mở cửa, mời tôi vào một tiền sảnh rộng, được thắp sáng bởi một ngọn đèn màu hổ phách treo trên trần nhà. Ông ta dẫn tôi đi qua sảnh, tiến vào một hành lang và mở cánh cửa của một căn phòng nằm ở mặt sau của ngôi nhà, nói với tôi rằng đó là phòng học. Tôi bước vào, thấy hai tiểu thư và hai công tử nhỏ tuổi − các học trò tương lai của tôi, tôi đoán vậy. Sau màn chào hỏi trang nghiêm, tiểu thư lớn tuổi hơn đang giết thì giờ với một mảnh vải bố và một giỏ len Đức hỏi tôi có muốn đi lên gác không. Tôi đáp bằng giọng quả quyết rằng có.
“Matilda, mang một cây nến lên và chỉ cho cô đây phòng của cô ấy”, tiểu thư nói.
Tiểu thư Matilda, một cô gái cao to khoảng mười bốn tuổi, mặc quần và váy yếm ngắn nhún vai, làm điệu bộ nhăn nhó, nhưng vẫn cầm một cây nến dẫn tôi lên gác, qua một dãy cầu thang dài và dốc, một hành lang hẹp và dài tới một căn phòng nhỏ nhưng khá đủ tiện nghi. Sau đó cô hỏi tôi có muốn dùng trà hoặc cà phê không. Tôi định trả lời rằng không, nhưng chợt nhớ ra từ bảy giờ sáng tới giờ tôi chưa ăn uống gì, và cảm thấy sắp ngất đến nơi, tôi liền nói rằng tôi sẽ dùng trà. Cô gái nói cô sẽ bảo “Brown” mang trà lên và bước ra khỏi phòng. Khi tôi đã cởi bỏ chiếc áo choàng nặng trịch cùng khăn trùm đầu và mũ, một chị người hầu õng ẹo bước vào phòng nói rằng các cô gái muốn biết tôi sẽ uống trà ở phòng riêng hay ở phòng học. Vì quá mệt, tôi chọn uống trà tại phòng. Chị lui gót và một lúc sau trở lại với một khay trà nhỏ, đặt nó lên mặt tủ com-mốt được sử dụng làm bàn trang điểm. Tôi cảm
ơn chị và hỏi sáng hôm sau tôi nên dậy lúc mấy giờ.
“Các tiểu thư và các công tử ăn sáng lúc tám rưỡi, thưa cô”, người hầu gái nói, “họ dậy sớm, nhưng họ hiếm khi học bài trước bữa sáng, tôi nghĩ quá bảy giờ một chút cô thức dậy là vừa.”
Bằng cách nói lịch sự, nhã nhặn, tôi dặn chị người hầu lên gọi tôi lúc bảy giờ, chị hứa sẽ làm như tôi dặn rồi lui gót. Sau đó, giữa bữa trà kéo dài với một lát bánh mỳ mỏng phết bơ, tôi ngồi xuống bên lò sưởi nhỏ và tự giải tỏa cho mình bằng một trận khóc nức nở. Rồi tôi cầu nguyện và, sau khi đã cảm thấy khá nhẹ nhõm, tôi chuẩn bị đi ngủ. Nhận thấy hành lý của mình chưa được mang lên phòng, tôi tìm chuông để gọi người giúp, nhưng không phát hiện ra một dấu hiệu nào của sự tiện lợi đó ở bất cứ góc phòng nào, vậy nên tôi đành cầm nến đi dọc dãy hành lang dài, mò mẫm xuống cầu thang. Trên đường đi, tôi gặp một phụ nữ ăn mặc lịch sự, và tôi nói với người đó điều tôi muốn, khi mà tôi không hoàn toàn chắc chắn đó có phải là một trong những người quản gia hay đó chính là bà Murray: tuy nhiên, có vẻ như đó là một người quản gia. Với thái độ ban ơn khá lạ, bà hạ cố nhận lo việc đó, và khi tôi đã quay trở lại phòng, vừa đợi vừa tự hỏi mình có nên tiếp tục đợi hay đi ngủ, hoặc xuống nhà một lần nữa. Cuối cùng niềm hy vọng của tôi đã được phục hồi bởi tiếng nói cười kèm theo những bước chân vang lên trong hành lang dài. Và bây giờ hành lý của tôi được một người đàn ông và một người hầu gái trông khá thô kệch mang vào: cả hai đều không tỏ thái độ tôn trọng người gia sư mới đến. Sau khi đóng cửa phòng và dỡ hành lý ra, tôi mừng vì mình mệt cả thể xác lẫn tinh thần đủ để chìm vào giấc ngủ.
