"
Người Chăn Kiến PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Người Chăn Kiến PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
BIỂU GHI BIÊN MỤC TRƯỚC XUẤT BẢN DO THƯ VIỆN KHTH TP.HCM THỰC HIỆN General Sciences Library Cataloging-in-Publication Data
Bùi Ngọc Tấn
Người chăn kiến : tập truyện ngắn / Bùi Ngọc Tấn. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2014. 304tr. ; 20cm.
1. Truyện ngắn Việt Nam -- Thế kỷ 21. 2. Văn học Việt Nam -- Thế kỷ 21. 1. Short stories, Vietnamese -- 21st century. 2. Vietnamese literature -- 21st century.
895.92234 -- dc 23
B932-T16
BÙI NGỌC TẤN
Và hóa học của nhân bản — Dương Tường
Trong ngót nửa thế kỷ cầm bút, Bùi Ngọc Tấn có một quãng im lặng kéo dài không dưới hai mươi năm.
Tôi còn nhớ lần xuống Hải Phòng thăm anh vào một ngày hè năm 1974 - tức là đầu thời kỳ hậu - Goulag của anh (tôi quen gọi thế) - Tấn rầu rầu nói với tôi: “Mình bẻ bút rồi. Đoạn tuyệt hẳn đấy”. Tôi im lặng, không tỏ thái độ. Nhưng tôi tin chắc cơn khủng hoảng này sẽ chấm dứt khi anh chế ngự được những quằn quại trên “những hòn than nóng bỏng của nỗi đau”, để dùng lại
5
chữ của Octavio Paz. Bởi tôi biết chính lúc này, bạn tôi còn nợ nần bút mực hơn cả trước những ngày hoạn nạn.
Tôi phải chờ thêm hơn mười lăm năm nữa, khi ngẫu nhiên hai chúng tôi không hẹn mà cùng có mặt trên một số tạp chí Cửa biển mùa hè 1990 - Tấn với những kỷ niệm về Nguyên Hồng (sau này phát triển thành tập hồi ức dạt dào hoài cảm Một thời để mất) và tôi với bài tưởng niệm Nguyễn Tuân nhân ngày giỗ đầu ông. Tôi thấy ở đây tín hiệu của một khởi đầu mới. Tấn đã vượt ra khỏi sự cầm tù của nỗi đau. Tôi đã không lầm: liền tiếp sau Một thời để mất là hàng loạt truyện ngắn ngồn ngộn chất sống (về sau gom lại thành hai tập Những người rách việc và Một ngày dài đằng đẵng) và bộ tiểu thuyết Mộng du dài hơn 600 trang đánh máy mà tôi may mắn được tác giả ưu tiên cho đọc từ bản thảo đầu. Những năm tháng hoạn nạn - theo quy luật bù trừ của tạo hóa? - đã tạo cho Bùi Ngọc Tấn hội nhập - thậm chí đồng hóa - vào môi trường dưới đáy, giàu thêm bao trải nghiệm trên mọi cung bậc trầm luân của nhân sinh và hòa đồng với những thân phận phó - người (sous - hommes) sau này trở thành tiêu mẫu cho những nhân vật của anh: một chị Sợi bán “hoa” bán chuyên với trên dưới một tá “khách” (hay chồng hờ) trong đám ăn mày để nuôi mẹ già ốm liệt sáu, bảy
6
năm nay (Truyện không tên), một nữ chiến sĩ dũng cảm ở Trường Sơn nay trở thành gái “ôm” (Trung sĩ), những phạm nhân không biết tại sao mình lại thành phạm nhân như ông M. (Người chăn kiến)... Đọc Bùi Ngọc Tấn, tôi thêm tin rằng sự sa đọa tâm hồn trước thử thách của số mệnh không phải là tội tổ tông truyền. Cái lớn lao của Bùi Ngọc Tấn là ở chỗ tất cả những vùi dập cay nghiệt của số mệnh không hề làm anh hằn học, chua chát mà chỉ thêm bao dung. Phải là một tâm hồn rất quảng đại mới có thể nói về những nghiệm sinh ê chề của mình với một chất hài hước độ lượng và lạc quan đến thế.
Bùi Ngọc Tấn, trong mắt tôi, là người biết chưng cất cái đau thành hy vọng, thành tiếng cười, không, chính xác hơn, thành nụ cười, vì anh không mấy khi cười thành tiếng.
Tôi gọi đó là hóa học của nhân bản.
Hay có khi đó là bí quyết đạt đạo của những bậc hiền?
(Báo Văn Nghệ)
7
Một
tối
vui
Tối hôm ấy vui thật. Ruổm bắt được một con chuột
leo bằng cái chuôi dao. Chuột đực, choai choai. Ruổm rất sát chuột. Nói chung Ruổm sát các loại: chuột, thằn lằn, rắn. Chẳng mấy con thoát khỏi tay Ruổm. Nhóm nằm gần nhà mét(1), sàn trên phải tán tỉnh mãi
1. Nhà xí làm ngay trong buồng giam.
Một tối vui 9
Ruổm mới đồng ý cho mượn con chuột ấy. Ruổm sợ mất. Cả nhóm phải bảo đảm với Ruổm nếu xảy ra sự cố gì (mất hay chết) sẽ đền một bao thuốc lá Tam Đảo, một thứ ngoại tệ mạnh trong tù. Trước tiên là chiêu đãi Ruổm tại chỗ hai điếu thuốc lào.
Bằng một thanh nứa khô và một ít chỉ, một anh tù nguyên là thợ điện chế tạo luôn một thứ dụng cụ để con chuột vẫn sống, vẫn khỏe mạnh mà không phải cầm vào nó, mà mình vẫn hoàn toàn cách điện.
Tay trái anh ta giơ con chuột bị treo thõng ngược lên cao, gần chỗ hai dây điện chạy song song ở giữa buồng giam. Một khúc dây điện ngắn đã được ngoặc vào dây trục.
Anh ta gí đầu dây kia vào con vật. Nó giãy giụa. Nó kêu váng buồng giam. Mọi cặp mắt đều hướng về phía con chuột.
- À! Mày lại còn định chống đối hả?
Anh thợ điện, đi tù về tội đánh quả công tơ của xí nghiệp, lại nín thở, thận trọng đưa một đầu dây điện vào mình con vật. Vừa chạm nguồn điện, con chuột tung vọt lên cao, phi thân như chớp, rồi giật xuống, đánh đu, lồng lộn, giãy giụa trên sợi dây chỉ xe treo thõng, thét những tiếng chin chít man rợ.
Anh thợ điện cười khoái trá, không ngờ trò chơi này lại thú vị như vậy. Chung quanh anh những cặp mắt sáng lên tò mò, thích thú.
Tất cả tù xô về phía cửa nhà mét. Một anh thét:
10 Bùi Ngọc Tấn
- Gượm. Để lập phiên tòa xét xử cho nó đàng hoàng. Đám đông reo hò:
- Đúng.
- Chúng ta làm có luật pháp.
- Chúng ta không bắt mà không xét xử.
- Chúng ta không bắt nhầm cũng không bỏ sót. - Chúng ta xét xử công bằng. Đúng người, đúng việc, đúng tội.
- Ai làm chánh án?
- Ruổm đâu? Ruổm bắt được chuột, để Ruổm làm chánh án.
- Chánh án Đồng Văn Ruổm. Hoan hô.
Ruổm không biết chữ. Ruổm làm ở đội chăn nuôi hợp tác. Đánh bạc thua, Ruổm lấy thóc chăn nuôi đi bán. Toàn bán cho cánh lò vôi bên kia sông, kín lắm thế mà cũng lộ. Bị tòa xử ba năm. Đã sắp ở hết án. Không biết đọc, không biết viết nên khi nghe thấy phải làm chánh án, Ruổm ngượng nghịu giãy nảy:
- Tôi không làm chánh án đâu.
Vũ Quảng làm chánh án. Vũ Quảng nguyên cán bộ ngành văn hóa, đẹp trai, nhiều tài vặt, dẻo mồm, đàn ngọt, hát hay, “rất có duyên” với vợ bộ đội ở nơi cơ quan sơ tán và bị hai năm tù vì tội “phá hoại chính sách hậu phương quân đội”, làm chánh án. Quảng bước ra giữa sân, oai vệ ngồi xuống, xếp bằng tròn, râu hùm hàm én,
Một tối vui 11
má hóp, sát khí đằng đằng, giơ tay về phía “dân chúng”, cất giọng nam trung sang sảng:
- Bà con giữ trật tự. Phiên tòa đại hình bắt đầu. Tất cả vụt im phăng phắc.
Quảng hắng giọng:
- Hôm nay mở phiên tòa công khai, xét xử tên Chí Văn Chuột, tuổi ba tháng. Theo cách tính tuổi của chuột thì tương đương với hai mươi bốn tuổi của người. Tức là đã đến tuổi trưởng thành, can tội...
- Tội tham ô!
- Tội phá hoại!
Quảng cao giọng:
- Tội chiếm đoạt tài sản công dân, gọi nôm là ăn cắp. Sau đây tòa công bố cáo trạng. Cáo trạng này đã tống đạt cho bị can. Hồi hai mươi giờ ngày... tên Chí Văn Chuột đã lợi dụng sơ hở, đột nhập nội vụ anh Chí Sình Quay tha đi một mẩu sắn dài 5 xăng ti mét, một đầu đã bị chạy nhựa. Khúc sắn này là toàn bộ gia sản của anh Chí Sình Quay, khó khăn vất vả, nguy hiểm lắm mới tạt(1) được trong lúc đi gánh phân nhà bò. Hai ngày sau đó y lại đột nhập nội vụ anh Phạm Văn Nhất tức Nhất-một-tai, cắn nát túi đựng cơm khô của anh Nhất. Nạn nhân đuổi bắt, y còn chống cự lại, cắn vào ngón tay anh Nhất, gây thương tích nghiêm trọng.
1. Ăn cắp.
12 Bùi Ngọc Tấn
Nhiều tiếng thét đầy phẫn nộ:
- Hai mươi năm cấm cố.
- Tập trung cải tạo!
- Chung thân!
Một anh phân tích rất dài dòng:
- Tôi đề nghị dí cho y một cái bọp(1). Bọp xong về thẳng xà lim cấm cố. Không cho gặp mặt. Không cho nhận tắc(2). Chỉ có vậy mới khiến y tỉnh ngộ thôi. Tên này đã mất hết tính chuột. Nó không chỉ ăn cắp của già Nhất là người ngoài. Nó ăn cắp của cả người trong họ, cùng dòng họ Chí nhà nó. Thưa quý tòa! Chúng tôi đã mở cuộc điều tra. Tên Chí Văn Chuột chính là cháu ruột anh Chí Sình Quay!
Thế là mọi con mắt lại dồn về Chí Sình Quay, một tên cướp người dân tộc, can tội giết người, lĩnh án chung thân, đã tù chín năm và cũng đã được giảm xuống mức án hai mươi năm. Hy vọng của Quay là ở tù mười hai năm thì được tha như những phạm nhân án hai mươi năm cải tạo tốt khác.
Thấy mọi người nhìn cả vào mình, Quay chỉ cười. Quay cười nom càng buồn, đôi mắt càng xa vời thăm thẳm, đôi mắt Châu Ro(3).
1. Tập trung cải tạo.
2. Tiếp tế.
3. Người tù thiểu số trong thơ Tố Hữu.
Một tối vui 13
Quảng cười ngoác đến tận mang tai và cố làm mặt nghiêm hỏi a Quay:
- Có lúng (đúng) vậy không Chí Sình Quay pác à? Bình thường có cạy răng Chí Sình Quay cũng không nói một câu, nhưng hôm nay vui quá, Quay cũng lựa theo cách nói của mọi người:
- Lúng ố. Lúng vậy à.
Cười. Cười thả phanh. Ai cũng sợ quản giáo đến nhưng lúc này không còn giữ được nữa. Mắt long lanh quên đi phút chốc thân phận tù đày. Một anh nghẹn ngào như sắp đứt hơi:
- Không được nói thế a Quay à. Phải nói: Páo cáo cái tòa à. Cái thằng Chí Văn Chuột này lúng là cháu lích tôn của tao ớ. Tao không nói dối cái tòa lâu ớ.
Quảng huơ huơ tay:
- Bà con giữ trật tự! Nghe tòa tuyên án.
Và Quảng e hèm, đọc lời tuyên án bằng một giọng mi mi nơ trầm hùng vừa dõng dạc vừa đau xót: - Xét tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, gây ra những hậu quả không lường hết được, xét nhân thân bị can phạm tội có hệ thống, phạm tội một cách bền bỉ dẻo dai vững chắc, gây ra những tội ác to lớn và béo tốt. Tòa tuyên bố dành cho bị can Chí Văn Chuột mức án cao nhất.
Quảng đột ngột dừng, vênh mặt nhìn cử tọa như để đoán định tác động tâm lý sẽ xảy ra của những tiếng tiếp
14 Bùi Ngọc Tấn
theo, cảm nhận sức nặng của lời phán quyết mình sắp nói, rồi bổ tay xuống không khí, đanh thép: - Tử hình!
Hình như những bầu máu nóng đã được hâm lên. Cả sự say máu lẫn sự say công lý. Tất cả vỗ tay hưởng ứng rầm rầm.
Quảng lại dõng dạc:
- Bản án có hiệu lực ngay sau khi tuyên án! Tiếng reo hò tán thưởng khiến toán trưởng phải huơ tay:
- Khẽ chứ. Khẽ chứ. Trực trại đến thì phiền. Như chỉ đợi lệnh tòa, anh thợ điện giơ con chuột về phía sợi dây điện, định gí điện vào nó, thi hành bản án. Có tiếng thét:
- Dự phiên tòa hôm nay có nhiều bà con người dân tộc. Xin phép tòa cho tôi dịch ra tiếng dân tộc để bà con hiểu.
Chánh án Quảng nhíu mày như đang phải quyết định một điều hệ trọng lắm:
- Được. Về nguyên tắc tòa cho phép.
Thịnh cốc, lĩnh án tù mù(1) đứng lên với giọng tenor (sau này mỗi khi ôn lại cái đêm thiên tải nhất thì - nghìn năm có một ấy, Quảng lại khẳng định chất giọng Thịnh
1. Tập trung cải tạo (không có án).
Một tối vui 15
cốc lúc đó là chất giọng tê no, cũng như giọng của Quảng khi tuyên án đúng là mi mi nơ trầm hùng) Thịnh dịch cứ văng ra từng cụm từ đầy hăm dọa: - Ngộ tả nỉ cắng xải.
- Si ẻo cu!
- Li ảo sư!
- Treo!
- Lủng lẳng!
- Cố xải!
- Cắng xải!
- Dâu tí xìn.
Cười. Cười phát đau cả bụng. Nấc. Đói. Giàn nước mắt. Lại nghe tiếng Chí Sình Quay loáng thoáng: - Không piết cứ pắt chước tiếng dân tộc là lại xẻo cu lảo sư treo lủng lẳng là cái gì ớ... Ai cũng nói thế ớ... Đao phủ (anh thợ điện) đứng lênh khênh trên cao tỏ vẻ sốt ruột, cầm mẩu dây có điện 220 vôn giơ lên cùng với con chuột. Con vật mõm nhọn, râu ria, quay đi quay lại nhìn mọi người, mắt nhỏ đen bóng ngơ ngác. Lại một ý kiến chính xác không ai bắt bẻ được: - Hãy trông bị can. Bị can chưa hiểu gì hết. Xin phép tòa để tôi dịch ra tiếng chuột cho y biết tội lỗi của y và bản án dành cho y.
