"
Ngôn Từ - Jean Paul Sartre PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ngôn Từ - Jean Paul Sartre PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
TỦ SÁCH VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
JEAN - PAUL SARTRE
NGÔN TỪ
THUẬN & LÊ NGỌC MAI dịch
NHÃ NAM - NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC ebook©tudonald78 | 29-03-2021
Ebook này được thực hiện theo dự án “SỐ HÓA SÁCH CŨ” của diễn đàn TVE-4U.ORG
TÁC GIẢ
--------
JEAN - PAUL SARTRE
(1905-1980)
Sau khi tốt nghiệp École normals supérieure, Jean-Paul Sartre (1905- 1980) lấy bằng thạc sĩ Triết học vào năm 1929. Đây cũng chính là thời kỳ ông quen Simone de Beauvoir - triết gia, nhà văn nổi tiếng nước Pháp, người đã nhìn thấy ở Sartre một "bản sao đáp lại những mơ ước thời niên thiếu" để rồi trở thành bạn đời, người tri kỷ với Sartre đến tận những ngày
cuối đời ông.
Trở về từ Thế chiến II, Sartre từ bỏ con người cá nhân chủ nghĩa mà ông từng là vào những năm 1930. Trong chiến tranh, ông đã viết tiểu luận đầu tay sau này trở thành tác phẩm quan trọng nhất của ông và cũng là tác phẩm trọn vẹn nhất về triết học hiện sinh, Tồn tại và hư vô. Những năm sau giải phóng, Jean-Paul Sartre trở thành cái tên nổi tiếng khắp giới trí thức Pháp, được coi như thủ lĩnh của phong trào hiện sinh đang là "mốt" lúc bấy giờ. Trong tạp chí Les temps modernes mà ông sáng lập năm 1945, ông đề cao sự dấn thân như một "mục đích tự thân".
Jean-Paul Sartre luôn giữ niềm tin vào xã hội chủ nghĩa, chống Mỹ, chống chủ nghĩa tư bản và đặc biệt, bài trừ chủ nghĩa đế quốc. Đến tận cuối đời, ông vẫn tiếp tục đấu tranh phản đối chiến tranh Algeria, phản đối tội ác của Mỹ ở Việt Nam, ủng hộ các thuyền nhân và người ly khai Xô viết... Năm 1964, ông từ chối nhận giải Nobel Văn học bởi với ông "không người nào xứng đáng được thừa nhận khi còn sống".
Tặng madame Z.
--------
TỰA
Trong một bộ phim tư liệu1 về Jean-Paul Sartre được quay vào đầu thập kỷ 70 và công chiếu lần đầu tại Liên hoan phim Cannes 1976, bốn năm
trước khi nhà văn qua đời, khi nhắc đến tác phẩm Ngôn từ, Sartre nói rằng ông viết cuốn sách này - cuốn tự truyện nhỏ về tuổi thơ của mình - để nói lời giã biệt với văn học, và ông đã muốn lời giã biệt ấy phải "được viết bằng một thứ văn đẹp".
Đó là một cuốn tự truyện lạ lùng và một lời giã biệt lạ lùng. Ý định viết cuốn "tự truyện-giã biệt" ấy bắt đầu nhen nhóm ở Sartre vào đầu những năm 50, lúc ông đang ở trên đỉnh cao sự nghiệp của mình. Sinh năm 1905, mất năm 1980, với tư cách là nhà văn, nhà triết học, nhà hoạt động xã hội, Sartre trở thành một trong những nhân vật có ảnh hưởng sâu đậm nhất đến đời sống tinh thần của xã hội Pháp trong nhiều thập kỷ giữa thế kỷ 20, đến mức mà có những người đã gọi giai đoạn này là "thế kỷ của Sartre"2. Đầu thập kỷ 50 là thời mà giới trí thức Pháp còn đang say sưa với chủ nghĩa hiện sinh - trào lưu triết học mà Sartre là một trong những người khởi xướng ở Pháp, thời mà tên của Sartre gần như ngày nào cũng xuất hiện trên báo chí truyền thông, thời mà mỗi buổi diễn thuyết của ông đều đông nghẹt người, và, như hồi tưởng của nhà văn Philippe Sollers, hầu như ai trong giới trí thức, sinh viên Pháp lúc bấy giờ cũng ít nhiều là sartrien (người theo trường phái Sartre/ chịu ảnh hưởng của Sartre). Thời điểm ấy, Sartre chưa nói đến chuyện "giã biệt văn học". Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí vào cuối năm 1953, khi đề cập đến dự án viết tự truyện mà
ông đang ấp ủ, nhà văn lại nhấn mạnh một khía cạnh khác: theo ông, đó sẽ là một "tự truyện nhưng có tính chất xã hội và chính trị hơn là cá nhân, về quá trình tiến triển của những người thuộc thế hệ (của ông), từ 1905 cho đến Giải phóng (1945), đi qua các năm 1914,1936,1940"3.
Những phác thảo đầu tiên của cuốn tự truyện hình thành vào năm 1954, nhưng sau vài lần viết rồi bỏ dở nửa chừng, phải đến đầu năm 1963 Sartre mới quay lại thực sự tập trung vào viết để hoàn thành bản thảo này. Ngôn từ ra mắt người đọc vào cuối năm 1963, thoạt tiên được in thành hai kỳ trong số tháng Mười và tháng Mười một của tạp chí Les Temps modernes, sau đó được in thành sách vào đầu năm 1964, chín tháng trước khi Sartre được trao giải Nobel văn học, giải thưởng mà nhà văn đã từ chối bởi không muốn bị ràng buộc vào bất cứ tổ chức nào, bởi ông cho rằng khi mình ký tên là "Jean- Paul Sartre, nhà văn đoạt giải Nobel" thì sẽ không còn giống với khi chỉ ký đơn giản là "Jean-Paul Sartre". Và có lẽ còn bởi vì trong quan niệm của ông - một quan niệm hình thành từ thời thơ ấu, hằn sâu trong tâm trí cậu bé Poulou (tên gọi ở nhà của Sartre thuở nhỏ) và trở đi trở lại nhiều lần trên những trang sách Ngôn từ, - thì con người ta chỉ xứng đáng được vinh danh khi đã qua đời, cũng giống như một cuốn sách chỉ có thể được người đọc đánh giá khi đã gập lại trang cuối, và điều đó cũng có nghĩa là vinh quang đến cùng với sự chấm dứt: vinh quang đồng nghĩa với cái chết.
Ngay khi vừa ra mắt, Ngôn từ lập tức được đón nhận nồng nhiệt và đã góp phần quan trọng trong việc giải Nobel văn học được trao cho Sartre sau đó ít lâu. Giới phê bình văn học Pháp coi đây là "kiệt tác của tự truyện thế kỷ 20", một sự đánh giá mà thoạt nhìn có vẻ như "quá cỡ" đối với một cuốn sách nhỏ chỉ chừng 200 trang, nội dung chỉ giới hạn ở hơn chục năm
đầu đời của tác giả - từ 1905 đến 1917, - khiêm tốn hơn nhiều so với cái dự án quy mô ban đầu của chính Sartre về một tác phẩm "tự truyện xã hội chính trị" trải dài qua mấy chục năm với nhiều biến cố lịch sử trọng đại.
Có gì đặc biệt ở những hồi ức tuổi thơ mà Sartre kể lại trong Ngôn từ? Đó không phải là một "tuổi thơ dữ dội" dù câu chuyện mở đầu bằng cái chết của người cha diễn ra đồng thời với trận ốm thập tử nhất sinh của cậu bé Poulou ngay lúc mới lọt lòng, và dừng lại khi nước Pháp vẫn đang chìm trong cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất. Theo cái nhìn của Sartre, cái chết quá sớm của người cha đã trao tự do cho cậu con trai (cái tự do khỏi bị bậc sinh thành uy quyền "cưỡi trên lưng" như hình tượng mà Sartre mượn ở thần thoại Hy Lạp để diễn tả), những cơn sốt mê man của cậu bé Poulou lại giúp cho cậu "được lợi" vì không phải trải nghiệm nỗi đau khi "nhát kéo cuối cùng đang cắt đi mối quan hệ mẫu tử", còn cuộc đại chiến thế giới khốc liệt thì hầu như chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc sống thường nhật của Poulou ngoài việc khiến cậu bé "buồn chán" vì không được tiếp tục xem những tạp chí truyện tranh yêu thích phát hành trước chiến tranh. Tóm lại, dường như không có gì là bi kịch ở những sự kiện tưởng chừng bi kịch ấy. Cũng hầu như chẳng có những kỷ niệm nhuốm vẻ đẹp thi vị của dĩ vãng thường thấy ở thể loại tự truyện - trừ một vài đoạn ngắn ngủi viết về bà mẹ của nhà văn - dù câu chuyện đề cập đến một quãng đời khá êm đềm của cậu bé Poulou, được bao bọc trong sự yêu thương chiều chuộng hết mức của mẹ và ông ngoại. Ngôn từ là một tự truyện không có những hoài niệm, cả ngậm ngùi cay đắng lẫn cảm động ngọt ngào. Sartre không hoài niệm, ông mổ xẻ, phân tích, giải mã tuổi thơ của mình - bằng con mắt lạnh lùng, sắc sảo, không thương xót và đầy trải nghiêm của một nhà văn đứng tuổi, đứng tách hẳn ra cậu bé "ngông cuồng" là chính mình ngày xưa - để đi tìm
câu trả lời cho một câu hỏi lớn: điều gì đã thúc đẩy ông đến với nghiệp văn chương? Sự mổ xẻ, phân tích, đánh giá rất lạnh lùng và sắc sảo ấy đã đem lại sắc thái đặc biệt cho Ngôn từ: với giọng điệu nổi bật là hài hước, mỉa mai, chế nhạo (chủ yếu là tự chế nhạo), xen lẫn với những suy tư triết học vừa chặt chẽ logic vừa phức tạp rắm rối nhưng đầy cuốn hút, câu chuyện về tuổi thơ của Sartre trở nên giống một tác phẩm châm biếm, một tiểu thuyết triết lý, hơn là một tự truyện.
Sartre không bao giờ giải thích vì sao câu chuyện về đời ông trong Ngôn từ dừng lại đột ngột ở năm 1917, khi ông mới mười hai tuổi, nhưng thời điểm này trùng hợp với một biến cố lớn trong đòi Sartre: mẹ ông tái hôn vào tháng Tư năm đó, Sartre theo mẹ rời ngôi nhà của ông bà ngoại ở Paris để chuyển đến La Rochelle sống cùng người cha dượng mà ông không sao hòa hợp nổi và bắt đầu một giai đoạn u ám đối với ông (kéo dài ba năm, cho đêh 1920 là năm mà Sartre được gửi trở lại Paris để đi học trung học ở thủ đô), giai đoạn mà sau này ông gọi là "những năm tồi tệ nhất của đời tôi". Có lẽ, như một số nhà phê bình văn học phỏng đoán, Sartre tránh nhắc lại đoạn đời ấy để khỏi làm phiền lòng người mẹ mà ông rất yêu thương. Đáng tiếc là ông cũng không kể về những năm tiếp theo, dù ban đầu đã dự định kéo dài nội dung cuốn tự truyện đến tận 1945, và dù khoảng thời gian giữa 1920 và 1945 chính là thời kỳ hình thành và chín muồi của ông với tư cách nhà văn-nhà triết học. Đầu thập kỷ 60, khi Sartre bắt tay vào viết bản thảo Ngôn từ lần cuối, cũng là lức mà phần lớn thời gian và tâm huyết của ông bắt đầu dồn vào các hoạt động "trí thức dấn thân", văn học dần dần không còn chỗ trong những mối quan tâm hàng đầu của ông nữa: có thể, đây là một trong những lý do cơ bản khiến cho Ngôn từ không có phần tiếp theo như dự kiến?
Dù thế nào đi nữa, không phải ngẫu nhiên mà cuốn tự truyện về tuổi thơ của Sartre lại là tác phẩm mà nhà văn dùng để nói lời giã biệt văn học. Chính xác hơn, Sartre muốn giã biệt một thứ văn học nhất định, thứ văn học mà ông cho là một bộ phận của văn hóa trưởng giả, viết bằng ngôn ngữ của giới trưởng giả và hướng tới độc giả thuộc giới này, với quan niệm về quyền lực tuyệt đối của ngôn từ và khả năng cứu rỗi con người bằng Cái Đẹp. Sinh ra trong một gia đình trí thức tiểu tư sản, được giáo dục bởi ông ngoại là một nhà giáo tôn thờ văn chương như một thứ tôn giáo, Sartre lớn lên trong sự tôn thờ văn học ấy và, như ông kể lại trong cuốn tự truyện, "thiên chức nhà văn" ở ông được quyết định ngay từ những ngày thơ ấu. Để rồi, mấy chục năm sau, khi đã có đủ vinh quang danh vọng trong nghề nghiệp, nhà văn nhìn lại chặng đường đi của mình và có những lời tự đánh giá khá nghiệt ngã: "Tôi đã thấy những đứa trẻ chết đói. Trước một đứa trẻ đang hấp hối, cuốn Buồn nôn chẳng có ý nghĩa gì."4 (Buồn nôn là tên một tiểu thuyết của Sartre, xuất bản năm 1938: đây là tác phẩm văn học đầu tiên đem lại danh tiếng cho ông). Đề cao văn học dấn thân, văn học có ích, văn học viết cho thời đại mình và nhằm góp phần giải quyết những vấn đề tức khắc của thời đại, Sartre trở nên cực đoan đến mức ở phần cuối của Ngôn từ, ông đã gọi những hoạt động văn học trước đây của ông là "một căn bệnh điên rồ lâu dài, cay đắng và dịu ngọt" mà ông cho rằng mình đã may mắn chữa khỏi. Ông quyết định "tính sổ" với quá khứ bằng cách trở về ngọn nguồn, trở về tuổi thơ - về cái thời mà cậu bé Poulou đã "ngạo mạn nhận vào mình" sứ mệnh nhà văn như là người cứu rỗi nhân loại - để giải ngộ những huyền thoại xưa cũ gắn với văn học và thiên chức nhà văn. "Tôi đề nghị mọi người hãy coi cuốn sách này đúng như nó là: một công việc giải ngộ" - Sartre đã khẳng định rõ ràng như vậy trong lời tựa ngắn mà
ông viết cuối năm 1964 cho bản dịch tiếng Nga của cuốn Ngôn từ. Và ông muốn giã biệt văn học chính bằng sự giải ngộ ấy.