Sáng hôm sau tôi thức dậy với cảm giác cô đơn lạ lùng pha lẫn ý thức về sự mới lạ của hoàn cảnh, và cảm giác tò mò không mấy vui vẻ về những điều mình chưa biết. Tôi có cảm giác của một người bị cuốn đi bởi bùa mê, và
bỗng dưng rơi từ một đám mây xuống một xứ sở lạ lẫm, xa xôi, hoàn toàn tách biệt với những gì mình đã thấy và đã biết trước đó, hoặc như một hạt kê bị gió thổi đến một khoảnh đất không thích hợp, nơi nó buộc phải sống đủ lâu trước khi nó có thể bén rễ, nảy mầm, hút chất dinh dưỡng từ những gì trái với bản chất của nó, nếu quả thực, nó có thể. Khó mà diễn tả hết những cảm giác của tôi trong hoàn cảnh này, và nếu ai không từng sống ẩn dật, hầu như chỉ ở yên một chỗ như tôi, thì người đó không thể hình dung ra những cảm giác đó: nếu không ở vào hoàn cảnh tương tự thì người đó không thể biết được cái cảm giác một buổi sáng cô ta thức dậy, nhận ra mình đang ở cảng Port Nelson, hoặc ở New Zealand, với cả biển nước mênh mông ngăn cách giữa cô ta và tất cả những gì cô từng biết.
Tôi không thể nhanh chóng quên cái cảm giác khó tả mà tôi cảm thấy khi vén tấm rèm cửa lên và nhìn ra cái thế giới xa lạ đó: một vùng hoang vu, trắng toát là những gì đập vào mắt tôi.
Những sa mạc buông mình trong tuyết.
Và những lùm cây trĩu nặng tuyết.
Tôi đi xuống phòng học để gặp các học trò của mình mà trong lòng không có được cảm giác háo hức rõ rệt, mặc dù không phải là tôi không cảm thấy tò mò về những gì sẽ mở ra trước mắt mình. Trong số những điều quan trọng, tôi xác định với bản thân phải ghi nhớ một điều − tôi phải gọi các học trò của mình là “Cô” và ”Cậu”. Đối với tôi, xưng hô như vậy giữa những đứa trẻ trong một gia đình và người gia sư, người bạn hằng ngày của chúng, có vẻ không tự nhiên và cầu kỳ, đặc biệt là khi đối tượng thứ nhất vẫn còn nhỏ tuổi, như bọn trẻ ở Wellwood. Nhưng thậm chí ở đó, việc tôi gọi những đứa trẻ nhà Bloomfield bằng tên riêng cũng được coi là tùy tiện, hỗn xược bởi vì cha mẹ chúng đã gợi ý tôi phải gọi chúng là cậu chủ và cô chủ Bloomfield.
Tôi tiếp thu sự gợi ý của họ rất chậm, bởi vì tôi coi đó là điều ngớ ngẩn, nhưng giờ đây tôi quyết tâm trở nên khôn ngoan hơn, và bắt đầu ngay lập tức bằng cách tuân theo hình thức và nghi thức khi bất cứ thành viên nào của gia đình yêu cầu. Quả thực, những đứa trẻ ở đây lớn tuổi hơn những đứa trẻ nhà Bloomfield nên sẽ có ít khó khăn hơn, mặc dù một việc nhỏ nhặt như dùng từ “cô”, “cậu” dường như tạo ra sự tác động đáng ngạc nhiên trong việc ngăn chặn mọi sự thân thiện, cởi mở của lòng tốt, và dập tắt mọi tia sáng của sự thân ái có thể xuất hiện giữa chúng tôi.
Độc giả chắc hẳn sẽ hài lòng nếu kể sơ qua về các thành viên của gia đình ấy, và về một hoặc hai năm đầu tôi sống ở đó.