Người vừa nói là Hùng. Còn gọi là Hùng Tít, Hùng
16 Bùi Ngọc Tấn
Chày trong băng “Cơn lốc đường 5”, án hai mươi gậy(1), mới ở chưa được một năm, vào tù lần này là lần thứ ba, hoàn toàn xãng pha mi(2), không một người thân thích. Hùng nghiêm nét mặt nhìn quanh cử tọa và nhìn vào con chuột, mồm dẩu ra mổ mổ về phía nó như cố làm cho đồ ngu ấy hiểu được cái họa ghê gớm sắp ập xuống đầu nó:
- Chít chít. Chút chút. Chụt chụt. Chí chụt. Chụt chít. Chụt chít chụt. Chít chít. Chết.
Chờ dứt trận cười, anh thợ điện mới ra tay. Phải nói con chuột rất khỏe. Không ai ngờ con chuột nhỏ mà có sức chịu đựng như vậy. Nó oằn, nó giãy. Nó quăng lên quật xuống. Nó vãi cứt vãi đái. Vãi cả tinh trùng. Nhưng khi sợi dây điện rời ra mắt nó lại đã long lanh.
Cuộc vui không biết còn kéo dài đến bao giờ nếu không có một hồi kẻng vang lên. Kẻng cấm. Đã đến giờ đi ngủ. Đã đến giờ mặc niệm tới gia đình. Tiếng kẻng làm mọi người ngơ ngác:
- Đã chín giờ rồi cơ à?
- Nhanh quá nhỉ.
Lần đầu tiên trong tù thời gian đi nhanh. Phiên tòa vội giải tán. Ruổm nhận lại con chuột còn sống nguyên
1. Hai mươi năm.
2. Sans famille: không gia đình (tiếng Pháp).
Một tối vui 17
tuy đã mệt lử và một véo thuốc lào to bằng quả cau, trả vào suất thuê con chuột.
Mọi người vội mắc màn. Rồi chen chúc xô đẩy nhau trong nhà mét. Và chui vào màn. Đèn điện vụt tắt tối om nhưng niềm vui vẫn theo vào tận trong màn. Những tiếng cười khe khẽ trong bóng đêm:
- Hùng ơi. Mày học tiếng chuột bao giờ đấy? - Công nhận con ấy khỏe thật. Mấy lần đã tưởng con ấy chết hẳn. Thế mà lại giãy.
- Đ. mẹ. Nó phụt cứt vào giữa mặt con nhà Thịnh Cốc. - Ruổm ơi. Vứt đi thôi. Chuột chạy điện ăn vào ung thư đấy.
Im lặng lâu. Tưởng đã ngủ cả.
Lại tiếng thì thào:
- Cứ thấy cái gì trăng trắng tia ra. Không phải nước đái. Không phải cứt. Kinh thật đấy.
- Nó lại nghĩ ra Chí Văn Chuột là cháu ruột Chí Sình Quay thì thánh thật.
Và tiếng cười khinh khích cố nén.
Đêm nay khi đi ngủ người ta không mặc niệm tới gia đình.
Đêm nay người ta chìm vào giấc ngủ với những điều buồn cười và thích thú đến thế.
18 Bùi Ngọc Tấn
Cún
Cún là hàng xóm của tôi. Tôi chỉ sống bên cạnh Cún
có một năm thôi. Đó cũng là một năm duy nhất Cún có mặt trên cuộc đời này, là cả cuộc đời của Cún. Giờ đây Cún đã biến mất, không để lại một dấu vết gì. Số phận Cún như vậy, một số phận đen đủi. Không được chọn thời, Cún sinh vào những năm gian khổ nhất của nước ta. Không được chọn chủ, Cún sống với người hàng xóm của tôi. Mà trái tim Cún lại mang một tình yêu lớn. Những yếu tố đó khiến Cún là một con chó bất hạnh.
Cún 19
***
Quê Cún ở một làng ngoại thành. Cún đông anh em. Cún là đứa phải phiêu bạt sớm nhất. Hoàn toàn ngẫu nhiên chứ không phải do Cún có bộ lông đẹp hơn hay bụ bẫm hơn anh em Cún. Năm con chó con cùng một gam màu (tuy sắc độ có chênh lệch nhau). Đó là màu vàng của mẹ. Chúng mũm mĩm như nhau.
Chủ Cún là một đội trưởng sản xuất trong hợp tác xã, nuôi mẹ con Cún không đến nỗi nào. Mẹ Cún đủ sữa, Cún bú no, nằm ngủ và nô đùa. Cứ thế cho tới một hôm, Cún cùng anh em đang thơ thẩn chạy chơi trong sân, tập đánh hơi những vết chân người, dọa đàn gà mới xuống ổ thì Cún bị nhấc bổng lên, cho vào cái rọ con. Tất nhiên Cún chưa hiểu ra sao. Cún kêu cứu, Cún gọi mẹ, gọi các anh chị. Bằng cách của Cún.
Buổi chiều hôm ấy thật khủng khiếp với Cún. Cún bị nhốt trong rọ. Cún rên lên vì sợ hãi. Đi đường, nó sợ nhất ổ gà. Đến thành phố, nó sợ nhất ô tô.
Người đèo Cún là ông “xuất khẩu” ở tầng dưới nhà tôi, anh ông đội trưởng. Ông xách cái rọ lên gác. Trên gác chỉ có hai hộ. Nhà tôi và nhà anh Trung. Cún được mang tới nhà anh Trung. Ông “xuất khẩu” bảo:
- Nó biết ăn rồi đấy.
Chị Thanh, vợ anh Trung hôm ấy cũng từ nơi sơ tán về nhà. Nhìn con chó con run rẩy, chị hỏi: “Hết bao nhiêu tiền đấy hở ông?” Ông “xuất khẩu” đáp: “Tiền nong gì. Tôi góp giống, ông bà nuôi. Coi như chung”.
20 Bùi Ngọc Tấn
Từ đấy Cún sống với người hàng xóm của tôi, và rồi chính Cún cũng trở thành hàng xóm của tôi. Tôi, một anh chàng viết báo tỉnh lẻ, có một số bài báo được mọi người để ý đến. Nhà tôi khách khứa nhiều. Tôi giao thiệp với nhiều loại người, do nghề nghiệp và do tuổi trẻ. Từ một giáo viên, tôi quen cả ông chú anh ta. Hai chú cháu cùng đến nhà tôi, chuyện trò tâm đắc. Nhưng lúc ra về, chờ ông chú xuống thang, người cháu nán lại nói với tôi:
- Ông chú tôi gì cũng tốt, nhưng riêng chuyện tiền nong, anh tuyệt đối không tin nhá! Tôi trót nói anh viết khỏe, nhiều nhuận bút lắm.
Tôi biết vậy. Ít lâu sau, tôi ốm nằm bệnh viện. Thời đó nội quy bệnh viện chặt chẽ. Không ai được vào phòng bệnh nhân. Cũng như không ai thắt cravate. Tất cả còn đang thịnh kiểu đại cán. Ấy thế mà tôi trông thấy một người thắt cravate, sải những bước dài về phía giường tôi. Từ xa, người ấy đã reo lên:
- C’est toi? Tuấn! (Cháu đấy ư? Tuấn!)
Đó là ông Vịnh, chú anh bạn giáo viên của tôi. Tay ôm gói quà, ông đến thẳng giường tôi, thoải mái, tự tin, trước bao cặp mắt tò mò, thán phục của các bệnh nhân. - Sao chú vào được?
- Thế mới tài chứ!
Tôi xúc động vì nhiệt tình của ông Vịnh tuy vẫn nhớ lời dặn của cháu ông.
Cún 21
Tôi xuất viện, ông Vịnh lại đến nhà chơi. Chúng tôi uống trà. Thấy anh Trung đi ngang qua cửa, tôi gọi: - Anh Trung! Vào uống nước đã.
Anh cười:
- Tí nữa mình sang. Cứ tiếp khách đi.
Và anh trở về nhà anh, cái cửa liền ngay cạnh. Ông khách của tôi bưng chén nước lên môi sững lại. Dường như toàn thân ông tê liệt:
- Trung, Đức Trung. Trước làm bên công an phải không?
Tôi gật đầu:
- Vâng.
Ông khách của tôi thè lưỡi dài tới tận cằm. Và đột ngột ông đứng lên chào tôi, vội vã xuống gác. Từ đấy ông vĩnh viễn không quay lại nhà tôi. Tôi đem chuyện ấy hỏi anh Trung. Anh Trung cười ầm lên:
- Vịnh ở Phố C.B. chứ gì? Thằng ấy lạ lắm, nó làm chúng tớ một vố đau.
Và anh kể cho tôi nghe một chuyện lạ lùng. Khi mới tiếp quản thành phố được ít ngày, có một người đứng tuổi đến Sở công an đầu thú. Anh ta nhận là gián điệp của Ngô Đình Diệm cài lại, có nhiệm vụ tổ chức một mạng lưới hoạt động từ phía Bắc sông Bến Hải trở ra. Sở công an đã dành cho anh ta một biệt thự, một ô tô con và tất nhiên rất nhiều tiền để anh ta mời khách. Để rồi sẽ cất một mẻ vó tóm gọn. Người đến, người đi. Xe ô tô, xe
22 Bùi Ngọc Tấn
Vespa, xe đạp. Tiệc lớn, tiệc nhỏ linh đình. Anh ta cũng tự lái ô tô đi các nơi. Hà Nội, Nam Định, Thái Bình. - Cuối cùng chúng tớ bắt nó ở Quảng Bình, khi nó định vượt cầu Hiền Lương.
Người đánh lừa Sở công an là ông Vịnh!
- Chính tớ hỏi cung nó. Nó chỉ thích tiệc tùng, ô tô nhà lầu thế thôi. Chẳng gián điệp cái con mẹ gì. Thảo nào thấy anh, ông Vịnh lè lưỡi dài đến thế. Anh Trung ít kể về mình mà tôi cũng ngại hỏi. Lĩnh vực công tác của anh có nhiều điều không được lộ ra. Tôi chỉ biết anh là người đã tham gia cách mạng từ trước tháng 8-1945, anh đã bị Tàu Tưởng bắt kết án tử hình. Một đồng chí ta vào tận nhà giam thăm, động viên và hỏi anh có cần gì không. Anh trả lời:
- Chết cho Đảng không ân hận. Chỉ xin ít thuốc lá hút. Ở xà lim buồn lắm.
Anh nhận được chục gói Basto. Hút chờ chết. Nhưng rồi anh được chúng tha. Đảng đem vàng chuộc anh. Người anh từ ấy nhiều sẹo, chúng đã tra tấn anh.
Nhìn anh cởi trần, tôi nói đùa:
- Thật cứ như Grigori(1). Sẹo cũng nhiều. Huân chương cũng lắm.
1. Nhân vật chính trong Sông Đông êm đềm, tiểu thuyết của M.Sholokhov (Liên Xô cũ), Nobel Văn học.
Cún 23
Cũng như nhà tôi, nhà anh Trung đông khách. Nhưng không như nhà tôi khách tạp, khách tới nhà anh toàn những người bạn trong hàng ngũ của anh, những người đã được thử thách, tôi luyện.
Một ông phó giám đốc, thời trước cách mạng đã nhiều năm sống ở Sở thú Sài Gòn bằng cách ăn chung khẩu phần thịt bò của hổ. Một chủ nhiệm công ty bị phỉ bắt ở biên giới, trên đường chúng giải đi, lăn xuống vực sâu trốn thoát. Hai liên lạc của anh Trung thời chống Pháp chuyên đem báo cáo ra vùng tự do. Báo cáo được cho vào một ống tre. Có lần gặp Tây đón đường, hai cậu liên lạc lúc ấy còn là trẻ con, giả cách đánh nhau. Nghĩa là đấm vào mặt nhau thực sự, lăn xả vào mà đấm. Chung quanh, bọn lính Pháp reo hò cổ vũ: Tapez fort! (Đánh mạnh vào!) Rồi một đứa thua khóc mếu bỏ chạy. Đứa kia đuổi theo cho đến... vùng tự do.
Thỉnh thoảng lại có một ông khách to lớn từ Hà Nội về. Đó là vị xứ ủy Bắc Kỳ năm 1936, người đã đi thuyền buồm buôn gạo sang Trung Quốc, làm công tác tài chính cho Đảng và hiện đang giữ một trọng trách ở Thủ đô. Rồi ông bà chủ nhà khi chị Thanh tản cư ở nhờ. Cả những người được anh Trung giúp đỡ...
Nhà người hàng xóm của tôi lúc nào cũng vang lên tiếng cười. Anh chị vốn là người hiếu khách. Có một tập quán đẹp: Mời bè bạn ăn giao thừa. Tiệc rượu tới khuya. Trước giao thừa, khách về. Khách sẽ là người tự xông nhà mình, khi tiếng pháo giao thừa nổ.
24 Bùi Ngọc Tấn
Cún đến ở với anh Trung vào lúc anh không còn một người nào lui tới. Anh đã thuyên chuyển công tác ba lần, và bây giờ thì nằm ở nhà gần một năm nay. “Tổ chức chưa bố trí được”. Tất nhiên anh vẫn được hưởng nguyên lương.
Chỉ còn Cún. Vắng teo các ông giám đốc, các ông trưởng phòng, và những người bạn gắn bó của anh. Trong cái thành phố tỉnh lẻ này, người ta sớm biết mọi chuyện. Người ta biết anh đang bị nghi vấn về chính trị. Thời gian anh bị Tàu Tưởng bắt, tại sao lại được tha? Đã đành rằng ta chuộc bằng vàng, nhưng có phải chúng tha tất cả đâu. Vẫn còn một số đồng chí bị chúng bắn.
Anh phải chuyển khỏi ngành công an, sang làm trưởng phòng ở Sở N. Ở đây, anh vướng mắc với ông giám đốc - là thành ủy viên - về một số chủ trương công tác. Anh bị chuyển sang Sở K. Tại đây anh không thể chịu đựng được một cán bộ của anh sống bằng cái lưỡi. Nhưng người cán bộ ấy lại là chân tay ông bí thư đảng ủy. Anh, “có truyền thống mất đoàn kết”, được tổ chức gọi lên giao nhiệm vụ xây dựng một công ty mới. Anh tìm đọc sách báo, tài liệu trong nước, ngoài nước. Anh tìm trụ sở. Anh viết chức năng nhiệm vụ, đề cương tổ chức... Đến khi công ty ra mắt, người ta không mời anh.
Anh nằm ở nhà một mình. Vợ anh đi sơ tán. Anh chị vốn không con. Mọi người quên có anh vẫn sống trên cuộc đời này. Kể cả ông giám đốc đã từng ăn chung thịt bò với hổ. Cả ông chủ nhiệm bị phỉ bắt đã thoát chết
Cún 25
một cách thần kỳ. Cả hai người liên lạc cũ bao lần vượt qua họng súng của bọn Pháp. Cả những người được anh giúp đỡ.