Nhưng Sartre là một con người đầy mâu thuẫn, như chính ông tự nhận. Là một trí thức cánh tả phương Tây điển hình của thời đại ông, sống hết mình với những chính kiến của bản thân, Sartre luôn luôn đứng về phía những người nghèo, những kẻ yếu, những người bị đàn áp, và do vậy, thường ở vào vị trí đối nghịch với giai cấp xuất thân của mình. Ủng hộ nhiệt thành các phong trào công nhân ở Pháp, các cuộc đấu tranh giải phóng thuộc địa - giải phóng dân tộc ở các nước Á-Phi trong thế kỷ 20, đến tuổi sáu mươi ông vẫn không do dự khi lên tiếng bảo vệ giới trẻ Pháp trong cuộc nổi dậy của họ chống lại thể chế hiện hành vào tháng Năm năm 1968... Với tinh thần ấy, ở tư cách nhà hoạt động văn hóa, Sartre muốn đoạn tuyệt với nền văn hóa trưởng giả là môi trường xuất thân của ông và gắn bó mật thiết với ông nhưng "xa lạ với quần chúng", để hướng tới một nền văn hóa vì tầng lớp nhân dân lao động và gần gũi với họ. Nhà văn nhận thức điều này như một mâu thuẫn không dễ hóa giải trong con người ông: "Cá nhân tôi cảm nhận sâu sắc mâu thuẫn giữa hai nền văn hóa: tôi được tạo nên bởi những mâu thuẫn này."5 Trong Ngôn từ, Sartre tự gọi mình là "kẻ phản bội" ("Tôi đã trở thành kẻ phản bội và tôi vẫn là như thế"), tuy vậy, đối với ông, "phản bội" giai cấp của mình trong các hoạt động xã hội-chính trị dường như dễ hơn nhiều so với "phản bội" trong lĩnh vực văn hóa-văn học. Với Ngôn từ, Sartre cho rằng ông đã "khỏi bệnh", đã nói xong lời giã biệt với thứ văn học mà theo ông là cần phải đoạn tuyệt. Thế nhưng, gần mười năm sau khi viết Ngôn từ, Sartre lại thừa nhận: "Thực ra, sự việc không đơn giản như vậy (...) Dù tôi luôn luôn phản đối giới trưởng giả, các tác phẩm của tôi là dành cho họ, viết bằng ngôn ngữ
của họ... Từ mười bảy năm nay tôi gắn bó với một tác phẩm về Flaubert mà chắc chẳng khiến giới công nhân quan tâm bởi nó được viết bằng một phong cách phức tạp và hẳn là có tính chất trưởng giả (...) Do đó trong tôi tồn tại một mâu thuẫn rất đặc biệt: tôi vẫn còn viết sách cho giới trưởng giả và tôi tự cảm thấy mình đoàn kết với những người lao động muốn lật đổ giai cấp ấy."6
Ngôn từ thể hiện rõ mâu thuẫn đặc biệt này của Sartre: tác phẩm dùng để giã biệt thứ văn học mà nhà văn muốn đoạn tuyệt lại được ông viết bằng chính thứ văn học ấy, ở mức độ điêu luyện rất cao của nó, với sự chú trọng đặc biệt đến phong cách, đến vẻ đẹp của ngôn từ, với những suy nghĩ và phân tích sâu sắc đầy tính triết lý về nhiều vấn đề cơ bản của xã hội, về thân phận con người, về bản chất và sứ mệnh của văn học nghệ thuật..., nhưng lại không thực sự liên quan trực tiếp đến những vấn đề thời sự nóng bỏng như thứ văn học dấn thân, có ích mà Sartre đề xướng. Điều này khiến cho giới phê bình văn học Pháp gọi Ngôn từ là một lời giã biệt văn học đầy nghịch lý. Nhưng đó chính là chủ ý của Sartre: ông đã muốn tác phẩm-giã biệt này phải được viết bằng một thứ văn đẹp, phải là tác phẩm có tính văn học nhất trong các tác phẩm của ông. Và đúng là như vậy: những câu văn trong Ngôn từ được viết một cách tinh tế với những hình ảnh đắt giá và nhiều tầng ý nghĩa (Sartre đặc biệt chú trọng tính đa nghĩa của văn chương, ông cho rằng cái phân biệt ngôn ngữ văn học với ngôn ngữ sử dụng trong đời thường chính là tính đa nghĩa này, rằng mỗi người đọc tùy thuộc vào trình độ và trải nghiệm của mình sẽ có những cấp độ hiểu khác nhau, và, thậm chí, "nếu không có khả năng đem lại cho ngôn ngữ tính đa nghĩa thì chẳng cần mất công viết làm gì"7). Là sản phẩm của một nhà văn cực kỳ uyên bác và đa tài, những trang viết trong Ngôn từ nặng chất trí tuệ với
nhiều kiến thức trong những lĩnh vực rất khác nhau: thần thoại Hy Lạp-La Mã, văn học Pháp và thế giới từ cổ đến kim, âm nhạc, điện ảnh, triết học, tôn giáo, tâm lý học, văn hóa, lịch sử, thậm chí cả vật lý nữa. Tóm lại, như một số nhà phê bình văn học Pháp nhận xét, vẻ đẹp của Ngôn từ là một vẻ đẹp bác học (beauté savante).
Vẻ đẹp bác học ấy khiến cho Ngôn từ cuốn hút nhưng không dễ đọc, ngay cả đối với độc giả Pháp, và vì vậy, đương nhiên, nó cũng làm cho việc chuyển ngữ tác phẩm này trở thành một thử thách lớn đối với chúng tôi, những người dịch Ngôn từ sang tiếng Việt. Nhận thức được tính chất phức tạp của công việc này, những người dịch đã cố gắng làm việc một cách cẩn thận, nghiêm túc, đồng thời tham khảo cả ý kiến của bạn bè Pháp, Việt đối với những trường hợp mà chúng tôi thấy phân vân. Dù vậy, bản dịch chắc chắn vẫn còn những thiếu sót mả chúng tôi mong được bạn đọc lượng thứ. Nhân đây, xin chân thành cám ơn bạn bè và người thân đã dành thời gian giúp đỡ cho việc dịch cuốn sách này, đặc biệt xin cảm ơn Paul Galvan ở Ecole normale supérieure (Paris) đã đóng góp nhiều ý kiến rất quý giá.
Để giúp độc giả Việt Nam - vốn xa lạ với văn hóa, văn học, lịch sử Pháp và châu Âu - những người dịch đã cố gắng đưa vào bản dịch này nhiều chú thích (không có trong bản gốc của tác giả, vốn hướng tới độc giả Pháp với một nền tảng văn hóa khác) nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản cần thiết cho việc hiểu tác phẩm. Tuy rằng chưa đầy đủ, nhưng chúng tôi hy vọng điều này sẽ có ích phần nào cho bạn đọc trong việc khám phá và thưởng thức Ngôn từ, tác phẩm lớn của một nhà văn lớn tiêu biểu cho văn học Pháp thế kỷ 20.
Tháng Hai năm 2017
Lê Ngọc Mai
I
--------
ĐỌC
THUẬN dịch
Ở
vùng Alsace, khoảng năm 1850, một giáo viên tiểu học để nuôi một đàn con đành chấp nhận làm nghề bán thực phẩm khô. Ông thầy bỏ nghiệp đó mong muốn một đền bù: vì ông đã phải từ chối công việc đào tạo tinh thần, nên một trong các con trai của ông sẽ làm nghề đào tạo tâm hồn; trong nhà sẽ có một mục sư, và đó sẽ là Charles. Nhưng Charles lủi mất, thích lang thang theo đuổi một nàng kỵ sĩ hơn. Người ta bèn úp ảnh hắn vào tường và cấm không được nói đến tên hắn. Đến lượt ai bây giờ? Auguste vội vã bắt chước sự hy sinh của cha: cậu theo nghề buôn bán và cảm thấy rất dễ chịu. Còn lại Louis chẳng có thiên hướng nào đặc biệt: ông bố tóm lấy thằng con trầm tính này và nhoáy một cái biến nó thành mục sư. Sau này, Louis đẩy cao sự phục tùng đến độ cho ra đời một mục sư nữa, Albert Schweitzer, mà chúng ta đã biết rõ sự nghiệp. Thế nhưng Charles đã không tìm thấy nàng kỵ sĩ; hành động đẹp đẽ của người cha đã để lại dấu ấn lên hắn: cả đời hắn, hắn giữ mãi mùi vị của sự cao thượng và hăng hái tạo ra những hoàn cảnh vĩ đại bằng những sự kiện nho nhỏ. Như chúng ta thấy, hắn không tìm cách lẩn tránh khuynh hướng của gia đình; hắn mong muốn dâng hiến đời mình cho một hình thức nhẹ nhàng hơn của giá trị tinh thần, một nghề nghiệp cho phép hắn có những nàng kỵ sĩ. Nghề nhà giáo thật là hợp: Charles chọn dạy tiếng Đức. Hắn bảo vệ luận án về Hans
Sachs, lựa chọn phương pháp giảng trực tiếp mà sau này hắn tự nhận là người phát minh ra, cộng tác với Simonnot xuất bản một cuốn Deutsches Lesebuch"8 được đánh giá cao, và làm một sự nghiệp nhanh gọn: Mâcon, Lyon, Paris. Ở Paris, vào lễ trao giải thưởng, hắn đọc một bài phát biểu mà sau đó đã có vinh dự được dành cho hẳn một số báo: "Thưa ngài Bộ trưởng, thưa các quý ông, quý bà, các học trò thân mến, mọi người sẽ không bao giờ đoán nổi hôm nay tôi sẽ nói với quý vị về vấn đề gì! Về âm nhạc!" Hắn rất giỏi lẩy thơ. Hắn có thói quen nói trong các cuộc họp gia đình: "Louis hiếu thảo nhất, Auguste giàu có nhất, nhưng tôi thông minh nhất." Các anh em trai cùng cười, còn các chị em dâu thì mím môi. Ở Mácon, Charles Schweitzer cưới Louise Guillemin, con gái của một nhân viên quan tòa theo đạo Thiên Chúa. Nàng ghét cay ghét đắng chuyến trăng mật của họ: Charles đã bắt cóc nàng trước khi bữa ăn kết thúc và ném nàng lên tàu. Ở tuổi bảy mươi, Louise vẫn còn kể về món xa lát tỏi tây mà người ta phục vụ họ trong một quầy ăn ở ga: "Hắn xơi hết phần trắng, để cho tôi phần xanh." Họ đã ở lại Alsace mười lăm ngày liền mà không rời bàn ăn; các anh em trai kể cho nhau nghe bằng thổ ngữ những câu chuyện tục tĩu, thỉnh thoảng anh chồng mục sư quay về phía Louise và với một lòng tương ái kiểu Cơ Đốc dịch cho nàng nghe. Nàng đã nhanh chóng tìm cách để được cấp chứng nhận khống mà nhờ đó được miễn quan hệ giường chiếu và có quyền ngủ riêng phòng; nàng nói về những cơn đau đầu, quen dần với việc nằm ườn trên giường và trở nên ghét tiếng động, dục vọng, phấn khích, toàn bộ cuộc sống dung tục, thô lậu và giả dối của gia đình Schweitzer. Người phụ nữ sống động và tinh nghịch mà lạnh lùng này suy nghĩ thẳng thắn nhưng trái đạo, bởi vì chồng nàng suy nghĩ đúng đạo nhưng vẹo vọ; vì hắn là một tên nói dối nhưng cả tin, còn nàng, nàng nghi
ngờ mọi thứ: "Chúng khẳng định là trái đất quay, nhưng chúng biết gì về điều ấy?" Bao vây bởi những diễn viên kịch đầy đạo đức, nàng thù ghét kịch và đạo đức. Người phụ nữ theo chủ nghĩa hiện thực rất thanh nhã này, lạc lối trong một gia đình gồm những người theo chủ nghĩa duy linh thô lậu, vì thách thức mà nàng làm ra vẻ theo tinh thần của Voltaire nhưng lại không đọc Voltaire9. Dễ thương và mũm mĩm, vô sỉ, hồn nhiên, nàng đã trở thành sự phủ nhận thuần khiết; bằng một cái nhếch mày, một nụ cười khó nhận thấy, nàng coi khinh tất cả những thái độ trịch thượng, nhưng giấu trong lòng và không ai phát hiện ra. Nàng bị giày vò bởi thói kiêu ngạo tiêu cực và tính ích kỷ chối từ. Nàng không gặp gỡ ai, quá kiêu hãnh không thèm đòi vị trí thứ nhất, nhưng lại quá viển vông nên không thể đành lòng với vị trí thứ hai. "Hãy biết cách để khiến người khác thèm muốn mình", nàng nói. Đầu tiên người ta thèm muốn nàng rất nhiều, rồi dần dần ít đi, và cuối cùng do không gặp nàng, nên họ quên nàng. Nàng hầu như không còn rời ghế bành và giường ngủ. Theo chủ nghĩa tự nhiên nhưng lại rất nguyên tắc về mặt đạo đức (sự kết hợp của hai đức tính hóa ra không hiếm như ta tưởng), gia đình Schweitzer khoái những ngôn từ sống sượng, những loại từ tuy hạ thấp cơ thể con người đúng tinh thần đạo Cơ Đốc, lại tỏ ra rất tán thành các chức năng bẩm sinh; Louise thì thích những ngôn từ ẩn ý. Nàng đọc rất nhiều tiểu thuyết phóng đãng mà nàng không thích tình tiết cốt truyện bằng những tấm mạng trong suốt bao bọc nó: "Bạo, viết tốt, nàng nói vẻ tinh tế. Lũ người trần, coi nhẹ mọi chuyện thôi, đừng nặng nghĩ10!" Thiếu phụ trinh trắng này nghĩ là nàng có thể chết vì cười khi đọc Cô gái rực lửa của Adolphe Belot. Nàng thích thú kể lại những câu chuyện về mấy đêm trăng mật bao giờ cũng kết thúc tồi: khi thì anh chồng, trong con vội vàng quá đáng, đập cổ vợ vào thành giường; khi thì, sáng hôm sau
người ta tìm thấy cô vợ trẻ đang trốn trong tủ quần áo, trần truồng và hóa điên. Louise sống trong ánh sáng mờ mờ; Charles vào phòng nàng, mở các cửa chớp ra, bật tất cả các đèn lên, nàng đưa tay che mắt và rên rỉ: "Charles, anh làm tôi lóa mắt!" Nhưng sự kháng cự của nàng không vượt qua giới hạn của một chống đối mang tính thể tạng: Charles thường khiến nàng sợ hãi, cực ghét, nhưng đôi khi lại gọi chút thân tình, miễn là đừng động tới người nàng. Nàng chấp nhận thua mọi thứ mỗi khi hắn mở miệng kêu gào. Hắn cho nàng bốn đứa con, đều ngoài kế hoạch: một đứa con gái mất từ lúc nhỏ, hai thằng con trai và một đứa con gái nữa. Do thờ ơ hoặc do tôn trọng, hắn cho phép người ta nuôi dạy con cái theo tinh thần Công giáo. Vô đạo, do kinh tởm đạo Tin Lành, Louise đã biến chúng thành sùng đạo. Hai cậu con trai đứng về phía mẹ; nàng dần dần tách chúng khỏi ông bố kềnh càng; Charles thậm chí không hay biết gì về điều này. Cậu con trai cả, Georges, vào đại học Bách khoa; cậu thứ hai, Émile, thành giáo viên tiếng Đức. Cậu này khiến tôi tò mò: tôi biết rằng cậu suốt đời độc thân và cái gì cũng bắt chước cha tuy chẳng hề yêu cha. Cha và con có những lúc giận nhau; rồi lại có những cuộc làm lành đáng ghi nhớ. Émile giấu kín cuộc đời mình; cậu rất yêu mẹ, và cho đến cuối đời vẫn giữ thói quen tới thăm mẹ không báo trước và lén lút; cậu phủ lên mẹ những nụ hôn và những vuốt ve, rồi bắt đầu nói chuyện về bố, đầu tiên là mỉa mai, tiếp theo là nổi giận và rời khỏi nhà mẹ đóng sầm cửa lại. Louise yêu con trai, tôi tin vậy, nhưng cậu làm nàng sợ: hai người đàn ông thô lỗ và khó tính khiến nàng mệt mỏi và nàng thấy yêu Georges chẳng bao giờ có mặt ở nhà hơn. Émile mất năm 1927, phát điên vì cô độc: người ta tìm thấy một khẩu súng lục dưới gối của cậu, và trong những cái rương là một trăm đôi tất rách và hai mươi đôi giày đi ở nhà đã vẹt gót.
Anne-Marie, cô con gái út, trải qua cả tuổi thơ trên một cái ghế. Người ta dạy cô biết buồn chán, biết đứng thẳng người và biết may. Cô có một số năng khiếu, nhưng người ta tin rằng cứ để kệ chúng thì mới là tao nhã; về vẻ tươi da thắm thịt: người ta cẩn thận tìm cách giấu cô. Những thị dân khiêm tốn và kiêu hãnh này đánh giá sắc đẹp cao hơn khả năng hoặc thấp hơn địa vị của mình; họ cho là nó phù hợp với các nữ hầu tước và lũ gái điếm. Louise có tính kiêu ngạo cằn cỗi nhất trên đời: sợ bị lừa, nàng phủ nhận ở con cái, chồng và cả bản thân những đức tính hiển nhiên nhất; Charles không biết nhận thức sắc đẹp của người khác: hắn nhầm nó với sức khỏe: từ khi vợ bị bệnh, hắn giải khuây với những người đàn bà hết sức duy tâm, có ria, nhuộm tóc, khỏe mạnh. Năm chục năm sau, lần giở những trang album của gia đình, Anne-Marie nhận ra rằng mình đã từng đẹp.
Gần vào thời điểm mà Charles Schweitzer gặp Louise Guillemin, một đốc tờ nông thôn kết hôn cùng con gái một điền chủ giàu có vùng Périgord và đến ở cùng vợ trong con phố chính buồn bã của thị trấn Thiviers, đối diện với hiệu thuốc. Sau đám cưới một hôm, ông bố vợ bị phát hiện là chẳng có xu nào. Giận dữ, đốc tờ Sartre bốn mươi năm liền không nói chuyện với vợ; ở bàn ăn, ông chỉ ra dấu, cuối cùng bà đành gọi ông là "khách trọ". Thế nhưng ông vẫn ngủ cùng giường với bà, và, thỉnh thoảng, chẳng nói năng gì, làm bà có chửa: bà cho ông hai con trai và một con gái; những đứa trẻ sinh ra từ sự lặng câm này có tên là Jean-Baptiste, Joseph và Hélène. Khi đã cứng tuổi, Hélène lấy một sĩ quan kỵ binh, người này sau đó bị bệnh điên. Joseph đi nghĩa vụ trong lính bộ binh ở Algérie và nhanh chóng rút về nhà cha mẹ. Anh ta không có nghề ngỗng gì: giằng xé giữa thái độ im lặng của cha và những eo sèo của mẹ, anh ta trở thành kẻ nói lắp
và chiến đấu suốt đời với ngôn từ. Còn Jean-Baptiste thì muốn thi vào hải quân để thấy biển. Năm 1904, ở Cherbourg, chàng sĩ quan hải quân kiệt quệ bởi những cơn sốt bị từ hồi ở Nam kỳ Đông Dương làm quen với Anne-Marie Schweitzer, chiếm được cô thiếu nữ cao lớn bị lãng quên trong gia đình ấy, cưới nàng làm vợ, chớp nhoáng cho nàng một đứa con, tức là tôi, và toan trốn mình vào cái chết.