Tôi muốn kể về người chủ gia đình trước tiên. Ông Murray, theo như người ta nói, là một người đàn ông quen ăn to nói lớn, một người mê săn cáo, một tay đua ngựa giỏi, một địa chủ năng động, giàu kinh nghiệm, và là một người lịch lãm vui vẻ. Ấy là người ta nói như vậy, bởi vì trừ các ngày Chủ nhật, khi ông đi lễ nhà thờ, quanh năm suốt tháng tôi không hề nhìn thấy ông trừ những lúc tôi đi qua sảnh hoặc ở trong sân, tôi thấy một người đàn ông cao lớn, khỏe mạnh với đôi má và cái mũi đỏ, và đôi lần, nếu ông đi ngang qua đủ gần để nói chuyện, ông hạ cố dành cho tôi một cái gật đầu qua quýt, kèm theo một câu chào đại loại như “Chào buổi sáng, cô Grey”, hoặc một lời chào ngắn gọn hơn. Thường thì tiếng cười vang của ông bay đến tai tôi từ xa, và bay đến tai tôi thường xuyên hơn là tiếng ông chửi bậy và nguyền rủa những người hầu, người giữ ngựa, người đánh xe hoặc một kẻ nô bộc kém may mắn nào đó.
Bà Murray là một phụ nữ vừa mới bước qua tuổi bốn mươi, đẹp người, mặc diện, một phụ nữ chắc chắn không cần cả phấn hồng lẫn những đồ độn để tăng thêm sự quyến rũ của mình, là người có những thú vui chủ yếu nằm
ở việc mở tiệc hoặc tham dự những bữa tiệc, và trong việc theo đuổi các mốt thời trang. Tôi không gặp bà cho tới mười một giờ sáng ngày hôm sau, khi tôi vinh dự được bà ghé thăm như thể mẹ tôi bước vào bếp để gặp cô hầu mới. Tuy nhiên, nếu là mẹ tôi, mẹ sẽ đến chào người hầu ngay khi chị vừa mới đặt chân đến, chứ không đợi tới ngày hôm sau, và hơn nữa, mẹ tôi sẽ chào hỏi người hầu theo cách thân thiện và ân cần hơn nhiều, dành cho chị mấy lời an ủi động viên cùng với vài lời giải thích đơn giản về nhiệm vụ của chị. Nhưng bà Murray không làm điều thứ nhất, cũng chẳng làm điều thứ hai. Bà đơn giản chỉ bước vào phòng học sau khi đến phòng của quản gia để chỉ đạo về bữa chính, chào tôi, và đứng khoảng hai phút bên lò sưởi, nói vài lời về thời tiết và “cuộc hành trình khó khăn” mà tôi chắc hẳn đã trải qua ngày hôm trước, hôn đứa con út của bà − một cậu bé mười tuổi − người vừa mới lau miệng và tay vào váy của bà, sau khi được cho bốc vài miếng thức ăn thơm ngon trong tủ của người quản gia, nói với tôi rằng cậu bé ngoan ngoãn và dễ thương biết chừng nào rồi bà bước ra khỏi phòng với dáng vẻ oai nghiêm, với nụ cười tự mãn trên khuôn mặt. Rõ ràng, bà đang nghĩ sự hiện diện của mình như thế là đủ. Các con của bà rõ ràng cũng có ý kiến như vậy, chỉ riêng tôi nghĩ khác.
Sau lần ghé thăm này, bà gặp tôi một hoặc hai lần nữa trong lúc các học trò của tôi vắng mặt để nói cho tôi biết những điều liên quan đến nhiệm vụ của tôi. Đối với những đứa con gái, bà dường như chỉ quan tâm đến việc làm thế nào để chúng có vẻ bề ngoài hấp dẫn và hoàn hảo một cách dễ nhận thấy nhất mà hiện tại vẫn được thoải mái, nhàn nhã, không phải khổ luyện, vì thế bà trông đợi tôi sẽ hành động một cách phù hợp − nghiên cứu, gắng sức giúp đỡ và làm các học trò của mình vui, chỉ dạy, trau chuốt, và đánh bóng mà chỉ đòi hỏi sự cố gắng tối thiểu ở chúng, và không sử dụng quyền lực ở phía tôi.
