"
Người Đẹp Sao Hỏa PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Người Đẹp Sao Hỏa PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Người đẹp sao Hỏa
Tác giả : Alexandre Tonxtoi
Nguồn : http://vnthuquan.net
Convert : Bùi Xuân Huy (santseiya_TVE) Ngày hoàn thành : 26/02/2007
Epub (02/2019): @lamtam, tve-4u.org
Chương 1
BẢN THÔNG BÁO KÌ LẠ
Ở phố Bình Minh Đỏ, xuất hiện một bản thông báo kì lạ: đó là một tờ giấy nhỏ, màu xám, đóng vào bức tường nhiều chỗ đã long hết lớp vữa của một ngôi nhà hoang vắng. Khi đi qua, phóng viên một tờ báo Mỹ là Arsiban Xcail trông thấy một phụ nữ trẻ tuổi, chân đi giầy không bít tất, mặc chiếc áo liền váy bằng vải hoa sạch sẽ đang đứng trước tờ thông báo. Chị mấp máy môi đọc. Gương mặt mệt mỏi và xinh xắn của chị không lộ vẻ ngạc nhiên, đôi mắt lãnh đạm. Chị vuốt mái tóc quăn ra sau tai, nhấc làn rau dưới đất lên rồi sang bên kia đường.
Bản thông báo đáng được chú ý nhiều hơn thế. Xcail tò mò đọc một lần, rồi tiến lại gần thêm, đưa một tay lên dụi mắt, đọc lần nữa: Twenty three; - Cuối cùng ông ta nói. Như vậy có nghĩa là: “Quỷ tha ma bắt mình với tuốt tuột mọi thứ của mình đi”.
Bản thông báo viết:
Kĩ sư M. X. Los mời những người muốn bay lên Sao Hỏa cùng với ông vào ngày 18 tháng tám đến gặp ông để bàn bạc riêng từ 6 giờ đến 8 giờ tối. Đường bờ sông Jdanovxcaia, nhà số 11, ở ngoài sân.
Bản thông báo được viết một cách bình thường và đơn giản, bằng bút chì graphít.
Bất giác Xcail đưa tay lên tự bắt mạch mình: mạch ông bình thường. Ông nhìn đồng hồ: lúc ấy là bốn giờ mười phút, ngày 17 tháng 8 năm 192...
Với một lòng dũng cảm, bình tĩnh, Xcail đón chờ mọi thứ chuyện xảy ra trong cái thành phố điên rồ này. Nhưng bản thông báo đóng trên bức tường vữa tác động đến ông ta cực kì mạnh mẽ.
Gió thổi hun hút trên đường phố Bình Minh Đỏ vắng vẻ. Cửa sổ các ngôi nhà nhiều tầng, ô thì bị vỡ kính, ô thì bị bịt kín, bằng những tấm gỗ, trông như bên trong không có người ở - không thấy một cái đầu nào thò ra phố. Người phụ nữ trẻ tuổi đặt làn xuống vỉa hè,
đứng bên kia đường nhìn Xcail. Gương mặt xinh xắn của chị trông bình thản và mệt mỏi.
Hai gò má Xcail hơi động đậy. Ông ta lấy chiếc phong bì cũ, ghi lại địa chỉ của Los: vừa lúc đó có một người cao lớn, vai rộng dừng lại trước bản thông báo. Người này không đội mũ, căn cứ vào quần áo mà xét, thì đây là một anh lính, anh ta mặc áo nỉ không có đai lưng, chân quấn xà cạp. Hai tay anh ta chẳng biết làm gì nên đút vào hai túi. Cái cổ chắc nịch căng ra khi anh ta bắt đầu đọc bản thông báo.
– Gớm nhỉ, bay lên tận Sao Hỏa cơ à! - Anh ta nói với vẻ thích thú, rồi ngoảnh gương mặt vô tư rám nắng về phía Xcail. Thái dương anh ta có một vết sẹo trăng trắng chạy chéo xuống. Mắt anh ta màu nâu và cũng như ở phía người phụ nữ kia, có một ánh tinh nghịch. (Từ lâu, Xcail đã nhận thấy nét đó trong đôi mắt người Nga, thậm chí ông ta còn nhắc tới nét ấy trong một bài báo: “... Mắt họ không biểu lộ một điều gì rõ ràng, khi thì giỡn cợt, khi thì kiên quyết đến táo bạo, và cuối cùng, có khi lại biểu lộ một vẻ bề trên khó hiểu - những cái đó tác động cực mạnh đến người châu Âu”.
– Kể bay một chuyến với ông ta cũng đơn giản thôi nhỉ, - người lính lại nói, anh ta mỉm cười hồn nhiên đồng thời nhìn Xcail từ đầu đến chân.
Bỗng anh ta nheo mắt, nụ cười tắt hẳn trên môi. Anh ta chăm chú nhìn người phụ nữ bên kia đường vẫn đang đứng không nhúc nhích bên cạnh làn rau.
Anh ta hất cằm bảo:
– Masa, sao em đứng đó hả? (Chị chớp mắt nhanh một cái). Thôi về nhà đi chứ. (Chị có vẻ bồn chồn, hai bàn chân bé nhỏ đầy bụi bặm đứng không yên, chị thở dài và cúi đầu xuống). Em về đi, về đi, anh sẽ về ngay thôi.
Người phụ nữ xách làn lên rồi cất bước. Anh lính nói: – Tôi về lực lượng dự bị là do bị thương. Buồn quá nên đi lang thang đến đây, lại đọc thấy bản thông báo này.
– Anh định đến đường bờ sông ghi trong tờ thông báo này đấy à? - Xcail hỏi.
– Nhất định tôi sẽ đến đó.
– Nhưng bay năm mười triệu kilômet trong khoảng không gian không có không khí thế nào được. Đó là một chuyện nhảm nhí. – Tất nhiên là xa lắm rồi.
– Đó là một chuyện bịp bợm hoặc một chuyện mê sảng. – Thì chuyện gì chả có thể xảy ra!
Xcail, bấy giờ cũng nheo nheo mắt nhìn anh lính từ đầu đến chân. Anh lính đang nhìn ông ta, đúng như thế: giễu cợt, với một vẻ bề trên khó hiểu. Xcail tức giận đi về phía sông Neva. Ông bước những bước dài, vững vàng. Đến một vườn hoa, ông ngồi xuống chiếc ghế đá, thọc tay vào túi. Như tất cả những tay nghiện thuốc và bận nhiều công việc, ông để thuốc ngay trong túi. Chỉ bằng một động tác của ngón tay cái, ông đã nhồi được thuốc vào tẩu, châm lửa, rồi duỗi thẳng chân ra.
Những cây bồ đề già trong vườn xào xạc. Không khí ẩm ướt và ấm áp. Trên đống cát có một cậu bé mặc chiếc áo bẩn thỉu, may bằng vải chấm hạt đỏ, không mặc quần. Có lẽ trong cả vườn hoa này chỉ có một mình cậu, và cậu ngồi đây chắc đã lâu. Thỉnh thoảng, một làn gió lại thổi tung mái tóc mềm mại màu sáng của cậu lên. Tay cậu cầm một đầu sợi dây, đầu dây kia buộc vào chân một con quạ già bù xù. Con quạ có vẻ bất bình và tức giận, nó cũng giương mắt nhìn Xcail như cậu bé.
Bỗng nhiên - chỉ trong một khoảnh khắc thôi - dường như có một đám mây mù lướt qua ý thức Xcail, ông cảm thấy chóng mặt: hay ông trông thấy tất cả những thứ vừa rồi chỉ là trong một giấc mơ?... Cậu bé, con quạ, những ngôi nhà bỏ không, những đường phố hoang vắng, ánh mắt kì lạ của những người qua đường và tờ thông báo đóng bằng đinh lên tường mời mọi người bay vào khoảng không gian bao la...
Xcail rít mạnh một hơi thuốc. Ông ta mở tấm bản đồ Pet rograd ra, lấy đầu chiếc tẩu dò dẫm tìm đường bờ sông Jdanovxcaia.
Chương 2
TRONG XƯỞNG CỦA LOS
Kcail bước vào khoảng sân đầy những sắt rỉ và thùng xi măng. Cỏ úa mọc trên các đống rác, giữa những mớ dây thép rối, giữa những bộ phận hỏng gãy của các máy móc. Tít sâu trong sân, ánh hoàng hôn phản chiếu trên những ô cửa kính bụi bặm của một nhà kho cao. Một cánh cửa nhỏ của nhà kho hé mở. Ngồi xổm trên ngưỡng cửa là một bác công nhân đang quấy chất minium trong một cái thùng. Nghe Xcail hỏi có thể gặp kĩ sư Los được không, bác công nhân hất đầu về phía trong nhà kho. Xcail bước vào. Nhà kho lờ mờ sáng - phía trên chiếc bàn đầy bản vẽ và sách vở có một ngọn đèn điện, chao đèn hình nón bằng sắt tây. Mãi sâu trong nhà kho có một khung gỗ cao đến tận trần. Ngay tại đây có một cái lò cháy rừng rực, do một người công nhân thổi. Trong khung gỗ có một vật thể hình cầu bóng loáng, bề mặt đầy những đinh tán. Nhìn qua ô cửa nhà kho để mở, có thể thấy những dải hoàng hôn đỏ ối và những đám hơi bốc từ biển lên.
Người công nhân thổi lò nói khe khẽ:
– Motixlav Xergeevitr, có khách đến gặp anh.
Từ sau khung gỗ xuất hiện một người tầm thước vạm vỡ. Mái tóc dày giống như cái mũ màu sáng. Gương mặt trẻ trung, râu ria nhẵn nhụi, miệng to và đẹp, đôi mắt chăm chú, tươi vui, nhìn không chớp.
Anh mặc chiếc áo sơ mi vải thô bẩn thỉu, không cài khuy ở ngực, và chiếc quần vá, thắt ngang hông bằng một sợi dây. Tay anh cầm một bản vẽ rây đầy mực. Vừa đi ra, anh vừa chực cài khuy áo trên ngực, nhưng làm gì có chiếc khuy nào.
– Ông đến theo bản thông báo phải không? Ông muốn bay à? - Anh hỏi bằng một giọng trầm trầm rồi chỉ cho Xcail chiếc ghế dưới chao đèn, anh ngồi đối diện bên bàn, đặt bản vẽ xuống và bắt đầu nhồi tẩu. Đó chính là kĩ sư Motixlav Xergeevitr Los.
Anh cụp mắt xuống và đánh diêm. Ánh lửa chiếu từ dưới lên rọi sáng gương mặt rắn chắc của anh, hai nếp nhăn bên miệng, lỗ mũi rộng, hàng mi dài màu sẫm. Xcail hài lòng được nhìn kĩ mọi nét ấy!
Ông ta giải thích rằng ông ta không định bay, nhưng đọc bản thông báo trên phố Bình Minh Đỏ, ông ta thấy rằng mình có nhiệm vụ phải giới thiệu cho bạn đọc biết ý đồ du hành vũ trụ cực kì đặc biệt giật gân này.
Los lắng nghe, đôi mắt sáng không chớp như dán chặt vào người khách.
– Thật tiếc là ông không muốn bay cùng với tôi, tiếc quá, - anh lắc lắc đầu, - mọi người chạy trốn tôi như chạy trốn người điên vậy. Tôi sắp rời Trái Đất mà cho đến nay, tôi vẫn không sao tìm được bạn đồng hành. - Anh lại đánh diêm, miệng phả ra một làn khói thuốc. - Ông cần biết những điều gì?
– Tôi muốn biết những nét nổi bật nhất trong tiểu sử của ông. – Điều đó không cần thiết cho ai cả. - Los nói, - Không có gì đáng chú ý cả. Tôi học hành vất vả lắm, từ năm mười hai tuổi đã phải tự lập. Thời thanh niên, những năm học tập, công tác, không có điều gì đáng để các độc giả của ông quan tâm, không có điều gì đáng chú ý, trừ... - Los bỗng cau mày, hai nếp nhăn bên miệng anh hằn sâu. - Đây, - anh chỉ tẩu thuốc về phía khung gỗ, - cái máy này tôi đã nghiên cứu từ lâu. Tôi bắt đầu chế tạo nó cách đây hai mươi năm. Có vậy thôi!
– Ông định vượt khoảng cách giữa Trái Đất và Sao Hỏa chừng bao nhiêu tháng? - Xcail hỏi, mắt nhìn đầu bút chì.
– Trong chín hoặc mười tiếng đồng hồ, tôi cho rằng không lâu hơn.
– Thế thôi ư! - Nghe vậy, Xcail nói ngay, sau đó ông ta đỏ bừng mặt. - Tôi sẽ rất biết ơn ông, - Xcail nói với một thái độ lịch sự ngọt xớt, - ông tin cậy nơi tôi và nghiêm chỉnh đối với cuộc phỏng vấn của tôi.
Los tì khuỷu tay lên bàn, miệng phả khói mù mịt, cặp mắt anh long lanh qua làn khói thuốc.
– Ngày mười tám tháng tám, Sao Hỏa sẽ tiến tới gần Trái Đất ở khoảng cách bốn mươi triệu kilômét - đó là khoảng cách mà tôi phải vượt qua. Khoảng cách hợp thành bởi những gì? Thứ nhất là chiều cao khí quyển Trái Đất - bảy mươi lăm kilômét. Thứ hai là khoảng chân không giữa hai hành tinh. Thứ ba là chiều cao khí quyển Sao
Hỏa - sáu mươi lăm kilômét. Đối với tôi, quan trọng chỉ là một trăm bốn mươi kilômét khí quyển thôi.
Anh đứng dậy, đút hai tay vào túi quần, đầu anh chìm trong bóng tối, trong khói thuốc, ánh đèn chỉ chiếu sáng bộ ngực để hở của anh và hai cánh tay lông lá, tay áo xắn đến tận khuỷu.
– Người ta thường nói là chim bay, lá rụng bay, máy bay bay. Nhưng đó không phải là bay, mà chỉ là di chuyển trong không khí. Bay thật sự phải là khi vật thể chuyển động dưới tác dụng của
một lực đẩy. Ví dụ như tên lửa. Ở khoảng chân không, nơi không có lực cản, tên lửa sẽ bay với vận tốc ngày càng lớn: rõ ràng ở đó tôi có thể đạt tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng, nếu không bị ảnh hưởng từ. Máy của tôi được chế tạo đúng theo nguyên tắc một tên lửa. Tôi sẽ phải bay một trăm bốn mươi kilômét trong khí quyển Trái Đất và Sao Hỏa.
Thời gian bay lên và hạ xuống mất một tiếng rưỡi đồng hồ. Một tiếng đồng hồ tôi dùng để vượt ra khỏi sức hút của Trái Đất. Tiếp đó, trong khoảng chân không, tôi có thể bay với bất cứ vận tốc nào. Nhưng có hai mối nguy hiểm: gia tốc lớn quá có thể làm vỡ mạch máu, và thứ hai - nếu tôi bay vào khí quyển Sao Hỏa với tốc độ lớn, thì chẳng khác gì tôi lao vào một khối cát. Lập tức chiếc máy và tất cả những gì trong đó sẽ biến thành hơi. Trong khoảng không gian giữa các vì sao có nhiều mảnh của các hành tinh, của các thế giới chưa sinh ra hoặc đã bị tiêu hủy. Lao vào không khí, những mảnh ấy lập tức bị cháy, không khí chẳng khác gì lớp vỏ sắt không thể lọt qua được. Mặc dù hình như trên Trái Đất đã có một lần bị xuyên thủng.
Los rút một tay trong túi ra, đặt lên bàn ở chỗ dưới ngọn đèn rồi nắm chặt tay lại.
– Ở Xibia, giữa lớp băng giá vĩnh cửu, tôi đã đào được mấy con voi mamut chết trong các khe đất. Giữa hai hàm răng chúng còn có cỏ, chúng ăn cỏ ở nơi giờ đây là băng giá. Tôi đã ăn thịt của chúng.
Chúng chưa kịp thối rữa, bởi chúng bị đông cứng trong có vài ngày, rồi tuyết phủ lấp chúng đi. Có lẽ trục Trái Đất đã bị lệch đi trong khoảnh khắc. Trái Đất bị đụng vào một thiên thể, hoặc giả chúng ta có một vệ tinh thứ hai nhỏ hơn Mặt Trăng. Chúng ta đã hút nó, nó rơi xuống, đập vào vỏ Trái Đất, làm trục Trái Đất lệch đi. Có
thể chính vì thế mà lục địa nằm ở Đại Tây Dương, phía Tây châu Phi đã bị hủy dệt. Như vậy, để khỏi bị cháy khi đâm vào khí quyển Sao Hỏa, tôi phải phanh gấp tốc độ lại. Bởi thế tôi dành cho toàn bộ khoảng chân không có sáu, bảy tiếng đồng hồ. Vài năm nữa, một chuyến bay lên Sao Hỏa sẽ không phức tạp hơn chuyến bay từ Moxcva đi New York.
Los rời bàn ra đóng cầu dao. Trên trần có tiếng xì xì rồi mấy chiếc đèn hồ quang sáng rực lên. Xcail trông thấy trên tường gỗ ghép có nhiều bản vẽ, biểu đồ, bản đồ, mấy cái giá để dụng cụ quang học và đo lường, những bộ quần áo du hành vũ trụ, mấy đống đồ hộp, quần áo lông, kính viễn vọng đặt trên giá gỗ ở góc nhà kho.
Los và Xcail lại gần chiếc khung gỗ bao quanh một vật thể kim loại hình quả trứng. Xcail áng chừng xác định bộ máy hình quả trứng vừa cao vừa to này, nhẩm tính và gật gật đầu. Ở giữa có một cái đai thép uốn cong hình chiếc dù, - đó là bộ phanh để căng lực cản cho con tàu khi nó bay vào khí quyển. Dưới chiếc dù có ba cái cửa nắp hình tròn để ra vào tàu. Phần dưới “quả trứng” kết thúc bằng một cái ống hẹp. Xung quanh ống, quấn tròn một cái lò xo bằng thép to, xoắn theo hai chiều đối lập nhau, - đó là thiết bị giảm xóc, giúp con tàu rơi xuống được nhẹ nhàng.
Vừa gõ bút chì trên lớp vỏ đầy đinh tán của “quả trứng”. Los vừa giải thích các chi tiết của con tàu vũ trụ này. Con tàu được làm bằng thép đàn hồi và chịu nhiệt, bên trong có bộ khung rất chắc và nhẹ. Đó là lớp bọc ngoài. Tiếp đó là lớp bọc thứ hai gồm sáu lớp cao su và da.
Bên trong “quả trứng” bằng da thứ hai này có máy móc quan sát và phát động, các thùng ôxi, các hòm hút khí cácbôníc, các túi đựng dụng cụ và lương thực. Để quan sát, có những “con mắt” nhô hẳn ra vỏ ngoài của con tàu, dưới dạng một cái ống kim loại ngắn có lắp thấu kính.
Cơ cấu phát động đặt ở quãng ống có lò xo bao quanh. Ống này được đúc bằng kim loại cực rắn. Thành ống có những cái rãnh thẳng đứng. Các rãnh mở rộng dần lên phía trên, thông vào ngăn được gọi là buồng nổ. Mỗi buồng nổ có bugi nối với máy từ điện và có ống dẫn nhiên liệu. Cũng như các động cơ dùng xăng các buồng nổ dùng chất siêu litđi, một chất bột cực mịn, có sức nổ khác
thường, được phát minh ra trong phòng thí nghiệm của một nhà máy ở Pet rograd. Sức mạnh của chất siêu litđi vượt xa tất cả những chất nổ người ta đã biết từ xưa đến nay. Ngòi nổ hình nón rất hẹp. Để trục ngòi nổ trùng với với trục các rãnh thẳng đứng của ống, chất siêu litđi khi vào buồng nổ được đưa qua một từ trường.
Đại cương nguyên tắc bộ máy phát động là như vậy: đây là một thứ tên lửa. Lượng dự trữ chất siêu litđi đủ dùng cho một trăm giờ. Giảm hoặc tăng số lần nổ trong một giây có thể điều chỉnh được tốc độ bay lên và hạ xuống của con tàu. Phần dưới con tàu nặng hơn nhiều so với phần trên, bởi vậy, khi rơi vào sức hút của hành tinh, con tàu bao giờ cũng quay phần ống về phía hành tinh. – Con tàu này được xây dựng bằng tiền nào? - Xcail hỏi Los hơi kinh ngạc đưa mắt nhìn ông ta.
– Bằng tiền của Nhà nước...
Los và Xcail quay lại chỗ chiếc bàn. Sau một lúc im lặng Xcail ngập ngừng hỏi:
– Ông hi vọng sẽ tìm ra những sinh vật sống ở trên Sao Hỏa? – Điều đó tôi sẽ được trông thấy vào sáng thứ sáu, ngày mười chín tháng tám.
– Tôi xin trả ông mười đôla cho một dòng của bài ghi lại những cảm tưởng trên đường đi. Tôi xin tạm ứng trước tiền nhuận bút sáu bài, mỗi bài hai trăm dòng, ông có thể lĩnh tiền ở Xtockhom. Ông đồng ý không?
Los cười và gật đầu: đồng ý. Xcail ngồi ghé xuống góc bàn viết séc.
– Thật tiếc, rất tiếc là ông không muốn bay cùng với tôi: bởi lẽ về thực chất thì cũng gần thôi, gần hơn đi bộ từ đây tới Xtockhom chẳng hạn, - Los vừa nói vừa hút thuốc.
Chương 3
NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH
Los đứng tựa vai vào thành cửa. Chiếc tẩu của anh đã tắt. Từ cổng nhà đến đường bờ sông Jdanovxcaia vắng tanh. Bên kia sông thấp thoáng bóng cây cối ở đảo Pet’rov. Sau đó là ánh hoàng hôn buồn rầu tắt dần mà mãi vẫn chưa tắt hẳn. Những đám mây dài, ngoài rìa nhuốm ánh hoàng hôn, giống như những hòn đảo trong khoảng nước xanh là bầu trời. Phía trên mây là bầu trời xanh. Vài ngôi sao lấp lánh trên đó. Xung quanh thật tĩnh mịch. Bác công nhân Cuzmin ban nãy quấy chất minium trong thùng, bây giờ cũng lại gần và dừng chân ở cổng, ném mẩu thuốc lá còn đang cháy vào trong bóng tối.
– Khó chia tay được với Trái Đất lắm, - bác nói khe khẽ. - Chia tay với ngôi nhà của mình còn khó nữa là. Từ làng đi ra đường sắt mà tôi cũng ngoảnh lại đến mươi lần. Ngôi nhà lợp rạ thôi, nhưng nó là của mình, là chỗ mình vẫn ở. Rời bỏ Trái Đất ư, úi chà, gay lắm...
– Ấm trà sôi rồi, - Khokhlov, người công nhân kia, nói, - Cuzmin, vào uống trà đi.
Cuzmin thở dài: “Nào thì vào”, rồi đến chỗ cái lò, Khokhlov một người khắt khe - và Cuzmin ngồi xuống hai chiếc hòm bên cạnh lò và uống trà, thận trọng bẻ bánh mì, gỡ xương con cá khô, thong thả nhai.
Cuzmin lắc bộ râu một cái, khẽ nói:
– Tôi thương ông ấy lắm. Những người tốt như thế bây giờ hầu như không có nữa đâu.
– Đừng có vội làm lễ cầu hồn cho ông ấy.
– Một anh phi công kể cho tôi: anh ta bay lên cao tám vecxtơ(1) giữa mùa hè nhé, vậy mà dầu mỡ trong máy bay vẫn đông cứng lại. Nếu cao hơn nữa thì sao? Trên đó lạnh lắm. Lại tối nữa. – Tôi đã bảo đừng có làm lễ cầu hồn cho ông ấy vội mà, - Khokhlov cau có nhắc lại.