Nhưng chết đâu có dễ: con sốt kiết lị dâng từ từ, rồi bệnh dần thuyên giảm. Anne-Marie hết lòng chăm sóc chồng, nhưng không đẩy sự gần gũi sỗ sàng thành tình yêu. Trước đấy, Louise đã cảnh báo con gái về cuộc sống hôn nhân, rằng tiếp theo đám cưới tang thương là một chuỗi dài hy sinh vô tận xen lẫn những tục tĩu hàng đêm. Theo gương bà ngoại tôi, mẹ tôi thích nghĩa vụ hơn khoái cảm. Mẹ tôi không biết cha tôi mấy, trước cũng như sau khi lấy ông, và hẳn là đôi khi cũng tự hỏi lý do gì mà con người xa lạ đó lại chọn để chết trong vòng tay nàng. Người ta chuyển ông đến một trại lính canh cách thị trấn Thiviers mấy dặm. Cha của ông hằng ngày tới thăm ông bằng xe ngựa. Chăm sóc và lo lắng đã lấy hết sức lực của mẹ, sữa mẹ cạn, tôi được giao cho một bảo mẫu không xa nhà lắm, và tôi, tôi cũng cố mà chết: do viêm ruột non, và cũng có thể vì oán giận. Hai mươi tuổi, không kinh nghiệm, không được ai khuyên, mẹ tôi tan tác giữa hai kẻ sắp chết xa lạ; đám cưới đầy lý trí của mẹ tôi tìm thấy sự thật của nó trong bệnh tật và tang tóc. Còn tôi, tôi được lợi từ tình thế ấy: thời đó, các bà mẹ tự cho con bú rất lâu; nếu không may mắn có con hấp hối kép ấy, tôi đã bị đặt vào những khó khăn của việc cai sữa muộn. Ốm đau quặt quẹo, bị ép cai sữa lúc chín tháng, sốt cao và mê mệt đã ngăn không cho tôi nhận thấy nhát kéo cuối cùng đang cắt đi mối quan hệ mẫu tử; tôi như bơi trong một thế giới hỗn loạn, đầy những ảo giác đơn sơ và những thần tượng thô
lậu. Cha tôi qua đời, mẹ tôi và tôi cùng thức dậy bởi một cơn ác mộng chung; rồi tôi khỏi bệnh. Nhưng chúng tôi đều là nạn nhân của một sự hiểu lầm: mẹ tôi bằng tình yêu tìm lại được một thằng con trai mà mẹ chưa từng thật sự rời bỏ; còn tôi thì tỉnh lại trên đầu gối của một người đàn bà mà tôi chưa từng quen.
Không tiền, chẳng nghề, Anne-Marie mẹ tôi quyết định quay về sống ở nhà ông bà ngoại tôi. Nhưng cái chết trêu ngươi của cha tôi đã làm mếch lòng gia đình Schweitzer: như thể cha đã bỏ mẹ. Vì đã không biết dự báo cũng như cảnh báo, mẹ tôi đâm mang tiếng là có tội: đã dại dột lấy phải một thằng chồng không bền. Với mẹ, nàng Arianne11 dong dỏng cao, khi quay lại Meudon ôm theo một đứa con, tất cả mọi người đều hoàn hảo: ông ngoại tôi đã xin nghỉ hưu nhưng sau đó lại quay trở về với công việc không một lời oán trách; bà ngoại tôi hân hoan một cách kín đáo. Nhưng mẹ tôi, tuy biết ơn đến đờ đẫn cả người, vẫn đoán ra sự khiển trách dưới những đối xử tốt đẹp: các gia đình tất nhiên thích con gái bị góa hơn là con gái không chồng mà có con, nhưng cũng tí tẹo thôi. Để được họ tha thứ, mẹ tôi đã không tiếc sức, chăm sóc ngôi nhà của cha mẹ ở Meudon, rồi ở Paris, biến mình thành quản gia, y tá, quản lý, nữ tùy tùng, nô tì, mà không tài nào làm nguôi đi sự khó chịu câm lặng của bà ngoại tôi. Louise bà ngoại tôi chán ngấy việc sáng lên thực đơn, tối tính toán chi tiêu, nhưng lại khó khăn chấp nhận người khác làm thay mình; bà vừa trút bỏ trách nhiệm, vừa cáu kỉnh vì bị mất đặc quyền. Người phụ nữ đang già đi và vô sỉ này chỉ có một ảo tưởng; bà tin mình là người tối cần thiết. Ảo tưởng tiêu tan và bà bắt đầu ghen với con gái. Thật khổ thân Anne-Marie mẹ tôi: nếu mẹ thụ động, chắc người ta đã buộc tội mẹ là gánh nặng cho họ; mẹ tích cực thì họ nghi mẹ muốn cai quản cái nhà này. Để tránh vỉa đá ngầm đầu tiên, mẹ cần
toàn bộ lòng dũng cảm, để tránh vỉa đá ngầm thứ hai, mẹ cần toàn bộ sự nhún nhường. Chẳng bao lâu, góa phụ trẻ quay trở lại làm đứa con vị thành niên: một trinh nữ đã dính chàm. Không phải họ từ chối tiền tiêu vặt của mẹ, mà họ quên đưa cho mẹ; mẹ dùng mòn cả tủ quần áo mà ông ngoại tôi vẫn không tính đến chuyện mua thêm. Người ta hầu như không chịu nổi việc mẹ đi chơi một mình. Khi các bạn cũ của mẹ, hầu như đã có gia đình, mời mẹ đến nhà ăn tối, họ đều phải xin phép từ rất lâu trước đó và phải hứa sẽ đưa mẹ về nhà trước mười giờ. Giữa bữa ăn, chủ nhà đứng dậy rời khỏi bàn để dẫn mẹ ra ô tô. Trong lúc đó, ông ngoại tôi mặc áo ngủ bước từng bước dài trong phòng, tay cầm đồng hồ. Khi đồng hồ điểm tiếng chuông cuối cùng chỉ mười giờ, ông gầm lên. Những lời mời ngày càng hiếm và mẹ tôi phát ớn lên vì những niềm vui phải trả giá đắt như thế.
Cái chết của Jean-Baptiste cha tôi là một sự kiện lớn trong đời tôi: nó trả lại cho mẹ tôi sợi dây xiềng xích và trao cho tôi tự do.
Không có người cha tốt, quy luật thế rồi; đừng kêu ca đàn ông mà hãy phê phán mối quan hệ phụ tử thối rửa. Tạo ra đứa con, không có gì hay ho hơn thế; nhưng có con, là cả một lỗi lầm! Nếu còn sống thì cha tôi sẽ nằm lên lưng tôi và sẽ nghiến nát tôi. May thay, ông đã mất khi tôi còn quá nhỏ; ở giữa những Énée12 cõng trên lưng các ông bố Anchise13 , tôi đi từ bờ này tới bờ kia, đơn độc và căm ghét những bậc sinh thành vô hình cưỡi suốt đời trên lưng con cái; tôi bỏ lại phía sau một thanh niên chết trẻ không có đủ thời gian để trở thành cha tôi và ngày hôm nay có thể là con trai tôi. Điều đó tốt hay xấu? Tôi không biết, nhưng tôi sẵn sàng tán thành nhận xét nghiêm khắc của một nhà phân tâm học lỗi lạc: tôi không có cái siêu-tôi.
Chết không phải là tất cả, nhưng phải chết đúng lúc. Sau này, tôi tự cảm thấy có tội; một đứa trẻ mồ côi có ý thức thường tự kết án như sau: bực
mình vì phải nhìn thấy nó, nên cha mẹ nó đã rút lên ở trên trời cao. Tôi thì tôi vô cùng sung sướng: hoàn cảnh đáng buồn của tôi khiến người khác phải kính nể, tạo cho tôi tầm quan trọng; tôi liệt sự tang tóc của tôi vào số những phẩm chất mà tôi có. Cha tôi đã có nhã ý chết do lỗi của ông: bà ngoại tôi nhắc đi nhắc lại rằng cha tôi đã lẩn tránh trách nhiệm của mình; ông ngoại tôi, chính vì kiêu hãnh với truyền thống trường thọ trong gia đình Schweitzer nên không cho phép người khác qua đời ở tuổi ba mươi. Từ những thông tin quanh cái chết khó hiểu này, ông ngoại tôi đâm ra nghi ngờ về sự tồn tại của con rể, để cuối cùng thì quên hẳn cha tôi. Tôi không cần phải quên cha tôi: trong khi im lìm chạy trốn, Jean-Baptiste cha tôi đã từ chối không cho tôi niềm vui được làm quen với ông. Thậm chí hôm nay tôi vẫn còn ngạc nhiên với những điều ít ỏi mà tôi biết về ông. Dù sao thì ông cũng đã yêu, đã muốn sống, và ông đã thấy mình chết; điều ấy đủ để làm nên một con người. Nhưng chẳng ai trong gia đình tôi có khả năng khiến tôi tò mò về con người ông. Trong nhiều năm liền, tôi có thể thấy, ngay trên đầu giường tôi, chân dung của một sĩ quan thấp bé, đôi mắt ngây thơ, đầu tròn và ít tóc, với một bộ ria dày: khi mẹ tôi tái hôn, bức chân dung biến mất. Sau này, tôi thừa hưởng những cuốn sách từng thuộc về ông: một tác phẩm của Le Dantec về tương lai của khoa học, một cuốn nữa của Weber có nhan đề Về chủ nghĩa thực chứng thông qua chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối. Ông đã đọc những thứ vớ vẩn y hệt như những người cùng thời ông. Ở lề sách, tôi thường thấy những nét chữ nguệch ngoạc không sao luận được, những dấu hiệu chết chóc của một tia sáng bé nhỏ từng sống và nhảy nhót vào thời điểm tôi vừa lọt lòng. Tôi bán những cuốn sách ấy đi: kẻ quá cố này hầu như không liên quan đến tôi. Tôi biết ông một cách phong thanh, như kiểu tôi nghe về chàng Mặt nạ sắt hay hiệp sĩ Eon, và những điều tôi biết về ông chẳng ăn nhập gì với tôi: ông có yêu tôi hay
không, ông có ôm tôi vào lòng hay không, ông có hướng về tôi cặp mắt sáng màu của ông, cặp mắt ngày hôm nay đã bị mục ruỗng trong đất? Giờ đây chẳng ai còn nhớ những điều ấy: đó là những đau khổ yêu thương đã bị đánh mất. Người cha này thậm chí không phải là một cái bóng hay một cái nhìn: chúng tôi, ông và tôi, trong một khoảng thời gian nào đó, đã cùng xuất hiện trên trái đất này, có vậy thôi. Thay vì để tôi tự coi là đứa con của người chết, người ta đã muốn tôi hiểu rằng tôi là đứa con của phép mầu. Không nghi ngờ gì nữa, đó là nguyên nhân dẫn tôi tính coi nhẹ mọi thứ trên đời nơi tôi. Tôi không phải là sếp, cũng không mong muốn trở thành sếp. Ra lệnh, phục tùng, với tôi tất cả chỉ là một. Kẻ độc đoán nhất ra lệnh nhân danh một kẻ khác, một ký sinh thiêng liêng - cha hắn - và truyền đi tất cả những hung bạo trừu tượng mà hắn phải chịu. Còn tôi, suốt đời tôi chưa bao giờ ra lệnh mà lại không cười và chọc cười; đó là vì tôi đã không bị ăn mòn bởi sự lở loét của quyền lực: người ta không dạy tôi phải phục tùng.
Tôi phải phục tùng ai nhỉ? Người ta chỉ cho tôi xem một thiếu phụ khổng lồ, người ta bảo tôi đó là mẹ tôi. Về phía tôi, tôi coi nàng như chị của tôi. Thiếu phụ trinh trắng bị giam lỏng tại gia đó, tuân lệnh mọi người, tôi thấy rõ nàng có mặt ở đây là để phục vụ tôi. Tôi yêu nàng, nhưng làm sao tôi có thể tôn trọng nàng khi mà chẳng ai tôn trọng nàng? Trong nhà chúng tôi có ba phòng ngủ: phòng của ông ngoại tôi, phòng của bà ngoại tôi, phòng của "trẻ con". "Trẻ con", tức là chúng tôi: đều vị thành niên như nhau và đều phải được nuôi dưỡng như nhau. Nhưng mọi quan tâm lại chỉ dành cho tôi. Trong phòng của tôi, người ta kê một cái giường thiếu nữ. Nàng thiếu nữ ngủ một mình và thức dậy trong trinh tiết; khi tôi vẫn còn ngủ, thì nàng đã vội đi tắm; rồi nàng quay lại quần áo đâu vào đấy: làm sao tôi lại có thể được sinh ra từ nàng? Nàng kể cho tôi những bất hạnh của
nàng và tôi nghe với một lòng trắc ẩn: sau này, tôi sẽ cưới nàng để bảo vệ nàng. Tôi hứa với nàng điều đó: tôi sẽ chìa tay về phía nàng, đặt tay lên nàng, dùng sự quan trọng bé nhỏ của tôi để phục vụ nàng. Người ta nghĩ là tôi sẽ nghe lời nàng ư? Tôi chỉ nhân từ lùi bước trước những thỉnh cầu của nàng. Mà nàng có bao giờ ra lệnh cho tôi đâu: bằng những lời nhẹ nhàng, nàng phác thảo một tương lai mà nàng tha thiết mong tôi thực hiện: "Con trai bé nhỏ yêu dấu của mẹ sẽ dễ thương, sẽ biết điều, sẽ để mẹ nhỏ thuốc mũi thật ngoan." Tôi để mình rơi vào bẫy của những lời tiên đoán êm ái này.
Còn lại người ông gia trưởng: ông ngoại tôi giống Đức Chúa Cha đến độ người ta thường coi ông là Người. Một hôm, ông đi vào một nhà thờ qua kho đồ thờ; cha xứ đang dọa lũ người nhạt đạo bằng sấm sét từ trời cao: "Đức Chúa Cha có mặt ở đây! Người nhìn thấy các vị!" Bỗng dưng, các tín đồ phát hiện dưới bục giảng của cha xứ một lão già cao lớn có râu, lão đang nhìn họ, thế là họ bỏ chạy. Những lần khác, ông lại nói là họ đã quỳ dưới chân ông. Từ đó, ông dần dần thích trò hiện hình. Tháng Chín năm 1914, ông hiện ra trong một rạp xi nê ở Arcachon: mẹ tôi và tôi đang ngồi trên gác thì ông yêu cầu bật đèn; những quý ông khác làm thành các thiên thần xung quanh ông và kêu: "Chiến thắng! Chiến thắng!'' Đức Chúa Cha bước lên sân khấu và đọc bản thông cáo Marne. Vào thời kỳ mà bộ râu của ông còn đen, ông là Giê-hô-va và tôi ngờ rằng Émile con trai ông đã chết vì ông, một cách gián tiếp. Đức Chúa Cha giận dữ này đã uống máu tươi của các con trai mình, nhưng tôi lại hiện diện ở cuối cuộc đời dài của ông, khi bộ râu của ông đã bạc, thuốc lá đã khiến nó ngả vàng và mối quan hệ phụ tử không còn khiến ông khoái nữa. Dẫu vậy, tôi vẫn tin rằng, nếu ông sinh ra tôi thì theo thói quen, ông cũng sẽ không thể nhịn được ý muốn
biến tôi thành nô lệ. Sự may mắn của tôi là đã được thuộc về một người chết: một người chết đã rót vài giọt tinh trùng là cái giá thông thường của một đứa trẻ; tôi là vùng đất độc chiếm, ông ngoại tôi có thể có tôi trong tay mà không cần sở hữu tôi: tôi trở thành "kỳ quan" của ông bởi ông muốn kết thúc đời mình trong trạng thái kinh ngạc. Ông quyết định coi tôi như một đặc ân của số phận, một món quà được cho không và luôn luôn có thể bị tước mất; ông yêu cầu gì ở tôi? Chỉ sự hiện diện của tôi đã đủ làm ông hạnh phúc. Ông là thần Tình Yêu với bộ râu của Cha và trái tim thiêng của Con; ông đặt tay14 lên tôi, tôi cảm thấy trên đầu tôi hơi ấm của lòng bàn tay ông, ông gọi tôi là thằng cu con bé bỏng của ông bằng một giọng run rẩy ngọt ngào, nước mắt nhòa đi cái nhìn giá lạnh. Tất cả mọi người cùng kêu lên: "Thằng ranh con đã khiến lão ấy phát rồ!" Ông tôn thờ tôi, rõ là thế. Nhưng ông có yêu tôi không? Trong một sự đắm đuối công khai như vậy, tôi khó lòng có thể phân biệt thành thật và giả vờ: tôi không tin là ông bộc lộ nhiều tình cảm với những đứa cháu trai khác của ông; đúng là ông cũng ít gặp họ và họ cũng chẳng cần gì ở ông. Còn tôi, tôi phụ thuộc tất cả vào ông: ông tôn thờ ở tôi lòng cao thượng của chính ông.