Với hai đứa con trai cũng vậy. Thay vì giúp chúng phát triển các khả năng, tôi phải nhồi được một lượng ngữ pháp Latin nhiều nhất có thể và sách trích giảng của Valpy vào đầu chúng, để đáp ứng chương trình học ở trường của chúng − nhồi một lượng kiến thức lớn nhất nhưng chỉ được phép làm chúng vất vả ít nhất. John có thể là một đứa trẻ “can đảm” còn Charles có thể là một đứa trẻ “hơi dễ căng thăng và mệt mỏi −”
“Cô Grey ạ, nhưng trong mọi tình huống”, bà nói, “tôi hy vọng cô sẽ giữ bình tĩnh, ôn hòa và kiên nhẫn, nhất là với thằng bé Charles đáng yêu. Nó căng thẳng và dễ bị tổn thương lắm, và tuyệt đối không quen với bất cứ cách cư xử nào ngoài cách dịu dàng, hiền hòa nhất. Hãy miễn cho tôi việc kể tên tất tần tật mọi điều cho cô biết bởi vì thực tế là cho đến nay tôi nhận thấy tất cả các nữ gia sư, thậm chí cả những người xuất sắc nhất, đều có khiếm khuyết về điểm này. Họ thiếu tính dịu dàng, bình lặng mà thánh Mathew và một số người đã nói là quý hơn cả tấm áo thầy tu − cô biết tôi muốn ám chỉ điều gì, bởi vì cô là con gái của một mục sư. Và hãy nhớ, trong mọi trường hợp, khi có đứa trẻ nào làm điều gì đó không đúng, nếu sự thuyết phục và phản đối không có tác dụng, thì hãy sai một đứa đến báo với tôi bởi vì tôi có thể bảo ban chúng đơn giản và dễ dàng hơn cô. Hãy cố gắng hết sức để chúng được vui vẻ, cô Grey ạ, và tôi dám nói rằng, như vậy cô sẽ làm rất tốt nhiệm vụ của mình.”
Tôi nhận thấy rằng, trong khi bà Murray cực kỳ quan tâm đến sự dễ chịu và vui vẻ của các con bà, và liên tục nói về nó, bà không một lần đề cập đến những cảm giác đó của tôi mặc dù bọn trẻ đang ở nhà mình với những người thân xung quanh, còn tôi là một kẻ đơn độc giữa những người xa lạ, và tôi chưa biết nhiều điều về thế giới mới mẻ để không ngạc nhiên trước sự dị thường này.
Khi tôi đến, cô Murray, hay còn được gọi là Rosalie, một trong hai tiểu thư của nhà đó, khoảng mười sáu tuổi, và đã ra dáng là một cô gái rất xinh đẹp, và trong hai năm sau đó, khi vóc dáng của cô hoàn thiện qua thời gian và dáng đi cũng như cử chỉ của cô càng duyên dáng hơn, cô trở nên đẹp một cách không thể phủ nhận. Cô cao ráo và thon thả, nhưng không gầy gò. Cô đẹp hoàn hảo về vóc dáng, thanh tú về đường nét mặc dù không phải là không khỏe khoắn và rạng rỡ. Mái tóc dầy với những lọn tóc quăn của cô có màu nâu sáng, đôi mắt xanh của cô trong veo và sáng đến nỗi một số người sẽ ước chúng sẫm màu hơn. Những đường nét khác trên khuôn mặt của cô đều thanh thoát, không hoàn toàn cân đối, hoặc không quá nổi bật, nhưng nhìn tổng thể bạn sẽ không ngần ngại thốt lên rằng cô là một cô gái rất dễ thương. Tôi ước gì tôi có thể khen cô về trí tuệ và tính tình của cô như đã khen cô về vóc dáng và khuôn mặt.