– Không ai muốn bay với ông ấy, họ không tin. Bản thông báo đóng ở đó đã hai tuần rồi mà có ăn thua gì đâu.
– Nhưng tôi thì tôi tin.
– Ông ấy có bay tới nơi được không?
– Được chứ. Bấy giờ ở châu Âu bọn họ mới cuống lên. – Sao lại cuống?
– Cuống quá đi chứ. Vì Sao Hỏa đã là của ai rồi nào? Đã là của Liên Xô rồi.
– Ừ, tuyệt thật nhỉ.
Cuzmin ngồi nhích ra. Los lại gần, ngồi xuống, cầm lấy ca nước trà nóng đang bốc hơi nghi ngút.
– Khokhlov, bác không đồng ý bay cùng với tôi à?
– Không, Motixlav Xergeevitr, - Khokhlov đáp, tôi không bay đâu, tôi sợ lắm.
Los mỉm cười, nhấp một ngụm nước trà, rồi nhìn sang Cuzmin. – Còn bác thế nào?
– Riêng tôi thì tôi thích bay lắm, nhưng vợ tôi ốm, lại còn một lũ con, biết để chúng lại cho ai?
– Thế thì có lẽ tôi sẽ phải bay một mình mất, - Los nói, đặt chiếc cốc không xuống, đưa tay lên lau môi, - chẳng ai muốn rời Trái Đất cả. - Anh lại nhếch mép cười, lắc đầu. - Hôm qua, có một tiểu thư đến đây theo tờ thông báo. “Được, cô ta nói, tôi sẽ bay cùng với ông, tôi mười chín tuổi, biết hát, biết nhảy, biết chơi ghi ta, tôi không muốn sống trên Trái Đất nữa - tôi ngán các cuộc sóng gió lắm rồi. Cần phải có hộ chiếu xuất cảnh không?” Nói chuyện xong với tôi, cô tiểu thư ấy ngồi xuống bưng mặt khóc. “Ông đánh lừa tôi, tôi tưởng bay đâu gần gần thôi chứ”. Sau đó một thanh niên đến, anh này nói giọng trầm, hai tay đầy mồ hôi.
“Ông coi tôi là thằng ngốc đấy hả, anh ta nói. Bay lên Sao Hỏa thế nào được. Trên cơ sở nào mà ông treo những bản thông báo như thế?” Los tì khuỷu tay lên đầu gối và nhìn than trong lò. Gương mặt anh lúc ấy có vẻ mệt mỏi, trán anh nhăn lại. Có lẽ anh đang nghỉ ngơi sau một thời gian dài ý chí phải căng thẳng. Cuzmin đi lấy thuốc lá.
Khokhlov ho một tiếng rồi nói:
– Motixlav Xergeevitr, ông không thấy sợ à?
Los đưa về phía bác ta đôi mắt đã được than nóng sưởi ấm. – Không, tôi không sợ. Tôi tin rằng tôi sẽ hạ cánh thành công. Nếu không thành công, thì sự va chạm cũng chỉ trong khoảnh
khắc và không đau đớn gì. Đáng sợ là chuyện khác kia. Bác hãy tưởng tượng thế này nhé: tính toán của tôi không đúng, tôi không rơi vào lực hút của Sao Hỏa, mà lại bay lướt qua. Dự trữ nhiên liệu, ôxi, lương thực tôi đủ dùng trong một thời gian dài. Nhưng tôi cứ bay trong bóng tối. Phía trước có một ngôi sao. Một nghìn năm sau, cái xác lạnh cứng của tôi sẽ bay vào những đại dương rực lửa của ngôi sao đó. Suốt một nghìn năm ấy, cái xác tôi cứ bay trong bóng tối.
Nhưng suốt trong bao nhiêu ngày dài, khi tôi vẫn còn sống, - mà tôi sẽ sống khá lâu trong cái hộp kia - bao nhiêu ngày dài, tuyệt vọng, tôi chỉ có một mình trong cả vũ trụ vô cùng vô tận! Tôi không sợ chết nhưng tôi sợ cảnh cô đơn tuyệt vọng trong bóng tối vĩnh hằng. Tình trạng quả là khủng khiếp. Tôi rất không muốn bay một mình.
Los nheo mắt nhìn than trong lò. Miệng anh bướng bỉnh mím chặt lại.
Ở ngoài cổng xuất hiện Cuzmin, bác ta khẽ gọi anh: – Motixlav Xergeevitr, có người đến tìm ông.
– Ai vậy? - Los đứng lên ngay.
– Có một anh lính Hồng quân hỏi ông.
Bước theo Cuzmin vào nhà kho là người mặc áo không đai đã đọc bản thông báo trên phố Bình Minh Đỏ ban nãy. Anh gật đầu chào Los, ngoảnh nhìn chiếc khung gỗ rồi tiến lại gần bàn. – Ông cũng cần bạn đồng hành à?
Los đẩy cho anh lính chiếc ghế, rồi ngồi đối diện.
– Vâng. Tôi sắp bay lên Sao Hỏa.
– Tôi biết, trong bản thông báo có nói thế. Tôi mới được người ta chỉ cho ngôi sao ấy. Tất nhiên là xa rồi. Tôi muốn biết các điều kiện: lương lậu, ăn uống ra sao?
– Anh có gia đình rồi à?
– Tôi có vợ, chưa có con.
Anh ta vừa gõ gõ tay xuống bàn, vừa nhìn xung quanh với vẻ tò mò. Los vắn tắt kể cho anh ta nghe về những điều kiện của chuyến bay, báo trước về những nguy hiểm có thể xảy ra. Anh đề nghị bảo đảm cuộc sống cho gia đình anh lính và phát lương trước bằng tiền và thực phẩm. Anh lính Hồng quân gật đầu lia lịa, nhưng anh ta nghe có vẻ lơ đãng.
– Theo ông - anh ta hỏi, - ở trên đó là người hay là quái vật? Los gãi gãi gáy và cười.
– Tôi cho rằng ở trên đó phải có người, đại khái giống như chúng ta. Đến đó rồi khắc thấy. Vấn đề thế này: đã mấy năm nay, các đài vô tuyến điện lớn ở châu Âu và ở Mỹ bắt đầu nhận được những tín hiệu khó hiểu. Thoạt tiên người ta nghĩ rằng đó là dấu vết những cơn bão trong các từ trường của Trái Đất. Nhưng các âm thanh bí ẩn rất giống những tín hiệu chữ cái. Một ai đó kiên trì muốn nói chuyện với chúng ta. Từ đâu vậy? Trên các hành tinh, ngoài Sao Hỏa ra, hiện người ta chưa thấy có sự sống. Các tín hiệu chỉ có thể được phát từ Sao Hỏa.
Anh hãy nhìn lên bản đồ Sao Hỏa mà xem - nó chằng chịt đầy kênh mương như một mạng lưới. (Los chỉ bản vẽ Sao Hỏa đóng trên bức tường gỗ). Có lẽ lên đó, chúng ta sẽ có thể xác định được những đài vô tuyến có công suất lớn. Sao Hỏa muốn nói chuyện với Trái Đất. Hiện giờ chúng ta chưa thể trả lời những tín hiệu ấy. Nhưng chúng ta bay tới nơi có tiếng gọi. Khó mà giả định rằng các trạm vô tuyến điện trên Sao Hỏa là do những quái vật, những sinh vật không giống chúng ta xây dựng... Sao Hỏa và Trái Đất là hai quả cầu nhỏ xíu quay cạnh nhau. Ta và họ cùng chung một quy luật. Trong vũ trụ có những hạt bụi của sự sống. Cũng những mầm sống ấy rơi xuống Sao Hỏa và xuống Trái Đất, xuống vô vàn những ngôi sao đã nguội lạnh. Đâu đâu cũng nảy nở sự sống, và ngự trị trên cuộc sống ở khắp cả mọi nơi là những sinh vật giống như người: không thể nào tạo ra được một sinh vật hoàn hảo hơn con người.
– Tôi sẽ bay với ông, - anh lính Hồng quân nói kiên quyết. - Bao giờ tôi phải mang hành lý đến?
– Ngày mai. Tôi cần giới thiệu con tàu với anh. Họ tên anh là gì? – Guxev, Alecxei Ivanovitr.
– Nghề nghiệp?
Guxev lờ đờ nhìn Los, cụp mắt xuống những ngón tay của mình đang gõ gõ trên bàn.
– Tôi biết chữ, - anh nói, - ôtô tôi cũng biết tàm tạm. Tôi đã bay trên máy bay với tư cách một nhân viên quan sát. Từ năm mười tám tuổi, tôi đi chiến đấu - đó là toàn bộ nghề nghiệp của tôi. Tôi đã bị thương. Bây giờ tôi ở trong quân dự bị. - Anh bỗng đưa tay lên xát mạnh đỉnh đầu và cười. - Trong bảy năm vừa rồi, tôi cũng làm vô khối việc! Nói thật lòng, bây giờ lẽ ra tôi phải chỉ huy một trung đoàn rồi đấy... Tôi gia nhập Hồng quân. Tôi đã tham gia đuổi bọn xâm lược khỏi Kiev - bây giờ tôi ở trong kỵ binh của Budionưi. Lần cuối cùng tôi bị thương là khi đánh chiếm Perecov. Sau đó, tôi nằm ở các bệnh xá gần một năm. Lúc ra viện tôi biết đi đâu bây giờ? Vừa lúc ấy, tôi gặp một cô gái, thế là tôi cưới vợ. Vợ tôi tốt lắm. Tôi rất thương cô ấy, nhưng tôi không thể sống ở nhà được. Về quê thì bố mẹ đã chết cả, các anh trai đều bị địch giết, ruộng đất bị bỏ hoang. Ở thành phố thì chưa có việc gì làm. Motixlav Xergeevitr, ông cho tôi đi với. Lên Sao Hỏa, tôi sẽ có ích cho ông.
– Thôi được rồi, tôi rất mừng, - Los nói và chìa tay ra. - Vậy ngày mai anh đến đây nhé!
Chương 4
MỘT ĐÊM THAO THỨC
Mọi chuyện đã sẵn sàng cho chuyến bay khỏi Trái Đất. Nhưng hai ngày tiếp sau, Los và Guxev gần như không được ngủ để sắp xếp nhiều thứ lặt vặt vào trong con tàu. Họ dỡ khung gỗ ra, dỡ cả một phần mái nhà.
Los giới thiệu cho Guxev cơ cấu chuyển động và những dụng cụ quan trọng nhất, - Guxev tỏ ra là một người khéo léo và sáng dạ. Los quyết định con tàu sẽ xuất phát vào sáu giờ chiều ngày hôm sau.
Tới khuya hôm ấy, Los cho hai người công nhân và Guxev ra về. Anh tắt điện, chỉ để chiếc đèn con trên bàn rồi không cởi quần áo ngoài, anh ngả lưng xuống chiếc giường sắt ở góc nhà kho, đằng sau giá đặt kính viễn vọng.
Đêm hôm ấy yên tĩnh, bầu trời đầy sao. Los không ngủ. Đưa hai tay ra sau gáy, anh nhìn vào bóng tối. Đã lâu, anh không buông thả mình theo các ý nghĩ triền miên. Giờ đây, vào đêm cuối cùng trên Trái Đất, anh để mặc cho trái tim anh dằn vặt, than khóc.
Anh nhớ lại... căn phòng trong bóng tối lờ mờ... cây nến được che bằng một cuốn sách. Mùi thuốc men ngột ngạt. Trên chiếc thảm dưới sàn là cái chậu. Khi anh dậy và đi ngang qua cái chậu, có những cái bóng chập chờn trên lớp giấy bồi tường buồn bã. Thật là mệt mỏi!
Nằm trên giường, là Catia, vợ anh, người anh quý hơn cả thế gian này - đang khe khẽ thở gấp. Trên gối là mái tóc dày rối bời. Hai đầu gối nhô lên dưới tấm chăn, Catia sắp vĩnh biệt anh. Gương mặt hiền hậu mới đây còn xinh đẹp biết bao, nay đã thay đổi hẳn. Gương mặt ấy đang đỏ rực trong cơn sốt. Catia thò tay ra giật giật mép chăn. Los lại cầm lấy tay vợ đặt vào trong chăn.
“Em ơi, mở mắt ra đi, nào hãy nhìn anh một cái để chia tay cùng anh”. Catia nói bằng một giọng yếu ớt, ai oán: “Mở cở, mở cở”. Giọng nói thều thào, rầu rĩ của cô muốn bảo: “Mở cửa sổ ra”. Đáng sợ hơn mọi nỗi sợ là lòng thương xót Catia, thương xót giọng nói ấy.
“Catia, Catia, em hãy nhìn anh đi”. Anh hôn Catia vào má, vào trán, vào đôi mắt nhắm nghiền. Cổ họng cô run run, ngực chốc chốc lại giật lên, các ngón tay cứ bám chặt lấy mép chăn. “Catia, Catia, em sao thế?” Cô không trả lời, cô đang vĩnh biệt anh... Cô chống khuỷu tay lên, ngực vồng lên như bị ai đẩy từ bên dưới, như bị ai hành hạ. Cái đầu đáng yêu hất ngửa ra... Cô buông người xuống, như chìm vào trong giường. Cằm cô gục xuống. Los run lên tuyệt vọng, cứ ôm cô mà siết chặt lấy.
... Không, không, không, - không thể nào hòa giải được với cái chết...
Los đứng dậy, lấy hộp thuốc lá trên bàn, châm thuốc hút và đi đi lại lại một lát trong nhà kho tối om. Sau đó, anh leo lên giá đặt kính viễn vọng, tìm Sao Hỏa bấy giờ đã mọc cao trên thành phố Pet’rograd, và anh nhìn mãi quả cầu bé nhỏ, sáng rõ và ấm áp ấy. Nó như hơi run run trong hai nét chữ thập của mặt kính.
... Anh lại nằm xuống... Kí ức mở ra bao hình ảnh. Catia ngồi trên bãi cỏ ở một cái gò. Xa xa sau những cánh đồng gợn sóng là những điểm vàng của thành phố Dvenigorod. Lũ diều hâu bay lượn trong bầu không khí mùa hè oi bức, trên những ruộng lúa mì, lúa mạch. Catia cảm thấy uể oải và nóng nực. Los ngồi bên cạnh vừa nhấm nhấm một nhánh cỏ; vừa nhìn mái tóc hung của Catia - lãnh đạm và tuyệt vời - trong đó cũng có bóng những còn diều hâu bay lượn. Catia mười tám tuổi. Cô ngồi im lặng. Los nghĩ: “Không, cô em đáng yêu ơi, anh có một việc quan trọng hơn là việc ngồi trên thảm cỏ này để mê đắm em. Anh không mắc cái lưỡi câu này đâu. Anh sẽ không đến nhà nghỉ ở ngoại ô này với em nữa”.
Trời ơi! Ta đã bỏ qua những ngày hè nóng bỏng ấy thật là uổng phí. Giá bây giờ ta giữ được cho thời gian ngừng trôi nhỉ! Không thể lấy lại những phút ấy được nữa! Không thể nào lấy lại được!...
Los lại đứng dậy, đánh diêm, hút thuốc, đi đi lại lại. Nhưng ngay việc đi qua đi lại dọc theo bức tường gỗ cũng thật nặng nề, chẳng khác gì con thú ở dưới cái hố.
Los mở cổng nhìn lên Sao Hỏa bây giờ đã khá cao.
“Cả ở trên đó, ta cũng không trốn thoát được bản thân ta, - ở bên ngoài Trái Đất, ở bên ngoài cái chết cũng vậy thôi. Sao ta lại uống
cái chất độc yêu đương làm chi cho khổ! Ta cứ sống bình lặng có hơn không. Trong không trung, những mầm sống đông cứng, những tinh thể giá lạnh vẫn chẳng vẩn vơ bay mãi bay hoài đó sao? Không, phải rơi xuống và phải nở rộ - phải thức tỉnh dậy để mà ham muốn - phải yêu, hòa hợp, quên lãng, không còn là một cái mầm sống cô đơn nữa, và toàn bộ giấc mộng ngắn ngủi này, để rồi lại chết, lại chia ly, và lại một chuyến bay của những tinh thể giá lạnh”.
Los đứng hồi lâu ở ngoài cổng. Sao Hỏa khi thì xanh biếc, khi thì óng ánh như kim cương, nằm tít cao trên thành phố Pet rograd đang ngủ. “Một thế giới mới mẻ, kì lạ - Los nghĩ có lẽ đã tắt từ lâu hoặc, một thế giới huyền diệu, thịnh vượng và hoàn hảo... Một đêm sắp tới, cũng như thế này, ta sẽ ngắm nhìn ngôi sao thân thiết của ta giữa các vì sao... Ta sẽ nhớ lại - cái gò, rồi những con diều hâu, rồi ngôi mộ, nơi Catia yên nghỉ... Và nỗi buồn của ta sẽ nhẹ nhõm...” Tới gần sáng, Los đặt đầu lên gối và ngủ thiếp đi. Anh thức giấc bởi tiếng lộc cộc của một chiếc xe đi trên đường bờ sông. Los đưa tay lên vuốt mặt. Đôi mắt anh hãy còn lờ đờ sau những bóng hình hiện về ban đêm, giờ đây trông rõ các tấm bản đồ trên tường, đường nét của con tàu vũ trụ. Los buông một tiếng thở dài, và để tỉnh ngủ hẳn, anh ra vòi nước gội đầu bằng nước lạnh. Anh khoác áo bành tô lên, rồi cất bước về nhà mình, nơi cách đây nửa năm, Catia đã từ giã cõi đời.
Về đến nhà, anh tắm rửa, cạo râu, mặc quần áo sạch vào và xem tất cả các cửa sổ đã đóng kĩ chưa. Căn nhà không có ai ở nên chỗ nào cũng đầy bụi. Anh mở cửa vào phòng ngủ, nơi từ khi Catia qua đời, anh không ngủ một lần nào. Phòng ngủ lờ mờ tối vì các tấm rèm đều buông xuống, chỉ có ánh phản chiếu của chiếc gương ở tủ áo Catia, - cánh tủ gắn gương hơi hé mở. Los cau mày, nhón chân vào đóng chặt cánh tủ ấy lại. Rồi anh đóng cửa vào phòng ngủ. Anh ra khỏi căn nhà, đóng cửa ngoài và đút chiếc chìa khóa con vào túi áo gilê.
Thế là mọi công việc đã xong cả. Anh đã sẵn sàng bay.
Chương 5
CŨNG ĐÊM HÔM ĐÓ
Đêm hôm đó, Masa chờ chồng rất lâu mà không thấy chồng về. Đã mấy lần chị đun lại ấm trà trên bếp dầu. Bên kia, sau cánh cửa cao bằng gỗ sồi, rất im ắng và đáng sợ thế nào ấy. Guxev và Masa ở một căn phòng trong một ngôi nhà xưa kia lộng lẫy, to lớn, bây giờ thì bỏ hoang. Trong thời gian cách mạng, những người ở ngôi nhà này đã rời bỏ nó. Trong bốn năm, mưa gió và bão tuyết đã làm hỏng nặng phần bên trong ngôi nhà.
Căn phòng khá rộng. Trên trần, giữa những hình khắc chạm vàng và những đám mây có hình một người đàn bà béo tròn đang bay, với nụ cười rộng mở và xung quanh là những đứa trẻ có cánh.
“Em thấy không, Masa, - Guxev rất hay chỉ lên trần và bảo vợ, - người đàn bà vui tươi chưa kìa, lại đẫy đà nữa, có những đứa con, thật đúng là phụ nữ nhé”.
Phía trên chiếc giường mạ vàng, chân giường hình chân sư tử có treo chân dung một ông già đội bộ tóc giả rắc phấn, miệng mím chặt, có ngôi sao trên áo. Guxev gọi ông ta là “Tướng Toptưgin”(1). “Cái ông này không tha ai bao giờ, hễ có gì không vừa ý, là ông ta dẫm nát liền”. Masa sợ nhìn lên bức chân dung. Chạy qua căn phòng có một chiếc ống sắt của lò sắt làm tường bị ám khói. Trên các ngăn giá, trên bàn, nơi Masa nấu những bữa ăn đạm bạc, rất gọn gàng và sạch sẽ.
Cánh cửa gỗ sồi có hình chạm trổ mở sang một gian phòng cao có hai dãy cửa sổ. Các ô kính vỡ được bít kín bằng gỗ. Trần nhà đôi chỗ bong lớp trát. Vào những đêm nhiều gió, gió lùa vào như rít lên, lũ chuột chạy lịch rịch.
Masa ngồi bên bàn. Lửa bếp dầu kêu xèo xèo. Từ xa, gió đưa về tiếng chuông đồng hồ buồn bã, - đồng hồ điểm hai tiếng. Vẫn chưa thấy Guxev đâu. Masa nghĩ:
“Anh ấy tìm kiếm điều gì? Anh ấy còn thiếu điều gì nhỉ? Lúc nào anh ấy cũng muốn tìm ra một điều gì. Thật là một con người không ngồi yên được bao giờ... Giá như anh ấy nhắm mắt lại, dù chỉ một
lần thôi và ngả đầu trên vai ta, thì ta sẽ bảo: anh đừng tìm kiếm gì nữa, anh không thể tìm được gì quý hơn niềm xót thương của em đâu”.
Những giọt nước mắt ngưng lăn trên làn mi Masa. Chị thong thả lau đi rồi tì một bên má lên bàn tay. Trên đầu chị, người đàn bà vui tươi cùng lũ trẻ cứ bay mãi mà không thể nào bay đi được. Masa nghĩ:
“Nếu ta xinh đẹp đậm đà thế kia, chắc hẳn anh ấy chẳng rời bỏ ta đi đâu”.
Guxev bảo chị rằng anh ấy sắp đi xa, nhưng đi đâu thì chị không biết, chị sợ, không dám hỏi. Bản thân chị cũng thấy rằng sống với chị trong căn phòng tuyệt vời này, trong yên tĩnh, không được tự do như trước, anh khổ sở lắm, anh không chịu nổi. Đêm đêm, nếu nằm mơ gì đó là anh nghiến răng ken két, kêu lên khàn khàn, ngồi dậy trên giường và thở hổn hển, răng anh nghiến chặt và cả mặt, cả ngực đều đầy mồ hôi. Rồi anh nằm vật ra ngủ thiếp đi. Sáng ra, người anh u uất, dáng vẻ bồn chồn.
Masa dịu dàng với anh hơn một bà mẹ. Vì vậy mà anh yêu chị và thương chị, nhưng hễ sáng ra là anh chỉ mắt trước mắt sau tính chuyện đi đâu đó.
Masa đi làm. Chị vẫn đem khẩu phần ăn về nhà. Anh chị thường không có đồng nào trong túi. Guxev thử làm nhiều việc, nhưng chỉ làm ít hôm lại bỏ. “Các cụ già bảo rằng ở Trung Quốc nhiều vàng lắm, - anh thường nói, - chưa chắc đã đúng như thế, nhưng đất đai ở đó, quả thật chúng ta còn chưa biết... Masa, anh sẽ đi Trung Quốc để xem bên ấy nó ra làm sao”.
Với cảm giác buồn rầu đến chết, Masa chờ cái giờ phút Guxev ra đi. Trên cả thế gian này, ngoài anh ra, chị không còn ai. Từ năm mười lăm tuổi, chị đã đi làm nhân viên bán hàng ở các cửa hàng, làm thủ quỹ ở các con tàu chạy trên sông Neva. Chị sống cô đơn buồn tẻ.