Trên thực tế, ông có hơi cường điệu đối với sự cao cả: đó là một người của thế kỷ 19 và giống như bao người khác, giống như bản thân Victor Hugo, ông tự coi mình là Victor Hugo. Người đàn ông bảnh bao có bộ râu dài như suối, lúc nào cũng ở giữa hai cảnh của một vở kịch như một kẻ say giữa hai loại rượu vang, dưới con mắt của tôi ông là nạn nhân của hai kỹ thuật được phát hiện cách đấy không lâu: nghệ thuật nhiếp ảnh và nghệ thuật làm ông. Ông có cái may và cái bất hạnh là người ăn ảnh; trong nhà chúng tôi tràn ngập ảnh ông: vì thời ấy chụp ảnh nhanh chưa thông dụng, ông đâm thích tạo dáng và các hoạt cảnh tĩnh15; tất cả với ông chỉ là cái cớ
để dừng cử động, để bất động trong một tư thế đẹp, để như hóa thành tượng đá; ông phát cuồng lên vì những khoảnh khắc ngắn ngủi này của bất tử, lúc mà ông trở thành bức tượng của chính ông. Tôi chỉ giữ lại từ ông - liên quan đến sự yêu thích ông dành cho hoạt cảnh tĩnh - những hình ảnh thô cứng từ "ảo đăng"16: một cảnh trong rừng, tôi ngồi trên một thân cây, tôi năm tuổi: Charles Schweitzer ông ngoại tôi đội mũ panama, mặc com lê bằng flannel màu kem có sọc đen, áo gi lê bằng vải chần màu trắng, đeo một sợi xích đồng hồ; kính kẹp mũi treo ở đầu một sợi dây; ông nghiêng xuống tôi, giơ một ngón tay đeo nhẫn vàng, và nói. Tất cả đều u tối, tất cả đều ẩm ướt, trừ bộ râu chói sáng của ông: ông mang hào quang của ông xung quanh cằm. Tôi không biết ông đang nói gì vì tôi quá chú ý nghe nên không nghe thấy. Tôi đồ rằng lão già theo tư tưởng cộng hòa dưới thời Đế chế này đang dạy tôi những nghĩa vụ công dân và kể cho tôi nghe về lịch sử tư sản; có vua, hoàng đế, bọn chúng rất độc ác; chúng ta đã quét sạch chúng, mọi thứ sẽ tốt đẹp. Buổi tối, khi ra đường đợi ông, chúng tôi nhanh chóng nhìn thấy ông trong đám du khách chui ra từ tàu cáp kéo, nhờ chiều cao và dáng đi như thầy dạy nhảy của ông. Từ nơi xa nhất, ông nhận ra chúng tôi, ông tạo dáng, tuân theo những mệnh lệnh của một thợ ảnh vô hình: râu bay trong gió, thân thẳng, hai bàn chân vuông góc, ngực ưỡn ra, hai cánh tay mở rộng. Trước tín hiệu đó, tôi bất động, rồi tôi nghiêng về phía trước, tôi là vận động viên chạy bắt đầu cuộc đua, con chim nhỏ sắp bay ra từ máy ảnh17; chúng tôi nhìn vào mặt nhau vài tích tắc, như một nhóm tượng sứ nhỏ vùng Saxe, rồi tôi chồm lên, chất trên lưng hoa ngọt và quả lành18, hạnh phúc của ông. Tôi va vào đầu gối của ông, giả vờ đứt hơi, ông nhấc tôi khỏi mặt đất, dang tay nâng bổng tôi lên tận mây xanh, ấp tôi vào ngực và thầm thì: "Kho báu của ông!" Đó là khuôn hình thứ hai,
rất được chú ý bởi những người qua đường. Chúng tôi đóng một vở kịch phong phú với hàng trăm hoạt cảnh khác nhau: ve vãn, hiểu lầm rồi thôi, chọc ghẹo, mắng yêu, hờn dỗi, lén lút âu yếm và say mê; chúng tôi tưởng tượng ra những trở ngại ngăn cản tình yêu giữa chúng tôi và tự tạo cho mình niềm vui được gạt bỏ chúng: đôi khi tôi hống hách, nhưng những thất thường này không thể giấu được sự nhạy cảm cao nhã của tôi; ông cho thấy sự phù phiếm cao cả và ngây thơ rất hợp với những người làm ông, sự mù quáng, những yếu đuối tội lỗi mà Hugo khuyên chúng ta nên có. Nếu tôi bị ăn bánh mì khô, thì ông mang cho tôi mứt hoa quả; nhưng bà ngoại tôi và mẹ tôi, hai người phụ nữ luôn bị ông làm cho khiếp đảm, đã hết sức tránh để tôi không phải ăn như thế. Và tôi cũng là một đứa trẻ ngoan: tôi thấy vai của mình hợp đến độ chẳng rời ra được. Trong thực tế, sự rút lui nhanh chóng của cha tôi đã tặng tôi một phức cảm "Oedipe" rất không đầy đủ: không có cái siêu-tôi, đúng thế, nhưng cũng không có thói hung hăng, gây gổ. Mẹ tôi thuộc về tôi, chẳng ai tranh cãi với tôi về cái quyền sở hữu ung dung đó: tôi không biết thế nào là bạo lực và thù hận, người ta cũng tránh cho tôi một việc khó học, đó là ghen tức; thiếu cơ hội va chạm, đầu tiên tôi chỉ biết hiện thực qua tính lỏng lẻo vui tươi của nó. Tôi nổi dậy chống ai, chống cái gì bây giờ: chưa bao giờ ý muốn thất thường của người khác lại được coi là mệnh lệnh đối với tôi.
Tôi tử tế cho phép người ta đi giày ngủ cho tôi, nhỏ thuốc mũi cho tôi, chải tóc cho tôi, tắm rửa cho tôi, mặc quần áo và cởi quần áo cho tôi, chải chuốt, vuốt ve tôi; tôi chẳng biết cái gì hay ho hơn là đóng vai một đứa trẻ ngoan. Tôi không bao giờ khóc, ít khi cười, tôi không làm ồn; lên bốn, người ta bắt gặp tôi cho muối vào mứt hoa quả: tôi cho rằng vì tình yêu khoa học hơn là nghịch; dầu thế nào, đó là tội ác duy nhất mà tôi còn nhớ.
Chủ nhật, bà ngoại tôi và mẹ tôi thỉnh thoảng đi dự lễ mixa ở nhà thờ, để nghe nhạc tử tế, một nghệ sĩ đàn ống nổi tiếng; họ không mộ đạo nhưng tín ngưỡng của những người khác đã đưa họ đến sự ngất ngây trong âm nhạc; họ tin ở Chúa trời vào lúc mê mải nghe một khúc tôcat. Những thời khắc tinh thần cao cả đó tạo nên những vui thú trong tôi: tất cả mọi người đều có vẻ như đang ngủ, đó là lúc có thể cho người ta thấy điều mà tôi biết làm: quỳ trên ghế cầu kinh, tôi hóa tượng; không được động đậy ngay cả một ngón chân; tôi nhìn thẳng về phía trước, không chớp mắt, cho tới khi nước mắt chảy dài trên má; theo lẽ tự nhiên tôi sẽ phải chiến đấu ghê gớm để chống lại cảm giác kiến bò, nhưng tôi tin là tôi sẽ thắng, tôi ý thức được sức mạnh của mình đến độ không ngần ngại làm dậy lên trong tôi những cám dỗ tội lỗi nhất để có thể ban cho mình niềm vui thú là sẽ vượt qua được chúng: nếu tôi đứng lên và kêu "bùm"? Nếu tôi trèo lên cột nhà thờ và đái vào âu nước thánh? Nhưng chút nữa thôi, những khêu gọi khủng khiếp đó sẽ làm tăng giá trị lời khen của mẹ tôi. Tôi tự dối tôi; tôi giả vờ gặp hiểm nguy để làm tăng vinh quang: chưa giây phút nào, những cám dỗ tỏ ra thái quá cả; tôi rất sợ tai tiếng; nếu tôi muốn gây ngạc nhiên thì cũng bởi tính ngoan ngoãn của tôi. Những chiến thắng dễ dàng này thường thuyết phục tôi rằng tôi sở hữu một bản tính tốt; tôi chỉ cần cứ đi theo hướng đó là người ta đổ vào tôi những lời ngợi ca. Những ham muốn xấu xa và những suy nghĩ tồi tệ, nếu có, đều đến từ bên ngoài; vừa vào tới tôi, chúng đã mất sức sống và úa mòn: tôi là một mảnh đất không hợp với cái ác. Ngoan ngoãn một cách đóng kịch, tôi không bao giờ cố cũng không bao giờ cưỡng ép bản thân: tôi bịa đặt. Tôi có cái tự do sang trọng của một diễn viên biết làm khán giả nín thở và quá tinh tế trong vai diễn của mình. Người ta yêu tôi mê mệt, nên tôi rất đáng yêu. Còn gì dễ hơn khi nhân loại đã được sắp xếp đâu vào đấy cả rồi? Người ta bảo tôi đẹp trai và tôi tin
như thế. Cách đấy không lâu, tôi bị một vảy cá ở mắt phải khiến sau này tôi sẽ chột và lác, nhưng chưa ai phát hiện ra cả. Gia đình chụp cho tôi cả trăm tấm ảnh và mẹ tôi dùng bút chì màu sửa lại. Trên một trong những tấm ảnh còn sót lại này, tôi hồng hào, tóc vàng, với những lọn quăn, má tròn căng và trong cái nhìn thể hiện một sự tôn kính nhã nhặn dành cho trật tự đã có; miệng phồng lên bởi một sự ngạo nghễ giả dối: tôi biết giá trị của mình.
Bản tính của tôi tốt thì vẫn chưa đủ; nó còn phải có khả năng tiên tri: chân lý được phát ra từ miệng trẻ con. Còn rất gần với thiên nhiên, trẻ con là những anh chị em họ của gió và biển: những tiếng ấp úng của chúng mang lại cho những ai có thể nghe được những bài học lớn lao và mờ ảo. Ông ngoại tôi đã vượt hồ Genève cùng Henri Bergson: "Ông phát điên vì khoái, ông không đủ mắt mà ngắm hết những ngọn sóng sáng rực, mà dõi theo những lấp lánh của mặt nước. Nhưng Bergson ngồi trên va li lại không thôi nhìn ngắm giữa hai bàn chân." Từ chuyến du lịch tai hại này ông rút ra kết luận rằng suy tư thi vị19 thì tốt hơn là triết học. Ông suy tư về tôi: ngồi trong vườn, trên một chiếc ghế vải gập, cạnh một cốc bia, ông nhìn tôi chạy nhảy, ông tìm minh triết trong những lời nói linh tinh của tôi, và ông đã tìm thấy. Sau này, tôi cười nhạo về sự điên khùng ấy; giờ thì tôi tiếc là đã làm thế: đó là công việc của thần chết. Charles ông ngoại tôi đã chiến đấu với nỗi sợ bằng sự ngất ngây. Ông thán phục trong tôi tác phẩm đáng thán phục của nhân loại để có thể tin chắc rằng mọi thứ đều tốt đẹp, ngay cả cái chết thảm thương của chúng ta. Thiên nhiên đang chuẩn bị bắt ông về, ông sẽ đi tìm nó trên những đỉnh cao, trong những đợt sóng, giữa những ngôi sao, từ cuộc đời thơ trẻ của tôi, để có thể bao quát toàn bộ nó và chấp nhận mọi thứ ở nó, đến cả cái huyệt được đào cho ông ở trong đó.
Đó không phải là Chân lý, đó là cái chết của ông đang nói với ông từ miệng của tôi. Chẳng có gì ngạc nhiên nếu niềm hạnh phúc nhạt nhẽo của những năm đầu đời tôi thỉnh thoảng có vị tang tóc: nhờ một cái chết đúng lúc mà tôi được tự do, nhờ một cái chết rất được mong đợi mà tôi trở thành quan trọng. Nhưng: tất cả các pythie20 đều là những người chết, ai cũng biết vậy; tất cả trẻ em đều là những tấm gương phản chiếu cái chết.
Ngoài ra ông ngoại tôi thích trêu tức các con trai của ông. Người cha khủng khiếp này cả đời tìm cách nghiến nát họ; họ rón rén bước vào và bất gặp ông đang quỳ trước một thằng bé: thế là đủ nát tim. Trong cuộc chiến giữa các thế hệ, trẻ em và người già có một sự nghiệp chung: người này phán, người kia giải. Thiên nhiên nói, còn trải nghiệm thì diễn dịch: người lớn chỉ việc đi đến kết luận. Nếu không có trẻ em, người ta lấy con cún: ở một nghĩa trang dành cho chó, vào năm ngoái, trong một bài phát biểu run rẩy được truyền từ mộ này sang mộ kia, tôi nhận ra những câu châm ngôn của ông ngoại tôi: loài chó biết yêu; chúng dịu dàng hơn loài người, trung thành hơn; chúng tế nhị và bản năng tuyệt vời của chúng cho phép chúng nhận biết đâu là Cái Thiện, phân biệt ai tốt bụng, ai độc ác. Một người đàn bà đau khổ khôn nguôi nói: "Polonius ơi, con tốt hơn ta, mà con lại chết trước ta, còn ta vẫn tiếp tục sống." Một người bạn Mỹ đi cùng tôi đã nổi giận, đá vào con chó bằng xi măng khiến nó gãy tai. Ông ta có lý: khi người ta yêu trẻ em và súc vật một cách thái quá, thì người ta đã yêu chúng để chống lại loài người.
Theo cách ấy, tôi là một con cún của tương lai; tôi đưa ra tiên đoán. Tôi có ngôn từ của trẻ con, người ta nhớ, người ta nhắc lại chúng với tôi: tôi học để có thêm nữa. Tôi nói ngôn từ người lớn: tôi biết giữ lấy, mà không cần chạm vào, những câu "già dặn hơn tuổi của mình". Đó là những bài
thơ; công thức thật đơn giản: phải phó thác cho quỷ dữ, cho tình cờ, cho hư vô, mượn toàn bộ những câu nói của người lớn, nối chúng với nhau và nhắc lại mà không cần hiểu. Tóm lại, tôi phán như thánh và ai muốn hiểu thế nào thì hiểu. Cái Thiện sinh ra tự đáy lòng tôi, Cái Thật sinh ra trong ngu muội thơ trẻ của Lý trí tôi. Tôi tự tin khâm phục chính tôi: động tác và câu nói của tôi có những phẩm chất mà bản thân tôi cũng không hiểu nổi và chúng đập vào mắt người lớn. Quan trọng gì đâu! tôi biếu họ toàn bộ niềm vui thú tinh tế không được dành cho tôi. Những câu nói hài hước của tôi thường khoác vẻ ngoài hào hiệp: vài người tội nghiệp lấy làm tiếc vì đã không có con; tôi mủi lòng và tôi rời khỏi hư vô một cách hăng hái đầy vị tha, mặc lại bộ cải trang của thời thơ ấu để tạo cho họ ảo giác có một cậu con trai. Mẹ tôi và bà ngoại tôi thường mời tôi diễn đi diễn lại cảnh siêu thiện đã sinh tôi ra trên đời: hai người chiều chuộng những thói kỳ quặc của ông ngoại tôi, sở thích mà ông dành cho những cú đột ngột như trên sân khấu, sắp xếp cho ông những món quà bất ngờ. Hai người giấu tôi sau tủ, tôi nín thở, họ bỏ đi hay giả vờ quên tôi, tôi như tan biến đi; ông ngoại tôi bước vào, chán chường và ủ ê, như thể ông sẽ như thế nếu không có tôi trên đời; đột nhiên tôi nhảy khỏi chỗ nấp, ban cho ông niềm vui sướng bằng cách bước vào đời; ông nhìn thấy tôi, tham gia trò chơi này với tôi, thay đổi nét mặt và vung tay lên trời: tôi khiến ông tột cùng hạnh phúc bằng sự hiện diện của tôi. Tóm lại, tôi tự ban phát tôi; tôi ban phát tôi vào bất cứ lúc nào và ở khắp nơi, tôi ban phát tất cả: chỉ cần đẩy cửa thôi là bản thân tôi cũng có cảm giác hiện hình trên đời. Tôi đặt những khối hình lên nhau, tôi tháo bánh cát ra khỏi khuôn, tôi kêu ầm lên; ai đó chạy đến thốt một câu cảm thán, tôi lại khiến một kẻ nữa hạnh phúc. Bữa ăn, giấc ngủ và đề phòng thời tiết xấu đã trở thành những lễ hội lớn và những nghĩa vụ chủ yếu của một cuộc sống đầy nghi lễ. Tôi ăn trước mặt mọi
người như một ông vua: nếu tôi ăn khỏe, họ sẽ chúc mừng tôi; bà tôi, chính bà tôi sẽ thốt lên: "Thằng bé thật là ngoan vì đã đói!"