Lúc đó, Cún đến với anh.
Ở với anh Trung, Cún làm quen với mội thứ mùi mới mà khi còn ở nhà ông đội trưởng nó chưa được biết: Mùi giấy và mùi mực in. Cũng như tôi, anh Trung nằm luôn xuống sàn, chiếc sàn gỗ lim làm từ thời Tây, lau bóng thẫm. Từ ngày nghỉ, anh chỉ còn mấy việc: Lau sàn, đọc báo, nấu cơm. Về mùa nực anh nằm luôn xuống sàn, còn mùa lạnh rải thêm cái chiếu. Sách báo trong nước, ngoài nước đầy chung quanh chỗ anh nằm. Anh đọc hay không đọc nào ai biết. Bởi vì có lúc anh như nửa thức nửa ngủ trước một tờ tạp chí. Mắt anh vẫn mở nhìn vào một trang hàng tiếng đồng hồ. Đôi mắt bất động. Dáng nằm nghiêng bất động. Bàn tay đỡ tờ tạp chí bất động. Không. Người ta không đọc như vậy.
Cún cứ tha thẩn giữa những mê hồn trận của sách báo, của tư tưởng. Anh như choàng tỉnh khi chợt nhìn thấy Cún. Nét mặt anh trở nên linh hoạt. Anh gọi “Cun... ún!” (Giọng anh âu yếm như 25 năm sau tôi gọi đứa cháu ngoại của tôi. Cháu cũng được gọi yêu là Cún). Con chó đang ngửi một quyển sách mỏng. Vốn khôn ngoan, nó hiểu rằng không được cắn xé những tờ giấy đó, tuy nó rất muốn lấy răng dứt thành những mảnh vụn rồi cào tung lên mà đuổi bắt.
Nó nhìn anh chờ đợi.
26 Bùi Ngọc Tấn
- Mang quyển sách lại đây.
Nó làm theo lời anh, nhưng là con chó ham nghịch, lẽ ra phải đem quyển sách đến cho anh, nó lại để quyển sách ở xa, đặt một chân lên trên, mắt long lanh nhìn chủ. Hiểu ý nó mời chào vào một cuộc vui, anh Trung xoài tay về phía con chó.
Nhanh hơn, nó đã ngoạm quyển sách, chạy tạt sang một bên. Nó lại nhún người xuống rất đẹp, tránh cái chộp nữa của anh. Rồi nó lao qua háng anh, vọt ra phía sau, choãi bốn chân, áp cái bụng no căng sát sàn, như sẵn sàng bật đi, mồm ngậm quyển sách mỏng, cái đuôi xinh xinh, bé tí đảo lia lịa. Anh cười như trẻ thơ:
- Cún. Mày trêu bố đấy hở. Được rồi!
Anh chơi trò đuổi bắt với nó nhưng chưa bao giờ thắng. Tới lúc mệt, anh ngồi xuống, vẫy nó: - Thôi. Cún đưa đây.
Nó bước lại phía anh, thả quyển sách vào lòng anh, nằm giơ bốn chân ngắn cũn lên giời. Anh cầm cái chân bé bé của nó vật đi vật lại:
- Mày làm rách quyển sách này, tao phạt, nghe không. Con chó con thở mạnh vì nô đùa. Nó không hiểu những lời anh nói, cũng như nó không hiểu được nó đã đem lại nguồn vui cho chủ như thế nào. Nụ cười đã thấy nở trên gương mặt buồn chán, trải đời của anh. Nếu có một lúc anh quên được nhiều điều, thì đó là lúc anh chơi với Cún. Chính anh cũng không thể ngờ được rằng Cún
Cún 27
lại có một vị trí như thế trong cuộc sống của anh, cuộc sống của vợ chồng anh.
Anh khoe về Cún với tôi, với chị Thanh mỗi khi chị từ nơi sơ tán về. Anh nói đến Cún như nói đến một đứa trẻ. Anh tự hào về tình bạn giữa anh và nó, về những điều anh dạy dỗ nó như khi anh vắng, nó cứ nằm nguyên ở cửa đợi anh. Anh đánh mất chùm chìa khóa, nó tìm được ở ngoài vườn, ngậm leo lên gác đưa cho anh.
Chị Thanh yêu Cún theo cách suy nghĩ của chị: Cún là người bạn chung thủy của chồng chị, là nguồn vui của chồng chị. “Nó làm anh ấy dịu thần kinh”. Đó là điều chị không làm được vì chị ở nơi sơ tán.
***
Giờ Cún đã là một con chó trưởng thành. Bộ lông màu vàng nhạt lúc nhỏ, đã thay bằng màu vàng cháy. Ngực nở, bụng thót, nó lao đi trên sàn và đột ngột khựng lại trước những cái ghế dựa, móng chân cào trên sàn sào sạo. Cái đuôi cong hình trôn ốc mập mạp. Hàm răng trắng nhởn, nhọn hoắt đớp gọn những cái kẹo anh Trung tung ra đang rơi trong không khí.
- Cún! Lại đây.
Cún vẫy đuôi ngoan ngoãn bước đến, ngồi dưới chân anh. Anh kẹp đầu nó vào giữa hai đùi, vuốt dọc xuống sống lưng. Nó lim dim mắt, hít mùi quần áo, mùi mồ hôi quen thuộc. Nó không biết chủ nó buồn, nhưng nó hiểu
28 Bùi Ngọc Tấn
tính chủ. Anh Trung có thể ngồi hàng giờ nhìn ra bầu trời, bất động. Những lúc ấy nó cũng nằm im chờ anh. Anh ngồi nhìn mãi trời xanh, tìm ở đó một niềm hy vọng, một lời giải đáp cho cái thực tại đáng buồn và thật không ngờ đến này. Thỉnh thoảng anh thở dài. Đáp lại tiếng thở dài của anh, Cún quất đuôi khe khẽ trên sàn gỗ. Nó biết, những lúc anh ngồi như vậy, nó không có chỗ trong anh.
Rồi anh chống tay đứng lên. Cún chỉ đợi có thế. Nó đứng dậy nhẹ nhàng, không một tiếng động, cái đuôi vẫy vẫy như muốn hỏi:
- Chúng ta làm gì bây giờ?
Hình như anh chợt nhận ra Cún. Cặp mắt mệt mỏi của anh vui lên:
- Cún. Tắm.
Thế là Cún lao vút ra ngoài, chạy xuống bể nước, chờ sẵn.
Tình bạn giữa anh và Cún là như vậy. Cả hai đã mấy lần ngồi dưới hầm trú ẩn. Tiếng máy bay gầm rít và tiếng bom, tiếng rốc két nổ gần. Trời đất như vỡ ra. Anh Trung ôm chặt lấy Cún. Nó run rẩy nép vào anh trong tiếng súng phòng không rền rĩ và bầu trời rung chuyển.
Tình chó ngựa. Cún không rời anh.
Ở Cún có hai bộ phận biết nói: Đôi mắt và cái đuôi. Chúng thể hiện được mọi tình cảm với chủ. Bữa ăn của anh Trung thật đơn giản. Chị Thanh theo
Cún 29
cơ quan đi sơ tán. Anh luộc mì hòa nước mắm. Anh và Cún ngồi đối diện, dưới sàn. Người bát nhỏ chó bát to. Anh vừa ăn vừa trò chuyện với Cún:
- Ăn nhanh thế?
- Hết tiêu chuẩn rồi đấy.
Tôi, vợ con cũng đi sơ tán, sống độc thân, bị hấp dẫn bởi “câu chuyện” bên hàng xóm cũng bưng nồi ngô bung sang “góp cỗ” cho vui.
- Ăn ngô của chú Tuấn không?
Con chó ve vẩy đuôi, nhìn nồi ngô vàng suộm. Điều đó có nghĩa là nó vẫn muốn ăn nữa.
- Thôi nhé. Bụng căng lắm rồi. Ăn nữa bội thực mất. Nói vậy, nhưng chiều Cún, anh vẫn múc thêm ngô vào bát của con chó và nói với tôi:
- Thì ra cậu vàng cậu ấy ăn khỏe hơn cả tôi ông giáo ạ. Chúng tôi cười vang. Đó là câu nói của lão Hạc trong truyện ngắn Nam Cao. Lão Hạc bạn tôi thời nay không như lão Hạc thời trước. Lão Hạc hàng xóm của tôi không nghèo đến mức không nuôi nổi con chó. Ngoài cơm, mì, ngô những thứ đong được ở cửa hàng mậu dịch, anh còn cho nó nhiều món ăn khác. Khi cái kẹo, khi que kem. Khi quả ổi, quả chuối. Anh mang quà về cho nó như bà mẹ nhớ mang quà về cho con nhỏ. Anh tung lên, Cún đớp chính xác gọn gàng. Tiếng răng va vào nhau khô gọn.
***
30 Bùi Ngọc Tấn
Đã lâu lắm nhà anh Trung mới lại có khách. Đó là ông chủ nhiệm đã thoát khỏi tay phỉ, một trong những người bạn thân nhất của anh. Hai người đã bao lần cùng nhau nằm hầm địch hậu, phá vây ra vùng tự do, sống chết có nhau.
Thấy ông đến, tôi nghĩ cuộc đời cũng vẫn còn chưa đến nỗi. Vẫn còn có cái gì đó làm cơ sở để ta tin ở cuộc sống. Vẫn còn một chút nổi lên của phẩm giá con người. Ông chủ nhiệm vẫn giữ được nụ cười tự tin và tiếng nói như lệnh vỡ. Cún gầm gừ. Lông dựng lên. Nó chưa từng thấy người này đến nhà chủ nó. Thấy con chó lực lưỡng, dữ tợn, ông chủ nhiệm sững lại, hoảng hốt:
- Nó có cắn không ông?
Anh Trung mắng chó, mời khách vào nhà. Anh chưa đoán được mục đích cuộc thăm viếng này.
- Anh lại chơi, hay có việc gì.
- Lâu quá. Lại thăm anh chị thôi.
Cún nằm ngay dưới ghế anh Trung, mắt khép. Cái kiểu nhìn xéo ấy như muốn bảo: “Tôi vẫn theo dõi ông đấy. Ông đừng quên có tôi ở đây”. Một cái nhìn cảnh giác và lãnh đạm.
Ông chủ nhiệm không để ý đến con chó. Ông rút ra một tút thuốc Điện Biên, hai gói chè Ba Đình để lên bàn nói xuề xòa:
- Của thằng Tòng nó cho đấy. Đưa ông hút cho đỡ buồn.
Cún 31
Tôi nhìn món quà hấp dẫn ấy (chúng tôi toàn hút thuốc Trường Sơn hay tắt và đắng ngắt). Rồi lại nhìn anh Trung như muốn mừng cho anh. Rằng tình bạn vẫn là tình bạn. Một tình bạn đã qua thử thách. Nhưng tôi thấy anh Trung nhíu mày, mặt thoáng vẻ cảnh giác.
Thấy câu chuyện có thể đi vào chiều hướng riêng tư, tôi đứng dậy ra về, viết nốt bài bút ký về trung đội tự vệ nữ bắn rơi máy bay Mỹ. Tôi cố tập trung vào đoạn khó nhất. Đoạn viết về Ý Nhi, cô tự vệ đã nói với tôi: “Chiếc F 105 lao thẳng xuống trận địa chúng em. Em cho một điểm xạ dài”.
Bỗng tiếng anh Trung quát lên:
- Quay lại. Tôi đã bảo anh cầm về mà.
- Có gì đâu. Biếu anh hút thôi.
Hai người giằng co nhau ở hành lang. Anh Trung ấn tút thuốc, gói chè vào tay khách. Mặt người khách đỏ lên. Còn mặt anh Trung tái lại.
- Anh đến chơi với tôi là quý. Có việc gì cần anh cứ lại. Làm được việc gì tôi sẵn sàng.
Người khách xuống thang. Anh Trung sang tôi, theo sau là Cún, cái mặt hún hởn. Vẫn chưa hết xúc động, anh Trung kéo ghế ngồi. Mặt anh tối sầm, điếu thuốc đã tắt trong tay run run.
- Nó sắp được đề bạt phó giám đốc sở, nhưng có thằng nào tố cáo...
32 Bùi Ngọc Tấn
Tôi buông bút, gác lại Ý Nhi và trung đội tự vệ nữ cùng chiến công bắn máy bay Mỹ của cô.
- Nó xin mình chứng nhận, chả là...
Dần dần tôi đã hiểu đầu đuôi câu chuyện. Thật đơn giản. Ông chủ nhiệm công ty cùng trong tổ công tác địch hậu với anh. Năm 1949 ông bị địch bắt. Anh Trung được lệnh chuyển hết cơ sở hoạt động đi nơi khác, để đề phòng ông ta không chịu được tra tấn, khai ra với địch.
Nhưng sự đề phòng ấy là thừa. Ông không khai. Bằng chứng là cơ sở ta vẫn nguyên vẹn.
Là một chủ nhiệm công ty có khả năng, tận tụy và tháo vát, ông được đề bạt phó giám đốc sở. Nhưng có những người (có thể vì trung thực hoặc ghen ghét) tố cáo ông đầu hàng địch, khai báo...
- Chỉ có mình và ông Tâm xác nhận được thôi vì cùng trong một tổ. Ông Tâm bị phục kích chết năm 1952. Buộc lòng nó phải đến với mình. Mới đây gặp nhau ngoài đường, nó giả cách quay đi...
Tôi khuyên can anh:
- Cũng nên thông cảm với người ta. Người ta sợ... - Nó sợ... Mình có nói gì đâu. Nhưng sao lại chè thuốc. Nó trả công mình à. Hừ, bây giờ chúng nó sống theo cách ấy...
Anh vẫn còn giận dữ. Cún lại đã nằm dưới gầm ghế anh ngồi. Mỗi tiếng anh nói to, Cún ve vẩy đuôi như biết lỗi.
Cún 33
Mà Cún có lỗi gì đâu.
***
- Chú trông con chó giúp tôi. Tôi đi Hà Nội vài ngày tôi về.
Anh Trung không nói đi Hà Nội có việc gì, nhưng tôi đã đoán ra: Anh đi gặp những người có trách nhiệm, những người quen biết anh, trình bày về trường hợp của anh. Mấy hôm nay, thấy anh ngồi viết miệt mài. Rồi anh lục cặp tìm giấy tờ, ngắm nghía những tấm huân chương. Tôi chúc anh đi gặp nhiều may mắn.
Con chó sang ở với tôi. Nó nhớ anh, mặc dù tôi rất chiều chuộng nó. Nó biết nó đi ở nhờ, cả ngày nằm dưới gầm giường, ghếch đầu lên chân trước mắt lim dim.
Chiều hôm sau, tự nhiên nó đứng lên. Bốn chân run rẩy, đầu ngẩng cao, hai cánh mũi phập phồng. Bất chợt nó sủa. Mắt nó long lên. Nó rít ấm ức, nhe răng dọa tôi. Và nó lao xuống gác. Tôi chạy theo nó. Nó vọt thẳng ra phía đường. Anh Trung đang bước vào. Nó dựng lên, hai chân trước vịn vào ngực anh, làm anh sững lại.