Một năm trước đây, trong một ngày hội, chị quen Guxev trên một chiếc ghế đá ở công viên. Anh hỏi: “Tôi thấy chị ngồi một mình, xin cho phép tôi ngồi cùng, chứ tôi ngồi một mình buồn lắm”. Chị ngước mắt nhìn lên, thấy mặt anh dễ thương, đôi mắt vui vẻ, phúc hậu và
anh không say rượu. “Được thôi”, - chị đáp ngắn gọn. Thế là họ đi dạo trong công viên với nhau đến tận tối, Guxev kể về chiến tranh, về các trận tập kích, các cuộc đảo chính, - về những chuyện không thể đọc thấy trong một cuốn sách nào. Anh tiễn Masa về đến tận nhà và từ hôm ấy, bắt đầu đến chị luôn. Masa trao thân gửi phận cho anh một cách giản dị và thoải mái. Và khi đó, chị đã yêu anh vì toàn bộ máu thịt chị cảm thấy anh là người thân thiết của chị. Cũng từ lúc ấy, bắt đầu nỗi đau khổ của chị...
Ấm trà đã sôi, Masa nhấc ấm ra rồi lại ngồi yên. Đã lâu, chị có cảm giác như sau cánh cửa, ở gian phòng bỏ trống bên kia có tiếng sột soạt. Chị buồn quá, đến nỗi chẳng lắng tai nghe nữa. Nhưng giờ đây, chị nghe rất rõ ở bên đó lệt xệt có tiếng chân ai. Masa mở nhanh cửa và thò đầu sang.
Ánh đèn đường lọt vào gian phòng qua một ô cửa sổ, chiếu sáng yếu ớt vào mấy cái cột thấp trông như mấy cái vệt lấm tấm. Ở giữa mấy cái cột ấy, Masa nhìn thấy một ông già tóc bạc, không đội mũ, mặc chiếc áo bành tô dài, - ông già đứng đó, vươn cổ ra nhìn Masa.
Hai đầu gối chị tưởng như muốn khuỵu xuống.
– Cụ cần gì ở đây? - chị thì thầm hỏi.
Ông già vẫn cứ vươn cổ ra mà nhìn chị. Ông ta giơ ngón tay trỏ lên ra ý dọa dẫm. Masa đóng sập ngay cửa lại, tim chị đập thình thịch. Chị lắng tai nghe, - tiếng chân giờ đây xa dần: có lẽ ông già đang theo cầu thang chính xuống dưới.
Chẳng mấy chốc, từ mé kia của gian phòng vang lên những tiếng bước chân nhanh nhẹn, mạnh mẽ của chồng chị. Guxev bước vào trông rất vui vẻ, người nhem nhuốc bồ hóng.
– Cho anh rửa ráy một chút nào, - anh vừa nói vừa cởi khuy cổ, - ngày mai anh đi, tạm biệt nhé. Em có trà nóng đấy à? Tuyệt lắm. - Anh rửa mặt, rửa cái cổ vạm vỡ, rửa hai tay đến tận khuỷu, chà xát kĩ, rồi anh liếc nhìn vợ. - Em cứ yên tâm, anh không chết đâu, anh sẽ trở về. Suốt bảy năm mà bom đạn, lưỡi lê có giết nổi anh đâu. Giờ tận số của anh còn xa lắm. Đến lúc phải chết thì trốn cũng chả được: nháy mắt một cái là hết tất cả thôi mà.
Anh ngồi vào bàn bóc vỏ củ khoai tây luộc, bẻ ra một miếng, chấm muối.
– Mai, em chuẩn bị cho anh hai bộ quần áo sạch - sơ mi, quần, xà cạp. Đừng quên xà phòng. Sao, em lại khóc đấy à? – Em sợ lắm, - Masa đáp, quay mặt đi, - có một ông cụ già nào đó quanh quẩn bên kia, giơ ngón tay ra dọa. Guxev, anh đừng đi. – Chỉ vì ông cụ già giơ tay ra dọa mà không đi à?
– Ông ấy dọa thế là báo điềm dữ đấy.
– Tiếc rằng anh lại đi, nếu không, thế nào anh cũng sẽ nói chuyện với ông già một cách nghiêm chỉnh. Chắc chắn đó là một kẻ nào đó trước kia ở đây, nay lang thang trong đêm mà thì thầm, mà xua đuổi ta đi đó thôi.
– Guxev, anh có trở về với em nữa không?
– Anh bảo anh sẽ trở về là anh sẽ trở về. Gớm em hay lo lắng quá đấy.
– Anh có đi xa không?
Guxev huýt sáo miệng, hất đầu về phía trần nhà và đôi mắt như cười cười, anh rót trà nóng ra tách.
– Ở tít trên các tầng mây, Masa, anh bay như cái bà vui tươi kia kìa.
Masa chỉ cúi đầu xuống. Guxev ngáp một cái, rồi bắt đầu cởi áo quần ngoài, Masa khẽ khàng thu dọn bát đĩa tách chén rồi ngồi xuống mạng tất - chị không ngước mắt lên. Khi chị cởi áo ngoài và lại gần giường thì Guxev đã ngủ, hai tay đặt trên ngực, thanh thản khép hai hàng mi. Masa ghé nằm bên cạnh và nhìn chồng. Mấy giọt nước mắt lăn trên má chị, anh ấy đáng quý với chị xiết bao. Chị rất nhớ trái tim sôi nổi của anh.
“Anh ấy bay đi đâu, anh ấy tìm kiếm cái gì nhỉ?” Rạng sáng Masa trở dậy giặt áo cho chồng và sắp xếp những thứ quần áo sạch. Guxev thức giấc. Anh uống trà, bông đùa, vuốt má Masa. Anh để lại một xấp tiền. Anh khoác chiếc túi lên vai, đứng lại một chút ở cửa rồi hôn Masa.
Thế là rốt cuộc, chị vẫn không biết anh đi đâu.
Chương 6
CẤT CÁNH
Ở bãi đất rộng đằng trước xưởng của Los có nhiều người tụ tập. Họ từ ngoài bờ sông, từ khắp mọi phía trên đảo Pet’rov kéo đến. Họ đứng thành từng nhóm nhìn vầng mặt trời bấy giờ còn thấp đang chiếu những tia sáng rộng qua các đám mây. Họ bàn tán với nhau nhiều chuyện.
– Sao đông người thế này nhỉ, có ai bị giết à?
– Người ta sắp bay lên Sao Hỏa đấy.
– Hóa ra mình được sống đến cái ngày vĩ đại này cơ à! – Bác nói gì vậy, ai bay?
– Người ta lấy hai tên cướp ở trong nhà tù ra, nhốt vào một quả cầu thép rồi phóng lên Sao Hỏa để thí nghiệm mà lại! – Thôi đừng nói vớ vẩn nữa.
– Bọn man rợ, họ không thương xót con người gì cả!... – Ông bảo “họ” là ám chỉ ai thế hả?
– Thôi đi ông, đừng có chộp lấy từng chữ mà móc máy như thế. – Tất nhiên, đó là một sự nhạo báng.
– Trời ơi, dân chúng ngu ngốc quá đi mất!
– Tại sao dân chúng lại ngu ngốc? Ông căn cứ vào đâu? – Vì những lời đó, ông, có thể bị bỏ tù đấy.
– Thôi cả đi, các đồng chí. Đây quả thật là một sự kiện lịch sử, thế mà các đồng chí toàn nói những chuyện tầm phào. – Thế bay lên Sao Hỏa để làm gì?
– Xin lỗi, có người vừa nói: họ chở theo hai mươi lăm put(1) toàn sách báo tuyên truyền.
– Đấy là một chuyến đi thám hiểm.
– Để làm gì?
– Tìm vàng.
– Hoàn toàn đúng, - để bổ sung cho kho vàng.
– Họ định mang về nhiều không?
– Số lượng không hạn chế.
– Này, chúng ta còn phải đợi lâu nữa không nhỉ?
– Mặt trời lặn là họ bay đấy...
Cho tới hoàng hôn, trong đám đông chờ đón sự kiện khác thường, người ta nói đủ mọi chuyện. Người ta tranh luận, cãi cọ nhau, nhưng người ta không bỏ ra về.
Hoàng hôn lờ mờ tỏa ánh sáng đỏ tía ra khắp nửa bầu trời. Và đây, chiếc ôtô lớn của Ủy ban hành chính tỉnh xuất hiện, từ từ rẽ đám đông sang hai bên.
Ở giữa nhà kho, trên bệ xi măng hơi nghiêng, con tàu vũ trụ hình quả trứng với những hàng đinh tán bóng loáng đã được mở lộ ra ở khắp mọi phía. Có thể thấy phần bên trong sáng trưng, lớp da màu vàng bọc máy trần thành những hình ô trám, qua ô cửa nắp hình tròn của con tàu.
Los và Guxev đã đi ủng dạ, mặc áo lông cừu, đội mũ da kiểu phi công. Các ủy viên Ủy ban hành chính, viện sĩ, kĩ sư, nhà báo đứng vây quanh con tàu. Những bài diễn văn tiễn biệt đã được đọc. Các tấm ảnh đã được chụp. Los cám ơn những người ra tiễn đã quan tâm đến anh. Mặt anh tái xanh, mắt anh mờ đục. Anh ôm lấy Khokhlov và Cuzmin.
– Đến giờ rồi!
Những người tiễn đưa im lặng. Guxev cau mày, chui vào cửa nắp.
Vào trong, anh ngồi xuống chiếc gối da, sửa lại mũ, kéo lại áo cho ngay ngắn.
– Nhớ ghé vào chỗ vợ tôi nhé, đừng quên đấy, - anh nói to với Khokhlov và cau mày.
Los vẫn còn chưa lên tàu, anh nhìn xuống chân mình. Bỗng anh ngẩng đầu lên và nói bằng một giọng trầm trầm xúc động: – Tôi nghĩ rằng tôi sẽ hạ cánh thành công xuống Sao Hỏa. Tôi tin rằng chỉ ít năm nữa là hàng trăm con tàu vũ trụ sẽ bay ngang dọc khoảng không bao la. Chúng ta bao giờ cũng bị thôi thúc bởi ý muốn tìm tòi cái mới. Nhưng lẽ ra không phải tôi là người đầu tiên được
bay, không phải tôi là người đầu tiên được xuyên thủng tấm màn bí mật của vũ trụ. Tôi sẽ tìm được gì ở đó? - Tôi sẽ tìm được sự quên lãng chính bản thân mình... Đó chính là điều khiến tôi bối rối nhất khi chia tay cùng các đồng chí... Không, thưa các đồng chí, tôi không phải là một nhà xây dựng thiên tài, không phải là một người can đảm, không phải là một người mơ mộng, tôi là một kẻ hèn nhát, tôi là một kẻ chạy trốn...
Los bỗng ngưng lời, đôi mắt là lạ nhìn khắp lượt những người đi tiễn, - tất cả nghe anh nói với vẻ ngỡ ngàng. Anh kéo chiếc mũ sụp xuống mắt.
– Nhưng những chuyện riêng tư ấy không cần thiết cho ai, cả các đồng chí lẫn cho tôi... Tôi để chúng lại trên chiếc giường cô đơn trong nhà kho này... Tạm biệt các đồng chí, tôi yêu cầu mọi người hãy tránh ra xa con tàu...
Ngay lúc ấy, từ trong ô cửa nắp, Guxev nói to ra:
– Các đồng chí, tôi sẽ chuyển lời chào nồng nhiệt của nước Cộng hòa Xô Viết cho những người trên Sao Hỏa. Các đồng chí có cho tôi được cái quyền ấy không?
Đám đông ồn lên. Vang dội tiếng vỗ tay.
Los quay người, trèo lên cửa nắp rồi lập tức đóng sập cửa lại sau lưng. Những người đi tiễn vừa xúc động nói chuyện với nhau vừa chen chúc chạy từ nhà kho về phía đám đông. Có tiếng ai hô to: – Cẩn thận, tránh ra, nằm xuống!
Trong không khí im lặng, giờ đây hàng nghìn người nhìn vào những ô cửa sổ được chiếu sáng của nhà kho. Trong đó rất yên tĩnh.
Bãi rộng trước cửa nhà kho cũng không một tiếng động. Vài phút trôi qua. Nhiều người nằm xuống đất. Bỗng xa xa có tiếng ngựa hí. Một người kêu lên, giọng khủng khiếp:
– Khẽ chứ.
Trong nhà kho có tiếng ầm ầm đến điếc tai. Lập tức vang lên những tiếng nổ mạnh hơn, gấp hơn. Mặt đất rung chuyển. Phía trên mái nhà kho nhô cao một cái mũi kim loại, bọc quanh là một đám khói và bụi. Tiếng nổ càng to hơn. Con tàu màu đen đã hiện toàn bộ ở phía trên mái nhà, lơ lửng trong không trung như còn ướm thử.
Những tiếng nổ hòa lẫn với tiếng rú dữ dội, rồi con tàu hình quả trứng dài bốn xagien(1) như một chiếc tên lửa bay chếch trên đầu đám đông, nhằm về hướng Tây, vạch một vệt lửa rồi biến mất trong những đám mây đỏ rực ánh chiều.
Mãi lúc ấy, trong đám đông mới vang lên tiếng reo, mọi người mới tung mũ hoan hô và chạy lại vây quanh nhà kho.
Chương 7
TRONG BẦU TRỜI TỐI ĐEN
Sau khi vặn vít cửa nắp, Los ngồi đối diện Guxev và nhìn vào mắt người bạn đồng hành, - vào chỗ có hai điểm đồng tử nhớn nhác như mắt con chim bị bắt.
– Chúng ta bay chứ, ông Los?
– Bắt đầu nào!
Los nắm lấy cần máy biến trở và xoay nhẹ. Một tiếng nổ trầm đục vang lên, - đó chính là tiếng đầu tiên khiến cho đám đông hàng nghìn người ở bên ngoài giật mình. Anh xoay máy biến trở thứ hai. Tiếng trầm đục vang lên ngay ở dưới chân, và con tàu rung chuyển mạnh đến nỗi Guxev phải túm lấy chỗ ngồi, mắt mở to ra. Tiếng động giảm dần. Tàu cũng bớt rung. Los hét to:
– Chúng ta cất cánh rồi!
Guxev lau mồ hôi trên mặt. Nóng đến khó tả. Đồng hồ đo tốc độ chỉ năm mươi mét/giây. Chiếc kim nhỏ tiếp tục dịch chuyển lên nữa. Con tàu lao theo đường tiếp tuyến, ngược với chiều quay của Trái Đất. Lực li tâm đẩy nó về phía Đông. Theo tính toán thì đến độ cao một trăm kilômét nó phải bay theo một đường chéo thẳng góc với bề mặt Trái Đất.
Động cơ hoạt động tốt. Los và Guxev cởi khuy áo bông, hất mũ ra sau gáy. Điện được tắt đi. Một ánh sáng nhợt nhạt lọt qua lớp kính các lỗ quan sát.
Cố vượt qua cảm giác yếu mệt và tình trạng chóng mặt, Los quỳ xuống nhìn vào lỗ quan sát về phía Trái Đất đã xa dần. Trái Đất giống như một cái bát to tướng, vô cùng vô tận, màu xanh nhạt. Đây đó có những đám mây chẳng khác gì những hòn đảo. Cái bát ấy dần dần thu hẹp lại và lui xuống dưới. Mép bên phải của nó bắt đầu lấp lánh như bạc. Mép trái tối đen. Và kia, cái bát đã hệt như một quả cầu đang bay tới nơi sâu thẳm.
Guxev dán mắt vào một lỗ quan sát khác, nói:
– Tạm biệt Đất Mẹ, nơi ta đã sống bao năm, nơi ta đã từng đổ máu.
Anh đứng dậy, nhưng bỗng lảo đảo ngã vật xuống gối. Anh giằng xé cổ áo.
– Tôi chết mất, ông Los ơi. Tôi không thể nào chịu được nữa! Los cảm thấy tim mình đập mỗi lúc một nhanh, giờ đây nó đã không đập nữa, - nó giãy giụa đau khổ. Máu dồn lên hai thái dương. Trong con tàu tối dần.
Anh bò tới đồng hồ đo tốc độ. Chiếc kim lệch hẳn đi, chỉ một tốc độ nhanh không tưởng tượng nổi. Lớp khí quyển đã hết. Sức hút của Trái Đất giảm đi. La bàn chỉ hướng Trái Đất là hướng thẳng góc xuống phía dưới. Con tàu bay với tốc độ ngày càng nhanh, lao vào khoảng không gian vũ trụ giá lạnh.
Phải vất vả lắm, gẫy cả móng tay, Los mới cởi được khuy cổ chiếc áo lông. Tim anh ngừng đập.
Đoán trước tốc độ con tàu khi đạt tới một mức nào đó thì sẽ có sự thay đổi rõ rệt. Tốc độ đập của trái tim, quá trình chuyển hóa máu và các chất dịch, toàn bộ nhịp độ sống của cơ thể, - đoán trước được như vậy nên Los đã dùng dây điện nối đồng hồ đo tốc độ với van các thùng chứa để đúng lúc cần thiết, những thùng này xả ra một lượng lớn ôxi và muối amôni.
Los tỉnh dậy trước... Anh bị tức ngực, chóng mặt. Tim anh nhảy loạn lên như con sói. Các ý nghĩ bất chợt đến trong đầu rồi lại chợt biến mất - đó là những ý nghĩ khác thường, mau lẹ và rõ ràng. Các động tác của anh nhẹ nhàng và chính xác.
Los khóa các van thừa ở các thùng lại, rồi nhìn đồng hồ đo. Con tàu đang bay gần năm trăm vecxtơ(1) một giây. Trong tàu sáng sủa. Một tia nắng mặt trời chói chang chiếu thẳng qua một lỗ quan sát. Đúng chỗ tia nắng ấy chiếu vào, Guxev đang nằm ngửa, - răng nhe ra, mắt lờ đờ như trồi ra ngoài hốc mắt.
Los đưa chất muối có kiềm tính lại gần mũi Guxev. Guxev thở một hơi thật dài, hai mí mắt động đậy. Los định xốc Guxev dậy, nhưng thân thể Guxev cứ lơ lửng như một quả bóng. Anh buông tay ra, - Guxev từ từ hạ xuống, duỗi chân ra rồi chống khuỷu tay dậy.
Anh ngồi chơi vơi như ngồi trong nước, mắt nhìn quanh. – Ông Los, tôi say rượu hay sao ấy nhỉ?
Los ra lệnh cho anh quan sát ở các lỗ phía trên. Guxev đứng dậy, lảo đảo bò theo thành tàu thẳng đứng như một con ruồi, tay bám vào những đường chỉ ở lớp vỏ da. Anh áp mặt vào lỗ cửa. – Tối như mực ấy ông ạ, chẳng thấy gì cả.
Los lắp mảnh kính màu khói vào chỗ thị kính hướng về phía mặt trời. Mặt trời lơ lửng giữa khoảng tối đen như một khối tròn to tướng, rõ nét, bờm xờm. Ở hai bên sườn có hai đám sáng như hai cái cánh.
Từ hạt nhân dày đặc của mặt trời tách ra một cái vòi và cái vòi ấy tỏa rộng ra như cây nấm, đó là thời kì có những vết lớn trên mặt trời. Ở xa hạt nhân còn có những cái cánh sáng nữa, nhưng không sáng bằng hai cánh kia, và những biển lửa bật khỏi mặt trời và quay xung quanh nó.
Phải khó nhọc lắm, Los mới rứt được ra khỏi cảnh tượng đó - cảnh tượng những khối lửa rừng rực sức sống của vũ trụ. Anh đậy nắp thị kính lại. Trong tàu tối om. Anh nhích lại gần lỗ quan sát ở phía kia. Ở đây tối mịt mùng. Anh quay lại thị kính và đập vào mắt anh là tia sáng xanh lá cây nhạt của một ngôi sao. Nhưng rồi lọt vào lỗ quan sát là một tia mạnh, sáng, màu xanh da trời, đó là sao Thiên Lang, một viên kim cương thiên thể, ngôi sao đầu tiên của bầu trời phương Bắc.
Los bò lại gần lỗ quan sát thứ ba. Anh quay thị kính, đưa mắt nhìn, lấy khăn tay lau kĩ mặt kính. Anh chăm chú nhìn. Tim anh thắt lại. Tóc anh chực dựng ngược trên đầu.
Không xa con tàu, trong bóng tối, có những vật lờ mờ bay ngay sát bên cạnh. Guxev lo lắng nói:
– Có một vật gì đó bay ở bên cạnh chúng ta.
Các vật lờ mờ chầm chậm trôi xuống dưới, trở nên sáng hơn, rõ hơn. Có những đường ánh bạc như những sợi chỉ bạc gãy khúc lằng nhằng ở ngoài. Rồi hiện ra đường viền lởm chởm của ngọn núi đá. Có lẽ con tàu tiến gần tới một thiên thể nào đó, lọt vào sức hút của nó và bắt đầu bay xung quanh nó như một vệ tinh.
Bằng bàn tay run run, Los lần ra cần máy biến trở và xoay hết cỡ, đặt con tàu trước nguy cơ bị nổ tung. Bên trong tàu, ở dưới chân, mọi thứ đều gào rú, rung chuyển. Các vết mờ và đường viền lởm
chởm mau chóng lùi ngay xuống dưới. Một bề mặt được chiếu sáng cứ to dần, gần dần. Bây giờ đã có thể trông thấy rõ bóng trải dài của các tảng đá, - chúng giăng hàng qua một bình nguyên trơ trụi, vắng lặng.
Con tàu bay về phía các tảng đá, - chúng đã ở rất gần, một phía chan hòa ánh nắng. Với ý thức bình thản và sáng rõ, Los nghĩ rằng chỉ một giây nữa thôi, con tàu không kịp quay phần ống về phía hành tinh đang hút nó, một giây nữa thôi, sẽ là cái chết.
Trong khoảnh khắc ấy, trên bình nguyên chết chóc giữa các tảng đá, Los trông thấy đống hoang tàn của những ngọn tháp có nhiều bậc... Sau đó, con tàu trượt phía trên những ngọn núi trần trụi...
Nhưng bên kia các ngọn núi là vực thẳm, là đêm tối. Có những ánh kim loại lóe lên ở dưới đó. Thế là mảnh của một hành tinh bị vỡ mà anh chưa hề biết tới đã ở lại tít xa đằng sau, tiếp tục con đường chết của mình vào chốn vĩnh hằng. Con tàu lại lao giữa bầu trời tối đen bao la.
Bỗng Guxev kêu lên:
– Hình như Mặt Trăng ở trước chúng ta!
Anh quay người, rời thành tàu và lơ lửng, quều quào như con nhái, vừa thì thầm chửi rủa vừa cố bơi về sát thành tàu. Los rời sàn tàu và cũng huýt gió một tiếng, cầm cái ống thông ra lỗ quan sát, nhìn cái đĩa bạc chói chang. Đó là Sao Hỏa.
Chương 8
HẠ CÁNH
Cái đĩa bạc đôi chỗ có vẩn mây ấy cứ to dần. Khoảng băng giá Nam cực lấp lánh chói chang. Thấp hơn là lớp sương mù uốn cong. Ở phía Đông nó trải dài tới tận xích đạo, gần kinh tuyến giữa, nó vươn cao lên, cong theo một mặt sáng hơn rồi tẽ đôi ra, tạo nên ở đằng Tây cái đĩa một mũi thứ hai.
Trên xích đạo có năm điểm màu thẫm, trông rất rõ. Chúng nối với nhau bằng những đường thẳng, vạch nên hai tam giác cân. Đáy của tam giác ở phía Đông được quay bằng một vòng cung đều. Từ giữa vòng cung này đến điểm mút ở phía Tây lại có một hình bán nguyệt thứ hai nữa. Phía Đông nhóm hình ở xích đạo ấy rải rác có một số đường, điểm và hình bán nguyệt nữa. Cực Bắc chìm trong bóng tối.
Los háo hức nhìn cái mạng lưới những đường ngang dọc ấy. Đó chính là những kênh rạch có hình hình học đều đặn, thường xuyên thay đổi, đã từng làm cho bao nhiêu nhà thiên văn điên đầu. Bên dưới cái hình rõ nét ấy, giờ đây Los đã thấy thấp thoáng một mạng lưới thứ hai mờ nhạt.