Tôi không ngừng sáng chế bản thân tôi; tôi là kẻ cho và cũng là tặng vật. Giá cha tôi còn sống, tôi sẽ biết quyền lợi và trách nhiệm của tôi; nhưng cha tôi đã mất nên tôi không biết những thứ ấy; tôi không có quyền lợi vì tôi ngập trong tình yêu; tôi không có trách nhiệm vì theo tình yêu mà tôi ban phát. Sứ mệnh duy nhất: làm vui lòng; tất cả để phô trương. Trong gia đình tôi, sao mà có quá nhiều tấm lòng hào hiệp: ông ngoại tôi nuôi tôi, còn tôi mang lại hạnh phúc cho ông; mẹ tôi thì tận tụy với tất cả mọi người. Hôm nay nhớ lại, tôi có cảm giác lòng tận tụy đó là cái duy nhất có thật; nhưng khi ấy chúng tối có chiều hướng im lặng lướt qua nó. Quan trọng gì đâu: cuộc sống của chúng tôi là một chuỗi nghi lễ và chúng tôi phung phí thời gian vào việc đội lên đầu các kiểu tôn kính. Tôi tôn trọng người lớn với điều kiện họ tôn thờ tôi; tôi thẳng thắn, cỏi mở và dịu dàng như con gái. Tôi suy nghĩ đúng chuẩn mực, tôi tin tưởng vào người khác: ai cũng tốt vì ai cũng hài lòng. Tôi coi xã hội như chiếc thang xếp hạng chặt chẽ về công trạng và quyền lực. Những người ở trên đỉnh phân chia tất cả những gì họ có cho những người ở bên dưới. Tuy vậy, tôi tránh xếp mình vào bậc cao nhất: tôi không phải không biết rằng nó được dành cho những ai nghiêm khắc, có tâm, có khả năng khiến trật tự xã hội được ổn định. Tôi ngồi trên một chòi cao ngoài rìa, không xa họ, và hào quang của tôi lan ra khắp chiếc thang, từ cao xuống thấp. Tóm lại, tôi chăm chút để tách mình khỏi sức mạnh đời thường: không ở dưới, không ở trên, mà ở chỗ khác. Cháu của một giáo sĩ, ngay từ bé tôi đã là một giáo sĩ; tôi có sự dịu dàng của các giáo chủ, sự hồn nhiên của các tăng lữ. Tôi đối xử với những kẻ dưới mình một cách bình đẳng: đó chính là sự lừa dối thành kính mà tôi tạo
ra để họ được hạnh phúc và họ cũng bị mắc lừa ở một mức nào đó. Với người hầu, với ông phát thư, với con chó của tôi, tôi đều nói với một giọng nhẫn nại và ôn hòa. Trong cái thế giới trật tự đâu vào đấy này, có những người nghèo khổ. Có cả những con cừu năm cẳng, những đứa trẻ sinh đôi dính nhau, những tai nạn tàu hỏa: những bất thường đó không phải do lỗi của ai cả. Những người nghèo tử tế không biết rằng nhiệm vụ của họ là thử thách lòng hào hiệp của chúng ta; đó là những người nghèo bẽn lẽn, không muốn ai để ý đến mình; tôi lao tới, tôi ấn vào tay họ một đồng hai xu, và nhất là làm quà cho họ một nụ cười tươi bình đẳng. Tôi thấy họ có vẻ ngu ngu và tôi không muốn chạm vào họ, nhưng tôi bắt tôi phải làm: đó là một thử thách; và họ cũng cần phải yêu tôi: tình yêu này tô điểm cuộc sống của họ. Tôi biết họ thiếu ngay cả những cái tối thiểu nhưng tôi lại thích là cái mà họ thừa ra. Hơn thế, dù có nghèo khó đến thế nào thì họ cũng không bao giờ đau khổ bằng ông ngoại tôi: lúc còn nhỏ, ông phải dậy rất sớm và mặc quần áo trong bóng đêm; vào mùa đông, để rửa ráy, ông phải đập nước đã đông thành đá trong bình. May sao, từ đó đến nay, mọi thứ đã thay đổi: ông ngoại tôi tin tưởng ở Tiến bộ, tôi cũng vậy: Tiến bộ, con đường dài trắc trở đó đã đến được tận tôi.
Đó là Thiên đường. Mỗi sáng tôi thức dậy trong một niềm tê mê sung sướng, khám phục sự may mắn khôn cùng là được sinh ra trong một gia đình hòa hớp nhất, một đất nước tươi đẹp nhất hành tinh. Những ai không hài lòng đều khiến tôi căm phẫn: họ có thể phàn nàn về điều gì cơ chú? Đó là những tên nổi loạn. Đặc biệt là bà ngoại tôi khiến tôi cực kỳ lo lắng: tôi đau đớn nhận thấy rằng bà không khâm phục tôi đúng mức. Trên thực tế, bà đã vạch trần tôi. Bà thẳng thừng khiển trách thói rởm trong con người
tôi, điều mà bà không dám phàn nàn ở chồng. Tôi là một kẻ pha trò, một tên hề, một thằng bé hay nhăn nhó, bà ra lệnh cho tôi phải chấm dứt những trò "nhõng nhẽo". Tôi còn nổi giận hơn nửa vì tôi ngờ rằng bà cười cợt cả ông ngoại tôi: đó là "tinh thần luôn phủ nhận". Tôi đáp trả bà; bà yêu cầu tôi phải xin lỗi; tin chắc là được ông ngoại ủng hộ nên tôi từ chối xin lỗi bà. Ông chụp lấy thời cơ để bày tỏ sở thích của mình, ông ủng hộ tôi chống lại vợ khiến bà giận dữ đứng phắt lên, vào phòng khóa chặt cửa lại. Mẹ tôi lo lắng vì sợ bà oán giận, nên kính cẩn nói nhỏ rằng ông đã sai, ông tôi nhún vai và bỏ vào phòng làm việc; rồi mẹ tôi năn nỉ tôi đi xin lỗi bà. Tôi sung sướng về quyền lực của mình: tôi là thánh Michel và tôi đã quật ngã cả quỷ sứ. Cuối cùng, tôi đi xin lỗi một cách lấy lệ. Ngoài chuyện này, tất nhiên là tôi vô cùng yêu quý bà: vì bà là bà của tôi. Mọi người gợi ý tôi gọi bà là Bà ngoại, gọi ông ngoại tôi là Karl như tên riêng theo vùng Alsace của ông. Karl và Bà ngoại nghe hay hơn là Romeo và Juliette, hay Philémon21 và Baucis22. Mẹ tôi ngày nào cũng nhắc lại cả trăm lần không phải không chủ ý: "Karl-và-bà-ngoại đang đợi chúng ta, Karl-và-bà- ngoại rất hài lòng, Karl-và-bà-ngoại..." gợi lên, nhờ mối gắn kết mật thiết giữa bốn chữ này, sự hòa hợp tuyệt vời giữa hai người. Tôi chỉ dễ lừa một nửa thôi, nhưng tôi sẽ thu xếp để tỏ ra dễ lừa hoàn toàn: đầu tiên là với chính tôi. Ngôn từ ném cái bóng của nó vào sự vật; thông qua những "Karl-và-bà-ngoại", tôi có thể gìn giữ sự đoàn kết không tì vết của gia đình và chuyển vào đầu của bà ngoại tôi một phần lớn các công trạng của ông ngoại tôi. Đáng ngờ và luôn có ý thức về bản chất tội lỗi của mình, bà ngoại tôi lúc nào cũng suýt phạm lỗi, nhưng được ngăn lại bởi cánh tay của các thiên thần và bởi quyền lực của một ngôn từ.
Có những kẻ độc ác thật sự: bọn người Phổ đã chiếm của chúng tôi vùng
Alsace-Lorraine cùng tất cả các đồng hồ, trừ chiếc đồng hồ quả lắc bằng đá cẩm thạch đến giờ đang trang trí lò sưởi trong phòng ông ngoại tôi và cũng là quà tặng cho ông chính tà một nhóm học trò người Đức; chúng tôi hay tự hỏi không biết họ đã ăn cắp được ở đâu. Gia đình mua cho tôi những cuốn sách của Hansi23, cho tôi xem những hình vẽ trong đó: tôi chẳng thấy ghét chút nào những thằng người béo tốt làm bằng đường hồng rất giống với các ông cậu gốc Alsace của tôi. Ông ngoại tôi năm 187124 đã chọn nước Pháp, nhưng thỉnh thoảng ông cũng đi Gunsbach, Pfaffenhofen, để thăm những người đã ở lại nước Đức. Cả nhà cho tôi đi cùng. Trên tàu khi ông soát vé người Đức kiểm tra vé của ông, trong quán cà phê khi người bồi bàn chậm đến phục vụ, Charles Schweitzer ông ngoại tôi đỏ mặt tía tai trong cơn giận đẫm vị ái quốc; bà ngoại tôi và mẹ tôi giữ chặt lấy hai tay ông: "Charles! ông không nghĩ tới điều đó sao? Họ sẽ đuổi chúng ta ra khỏi đây và ông sẽ đến nơi nhanh lắm đấy!" Ông ngoại tôi cao giọng: "Tôi rất muốn xem họ đuổi chúng ta như thế nào: tôi đang ở trên đất nước của tôi!" Bà tôi và mẹ tôi ủn vào chân tôi, tôi nhìn ông van nài và ông dịu đi: "Thôi thì vì thằng cháu ngoại", vừa thở dài vừa sục những ngón tay khô cằn vào tóc tôi. Những cảnh này khiến tôi khó chịu với ông chứ không làm tôi nổi giận với những kẻ chiếm đóng. Ngoài ra, ở Gunsbach, ông ngoại tôi cũng không thiếu dịp nổi giận với cô em dâu của ông; mỗi tuần mấy lần ông ném khăn ăn lên bàn và rời khỏi phòng ăn đập cửa rầm một cái, mà cô em dâu đâu phải người Đức. Sau bữa ăn, bà ngoại tôi, mẹ tôi và tôi chạy lại rên rỉ và thổn thức cạnh chân ông, ông trâng tráo chống lại. Làm sao có thể không đồng ý với phán xét của bà ngoại tôi: "Alsace có nghĩa gì với ông ấy đâu; ông ấy không nên quay lại suốt như thế"? Nói đúng ra thì tôi cũng không thích làm những người Alsace đối xử với tôi thiếu tôn trọng, và tôi
cũng chẳng cáu giận đến thế việc người ta đã lấy mất những người này của chúng tôi. Có vẻ như tôi hay đến cửa hàng bán thực phẩm khô của ông Blumenfeld ở thị trấn Pfaffenhofen đến mức chẳng làm gì cũng khiến ông ấy thấy phiền hà. Dì Caroline đã "đôi điều nhận xét" với mẹ tôi; người ta sau đó đã truyền lại cho tôi; đó là lần duy nhất bà ngoại tôi và tôi ủng hộ nhau: bà căm ghét gia đình chồng. Ở Strasbourg, từ phòng khách sạn nơi chúng tôi đang tụ tập, tôi nghe thấy những tiếng động lảnh lót và lạ lùng, tôi chạy ra cửa sổ; quân đội! Tôi thật sung sướng được xem nước Phổ duyệt binh trong tiếng nhạc trẻ con ấy, tôi đập tay theo. Ông tôi ngồi ở ghế và càu nhàu; mẹ tôi tới nói nhỏ vào tai tôi là tôi phải rời cửa sổ. Tôi vâng lời nhưng vẫn hơi dỗi. Tôi ghét người Đức, tất nhiên, nhưng ghét lấy lệ. Tuy vậy, ông ngoại tôi chỉ có thể tự cho phép mình một chút tinh thần ái quốc cực đoan mà thôi: năm 1911 chúng tôi rời ngoại ô Meudon về sống ở Paris, số 1 phố Le Goff; ông phải về hưu và để nuôi sống cả gia đình, đã thành lập Viện Sinh Ngữ: dạy tiếng Pháp cho người ngoại quốc ghé Paris ngắn ngày. Theo phương pháp trực tiếp. Học viên chủ yếu đến từ Đức. Họ trả khá tiền: ông cất những đồng tiền vàng vào túi áo vest mà không đếm; bà ngoại tôi, ban đêm hay mất ngủ, lẩn vào phòng đựng áo khoác để "lén lút" thu thuế như chính bà đã thổ lộ với con gái: tóm lại, kẻ thù đang nuôi sống chúng tôi; nếu có chiến tranh Pháp-Đức thì chúng tôi có thể sẽ lấy lại được vùng Alsace nhưng Viện Sinh Ngữ của ông ngoại tôi sẽ bị phá tan, thế nên ông đứng về phe duy trì hòa bình. Ngoài ra còn có những người Đức tốt bụng đến ăn trưa ở nhà chúng tôi: một nữ tiểu thuyết gia mặt đỏ và đầy lông lá mà bà ngoại tôi vừa cười ghen tức vừa gọi là "nàng Dulcinée của Charles", một ông bác sĩ hói đầu từng đẩy mẹ tôi vào tường đòi hôn; khi mẹ tôi ngượng nghịu phàn nàn, ông ngoại tôi nổi nóng: "Các người làm tôi bất hòa với tất cả!" Rồi ông nhún vai, kết luận: "Con ảo tưởng rồi, con
gái ạ", và mẹ tôi lại là người cảm thấy có lỗi. Tất cả các vị khách mời này hiểu rằng họ phải tỏ ra ngây ngất trước các phẩm chất của tôi, họ ngoan ngoãn mua chuộc nịnh bợ tôi: như vậy là bất chấp nguồn gốc của mình, họ vẫn sở hữu một khái niệm mù mờ về Cái Thiện. Vào dịp lễ kỷ niệm ngày thành lập Viện Sinh Ngữ, có khoảng hơn một trăm khách mời, với đồ uống pha sâm banh, mẹ tôi và cô Moutet chơi nhạc của Bach bằng bốn tay; tôi mặc váy muslin màu xanh, tóc gắn những ngôi sao nhỏ, tay đeo cánh, đi từ người này sang người kia, tay cầm làn đựng quýt phân phát cho mọi người, và ai nấy kêu lên: "Đúng là một thiên thần!" Thế đấy, họ cũng không phải là những kẻ xấu xa lắm. Đương nhiên, chúng tôi không từ bỏ cuộc trả thù cho vùng Alsace tuẫn nạn: trong gia đình, bằng một giọng thì thầm, như các người anh em họ của chúng tôi ỞGunsbach và Pfaffenhofen, chúng tôi giết bọn Đức bằng trò chế giễu; chúng tôi cười trăm lần liền, không mệt mỏi, về một nữ học viên vừa mới viết trong một bài luận bằng tiếng Pháp như sau: "Charlotte đờ đẫn vì đau đớn trên mộ của Werther"25, về một ông giáo trẻ, trong một bữa tối, đã ngờ vực nhìn lát dưa vàng rồi cuối cùng ăn hết cả lát, từ hạt đến vỏ. Những lầm lẫn này khiến tôi quay về hướng bao dung: người Đức là những kẻ thấp kém nhưng có may mắn là ở ngay cạnh chúng ta; chúng ta đã cho họ ánh sáng của mình.
Một nụ hôn không ria mép, người ta ví, như một quả trứng không muối; tôi nói thêm: và như là Cái Thiện thiếu Cái Ác, như cuộc sống của tôi vào những năm 1905-1914. Nếu người ta chỉ tự định mình bằng cách chống đối, thì tôi là cái vô định làm từ xương và thịt; nếu tình yêu và hận thù là mặt phải và mặt trái của tấm huân chương, thì tôi chẳng yêu ai, cũng chẳng yêu cái gì. Mà đúng thôi: ta không thể yêu cầu cùng một lúc vừa căm ghét vừa làm vui lòng. Hay vừa làm vui lòng lại vừa yêu.
Vậy tôi có phải là kẻ si mê bản thân? Ô không: quá lo lắng tìm cách quyến rũ người khác, tôi quên chính tôi. Nói cho cùng, tôi không thích cho lắm trò bôi mực, vẽ nguệch ngoạc, những nhu cầu tự nhiên của tôi: để cho chúng có giá trị dưới mắt mình, tôi cần ít ra là một người lớn khâm phục những trò này của tôi. May mắn làm sao, những tràng vỗ tay không bao giờ thiếu: dù nghe tôi ba hoa hay nghe bản L'art de la fugue còn dang dở của Bach, thì người lớn đều nở một nụ cười nhâm nhi tinh quái và thông đồng như nhau; điều ấy cho thấy rằng sâu xa, tôi là một thứ của cải mang tính văn hóa. Văn hóa thấm vào tôi và tôi trả nó lại cho gia đình bằng những hào quang, giống như những ao nước ban đêm trả lại sức nóng của ban ngày...