Tuy nhiên các bạn chớ nghĩ rằng tôi sắp sửa tiết lộ điều gì đó khủng khiếp về tính nết của nàng tiểu thư ấy. Rosalie rất vui vẻ và có thể rất dễ thương đối với những người không làm trái ý cô. Đối với tôi, khi tôi mới đến, cô lạnh lùng và kiêu kỳ, sau đó xấc láo và hống hách. Nhưng, khi chúng tôi quen nhau hơn, cô dần dần dẹp bỏ cái kiểu ra vẻ ta đây đi, và qua thời gian, cô được gán cho tôi như thể cô là yếu tố tạo nên danh tiếng của tôi, là vị thế của tôi bởi vì cô hiếm khi quên cái thực tế rằng tôi là một người làm thuê, và là con gái một mục sư nghèo. Tuy nhiên, trên hết, tôi tin rằng cô nể tôi hơn cô nghĩ bởi vì tôi là người duy nhất trong nhà cho thấy một cách kiên định những nguyên tắc sống tốt, có thói quen nói thật, và nỗ lực làm tròn nhiệm vụ của mình. Và tôi phải nói điều này, không phải để tự khen mình mà để các bạn thấy hoàn cảnh không may mắn của cái gia đình mà hiện tại tôi đang phục vụ. Không có một thành viên nào của gia đình đó khiến tôi
thấy tiếc vì thiếu nguyên tắc sống một cách đáng buồn như cô Murray, không chỉ bởi cô mến tôi, mà bởi vì mặc dù có những nhược điểm, ở cô có những điều thú vị và dễ thương khiến tôi thực sự thích cô − khi cô không khuấy động sự tức giận trong tôi hoặc làm tôi mất bình tĩnh bằng cách bộc lộ quá nhiều khuyết điểm của mình. Tuy nhiên, tôi vui lòng thuyết phục bản thân rằng những khuyết điểm đó là do ảnh hưởng của sự giáo dục chứ không phải là bản chất của cô. Cô chưa bao giờ được dạy dỗ một cách tử tế để phân biệt đúng sai. Giống như các em mình, từ khi còn bé xíu cô đã hành hạ các vú em, các gia sư, và những người hầu. Cô không được dạy để tiết chế những ham muốn của mình, kiểm soát sự nóng giận hoặc kiềm chế ý thích, hoặc hy sinh thú vui của bản thân vì lợi ích của người khác. Về bản chất, cô là người tốt, chưa bao giờ hung bạo, quá khích hoặc rầu rĩ, nhưng vì lúc nào cũng được nuông chiều và vì khinh thường lý trí nên cô hay gắt gỏng và có tính khí thất thường. Trí tuệ của cô không được trau dồi. Hiểu biết của cô nông cạn. Cô sở hữu tính hoạt bát, có khả năng hiểu khá nhanh, có chút năng khiếu âm nhạc và khả năng tiếp thu ngôn ngữ tốt, nhưng mười lăm tuổi rồi mà cô chẳng đạt được gì đáng kể về tri thức. Đến cái tuổi ấy, tính thích phô trương khuấy động các khả năng của cô, và thúc đẩy cô chú ý luyện rèn hơn, nhưng chỉ là luyện rèn những tài vặt dễ phô trương mà thôi.
Khi tôi đến làm việc ở nhà đó, tình trạng của cô vẫn y như thế. Cô chẳng chịu học môn gì, trừ tiếng Pháp, tiếng Đức, âm nhạc, hát, khiêu vũ, thêu thùa, và học vẽ theo kiểu đá đưa − môn vẽ có thể tạo ra sự phô trương lớn nhất với sức lao động nhỏ nhất, và thường thì phần lớn việc hoàn thành một bức tranh của cô đều do tôi thực hiện. Đối với âm nhạc và ca hát, ngoài những bài học thỉnh thoảng cô tiếp thu từ tôi, cô theo học thầy giỏi nhất trong vùng, và với những môn này, cũng như trong lĩnh vực khiêu vũ, cô dĩ
nhiên đạt được sự thông thạo. Thực ra, dù là gia sư, tôi thường nói với cô rằng cô đã dành quá nhiều thời gian cho âm nhạc, còn mẹ cô nghĩ rằng dù cô thích âm nhạc, cô cũng không thể bỏ quá nhiều thời gian để tiếp thu một môn nghệ thuật hấp dẫn như vậy được. Tôi không biết thêu thùa nhưng, qua những gì tôi học được từ cô học trò của mình và tự học, chẳng bao lâu sau khi tôi đến đó, học trò của tôi đã khiến tôi trở nên hữu dụng bằng hàng chục cách khác nhau. Tất cả những phần việc nhạt nhẽo của cô đều được đẩy sang tôi, chẳng hạn như căng khung thêu, thực hiện các mũi thêu trên vải bố, phân loại len và lụa, tạo nền, đếm mũi thêu, sửa lỗi, hoàn thành nốt những “công trình” thêu thùa mà cô đã chán làm.
Mười sáu tuổi, cô Murray là một cô gái thích nô đùa, tuy nhiên, không đến nỗi trái với tự nhiên và vượt quá sự cho phép đối với một cô bé ở tuổi đó, nhưng ở tuổi mười bảy thì xu hướng này, cũng như tất cả những điều khác, bắt đầu phải nhượng bộ trước khát khao thống trị, và chẳng bao lâu bị nuốt chửng bởi tham vọng quyến rũ và làm lóa mắt người khác giới. Nhưng tôi miêu tả cô như vậy là đủ rồi. Bây giờ tôi muốn kể về em gái cô.