Anh vẽ phác các hình vào sổ tay. Bỗng cái đĩa bạc là Sao Hỏa rung lên và trôi vào khoảng thị kính của lỗ quan sát. Los lao tới các máy biến trở:
– Guxev chúng ta bị hút rồi, chúng ta đang rơi đấy!
Con tàu quay phần ống về phía hành tinh. Los giảm tốc độ và tắt hẳn động cơ. Sự thay đổi tốc độ bây giờ không gây cảm giác khó chịu lắm. Nhưng cái im lặng khủng khiếp đến nỗi Guxev úp mặt vào hai tay và bịt tai lại.
Los nằm trên sàn quan sát xem cái đĩa bạc cứ to dần và mỗi lúc một gồ lên như thế nào. Tưởng như từ một vực thẳm đen ngòm, cái đĩa ấy đang bay về phía họ.
Los lại đóng mạch biến trở. Con tàu rung lên, cố khắc phục sức hút của Sao Hỏa. Tốc độ rơi chậm lại. Giờ đây Sao Hỏa đã to lắm, mép của nó cong lại như cái bát.
Những giây phút cuối cùng thật là kinh khủng. Một trạng thái rơi đến chóng mặt. Sao Hỏa đã che khuất toàn bộ bầu trời. Đột nhiên, kính ở các lỗ quan sát bị mờ đi. Con tàu xuyên qua những đám mây trên một bình nguyên, rồi vừa gào rú vừa rung bần bật. Giờ đây, nó từ từ hạ xuống.
– Chúng ta sắp hạ cánh! - Los chỉ kịp kêu lên có thế rồi tắt động cơ ngay.
Một cú sốc mạnh hất anh vào thành tàu làm anh ngã quay lơ. Con tàu nặng nề đỗ xuống và đổ nghiêng.
...
Tay chân run lẩy bẩy. Los cùng Guxev lặng lẽ và vội vàng thu xếp lại mọi thứ trong con tàu. Qua một lỗ đặt kính quan sát, con chuột họ mang theo từ Trái Đất lừ khừ thò mũi ra ngoài. Con chuột có vẻ tỉnh táo ra, bộ ria động đậy. Vậy là không khí ở đây có thể dùng để thở được.
Bấy giờ họ mới mở cửa nắp ra. Los liếm môi. Anh nói giọng càng khàn hơn.
– Anh Guxev, mừng chúng ta đã đến nơi an toàn. Chúng ta ra ngoài đi thôi.
Họ cởi tất tay và áo lông ra. Guxev nhét khẩu môde vào thắt lưng (để đề phòng mọi trường hợp), mỉm cười mở cửa nắp.
Chương 9
SAO HỎA
Ra khỏi con tàu, Los và Guxev trông thấy một bầu trời bao la chói mắt mầu xanh sẫm như biển cả trong cơn giông.
Vầng mặt trời rừng rực, bờm xờm ở tít trên cao. Ánh sáng xanh trong vắt mát mẻ tỏa khắp mọi nơi...
– Mặt trời của họ vui thật, - Guxev nói và hắt hơi một cái. Ánh sáng xanh đậm tít trên cao sao mà chói chang thế. Ngực rất tức, máu dồn lên thái dương, nhưng thở dễ vì không khí tinh khiết và khô.
Con tàu nằm trên một bình nguyên màu da cam. Đường chân trời ngay gần kề, tưởng chừng với tay đến được. Mặt đất đầy những vết nứt lớn. Khắp nơi trên bình nguyên rậm rạp, những cây xương rồng cao hắt ra những cái bóng màu tím. Một làn gió khô thổi nhẹ.
Los và Guxev nhìn xung quanh một lúc, rồi cất bước đi trên bình nguyên. Họ đi dễ dàng lạ thường, mặc dù chân họ ngập trong đất tơi đến tận mắt cá. Los giơ tay về phía một cây xương rồng cao. Anh vừa chạm tay tới, cây xương rồng đã rung lên như bị gió thổi và những cái nhánh mập mạp của nó ngả về tay anh. Guxev đá một cú vào gốc cây, - chà đồ quỷ! - Cây xương rồng đổ xuống, cắm gai vào trong cát.
Họ đi gần nửa giờ đồng hồ. Trước mắt họ vẫn là bình nguyên như thế - những cây xương rồng, những cái bóng mầu tím, những kẽ nứt trong đất. Khi họ rẽ về phía Nam và mặt trời ở mé bên. Los chăm chú nhìn như chợt nhớ ra điều gì, rồi bỗng anh dừng lại, ngồi xuống, vỗ một cái vào đầu gối.
– Guxev, đất này là đất được cày xới.
– Ông nói gì kia?
Quả thật, bây giờ họ đã trông rõ những luống cày rộng và những hàng xương rồng thẳng tắp. Đi thêm vài bước, Guxev vấp phải một phiến đá, có một cái vòng bằng đồng to tướng được vặn vít vào cùng với một đoạn dây. Los gãi gãi cằm, mắt anh long lanh:
– Guxev, anh không hiểu gì à?
– Tôi thấy chúng ta đang ở một cánh đồng ma!
– Thế cái vòng để làm gì?
– Có quỷ biết họ vặn vít cái vòng đồng vào làm gì.
– Để họ buộc phao tiêu đấy. Anh có trông thấy các vỏ sò kia không? Chúng ta đang ở dưới đáy một con kênh cạn. Guxev nói:
– Đúng thế... Về chuyện nước nôi thì ở đây quả là hơi gay. Họ rẽ về phía Tây và đi cắt ngang các luống cày. Xa xa, phía trên cánh đồng có một con chim lớn, trông như con ong, cất cánh bay lên.
Guxev dừng lại, đặt tay lên khẩu súng. Nhưng con chim đã bay khuất sau đường chân trời gần đó.
Xương rồng ngày càng cao hơn, rậm hơn, chắc hơn. Hai người phải thận trọng len lỏi trong những bụi xương rồng đầy gai góc. Từ dưới chân họ có những con vật giống như con thằn lằn đá chạy ra.
Chúng có nhiều chân, màu da cam sáng, sống lưng hình răng cưa. Vài lần họ gặp những khối tua tủa lăn lốc sang một phía, trông tựa con nhím. Ở đây, họ đi một cách thận trọng.
Bãi xương rồng kết thúc bên cạnh một bờ thoai thoải trắng như phấn. Có lẽ nó được ốp bằng những phiến đá cổ xưa. Ở các kẽ hở có những sợi rêu khô. Ở một phiến đá như thế cũng có cái vòng bắt vít chặt vào như ở trên cánh đồng. Những con thằn lằn sống lưng hình răng cưa hiền lành thiu thiu ngủ ngoài nắng.
Los và Guxev theo bờ dốc đi lên. Từ đây, họ trông thấy một bình nguyên mấp mô cũng mầu da cam, nhưng mờ nhạt hơn. Đây đó có những bụi cây thấp, giống như cây thông núi. Đây đó có những đống đá, những cảnh hoang tàn. Xa xa, ở mé Tây Bắc, nhô cao một dãy núi nhọn và đỉnh cao đỉnh thấp như những ngọn lửa. Trên đỉnh các quả núi, tuyết phủ trắng xóa.
– Chúng ta phải quay lại ăn uống, nghỉ ngơi một chút đã, - Guxev nói, - mệt rũ cả người rồi, ở đây chẳng có một người nào cả. Họ còn đứng một lúc nữa. Bình nguyên hoang vắng và u buồn, khiến tim họ như thắt lại.
– Quay lại thôi, - Guxev nói.
Họ xuống bờ dốc, tiến về phía con tàu và lạc mãi khi đi tìm con tàu trong bãi xương rồng.
Bỗng Guxev thì thầm:
– Hắn kìa!
Bằng một động tác quen thuộc anh rút súng lục ra khỏi bao: – Này, - anh quát, - ai ở bên con tàu thế kia hả? Tôi bắn đây này! – Anh quát ai thế?
– Ông có thấy con tàu lấp loáng kia không?
– Có, bây giờ tôi thấy rồi.
– Đấy, hắn ngồi ở mé bên phải con tàu kia kìa!
Cuối cùng, Los đã nhìn thấy. Thế là họ chạy về phía con tàu, vừa chạy vừa ngã dúi ngã dụi. Sinh vật ngồi cạnh con tàu chạy sang bên, nhảy giữa các cây xương rồng rồi bật cao, dang đôi cánh dài có màng vỗ mạnh, bay lên, lượn một nửa vòng trên hai người. Đó chính là sinh vật ban nãy họ tưởng là con chim. Guxev giương súng chực bắn rụng con vật có cánh ấy. Nhưng Los đánh bật khẩu súng trong tay Guxev ra, rồi hét:
– Điên à? Người Sao Hỏa đấy!...
Guxev ngẩng đầu, há mồm nhìn cái sinh vật kì lạ đang bay lượn vòng quanh trên bầu trời xanh. Los rút khăn tay ra vẫy vẫy con chim kì lạ.
– Ông Los, cẩn thận, kẻo từ trên đó hắn ném gì đó xuống chúng ta đấy.
– Anh cất ngay khẩu súng lục đi.
Con chim lớn hạ thấp xuống. Bây giờ đã rõ, đó là một sinh vật hình người ngồi trên yên một thiết bị bay. Từ đầu đến thắt lưng người đó lơ lửng trong không trung. Ngang tầm vai có hai cái cánh cong vỗ vỗ. Dưới cánh, ở đằng trước, có một cái đĩa xoay tít, có lẽ là cánh quạt.
Sau yên là một cái đuôi tẽ đôi ra như cái nĩa, làm phần lái. Toàn bộ thiết bị năng động và uyển chuyển như một sinh vật sống. Kìa, người đó chao xuống sát cánh đồng, - một cánh hướng xuống dưới, một cánh hướng lên trên, hiện rõ ra cái đầu có đội mũ
của người Sao Hỏa - cái mũ hình quả trứng, có lưỡi trai. Mắt anh ta đeo kính.
Mặt anh ta mầu đỏ quạch, hẹp, nhăn nheo, mũi nhọn hoắt. Anh ta há mồm ra kêu chít chít gì đó. Anh ta vỗ cánh luôn, hạ thấp xuống, chạy trên đất cày và nhảy ra khỏi yên cách Los và Guxev khoảng ba chục bước.
Người Sao Hỏa giống như một người tầm vóc trung bình, mặc áo bludông rộng, màu vàng. Hai cẳng chân khô của anh ta quấn xà cạp đến trên đầu gối. Anh ta tức giận chỉ những cây xương rồng bị đổ.
Nhưng khi Los và Guxev cất bước tiến về phía anh ta thì anh ta nhảy tót lên yên, giơ ngón tay dài ra dọa, rồi bay thẳng lên, gần như không lấy đà, rồi lập tức lại đỗ xuống và tiếp tục la hét bằng một giọng choe chóe, chỉ những cây cối bị đổ gãy.
– Quái lạ thật, có thế mà cũng tức, - Guxev nói rồi thét lên với người Sao Hỏa: - Đồ chó, sao cứ gào tướng lên thế hả. Lại đây, ai làm gì mà sợ...
– Guxev, anh đừng chửi rủa nữa. Anh ta không hiểu tiếng Nga đâu. Ta ngồi xuống đi, may ra anh ta mới lại gần.
Los và Guxev ngồi xuống đất nóng. Los ra hiệu muốn uống và ăn.
Guxev châm thuốc hút, nhổ một bãi nước bọt. Người Sao Hỏa nhìn họ một lúc, không la hét nữa, nhưng vẫn còn tức giận, giơ ngón tay dài như cái bút chì ra dọa. Sau đó, anh ta gỡ ở yên ra một cái túi, ném về phía Los và Guxev, rồi bay lên thật cao, khuất hẳn sau đường chân trời phía Bắc.
Trong túi có hai cái hộp kim loại và một cái lọ đựng chất lỏng. Guxev mở hộp ra. Trong một hộp có món mứt hoa quả đông thơm phức. Hộp kia đựng từng miếng như miếng bánh dẻo. Guxev ngửi ngửi.
– Họ ăn có những thứ này thôi à?
Anh lấy thức ăn trong con tàu ra, lượm những mẩu xương rồng khô, rồi nhóm lửa. Một làm khói nhẹ bốc lên, xương rồng chỉ cháy âm ỉ, nhưng tỏa rất nhiều nhiệt. Họ đun nóng hộp thịt muối, bày các thứ trên một chiếc khăn tay sạch. Họ ăn ngấu nghiến. Mãi bây giờ họ mới thấy đói cồn cào.
Mặt trời đã ở đỉnh đầu. Gió lặng, không khí nóng bức. Dưới các mô đất mầu da cam có một con vật nhiều chân bò lại gần... Guxev ném cho nó một miếng bánh mì khô. Nó ngẩng cái đầu hình tam giác có sừng lên và như sững lại.
Los bảo đưa thuốc lá rồi ngả người ra nằm, một bên má tì lên tay. Anh hút thuốc, mỉm cười.
– Guxev, anh có biết chúng ta đã nhịn đói bao lâu không? – Chúng ta chưa ăn gì từ chiều hôm qua. Trước khi bay, tôi ăn no khoai tây mà!
– Anh bạn thân mến ạ, tôi và anh nhịn đói đã hai mươi ba hoặc hai mươi bốn ngày rồi.
– Bao nhiêu cơ ạ?
– Hôm qua ở Pet rograd là ngày mười tám tháng tám, còn hôm nay ở Pet rograd là ngày mười một tháng chín, - thế mới kì lạ chứ. – Chuyện ấy thì có chặt đầu tôi đi, tôi cũng không hiểu nổi. – Chính tôi cũng không hiểu rõ lắm, tại sao lại như vậy. Chúng ta cất cánh lúc bảy giờ. Bây giờ anh nhìn đây, là hai giờ trưa. Theo đồng hồ này thì mười chín tiếng đồng hồ trước đây, chúng ta rời Trái Đất.
Còn theo đồng hồ tôi để lại ở xưởng thì gần một tháng đã trôi qua. Giả dụ anh đi tàu hỏa, anh ngủ, tàu dừng lại, hoặc là anh thức giấc bởi cảm giác khó chịu, hoặc là trong giấc ngủ anh bị mệt nhọc. Đó là vì khi tàu dừng, có một sự giảm tốc độ diễn ra trong toàn bộ thân thể anh. Anh nằm trong toa tàu đang chạy, cả tim anh đập cũng mau hơn, cả đồng hồ anh chạy cũng nhanh hơn khi anh nằm trong một toa tàu không chuyển động. Sự khác biệt khó nhận thấy, vì tốc độ quá nhỏ. Chuyến bay của chúng ta khác hẳn. Một nửa quãng đường chúng ta bay với tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng. Giờ đây thì sự khác biệt đã lớn. Nhịp đập của tim, tốc độ chạy của đồng hồ, sự dao động của các phần tử trong tế bào thân thể không đổi đối với nhau, vì chúng ta bay trong khoảng chân không, chúng ta tạo thành một chỉnh thể với con tàu, tất cả đều chuyển động cùng với con tàu. Nhưng nếu tốc độ con tàu vượt quá năm trăm nghìn lần tốc độ dịch chuyển bình thường của thân thể trên Trái Đất thì tốc độ tim đập của tôi, - một lần đập một giây, nếu tính theo đồng hồ trên con tàu, - sẽ
tăng lên năm trăm nghìn lần, tức là trong thời gian bay, tim tôi sẽ đập năm trăm nghìn lần trong một giây, nếu tính theo chiếc đồng hồ tôi để lại ở Pet rograd.
Theo nhịp tim tôi đập, theo chuyển động của chiếc kim đồng hồ tính giây trong túi tôi, theo cảm giác của toàn bộ thân thể tôi, chúng ta mới sống được có mười chín tiếng đồng hồ trên đường đi. Nhưng theo nhịp đập của trái tim một người dân Pet rograd, theo sự chuyển vận của chiếc kim trên đồng hồ nhà thờ Pet’ropavlovki thì từ ngày chúng ta cất cánh, hơn ba tuần lễ đã trôi qua. Về sau, ta sẽ có thể chế tạo được một con tàu lớn, dự trữ lương thực, ôxi và nhiên liệu đủ bay nửa năm và ta sẽ đề nghị với một số người kì quặc nào đó: Các anh không thích sống thời này, thì các anh có muốn sống ở thời đại sau chúng ta một trăm năm không? Muốn vậy, chỉ cần kiên trì ngồi trong cái hộp này nửa năm, và rồi sẽ được sống một cuộc đời khác lạ biết bao! Các anh sẽ nhảy qua một khoảng cách nửa thế kỷ. Rồi ta phóng con tàu chở họ đi với tốc độ ánh sáng, vào khoảng không gian vũ trụ. Họ sẽ buồn chán một chút, sẽ mọc râu mọc ria, nhưng khi trở về thì trên Trái Đất đã là một thế kỷ hoàng kim. Trong tương lai, chúng ta có thể làm được như thế đấy.
Guxev cứ trố mắt ra nghe, có vẻ ngạc nhiên lắm. Rồi anh ta hỏi: – Ông Los, liệu ta uống thứ nước này có bị ngộ độc không? Ông nghĩ sao?
Anh ta dùng răng rút chiếc nút lọ, đựng chất lỏng của người Sao Hỏa ra, thử thè lưỡi nếm, rồi bảo: uống được! Thế là anh ta uống ực luôn một ngụm:
– Giống như rượu nho của chúng ta ấy.
Los cũng nếm: chất lỏng đậm đặc, hơi ngọt, thơm phức mùi các loài hoa. Vừa nếm, anh vừa uống luôn nửa lọ. Người anh cảm thấy nóng lên, nhẹ nhõm đầu óc thì vẫn minh mẫn.
Los đứng dậy, vươn vai. Anh cảm thấy dễ chịu, thoải mái và kì lạ khi đứng dưới bầu trời rất khác này. Cứ như anh bị một con sóng đại dương vũ trụ đánh dạt lên bờ, và anh lại được sinh ra lần nữa để sống một cuộc đời mới mẻ mà anh chưa từng biết.
Guxev đem làn thức ăn vào trong con tàu, vặn chặt vít cửa nắp lại, hất ngược mũ ra tận sau gáy.
– Ông Los, tôi không lấy làm tiếc là đã đi cùng ông đâu! Hai người quyết định lại đi về phía bờ và sẽ lang thang đến tối trên khoảng bình nguyên nhiều gò đống này.
Vừa vui vẻ chuyện trò, họ vừa đi giữa những cây xương rồng, có khi họ nhảy qua chúng bằng những bước nhảy dài, nhẹ nhàng. Chẳng mấy chốc, những tảng đá của bờ dốc đã thấp thoáng trăng trắng sau các bụi cây.
Bỗng Los đứng lại. Anh rợn cả tóc gáy. Cách anh ba bước, ngay sát mặt đất, từ sau đám lá cây có hai con mắt to như mắt ngựa, mí mắt che khuất một nửa, đang nhìn anh, nhìn chằm chằm, có vẻ tức giận.
– Ông sao thế? - Guxev vừa hỏi thì cũng vừa trông thấy hai con mắt kia. Không suy nghĩ gì hết, anh bắn luôn, làm bụi tung mù lên. Đôi mắt biến mất. - A, con vật ghê tởm kia rồi! - Guxev quay ngang bắn phát nữa vào cái thân hình béo núc màu nâu, có những đường vạch thưa, đang chạy trên những cái chân nhện to tướng. Đó là một con nhện cỡ lớn mà ở Trái Đất chỉ còn dưới đáy các biển sâu. Nó lẩn vào bụi cây.
Chương 10
NGÔI NHÀ BỎ HOANG
Từ bờ tới đám cây gần nhất, Los và Guxev đi trên lớp bụi màu nâu cháy, nhảy qua những cái mương hẹp đã bị vùi lấp, đi vòng qua những ao cạn. Đây đó, dưới những lòng kênh đã bị lấp một nửa, từ trong cát nhô lên bộ khung rỉ sét của những chiếc xà lan. Đây đó, trên bình nguyên chết chóc, u sầu, lấp lánh những chiếc đĩa lồi, đường kính dài gần một mét. Những chiếc đĩa chiếu sáng ấy nằm trải dài từ dãy núi hình răng cưa qua các đồi gò về phía những lùm cây, những đống đổ nát.
Giữa hai quả đồi có một rừng cây thấp, màu nâu, ngọn cây phẳng, cành lá tỏa rộng. Cành của chúng cong queo và chắc nịch, lá giống như rêu, thân cây thì xù xì, gầy guộc. Ở rìa rừng, giữa đám cây cối, treo lơ lửng những mẩu lưới có gai.
Họ đi vào rừng. Guxev cúi xuống, giơ chân đá một cái. Từ dưới lớp bụi đất lăn ra một cái xương sọ người đã vỡ, hàm răng lấp loáng ánh kim loại. Ở đây rất ngột ngạt. Trong cảnh oi bức lặng gió, những cành cây lá rêu hắt xuống những bóng râm ít ỏi. Đi được vài bước, họ lại gặp một cái đĩa lồi, - nó được bắt vít chặt vào đáy một cái giếng kim loại tròn. Ở cuối khu rừng là một đống đổ nát, - những bức tường gạch dày ngổn ngang như bị sức bom mìn hất đổ, những đống đá dăm, đầu những thanh kim loại bị uốn cong.
– Đây chắc là những ngôi nhà bị làm nổ tung lên, - Guxev nói, - có lẽ họ có việc gì.
Trên đống rác xuất hiện một con nhện lớn, nó theo mép tường đổ chạy xuống dưới. Guxev bắn một phát. Con nhện nẩy bật lên rồi rơi xuống, lăn lông lốc. Lập tức có một con nhện khác chạy từ trong nhà ra làm bụi nâu tung lên mù mịt. Nó húc vào cái lưới có gai và duỗi chân ra rung lưới loạn xạ.
Từ khu rừng, Guxev và Los ra một quả đồi, xuống khu rừng thứ hai là chỗ họ trông thấy những ngôi nhà gạch và một tòa nhà bằng đá, mái bằng, cao hơn các nhà khác. Giữa quả đồi và đám nhà ấy có vài cái đĩa lồi. Chỉ vào những đĩa lồi ấy, Los bảo:
– Có thể, đây là những cái giếng của hệ thống dẫn nước, những ống bơm, những đường dây điện. Hình như tất cả những thứ này đều bị bỏ đi.
Họ bò qua tấm lưới có gai, đi qua khu rừng và tới một khoảng sân rộng lát đá phiến. Tít tận trong sâu có một ngôi nhà xây theo lối kiến trúc kì lạ và ảm đạm. Các bức tường phẳng thu hẹp dần ở phía trên và kết thúc bởi một mái đua nặng bằng đá đen. Trong tường có những lỗ cửa sổ dài và hẹp như cái khe. Hai cây cột như có vẩy bọc, thu hẹp ở phía trên, đỡ một bức chạm đồng ở lối vào, - hình một người đang nhắm mắt nghỉ ngơi. Những bậc thang phẳng, chạy khắp chiều rộng tòa nhà, dẫn lên những cánh cửa ra vào thấp, nặng nề. Những dây leo đã khô buông lòng thòng giữa các phiến đá màu sẫm của tường. Ngôi nhà như một lăng mộ lớn.
Guxev thử đưa vai ẩn cánh cửa kim loại. Anh ráng sức. Nó kêu cót két và mở ra. Họ đi qua phòng ngoài tối om, bước vào gian phòng cao. Ánh sáng lọt vào đây qua vòm mái bằng thủy tinh. Gian phòng gần như trống trơn. Vài chiếc ghế đẩu nằm chổng ngược. Cái bàn thấp trải tấm khăn đen đầy bụi. Trên sàn đá là những mảnh bát đĩa vỡ, một cái máy hình thù kì lạ, gồm nào đĩa, nào những khối tròn, nào lưới sắt... tất cả đều phủ một lớp bụi.