Tôi đã bắt đầu cuộc đời mình hẳn là như cách mà tôi sẽ kết thúc nó: giữa những cuốn sách. Sách có ở khắp nơi trong phòng làm việc của ông ngoại tôi, nhưng không được phủi bụi trừ một lần trong năm, trước lễ khai giảng tháng Mười. Khi chưa biết đọc, tôi đã tôn thờ sách, những tảng cự thạch: dù chứng đứng thẳng hay nghiêng, chen chúc cạnh nhau như những viên gạch trên giá, hay cách quãng một cách thanh tao như tùng hàng cột đá, tôi đều cảm thấy sự thịnh vượng của gia đình chúng tôi phụ thuộc vào chúng. Tất cả chúng đều giống nhau và tôi vui chơi trong một thánh điện tí hơn, được bao bọc bởi những tượng đài vuông vức, cổ kính, đã chứng kiến ngày tôi sinh ra, có thể sẽ chứng kiến ngày tôi qua đời, và sự hiện diện thường xuyên của chúng bảo đảm cho tôi một tương lai cũng êm đềm như quá khứ. Tôi sờ trộm vào chúng để nhờ những hạt bụi bám ngoài bìa làm tăng vinh dự cho đôi tay của mình, nhưng tôi lại chẳng biết làm gì với chúng và mỗi ngày tôi tham dự vào những nghi lễ mà không hiểu ý nghĩa cho lắm: ông
ngoại tôi - mọi khi vụng về đến độ mẹ tôi phải gài hộ cúc găng tay - thế mà lại mân mê những vật thể văn hóa đó khéo léo như một linh mục chủ lễ. Hàng nghìn lần tôi chứng kiến ông đứng dậy vẻ mơ màng, đi một vòng quanh bàn, làm hai bước từ đầu này sang đầu kia của phòng, không ngần ngại, không mất thời gian chọn lựa, cầm lấy một pho sách, vừa quay lại ghế bành vừa lật trang bằng một động tác phối hợp giữa ngón cái và ngón trỏ, rồi ngồi xuống mở một nhát "trúng ngay trang cần tìm" khiến pho sách kêu sột soạt tựa giày da. Vài lần tôi tiến lại gần để quan sát những chiếc "hộp" bị nứt như những con số này và phát hiện ra sự trần trụi của những nội quan của chúng, những trang giấy nhợt nhạt và mốc meo, hơi phồng lên, dày đặc những tĩnh mạch màu đen đẫm mực in và tỏa mùi nấm mốc.
Trong phòng ngủ của bà ngoại tôi, sách được xếp nằm ngang; bà mượn từ một phòng đọc và chưa lần nào tôi thấy số lượng sách nhiều hơn hai. Những vật thể phù phiếm này khiến tôi nghĩ tới chiếc kẹo ngày Tết vì những trang sách nhỏ, mềm và bóng loáng dường như được cắt ra từ loại giấy láng. Sống động, trắng, gần như còn mới tinh, những cuốn sách của bà ngoại tôi được dùng làm cái cớ cho những chuyện phảng phất thần bí. Thứ Sáu hằng tuần, bà mặc quần áo đẹp rồi bảo: "Bà đi trả chúng đây"; lúc về, sau khi cởi chiếc mũ nhỏ màu đen gắn voan, bà lôi chúng từ tay áo ra và tôi tự hỏi, như thể bị lừa: "Không biết có phải là những cuốn lúc nãy?" Bà cẩn thận "bọc" chúng, rồi sau khi chọn một trong hai cuốn, bà sẽ ra ngồi cạnh cửa sổ, trong chiếc ghế bành đệm êm, đeo vào mắt đôi kính to tròn, thở dài một cách hạnh phúc và uể oải, hạ mí mắt xuống, nở một nụ cười nhẹ nhõm và khoái lạc mà sau đó tôi đã gặp lại trên môi nàng Mona Lisa; mẹ tôi im lặng, đề nghị tôi im lặng, tôi nghĩ đến buổi lễ mixa, đến cái chết, đến giấc ngủ: tôi đắm chìm vào một im lặng thiêng liêng. Thỉnh
thoảng, bà ngoại tôi bật ra một tiếng cười nho nhỏ, gọi mẹ tôi lại, chỉ vào một dòng nào đó và hai người phụ nữ trao cho nhau cái nhìn tòng phạm. Tuy nhiên, tôi không thích những cuốn sách mỏng quá tao nhã ấy; đó là những kẻ không mời mà đến và ông ngoại tôi nói thẳng rằng chúng thuộc về một tín ngưỡng hạng thấp, chỉ dành cho đàn bà. Chủ nhật, ông thường vô công rỗi việc bước vào phòng riêng của vợ và đứng như trời trồng trước mặt bà mà không tìm được câu nào để nói; mọi người nhìn ông, ông lấy tay gõ gõ vào cửa kính, rồi chẳng còn nghĩ thêm được trò gì nữa, ông quay về phía bà ngoại tôi và giật cuốn sách từ tay bà: "Charles, bà gào lên giận dữ, ông làm tôi nhầm trang bây giờ!" Nhưng ông đã kịp nhướng lông mày và đọc; rồi bất ngờ đập ngón trỏ vào cuốn sách của bà: "Chả hiểu gì! - Nhưng làm sao mà ông hiểu được cơ chứ? bà ngoại tôi nói: ông đọc giữa chừng thế kia!" Ông đành vứt cuốn sách lên bàn và nhún vai bỏ ra khỏi phòng.
Chắc chắn là ông nói đúng vì ông là người trong nghề. Tôi biết chứ: ông đã chỉ cho tôi những pho sách dày bìa cứng bọc vải nâu bày trên một giá của tủ sách. "Những cuốn này, cháu ạ, là do ông làm đấy." Tự hào biết bao! Tôi là cháu của một thợ thủ công chuyên làm những đồ vật thiêng liêng, đáng trọng ngang với người thợ chăm sóc đàn ống của nhà thờ hay người thợ may trang phục cho các thầy tu. Tôi được chứng kiến ông ngoại tôi lao động như thế nào: hằng năm người ta tái bản cuốn Những bài học tiếng Đức. Cả gia đình đi nghỉ mà vẫn sốt ruột đợi bản in thử: ông ngoại tôi không chịu nổi cảnh ngồi yên, ông cáu giận để giết thời gian. Cuối cùng bác đưa thư cũng đem đến những gói mềm, chúng tôi dùng kéo cắt dây thừng buộc xung quanh; ông ngoại tôi mở những trang in thử, đặt lên bàn của phòng ăn và bắt đầu gạch xóa bằng bút đỏ; mỗi khi phát hiện một lỗi in,
ông lầm bầm chửi trời đất nhưng ông không kêu la nữa trừ phi cô hầu gái có ý định bày bàn. Mọi người đều hài lòng. Tôi đứng trên một chiếc ghế và say sưa ngắm nghía những hàng chữ in màu đen bị rạch đỏ như chảy máu. Ông ngoại tôi giải thích với tôi rằng ông có một kẻ tử thù, đó là lão chủ nhà xuất bản. Ông không biết tính toán: hoang phí do vô tâm, hào hiệp để phô trương, cuối đời ông rơi vào căn bệnh của người già tám mươi, đó là bệnh keo kiệt, hậu quả của liệt và nỗi sợ chết. Còn lúc đó, căn bệnh này chỉ mới le lói ở tính đa nghi kỳ quái: khi ông nhận được ngân phiếu nhuận bút, ông giơ tay lên trời và kêu rằng người ta cắt cổ ông hoặc ông vào phòng vợ và rầu rĩ tuyên bố: "Lão chủ nhà xuất bản ăn cắp sạch tiền của tôi rồi." Tôi sững người phát hiện ra sự bóc lột giữa người với người. Giá mà không có cái điều ghê tởm này, may thay cũng là hiếm, thì thế giới thật hoàn chỉnh: tùy vào khả năng tài chính mà giới chủ trả lương cho công nhân theo công lao của mỗi người. Tại sao những lão chủ nhà xuất bản, những con ma cà rồng kia, lại làm thế giới xấu đi bằng cách uống máu ông ngoại khốn khổ của tôi? Lòng tôn trọng của tôi với người ông thần thánh mà sự tận tụy không được đền đáp càng tăng lên: tôi được tập luyện từ rất sớm để coi nghề nhà giáo như một thiên chức và văn chương như một say mê.
Tôi chưa biết đọc nhưng lại đua đòi được có sách của tôi. Ông ngoại tôi đến nhà lão chủ nhà xuất bản đểu giả xin cho tôi bộ Truyện cổ của thi sĩ Maurice Bouchor, đó là những câu chuyện có nguồn gốc dân gian được viết lại theo khẩu vị trẻ con bởi một người mà theo ông ngoại tôi thì vẫn giữ được ánh mắt thơ ngây. Tôi muốn bắt đầu ngay lập tức nghi lễ chiếm hữu. Tôi cầm lấy hai tập truyện bé nhỏ ấy, hít hít, sờ nắn, rồi lơ đễnh mở một nhát "trúng ngay trang cần tìm" khiến chúng kêu sột soạt. Nhưng vô ích: tôi không có được cảm giác sở hữu chúng. Rồi tôi cố nhưng cũng
không tài nào coi được chúng như búp bê để mà ru ngủ, hôn hít, đánh đập. Cuối cùng, nước mắt giàn giụa, tôi đặt chúng lên đầu gối mẹ tôi. Mẹ bỏ công việc đang làm, ngước lên: "Con muốn mẹ đọc truyện nào, con yêu? Truyện các bà tiên nhé?" Hoài nghi tôi hỏi lại: "Truyện các bà tiên có nằm trong đó không?" Truyện các bà tiên, tôi quen thuộc lắm rồi: mẹ vẫn kể mỗi khi rửa mặt cho tôi, giữa chừng dừng lại để xoa nước thơm cho tôi, để cúi xuống nhặt bánh xà phòng vừa tuột khỏi tay rơi xuống đáy bồn tắm, còn tôi thì nghe một cách lơ đãng câu chuyện đã biết quá rõ. Mắt tôi chỉ nhìn vào mẹ, nàng thiếu nữ tên Anne-Marie các sớm mai của tôi. Tai tôi chỉ nghe mỗi giọng nói run rẩy tận tụy của nàng. Tôi thích làm sao những câu nói bỏ lửng giữa chừng, những từ ngữ luôn tới chậm, thái độ tự tin đột ngột xuất hiện, cũng nhanh chóng giảm đi và chuyển thành hoang mang để biến dần trong một âm điệu êm ái, rồi lại quay về sau một khoảng lặng im. Câu chuyện đến ngoài những cái đó: nó là sợi dây liên kết giữa những gì nàng tự nói cho mình. Trong suốt thời gian nàng nói, chỉ có hai chúng tôi với nhau, lén lút, xa khỏi loài người, thần thánh và các cha cố, như hai con nai giữa rừng sâu, cùng với những con nai khác là các bà tiên; tôi không sao tưởng tượng nổi người ta lại có thể tạo ra hẳn một cuốn truyện để đưa vào đó đoạn đời phàm tục tỏa mùi xà phòng và nước thơm của chúng tôi.
Anne-Marie đặt tôi ngồi đối diện với nàng, trên chiếc ghế thấp vẫn dành cho tôi; nàng nghiêng đầu, hạ mí mắt và thiếp ngủ. Từ khuôn mặt như tượng thoát ra một giọng nói như làm từ thạch cao. Tôi rối trí: ai đang kể đây? kể gì? và cho ai? Mẹ tôi không còn hiện diện nữa: không một nụ cười, không dấu hiệu của sự thông đồng, tôi như thể đang bị lưu đày. Thêm nữa, tôi chẳng tài nào nhận ra ngôn ngữ của nàng. Nàng lấy đâu sự tự tin kia? Một lát sau tôi chợt hiểu: chính là cuốn truyện đang nói. Những câu nói
phát ra từ đó khiến tôi hoảng sợ: đó là những con rết, lúc nhúc âm tiết và chữ cái, kéo dài các nguyên âm đôi, làm rung lên các phụ âm đúp; những câu nói du dương, đầy giọng mũi, bị ngắt ra bởi những quãng nghỉ và những tiếng thở dài, ngồn ngộn những từ không quen; những câu nói tự hài lòng mê mẩn về bản thân, về các tình tiết lắt léo của chúng, và chẳng bận tâm đến tôi: có những lần chúng đột ngột biến mất truớc khi tôi kịp hiểu, lại có những lần tôi đã hiểu trước mà chúng cứ tiếp tục trình diễn điệu đà cho đến hết, chẳng tha cho tôi cả một dấu phẩy. Chắc chắn là bài diễn văn này không phải dành cho tôi. Còn nội dung câu chuyện thì xúng xính như đi hội: bác tiều phu, vợ bác tiều phu và các cô con gái của hai bác, bà tiên, tất cả các nhân vật khiêm nhường giống chúng tôi ấy bỗng dưng trở nên oai vệ; những bộ quẩn áo rách rưới được miêu tả một cách mỹ miều, ngôn từ tác động lên sự vật, biến các hành động thành nghi thức và các sự kiện thành nghi lễ. Ai đó bắt đầu đặt câu hỏi: lão giám đốc nhà xuất bản kia, chuyên gia trong lĩnh vực in ấn các tác phẩm học đường, đã không để mất cơ hội nào thử thách sự thông minh non trẻ của các độc giả. Hình như người ta muốn hỏi một đứa trẻ: nếu ở vị trí của bác tiều phu, cháu sẽ làm gì? Cháu thích ai trong số hai chị em? Vì sao? Cháu có đồng ý với sự trừng phạt dành cho Babette? Nhưng đứa trẻ đấy không hẳn là tôi và tôi sợ phải trả lời. Tuy vậy, tôi vẫn trả lời, giọng nói yếu ớt của tôi lạc đi và tôi cảm thấy mình trở thành một người khác. Anne-Marie mẹ tôi cũng vậy, đó là một người khác, với vẻ của một người mù vô cùng minh mẫn: dường như tôi là đứa trẻ của mọi bà mẹ, còn nàng là bà mẹ của mọi đứa trẻ. Khi nàng ngừng đọc, tôi giật mạnh mấy cuốn truyện từ tay nàng, kẹp dưới nách mang đi không một lời cảm ơn.
Sau một thời gian, tôi đâm khoái ý nghĩ chợt nảy trong đầu đã lôi tôi
khỏi bản thân: Maurice Bouchor quan tâm đến trẻ con với một sự ân cần phổ biến mà những vị trưởng quầy vẫn dành cho khách nữ của các cửa hàng lớn; điều ấy khiến tôi nở cả mũi. Rồi tôi cảm thấy thích truyện đã được dàn dựng hơn là truyện ứng tác; tôi trở nên nhạy cảm với sự tiếp nối chặt chẽ của ngôn từ: lần đọc nào, chúng cũng nguyên vẹn như thế và luôn theo cùng một trật tự, tôi chờ đợi chúng. Trong truyện của mẹ tôi, các nhân vật sống theo kiểu được chăng hay chớ như chính mẹ: họ đã có số phận rồi. Tôi như đang ở lễ mixa: tôi chứng kiến sự lặp đi lặp lại bất tận của những cái tên và những sự kiện.
Lúc đó, tôi lên cơn ghen với mẹ và quyết tâm cướp vai của mẹ. Tôi tóm lấy một cuốn truyện có tựa Những gian truân của một người Hoa ở Trung Quốc và tôi mang vào phòng chứa đồ; ở đây, vắt vẻo trên một khung giường, tôi làm ra vẻ đang đọc: tôi đưa mắt theo từng dòng chữ màu đen không bỏ sót một dòng nào và cao giọng tự kể một câu chuyện, cố gắng phát âm rõ ràng tất cả các âm tiết. Mọi người trong nhà bắt gặp tôi - hoặc tôi để mọi người bắt gặp - mọi người kêu lên và quyết định là đã đến lúc phải dạy tôi bảng chữ cái. Tôi quá phấn khởi y như kẻ mới đi học đạo, đến nỗi tự dạy cho mình những bài học riêng: tôi leo lên khung giường, tay cầm cuốn Không gia đình của Hector Malot mà tôi đã thuộc lòng, rồi vừa kể, vừa đoán, tôi lần lượt xem tất cả các trang: khi trang cuối cùng được lật thì tôi biết đọc.