- Cún.
Không có gì ngăn cản được nó. Nó quay tròn chung quanh anh. Nó lách vào giữa hai chân anh, nó cắn vào ống quần anh.
Nhìn nét mặt anh, tôi hiểu tất cả, nhưng vẫn hỏi: - Anh đi có được việc gì không?
34 Bùi Ngọc Tấn
Anh lắc đầu buồn bã gần như tuyệt vọng:
- Không. Không gặp được ai.
Tôi không biết nói thế nào để động viên anh. Thật xấu hổ khi chỉ đứng nhìn người khác trong cơn hoạn nạn. Cún đã giúp tôi. Nó cọ vào chân anh. Cả nửa thân phía sau đảo đi đảo lại. Cái đuôi cụp xuống, nó vừa ngước đôi mắt long lanh nhìn anh, vừa rên ư ử như đau đớn.
Anh Trung ngồi thụp xuống, ôm lấy con chó: - Mừng bố về hử. Nhớ bố hử. Ngoan lắm.
Sau chuyến đi đó, anh ngồi nhìn trời nhiều hơn. Và anh có một thói quen mới: Nhìn sẹo. Như một nhà triệu phú bỗng mất hết của cải, ngồi trước những két sắt rỗng không, anh ngắm nghía những vết sẹo của mình. Anh mân mê vết hoắm sâu bên sườn phải, nơi đó có một dẻ xương sườn bị gãy, kỷ niệm một trận chống càn. Ngón tay trỏ của anh đưa đi đưa lại trên vết sẹo ôm lấy cổ chân bóng và trong như một cái vòng: Kỷ niệm cùm xích xà lim Tàu Tưởng...
Một buổi chiều hè, nóng như sắp bốc cháy tất cả, anh kêu lên:
- Trời ơi! Chịu làm sao nổi.
***
Cái ý nghĩ viết về Cún nảy sinh trong tôi vào một tối mùa thu.
Cơn bão muộn nhưng tới cấp 10 làm trời đất quay
Cún 35
cuồng. Gió hú trên những giây điện và rít lên ngoài cánh cửa. Mưa dò, gió may từ chiều. Về tối gió càng mạnh. Đèn điện tắt phụt. May, thời chiến chúng tôi có sẵn đèn dầu. Đối diện với ngọn đèn dầu vàng vọt, tôi nghe tiếng anh Trung nói với con chó:
- Sợ à. Bão đấy.
- Đồ cao bồi. Mới tám tháng đã để râu rồi!
Tiếng trò chuyện ấy kéo tôi sang anh. Anh nằm nghiêng giữa sàn nhà, cái chăn sợi đắp ngang, phía trên tới cổ, phía dưới thò ra hai cẳng chân gầy guộc. Tôi nhìn quanh nhà: Không thấy Cún.
- Cún đâu anh?
Thay cho câu trả lời, anh cười và vạch cái chăn sợi. Hai tai nhọn, cặp mắt chớp chớp và cả cái đầu Cún hiện ra ngay trên cánh tay anh. Người và chó nằm đắp chăn ôm nhau trong căn buồng trống.
Tôi se lòng vì sự cô đơn ấy của con người. Trời thì cứ gầm thét, cuồn cuộn sôi sục, như muốn cuốn đi tất cả. Tôi quyết định phải viết về Cún trung thực như tôi thấy, tuy chưa nghĩ được cái kết cục cho câu chuyện. Nhưng cuộc đời đã giúp tôi. Cuộc đời bao giờ cũng mới mẻ, không lặp lại.
Anh Trung lại thu xếp một chuyến đi Hà Nội. Anh đi. Rồi anh không về. Mãi mãi không về nữa. Chị Trung với chúng tôi đi tìm anh mấy tháng ròng. Chiến tranh. Bom
36 Bùi Ngọc Tấn
đạn trên đường. Tai nạn. Cạm bẫy. Cho đến nay anh vẫn chưa trở về. Anh vẫn là người mất tích.
Chị Thanh vẫn chờ đợi và hy vọng. Nhưng gần đây, chị đã lấy ngày anh đi làm ngày giỗ anh.
Anh đi được mấy ngày, Cún không chịu ăn cơm nữa. Cơm nóng có cả thịt. Chị Thanh đưa bát cơm vào miệng nó, dỗ dành:
- Ăn nào, Cún.
Cún quay đi. Rồi Cún bỗng đứng lên, chạy thong thả về phía cái chăn sợi. Nó ngửi. Có thể nói nó ngửi từng phân vuông một. Và nó nằm ghếch đầu lên cái chăn sợi ấy.
Cảnh tượng thật não lòng. Tôi chỉ mong chị Thanh khóc, nhưng nét mặt chị vẫn đanh lại, không cảm xúc. Ngày nọ qua ngày kia, bát cơm dành cho Cún mỗi bữa đều vẫn còn nguyên vẹn. Cún chỉ uống. Cún uống nhiều nước. Uống xong lại trở về nằm ghếch đầu lên cái chăn sợi. Một sáng, chị Thanh vừa mở cửa, Cún đã lao xuống thang. Cún vẫn xuống vườn đi vệ sinh mỗi sáng nên không ai để ý. Nhưng Cún không lên nữa. Chúng tôi đi tìm. Hoài công. Các nhà, các ngõ chung quanh không ai nói trông thấy Cún. Ông “xuất khẩu” đạp xe đi xa hơn cũng không thấy.
Chúng tôi hiểu rằng Cún đi tìm anh Trung. Cún vượt sao được đường trường. Biết chủ ở nơi nào mà tìm hở Cún?
Cún 37
Điều đó khiến chúng tôi càng thương Cún. Nó sẽ sống với bọn chó hoang. Nó sẽ bị người ta đánh chết. Có thể nó còn bị hóa dại nữa...
Hai hôm sau, vào lúc đêm khuya, khi tôi đang ngủ, bỗng nghe thấy ai đó lên thang. Tôi tỉnh ngay. Hồi hộp đến nghẹn thở. Hay anh Trung về.
Tiếng lên thang không đều, ngắt quãng, nặng nhọc như người lò cò. Rồi có tiếng cào cào ở cửa buồng anh Trung.
Tôi bật điện, mở cửa.
- Cún.
Cún lấm bê bết, bẩn thỉu, nằm ệp xuống đất, lưỡi thè dài đỏ như máu, thở dốc, mắt lấm lét nhìn trộm tôi. - Chị Thanh ơi! Cún.
Tôi và chị Thanh đứng nhìn con vật khốn khổ. Thấy căn phòng quen thuộc, Cún bật dậy nhưng như có ai đánh mạnh vào vai, nó sập xuống, ngực đập xuống sàn. Đuôi ve vẩy, nó nhìn chúng tôi như biết lỗi. Nó cố nhoai vào nhà, đau đớn, quằn quại, móng chân cào trên sàn sào sạo. Ôi! Nó đã lê như thế bao nhiêu đường đất để về nhà?
Chị Thanh bế nó lên:
- Giời ơi! Sao thế này hở Cún.
Mắt nó nhắm nghiền. Nó rên. Chị đặt nó xuống sàn. Nó lại cố đứng, lần này hai chân trước đứng lên được, nhưng hai chân sau trượt trên sàn gỗ.
38 Bùi Ngọc Tấn
Chị Thanh bưng cho nó bát cơm. Ngửi hơi cơm, nó ve vẩy đuôi. Rõ ràng nó đói. Nó cúi xuống ăn, nhưng lại đổ sập xuống. Có lẽ nó bị xe quệt vào. Hay có ai đánh nó.
Tôi vuốt lớp lông vàng bẩn thỉu của nó. Cặp mắt nó liếc ngang nhìn tôi. Đó là đôi mắt he hé, cam chịu. Chị Thanh khẽ cầm chân nó. Nhưng nó không chịu đựng được. Nó rên lên vì đau đớn.
Chúng tôi đều hiểu rằng nên để nó yên.
***
Liền hai ngày sau Cún vẫn không ăn. Số phận Cún đã được định đoạt. Ông “xuất khẩu” đưa đến hai anh lái chó. Nằm gối đầu lên chiếc chăn cũ, Cún ngửi thấy người họ, cái thòng lọng của họ sực mùi chó. Cún hiểu. Nhưng Cún không dậy được nữa, dù sau nhiều ngày không ăn, Cún vẫn là con chó to lớn.
Tôi trở về buồng mình, không dám nhìn cảnh Cún bị bắt đi.
Đứng lặng ở giữa nhà, tôi căng mọi giác quan ra nghe ngóng, mỗi giây dài như vô tận.
Tiếng Cún kêu lên. Rồi tiếng Cún nghẹn lại vì bị buộc mõm. Và im lặng. Tim tôi nhói lên.
Tôi thấy họ xuống thang. Tôi không thể không nhìn Cún lần cuối cùng. Cún bị trói ngược hai chân trước, cái chân mà chị Thanh vừa chạm vào, Cún đã run lên vì đau đớn. Hai người khiêng Cún xuống. Tôi cảm thấy
Cún 39
con ngươi ươn ướt của Cún nhìn tôi đờ đẫn. Đó là cái nhìn vĩnh biệt.
Ông “xuất khẩu” đi phía sau chép miệng:
- Tiếc quá. Không bán sớm được mấy ngày. Hôm nay mới bán, mất nửa tiền.
Tôi sang chị Thanh. Chị ngồi úp mặt xuống gối, về phía chiếc lò sưởi, bất động. Tôi ngồi im trên ghế nhìn chị. Nhìn chung quanh. Nhìn cái áo sơ mi cũ của anh Trung vẫn treo trên mắc. Nhìn cái bát Cún vẫn ăn. Rồi lại nhìn chị Thanh vẫn ngồi gục đầu xuống hai cánh tay khoanh trên đầu gối. Lâu lắm...
Chợt chị ngẩng lên. Tôi thấy chị đầm đìa nước mắt. Ngước đôi mắt sưng húp về phía tôi, chị nói: - Thế là hết cả rồi anh ạ.
28/4/1990 - 10/5/1990
40 Bùi Ngọc Tấn
Nghệ
thuật
đích
thực
Cơm áo không đùa với bất kỳ ai. Lại càng không
đùa với các nhà văn, nhà thơ. Nhất là vào cái thời cuối thập niên 80 (của thế kỷ trước), nền kinh tế cả nước đang chuyển từ hệ thống bao cấp sang kinh tế thị
Nghệ thuật đích thực 41
trường. Biến động mạnh từ suy nghĩ, quản lý, hàng hóa, giá cả tới bản thân giá trị đồng tiền.
Đình Kính, nhà văn quân đội với đồng lương đại úy (ngày ấy anh đeo lon bốn sao một vạch) mà phải cùng vợ nuôi hai con nhỏ đang đi học, đó là chưa kể bố mẹ già. Không dám ước vọng cao xa tivi, cát xét, tủ đứng, tủ li. Chỉ nghĩ đến cái ăn để tồn tại, có đủ tiền mua sách bút, đóng tiền học cho con và có đủ tiền mua được manh áo ấm cho bố mẹ, vợ con mỗi khi gió rét từ biên giới thổi về. Lại còn phấn đấu có một chút dự trữ chiến lược phòng khi ốm đau.
Phải có tiền. Tiền là tiên là phật, sức bật tuổi trẻ, sức khỏe tuổi già... Và cũng chỉ còn mỗi cách kiếm tiền: Viết thuê. Dùng nghề nghiệp của mình kiếm sống. Thôi thì đành gác lại những trang sách vẫn nghiền ngẫm nung nấu, những tác phẩm sẽ được viết ra bằng tim gan mình. Hãy để lại sau. Để đến bao giờ chưa biết, nhưng trước mắt là kiếm sống.
Đình Kính đã đi viết thuê và đã kiếm được tiền. Bữa ấy anh lang thang vào tận vùng rừng núi Đồng Nai, tìm ra được một ông giám đốc một lâm trường quốc doanh và cũng là một đồng hương. Ông là người đi đầu trong việc tháo gỡ cơ chế cũ, táo bạo, dám nghĩ dám làm, một người có thể tuyên dương anh hùng được mà bắt bỏ tù cũng được theo như quan niệm của thời đầu mở cửa. Anh đã hoàn thành một bộ phim về ông, về lâm trường. Phim đã chiếu cho lâm trường xem và còn được phát cả trên
42 Bùi Ngọc Tấn
màn ảnh nhỏ. Không thể diễn đạt được xúc động của lâm trường, của ông giám đốc khi thấy hình ảnh mình trên tivi. Với lâm trường, Đình Kính là một thiên tài, là hiện thân cho sức mạnh toàn năng của nghệ thuật. Phấn khởi đầy lòng, ông giám đốc nọ nhờ Đình Kính giúp cho một tập sách về đơn vị.
Nghĩ ngay đến những bạn bè cũng đói rách như mình, nhưng Đình Kính vẫn làm ra vẻ cân nhắc, đắn đo: - Sếp nói rất chính xác. Giấy trắng mực đen bình thường thôi nhưng vô cùng quan trọng. Nó đi vào từng gia đình, từng người. Nó đi vào chiều sâu lòng người. Nó đi vào thư viện. Con cháu chúng ta vào thư viện là sẽ biết cha ông chúng đã sống và làm việc như thế nào. Phim cũng quan trọng nhưng không thể ví với sách được. Nhưng đây là một việc khó khăn, một mình tôi không làm nổi. Phải vài người cùng làm mới bảo đảm được thời gian. Để kỳ này ra Hà Nội tôi nói khó với mấy anh ngoài ấy.
Ít ngày sau, Đình Kính đưa hai nhà văn khác cùng vào. Giám đốc rạng rỡ nét mặt khi được giới thiệu đó là hai nhà văn nổi tiếng, những cái tên ông đã nghe thấy từ lâu mà hôm nay ông mới vinh dự được gặp. Với thói quen của một người làm kinh tế, giám đốc cho thảo hợp đồng gồm những nội dung chủ yếu: Thời gian hoàn thành bản thảo là hai tháng, ăn nghỉ, tàu xe ra vào lâm trường lo, khi bản thảo được duyệt và thông qua, mỗi nhà văn sẽ được bồi dưỡng một chỉ vàng! (Giám đốc giải thích
Nghệ thuật đích thực 43
thêm: Phải quy ra vàng các đồng chí ạ. Nếu tính nhuận bút bằng tiền, tôi sợ thiệt cho các nhà văn. Ba trăm đồng tháng này là ba trăm, tháng sau còn trăm rưởi, tháng sau nữa chỉ còn một trăm. Cho nên ta cứ tính thành vàng, vàng bản vị, các nhà văn tán thành không? Nhất trí! Tiếng ba nhà văn đồng loạt cất lên). Mỗi người một chỉ vàng! Một tài sản khó mà hình dung được ngày ấy!
Như mở cờ trong bụng, ba nhà văn nhanh chóng dự các cuộc họp, nghe báo cáo, xuống các đội sản xuất, vào rừng vẩn vơ, nhìn suối chảy, nghe chim hót để lấy... không khí.