Ánh sáng bụi bậm chiếu vào những bức tường lấp lánh ánh vàng.
Phía trên tường là một dải những bức tranh ghép. Có lẽ nó mô tả các sự kiện lịch sử - cuộc đấu tranh của sinh vật chân vàng với sinh vật chân đỏ: những làn sóng biển với hình một người đứng ngập đến tận thắt lưng, cũng hình người ấy đang bay giữa các ngôi sao, - những bức tranh tả lại cảnh đánh nhau, cảnh tấn công thú dữ, những đàn súc vật kì lạ với người chăn dắt, những cảnh sinh hoạt, săn bắn, nhảy múa, sinh nở và chôn cất. Dải tranh ghép ấy kết thúc ở mé trên cửa ra vào bằng hình ảnh một rạp xiếc khổng lồ.
– Lạ thật, lạ thật, - Los nhắc đi nhắc lại. Anh leo lên các đi văng để nhìn các hình cho rõ hơn, - đâu đâu cũng thấy hình đầu người kia, lạ quá đi mất...
Trong khi đó, Guxev tìm thấy trong tường một cái cửa nhỏ xíu, nó mở vào cầu thang bên trong để ra một hành lang rộng, trần khum khum chan hòa một thứ ánh sáng bụi bậm.
Dọc các bức tường và ở các hốc ngoài hành lang có những bức tượng, thân người, đầu người, mặt nạ, mảnh lọ bằng đá và bằng đồng.
Từ đây, các ô cửa bằng đá hoa và bằng đồng dẫn vào bên trong nữa.
Guxev nhìn vào những căn phòng ở hai bên, thấy chúng đều thấp, có mùi mốc và tối tăm. Ở một phòng có bể bơi đã khô cạn, trong đó lăn lóc một con nhện chết. Ở một phòng khác có tấm gương bị vỡ tan tành, trên sàn là đống quần áo mục nát, đồ đạc lổng chổng. Trong các tủ là những mảnh quần áo.
Ở phòng thứ ba, trên một bệ cao được chiếu sáng, có một cái giường rộng. Từ mặt giường rũ xuống một bộ xương người Sao Hỏa.
Đâu đâu cũng thấy đầy vết tích một cuộc đấu tranh ác liệt. Ở góc phòng lại có một bộ xương thứ hai nữa.
Tại đây, giữa đống rác, Guxev tìm được vài thứ bằng kim loại nặng có hình chạm khắc - chắc là đồ trang sức, vật dụng của phụ nữ, - những cái bình nhỏ bằng đá màu. Anh ta lấy trong tấm áo mục nát của bộ xương hai mảnh đá lớn màu vàng sẫm nối với nhau bằng sợi dây xích nhỏ. Hai mảnh đá dường như tỏa sáng từ bên trong.
– Cái này dùng được đây, - Guxev nói, - để làm quà cho Masa. Los xem xét những tác phẩm điêu khắc ở hành lang. Giữa những cái đầu người Sao Hỏa mũi nhọn, hình những con quái vật ngoài biển, những cái mặt nạ nhiều màu sắc, những cái bình nhiều mảnh gắn lại với nhau có đường nét và họa tiết giống như các đồ cổ, - anh chú ý tới một bức tượng bán thân khá lớn. Bức tượng mô tả một phụ nữ khỏa thân có bộ tóc bù xù và gương mặt dữ tợn không đối xứng. Hai đầu vú nhọn của bà ta chĩa sang hai phía. Đầu bà ta đội một cái vòng vàng bằng các ngôi sao. Ở mé trên trán, cái vòng chuyển thành một hình parabôn mảnh, bên trong chứa hai quả cầu: một, màu hồng ngọc và một, màu đỏ gạch. Những đường nét của gương mặt đa tình và đầy quyền lực toát lên một vẻ gì quen thuộc đến xốn xang trong ký ức sâu kín của anh.
Bên cạnh bức tượng, có một hốc tường nhỏ lắp chấn song. Los thò mấy ngón tay qua các thanh chấn song nhưng không sao kéo
bật được ra. Anh đánh diêm thì thấy trong hốc có một cái mặt nạ bằng vàng đặt trên chiếc gối đã mục. Đó là hình mặt người có gò má phẳng, hai mắt nhắm lại, khuôn miệng hình mặt trăng mỉm cười. Mũi nhọn và khoằm. Trên trán, giữa hai lông mày có một nốt lồi hình dạng như mắt con chuồn chuồn phóng to ra. Đó là cái đầu đã được vẽ trên tranh ghép ở gian phòng đầu tiên.
Los đánh hết nửa bao diêm, hồi hộp nhìn kĩ cái mặt nạ kì lạ. Trước khi rời Trái Đất ít hôm, anh đã trông thấy ảnh chụp những chiếc mặt nạ tương tự mới được phát hiện tại các khu đổ nát của những thành phố khổng lồ ở hai bên bờ sông Nigiê, ở khu vực châu Phi, nơi hiện giờ người ta cho rằng còn có những dấu vết văn hóa của một chủng tộc bí ẩn đã biến mất.
Một cửa bên ở hành lang hé mở. Los bước vào một căn phòng dài, rất cao, có ban công dọc tường và lan can lắp chấn song. Trên các ban công, ở dưới và ở trên có những cái tủ phẳng và hàng dãy giá xếp đầy những cuốn sách nhỏ và dày, lấp lánh những chữ vàng in nổi, in chìm.
Gáy sách kéo dài thành những đường đơn điệu dọc theo các bức tường màu xám. Một số tủ đựng những ống kim loại nhỏ, một số khác đựng những cuốn sách lớn, bìa bằng da hay bằng gỗ. Từ các tủ, các giá, các góc tối của thư viện, có những cái đầu hói nhăn nheo của các nhà bác học Sao Hỏa đang nhìn ra bằng những con mắt bất động. Trong phòng có vài ghế ngồi trũng sâu, vài chiếc hòm đặt trên những cái chân mỏng mảnh, ở phía bên gắn một màn ảnh tròn.
Los nín thở nhìn khắp lượt cái kho báu đầy mùi mục nát và mùi mốc ấy, nơi tri thức của hàng ngàn năm đã trôi qua trên Sao Hỏa tích tụ lại trong các cuốn sách đang nằm câm lặng.
Thật thận trọng, anh lại gần giá sách, và mở các cuốn sách ra. Giấy sách hơi xanh xanh, kiểu chữ hình chữ nhật, mực mầu nâu nhạt.
Los nhét vào túi một cuốn sách có bản vẽ các máy móc, để xem những lúc rảnh rỗi. Trong các ống kim loại là những cái trục màu vàng, giống như trục máy ghi âm, nhưng phẳng lì. Một cái trục như
thế nằm trong chiếc hòm có màn ảnh, có lẽ đã được chuẩn bị sẵn để vận hành nhưng lại bị bỏ đấy trong thời gian ngôi nhà bị hủy diệt. Sau đó, Los mở cái túi màu đen, lấy hú họa một cuốn sách to, nhẹ, bìa da đã bị côn trùng đục khoét và thận trọng dùng ống tay áo phủi lớp bụi đi. Những tờ giấy vàng vàng cũ nát có nhiều đường zic zăc liên tục chạy từ trên xuống dưới. Các trang sách đầy những hình tam giác nhiều màu nhỏ bằng móng tay. Các hình tam giác chạy từ trái sang phải và ngược lại thành những đường không cân đối, khi thì tụt xuống, khi thì đan chéo vào nhau. Chúng thay đổi về đường nét và màu sắc. Sau vài trang, giữa các hình tam giác xuất hiện những vòng tròn màu luôn thay đổi hình dạng và màu sắc. Các tam giác bắt đầu xếp thành hình nọ hình kia. Những tam giác, đường tròn, hình vuông, những hình phức tạp đan chéo nhau và thay đổi màu sắc ấy cứ chạy hết trang nọ sang trang kia. Dần dần, trong tai Los như vang lên một thứ âm nhạc kì lạ, tinh tế, rất khó nắm bắt.
Anh gấp sách lại và đứng hồi lâu, tựa lưng vào các giá sách, lòng bồi hồi và ngây ngất bởi một cảm giác huyền diệu chưa bao giờ anh từng thể nghiệm: đó là một cuốn sách biết hát.
– Ông Los, - tiếng Guxev ồm ồm vang lên khắp nhà - ông đến đây, nhanh lên!
Los bước ra hành lang. Ở cuối hành lang, trên một ngưỡng cửa, Guxev đang đứng mỉm cười, hoảng sợ.
– Ông lại mà xem này.
Anh đưa Los vào một căn phòng hẹp mờ tối. Ở mặt tường mé trong có gắn một tấm kính mờ cỡ lớn, hình vuông, đằng trước gương có vài chiếc ghế đẩu và ghế bành.
– Ông nhìn quả cầu treo trên sợi dây này nhé. Tôi tưởng nó bằng vàng, định ngắt ra, thì thấy nó thế này đây.
Guxev giật quả cầu. Tấm gương sáng lên, xuất hiện đường nét như bậc thang của những ngôi nhà lớn, những ô cửa sổ rực rỡ nắng chiều, những lá cờ bay phấp phới. Tiếng ồn ào của một đám đông ngập tràn căn phòng tối. Một cái bóng có cánh lướt qua từ trên xuống dưới trùm lên những đường nét của thành phố ở trên mặt
tấm gương. Bỗng một ánh lửa bùng lên chiếu sáng màn ảnh, một tiếng nổ “tách” vang lên dưới sàn căn phòng, tấm gương tối đi. – Đoạn mạch rồi, dây bị cháy, - Guxev nói. - Chúng ta phải đi thôi, ông Los ạ, sắp tối rồi.
Chương 11
HOÀNG HÔN
Dang rộng đôi cánh sương mù hẹp, vầng mặt trời rực lửa đã hạ thấp xuống nhiều.
Los và Guxev vội vã đi trên bình nguyên mờ dần, bây giờ lại càng vắng vẻ và hoang dã hơn, để ra bờ kênh. Mặt trời lặn nhanh sau rìa cánh đồng và chẳng mấy chốc đã khuất hẳn. Ánh đỏ tỏa sáng chói ở chỗ mặt trời lặn. Những tia gay gắt của nó rọi chiếu nửa bầu trời, mau chóng chuyển sang màu tro, rồi tắt hẳn. Bầu trời tối đen như mực, Trong ánh hoàng hôn màu tro, một ngôi sao đỏ mọc thấp, rất to, mé trên Sao Hỏa. Nó mọc lên như một con mắt giận dữ. Trong giây lát, bóng tối chỉ ngập tràn những tia sáng ảm đạm của nó.
Nhưng rồi khắp vòm trời cao lồng lộng bắt đầu lấm tấm những ngôi sao, những chòm sao xanh lấp lánh, - tia sáng lạnh băng của chúng như chọc vào mắt người ta. Ngôi sao ảm đạm càng mọc cao càng sáng dần.
Ra đến bờ kênh, Los dừng lại, chỉ tay lên ngôi sao và bảo: “Trái Đất đấy!” Guxev bỏ mũ ra lau mồ hôi trên trán. Ngửa đầu ra, anh ta nhìn lên quê hương xa xôi đang trôi giữa các chòm sao. Gương mặt anh ta có vẻ hốc hác, buồn rầu.
– Trái Đất, - anh ta nhắc lại.
Họ đứng hồi lâu như thế trên bờ dòng kênh cổ xưa, trên bình nguyên có bóng lờ mờ của các đám xương rồng trong ánh sáng các ngôi sao. Nhưng rồi, từ sau đường chân trời, xuất hiện một lưỡi liềm sáng, nhỏ hơn Mặt Trăng, và bắt đầu nhô cao dần bên trên bãi xương rồng. Từ các cây xương rồng trải ra những bóng dài.
Guxev đưa khuỷu tay hích Los.
– Ông nhìn đằng sau chúng ta kìa.
Đằng sau họ, phía trên bình nguyên nhấp nhô, trên những cánh rừng và những đống hoang tàn, đang rực rỡ vệ tinh thứ hai của Sao Hỏa. Cái đĩa tròn vàng vàng ấy, cũng bé hơn Mặt Trăng, cũng ngả về dãy núi hình răng cưa. Trên gò đồi, những cái đĩa kim loại nhấp nhánh.
– Đêm ở đây kì lạ thật, - Guxev thì thầm, - cứ như trong mơ ấy. Họ thận trọng rời bờ kênh xuống các đám xương rồng. Từ dưới chân họ, có bóng một con gì đó vụt qua. Những khối xù lông chạy trong ánh sáng của hai mặt trăng. Có tiếng rít ken két. Rồi có tiếng chít chít chói tai không chịu nổi. Những cái lá xương rồng bóng loáng lay động. Một mạng nhện bùng nhùng như cái lưới dính vào mặt hai người.
Bỗng có một tiếng gào rú não lòng vang lên rồi tắt lịm ngay. Tất cả lặng xuống. Rùng mình ghê gớm và khiếp sợ, Guxev và Los chạy những bước dài trên cánh đồng, nhảy bật qua những bụi cây như vừa sống dậy.
Cuối cùng, trong ánh sáng của mảnh lưỡi liềm đang mọc lên đã lấp lánh ánh thép của con tàu. Họ chạy tới đó và ngồi xuống thở hổn hển.
– Thôi, lần sau tôi chả đi vào chỗ lũ nhện này ban đêm nữa đâu, - Guxev nói. Anh mở cửa nắp rồi chui vào trong con tàu. Los chưa vào vội. Anh còn lắng tai nghe và quan sát xung quanh. Và kìa, anh trông thấy giữa các ngôi sao, cái bóng có cánh của một con tàu đang bay thật là kì ảo.
Chương 12
LOS NHÌN VỀ TRÁI ĐẤT
Bóng con tàu vũ trụ đã biến mất. Los châm thuốc hút và ngắm nhìn các ngôi sao. Người anh cảm thấy hơi ớn lạnh. Bên trong con tàu, Guxev đang rà rẫm, lẩm bẩm, xem xét gì đó, cất những thứ đã tìm được. Sau đó, anh thò đầu ra.
– Ông Los ạ, nói gì thì nói, chứ đây là vàng cả, còn những viên đá này thì vô giá. Cô Masa nhà tôi thích lắm đây.
Một lát sau, anh ta ngủ thiếp đi. Guxev thật là một người hạnh phúc.
Nhưng Los không sao chợp mắt được. Anh cứ ngồi nhìn sao, hút thuốc. Thế là thế nào nhỉ? Làm thế nào mà những chiếc mặt nạ vàng có con mắt chuồn chuồn rất đặc sắc kia lại có thể có ở Sao Hỏa được nhỉ? Còn bức tranh ghép? Còn dấu parabôn, quả cầu hồng ngọc là Trái Đất, còn quả cầu màu gạch là Sao Hỏa chăng? Không hiểu nổi.
Còn quyển sách biết hát? Còn cái thành phố kì lạ xuất hiện trong tấm gương mờ? Và tại sao, tại sao cả vùng này lại bị bỏ hoang? Los gõ tẩu vào đế giày. Mong sao sáng mau mau lên. Chắc chắn người Sao Hỏa ban nãy sẽ báo về trung tâm dân cư của bọn họ. Có lẽ bây giờ họ đã đi tìm Los và Guxev, và con tàu bay giữa các ngôi sao vừa rồi chính là con tàu được cử đi tìm hai người khách từ hành tinh khác tới.
Los nhìn lên bầu trời. Ánh sáng ngôi sao đỏ - Trái Đất - nhạt dần. Nó dịch chuyển gần đến đỉnh đầu. Tia sáng của nó chiếu vào tận trái tim anh.
Đêm không ngủ hôm nọ, đứng ở cửa nhà kho, Los nhìn lên Sao Hỏa đang mọc cũng với một nỗi buồn lạnh giá như thế này đây. Đó là đêm hôm kia. Anh mới chỉ cách lúc ấy, mới chỉ cách xa Trái Đất có một ngày một đêm.
Trái Đất, Trái Đất xanh tươi, khi thì đầy mây phủ, khi thì được chiếu sáng từng chỗ, tráng lệ, nhiều nước, khắc nghiệt biết bao với
những đứa con của mình, nhưng dù sao vẫn là một hành tinh đáng yêu, là quê hương anh...
Óc anh như nhức nhối, băng giá. Trái Đất, cái quả cầu đo đỏ kia, chẳng khác gì trái tim nóng bỏng... Con người được cuộc sống trong một khoảng khắc là anh đây, Los, lại rồ dại, một mình tách khỏi quê hương để ngồi cô đơn, buồn bã ở chốn hoang vu này. Cô đơn, cô đơn là thế này đây. Mi muốn như thế ư? Mi muốn trốn khỏi chính bản thân mi ư?...
Los so vai vì lạnh. Anh đút tẩu vào túi. Anh leo vào con tàu và nằm xuống bên cạnh Guxev lúc bấy giờ đang ngáy. Con người đơn giản này không phản bội quê hương. Anh ta bay tới nơi xa lạ tít mù tắp này và ở đây, cũng như ở Trái Đất, anh ta coi là nhà cả... Anh ta ngủ ngon lành. Lương tâm anh ta trong sạch.
Vì ấm áp và mệt mỏi, Los thiu thiu ngủ. Trong giấc ngủ, anh được hưởng một niềm an ủi. Anh trông thấy bờ con sông ở Trái Đất, rừng cây bạch dương rì rào trong gió, những đám mây, những tia nắng lấp lánh trên mặt nước, và ở mé bên kia, có ai đó mặc quần áo màu sáng rực rỡ vẫy anh, gọi anh, như rủ anh sang. Los và Guxev thức giấc bởi tiếng cánh quạt quay ầm ầm.
Chương 13
NHỮNG NGƯỜI SAO HỎA
Những dải mây hồng sáng chói phủ trên bầu trời ban mai, khi thì xuất hiện trong các khoảng sáng xanh thẫm, khi thì biến mất sau các dải mây mầu hồng. Con tàu chan hòa ánh nắng hạ thấp dần xuống.
Đường nét bộ khung ba cột của con tàu giống như một con bọ dừa khổng lồ. Ba cặp cánh nhọn dang ra từ cạnh sườn. Con tàu xuyên qua các đám mây rồi lơ lửng trên bãi xương rồng, trông ẩm ướt, lấp lánh, rực rỡ. Ở những cột ngắn ngoài rìa có mấy cánh quạt thẳng đứng quay vù vù, không để con tàu hạ xuống hẳn. Từ thành tàu ngả ra vài cái thang, rồi con tàu đỗ trên đó. Các cánh quạt dừng lại.
Leo xuống thang là những người Sao Hỏa gầy gò. Họ đều đội mũ hình quả trứng, mặc áo rộng ánh bạc có cổ rất dày che kín cả cổ người và phần dưới mặt. Tay mỗi người đều cầm vũ khí giống như loại súng tự động ngắn có cái đĩa ở giữa.
Guxev cau mày đứng bên con tàu của mình, cầm trong tay khẩu môde. Anh nhìn tốp người Sao Hỏa xếp thành hai hàng. Nòng súng của họ nằm dọc theo cánh tay co lại.
– Cầm súng quái gì mà cứ như đàn bà ấy, - anh cằn nhằn. Los đứng yên, khoanh hai tay trên ngực và mỉm cười. Người Sao Hỏa sau cùng xuống thang là người mặc áo đen có nhiều nếp buông thõng. Cái đầu để trần của người đó hói trụi, có nhiều bướu, gương mặt hẹp, nhẵn nhụi màu xanh da trời.
Chân bước thụt trong đất xốp, người đó đi qua trước hai hàng lính. Cặp mắt sáng, lồi, lạnh như băng của người đó dừng lại ở Guxev.
Sau đó ông ta chỉ nhìn Los. Ông ta lại gần hai người, giơ bàn tay nhỏ nhắn trong ống tay áo rộng lên rồi nói bằng một giọng trong trẻo, thong thả:
– Talxetl.
Mắt ông ta mở rộng thêm, lóe sáng lạnh lùng. Ông ta nhắc lại tiếng đó và oai vệ chỉ lên trời. Los nói:
– Trái Đất.
– Trái Đất! - Người Sao Hỏa nhắc lại một cách vất vả, nhíu mày. Những cái bướu của ông ta sẫm lại. Guxev bước một chân lên, hắng giọng rồi nói giận dữ:
– Từ nước Nga Xô Viết, chúng tôi là người Nga. Chúng tôi đã đến chỗ các ông đây, xin chào các ông, - anh đưa tay lên vành mũ, - chúng tôi không làm các ông bực mình, các ông cũng đừng làm chúng tôi bực mình...
Gương mặt thông minh màu xanh da trời của người Sao Hỏa bất động, chỉ riêng trên vầng trán vuốt ra đằng sau của ông ta, ở quãng giữa hai lông mày là có một vết đỏ phồng lên vì căng thẳng. Ông ta giơ tay nhẹ nhàng chỉ lên mặt trời rồi nói, âm thanh quen thuộc nhưng nghe rất kì lạ:
– X o a x ơ r ơ .
Ông ta chỉ xuống đất, dang hai tay ra như muốn ôm lấy cả khối hình cầu:
– Tuma.
Chỉ vào một trong số những người lính đứng thành hình bán nguyệt ở đằng sau, rồi chỉ Guxev, chỉ vào bản thân mình, chỉ Los, ông ta nói:
– Sokho.
Cứ thế, ông ta nói tên vài thứ và nghe những từ tương đương của Trái Đất. Ông ta lại gần Los, trịnh trọng chạm ngón tay đeo nhẫn vào trán anh, vào khoảng hõm giữa hai lông mày. Los cúi đầu, ra ý chào.
Sau khi ông kia chạm ngón tay vào Guxev, anh kéo sụp mũ xuống:
– Cứ như đối xử với những kẻ man rợ ấy.
Người Sao Hỏa lại gần con tàu của Los, xem xét kĩ hồi lâu, với một nỗi ngạc nhiên cố ghìm giữ lại, rồi có lẽ đã hiểu nguyên tắc chế tạo cái quả trứng bằng thép to lớn này, ông ta tỏ vẻ thán phục. Bỗng ông ta chắp hai tay vào nhau, quay về tốp lính và nói rất nhanh gì đó với họ.
– Aiu, - tốp lính đồng thanh đáp lại như reo.
Còn ông ta thì đặt tay lên trán, buông một tiếng thở dài, nén nỗi xúc động lại, rồi quay về phía Los vẻ mặt không còn lạnh lùng nữa, ông ta đưa cặp mắt tối sẫm ươn ướt nhìn vào mắt anh.
– Aiu, - ông ta nói, - aiu utara sokho, đaxia Tuma ra gheo Talxetl. Tiếp đó, ông ta giơ tay lên, bịt mắt và cúi người thật thấp. Lúc thẳng người lên, ông ta gọi một anh lính, cầm lấy con dao trong tay anh ta và vạch vạch trên vỏ con tàu: ông ta vẽ hình quả trứng, phía trên có cái mái, bên cạnh là hình một người lính. Guxev nhìn qua vai ông ta, nói:
– Ông ta đề nghị dựng lều xung quanh đây và cử lính bảo vệ, nhưng ông Los ạ, tôi chỉ sợ mất các thứ trong tàu thôi, vì cửa nắp không có khóa.
– Đừng có nghĩ vớ vẩn thế, anh Guxev.
– Trong tàu có dụng cụ, quần áo... Mà tôi nhìn cái gã lính kia thì thấy mặt mũi gã chẳng đáng tin cậy chút nào.
Người Sao Hỏa nghe câu chuyện ấy chăm chú và kính cẩn. Los ra hiệu cho ông ta là đồng ý để con tàu lại cho lính bảo vệ. Người Sao Hỏa đưa chiếc còi lên cặp môi mỏng của cái miệng to. Từ con tàu của ông ta cũng có một tiếng còi đáp lại. Thế là người Sao Hỏa bèn thổi còi thành những tín hiệu gì đấy. Trên đỉnh cái cột ở giữa con tàu của ông ta, cái cột cao nhất, có những đoạn sợi mảnh dựng lên như mớ tóc, và có tiếng nổ lánh tách.