Tôi phát điên vì sung sướng: chúng thuộc về tôi những giọng nói bị ép khô trong bộ sưu tập thực vật nhỏ của mình, những giọng nói mà ông ngoại tôi đã hồi sinh bằng ánh mắt ông, những giọng nói mà ông đã nghe thấy, còn tôi thì không! Giờ thì tôi sẽ nghe chúng, sẽ lấp đầy mình những diễn văn trịnh trọng, tôi sẽ biết tất cả. Mọi người cho phép tôi lang thang trong
thư viện của gia đình và tôi lao vào tấn công minh triết của loài người. Chính cái minh triết này đã làm ra tôi. Sau này, cả trăm lần tôi nghe thấy những kẻ bài Do Thái trách móc người Do Thái không biết những bài học về thiên nhiên và sự im lặng của nó, tôi đã trả lời: "Nếu vậy, tôi còn Do Thái hơn cả người Do Thái." Tôi tìm mãi trong tôi mà không thấy những kỷ niệm um tùm cây cối và sự phi lý êm dịu của trẻ em nhà nông. Tôi chưa bao giờ cào đất hay đi kiếm tổ con vật nào, tôi cũng chẳng sưu tầm thực vật hay ném đá vào chim chóc. Với tôi, sách là tổ và chim, là gia súc, là chuồng và nông thôn của tôi; còn phòng thư viện là thế giới được giữ lại trong một tấm gương: nó có độ dày vô tận, sự phong phú và tính bất ngờ của thế giới. Tôi lao vào những cuộc phiêu lưu kỳ lạ: trèo lên ghế, lên bàn, với nguy cơ gây nên những trận sạt lở chôn vùi thân thể tôi. Một thời gian dài, những cuốn sách ở dãy trên đã không nằm trong tầm tay tôi; những cuốn khác tôi vừa phát hiện đã bị tước ngay; những cuốn khác nữa thì lại lẩn trốn: tôi đã cầm trên tay rồi, đã bắt đầu đọc rồi, đã tin là để lại đúng chỗ, thế mà sau đó lại mất cả tuần mới tìm ra. Tôi đã có những cuộc gặp gỡ khủng khiếp: tôi giở một cuốn album, rơi vào một trang in màu, những con bọ xấu xí lúc nhúc dưới mắt tôi. Nằm trên thảm sàn, tôi làm những chuyến du lịch khô cằn qua các tác phẩm của Fontenelle, Aristophane, Rabelais: câu chữ cứ cưỡng lại tôi theo cách của sự vật; phải quan sát chúng, làm một vòng, giả vờ đi xa rồi bất ngờ quay lại tóm khi chúng mất cảnh giác, nhưng phần lớn thời gian, chúng đều giữ bí mật. Tôi đã là La Pérouse, Magellan, Vasco de Gama; tôi phát hiện ra những người bản xứ kỳ dị: "Gã đao phủ của chính mình" trong một bản dịch của Térence ở thể thơ alexandrin, "phong cách đặc trưng" trong một tác phẩm văn học so sánh. Hiện tượng mất âm cuối, phép đối ngẫu chéo, so sánh, hàng trăm từ mới như những tên bản xứ da đen đầy bí hiểm và xa cách thình lình lộ diện và
chỉ sự xuất hiện của chúng đã đủ làm rã rời cả một đoạn văn. Những ngôn từ khó khăn và đen ngòm ấy, tôi chỉ biết nghĩa của chúng mười hay mười lăm năm sau, và ngay cả bây giờ, chúng vẫn giữ sự khó hiểu ngày xưa: đó là dinh dưỡng của ký ức tôi.
Thư viện ông ngoại tôi hầu như chỉ có các tác phẩm cổ điển của Pháp và Đức. Cũng có một số sách dạy ngữ pháp, vài tiểu thuyết nổi tiếng, tập Truyện kể chọn lọc của Maupassant26, sách nghệ thuật - một Rubens, một Van Dyck, một Durer, một Rembrandt - mà các học trò của ông đã tặng ông nhân dịp năm mới. Vũ trụ sách này thật mỏng manh. Nhưng bộ Đại từ điển bách khoa Larousse đã thay thế mọi thứ cho tôi: tôi lấy một tập nào đó, nằm sau bàn làm việc của ông, trên giá áp cuối, A-Bello, Belloc-Ch hay Ci D, Mele-Po hay Pr-Z (những tổ hợp âm tiết này đã trở thành tên riêng chỉ các khu vực của tri thức phổ cập: có vùng Ci-D, vùng Pr-Z, cùng hệ động, thực vật, các thành phố, các vĩ nhân và các trận đánh của từng vùng); tôi khệ nệ đặt tập từ điển lên tấm lót tay trên bàn làm việc của ông ngoại tôi, rồi mở nó ra, lôi những con chim thật ra khỏi tổ, săn những con bướm thật đang đậu trên những bông hoa thật. Con người và muông thú là đây, hiển hiện: những bức tranh là thân thể của chúng, những dòng chữ là tâm hồn của chúng, tính chất đặc biệt của chúng; bên ngoài những bức tường của thư viện, người ta có thể gặp những bức phác thảo mờ nhạt tương đối gần với mẫu gốc nhưng không đạt tới sự toàn vẹn của chúng: ở vườn thú Ngoại lai, khỉ không giống khỉ lắm, còn ở vườn Luxembourg, người không giống người lắm. Theo tư tưởng Platon trong tâm thức, tôi đi từ tri thức đến đối tượng của nó. Tôi tìm thấy trong ý niệm nhiều thực tại hơn trong sự vật, bởi nó tự đến với tôi trước tiên và bởi nó tự đến như một sự vật. Chính trong sách vở mà tôi đã gặp vũ trụ: một vũ trụ được đồng hóa, sắp
xếp, dán nhãn, suy ngẫm, vẫn còn đáng gờm; và tôi đã nhầm sự hỗn loạn của những kinh nghiệm sách vở với dòng chảy tình cờ của những sự kiện có thật. Từ đó dẫn đến thuyết duy tâm mà tôi mất ba mươi năm mới thoát khỏi.
Cuộc sống thường nhật lúc ấy rất trong trẻo: chúng tôi hay gặp những người điềm tĩnh, nói to và rõ, tạo niềm tin trên những nguyên tắc đúng đắn, trên minh triết phổ biến của nhân loại và chỉ chấp nhận tách mình ra khỏi đại đa số quần chúng bằng một vẻ điệu đà nào đó của tâm hồn mà tôi đã rất quen. Ý của họ vừa được đưa ra là tôi bị thuyết phục ngay lập tức bởi một sự hiển nhiên chất phác và trong như pha lê; càng muốn thanh minh cho cách cư xử của mình, họ càng đưa ra những lý do buồn tẻ đến độ chúng không thể nào có thật; những tình huống mà họ buộc phải tự vấn lương tâm, được trình bày nhũn nhặn, khiến tôi bối rối ít hơn là khiến tôi sáng mắt ra: đó là những xung đột không có thật đã được giải quyết từ trước, bao giờ cũng giống nhau; sai sót của họ một khi được họ thú nhận đều không có gì là nặng nề: sự vội vã cùng một thái độ cáu giận chính đáng nhưng rõ là bị quá đà, đã làm hỏng năng lực phán đoán của họ; may mà họ nhận thấy điều này đúng lúc; lỗi của những kẻ vắng mặt, nghiêm trọng hơn, nhưng không bao giờ không thể tha thứ: trong xã hội này người ta không nói xấu, người ta ghi nhận một cách sầu não những khiếm khuyết của một tính cách. Tôi lắng nghe, tôi hiểu, tôi đồng ý, tôi thấy người ta có thể yên tâm về những lời lẽ đó và tôi đã không nhầm bởi chúng có mục đích là khiến người khác yên tâm: không gì là không có cách chữa nhưng về thực chất, không gì nhúc nhích cả, những xao động vô ích bên ngoài không được phép che giấu chúng ta sự yên tĩnh tang tóc đã là số phận của chúng ta.
Những vị khách của chúng tôi chào từ biệt ra về, tôi còn lại một mình, tôi lại đào tẩu khỏi nghĩa trang vô vị này, tôi trở về với cuộc sống, sự điên rồ trong những cuốn sách. Chỉ cần mở một cuốn là đủ để tôi phát hiện trong đó cái tư tưởng phi nhân và lo âu mà sự phù hoa và bí ẩn của nó vượt quá sức hiểu của tói, nó nhảy từ ý niệm này sang ý niệm kia nhanh đến độ mà tôi buông sách, hàng trăm lần mỗi trang, và lơ đễnh ngẩn ngơ để nó lướt đi. Tôi tham dự những sự kiện mà ông ngoại tôi chắc chắn coi là khó tin, tuy rằng chúng chứa đựng chân lý rực rỡ của những sự vật được viết ra. Những nhân vật xuất hiện không báo trước, yêu thương, giận hờn, cắt cổ nhau; kẻ còn sống sẽ suy sụp vì đau buồn, xuống mồ theo bạn hiền hoặc người tình dịu dàng mà anh ta vừa giết. Phải làm gì bây giờ? Tôi có nghĩa vụ như người lớn là khiển trách, khen ngợi, xá tội? Nhưng những kẻ kỳ quặc đó không có vẻ đi theo tôn chỉ đạo đức của chúng tôi chút nào và động cơ của họ, ngay cả khi người ta có đưa ra, thì tôi cũng không sao hiểu được. Brutus27 giết con trai, Mateo Falcone28 cũng vậy. Việc nãy do vậy có vẻ khá thông thường. Thế nhưng xung quanh tôi, không ai làm thế. Trong ngôi nhà ở Meudon, ông ngoại tôi cãi nhau với bác Émile và tôi nghe thấy họ gào thét trong vườn: tuy nhiên, ông dường như không nghĩ đến việc giết bác ấy. Ông kết tội như thế nào những người cha giết con? Tôi ấy à, tôi bỏ phiếu trắng: cuộc đời tôi không lâm nguy vì tôi mồ côi cha và những vụ giết người hoành tráng thế này mang lại cho tôi chút vui đùa, nhưng trong những cuốn truyện mà người ta viết về chúng thì tôi cảm nhận được một sự đồng tình khiến tôi khá hoang mang. Với Horace29, đôi lần tôi phải kiềm chế lắm để không nhổ vào bức hình vẽ ông ta đội mũ sát, cầm kiếm trần đuổi theo em gái mình, nàng Camille khốn khổ. Ông ngoại tôi thỉnh thoảng ngân nga:
Chúng ta không thể thân cha mẹ
Hơn là anh, chị, em của mình...
Tôi bối rối quá: nếu có chị hay em gái, tôi sẽ thân với họ hơn mẹ tôi sao? Hơn ông bà ngoại tôi sao? Đó có thể là người tình của tôi. Khi ấy, "người tình" vẫn còn là một từ bí hiểm mà tôi thường gặp trong các bi kịch của Corneille30. Những người tình ôm hôn nhau và hứa với nhau sẽ ngủ chung giường (một thói quen kỳ lạ: tại sao không ngủ mỗi người trong một chiếc giường giống hệt nhau, đặt kề nhau như tôi và mẹ?). Tôi không biết gì nhiều hơn nhưng dưới bề mặt sáng trưng của ý niệm, tôi cảm thấy trước rằng đó sẽ là một khối đầy lông tóc. Là anh hoặc em trai, thế nào tôi cũng mắc tội loạn luân. Tôi mơ đến điều ấy. Suy nghĩ biến thái? Ngụy trang tình cảm cấm kỵ? Rất có thể. Tôi đã có một người chị, đó là mẹ tôi, và tôi muốn có một cô em gái. Ngày hôm nay vẫn vậy - năm 1963 - đó là mối quan hệ gia đình duy nhất khiến tôi xúc động31. Tôi từng phạm một lỗi nghiêm trọng là tìm ở những phụ nữ quen biết người em gái không bao giờ có ấy: mong muốn này bị chối bỏ và tôi phải trả giá. Dẫu vậy, khi viết những dòng này, tôi vẫn làm thức dậy cơn giận của mình với kẻ đã giết Camille; nó vẫn tươi rói và sống động đến độ tôi tự nhủ có phải tội ác của Horace là một trong những nguyên nhân khiến tôi chống lại chủ nghĩa quân phiệt: với tôi, bọn theo nghề nhà binh thường giết hại chị em gái ruột. Giá như tôi có thể cho thằng võ biền kia một trận. Để bắt đầu, hãy buộc vào cọc! Và tặng nó mười hai viên đạn! Tôi mở sang trang mới; những chữ in chứng tỏ cho tôi biết sai lầm của tôi: phải tha bổng cho kẻ đã giết em gái kia. Trong vài giây đầu, tôi đã thở hổn hển, đập giày gỗ, như một con bò mộng bị mồi giả làm cho thất vọng. Rồi tôi vội vã dập tắt con giận. Sự đời
là vậy; tôi đành phải chấp nhận thôi: tôi còn quá trẻ. Tôi đã hiểu mọi thứ một cách lệch lạc. Sự cần thiết của việc tha bổng này hóa ra được viết bằng nhiều khổ thơ alexandrin mà tôi từng thấy bí hiểm hoặc nhảy trang do không đủ kiên nhẫn. Tôi thích sự không rõ ràng đó và cách mà câu chuyện trôi tuột qua tôi từ tứ phía: nó khiến tôi ngơ ngác. Tôi đọc lại những trang cuối của tiểu thuyết Bà Bovary32 hai mươi lần; cuối cùng tôi thuộc lòng nhiều đoạn nguyên vẹn mà vẫn không thấy sáng hơn về cách cư xử của ông góa tội nghiệp: ông ta đã tìm thấy những bức thư, đó có phải là lý do khiến ông ta nuôi râu? Ông ta ném cái nhìn đen tối về phía Rodolphe, nghĩa là ông ta giữ mối hiềm thù với gã - nhưng thực ra thì thù gì mới được? Và tại sao ông ta lại nói với Rodolphe: "Tôi không trách anh"? Tại sao Rodolphe lại thấy ông ta "buồn cười và hơi hèn"? Sau đó Charles Bovary qua đời: vì buồn? ốm? Và tại sao bác sĩ lại mổ xác ông ta bởi mọi thứ đã kết thúc rồi? Tôi thích cuộc kháng cự dai dẳng mà tôi không bao giờ thấu hết đó; bị lừa, mệt mỏi, tôi nhấm nháp niềm khoái lạc mơ hồ của việc hiểu mà không hiểu: đó là sự phong phú của nhân loại; trái tim con người mà ông ngoại tôi luôn hết lòng ca ngợi với những người trong gia đình, tôi thấy nó nhạt nhẽo và trống rỗng ở mọi nơi trừ trong những cuốn sách. Những cái tên nổi tiếng đến chóng mặt điều khiển các tâm trạng của tôi, nhấn chìm tôi trong kinh hãi hay u sầu mà tôi không sao biết được lý do. Tôi phát âm "Charbovary" và hình dung đâu đó một người đàn ông cao lớn, để râu, quần áo rách rưới đang đi dạo ở một miếng đất có hàng rào bao quanh: cảnh này thật không chịu nổi. Nguồn gốc của những thú vui bồn chồn lo âu đó là sự kết hợp giữa hai nỗi sợ đầy mâu thuẫn. Tôi sợ bị ngã chúi đầu vào một vũ trụ kỳ thú và lang thang không ngừng nghỉ ở đó, cùng Horace, cùng Charbovary, mà không hy vọng tìm lại phố Le Goff, ông bà
ngoại và mẹ tôi. Mặt khác, tôi đoán rằng những câu văn đang diễu hành trước mắt tôi mang lại cho các độc giả người lớn những ý nghĩa mà tôi không sao tóm được. Tôi đưa vào đầu, thông qua mắt, những ngôn từ độc hại nhưng giàu có hơn tôi biết rất nhiều; bằng cách diễn giải các câu chuyện về những kẻ điên loạn không liên quan gì đến tôi, một sức mạnh kỳ lạ đã tái tạo trong tôi nỗi buồn khủng khiếp, sự đổ nát của một đời người: tôi sắp bị đồi bại, bị chết vì ngộ độc? Hút sạch ngôn từ nhưng lại bị hình ảnh cuốn hút, tôi rốt cuộc chỉ được giải thoát nhờ sự xung khắc giữa hai hiểm họa đồng thời này. Ngày tắt, lang thang trong khu rừng rậm của ngôn lời, run rẩy ngay cả trước một tiếng động nhỏ, coi những tiếng lách cách của sàn gỗ như những thán từ, tôi tin là đã phát hiện ra ngôn ngữ ở trạng thái thiên nhiên, không có con người. Với bao nhiêu nhẹ nhõm yếu hèn, bao nhiêu thất vọng, tôi trở lại cuộc sống tầm thường quen thuộc khi mẹ tôi bước vào, bật đèn và kêu lên: "Ôi khổ thân con trai tôi, con mù mắt mất thôi!" Hoảng hốt, tôi nhảy lên, tôi kêu, tôi chạy, tôi làm hề. Nhưng tận trong những ngày thơ ấu phải giành giật để lấy lại ấy, tôi vẫn thường lo lắng tự hỏi: sách nói về cái gì? Ai viết chúng? Tại sao? Tôi thổ lộ với ông ngoại tôi những mối lo đó; sau một hồi suy ngẫm, xét rằng đã đến lúc giải thích cho tôi và ông tôi đã làm tốt đến nỗi để lại dấu ấn trong tôi.