Ba người không viết ở lâm trường. Đích thân giám đốc đưa họ xuống biển, xuống Long Hải, một khu nghỉ mát sang trọng, yên tĩnh, cách Vũng Tàu hơn mười ki lô-mét. Chả là lâm trường còn liên doanh với một đơn vị du lịch và có những khách sạn sát biển. Ông giám đốc họp toàn thể cán bộ nhân viên khách sạn để giới thiệu ba nhà văn:
- Trân trọng giới thiệu với các đồng chí ba nhà văn quốc gia! Ba nhà văn nổi tiếng ở Hà Nội. Các đồng chí vào giúp chúng ta viết và xuất bản một tập sách về lâm trường. Đây là nhà văn Đình Kính mà các đồng chí đều đã biết. Đây, nhà văn Chu Lai, nhà văn quân đội kiêm kịch sĩ. Còn đây, nhà văn Nguyễn Quang Thân, tác giả nhiều tập tiểu thuyết, truyện ngắn mà các đồng chí đã đọc.
Các nhà văn lần lượt đứng lên, cúi đầu chào, nở nụ cười khiêm tốn, lịch sự, nụ cười ra mắt. Ông giám đốc
44 Bùi Ngọc Tấn
ôm vai từng người như những chiến hữu cánh hẩu trước bao con mắt kính phục của các nhân viên dưới quyền. Ông nói về việc bố trí phòng ở “mỗi người một phòng, trong phòng phải có cả bàn viết“, về tiêu chuẩn ăn, về lượng bia phải có hằng ngày, không được để các đồng chí ấy thiếu thốn cái gì:
- Còn khoản thuốc lá nữa. Các nhà văn hút nhiều, hút nặng đấy. Mỗi người một ngày một bao thuốc lá Jet. Nhớ là thuốc lá Jet. Các đồng chí ấy chỉ hút thuốc lá Jet. Đừng có mang Ba số đến. Đừng tưởng ai cũng thích Ba số cả đâu!
- Mỗi nhà văn một ngày một bao Jet! - Ông nhắc lại một lần nữa và nhìn lướt đám nhân viên của ông như nhắc họ chớ quên điều quan trọng ấy.
Đám cán bộ nhân viên xì xào:
- Mình thì cứ cho Ba số là nhất. Khách nào cũng Ba số. Những tiếng thì thầm ấy đến tai giám đốc. Ông cười, hài lòng. Còn anh chị em nhân viên khách sạn từ ấy nhìn giám đốc của mình với đôi mắt hoàn toàn khác: Sếp không chỉ là người quản lý tài ba táo bạo, mà còn là chiến hữu với các nhà văn lớn, những nhà văn quốc gia, hiểu biết cặn kẽ những điều nhỏ nhất trong sở thích của họ.
***
Ba nhà văn của chúng ta bắt tay vào việc bán chữ. Tất
Nghệ thuật đích thực 45
nhiên là sau khi tắm biển, uống bia, ăn sáng và phì phèo thuốc lá Jet.
Chu Lai, Đình Kính hút thử một hơi và ho sặc sụa. Cả hai đều không biết hút. Còn Nguyễn Quang Thân hút vào lại thở ra, không có tí khói nào lọt tới họng, phì phò như một cái bễ. Thân hút thuốc lào, Thân chịu được, không ho. Thân nhận trách nhiệm thỉnh thoảng làm một điếu trước đám nhân viên khách sạn. Ba phòng làm việc của ba nhà văn lúc nào cũng có ba bao thuốc lá bóc dở và có tàn thuốc trong ba cái gạt tàn. Nguyễn Quang Thân chẳng viết được một dòng nào, nhưng bù lại, Thân bập bập thuốc lá chăm chỉ. Cứ xuất hiện giữa đám nhân viên khách sạn là Thân bật lửa châm thuốc. Ác cái là loại thuốc Jet này quá nặng. Chẳng hiểu căn cứ vào đâu mà ông giám đốc anh hùng kia lại tuyên bố là các đồng chí ấy chỉ hút thuốc lá Jet. Đừng có mang Ba số đến. Đừng tưởng cứ Ba số là hay đâu. Không. Ba số hay lắm chứ đồng chí giám đốc ơi. Ba số có bập bập thế này cũng không ho. Ba số dễ bán. Giá cao. Bán ở đâu cũng được. Ba người đã đi chung quanh khu nghỉ mát, rụt rè hỏi han xem người ta có mua thuốc lá Jet không. Họ đều lắc. Ở đây không ai hút Jet. Ở đây người ta chỉ hút thuốc thơm. Ba số, Dunhill, bét ra cũng Capstan. Jet không bán cho ai được.
Không bán được, không hút nhưng vẫn nhận thuốc đều đặn. Một tháng đầu đã 90 bao thuốc Jet. Trừ ba bao để ở ba phòng cho Nguyễn Quang Thân hút nghi binh,
46 Bùi Ngọc Tấn
còn 87 bao. Chỉ trông cái túi du lịch phồng căng cũng đủ sốt ruột. Cho nên thật tỉnh người khi Chu Lai, nguyên chiến sĩ đặc công nước từ đâu chạy về khách sạn:
- Mình đã tìm được nơi bán thuốc lá Jet rồi. Chỗ này nó không mua thuốc gì khác ngoài thuốc Jet. Chuyện cứ như đùa. Cứ như thần thoại.
- Thật không?
- Ở đâu?
Chu Lai nhấn mạnh:
- Nó không mua thuốc gì! Nó chỉ mua thuốc Jet! Nó đang chờ mình ở cuối bãi tắm! Đi nhanh!
Thế thì thật rồi! Đặc công có khác! Giỏi thật! Cả ba ôm túi du lịch chứa đầy thuốc lá ra khỏi khách sạn. Ông chủ nhiệm khách sạn đang ngồi trong phòng Reception tươi cười:
- Vừa tắm rồi các nhà văn đã lại tắm nữa à? Máu thế? Đình Kính cười tít mắt:
- Biết làm sao. Lại thích bơi!
Cả ba bước nhanh ra bãi tắm, còn nghe tiếng trầm trồ của ông chủ nhiệm:
- Chịu mấy ông. Giữa trưa nắng thế này mà cũng rủ nhau đi tắm biển. Đúng là văn nghệ sĩ!
Ba nhà văn cuốc thẳng ra bãi tắm, cười rinh rích về phẩm chất nghệ sĩ của mình.
- Đâu? Nó đâu?
Nghệ thuật đích thực 47
Chu Lai chỉ tay về một chấm đen ở cuối bãi. Tới nơi, một thanh niên ngồi trên xe 67 chờ sẵn. Chu Lai ôm túi du lịch nhảy tót lên sau xe, vênh mặt nhìn hai người, đắc thắng. Xe vút nhanh phóng ngược trở lại. Cát bay mù mịt. Nguyễn Quang Thân, Đình Kính đứng nhìn theo mãi chiếc Honda 67 rũi bụi dọc bãi tắm và khuất vào khu khách sạn. Hai người rất ngạc nhiên thấy chiếc xe quay về ngay, lần này phóng nhanh hơn lần trước, tiếng rú rít lên giận dữ.
Từ trên xe, Chu Lai xách túi du lịch nhảy xuống, cái túi vẫn căng phồng như thế. Dừng lại một tí. Hình như là để cãi cọ. 67 phóng đi. Rồ ga. Thổi bụi vào mặt Chu Lai. - Sao? Sao lại quay lại?
- Không bán được à?
Chu Lai nhăn nhó:
- Tưởng bán ở đâu. Ai ngờ nó lại bán cho đúng khách sạn ba thằng mình ở!
***
Thuốc lá rồi cũng bán được. Đi xa hơn. Bán ít một. Giá rẻ. Thế thôi.
Còn lại là viết. Nhưng chỉ Chu Lai, Đình Kính viết. Nguyễn Quang Thân không. Không được chữ nào. Lại còn hay sang quấy nhiễu:
- Cách đây mấy năm tớ đi dự tổng kết của một ngành. Trong hội nghị có lựa ra một số ít cốt cán tin cậy cho đi
48 Bùi Ngọc Tấn
xem video. Video ngày ấy còn là của hiếm. Mấy ai được xem. Mình được chọn. Nhà văn nhé. Đảng viên nhé. Không được đi thì còn ai vào đấy. Mình vẫn ức cái dạo xem phim Chiến tranh và hòa bình. Cán sự ba mới được xem. Mình mới cán hai. Lần này thì không chệch được. Đúng giờ các đồng chí cốt cán xếp hàng một đi xem trước bao con mắt thèm thuồng ghen tị của các đại biểu khác. Bọn này hồi hộp đi không một tiếng động. Tới một cầu thang đã có người đứng chờ sẵn. Kéo rèm. Bấm đèn. Hất hàm ra hiệu để chỉ lối. Tới một thang gác khác. Lại kéo rèm. Lại đèn pin lập lòe, thì thầm: Các đồng chí đi lối này. Tối tối rợn rợn đến nỗi có lúc mình tưởng như đang đi xem thử bom nguyên tử.
Thân cười khặc khặc:
- Mà hôm ấy chiếu một phim rất vớ vẩn. Một băng tâm lý sướt mướt của Đài Loan.
Hôm khác Thân lại sang, mồm phì phèo điếu Jet: - Này. Tớ kể cho các cậu chuyện này...
Lần này bị cự tuyệt thẳng thừng:
- Thôi. Ông về cho người ta viết. Ông có muốn vỡ hợp đồng không thì bảo.
Thân về nhưng lại sang. Không cười mà cứ ấp úng: - Mình muốn nói với các cậu. Nhưng không biết có nên không. Mình cứ nói nhé.
Được khuyến khích, Thân mạnh dạn:
Nghệ thuật đích thực 49
- Mình nhớ Dạ Ngân quá. Không biết có cách nào kéo Dạ Ngân ra đây được không?
Đề nghị ấy được cả nhóm ủng hộ ngay. Có Dạ Ngân, chắc chắn Thân sẽ để yên cho hai người viết. Kính đặt vấn đề với chủ nhiệm khách sạn. OK. Nguyễn Quang Thân toại nguyện. Chu Lai, Đình Kính không bị quấy rầy, năng suất tăng hẳn.
Cứ thứ bảy ông giám đốc lại từ rừng xuống biển. Tiếng ông oang oang giữa đám nhân viên dưới quyền. - Chuẩn bị nhé. Hôm nay làm việc khuya đấy. Ông về duyệt những trang bản thảo vừa được viết trong tuần. Ông có tác phong làm việc dứt điểm. Duyệt từng phần. Và cuối cùng duyệt lại một lượt toàn bộ là xong.
- Tuần trước ăn gì rồi nhỉ. Cháo chim à? Hôm nay thay món khác đi. Làm món gì nhẹ nhưng lại có thể lai rai được. Gà à? Không. Có đồ biển gì không? Mới ăn cua xong à? Đồ biển ăn nhiều rồi à? Hay là ăn thịt nai rừng?
Cả khách sạn sôi động lên khi sếp từ rừng về với những mệnh lệnh oang oang. Họ biết thế là lại bao nhiêu trang sách, những dòng văn chương viết về họ, bạn bè họ, tuôn chảy từ những bộ óc nhà văn hẳn là rất đặc biệt và khác thường kia. Đã bao lần họ nín thở nhìn trộm qua cánh cửa khép, thấy những cái lưng cong cong, cái đầu bù xù cúi xuống và bàn tay cầm bút bò chậm chạp trên trang giấy. Ôi! Thật là cao cả thiêng liêng! Lại còn những
50 Bùi Ngọc Tấn
lúc các nhà văn ngồi thừ thượi nhìn vào những dòng vừa viết. Nhìn như muốn xuyên thủng giấy. Nhìn, mắt rỗng không. Nhìn đấy nhưng chẳng nhìn thấy gì. Cả khi họ đẩy cửa đem vào phích nước sôi mới. Viết văn, quả là ghê. Lao tâm khổ tứ, vắt óc, bại người, tổn thọ. Bây giờ mình đã nhìn thấy người ta viết văn rồi. Mấy ai được như vậy!
Vốn là chuyên gia trong việc viết thuê, Đình Kính, Chu Lai biết phải viết như thế nào. Phải có tình hình gay go. Phải có lúc tưởng như bế tắc. Phải có những đêm khuya trằn trọc trăn trở. Phải có những ngày dài bức xúc. Phải có tinh thần trách nhiệm. Những cuộc họp. Những phút giây loé sáng. Những dám nghĩ dám làm. Phải có đối thoại. Phải có tả cảnh. Không ai bảo ai, cả hai cùng thống nhất một văn phong. Đó là thứ văn không phải để xem bằng mắt mà để nghe bằng tai. Bởi vì ông sếp không xem. Ông sếp chỉ nghe đọc lại.
Tối nay làm việc đến khuya. Ba nhà văn quốc gia của chúng ta tề tựu đông đủ. Chu Lai ngồi cầm xếp bản thảo vừa hoàn thành trong tuần, rỗ rỗ xuống mặt bàn cho ngay ngắn, lật lật vài trang, nhíu mày chăm chú, hoặc cầm bút chữa một chữ nào đấy, có khi chỉ là tô lại một nét mờ, hoặc xem lại chỗ nào cần uốn giọng, cần nhấn mạnh, cần ngẩng đầu lên. Nguyễn Quang Thân khoanh chân vòng tròn, bắn một điếu thuốc lào, móp má kéo cho thật đã, để rồi sau đó có thể chăm chỉ thực hiện nhiệm vụ bật lửa bập bập thuốc lá Jet. Đình Kính hết
Nghệ thuật đích thực 51
nhìn mấy cô phục vụ bưng vào những bia, những nước ngọt, lại nhìn ông giám đốc tanh tách bật lửa ma nhê tô hút ba số. Sếp toàn hút ba số. Thế mà lại đi tuyên bố bọn mình chỉ hút thuốc lá Jet. Chẳng ra làm sao! Cũng may đã tìm được nơi bán. Ở đây người ta ít hút thuốc này lắm. Chỉ mấy anh xích lô, mấy chú xe lam. Mỗi ngày bán được vài bao là nhiều. Có, các chú cứ mang ra đây. Vài bao. Vài là ba. Vừa quá. Mỗi ngày bọn mình cũng chỉ ba bao.
Dù tiết mục duyệt bản thảo này đã được tiến hành mấy lần rồi nhưng vẫn cứ căng thẳng. Vẫn cứ hồi hộp. Căng thẳng hồi hộp cho đến khi sếp tuyên bố ta bắt đầu làm việc thôi các đồng chí nhé. Như chỉ đợi có vậy, Đình Kính tóm tắt những đoạn đã được duyệt kỳ trước và sau đó giọng đọc của Chu Lai bắt đầu một tối làm việc tới khuya.
Đình Kính kéo Chu Lai đi đánh thuê là có cân nhắc kỹ lưỡng. Không phải chỉ vì Chu Lai là một nhà văn đã thành danh, dễ dàng gây nên cú sét mến phục từ cái nhìn đầu tiên, cũng không phải Chu Lai từng là đặc công đã lăn lộn ở vùng này. Điều chủ yếu Đình Kính chấm Chu Lai là ở giọng đọc. Không chỉ lão luyện ở những chiêu văn hùng tráng , là một diễn viên kịch nói, Chu Lai có một giọng đọc không chê vào đâu được. Ấm. Vang. Âm. Sang sảng. Lăn vào lòng người.