Cô Matilda Murray quả thực là một cô gái hoang dã, không được rèn giũa. Cô ít hơn chị mình khoảng hai tuổi rưỡi. Các đường nét của cô không nhỏ nhắn như cô chị, nước da của cô đen hơn. Đáng lẽ cô có thể trở thành một cô gái đẹp, nhưng khung xương của cô to và dáng người hơi cứng nên khó có thể gọi cô là một cô bé xinh xắn, và hiện tại cô không quan tâm đến điều đó lắm. Rosalie biết tất cả những điểm hấp dẫn của mình và đề cao chúng hơn vốn có, coi trọng chúng hơn mức cần thiết, nghĩ chúng đẹp hơn gấp ba lần vốn có. Matilda nghĩ rằng mình như vậy là ổn, nên ít quan tâm đến hình thức, nhưng cô còn quan tâm ít hơn đến việc trau dồi trí tuệ cũng như việc đạt được những kỹ năng để phô trương. Thái độ mà cô thể hiện khi
học bài và luyện âm nhạc có thể khiến bất cứ người gia sư nào thất vọng. Bất cứ lúc nào, và bất luận thế nào, những bài tập của cô đều phải rất dễ, rất ngắn, và nếu chúng được làm, thì cũng chỉ được làm qua loa cho xong chuyện vào những lúc ít thuận tiện nhất, theo những cách có lợi ít nhất đối với cô, và ít hài lòng nhất đối với tôi. Nửa giờ học nhạc của cô trôi qua theo kiểu cò cưa ký cưa, chẳng khác gì tra tấn. Trong khi đó cô hành hạ tôi một cách không thương tiếc, làm gián đoạn bài học bằng những lần sửa lỗi lắt nhắt, hoặc vì không chịu chỉnh sửa những lỗi mà cô đã mắc phải, hoặc làm điều gì đó vô lý tương tự như vậy. Một vài lần tôi dám phê bình cô một cách nghiêm túc vì thái độ vô lý đó, nhưng mỗi lần làm như vậy, tôi đều nhận được những lời khiển trách từ mẹ cô, khiến tôi tin rằng nếu tôi muốn giữ việc làm của mình, thì tôi thậm chí phải để tiểu thư Matilda muốn làm gì tùy thích.
Tuy nhiên khi các bài học của cô kết thúc, thái độ cáu kỉnh của cô cũng chấm dứt. Trong khi cô cưỡi con ngựa non ưa hoạt động của mình hoặc nô đùa cùng những con chó hoặc cùng chị gái và các em trai, đặc biệt là với cậu em John mà cô rất cưng chiều, cô vui vẻ lắm. Là một sinh vật, Matilda khỏe mạnh, đầy sức sống, ưa hoạt động. Là một con người, cô dốt nát một cách man rợ, khó bảo, cẩu thả, vô lý và hậu quả là, cô khiến cho bất cứ ai làm nhiệm vụ dạy dỗ cô cũng hiểu rằng, việc cải thiện cách cư xử của cô, và giúp cô đạt được những kỹ năng để phô trương giống như chị của cô, những kỹ năng mà cô khinh thường, là một việc cực nhọc. Mẹ của cô phần nào ý thức được những khuyết điểm của con gái, và đã lên lớp cho tôi nhiều lần về cách làm thế nào để hình thành khiếu thẩm mỹ ở cô, và cố gắng để khơi dậy, chăm chút lòng kiêu hãnh tiềm ẩn trong cô, và bằng cách nói gần nói xa, khen nịnh thật khéo léo để khiến cô chú ý đến những mục tiêu được mong
đợi − điều mà tôi sẽ không làm. Bà cũng bảo tôi nên chuẩn bị và làm bằng phẳng con đường học hành cho đến khi cô có thể lướt nhẹ trên đó mà không phải ráng sức chút nào − điều mà tôi không thể làm bởi vì không gì có thể được dạy vì bất cứ mục đích nào mà không đòi hỏi sự cố gắng ở phía người học.