Người Sao Hỏa chỉ cho Los và Guxev trông thấy con tàu. Tốp lính đứng thành vòng tròn. Guxev nhìn họ khắp lượt, nhếch mép cười, đi về con tàu của mình lấy ra hai túi quần áo và các đồ vặt vãnh, đóng chặt cửa nắp lại rồi chỉ vào cửa nắp cho tốp lính nhìn rõ, vỗ bộp một cái vào khẩu môde, giơ ngón tay lên dọa họ. Đám người Sao Hỏa kinh ngạc nhìn theo những cử chỉ ấy của Guxev.
– Anh Guxev, chúng ta là tù hay là khách thì nào có sao, - Los nói rồi cười, anh hất chiếc túi lên vai rồi họ cùng cất bước tới con tàu của người Sao Hỏa.
Trên đỉnh các cột, những cánh quạt thẳng đứng quay vù vù. Mấy cái cánh hạ xuống. Cánh quạt rú lên. Hai người khách, mà cũng có thể là hai người tù, theo những bậc thang mảnh leo lên tàu.
Chương 14
PHÍA BÊN KIA DÃY NÚI HÌNH RĂNG CƯA
Con tàu bay không cao lắm, nhắm về hướng Tây Bắc. Los và người Sao Hỏa hói đầu ở lại trên boong. Guxev vào trong con tàu với tốp lính.
Trong buồng tàu sáng sủa màu vàng rơm, Guxev ngồi xuống chiếc ghế đan và nhìn những người lính gầy gò, mũi nhọn, cặp mắt đo đỏ cứ nhấp nháy như mắt chim. Sau đó anh ta rút ra chiếc hộp thuốc lá quý báu bằng sắt tây, - suốt bảy năm ở trên các mặt trận, anh không rời cái hộp này bao giờ, - vỗ vào nắp hộp, - “Chúng ta hút một chút nào, các đồng chí”, - rồi mời thuốc.
Những người Sao Hỏa sợ hãi lắc đầu. Một người dù sao cũng nhón lấy một điếu, xem xét kĩ, ngửi ngửi rồi cất vào túi chiếc quần trắng. Đến khi Guxev châm lửa, tốp lính hoảng hốt lùi xa ra, thì thầm với nhau bằng thứ tiếng líu ríu như chim:
– Sokho tao tavra sokho om.
Những gương mặt đo đỏ, mũi nhọn của họ khiếp hãi nhìn xem “sokho” nuốt khói như thế nào. Nhưng dần dần, họ quen mũi, yên tâm trở lại và lại ngồi vào gần Guxev.
Guxev không bận tâm lắm đến việc mình không biết tiếng nói của người Sao Hỏa, bắt đầu kể cho những người bạn mới về nước Nga, về chiến tranh cách mạng, về những chiến công của mình.
– Guxev là họ của tôi Guxev là lấy từ chữ Gus(1): một loài chim to khỏe ở Trái Đất. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ, chưa bao giờ các anh được trông thấy đâu. Tôi tên là Alecxei Ivanovitr. Tôi đã từng chỉ huy không phải là một trung đoàn, mà là cả một sư đoàn kỵ binh. Tôi chiến đấu ghê lắm nhé. Chiến thuật của tôi thế này: có súng máy hay không cũng mặc, tôi cứ tuốt gươm trần - “hàng đi, lũ chó đẻ!” - Và vung tay lên chém. Cả tôi cũng bị chém nhiều nhát rồi, nhưng tôi đếch cần. Ở Viện hàn lâm quân sự chúng tôi, thậm chí người ta còn dạy một giáo trình đặc biệt: “Cách chém của Alecxei Guxev”, - các anh không tin à? Người ta còn mời tôi chỉ huy một quân đoàn. Guxev đưa móng tay hất lệch cái mũ, gãi gãi sau tai. - Nhưng tôi ngán rồi, tôi xin kiếu. Tôi đã chiến đấu bảy năm, thế là đủ. Vừa lúc
ấy, ông Los gọi tôi, van nài: “Anh Guxev, thiếu anh thì tôi không thể nào bay lên Sao Hỏa được”. Thế là tôi đã bay lên đây, xin chào các anh.
Những người Sao Hỏa nghe và rất ngạc nhiên. Một người đem ra cái lọ đựng chất nước nâu nâu, thơm mùi nho. Guxev rút trong túi ra nửa lít rượu mang từ Trái Đất lên. Những người Sao Hỏa uống rồi nói ú a ú ớ. Guxev vỗ lưng họ và cũng nói luôn mồm. Sau đó, anh ta bắt đầu lôi trong túi ra trăm thứ bà rằn, rủ tốp lính trao đổi. Những người Sao Hỏa mừng rỡ đưa cho anh những đồ bằng vàng để lấy con dao díp, mẩu bút chì, lấy chiếc bật lửa kì lạ làm bằng vỏ đạn.
Trong khi đó, Los tì khuỷu tay vào mạn tàu, nhìn vùng bình nguyên mấp mô buồn tẻ đang trôi xa dần ở phía dưới. Anh nhận ra ngôi nhà anh đã đến chiều qua. Khắp nơi đầy những đống đổ nát giống như thế, những đám cây, những con kênh cạn, Chỉ tay vào khoảng hoang mạc đó, Los tỏ vẻ băn khoăn: tại sao cả vùng này lại bị bỏ đi và chết chóc như vậy? Cặp mắt lồi của người hói bỗng trở nên dữ tợn. Ông ta ra hiệu, và con tàu vút lên, bay thành hình vòng cung về phía đỉnh dãy núi hình răng cưa.
Mặt trời đã lên cao, các đám mây đã biến mất. Các cánh quạt quay vù vù, khi tàu rẽ hoặc lên cao, chúng rít lên, những cái cánh mềm chuyển dịch, cánh quạt thẳng đứng quay tít. Los nhận thấy ngoài tiếng cánh quạt và tiếng gió thổi vào các cánh và cột, không còn một tịếng động nào khác: các máy móc chạy êm ru. Mà anh cũng chẳng trông thấy các máy móc đâu. Chỉ ở trục mỗi cánh quạt có một cái hộp tròn quay tít. Còn trên đỉnh cột trước và cột sau có hai cái lẵng hình bầu dục bằng sợi bạc nổ lách tách.
Los hỏi người Sao Hỏa tên các thứ và anh ghi lại. Sau đó, anh rút trong túi ra cuốn sổ có các hình vẽ ban nãy, yêu cầu ông ta phát âm những cái hình chữ nhật. Người Sao Hỏa kinh ngạc nhìn cuốn sổ. Mắt ông ta lại trở nên lạnh lùng, cặp môi mỏng cong lại ghê tởm. Ông ta thận trọng cầm lấy quyển sổ trong tay Los rồi quẳng ra ngoài thành tàu.
Vì con tàu bay cao, vì không khí loãng, Los thấy tức ngực, nước mắt chảy giàn giụa. Thấy vậy, người Sao Hỏa ra hiệu cho tàu hạ thấp xuống. Giờ đây, con tàu bay trên những khối đá hoang vu màu
đỏ như máu. Dãy núi ngoằn ngoèo và rộng kéo dài từ Đông Nam lên Tây Bắc.
Ở mé dưới, bóng con tàu chạy lên những bờ vực đứt đoạn, những mạch mỏ kim loại lấp lánh, những sườn dốc dựng đứng mọc đầy rêu, bóng con tàu như rơi tõm vào các vực thẳm sương mù, như đám mây thoáng qua phủ lên những đỉnh núi phủ băng chói sáng, những khối băng phẳng như gương. Đây là một vùng hoang dã không có người ở.
– Lidiadira, - người Sao Hỏa hất đầu về phía dãy núi và nói, để lộ những chiếc răng nhỏ bóng loáng ánh kim loại.
Trong khi nhìn những khối đá khiến anh buồn rầu nhớ tới phong cảnh chết chóc của một hành tinh bị vỡ, Los thấy trong đống đá ở một vực thẳm có bộ khung một con tàu bị đổ ngược ra, - những mảnh kim loại màu bạc tung tóe xung quanh bộ khung. Xa hơn nữa, sau một khối đá, nhô lên cái cánh gãy của một con tàu thứ hai. Bên phải, con tàu thứ ba méo mó bị xuyên thủng qua một mỏm đá hoa cương nhọn.
Đâu đâu anh cũng trông thấy mảnh vụn của những cái cánh lớn, những bộ khung bị vỡ, những thanh sắt đâm tua tủa. Đó là một bãi chiến trường. Tưởng như những con quỷ đã bị quẳng xuống các khối đất đá khô cằn này.
Los liếc nhìn sang người Sao Hỏa ngồi bên cạnh. Ông ta đưa tay giữ lấy cổ áo và bình thản nhìn bầu trời. Bay ngược chiều con tàu là những con chim cánh dài giăng thành một hàng. Kìa, chúng bay vút lên, lấp loáng những cái cánh màu vàng trên nền trời xanh sẫm, rồi chúng bay sang mé khác. Dõi theo cánh chim đang hạ dần, Los trông thấy làn nước đen của một cái hồ hình tròn nằm sâu giữa các khối đá.
Những bụi cây loăn xoăn mọc xung quanh bờ hồ. Đàn chim màu vàng đổ xuống bên mép nước.
Mặt hồ gợn sóng lăn tăn, rồi như sôi lên, từ giữa hồ phun lên một tia nước mạnh, tia nước tóe ra rồi rơi xuống.
– Xoam, - người Sao Hỏa nói, vẻ đắc thắng.
Dãy núi đã hết. Ở phía Tây Bắc, qua những làn không khí oi bức, trong suốt, đã hiện ra một bình nguyên màu vàng và lấp loáng
những khoảng nước rộng. Người Sao Hỏa giơ tay về phía nơi xa mờ sương tuyệt đẹp và mỉm cười nói:
– Adora.
Con tàu hơi tăng độ cao. Làn không khí ẩm ướt, ngọt ngào phả vào mặt và ù ù trong tai. Adora là một bình nguyên trải rộng, rực rỡ. Những con kênh đầy nước chạy ngang dọc, những đám cây cối màu da cam những bãi cỏ tươi vui màu hoàng yến. Adora, nghĩa là niềm vui, giống như những bãi cỏ mùa xuân vàng nhạt thường hiện ra trong giấc mơ ở thời thơ ấu xa xôi.
Trên các con kênh có nhiều xà lan rộng bằng kim loại. Dọc bờ kênh, rải rác những ngôi nhà xinh xắn màu trắng, những con đường như hoa văn trong các khu vườn. Đâu đâu cũng thấy người Sao Hỏa.
Một số người nhấc mình ra khỏi mái nhà phẳng và bay như con dơi qua khoảng nước hoặc ra sau rừng. Trong các bãi cỏ, đâu đâu cũng lấp loáng những vũng nước, những dòng suối. Adora là một vùng thật tuyệt diệu.
Cuối bình nguyên có một khoảng nước rộng gợn sóng lăn tăn, lấp lánh ánh mặt trời. Tất cả các con kênh chạy ngoằn ngoèo đều đổ vào đấy. Con tàu bay về phía đó, và rốt cuộc, Los trông thấy một con kênh to, thẳng. Dải bờ đằng xa của nó chìm trong màn sương ẩm ướt. Dòng nước đục vàng vàng của con kênh lờ đờ chảy dọc theo vách đá dốc nghiêng.
Chúng tôi bay rất lâu. Quãng cuối kênh, từ dưới nước nhô lên một mép tường đều đặn, có hai đầu chạy xa tít đến tận sau đường chân trời. Bức tường cứ lớn dần. Bây giờ đã có thể trông rõ những khối xây lớn mọc đầy bụi cây ở giữa các khe. Họ bay tới gần một khu hồ khổng lồ đầy nước. Phía trên mặt nước ở nhiều chỗ có những tia nước phun ngầu bọt...
– Ro, - người Sao Hỏa nói, giơ một ngón tay lên với vẻ trịnh trọng.
Los rút trong túi ra cuốn sổ tay, tìm hình vẽ những đường, những điểm trên Sao Hỏa mà anh mới phác vội ngày hôm qua. Anh giơ hình vẽ ấy cho người Sao Hỏa xem và chỉ xuống hồ chứa nước ở dưới. Ông ta chăm chú nhìn, cau mày, cuối cùng ông ta hiểu ra và
mừng rỡ gật đầu, dùng ngón tay út khoanh một trong những điểm trên bản vẽ.
Nhoi người qua thành tàu, Los trông thấy hai con kênh thẳng và một con kênh cong đầy nước từ hồ tỏa ra. Hóa ra, điều bí mật là thế này: các vệt tròn trên Sao Hỏa là những hồ chứa nước, còn các đường gãy khúc theo hình tam giác và bán nguyệt là những con kênh.
Nhưng ai có thể xây dựng nên những bức tường khổng lồ kia? Los ngoảnh sang nhìn người Sao Hỏa. Ông ta trề môi dưới ra, giơ hai tay lên trời:
– Tao khaxkha ro khamagaxitl.
Bây giờ, con tàu bay qua một bình nguyên khô cháy. Trên đó có lòng kênh cạn - con kênh thứ tư, - màu đỏ, rất rộng, với nhiều hàng cây đều đặn như được gieo trồng. Có lẽ đó là một trong những tuyến của mạng lưới kênh mương thứ hai - những hình mờ nhạt trên mặt Sao Hỏa.
Bình nguyên chuyển dần thành những gò đồi thấp. Tiếp đến đường nét màu xanh da trời của những ngọn tháp có lưới chắn. Trên cột giữa của con tàu, các sợi dây dựng lên và tóe lửa. Sau các quả đồi ngày càng hiện ra nhiều những ngọn tháp có lưới chắn, những tòa nhà xây thành từng tầng bậc. Từ trong nắng nổi lên một thành phố lớn với những vệt thẫm lấp lánh ánh bạc.
Người Sao Hỏa nói:
– Xoaxera!
Chương 15
XOAXERA
Những đường viền màu xanh da trời của Xoaxera, những tầng bậc mái nhà phẳng, những bức tường có mạng lưới chấn song phủ đầy cây xanh, những mặt ao hình bầu bục phẳng như gương, những ngọn tháp trong suốt ngày càng hiện ra nhiều, chìm sau đường chân trời mờ sương. Nhiều chấm đen bay trên thành phố về phía con tàu.
Con kênh cạn chạy lên phía Bắc, mé Đông thành phố là một bãi rộng hoang vu, đầy những đống đá dăm. Ở rìa hoang mạc này, hắt ra một cái bóng dài, đậm nét, là một pho tượng khổng lồ, cao vút, nứt nẻ và phủ kín rêu.
Bức tượng đá khỏa thân đứng thẳng người, hai chân chụm lại, tay áp vào cặp đùi hẹp: chiếc thắt lưng có sọc nổi đỡ lấy bộ ngực nở phồng; chiếc mũ có tai gắn một cái mào nhọn như vây cá mờ mờ ánh lên trong nắng. Gương mặt có gò má cao, hai mắt nhắm lại, đang mỉm cười bằng cái miệng hình mặt trăng.
– Magaxitl, - người Sao Hỏa nói và chỉ lên trời.
Xa xa, đằng sau bức tường, hiện lên những đống đổ nát, đường nét của những chiếc cầu cạn bị đổ. Nhìn kĩ, Los hiểu rằng các đống đá trên bình nguyên là di tích của thành phố cổ xưa. Thành phố mới, Xoaxera, bắt đầu từ chỗ sau hồ nước lấp lánh, ở phía Tây những đống đổ nát này.
Các chấm đen trên bầu trời xích lại gần, to dần. Đó là hàng trăm người Sao Hỏa bay tới trên những chiếc thuyền, những chiếc yên có cánh, trên những con chim bằng vải bạt, trong những cái giỏ có dù.
Cái đầu tiên bay tới nơi, rẽ ngoặt rồi lơ lửng mé trên con tàu là một thiết bị hình điếu xì gà hẹp, màu vàng rực rỡ, có bốn cánh như con chuồn chuồn. Từ trên đó, có những bông hoa, những dải giấy nhiều màu sắc rắc xuống boong tàu, và có những gương mặt hồi hộp thò ra nhìn.
Los đứng dậy, vịn vào sợi dây cáp, bỏ mũ ra, - gió thổi tung bộ tóc màu sáng của anh. Guxev từ trong buồng tàu bò ra, đứng bên cạnh.
Hàng ôm hoa từ trên các con thuyền bay tới họ. Trên những gương mặt xanh nhạt, khi thì ngăm ngăm đen, khi thì màu gạch của những người Sao Hỏa đang bay tới gần, lộ rõ vẻ kích động, khoái trá, khiếp sợ.
Giờ đây ở trên đầu, ở đằng trước, ở hai bên, ở đằng sau con tàu đang trôi thong thả có hàng trăm đội bay. Một anh to béo, đội mũ kẻ sọc, tay vẫy vẫy, vừa leo từ trên xuống trong cái giỏ treo dưới vòm dù. Thoáng qua một gương mặt gồ ghề, lắm bướu đang nhìn vào ống dòm. Kia là một người Sao Hỏa vẻ mặt lo âu, tóc tung bay, mũi khoằm, đang quanh quẩn trước con tàu, trên một cái yên có cánh và đang hướng một chiếc hộp quay tít về phía Los. Và kia, vừa mới vụt qua một con thuyền đang chất đầy hoa, - ba gương mặt phụ nữ mắt to, nước da mai mái, những cái mũ màu xanh, những ống tay áo phấp phới màu xanh, những tấm khăn quàng dệt chỉ vàng.
Tiếng cánh quạt vù vù, tiếng gió thổi vi vút trong các cánh, tiếng còi nghe thanh thanh, ánh vàng lấp lánh, quần áo sặc sỡ trong không trung xanh sẫm; ở phía dưới là những vòm lá màu đỏ, khi thì lấp lánh, khi thì rực vàng của các công viên, những ô cửa sổ sáng lóa ánh mặt trời, - tất cả như trong một giấc mộng. Guxev nhìn xung quanh, thì thầm nhắc đi nhắc lại:
– Trời ơi, đẹp chưa kìa, đẹp quá đi mất!...
Con tàu lướt trên những khu vườn treo rồi nhẹ nhàng hạ xuống một bãi rộng hình tròn. Ngay lập tức hàng trăm thuyền, giỏ, yên có cánh cũng tới tấp hạ xuống những phiến đá màu trắng của quảng trường. Trên những đường phố tỏa từ quảng trường ra khắp mọi phía như cánh sao, đám đông dân chúng ồn ào chạy đến, họ ném hoa, tung giấy màu vẫy khăn tay...
Con tàu đổ xuống bên cạnh một tòa nhà u ám xây bằng đá đen và đỏ, trông cao lớn và nặng nề như tòa kim tự tháp. Trên bậc thang rộng của nó, giữa những cây cột hình vuông, thu hẹp ở trên, chỉ vươn tới một phần ba chiều cao ngôi nhà, có một tốp người Sao Hỏa. Tất cả bọn họ đều mặc áo choàng đen, đội mũ tròn. Về sau này, Los mới được biết rằng đó là Hội đồng kĩ sư tối cao - cơ quan quản lý cao nhất đối với các nước trên Sao Hỏa.
Người Sao Hỏa cùng đi với Los ra hiệu bảo anh đợi. Tốp lính leo thang xuống quảng trường, đứng quây quanh con tàu để ngăn đám
đông chen lấn tới. Guxev thán phục nhìn quảng trường sặc sỡ màu áo quần đang ồn ào, tấp nập, nhìn nhiều cái cánh đang bay lên mé trên, nhìn các tòa nhà xam xám hoặc màu đen xen lẫn màu đỏ, nhìn những ngọn tháp đằng sau các mái nhà.
– Thành phố tuyệt quá! Thế này mới là thành phố chứ! Anh ta cứ nhắc đi nhắc lại, chân giậm giậm.
Trên bậc thang, những người Sao Hỏa mặc áo choàng đen dãn ra, xuất hiện một người Sao Hỏa cao, hơi gù, cũng mặc đồ đen, có gương mặt dài u sầu, bộ râu đen, dài và hẹp. Trên chiếc mũ tròn của ông ta có một cái mào vàng giống như vây cá.
Xuống tới giữa bậc thang, tì tay lên gậy, ông ta đưa cặp mắt hõm sâu màu sẫm nhìn lên hồi lâu những người từ Trái Đất tới. Los cũng nhìn ông ta - chăm chú, dè chừng.
– Đồ quỷ, cứ nhìn chằm chằm ấy! - Guxev thì thầm. Anh ta ngoảnh về phía đám đông và rất vô tư, nói to: - Xin chào các đồng chí dân chúng Sao Hỏa! Chúng tôi đem tới các đồng chí lời chào của các nước Cộng hòa Xô Viết... để xây dựng những mối quan hệ láng giềng thân thiện...
Đám đông kinh ngạc reo lên, giậm chân ầm ĩ. Người Sao Hỏa u sầu vuốt râu rồi đưa mắt nhìn về phía đám đông, nhìn cả quảng trưởng bằng một cái nhìn lờ đờ. Biển người đang sôi động liền dịu xuống. Ông ta ngoảnh về những người đứng trên bậc thang nói vài lời gì đó, rồi giơ gậy lên chỉ con tàu.
Lập tức, một người Sao Hỏa chạy về phía con tàu, khẽ nói nhanh gì đó với ông đầu hói đang cúi người qua thành tàu để lắng nghe. Những chiếc còi tín hiệu vang lên. Hai anh lính chạy lên tàu. Các cánh quạt gầm rú, rồi con tàu nặng nề rời quảng trường, bay trên thành phố về hướng Bắc.
Chương 16
TRONG CÁNH RỪNG MÀU THIÊN THANH
Xoaxera đã chìm khuất đằng xa, sau các quả đồi. Con tàu bay trên một bình nguyên. Đây đó, những dãy nhà đơn điệu, những cái cột và dây cáp của các đường treo, những hầm mỏ, những xà lan chất đầy hàng đang chạy trong các dòng kênh hẹp.
Nhưng rồi từ khoảng rừng bạt ngàn ngày càng nhô lên nhiều mỏm núi đá. Con tàu hạ thấp, bay trên một cái khe rồi đỗ xuống một bãi cỏ dốc thoải về phía những bụi cây rậm rạp màu sẫm.
Los và Guxev cầm lấy túi bọc rồi cùng ông đầu hói đi trên bãi cỏ, nhắm theo hướng cánh rừng.
Làn bụi nước phun từ dưới một gốc cây tạo nên những đoạn cầu vồng bảy sắc trên những thảm cỏ lấp lánh các giọt sương. Một đàn súc vật thấp bé, lông dài, màu đen và màu trắng đang gặm cỏ trên sườn dốc. Cảnh vật rất thanh bình. Có tiếng nước khẽ róc rách. Làn gió nhẹ chốc chốc lại thổi qua.
Các con vật lông dài uể oải đứng dậy nhường đường cho mọi người. Chúng bước những cái chân bì bạch như chân gấu, ngoảnh những cái đầu phẳng hiền lành về hai bên. Những con chim màu vàng đỗ xuống bãi cỏ và rỉa lông rỉa cánh dưới vòi phun nước lấp lánh màu cầu vồng.
Họ đã tới gần cánh rừng. Cây cối sum suê lá rũ xuống, đều có màu thiên thanh. Cành cây đu đưa, lá cây chứa đầy nhựa xô vào nhau xào xạc. Xa xa, giữa những thân cây loang lổ, lấp lánh một hồ nước.
Cái không khí oi bức, thơm tho, ngọt ngào trong cánh rừng màu thiên thanh này khiến người ta ngây ngất.