Cái trò “đọc truyện đêm khuya” không là cái đinh gì với Chu Lai. Nhưng không được chủ quan. Dù chính là người viết ra nó, anh vẫn đọc kỹ lại một hai lần, để
52 Bùi Ngọc Tấn
thể hiện đúng tình cảm. Chu Lai như đã nhìn thấy trước hiệu quả của từng chữ phải nhấn mạnh, những chỗ tạm ngừng, những từ phải đọc uốn cong lên mà anh hình dung ra ngay từ khi còn đang cầm bút viết.
Ông giám đốc im lặng đốt ba số. Lắng nghe. Đình Kính, Nguyễn Quang Thân cúi đầu, thỉnh thoảng lại liếc trộm ông giám đốc, dò tìm phản ứng trên nét mặt đăm chiêu của ông. Sao ông ta lại chau mày. Đoạn này có gì không ổn đâu. Chỉ là nói về nghị quyết đảng bộ lâm trường thôi. Sao ông ta lại ngả hẳn người ra ghế lim dim mắt thế kia nhỉ? Hay ông ta ngủ. Kìa. Sếp đã cười. Sếp còn gật gật nữa. Chắc ăn rồi. Thắng rồi. Chắc chắn sản phẩm của mình đã làm vừa lòng sếp, đã được sếp duyệt, sếp OTK rồi. Mà không ưng sao được khi giọng oanh vàng của Chu Lai ngân nga: Rừng xưa lá úa. Nhưng những con người đến cùng rừng hôm nay đã thay lá cho rừng. Không phải đất trời, sự vận động của thời tiết, của bốn mùa đã làm nên điều kỳ diệu ấy. Mà chính là những con người (...) (...) Con đường mới mở trong rừng đâu phải chỉ làm bằng máy móc. Trước hết nó được làm bằng trí tuệ, bằng tinh thần trách nhiệm, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội của những người làm việc âm thầm không cần ai biết đến, lặng lẽ giản dị như những gốc cây rừng (...) (...) Ngồi trên chiếc xe lu lăn trên con đường xuyên rừng đang được hoàn thiện, họ có cảm giác đây là con đường tiến vào thế kỷ 21 và thả tâm hồn vào thiên niên kỷ tới. Giám đốc không ưng sái cổ sao được khi vẫn cái giọng tuyệt vời của một diễn
Nghệ thuật đích thực 53
viên đã bao lần chinh phục khán giả trên sàn diễn tiếp tục: Rừng thay lá. Rừng sống lại. Rừng lại hát khúc ca hùng tráng của rừng. (Đọc đến đây Chu Lai ngừng lại, ngước nhìn lên mà chẳng nhìn ai, với cặp mắt thẫn thờ thăm thẳm chiều sâu.) Đình Kính cha đẻ của những dòng văn ấy và cả Nguyễn Quang Thân không đóng góp một chữ nào cũng thấy sởn hết cả gai ốc vì xúc động. Giám đốc kêu lên:
- Tốt! Tốt! Cứ như vậy là rất tốt!
Và quay ra cửa hét to:
- Các đồng chí chuẩn bị ăn khuya đến đâu rồi? Xin phép các nhà văn, tôi ra xem anh em họ làm ăn ra sao. Ngồi trong buồng còn nghe thấy giám đốc nói với chủ nhiệm khách sạn ngay phía ngoài cánh cửa (rõ ràng đủ to cho bên trong nghe thấy):
- Đồng chí có trách nhiệm hỏi ba nhà văn xem có cần giải trí không? Nhà văn cũng là người chứ! Cũng cần giải trí chứ! Đả thông các đồng chí ấy đừng ngại. Các đồng chí ấy giải trí không phải vì các đồng chí ấy, mà vì chúng ta, vì công việc, vì văn học, vì lâm trường!
***
Hai tháng qua nhanh. Bản thảo đã hoàn thành. Hợp đồng đã kết thúc. Một trăm tám mươi bao Jet trừ ba bao để ở ba phòng, còn lại một trăm bảy bảy bao đã được bán, tiền đã được cho vào túi. Tên tác phẩm đã được
54 Bùi Ngọc Tấn
đặt. Đứa con tinh thần ấy được các ông bố thống nhất đặt tên là Rừng xưa xanh lá. Nhưng lại xảy ra một trục trặc nhỏ: Những ai là tác giả, những ai đứng tên ngoài bìa sách? Nguyễn Quang Thân tự xét mình không đóng góp một chữ nào cho tập sách này, nhất định không chịu ký tên:
- Bỏ tên tớ ra. Tớ không muốn là kẻ đạo văn. Chu Lai trừng mắt:
- Ông đã được ở đây hai tháng. Ăn uống. Bia bọt. 59 bao thuốc Jet. Lại đón Dạ Ngân ra. Không ký tên là không xong đâu!
Đình Kính ôn tồn:
- Ông Thân không ký tên cũng được. Thôi thì tiền thuốc lá Jet chúng tôi cho ông. Nhưng cái khoản một chỉ vàng ông phải để lại. Hai thằng tôi cưa đôi.
Đòn ấy làm Thân choáng. Coup décisif!(1) Thân đành chấp nhận ký tên, chấp nhận làm kẻ đạo văn: - Được. Tớ ký. Tớ ký... bí danh.
Cả hai nhà văn quân đội tròn mắt:
- Thế hai thằng tôi không biết ký bí danh à? Ký tên thật vào đây!
Thân đành chịu nhưng vẫn cố nài nỉ:
- Các cậu để tên tớ sau cùng.
1. Đòn quyết định.
Nghệ thuật đích thực 55
Đình Kính cười:
- Yên tâm. Tên tôi đầu tiên. Chu Lai ở giữa. Rồi mới đến Nguyễn Quang Thân. Được chưa?
Sau bữa liên hoan chia tay có cả sâm banh, có cả bia và đủ thứ sơn hào hải vị, ba nhà văn được ông giám đốc trực tiếp nong vào ngón tay mỗi người một chiếc nhẫn một chỉ vàng kết thúc hợp đồng. Nguyễn Quang Thân tút về Cần Thơ với Dạ Ngân. Chu Lai, Đình Kính về thành phố Hồ Chí Minh. Từ bến xe, hai người hai chiếc xe đạp khung dựng guồng về khu nhà nghỉ của Hải quân. Đình Kính vừa đạp xe vừa ngắm chiếc nhẫn vàng óng trên ngón tay nắm ghi đông. Một chiến công. Một thắng lợi giòn giã. Đây là chiếc nhẫn vàng thứ hai trong đời Đình Kính. Chiếc nhẫn vàng thứ nhất mua cách đây không lâu. Biết bao phấn đấu, tằn tiện của hai vợ chồng mới có được. Mua về, gói vào vải, bọc túi ni lông, cho vào tủ rồi, nằm ngủ rồi, lại tung chăn, dậy mở tủ lấy nhẫn ra ngắm, rồi lại gói, lại bọc, lại cất, mới vào màn ngủ được. Chỉ vàng to lắm, mấy ai có...
Đang ngẫm ngợi như vậy thì đã tới Thảo cầm viên. Một đám đông con gái trẻ măng ríu rít ùa ra, vây lấy hai đồng chí bộ đội. Một cuộc tập kích bất ngờ. Người nắm ghi đông. Người nắm tay. Người ôm vai. Người bóp đùi. Người kéo áo. Hoảng. Hoảng quá. Không còn biết ra sao nữa. Dù họ trẻ. Dù họ đẹp. Họ nũng nịu. Họ tươi như hoa. Dù họ ríu rít như chim:
- Hai anh. Đi đâu mà vội thế?
56 Bùi Ngọc Tấn
- Dừng lại. Đi chơi với chúng em.
- Đi. Chút xíu thôi mà, anh Hai.
- Anh Hai. Xem em nè.
Vội xuống xe, kẻo ngã. Họ nài nỉ. Họ thơm tho. Họ nưng nức nước hoa. Họ phụng phịu như dỗi. Họ nắm chân nắm tay, họ ôm lấy hai người.
Cố gắng gạt bầy tiên nữ ấy ra, hai nhà văn thoát khỏi vòng vây, lên xe guồng một mạch về nhà nghỉ. Vừa đặt ba lô xuống, thoáng nhìn bàn tay đeo nhẫn, Đình Kính rụng rời: Chiếc nhẫn vàng trên ngón tay không còn nữa!
- Chu Lai ơi! Cái nhẫn của mình mất rồi! - Giọng Đình Kính thất thanh.
Chu Lai giật mình giơ tay lên. Nhẫn vẫn còn. Đình Kính nằm vật xuống giường không nói được một lời. Tiếc đã hẳn. Nhưng giận. Giận điên lên, cái lũ con gái khốn nạn ấy. Và cuối cùng thì phục. Cái nhẫn khi ông giám đốc đeo vào ngón tay mình còn chật cơ mà. Không hiểu nó lấy cách nào nhanh thế.
Lại phải cười vì Chu Lai cứ giơ bàn tay có nhẫn ra trước mặt như khiêu khích. Đình Kính bảo: - Mất. Tức thì tức thật nhưng phải công nhận chúng nó tài. Nó lấy lúc nào mà mình không biết. Một lúc sau lại:
- Tài thật! Tài thật! Nó đã nâng lên hàng nghệ thuật. Chu Lai vỗ đùi công nhận:
Nghệ thuật đích thực 57
- Thì đúng là nghệ thuật! Nghệ thuật đích thực! Đang đau như hoạn cũng phải cười. Đang cười bỗng im bặt. Giật mình. Sục vội tay vào túi quần. Thở phào. Chỗ tiền bán thuốc lá Jet vẫn còn.
Lời cuối truyện: Truyện ngắn này không càn bịa. Nhưng nếu các bạn Đình Kính, Chu Lai, Nguyễn Quang Thân và cả Dạ Ngân nữa không bằng lòng , thì tôi nói đây là chuyện... bịa.
58 Bùi Ngọc Tấn
Người
mua nhà
của
bố mẹ
tôi
Cuối cùng mấy anh em tôi cũng phải đi đến một
quyết định đáng buồn: Bán ngôi nhà, mảnh vườn của bố mẹ tôi. Không thể để nhà không người ở, vườn
Người mua nhà của bố mẹ tôi 59
không người chăm. Anh chị cả tôi ở sát liền bên cũng bắt đầu già yếu, chẳng thể nào trông nom xuể được. Thật là một quyết định đau lòng. Ngôi nhà ấy, mảnh vườn ấy là những gì còn lại của bố mẹ tôi, là cái neo để tôi neo đậu vào một thế giới đã tan rã. Nó không chỉ là hạnh phúc của tôi, tuổi ấu thơ của tôi mà còn là hạnh phúc tuổi ấu thơ của các con tôi. Khi chiến tranh bắn phá, tôi gửi các con tôi về đấy và cho đến bây giờ chúng vẫn nhắc lại một thời chạy nhảy nghịch ngợm, xa bố mẹ nhưng được sống trong tình thương yêu của ông bà. Bố tôi mất đã được bảy năm. Mẹ tôi qua đời cũng đã hai năm rồi. Mỗi khi về quê, tôi lại từ nhà anh chị cả, băng qua vườn nhà anh chị, bước sang mảnh vườn của cha mẹ tôi. Tôi đi giữa những cây quất, cây cau côi cút. Tôi đứng dưới tán lá rợp cây bưởi trước sân, đối thoại với nó bằng im lặng. Tôi ngồi xổm nhìn cái rãnh phía sau nhà, sát bờ tre um tùm, chờ một con cá đuôi cờ từ gốc cây khoai nước lao ra nhưng lại bắt gặp vĩnh cửu. Tôi mở cửa vào nhà. Căn nhà hoang, ẩm và tối. Tôi nghe rõ hơi thở của mình. Tiếng cha tôi gọi tôi uống trà. Mẹ tôi ngồi trước bếp mổ cá, lũ gà choai xông vào cướp những thứ bỏ đi trên thớt... Triết học, tuyệt vọng, hạnh phúc và đau nhói. Thánh địa của tôi. Trở về đó, tôi quên tất cả.
Vậy mà phải bán đi chốn cư ngụ cuối cùng ấy. Phải bán đi để mình thành một kẻ bất hiếu, phản bội, bơ vơ, tay trắng. Mai một dần quá khứ. Mòn mỏi dần kỷ niệm. Bỗng nhiên chẳng còn quê hương, chẳng còn gì cả.
60 Bùi Ngọc Tấn
Tôi không sao quen được với ý nghĩ những người lạ mặt sẽ tới ở đây. Tôi không thể tha thẩn ở nhà người ta, nơi mặt đất mỗi bước chân tôi dẫm lên, mỗi cành lá đều biết trò chuyện cùng tôi.
Thế nhưng vẫn cứ phải bán thôi.
Thật may mắn, người mua cơ ngơi ấy lại là cô Thoan, một người có họ với nhà tôi. Gọi là cô vì cô gọi tôi là cậu chứ không phải là cô còn trẻ. Cô trạc tuổi tôi, nghĩa là cũng đã ngót nghét sáu chục rồi.
Khi biết người mua là cô Thoan, chẳng riêng gì tôi vui. Các con tôi trên dưới ba mươi tuổi bỗng đồng ca như chúng đồng ca những ngày còn bé:
Cái đầu cô Thoan lắc lư
Cái đầu cô Thoan lắc lư
Và cười với nhau, đôi mắt long lanh, đôi mắt thời gian sơ tán. Đó là bài hát chúng đặt ra để hát về cô. Cô nghèo. Người sắt lại. Khuôn mặt đăm chiêu, rầu rĩ. Cô đi hơi lệch lệch. Như người đi không vững. Quan sát cô, lũ con tôi đã sáng tác nên kiệt tác của chúng: Cái đầu cô Thoan lắc lư. Chẳng bao giờ thấy cô cười. Họa hoằn lắm cô mới cười thì lại càng thảm hại. Nụ cười như mếu. Cô gầy yếu nhưng làm không chê vào đâu được. Việc hợp tác. Việc nhà. Cuốc đầm. Gánh rạ. Đập lúa. Nuôi lợn. Đắp tường. Lợp nhà. Thủy lợi là công việc nặng nhọc cũng có mặt cô Thoan. Bác Văn, chồng cô còn phải vào tận Lán Tháp làm thuê, mang về khi bao
Người mua nhà của bố mẹ tôi 61
sắn khô, khi chục cân mì gia công. Lít nhít một đàn con nhỏ trong cái thời hợp tác toàn được mùa trên giấy, cái thời con gà, chục trứng cũng phải cân nghĩa vụ, cô chỉ mong được một bữa no. Ống chân cô ngâm nước chua mặn từ bé đến giờ, chất phèn có lẽ đã ngấm vào tận xương, nó vàng bóng như ống đồng. Cô là người nữ xã viên hợp tác xã nông nghiệp một thời. Đảm đang, cam chịu, thương chồng, thương con, chịu khó chịu khổ, có thể làm quần quật mười hai tiếng đồng hồ khi dạ dày lép kẹp, bất chấp mọi lý thuyết về số calo sinh ra và số calo tiêu thụ, chịu đựng được tất cả mà không hề thắc mắc.