Về hạnh kiểm, Matilda là một cô bé liều lĩnh, cứng đầu, hung dữ, và không tuân theo lẽ phải. Một bằng chứng cho thấy trạng thái tinh thần tồi tệ của cô là, cô đã học được từ cha mình thói văng tục, chửi bậy luôn mồm. Mẹ cô rất sốc trước “cung cách chẳng có chất tiểu thư chút nào” của cô và không biết “tại sao cô lại nhiễm cái thói đó”. “Nhưng cô có thể sẽ sớm tống khứ cái thói chửi bậy ấy đi, cô Grey ạ”, bà nói, “đó chỉ là một thói quen thôi, và nếu mỗi lần con bé văng tục, chửi bậy, cô nhẹ nhàng nhắc nhở nó, thì tôi tin chắc rằng nó sẽ sớm bỏ được thói quen ấy.” Tôi không chỉ “nhẹ nhàng nhắc nhở” cô Matilda, mà còn cố làm cho cô hiểu chửi bậy là một thói xấu như thế nào, gây khó chịu cho đôi tai của những người tử tế ra sao, nhưng tất cả đều vô ích. Tôi chỉ được đáp lại bằng một tiếng cười xòa, và câu “Ồ, cô Grey, cô sốc đến thế kia ư!” hoặc “Ôi! Em không thể nhịn được”, hoặc “Đáng lẽ cha không nên dạy em, em học tất cả từ cha đấy, và từ thằng đánh xe ngựa”.
Khi tôi đến làm gia sư cho gia đình họ, em trai của cô, cậu bé John, và cũng là cậu chủ Murray, đã mười một tuổi. Đó là một cậu bé khỏe mạnh, mập mạp, xinh trai. Có lẽ bản chất của cậu hiền lành, trung thực và có thể trở thành một chàng trai tốt nếu như được giáo dục tử tế nhưng bây giờ cậu hung dữ như một con gấu con, ngỗ ngược, vô kỷ luật, dốt nát, và khó dạy − ít nhất, đối với một gia sư, theo cách nhìn của mẹ cậu. Các thầy giáo của cậu ở trường có thể quản lý cậu tốt hơn − thật may cho tôi, khoảng một năm sau khi tôi đến, cậu được gửi đến trường. Tình trạng dốt tiếng Latin đến mức
đáng hổ thẹn của cậu, và dốt cả từ những môn học cần thiết cho đến những môn ít được coi trọng hơn được quy trách nhiệm cho một giáo viên nữ dốt nát, người đã dám đương đầu với những gì mà mình hoàn toàn không có khả năng để đương đầu. Đúng mười hai tháng sau đó, tôi được giải thoát khỏi em cậu, người cũng được gửi đến trường trong tình trạng dốt nát đáng xấu hổ y như anh trai mình.
Cậu Charles là đứa con cưng của mẹ cậu. Cậu nhỏ hơn anh John của cậu một tuổi, nhưng còi cọc, xanh xao, lười hoạt động và yếu ớt hơn nhiều. Đó là một cậu bé ích kỷ, hèn nhát, hay hờn dỗi, chỉ hăng hái khi làm những trò tinh quái, và chỉ nhanh trí trong việc nghĩ ra những lời nói dối, không chỉ để che giấu những lỗi của mình mà còn để khiến người khác bị chê bai, căm ghét một cách hiểm độc. Quả thực, cậu chủ Charles là một nỗi phiền toái rất lớn đối với tôi. Chung sống hòa bình với cậu đã là một cuộc thử thách, trông nom và dạy dỗ cậu còn khó khăn hơn nhiều, dạy dỗ cậu hoặc cố gắng dạy dỗ cậu là việc gian nan không thể tưởng tượng nổi. Mười tuổi, cậu không thể đọc nổi một dòng dễ nhất trong cuốn sách đơn giản nhất, và theo nguyên tắc của mẹ cậu, cậu phải được mớm từng từ trước khi cậu có thời gian ngập ngừng hoặc ngẫm nghĩ để tự đánh vần chúng, và thậm chí cậu không được nói cho biết rằng những cậu bé khác tiến bộ hơn cậu, như một cách để kích thích sự cố gắng ở cậu, bởi vậy không ngạc nhiên, trong hai năm tôi chịu trách nhiệm dạy học cho cậu, cậu chẳng tiến bộ hơn trước là bao. Lượng kiến thức ít ỏi về ngữ pháp tiếng Latin, và những môn khác, được nhắc đi nhắc lại với cậu cho tới khi cậu thích nói những gì cậu biết thì nói, không thích thì thôi, và sau đó cậu được giúp để nói những gì cậu biết. Nếu cậu làm sai một phép tính đơn giản, thì người dạy cậu phải chỉ ra chỗ sai ngay lập tức, và làm lại phép tính ấy cho cậu, thay vì để cậu rèn khả năng tự phát hiện các lỗi sai
"""