Trong rừng có nhiều con đường nhỏ trải cát màu da cam. Ở những chỗ hai con đường giao nhau, ở những quãng rừng thưa hình tròn có một pho tượng lớn bằng sa thạch phủ đầy rêu. Vài ba pho tượng đã bị gãy. Nhô lên trên cánh rừng là những đoạn cột vỡ, di tích những bức tường khổng lồ.
Con đường nhỏ rẽ về mé hồ. Mặt hồ màu xanh sẫm có in bóng hình lộn ngược của ngọn núi đá xa xa. Bóng những cây lá rũ hơi lay động trên mặt nước hồ. Ánh nắng rực rỡ, chói chang. Ở quãng bờ hồ uốn cong, chỗ bậc đá phủ đầy rêu đi xuống nước, có hai pho tượng lớn ngồi hai bên, đều đã nứt nẻ và mọc đầy dây leo.
Trên các bậc đá, xuất hiện một phụ nữ trẻ tuổi. Đầu cô đội một chiếc mũ nhọn màu vàng. Nước da trắng xanh, cô có vẻ mảnh mai như một thiếu nữ bên cạnh hình dáng nặng nề của bức tượng Magaxitl đang ngồi, bị phủ đầy rêu, lúc nào cũng mỉm cười qua giấc mơ. Cô bị trượt chân, phải bám tay vào gờ đá. Cô ngẩng đầu lên.
– Aelita, - ông người Sao Hỏa thì thầm, đưa tay áo lên che mắt, rồi kéo Los và Guxev rời con đường đi vào cánh rừng. Chẳng mấy chốc, họ đã ra một khoảng rừng thưa rộng. Ở tít sâu, trong cỏ rậm, có một ngôi nhà màu xám ảm đạm, tường hơi dốc. Từ bãi cát hình ngôi sao trước mặt nhà có những con đường thẳng chạy qua bãi cỏ xuống dưới, về phía cánh rừng, nơi có một số ngôi nhà thấp bằng đá giữa các đám cây.
Ông hói đầu huýt một tiếng còi. Từ góc nhà xuất hiện một anh chàng béo, lùn, mặc áo kẻ sọc. Mặt anh ta đỏ sậm như được xát củ cải đỏ. Vừa nheo mắt vì nắng, anh ta vừa lại gần, nhưng khi được biết những người mới đến là ai, anh ta vội lẩn ngay ra sau góc nhà.
Ông hói đầu nói với anh ta như ra lệnh. Thế là chàng béo sợ hãi quay lại, phô chiếc răng vàng trong cái mồm móm, rồi dẫn khách vào nhà.
Chương 17
NGHỈ NGƠI
Hai người khách được đưa vào hai căn phòng nhỏ sáng sủa, gần như trống trơn, có hai ô cửa hẹp nhìn ra công viên. Tường phòng ăn và các phòng ngủ được căng chiếu trắng. Góc nhà đặt những chậu hoa. Guxev rất ưng ở đây.
Anh chàng to béo mặc áo sọc, quản lý ngôi nhà, cứ chạy lăng xăng, bận rộn như quả bóng lăn từ cửa nọ đến cửa kia, lấy chiếc khăn màu nâu lau đầu rồi thỉnh thoảng lại đờ ra, giương cặp mắt chuồn chuồn nhìn hai người khách. Anh ta luôn miệng lẩm bẩm gì đó, có lẽ là những câu thần chú.
Anh ta xả nước vào bể tắm rồi đưa Los và Guxev, mỗi người vào một bể, - từ đáy bể bốc lên những luồng hơi sùng sục. Được ngâm tấm thân vô cùng mệt mỏi vào thứ nước nóng, sủi bọt, nhẹ nhõm, thú vị đến nỗi Los suýt ngủ thiếp đi trong bể tắm. Anh quản lý phải nắm tay Los kéo lên.
Phải vất vả lắm, Los mới lê được chân tới phòng ăn, nơi trên bàn bày biện rất nhiều đĩa rau, patê, trứng, hoa quả. Những viên bánh mì to bằng quả hồ đào, giòn tan cứ như tan đi trong miệng. Không có dao, nĩa gì hết. Mỗi đĩa thức ăn chỉ cắm một cái xẻng nhỏ. Anh quản lý ngây người ra nhìn hai vị khách từ Trái Đất ngốn ngấu các đĩa thức ăn. Guxev ăn rất ngon miệng. Anh ta đặc biệt thú cái món rượu vang có mùi hơi ẩm của các loài hoa. Nó như bốc hơi trong miệng và làm cho từng đường gân, thớ thịt nóng lên sảng khoái.
Dẫn khách vào phòng ngủ, anh quản lý còn loanh quanh ở đó một lúc lâu, nào sửa chăn, nào sửa gối. Nhưng hai người khổng lồ da trắng đã lập tức ngủ say. Họ thở và ngáy to đến nỗi cửa kính rung lên, cây cối ở góc nhà lay động và hai chiếc giường cứ cọt kẹt dưới thân thể to lớn của họ, to hơn hẳn những người Sao Hỏa. Los mở mắt ra. Ánh sáng nhân tạo xanh nhạt tỏa từ một cái ống ở trên trần. Anh nằm rất ấm áp và dễ chịu. “Có chuyện gì xảy ra ấy nhỉ? Mình nằm ở đâu thế này?” Nhưng rốt cuộc chẳng hiểu được gì, anh lại thích thú nhắm mắt lại.
Có những vệt sáng gì đó lướt qua, giống như nước lấp lánh qua vòm lá xanh. Linh cảm một niềm vui kì diệu, tâm trạng ngong ngóng chờ đợi một cái gì đó từ những vệt sáng kia sắp bước vào giấc mơ của anh khiến lòng anh bồi hồi thú vị.
Vừa thiu thiu ngủ, anh vừa mỉm cười cau mày, - anh như muốn cố chọc thủng cái màn mỏng những vệt sáng đang lướt đi kia. Nhưng một giấc ngủ say hơn đã trùm lên anh như một đám mây...
Los ngồi dậy. Anh cứ ngồi như thế một lúc, đầu cúi xuống. Rồi anh đứng lên, kéo rèm sang bên. Bên ngoài ô cửa sổ hẹp có những ngôi sao to lớn tỏa ra thứ ánh sáng lạnh giá, trông thật kì dị và hoang dã.
– Ừ, phải rồi - Los nói, - mình không ở trên Trái Đất. Hoang mạc giá lạnh, khoảng không gian vô tận. Mình đang ở một thế giới mới. Phải rồi: mình đã chết rồi cơ mà. Cuộc sống ở lại đằng kia cơ mà...
Anh ấn ngón tay vào ngực, nơi có trái tim.
– Đây không phải là sự sống, không phải là cái chết. Bộ não còn sống, thân thể còn sống. Nhưng cuộc sống thì ở lại đằng kia. Chính anh cũng không thể hiểu nổi tại sao đêm thứ hai này anh lại bồn chồn nhớ nhung Trái Đất đến thế, lại nhớ nhung bản thân anh, một kẻ đã sống ở đằng kia, đằng sau các ngôi sao đến thế. Dường như sợi chỉ cuộc sống đã đứt phựt và tâm hồn anh đang ngột ngạt trong khoảng không giá lạnh đen ngòm. Anh lại nằm vật xuống gối.
– Ai ở đây thế?
Los bật dậy. Một tia sáng buổi sớm chiếu thẳng vào cửa sổ. Căn phòng nhỏ căng chiếu sạch sẽ đến chói mắt. Bên ngoài có tiếng lá xào xạc, tiếng chim hót véo von. Los dụi mắt rồi buông một tiếng thở dài.
Ngoài cửa lại có tiếng gõ nhẹ. Los mở cửa ra thì nhìn thấy anh chàng to béo mặc áo kẻ sọc đang ôm một bó hoa màu thiên thanh lấm tấm những giọt sương.
– Aiu utara Aêlita, - anh ta thì thầm và đưa bó hoa cho Los.
Chương 18
QUẢ CẦU MỜ ẢO
Trong bữa ăn sáng, Guxev bảo:
– Ông Los, thế này thì không ổn. Chúng ta bay xa lắc xa lơ, để rồi vào ngồi ở chốn khỉ ho cò gáy này ư? Chúng ta bay, đâu phải đến đây để tắm mát trong bể nước. Có lẽ họ không cho chúng ta vào thành phố. Cái lão râu dài ấy mà, ông nhớ không, lão cau mày trông có vẻ khó chịu lắm. Ôi, ông Los, chúng ta phải dè chừng lão. Bây giờ chúng ta được ăn, được uống, nhưng rồi sau đó sẽ ra sao?
– Đừng nóng vội, anh Guxev, - Los vừa nói vừa nhìn những bông hoa màu thiên thanh mùi hăng hăng, ngòn ngọt, - chúng ta cứ sống, cứ quan sát xung quanh. Họ thấy chúng ta không nguy hiểm, họ khắc cho chúng ta vào thành phố thôi.
– Ông Los, không biết ông thế nào, chứ tôi, tôi đến đây không phải để tắm mát.
– Vậy theo anh, chúng ta phải làm gì?
– Ông hỏi nghe đến lạ, ông Los, ông ngửi hoa đã chán chưa đấy?
– Anh định cãi nhau à?
– Không đâu. Nhưng nếu ngồi ngửi hoa, thì cứ ngồi ở Trái Đất mà ngửi bao nhiêu chả được. Tôi nghĩ rằng, nếu chúng ta là người đầu tiên đến đây, thì bây giờ Sao Hỏa là của chúng ta, của đất nước Xô Viết. Cần phải củng cố điều đó.
– Guxev, anh kì cục quá.
– Để rồi xem tôi với ông, ai là người kì cục, - Guxev sửa lại dây lưng, nhún vai. Mắt anh ta nheo nheo ranh mãnh. - Việc này khó, chính tôi cũng hiểu thế: chúng ta chỉ có hai người. Cần phải làm thế nào để họ nộp cho chúng ta một lá đơn xin gia nhập nước Cộng hòa liên bang Nga. Tự nhiên thì họ chả nộp đơn đâu, rõ ràng như vậy.
Nhưng ông thấy đấy: trên Sao Hỏa này, chưa phải mọi chuyện của họ đều đã ổn cả. Việc này thì tôi nhận xét tinh lắm. – Anh định làm một cuộc cách mạng à?
– Biết nói thế nào được nhỉ, ông Los, để rồi xem sao. Chúng ta sẽ mang cái gì về Pet rograd? Mang con nhện khô chăng? Không, chúng ta sẽ trở về và sẽ đưa lá đơn ra: Đây, đơn của hành tinh Sao Hỏa xin gia nhập nước Cộng hòa liên bang Nga. Bấy giờ ở châu Âu mọi người mới sôi lên. Ở đây, chỉ riêng vàng bạc thôi, có đem cả đoàn tàu chuyên chở cũng chả hết.
Los trầm ngâm nhìn anh ta: không thể nào hiểu đựợc Guxev nói đùa hay nói thật. Đôi mắt ranh mãnh của anh ta cười cười, nhưng vẫn cứ toát lên một ánh sôi nổi thực sự.
Los lắc đầu, rồi vừa đặt tay vào những cánh hoa thiên thanh trong suốt của một bông hoa lớn, vừa trầm ngâm nói: – Tôi không hề nghĩ bay lên Sao Hỏa làm gì. Tôi bay để mà bay đến nơi thôi. Có thời kì những kẻ chinh phục trang bị cho một con tàu rồi đi tìm đất mới. Từ sau biển cả hiện ra một dải bờ xa lạ. Con tàu vào cửa sông. Viên thuyền trưởng bỏ chiếc mũ rộng vành ra và lấy tên mình đặt cho vùng đất ấy. Sau đó, ông ta cướp bóc trên bờ. Ừ, có lẽ anh nói đúng: mới chỉ bơi đến bờ thì còn quá ít, phải chất tài sản quý lên đầy con tàu nữa. Chúng ta sẽ được ngó nhìn vào một thế giới mới - có tài sản nào bằng! Sự thông thái và hiểu biết - đó là cái chúng ta cần chuyên chở trên con tàu của chúng ta. – Ông Los, khó thống nhất ý kiến với ông lắm. Ông không phải loại người dễ nhằn!
Los cười:
– Không, tôi chỉ khó nhằn đối với chính bản thân tôi thôi. Chúng ta sẽ thống nhất được ý kiến với nhau, anh bạn thân mến ạ. Có ai gãi gãi vào cửa. Hơi khuỵu đầu gối xuống vì khiếp sợ và kính cẩn, anh chàng quản lý xuất hiện và ra hiệu bảo hai vị khách đi theo. Los vội vã đứng dậy, đưa tay lên vuốt mái tóc màu sáng. Guxev cứ xoắn xoắn bộ ria vểnh. Hai người khách đi trên các hành lang và bậc thang tới phần tít xa của ngôi nhà.
Anh chàng quản lý gõ vào một cái cửa thấp. Sau cánh cửa có tiếng nói vội vã, nghe gần như tiếng trẻ con. Los và Guxev bước vào một căn phòng dài màu trắng. Các tia sáng với những hạt bụi nhảy nhót trong đó chiếu qua mấy ô cửa sổ trên trần xuống sàn nhà có những bức tranh chắp hình. Mặt bàn in bóng những dãy sách xếp
đều đặn, những pho tượng đồng đứng ở khoảng giữa các tủ. Những chiếc bàn con chân nhọn. Những màn ảnh mờ mờ.
Đứng gần cửa là một phụ nữ trẻ tuổi, tóc màu tro, mặc áo đen kín đến tận cổ và tay áo dài đến tận bàn tay. Phía trên bộ tóc chải cao chấp chới bay những hạt bụi trong tia nắng chiếu vào những chữ vàng trên các bìa sách. Đó là cô gái mà hôm qua, lúc ở ngoài hồ, ông hói đầu bảo là Aêlita.
Los cúi rạp người chào cô. Aêlita đứng yên không nhúc nhích, nhìn anh bằng hai đồng tử to của cặp mắt màu tro. Gương mặt trái xoan trắng xanh của cô hơn run run. Cái mũi hơi hếch, cái miệng hơi dài, trông như trẻ con. Ngực cô phập phồng thở dưới những nếp áo đen và mềm, như thể cô vừa leo dốc.
– Ellio utara geo, - cô cất tiếng nói nhẹ nhàng như tiếng nhạc, giọng dịu dàng, gần như thì thầm và cúi đầu thấp xuống đến nỗi Los trông thấy cả gáy cô.
Để đáp lại, Los chỉ bẻ các ngón tay “rắc” một tiếng. Anh cố gắng một chút để nói và không hiểu sao anh nói rất bay bướm: – Những người từ Trái Đất tới xin chào mừng cô, Aêlita. Nói xong, anh đỏ bừng mặt. Guxev nói đĩnh đạc:
– Rất sung sướng được tự giới thiệu với cô: Guxev chỉ huy trung đoàn, Los, kĩ sư. Chúng tôi đến để cảm tạ cô đã đón tiếp chúng tôi chu đáo.
Nghe xong hai người nói, Aêlita ngửng đầu lên, mặt cô trở nên bình tĩnh hơn, hai đồng tử nhỏ bớt đi. Cô lẳng lặng giơ tay ra, lòng bàn tay hẹp ngửa lên trên, và cô cứ để nguyên như thế một lát. Los và Guxev có cảm giác rằng trên lòng bàn tay cô xuất hiện một quả cầu xanh nhạt. Sau đó, Aêlita nhanh nhẹn lật ngược bàn tay và đi dọc các giá sách vào tít sâu trong thư viện. Hai vị khách cất bước đi theo cô.
Bây giờ nhìn kĩ, Los thấy Aêlita chỉ cao đến vai anh. Cô mềm mại và nhẹ nhàng như những bông hoa có mùi hăng hăng mà cô gửi đến ban sáng. Vạt chiếc váy rộng của cô tung bay trên sàn nhà phẳng lì có hình những bức tranh ghép. Cô ngoảnh mặt lại, mỉm cười, nhưng đôi mắt cô vẫn có vẻ hồi hộp, lo âu. Cô chỉ chiếc ghế rộng kê ở phần hình bán nguyệt của căn phòng. Los và Guxev ngồi
xuống. Aêlita cũng lập tức ngồi đối diện họ, bên chiếc bàn con vẫn dùng để đọc sách, tì hai khuỷu tay lên bàn và dịu dàng, chăm chú nhìn hai người khách.
Họ cứ ngồi im lặng như thế một lát. Dần dần Los cảm thấy thanh thản và êm dịu, vì anh đựơc ngồi như thế này mà ngắm nghía cô gái tuyệt vời và kì lạ kia. Guxev thở dài và khẽ nói:
– Thật là một cô gái tốt, một cô gái hết sức dễ chịu.
Bấy giờ Aêlita mới cất tiếng nói, giọng cô tuyệt diệu, cứ như cô chạm đến một nhạc cụ vậy. Cô nhắc đi nhắc lại những lời gì đó, môi chỉ hơi mấp máy. Hàng mi màu tro của cô khi thì khép lại, khi thì mở ra chầm chậm.
Cô lại chìa tay ra, bàn tay ngửa lên trên. Hầu như ngay lập tức, Los và Guxev nhìn thấy trong tay cô có một quả cầu xanh nhạt mờ ảo, bằng khoảng quả táo nhỏ. Toàn bộ bên trong quả cầu luôn luôn chuyển động và óng ánh.
Bây giờ cả hai người khách và Aêlita đều chăm chú nhìn quả cầu mờ ảo. Bỗng các dòng chuyển dịch trong đó ngừng lại, hiện ra những vết màu sẫm. Nhìn kĩ, Los kêu lên một tiếng: nằm trên bàn tay Aêlita là Trái Đất!
– Talxetl, - cô nói và chỉ ngón tay vào quả cầu.
Quả cầu bắt đầu quay chầm chậm. Lướt qua đường viền châu Mỹ, bờ Thái Bình Dương của châu Á. Guxev hồi hộp. – Chúng tôi đấy, chúng tôi là người Nga đấy, - anh ta nói và chỉ ngón tay vào Xibia.
Một cái bóng ngoằn ngoèo lướt qua. Đó là dãy Uran. Dòng sông Volga giống như sợi chỉ mảnh. Bờ biển Bạch Hải hiện lên rất rõ nét. – Ở đây, - Los nói và chỉ vào vịnh Phần Lan.
Aêlita kinh ngạc ngước mắt nhìn anh. Quả cầu ngừng quay. Los tập trung tư tưởng lại. Trong ký ức anh xuất hiện một mảnh tấm bản đồ địa lý tự nhiên, và lập tức, như thể hiện sự tưởng tượng của anh, trên bề mặt quả cầu mờ ảo hiện ra một vết đen, từ đó tỏa ra những nét mảnh - đó là các tuyến đường sắt - và một hàng chữ “Pet rograd”.
Aêlita nhìn kĩ rồi che quả cầu đi, - bây giờ nó tỏa sáng qua các ngón tay cô. Cô ngước nhìn Los và lắc đầu:
– Oxeo, kho xua, - cô nói, và anh hiểu: “Anh hãy tập trung tư tưởng và nhớ lại đi”.
Anh liền nhớ lại những đường nét của Peterburg - đường bờ sông ốp đá hoa cương, những làn sóng xanh giá lạnh của sông Nêva, con thuyền nhỏ ngụp lặn trong đó. Những nhịp dài của cầu Nicolaievxki như treo lơ lửng trong sương mù. Những cột khói đậm của các nhà máy. Sương mù và mây trong hoàng hôn mờ nhạt. Đường phố ẩm ướt.
Tấm biển ở một cửa hiệu nhỏ. Người xà ích già ngồi ở góc phố. Aêlita tì cằm trên tay, lặng lẽ nhìn quả cầu. Trong đó lướt qua những hồi ức của Los, khi thì rõ, lúc thì mờ. Kia là vòm mái lờ mờ của nhà thờ IxaacKiev - xki, rồi hiện lên bậc đá hoa cương bên mặt nước, chiếc ghế hình vòng cung, một cô gái tóc hung ngồi tư lự, - mặt cô hơi rung rung, rồi biến mất. Phía trên cô là hai con sphinx(1) đội mũ tiara. Lướt qua các cột con số, hình bản vẽ, xuất hiện một cái lò rực lửa và hình ảnh Khôkhlôp đang thổi than.
Aêlita nhìn mãi cuộc sống kì lạ đang diễn ra trước mắt cô trong những dòng lưu chuyển mờ ảo của quả cầu. Nhưng rồi các hình ảnh bắt đầu lẫn lộn: trong đó cứ xuất hiện mãi đường nét của những bức tranh gì đó hoàn toàn khác - những dải khói, ánh hồng hoàng hôn, những con ngựa phi nước đại, những người vừa chạy vừa ngã. Và che khuất tất cả là một gương mặt râu ria xồm xoàm vấy máu. Guxev buông một tiếng thở dài khá to. Aêlita lo lắng ngoảnh về phía anh ta rồi lập tức úp sấp bàn tay. Quả cầu biến mất.
Aêlita ngồi vài phút, tay tì lên bàn, một bàn tay che mắt. Cô đứng dậy, lấy trên giá ra một cái ống hình trụ, rút trong đó một cái trục bằng xương, rồi lắp vào chiếc bàn con có màn ảnh. Sau đó, cô kéo sợi dây, thế là những ô cửa sổ ở bên trên thư viện được che kín rèm màu xanh. Cô đẩy chiếc bàn lại gần ghế dài rồi xoay công tắc.
Màn ảnh sáng lên. Từ trên xuống dưới lướt trôi hình ảnh những người Sao Hỏa, những con vật, nhà cửa, cây cối, các đồ dùng... Aêlita gọi tên từng hình. Khi các hình chuyển động và phối hợp với nhau, cô gọi tên động từ. Đôi khi các hình ảnh có xen lẫn những dấu
hiệu nhiều màu sắc như trong cuốn sách biết hát, thế là vang lên những khúc nhạc khe khẽ, - Aêlita gọi tên khái niệm. Cô nói bằng một giọng nhẹ nhàng. Hình ảnh các sự vật của quyển sách học vần kì lạ ấy cứ thong thả trôi qua. Trong cảnh yên tĩnh, trong bóng tối xanh mờ của thư viện, cặp mắt màu tro chăm chú nhìn Los. Tiếng nói Aêlita thấm sâu vào ý thức Los như có một phép thần thông diệu kì. Đầu óc anh quay cuồng.
Los thấy bộ não anh sáng ra, như có một tấm màn mù mịt đã bị cuốn đi, và những từ, những khái niệm mới cứ khắc sâu vào trí nhớ anh. Buổi học kéo dài khá lâu. Aêlita đưa tay lên vuốt trán, buông một tiếng thở dài và tắt màn ảnh đi. Los và Guxev ngồi yên như trong một màn sương.
– Các ông đi ngủ đi, - Aêlita nói với hai người khách bằng thứ tiếng mà những âm thanh hãy còn lạ lẫm, nhưng ý nghĩa đã thấp thoáng trong khoảng tối của ý thức.
Chương 19
TRÊN BẬC THANG
Bảy ngày đã trôi qua.
Sau này, khi Los nhớ lại thời gian ấy, anh có cảm giác đó là một khoảng tối xanh mờ, một tâm trạng thanh thản kì lạ, anh thức mà vẫn được mơ thấy những hình ảnh diệu huyền.
Los và Guxev thức giấc từ sớm. Tắm và ăn một bữa nhẹ xong, họ đi tới thư viện. Đôi mắt chăm chú, dịu dàng của Aêlita đón sẵn họ trên ngưỡng cửa. Cô nói những lời gần như đã hiểu được. Los cảm thấy cực kì thanh thản trong khung cảnh yên tĩnh lờ mờ tối của căn phòng này, trong những lời khẽ khàng của Aêlita, - cặp mắt cô long lanh, to tròn và trong đó trôi qua những giấc mộng. Những cái bóng lướt trên màn ảnh. Không cần phải cố gắng, các từ cũng cứ thấm sâu vào ý thức.