Cô hay đến làm vườn cho bố mẹ tôi. Khi làm cỏ, khi xới xáo. Lúc đánh phân lợn từ chuồng ra thành đống rồi bốc bùn dưới ao nhào với rơm trát để ủ mục bón cây...
Bố mẹ tôi chỉ thuê cô Thoan làm vườn vì cô chịu khó, cẩn thận và điều quan trọng, cô không có tính tắt mắt. Vườn đầy hoa quả, mùa nào thức ấy nhưng cô không đụng. Bố mẹ tôi rất ghét thói ăn cắp. Cần, hỏi xin, các cụ cho. Các cụ đâu keo kiệt. Đã có người đến xin rau thơm về ăn thịt vịt, vặt trộm mấy quả chanh quả ớt để dưới rổ rau thơm, bố tôi biết, cụ không nói nhưng lần sau người ấy xin rau thơm, cụ không cho nữa.
Cô Thoan đứng giữa vườn cây trái, cam quất, những cành táo lai trĩu quả, những quả trứng gà chín vàng, hẳn cũng muốn ăn hoặc hái đem về cho lũ con ở nhà, nhưng cô biết rằng không nên ăn cắp. Cô im lặng làm, không trò chuyện, không nghỉ ngơi, thỉnh thoảng mới đi về
62 Bùi Ngọc Tấn
phía chum nước mưa đặt bên gốc cau, cầm gáo dừa múc nước im lặng uống một hơi. Cô đi lại trong vườn, xiêu xiêu lệch lệch.
Cái đầu cô Thoan lắc lư. Tất nhiên lũ con tôi hát rất khẽ và bao giờ cũng bị mẹ tôi mắng:
- Cha bố chúng mày. Cô ấy nghe thấy thì... Ai lại nói người ta thế bao giờ không?
Cô Thoan thích làm cho bố mẹ tôi. Được tiền công đã hẳn. Còn được ăn no. Cơm độn mì, thứ mì chúng tôi đong theo tiêu chuẩn, tý tép, đĩa rau luộc, đĩa cá kho... Với cô như thế đã là đại tiệc. Cô ăn rất ý tứ. Nhưng cứ nhìn cái cách cô buông bát, cách cô lấy đũa cả vun vun chỗ cơm còn lại ở đáy nồi, cũng đủ biết cô đang thực hiện câu châm ngôn Pháp khi ăn uống: Phải rời bàn ăn khi vẫn còn một chút thòm thèm.
Thỉnh thoảng đến nhà tôi làm, cô còn dắt theo một đứa con gái. Khi là cái Vân mà cô vẫn gọi là cái Tí Con. Khi là cái Thoa còn có tên là cái Tí Rẫu. Chắc cô muốn chúng cũng được một bữa cơm no có cá có tép. Cô ăn và nhìn con ăn. Thấy con bé ăn cơm không, cô gắp thức ăn cho nó. Cô giằng bát của nó:
- Đưa bát đây bu trộn cho.
Cái Tí Con và cái Tí Rẫu suýt soát bằng nhau. Chúng giống nhau ở mái tóc đỏ hoe dựng đứng, khuôn mặt nhem nhuốc và vẻ sợ hãi tất cả mọi người. Chúng cóc cáy còi cọc tanh tưởi đến nỗi vợ tôi phải bảo cô:
Người mua nhà của bố mẹ tôi 63
- Còn nước bồ kết đấy, tí nữa gội đầu cho con bé con đi.
Một hôm nhà tôi có giỗ. Theo lời dặn của bố mẹ tôi, cô Thoan đến sớm, vo gạo đãi đỗ, rửa rau... Cỗ ở nhà quê nhất là thời gian hợp tác trước đây thường đơn giản nhưng cỗ ở nhà tôi được tiếng là khá hơn. Có gì đâu. Gạo nếp là thứ quý hiếm lắm thì anh chị tôi bao giờ cũng chuẩn bị sẵn, tất nhiên chẳng đào đâu ra nếp cái hoa vàng, nhưng cũng là loại nếp ngon, và căn bản là nhiều đỗ xanh. (Đĩa xôi thời đó thật là danh giá. Chú em họ tôi cưới vợ cho con trai, làm hàng chục mâm mà chỉ có một đĩa cơm nếp đặt trên bàn thờ - nghĩa là trên nóc tủ li. Mâm chúng tôi, khách ở phố về là thượng khách được ngồi ngay ở xa-lông cạnh đấy. Chúng tôi cứ thò tay lên bàn thờ, vụng trộm véo cơm nếp, véo cháy nhắm rượu). Rồi đến mấy con gà giò nuôi cách giỗ vài tháng. Và chúng tôi ở phố về, thế nào cũng có cân giò lụa, cân chả quế.
Bữa ấy hình như cô Thoan thả lỏng mình, không thực hiện câu châm ngôn Pháp về ăn uống. Ba mẹ con cô quây quần tíu tít (cái Tí Con và cái Tí Rẫu đến nhà tôi vào lúc nửa buổi, chúng chơi ở đầu sân và ngơ ngác nhìn khách khứa ra vào). Chúng tôi ngồi uống rượu. Xôi. Cơm. Thịt lợn. Thịt gà. Giò. Ninh. Chả. Nộm...
Giữa bữa cô Thoan đi ra ngoài. Lát sau lại trở vào ăn tiếp. Thực ra chẳng ai để ý đến việc đó, nhưng đến chiều, sau khi khách khứa ai về nhà nấy, bát đĩa đã rửa xong,
64 Bùi Ngọc Tấn
mấy mẹ con cô Thoan cũng đã về có mang theo đĩa xôi và mấy miếng giò lấy phần cho lũ trẻ ở nhà, chị dâu cả tôi vừa cười vừa nói:
- Cô Thoan rõ khổ. Ăn no quá, ra đằng sau nôn rồi lại vào ăn tiếp.
Tôi thấy nhói trong lòng. Vậy mà trước đây cô cũng con ông chánh, ông bá vào loại giàu có trong làng. Nhà cô kín cổng cao tường, cơm trắng cá ngon.
Cũng như nhiều nơi khác, cái hợp tác xã quê tôi đã tiến lên quy mô toàn xã, nghĩa là ban chủ nhiệm ở một nơi nào đó vời vợi cao xa, cái đói càng trở nên gay gắt và cụ thể. Xã viên sợ ruộng, sợ đi làm. Mỗi công không được xu nào mà còn phải nộp thêm cho hợp tác ba lạng thóc. Tấc đất tấc vàng, đất đai ở vùng tôi quý lắm. Các nơi phá xiềng ba sào chứ bình quân mỗi người quê tôi chỉ hơn sào ruộng. Thế nhưng ruộng hợp tác bỏ hóa. Dân tình sợ ruộng, nhao ra phố ăn xin. Xã không có cách nào giữ người ở lại để làm cỏ bón phân, chăm bón cho số lúa đã cấy, đành phải họp bộ tứ xét duyệt cho từng đợt đi ăn xin, như vậy có tổ chức hơn, chấm dứt được tình trạng tự phát và cơ bản là vẫn bảo đảm số người ở nhà chăm bón lúa. Cô Thoan dắt hai đứa con gái, cái Tí Con và cái Tí Rẫu ra phố ngay trong đợt bình xét đầu tiên.
Thật may cho bố mẹ tôi. Các cụ vẫn gọ gẵng được vì còn có cái vườn. Cái vườn ông bà nội tôi để lại. Cau, ớt, chanh, trầu không, dọc mùng, dừa, chuối. Ba cây bưởi và vườn quất thừa đủ các cụ lo cái Tết, lại còn đong
Người mua nhà của bố mẹ tôi 65
thêm được vài thúng thóc nữa. Không có mảnh vườn hẳn là bố mẹ tôi lâm nguy. Mấy đứa con cán bộ công nhân viên chúng tôi chẳng thể giúp gì được ngoài việc tống con về cho ông bà nuôi trong những ngày chiến tranh bắn phá. Chúng tôi biết mảnh vườn này là một khe hở trong quá trình hợp tác hóa. Nó sẽ được trám lại bất cứ lúc nào. Nhưng cái điều chúng tôi lo thực sự là sẽ di dân lên núi, sắp xếp lại giang sơn, cải tạo lại cơ bản tình trạng manh mún của nông nghiệp, chấm dứt một đêm dài nông thôn sản xuất nhỏ, bởi vì ngay bọn tư bản chúng nó cũng sản xuất lớn nữa là chúng ta... Chúng tôi lo bởi vì ở miền Trung người ta bắt đầu thực hiện cuộc cách mạng đó rồi.
Trong khi những tin đồn chưa biến thành hiện thực thì bố mẹ tôi vẫn duy trì được mức sinh hoạt tối thiểu giữa lúc đa số xã viên phải rời làng làm cái nghề nhục nhã: Đi ăn xin.
Sau những cơ đận ấy, thực hiện chủ trương của trên, xã vận động bà con đi xây dựng vùng kinh tế mới. Vợ chồng cô Thoan bán cái túp ở làng, vào Khe Sâu cùng mươi gia đình nữa.
Cô biến mất khỏi sự suy nghĩ của tôi. Cuộc sống vật lộn, mưu toan, lo lắng, hy vọng và thất vọng khiến tôi quên hẳn cô, không nhớ được rằng cô vẫn tồn tại trên cuộc đời này. Các con tôi cũng đã quên hẳn bài hát Cái đầu cô Thoan lắc lư.
Chúng tôi chỉ nhớ lại cô khi cô từ Khe Sâu trở về,
66 Bùi Ngọc Tấn
mua ngôi nhà của bố mẹ tôi, một ngôi nhà gạch ba gian, lợp ngói Giếng Đáy, với đầy đủ các công trình phụ, bếp, chuồng lợn, nhà tiêu, bể nước mưa. Và hai sào vườn trồng tỉa đẹp như công viên, mùa nào thức ấy. Nghĩa là cô có hàng chục triệu, hàng cây vàng để mua một dinh cơ đẹp nhất làng. Cô Thoan đã hội tụ những điều kiện cơ bản nhất của một khách hàng mà chúng tôi mong đợi. Không chỉ là họ hàng thân thuộc, cô lại có nhiều tiền. Chứ ở vùng quê tôi, người ta nhịn ăn, bòn bán từ quả na, quả ớt, chục trứng, mớ rau khoai lang, đã ai được nhìn thấy vàng, và có lẽ chỉ mấy anh em ông Trương ba đời làm nghề giết lợn mới có tiền triệu trong tay.
Vậy mà cô Thoan bỏ ra những năm cây vàng để mua cơ ngơi ấy, và tất nhiên cô không vét cạn vốn để mua nhà. Người ta nói cô còn nhiều vàng, nhiều lâu la(1) lắm. Hai đứa con gái cô ở Canada không biết làm gì mà gửi về cơ man là lâu la. Số người ta may thế. Sang Ma-cà mông(2) có nửa năm thôi mà đã được đi Canada rồi. Các bà già ngồi ở chợ nói với nhau như vậy. Chẳng ai biết số đô-la cô có trong tay nhiều ít, chỉ thấy dạo này cô hay cười hơn. Cô cười mà nét mặt không tươi lên được bao nhiêu. Nó đã định hình rồi. Cặp mắt thảm sầu buồn rười rượi, cái đầu hơi lắc lư, khuôn mặt đầy những vết nhăn choắt lại. Chẳng thể nào xóa được sự đăm chiêu lo
1. Đô la.
2. Hong Kong (phát âm kiểu nhà quê).
Người mua nhà của bố mẹ tôi 67
lắng trên khuôn mặt ấy như chẳng thể nào tẩy được vết phèn chua mặn trên ống chân bóng như ống đồng của cô. Nó đã ngấm vào xương.
***
Tôi đã toại nguyện.
Mỗi khi có việc về quê, tôi đều tới ngôi nhà của bố mẹ tôi, dù cho giờ đây nó thuộc về chủ mới: Cô Thoan. Tôi lại có thể tha thẩn ngoài vườn, mà tôi cũng thích ở ngoài vườn hơn vì nó ít đổi thay hơn. Bên trong nhà đã khác hoàn toàn. Những tủ li, những tủ đứng, những giường mới, những xa lông...
Buồng trong, chỗ mẹ tôi nằm khi lâm bệnh và trút hơi thở cuối cùng là một hòm gian to tướng mới đóng bằng gỗ xoan. Con chó béc giê giống Nga gầm gừ nhìn tôi với vẻ cảnh giác làm tôi hơi hoảng. Cô Thoan niềm nở mời tôi ngồi xa lông, pha nước chè và bảo thằng con giai út:
- Có thuốc lá không, lấy mời cậu, Toàn.
Thấy tôi nhìn mấy tấm ảnh màu trên khung kính treo tường, cô lấy ra một tập album. Toàn những ảnh cái Tí Con, cái Tí Rẫu. Chúng đã là những phụ nữ xinh đẹp đang ở vào giai đoạn rực rỡ nhất trong một đời người. Cô Thoan giới thiệu từng ảnh. Cái nào chụp ở Canada. Cái nào chụp ở Hong Kong. Đứa nào là Vân tức cái Tí Con, đứa nào là Thoa, tức cái Tí Rẫu. Những bức ảnh đẹp, màu sắc trung thực với tự nhiên. Những bức ảnh
68 Bùi Ngọc Tấn
chụp ở Canada có phong cảnh thật tuyệt vời. Và quan trọng hơn, những gương mặt người, những dáng người trong ảnh. Người Việt Nam chúng ta chẳng thua kém bất cứ một dân tộc nào trên thế giới.
Cô Thoan chỉ tấm ảnh đứa con gái mặc quần áo jean, ngậm tẩu, đứng tựa lưng vào một gốc cây:
- Con Thoa nó ngậm cái gì đấy hở cậu?
Mãi tôi mới hiểu rằng cô chưa hết lo lắng về cái tẩu ấy và muốn xác minh lại một lần nữa. Có ai nói với cô rằng đó là dụng cụ xài ma túy. Cái Thoa con cô sang Canada đã nghiện ma túy khiến cô buồn lo, âm thầm khóc cả đêm. Lời xác định của tôi làm cô yên tâm. Có một cái gì đó như nụ cười trên khuôn mặt cô.
Tôi không thể nào nhận ra những đứa cháu họ của tôi. Lần tôi gặp chúng gần nhất cũng đã cách đây hàng chục năm rồi. Những đứa trẻ bẩn thỉu, còi cọc, hôi hám, tanh tưởi. Tóc bù xù. Mắt nhoèn. Mũi thò lò. Ruồi bâu. Quần áo chằng đụp. Vẻ mặt xanh xao sợ sệt, xấu hổ cúi mặt cười cười mỗi khi chúng tôi trêu chòng chúng. Và lời than vãn của cô Thoan:
- Học gì ba năm chưa lên được một lớp. Thế mới bẩu là nghỉ học thôi. Mí lại ai trông em cho. Ai làm cho mà học.
Quả thật chúng đã phải làm khi còn bé tí. Vớt rong. Trông em. Dỡ khoai. Mấy chị em xúm nhau đẩy cái xe cải tiến chở đầy phân trên đường làng gồ ghề...