Các từ - thoạt tiên chỉ là những âm thanh, rồi khái niệm thoáng hiện như từ trong đám sương mù - dần dần mới mọng chất đời. Bây giờ, khi Los phát âm tên của Aêlita, cái tên ấy khiến anh xao xuyến bởi hai cảm giác: cảm giác buồn rầu của phần AÊ, có nghĩa là “trông thấy lần cuối cùng”, và cảm giác sáng tươi lấp lánh - LITA, có nghĩa là “ánh sáng ngôi sao”. Ngôn ngữ của thế giới mới hòa nhập vô cùng tinh tế vào ý thức anh. Quá trình phong phú lên ấy diễn ra trong bảy ngày. Họ học vào buổi sáng và sau lúc hoàng hôn, họ học đến tận nửa đêm. Cuối cùng, có lẽ Aêlita đã mệt. Sang ngày thứ tám, không ai đến đánh thức hai người khách nữa. Thế là họ ngủ đến tận chiều.
Khi Los dậy, ngoài cửa sổ đã có những cái bóng dài của cây cối. Một con chim nào đó hót những tiếng trong vắt đơn điệu. Los nhanh nhẹn mặc quần áo rồi không đánh thức Guxev, anh tới thư viện.
Nhưng khi anh gõ cửa, không thấy ai ra mở. Los bèn ra sân. Đó là lần đầu tiên anh ra sân trong bảy ngày qua.
Quãng rừng thưa dốc thoải xuống cánh rừng, về phía những ngôi nhà thấp. Một đàn súc vật lông dài tên là khasi - nửa gấu, nửa bò -
đang vừa đi tới đó vừa rống lên buồn tẻ. Ánh nắng chiều tà như dát vàng cho thảm cỏ loăn xoăn. Cả bãi cỏ rực lên ánh vàng ẩm ướt. Những con sếu màu ngọc bích bay đến hồ nước. Xa xa, nhô cao đỉnh núi hình chóp đầy tuyết chan hòa ánh hoàng hôn. Nơi đây cũng ngự trị sự thanh thản, nỗi buồn của một ngày đang trôi qua trong yên bình và ánh vàng.
Los đi về phía hồ theo con đường quen thuộc. Vẫn những cây cối của màu thiên thanh lá rũ ở hai bên đường. Vẫn những đống đổ nát ở sau những thân cây loang lổ. Vẫn làn không khí thanh khiết lành lạnh. Nhưng Los có cảm giác là mãi bây giờ anh mới trông thấy phong cảnh thiên nhiên kì diệu này, - mắt anh, tai anh mới được giải phóng, - vì anh đã biết tên các sự vật.
Hồ nước rực lên những vệt hồng qua đám lá cành. Nhưng khi anh tới rìa nước thì mặt trời đã lặn. Những tia hoàng hôn chiếu lên vàng rực cả nửa bầu trời. Rồi bầu trời ngả màu tro, tối đi rất nhanh. Chẳng mấy chốc đã lấp lánh những ngôi sao. Hình dạng kì lạ của các chòm sao phản chiếu trên mặt nước. Ở khúc cong của bờ hồ, bên bậc thang nhô cao đường viền sẫm đen của hai bức tượng đá khổng lồ, - hai kẻ canh giữ ngàn năm ngồi đó ngửa mặt lên các ngôi sao.
Los lại gần bậc thang. Mắt anh còn chưa quen với bóng tối ập xuống quá mau. Anh tì khuỷu tay lên chân một bức tượng, hít thở hơi ấm của hồ nước thoang thoảng hương thơm hăng hắc của các bông hoa đầm lầy. Trên mặt nước, bóng các ngôi sao mờ nhạt vì có một làn sương mù bốc lên. Trong khi đó, các chòm sao ngày càng sáng. Bây giờ đã có thể nhìn rõ những cành cây đang yên ngủ, những viên đá lóng lánh và gương mặt mỉm cười của pho tượng Magaxitl ngồi kia.
Los đứng nhìn rất lâu cho đến khi bàn tay đặt trên đá tê tê đi. Khi đó anh mới rời pho tượng. Vừa lúc ấy, anh chợt trông thấy Aêlita.
Cô ngồi yên không nhúc nhích, mắt nhìn bóng các ngôi sao phản chiếu trên mặt nước tối sẫm.
– Aiu tu ira khaxkhe, Aêlita, - Los nói, ngạc nhiên lắng nghe những âm thanh kì lạ của lời lẽ mình. Anh nói cực kì vất vả, như thể
lưỡi bị cóng. Ý nguyện của anh, - tôi có thể ngồi với cô không, Aêlita? - được thể hiện trong những âm thanh xa lạ ấy. Aêlita thong thả ngoảnh đầu lại, nói:
– Được.
Los ngồi xuống bậc đá, bên cạnh cô. Mái tóc Aêlita được trùm trong một chiếc mũ màu đen, giống như mũ áo mưa. Có thể nhìn được mặt cô trong ánh sáng sao, nhưng mắt cô thì anh không nhìn ra. Anh chỉ thấy hai cái bóng lớn trong hốc mắt.
Bằng một giọng hơi lạnh lùng, vẻ bình thản, cô hỏi:
– Ở Trái Đất các ông có hạnh phúc không?
Los không trả lời ngay, anh còn nhìn chăm chú đã: mặt cô bất động, khóe miệng cô u buồn.
– Có, - anh đáp, - có, tôi hạnh phúc.
– Các ông hạnh phúc ở điểm nào.
Los lại nhìn kĩ cô gái.
– Có lẽ hạnh phúc của chúng tôi trên Trái Đất là ở chỗ chúng tôi quên bản thân mình đi. Người hạnh phúc là người háo hức sống hết mình cho những người đem lại niềm vui háo hức đó.
Bây giờ, Aêlita ngoảnh mặt về phía anh. Có thể trông rõ đôi mắt to của cô đang kinh ngạc nhìn con người khổng lồ có bộ tóc màu sáng này.
– Niềm hạnh phúc ấy đến cùng tôi trong tình yêu đối với phụ nữ, - Los nói.
Aêlita quay đi. Chóp nhọn của chiếc mũ trên đầu cô rung rung. Cô cười ư? - không. Cô khóc ư? - không. Los bồn chồn ngồi không yên trên bậc thang phủ đầy rêu. Aêlita nói bằng một giọng run rẩy:
– Tại sao ông lại rời bỏ Trái Đất?
– Người phụ nữ tôi yêu đã chết, - Los nói. - Tôi không đủ sức cưỡng lại nỗi tuyệt vọng. Cuộc sống đối với tôi trở nên khủng khiếp. Tôi là một kẻ chạy trốn, một kẻ hèn nhát.
Aêlita rút bàn tay mình dưới tấm áo choàng đặt lên bàn tay to lớn của Los. Chạm vào tay anh, cô lại rụt tay vào trong áo choàng.
– Tôi biết trong đời tôi sẽ xảy ra điều này, - cô nói như nói trong lúc trầm tư. - Từ nhỏ, tôi đã mơ thấy những giấc mơ kì lạ. Tôi mơ thấy những ngọn núi cao xanh thắm, những dòng sông trong vắt, không phải như sông của chúng tôi, những đám mây to, trắng, những trận mưa xối xả, và những con người khổng lồ. Tôi tưởng như tôi sẽ phát điên. Về sau, thầy giáo tôi bảo rằng đó là askhe, thị giác thứ hai.
Trong chúng tôi, con cháu của Magaxitl, vẫn tồn tại ký ức về một cuộc sống khác, vẫn có askhe, như một hạt giống chưa nẩy mầm. Askhe là một sức mạnh khủng khiếp, một tri thức vĩ đại. Nhưng tôi không biết:
hạnh phúc là thế nào?
Aêlita rút cả hai tay dưới áo choàng ra, chập vào nhau như một đứa trẻ. Chiếc mũ của cô lại rung rung.
– Đã nhiều năm nay, đêm nào tôi cũng ra bậc đá này, ngồi nhìn lên các ngôi sao. Tôi biết nhiều chuyện lắm. Tôi cam đoan với ông rằng tôi biết những chuyện ông không bao giờ có thể biết được và ông cũng không cần biết. Nhưng hồi thơ ấu, tôi hạnh phúc biết mấy khi tôi mơ thấy những đám mây lững lờ trôi, những trận mưa xối xả, những ngọn núi xanh, những người khổng lồ. Thầy giáo tôi báo trước cho tôi: thầy báo rằng tôi sẽ chết. - Cô ngoảnh mặt về phía Los và bỗng nhếch mép cười.
Los cảm thấy khiếp sợ. Aêlita xinh đẹp thật tuyệt vời. Tấm áo có mũ trùm của cô, đôi tay, gương mặt, hơi thở của cô tỏa ra một hương vị hăng hắc, ngọt ngào thật là nguy hiểm.
Aêlita quay đi và ấn chiếc mũ thêm nữa, sụp xuống tận mắt. Sau một lúc im lặng, Los nói:
– Aêlita, cô hãy kể cho tôi nghe về hiểu biết của cô đi. – Đó là một điều bí mật, - cô đáp, vẻ trịnh trọng - nhưng ông là con người của Trái Đất, nên tôi sẽ phải kể cho ông nghe nhiều chuyện.
Cô ngẩng mặt lên. Những chòm sao lớn hai bên dải Ngân Hà rực rỡ và lấp lánh như thể một làn gió nhẹ của vĩnh hằng vừa thổi qua khói lửa của chúng. Aêlita buông một tiếng thở dài.
– Ông hãy nghe tôi kể, - cô nói, - ông hãy nghe chăm chú và bình tĩnh nhé.
Chương 20
CÂU CHUYỆN THỨ NHẤT CỦA AÊLITA
– Cách đây hai mươi nghìn năm, sống ở Tuma, tức là Sao Hỏa, có người Aol, một chủng tộc có nước da màu da cam. Những bộ lạc hoang sơ của người Aol - những người săn bắn chuyên ăn các con nhện khổng lồ - sống trong rừng và đầm lầy xích đạo. Ngày nay, trong ngôn ngữ của chúng tôi chỉ còn lại vài từ của những bộ lạc ấy. Một bộ phận khác của người Aol ở các vịnh phía Nam một lục địa nước ngọt. Dân cư đánh bắt cá đem đổ vào các hồ nước mặn. Họ tránh mùa đông giá lạnh, ở tít sâu trong các hang. Cho tới nay, ở đó vẫn còn thấy nhiều đống xương cá.
Bộ phận thứ ba của người Aol ở gần xích đạo, dưới chân núi, ở tất cả những nơi nào có suối phun nước uống được. Các bộ lạc này biết xây nhà, nuôi loài thú khasi lông dài, đánh nhau với những người ăn nhện và thờ cúng ngôi sao Talxetl đỏ như máu.
Trong một bộ lạc sống ở đất nước Adora sung sướng xuất hiện một sokho khác thường. Anh ta là con trai một người chăn súc vật, lớn lên ở vùng núi Lidiadira và khi anh ta mười bảy tuổi, anh ta xuống đồng bằng, đi từ thành phố này sang thành phố khác và nói:
“Tôi mơ thấy bầu trời mở ra, và một ngôi sao rơi xuống. Tôi lùa đàn khasi của tôi đến chỗ ngôi sao rơi. Ở đó, tôi thấy một ông Con Trời đang nằm trên cỏ. Ông ta thật to lớn. Mặt ông ta trắng như tuyết trên các đỉnh núi. Ông ta ngẩng đầu lên, thế là tôi thấy đôi mắt ông ta tỏa ra ánh sáng và sự cuồng si. Tôi hoảng sợ phủ phục xuống và cứ nằm thế mãi như đã chết. Tôi nghe thấy tiếng ông Con Trời cầm lấy cây gậy dài của tôi đuổi đàn khasi của tôi đi, và mặt đất rung chuyển dưới các bước chân của ông ta. Tôi còn nghe thấy giọng nói oang oang của ông ta. Ông ta nói: “Mi sẽ chết, bởi vì ta muốn thế”. Nhưng tôi đi theo ông ta, vì tôi tiếc đàn khasi của tôi. Tôi sợ lại gần ông ta: mắt ông ta tóe lửa, và mỗi lần như vậy tôi lại phủ phục xuống để được sống.
Chúng tôi cứ đi thế vài ngày, xa dần núi non, đi sâu vào hoang mạc.
Ông Con Trời quật cây gậy vào đá, thế là nước chảy ra. Đàn khasi và tôi uống thứ nước ấy. Rồi ông Con Trời bảo tôi: “Mi hãy làm nô lệ của ta”. Từ đó, tôi chăn dắt đàn khasi cho ông ta, và ông ta vứt cho tôi những thứ thức ăn thừa”.
Anh mục phu nói với dân chúng các thành phố như vậy. Anh ta còn nói:
“Những con chim hiền lành và những con thú ôn hòa cứ sống mà không biết bao giờ cái chết sẽ đến. Nhưng con ikhi tàn ác đã dang đôi cánh trên con sếu; con nhện đã chăng lưới; đôi mắt khủng khiếp của con sa đã dòm ngó qua bụi cây xanh. Các người phải biết sợ mới được.
Các người không có gươm đủ bén để chém kẻ ác độc. Các người không có những bức tường chắc chắn để mà chặn nó. Các người không có đôi chân dài để mà chạy trốn nó. Tôi đã trông thấy trên trời có một vạch lửa. Thế nào ông Con Trời độc ác cũng sẽ rơi xuống chỗ các người. Mắt ông ta như cục lửa đỏ Talxetl ấy”.
Dân chúng đất nước Adora thanh bình khiếp sợ khi nghe những lời ấy. Anh chàng mục phu còn nói:
“Khi con sa khát máu đưa mắt qua bụi cây tìm ta - ta hãy trở thành cái bóng, để mũi con sa không ngửi thấy mùi máu ta. Khi con ikhi từ trên đám mây hồng lao xuống, ta hãy trở thành cái bóng, mắt nó sẽ không thể tìm được ta trong cỏ. Dưới ánh sáng của hai mặt trăng - ollo và lilkha - ban đêm, con nhện độc ác, xitli, chăng mạng xung quanh ngôi nhà của ta, ta hãy biến thành cái bóng, thế là con xitli sẽ không bắt được ta. Hãy trở thành cái bóng, hỡi người con khốn khổ của Tuma. Chỉ có điều ác mới cuốn hút điều ác. Hãy gột bỏ khỏi bản thân mình tất cả những gì ác độc. Hãy chôn vùi những khiếm khuyết của mình dưới ngưỡng cửa nhà mình. Hãy đến suối phun Xoam vĩ đại mà tẩy rửa. Có thế, ông Con Trời ác độc mới không trông thấy ta, cho dù con mắt ngầu máu của ông ta có nhìn xuyên qua bóng ta chăng nữa. ” Dân chúng Adora nghe anh chàng mục phu. Nhiều người đi theo anh ta tới hồ nước tròn, tới suối phun Xoam vĩ đại.
Nhưng một số người hỏi: “Làm cách nào để có thể chôn vùi điều ác dưới ngưỡng cửa nhà mình?” Một số người tức giận quát anh chàng mục phu: “Ông lừa dối bọn ta. Lũ ăn mày bực bội xúi bẩy ông
ru ngủ sự cảnh giác của chúng ta để chiếm đoạt nhà cửa của bọn ta”. Một số khác nữa thì bàn nhau: “Chúng ta hãy đưa cái thằng chăn súc vật điên rồ này lên vách đá rồi quẳng nó xuống hồ nước nóng. Hãy để cho chính nó trở thành một cái bóng”.
Nghe vậy, anh chàng mục phu cầm lấy ulla, cây đàn gỗ, ở phía dưới, chỗ hình tam giác có căng dây đàn, rồi ngồi xuống giữa những người băn khoăn mà vừa đàn vừa hát. Anh ta chơi đàn và hát hay đến nỗi chim ngừng hót, gió ngừng thổi, đàn gia súc nằm cả xuống và mặt trời ngừng chuyển động trên bầu trời. Vào lúc ấy, ai cũng có cảm giác rằng anh ta đã chôn vùi những khiếm khuyết của anh ta ở dưới ngưỡng cửa nhà anh ta.
Anh chàng mục phu dạy mọi người trong ba năm. Đến mùa hè thứ tư, những kẻ ăn nhện từ dưới đầm lầy lên tấn công vào dân chúng Adora. Anh chàng mục phu đi hết nơi này đến nơi nọ và nói: “Đừng bước qua ngưỡng cửa nhà mình. Hãy biết sợ cái ác trong bản thân mình! Chớ có để mất sự trong sạch!” Nhiều người nghe anh ta, và có những người không muốn chống lại lũ ăn nhện, cho nên bọn chúng đánh gục họ trên ngưỡng cửa nhà họ. Bấy giờ, thủ lĩnh cả thành phố mới bàn bạc cùng nhau, bắt anh chàng mục phu, dẫn anh lên vách đá và quăng xuống hồ.
Học thuyết của anh chàng mục phu vượt xa ngoài ranh giới Adora. Ngay cả những người trú ngụ ở các hang gần biển cũng khắc trên đá hình ảnh anh ta đang chơi ulla. Nhưng cũng có một số thủ lĩnh bộ lạc lại xử tử những người tôn thờ anh chàng mục phu, vì học thuyết của anh ta bị coi là điên rồ và nguy hiểm. Thế rồi đến lúc lời tiên tri trở thành hiện thực. Biên niên sử thời đó cho biết:
“Bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, các Con Trời rơi xuống Tuma.
Sau hoàng hôn, sao Talxetl mọc lên và rực cháy một ánh sáng khác thường như một con mắt ác độc. Nhiều Con Trời rơi xuống bị chết.
Nhiều ông bị đập vào đá, bị chìm dưới đại dương miền Nam. Nhưng cũng nhiều người tới được bề mặt Tuma và còn sống. Biên niên sử kể như vậy về cuộc di dân vĩ đại của các Magaxitl, tức là một bộ lạc của chủng tộc dưới Trái Đất bị diệt vong bởi trận đại hồng thủy cách đây hai mươi nghìn năm.
Các Magaxitl bay trong những thiết bị bằng đồng có hình quả trứng, chuyển động bằng lực phân rã vật chất. Họ rời Trái Đất trong bốn mươi ngày.
Nhiều quả trứng khổng lồ bị mắc trong khoảng không gian vũ trụ. Nhiều quả khác bị vỡ khi đập vào bề mặt Sao Hỏa. Chỉ một số ít an toàn hạ xuống bình nguyên của lục địa xích đạo.
Biên niên sử cho hay:
“Họ bước ra khỏi thiết bị hình quả trứng, vóc người cao lớn và tóc đen. Mặt các Con Trời đều vàng và phẳng. Thân mình họ và đầu gối họ đều bọc vỏ đồng. Trên mũ có mào nhọn, và mũ nhô ra phía trước mặt. Ở tay trái, Con Trời cầm một cây kiếm ngắn. Tay phải cầm một cuộn giấy ghi những công thức hủy diệt các dân tộc nghèo khổ và dốt nát của Tuma”.
Người Magaxitl, một bộ lạc dữ tợn và hùng mạnh, là như thế đấy. Ở Trái Đất, trên lục địa bị chìm xuống đáy đại dương, họ là chủ nhân của thành phố MỘT TRĂM CỔNG VÀNG.
Tới đấy, ra khỏi các quả trứng bằng đồng, họ đến chỗ có người Aol ở, lấy tất cả những gì họ muốn và giết chết những ai chống cự lại họ.
Họ xua đuổi hàng đàn khasi ra đồng bằng và bắt đầu đào giếng. Họ cày bừa ruộng nương và gieo hạt đại mạch. Nhưng nước trong các giếng có ít, hạt đại mạch bị chết trong đất khô cạn và cằn cỗi. Thấy vậy, họ liền bảo dân Aol ra bình nguyên đào kênh mương dẫn nước và xây dựng những hồ chứa nước lớn.
Một số bộ lạc nghe theo họ, đi đào kênh. Một số khác bảo: “Chúng ta không nghe theo họ, chúng ta sẽ giết chết họ”. Các đội quân Aol ra bình nguyên đông như kiến.
Số người ở Trái Đất đến có ít thôi. Nhưng họ vững chắc như đá, hùng mạnh như sóng đại dương, dữ tợn như bão tố. Họ quét sạch và tiêu diệt hết quân Aol. Làng mạc, thành phố cháy rừng rực. Các đàn gia súc chạy tán loạn. Những con sa dữ tợn ở đầm lầy lên cắn xé trẻ em và phụ nữ. Lũ nhện chăng mạng xung quanh các ngôi nhà đã vắng vẻ. Những con ikhi ăn xác chết, béo núc ra, đến nỗi không thể nào bay được nữa. Ngày tận thế đã tới.
Khi đó, người ta mới nhớ lại lời tiên tri: “Hãy trở thành cái bóng đối với điều ác, hỡi người con khốn khổ của Tuma, để con mắt đỏ máu của Con Trời có nhìn xuyên qua bóng ngươi cũng vô ích”. Nhiều người Aol đi đến suối phun Xoam vĩ đại. Nhiều người lên núi, hi vọng nghe thấy tiếng đàn ulla gột rửa được điều ác véo von trong những khe núi mù sương. Nhiều người chia sẻ tài sản với nhau. Họ tìm kiếm ở bản thân và ở người xung quanh những điều thiện rồi vừa ca hát, vừa rưng rưng nước mắt sung sướng chào đón điều thiện. Trong vùng núi Lidiadira, những người tôn thờ anh mục phu xây dựng Ngưỡng Cửa Thiêng Liêng, nơi điều ác được chôn vùi dưới đó. Ba vòng những đống lửa không bao giờ tắt bảo vệ cho Ngưỡng Cửa.
Các đội quân Aol đã bị chết: Trong rừng, lũ người ăn nhện đã bị diệt sạch. Những dân chài ở ven bờ biển còn sống sót đều trở thành nô lệ. Những người Magaxitl không động tới tín đồ tôn thờ anh mục phu, không chạm tới Ngưỡng Cửa Thiêng Liêng, không tới gần suối phun Xoam, không vào sâu các khe núi, nơi cứ giữa trưa là làn gió thổi qua lại tạo nên những âm thanh bí ẩn - bài hát của ulla.
Cứ thế, nhiều năm tháng đẫm máu và buồn rầu trôi qua. Những kẻ mới đến không có phụ nữ, nên bọn xâm lược sẽ phải chết mà không để lại được con cháu nối dõi. Thế rồi ở vùng núi, nơi lẩn trốn của dân chúng Aol. Xuất hiện một sứ giả - một Magaxitl mặt mũi rất đẹp. Anh ta không đội mũ và không cầm kiếm. Tay anh ta cầm một chiếc gậy có buộc một cuộn sợi. Anh ta tới gần những đống lửa của Ngưỡng Cửa Thiêng Liêng và nói với những người Aol ở tất cả các khe núi tụ hội đến:
“Đầu tôi để trần, ngực tôi không có gì che chắn - xin hãy chém chết tôi, nếu như tôi nói dối. Chúng tôi rất hùng mạnh. Chúng tôi đã chiếm được sao Talxetl. Chúng tôi đã bay qua con đường sao vẫn được gọi là dải Ngân Hà. Chúng tôi đã chinh phục Tuma và tiêu diệt những bộ lạc thù địch với chúng tôi. Chúng tôi đã bắt đầu xây dựng xong thành phố Xoaxera, nghĩa là Làng Mặt Trời. Chúng tôi sẽ đem lại cuộc sống cho tất cả những ai muốn sống. Nhưng chúng tôi không có phụ nữ, nên chúng tôi phải chết mà không thực hiện được các dự định. Hãy cho chúng tôi những cô gái tân. Chúng tôi sẽ làm cho họ đẻ ra một bộ lạc hùng mạnh, và bộ lạc ấy sẽ cư trú trên các
"""