Người mua nhà của bố mẹ tôi 69
Giờ đây chúng là những người hiện đại. Những bộ mặt, những nụ cười, những dáng vẻ của người tiêu bằng đô la. Những bậc tiểu thư quyền quý. Những thanh niên vô tư lự trong những buổi picnic. Và đây chúng đang ngồi sau tay lái chiếc xe Mercedes đỏ chói...
- Xe con Thoa mới thay đấy. Xe cũ xấu. Bán rồi. Thêm tiền mua xe này. Những bao nhiêu nghìn đô không biết nữa. Con Vân thì tằn tiện. Chứ con Thoa ăn chơi lắm. Đi làm lại mũi, làm lại răng, làm lại mặt rồi.
Tôi cười: “Mỹ viện đó cô ơi”. Và chuyển đề tài khác: - Em nghe nói chúng nó gửi về cho cô nhiều quần áo đẹp lắm cơ mà...
Thế là cô đưa tôi vào buồng trong, lấy từ trong tủ ra những bộ quần áo nhung, những bộ mút xơ lin, xoa, những chiếc áo len. Tôi cam đoan cái áo lông của cô thì bất kỳ một phụ nữ Việt Nam nào nhìn thấy cũng phải thèm muốn. Tôi lại nhìn cái áo nâu bạc, cái quần đen cũ nhầu cô đang mặc trên người:
- Sao cô không mặc những thứ cháu nó gửi về? Cô Thoan hiểu rằng tôi đang nói chuyện nghiêm túc. Cô cười:
- Gớm. Ai lại mặc. Rợ chết.
Bao nhiêu lần về quê sau đó, chưa lần nào tôi thấy cô mặc những bộ quần áo mà cô chỉ đem ngắm và đem phơi. Hỏi cô, cô bảo:
- Có mà mặc đi ngủ thôi cậu.
70 Bùi Ngọc Tấn
Nhưng tôi cũng thấy bên trong tấm áo nâu của cô ló ra cái cổ áo bằng vải hoa có đăng ten. Tôi không dám hoan nghênh cô, sợ cô ngượng nghịu rồi lại không dám mặc, dù mặc giấu vào bên trong...
Tết năm ấy cái Vân từ Canada về thăm gia đình. Tin ấy làm xôn xao cả làng. Càng xôn xao, vẻ mặt cô Thoan càng rầu rĩ. Hình như cô cố che giấu sự vui mừng vì cô cảm thấy mọi người đều cho rằng cô rất sung sướng. Cô không muốn như vậy. Ai nói cô nghèo cô khổ, cô thích, cô nở nụ cười như mếu. Ai nói cô giầu, cô sung sướng, cô sa sầm nét mặt, cô giận người ta, cô cho là chế giễu cô, cô tủi thân cô khóc. Mấy anh em tôi đã mắc sai lầm ấy. Một ngày giỗ bố tôi, cô hái quả bưởi (cây bưởi do bố tôi trồng) đem sang. Thấy cô vào tới sân, tất cả chúng tôi reo lên. Chúng tôi hỏi thăm cô về những đứa con gái cô ở bên ấy có hay gửi đô la về cho cô không, ca ngợi cô bây giờ thì nhất làng rồi, nhà có một kiều đã sướng, đằng này lại những hai kiều...
Thế là nước mắt cô giàn ra không thể nào giữ được. Tất cả chúng tôi phát hoảng lên nhưng đã muộn. Cô đặt quả bưởi lên bàn thờ, đảo qua bếp rồi thừa lúc không ai để ý, cô về nhà. Tới bữa ăn, chúng tôi sang mời cô, nhưng cô nằm trong buồng trong, cạnh cái hòm gian và bảo thằng Toản trả lời mẹ cháu đi vắng.
Bởi vậy nên khi nhận được tin cháu Vân sắp về, chúng tôi chỉ nhấn mạnh niềm vui tinh thần của cô: Sự đoàn tụ.
Người mua nhà của bố mẹ tôi 71
Năm ấy cực rét. Có lẽ rét ngang với năm 1954, khi chúng tôi tiếp quản Hà Nội. Vào một ngày rét nhất của vụ rét, cả làng nghỉ làm đồng, nhưng cô Thoan vẫn đi cuốc ruộng. Gần trưa cô mới về ghé qua nhà anh tôi, mặt tím lại vì rét. Cô thều thào:
- Cậu Hưng ơi. Cậu xem hộ đầu tôi một tí. Nó làm sao ấy. Chỗ này cứ nhun nhũn.
Cô không thể nào không làm việc, cũng như cô rất thích có nhiều thóc trong nhà. Cái Vân về, bảo cô: - Bu cứ đong gạo. Ăn đến đâu đong đến đấy cho nó ngon.
Nhưng cô không thể làm theo lời nó. Cảnh ăn đong làm cô sợ lắm rồi. Cả đời cô chỉ mong thóc đầy nhà, nay cô mới toại nguyện. Cái hòm gian bằng gỗ xoan trong ruột nó chứa đầy thóc.
Trưa mùng 2 tết, tôi sang thăm cô. Nhà vắng, tôi đi rón rén, sợ con chó béc giê xồ ra. Hai gian ngoài không có ai. Tôi nhón qua mấy bước, nhìn vào buồng trong, nơi mẹ tôi ngày trước đã nằm, nơi bây giờ để cái hòm gian bằng gỗ xoan chứa đầy thóc chống đói, những tạ thóc mơ ước của cả đời cô Thoan. Qua cửa sổ tôi thấy bác Văn và cô Thoan đang đứng trước chiếc tủ đứng để mở, hai người cầm một vật gì vàng chóe, cái vật đó một đầu như bao diêm, đầu kia xoắn lại như một chiếc kẹo quấn thừng. Tôi chưa thấy một khối vàng to như thế bao giờ đến nỗi không tin ở mắt mình nữa và vội lùi lại đầu sân, hắng giọng:
72 Bùi Ngọc Tấn
- Có ai ở nhà không?
Tôi thấy tiếng kẹt của cánh cửa tủ, tiếng khóa tủ và cả hai người bước ra gian giữa đón tôi.
Nội thất nhà cô Thoan hôm nay lại thay đổi. Giường nào cũng trải đệm mút Mỹ. Một cái ti-vi màu 21 inch của Nhật để trên cái tủ li ngay giữa nhà. Cạnh đó là đầu video. Bên tủ li lừng lững những chai rượu ngoại. Martell. Ông cụ. Napoleon. Mấy chai vang... Chè ngon. Thuốc lá Dunhill. Những chai rượu kia chắc chỉ để bày, không uống và cũng không tiếp khách. Đã lâu lắm tôi mới gặp bác Văn ở nhà. Bác vẫn cứ phải đi đi về về Khe Sâu, trông nom nhà cửa, thu xếp bán nhà bán trâu trong đó.
- Cậu sang thăm cháu mà cháu lại đi chơi mất rồi. Đi phố. Đi từ sáng cơ.
- Cháu về lâu chưa hở cô?
- Cháu về từ hôm xưa.
- Cháu còn được ở nhà lâu không?
- Còn. Cháu đăng ký rồi. Họ bẩu phải đăng ký ở bao lâu. Quá một ngày phải nộp phạt 5 đồng cơ. Tôi đoán là 5 đô-la, 5 lâu la theo cách nói của những bà già quê tôi. Và tôi ngờ ngợ khái niệm về thời gian trong cô cũng mù mờ như những tiếng hôm xưa, hôm nay cô nói.
Tôi hỏi công việc các cháu làm ở Canada. Câu trả lời thật bất ngờ:
Người mua nhà của bố mẹ tôi 73
- Nó sang đào giun ở bên đấy. Thế mới bẩu giun làm gì mà đắt thế. Giun ở bên ta thì đầy.
Ông anh rể ít nói của tôi cũng góp chuyện, vẻ phấn khởi:
- Giun bán cho người ta đi câu cậu ạ. Các cháu đang bàn nhau đón tôi sang chơi bên ấy.
Cô Thoan cười:
- Ngày nào chúng nó cũng đào thêm một ống bơ giun. Chúng bẩu: Bơ này để mời bố sang mát xoa đây. Mát xoa là cái gì hở cậu?
Tôi giảng cho cô về sự xoa bóp và đe cô:
- Bác giai sang đấy bọn đầm mắt xanh mỏ đỏ nó không để cho bác về đâu. Gay lắm đấy.
Cô cười:
- Gớm. Người giả xằng thế ai lấy.
Chúng tôi cùng cười.
Thấy tôi nhìn những tấm nệm, những chăn len cứ sáng rực cả nhà lên, cô Thoan giải thích:
- Con Vân mới mua đấy. Mang những mấy trăm đô đi Phòng sắm. Về được ba hôm là đi ngay. Nó bẩu chả ở đâu mua sắm thích như ở ta. Mấy trăm đô mà được bao nhiêu thứ. Thế mới bẩu mua gì mà lắm thế cho nó tốn tiền. Đệm thì khổ lắm cậu ơi. Tôi nằm đau hết mình mẩy. Suốt đêm không ngủ. Nó bẩu: Bu cứ nằm rồi sẽ quen. Tôi nằm mãi mà không quen. Ê ẩm hết cả người. Giường tôi, tôi phải bỏ đệm ra rồi.
74 Bùi Ngọc Tấn
Khi tôi đứng dậy ra về, cô bảo bác Văn:
- Con Vân nó bảo biếu cậu bao thuốc cậu hút Tết. Bố nó lấy cho cậu.
Chỉ vì bao thuốc ấy tôi bị một phen ngượng chín người. Thuốc lá để ngay trong ngăn cánh gỗ tủ li thôi. Mà không mở được.
Bác Văn cầm một vốc chìa khóa. Tra. Vặn. Hết cái nọ đến cái kia. Lại lẩm bẩm một mình: “Đúng cái này mà. Sao lại... Hay là không phải...” Tôi ngồi. Chờ đợi. Bao thuốc lá ngoại quý thật đấy, nhưng cái máu sĩ của tôi cũng mạnh lắm.
Tôi im lặng chờ. Chẳng lẽ lại khơi mào một câu chuyện mới. Không tiện. Vì cánh tủ có thể mở bất kì lúc nào. Cô Thoan càu nhàu:
- Cái nào thì đánh dấu nó vào. Ông còn không mở được, tôi biết mở làm sao.
Phải đến mười lăm phút sau mới thấy tiếng “tách” quen thuộc. Cánh tủ mở. Bác Văn lấy ra một cây thuốc Dunhill đã bóc và đưa cho tôi một bao:
- Quà của cháu Vân biếu cậu.
***
Như bạn đọc thấy đó, nhờ có cô Thoan, tôi là một người hạnh phúc. Tôi vẫn được trở lại thiên đường đã mất của tôi. Nhưng cái gì tốt đẹp quá thì làm sao bền được. Chưa đầy ba năm sau tôi đã không thể bước chân
Người mua nhà của bố mẹ tôi 75
vào đấy được nữa. Mỗi khi có việc về quê, đúng như tôi lo sợ, tôi chỉ đứng ở vườn anh tôi, nhìn sang ngôi nhà, mảnh vườn trước đây của bố mẹ tôi, hiểu rằng một thế giới đã vĩnh viễn mất rồi.
Một người khác đã đến ở đấy. Một người làm lò vôi ở làng bên, hoàn toàn xa lạ.
Bác Văn đã sang ở hẳn bên Canada, do mấy đứa con gái bảo lãnh. Rồi đến lượt bác, bác bảo lãnh cho thằng Toản sang. Tất cả sang đào giun bên ấy. Hai đứa lớn đã có vợ con, không sang được thì xây nhà ở phố huyện bằng tiền của hai cô em gái gửi về.
Còn cô Thoan, tội nghiệp cô. Cô đã mất sau một trận cảm nhập lý. Hôm ấy mưa to. Từ Đồng Tép cô chạy về không kịp. Mưa ngấm cái lạnh vào người... Ai cũng thương cô đến lúc sướng thì không được hưởng.
Cánh thanh niên càng thương cô vì trong lúc tỉnh táo trước khi chết, cô nhất định hất cái chăn len Mỹ giá hai trăm đô ra, bắt mọi người đắp cho cái chăn can cũ. Và cô đòi ăn khoai khô nấu với đỗ đen, nắm lại bằng mo cau.
Tôi ra mộ cô thắp mấy nén nhang. Lại một lần đối mặt với vô cùng. Bỗng nhiên nghĩ rằng mình có thể trở thành nhà triết học.
Trại sáng tác Hải Phòng1993
76 Bùi Ngọc Tấn
Khói
Mặt trời khuất sau ngọn núi cao nhất của cả một
dải rừng. Trên đỉnh núi nhô lên như một cái vú bầu bĩnh ấy mọc những cây đại thụ, giờ đây không trông thấy chiều dày của cành lá nữa mà giống như một bức màn mỏng đính vào nền trời xám. Ông Thản khoác khẩu AK đã lên đạn sẵn nhưng được khóa cơ bẩm và ngước nhìn về phía ấy. Chung quanh ông là rừng rậm. (Gọi “ông Thản” là gọi theo cách của tù. Ông Thản là một thanh niên chưa quá 19 tuổi).
Khói 77
Ông Thản biết trên đỉnh núi cao nhất kia, các đồng chí của ông đang đưa ống nhòm phóng tầm mắt ra bốn phía, tìm trong tán lá rừng già trải ở phía dưới những dấu hiệu khả nghi. Một bóng người lộ ra ở bìa rừng, lối xuống bản đồng bào Mán. Một sợi khói mỏng như tơ. Và lùng sục. Tay giữ chặt dây xích, ghì lại những con chó béc giê giống Đức hăng hái lao đi phía trước. Cố tìm ra một dấu vết nào đó như một mẩu vỏ bí dúi vào bụi cây, một hạt cơm vãi bị lá rừng phủ lên, một cành cây gãy đáng nghi, một chút hơi người trên thảm lá mục. Dân bản cho biết đêm trước một nhà bị mất một quả bí trong vườn, một nhà khác có nồi cơm nguội để dưới bếp bị vét sạch. Vậy là thằng Dương còn quanh quẩn vùng này. Cái thằng tù trốn trại ấy. Nó chưa thể đi xa được. Một bán kính 15 ki-lô-mét quanh trại đã được bủa vây chặt chẽ. Các bến tàu, bến xe đều có người canh gác.
Nhưng thằng Dương vẫn bặt tăm hơi. Nó trốn trại vào ban đêm. Đi lối nhà mét. Cũng may, nó trốn cách ấy. Không ai bị quy trách nhiệm cả. Chứ nếu nó trốn trong lúc đi làm thì lôi thôi to. Hẳn bọn ông đã có người khốn khổ.
Có tiếng động phía sau lưng. Ông Thản quay lại, cúi nhìn. Không. Không có ai. Hình như là một cành cây gãy. Còn sáng thế này nó chưa dám đi đâu. Còn chui rúc ở một hang hốc nào đó. Có khi nó lại leo lên cây, ngồi ngay trên đầu mình. Bất thần ông ngước mắt nhìn lên. Rừng rậm. Một thứ rừng quanh năm xanh tươi, không
78 Bùi Ngọc Tấn
"""