Trong một thời gian dài, ông cho tôi nhảy lên một đùi để duỗi và ông hát: "Hãy cưỡi lên con ngựa nhỏ của tôi; nó đánh rắm khi chạy nước kiệu", và tôi cười ầm ĩ. Ông thôi hát: ông đặt tôi lên đầu gối và nhìn sâu vào mắt tôi: "Ta là người, ông nhắc lại bằng giọng như đứng trước đám đông, ta là người và không điều gì về con người mà xa lạ với ta."33 Ông phóng đại quá mức: giống như Platon từng làm với thi sĩ, ông đuổi khỏi nền cộng hòa của mình kỹ sư, thương nhân, và rất có thể cả sĩ quan. Với ông, các nhà
máy làm hỏng phong cảnh; ở các ngành khoa học thuần túy, ông chỉ ưa sự thuần khiết. Ở vùng Guérigny nơi chúng tôi nghỉ hai tuần cuối của tháng Bảy, bác Georges đã dẫn chúng tôi đến tham quan xưởng luyện kim: trời nóng, những người đàn ông hung tợn và ăn bận xấu xí xô đẩy chúng tôi; điếc tai bởi những tiếng ồn khủng khiếp, tôi chết khiếp vì sợ và chán; ông ngoại tôi vừa ngó mẻ kim loại đổ khuôn, vừa huýt sáo cho phải phép lịch sự, nhưng cái nhìn của ông vô hồn. Ngược lại, ở vùng Auvergne, vào tháng Tám, ông sục sạo khắp các làng mạc, đứng lại trước những công trình cổ, dùng gậy đập đập vào những viên gạch và nhiệt tình nói: "Cái mà cháu nhìn thấy đây này, là một bức tường từ thời Gô-lơ La Mã." Ông cũng đánh giá cao kiến trúc tôn giáo, và tuy căm ghét những kẻ theo Giáo hoàng, ông không bao giờ để lỡ dịp vào thăm các nhà thờ nếu đấy là nhà thờ kiểu Gô tích; còn nếu kiểu La Mã thì phải tùy hứng. Ông hầu như không đi nghe hòa nhạc nữa, nhưng ông đã từng đi: ông yêu Beethoven, vẻ tráng lệ của thứ nhạc đó, những dàn nhạc lớn chơi nó; ông cũng thích Bach, nhưng không nhiều lắm. Đôi khi ông lại gần chiếc dương cầm và không ngồi xuống, đưa những ngón tay thô cứng đánh một vài hợp âm, lúc đó bà ngoại tôi cười mím môi và nói: "Charles đang soạn nhạc." Các con trai ông, nhất là bác Georges, đã trở thành những người chơi nhạc giỏi, nhưng căm ghét Beethoven và thích nhạc thính phòng hơn bất kỳ cái gì; sự khác biệt về thẩm mỹ này khổng khiến ông ngoại tôi khó chịu; ông nói với vẻ hài lòng: "Người nhà Schweitzer là những nhạc sĩ bẩm sinh." Ra đời được tám ngày, có vẻ hứng thú với tiếng lách tách của chiếc thìa, tôi được ông phán luôn là có thẩm âm tốt.
Tranh kính, vòm chống, cánh cổng chạm trổ, thánh ca, hình Chúa bị đóng đinh vào chữ thập khắc trên gỗ hay đá, Suy tư34 bằng thơ hay Hòa
âm thi ca35: những thứ thuộc về con người này dẫn chúng ta thẳng đến cái Thần diệu. Điều này càng đúng khi thêm vào đó những vẻ đẹp thiên nhiên. Cùng một nguồn cảm hứng đã tạo nên cả những công trình vĩ đại của Thưọng đế lẫn những tác phẩm lớn lao của loài người; cùng một chiếc cầu vồng lấp lánh trong bọt của những thác nước, óng ánh giữa những câu văn của Flaubert36 hay lóe lên trong những mảng sáng-tối của Rembrandt: đó chính là Thiên hứng. Thiên hứng nói với Thượng đế về loài người và với loài người, nó là minh chứng của Thượng đế. Trong Cái Đẹp, ông ngoại tôi nhìn thấy sự hiện diện trần tục của Chân lý và nguồn gốc của những thăng hoa cao quý nhất. Ở vài hoàn cảnh đặc biệt - khi một cơn giông nổ ra trên núi, khi Victor Hugo được gọi cảm hứng - người ta có thể đạt tới Tuyệt Đỉnh nơi Cái Thật, Cái Đẹp và Cái Thiện hòa quyện vào nhau.
Tôi đã tìm thấy tôn giáo của mình: với tôi, dường như không có gì quan trọng hơn một cuốn sách. Thư viện, tôi coi nó như một đền thờ. Là cháu của giáo sĩ, tôi sống trên mái nhà của thế giới, ở tầng thứ sáu, vắt vẻo trên cành cao nhất của Cây Chính: thân cây là khoảng không hình ống của thang máy. Tôi ra ban công, ném xuống khách bộ hành bên dưới một cái nhìn từ trên cao, tôi chào, qua lưới sắt cửa sổ, cô bé Lucette Moreau hàng xóm bằng tuổi tôi, có mái tóc quăn màu vàng như tôi và cả sự nữ tính trẻ con của tôi, tôi quay lại đền hoặc cổng đền, tôi không bao giờ đi xuống mặt đất với tất cả con người mình: khi mẹ tôi dẫn tôi đến công viên Luxembourg - nghĩa là: hằng ngày - tôi để những vùng thấp kém nhìn thấy hình hài xấu xí của tôi, chứ cơ thể kiêu hãnh trong tôi thì không rời ngôi đền trên cao đó, và giờ đây tôi vẫn tin là nó còn ở trên đấy. Người nào cũng có một lãnh thổ tự nhiên của mình; độ cao của nó được quyết định không phải bởi lòng kiêu ngạo hay phẩm giá mà bằng tuổi thơ. Lãnh thổ đó
của tôi là một tầng sáu, có cửa sổ nhìn ra các mái nhà của thành phố Paris. Một thời gian dài tôi từng bị ngạt trong các thung lũng, bị đè bẹp bởi các đồng bằng: tôi lê chân trên sao Hỏa, trọng lực nghiền nát tôi; thế nên chỉ cần trèo lên nấm đất xây tổ của chuột chũi là đủ khiến tôi vui sướng trở lại: tôi quay lên tầng sáu đầy tính biểu tượng của tôi, tôi hít thở lần nữa không khí thông thoáng của Văn chương, Vũ trụ xếp thành tầng dưới chân tôi và mọi vật đều khúm núm xin xỏ một cái tên, cho tên tức là vừa tạo ra vật vừa cầm nó trong tay. Nếu thiếu cái ảo tưởng cơ bản này tôi đã không thể nào viết được.
Hôm nay, ngày 22 tháng Tư năm 1963, tôi ngồi sửa bản thảo này trên tầng thứ mười của một ngôi nhà mới xây: qua cửa sổ để mở tôi nhìn thấy một nghĩa trang, thành phố Paris, những ngọn đồi nhỏ của ngoại ô Saint Cloud, màu xanh. Điều ấy nói lên sự ngang bướng của tôi. Tuy nhiên tất cả đã thay đổi. Khi còn trẻ con, tôi rất muốn được xứng đáng với vị trí trên cao ấy, ta nên nhìn thấy trong sở thích chuồng bồ câu của tôi một hệ quả của tham vọng, của phù hoa, một sự bù trừ cho chiều cao khiêm tốn của tôi. Nhưng không; vấn đề không phải là trèo lên cây thiêng vì tôi đã ở trên đó và từ chối đi xuống; không phải là việc tôi ngồi lên trên những người khác, mà là tôi muốn sống trên không trung bát ngát giữa những ảo ảnh trên trời của Sự vật. Sau này, còn lâu mới chịu bám vào khinh khí cầu, tôi cố hết sức chìm xuống tận đáy: phải đi giày đế chì. May mắn thay, đôi khi trên cát hẳn, tôi cũng sượt qua các loài dưới biển mà tôi phải bịa ra tên. Những lần khác, chẳng có gì phải làm: một sự nhẹ nhàng quyến rũ giữ tôi trên mặt nước. Sau cùng, máy đo độ cao của tôi bị rối loạn, tôi lúc là thợ lặn, lúc là con lặn, nhưng thường là cả hai cùng lúc như vẫn thế trong lĩnh vực của chúng tôi: tôi sống trong không trung theo thói quen và tôi sục sạo dưới
đáy biển mà không quá hy vọng.
Tuy nhiên phải nói với tôi về các tác giả. Ông ngoại tôi làm điều ấy một cách tế nhị, nhưng không nhiệt tình. Ông dạy tôi tên của những người nổi tiếng; khi còn lại một mình, tôi ê a đọc lại danh sách đó từ Hésiode tới Hugo, mà không hề sai: đó là những vị Thánh và những nhà Tiên tri. Ông ngoại tôi nói là ông tôn thờ họ. Nhưng họ cũng làm ông phiền lòng: sự hiện diện phiền toái của họ khiến ông không thể quy tất cả tác phẩm của loài người là do một tay Chúa Thánh Linh. Ông cũng ngấm ngầm ưu ái những người vô danh, những người khiêm tốn giấu mình sau những nhà thờ mà họ đã xây, và cả vô số tác giả của các bài dân ca. Ông không ghét Shakespeare, người mà danh tính vẫn còn chưa được xác định. Tương tự như với Homère, và cũng cùng một lý do. Tương tự với cả một số vị khác mà người ta không chắc lắm là đã từng tồn tại. Còn những vị không muốn hay không biết cách xóa đi dấu vết đời mình, ông cũng tìm được những lý do để bào chữa, với điều kiện là họ đã chết. Nhưng ông kết án tất cả các tác giả cùng thời ngoại trừ Anatole France và Courteline người đã mua vui cho ông. Ông kiêu hãnh tận hưởng sự trân trọng mà người ta dành cho tuổi tác của ông, vốn văn hóa, hình thức, đức độ của ông, con người đi theo học thuyết Luther37 này không thể không nghĩ một cách rất Kinh Thánh rằng Thượng đế đã ban phước lành cho ngôi nhà của ông. Ở bàn ăn, đôi khi ông trở nên trầm mặc để có một cái nhìn tổng quát về đời mình và kết luận: "Các con ơi, thật dễ chịu biết bao khi chúng ta không có gì phải tự trách mình." Những cơn cáu giận, vẻ oai vệ, tính kiêu ngạo và sở thích những thứ cao siêu của ông che đậy một sự nhút nhát về mặt tinh thần xuất phát từ tôn giáo, từ thế kỷ và từ môi trường giáo giới của ông. Vì lý do này ông cảm thấy một nỗi kinh tởm bí mật dành cho những con quỷ khủng khiếp
trong thư viện của ông, những kẻ vô lại và tự sâu trong lòng ông coi sách của chúng là những thứ thô lậu. Tôi đã nhầm ở chỗ này: sự dè dặt xuất hiện dưới một vẻ hứng thú giả tạo, tôi lại ngỡ là sự nghiêm khắc của một thẩm phán; công việc giáo chức của ông đã nâng ông cao hơn những kẻ kia. Dù thế nào đi nữa, vị mục sư ông tôi nói vào tai tôi, tài năng chỉ là một sự vay mượn: phải xứng đáng với nó thông qua những gian khổ lớn lao, những thử thách được trải nghiệm một cách vững vàng và đúng mức; rồi cuối cùng sẽ nghe thấy những giọng nói đâu đó và chỉ việc chép lại như được đọc cho. Giữa cuộc cách mạng Nga đầu tiên và thế chiến thứ nhất, mười lăm năm sau cái chết của Mallarmé, vào thời điểm mà Daniel de Fontanin38 phát hiện ra Dưỡng chất trần gian39, một người đàn ông của thế kỷ 19 áp đặt cho cháu trai của mình những tư tưởng hiện hành dưới triều Louis-Philippe40. Như vậy đó, người ta thường nói, những thói bảo thủ nông dân được lý giải theo cách: từ đời này sang đời khác, các ông bố đi làm đồng gửi con trai lại cho ông bà trông nom. Tôi đã khởi đầu với một sự thụt lùi tám mươi năm. Tôi có nên phàn nàn? Tôi không biết nữa: trong các xã hội nhiều biến động của chúng ta, sự chậm trễ có khi lại gây được những bước tiến. Dù thế nào đi nữa, người ta cũng đã ném cho tôi cục xương kia để gặm và tôi đã gặm nhiều đến nỗi thấy được cả ánh sáng xuyên qua nó. Ông ngoại tôi từng muốn tìm cách xảo trá khiến tôi kinh tởm các nhà văn mà ông gọi là những kẻ môi giới. Ông đã đạt được kết quả ngược lại: tôi nhầm lẫn tài năng và công trạng. Những con người dũng cảm này giống tôi: khi tôi ngoan, khi tôi kiên cường chịu đau, tôi sẽ được hưởng vinh quang, được thưởng quà, trẻ con mà. Ông chỉ cho tôi xem những đứa trẻ khác cũng bị giám sát, thử thách rồi được thưởng quà và biết cách giữ suốt đời cái tuổi này của tôi. Không anh chị em, không bạn
bè, tôi đã coi họ như những người bạn đầu tiên. Họ yêu, đau khổ nghiệt ngã, như những nhân vật mà họ viết ra, và đặc biệt là họ có một kết thúc đẹp; tôi nhớ lại những gian khổ mà họ phải chịu đựng với một sự trìu mến hơi vui: hẳn là họ đã hài lòng lắm khi cảm thấy bất hạnh như thế; họ tự nhủ: "May mắn làm sao! Ta sẽ cho ra đời một vần thơ hay!"
Trong mắt tôi, họ không chết, hay không hoàn toàn chết: họ hóa thân thành những cuốn sách. Corneille, là một cậu mặt đỏ to lớn, sần sùi, lưng bọc da, vả thơm mùi hồ dán. Con người khó chịu và nghiêm khắc, với lời lẽ khó hiểu này, có những góc sắc nhọn cứa vào đùi tôi mỗi khi tôi vác ra để đọc. Nhưng vừa mở ra, nó đã cho tôi thấy những bức tranh khắc tối màu và dịu hiền như những lời tâm tình bí mật. Flaubert là một cậu có bìa bồi vải, không mùi, lốm đốm vết hoe. Victor Hugo cậu bội số thì có mặt cùng một lúc trên khắp các giá của tủ sách. Đó là xác, còn về hồn, hồn của họ ám ảnh tác phẩm: những trang sách đó là những ô cửa sổ, từ bên ngoài có một khuôn mặt dán vào cửa kính, rình mò tôi; tôi giả vờ không nhận thấy gì cả, tiếp tục đọc, mắt dính vào câu chữ dưới cái nhìn chằm chằm của Chateaubriand quá cố. Nhưng những nỗi lo này kéo dài không lâu; thời gian còn lại, tôi thấy yêu vô cùng những người bạn đồng hành trong cuộc chơi này. Tôi thích họ hơn mọi thứ trên đời và bình thản nghe họ kể rằng Charles Quint đã nhặt bút vẽ hộ Titien: hay ho thế! hoàng tử sinh ra là để làm việc này. Tuy nhiên, tôi không kính cẩn trước họ: tại sao tôi lại phải ca ngợi họ vĩ đại? Họ chỉ làm đúng nhiệm vụ mà thôi. Tôi trách những kẻ còn lại vì đã bé nhỏ. Tóm lại tôi đã hiểu lệch tất cả, và tôi biến ngoại lệ thành quy tắc: loài người trong mắt tôi là một ban bệ hạn hẹp còn xung quanh là những con vật trìu mến. Nhất là ông ngoại tôi đã cư xử quá tồi với họ, không để cho tôi có thể coi trọng họ. Ông đã thôi đọc từ lúc Victor Hugo
qua đời; khi ông không biết làm gì khác thì ông đọc lại. Nhưng nhiệm vụ của ông là dịch. Trong sâu thẳm lòng mình, tác giả của Những bài học tiếng Đức coi văn chương thế giới là vật liệu của mình. Ông buộc lòng phải xếp các tác giả theo công trạng, nhưng cái thứ bậc tôn ti bề ngoài này không giấu nổi những ưu ái mang tính vụ lợi của ông: Maupassant mang lại cho học sinh Đức những bài dịch xuôi thú vị nhất; Goethe do hơn Gottfried Keller41 hẳn một cái đầu sẽ là tác giả tuyệt vời nhất cho các bài dịch ngược. Là chuyên gia về cổ ngữ, ông ngoại tôi không coi trọng tiểu thuyết; nhưng với tư cách một nhà giáo, ông lại ưa chuộng chúng bởi kho từ vụng. Cuối cùng ông chỉ chấp nhận một số đoạn có chọn lọc và mấy năm sau tôi thấy ông thích một trích đoạn của Bà Bovary mà Mironneau đã lựa để in vào cuốn Đọc, trong khi Flaubert toàn tập từ hai mươi năm nay nằm dài đợi ý muốn của ông. Tôi cảm thấy ông ngoại tôi sống nhờ những người đã chết, điều này không phải là không khiến mối quan hệ của tôi với họ trở nên phức tạp: lấy cớ là tôn thờ họ, ông đã giữ họ trong vòng xiềng xích của mình và chẳng ngại cắt vụn họ để tiện cho việc chuyên chở từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia. Cùng một lúc, tôi khám phá sự vĩ đại và nỗi gian truân của họ. Bất hạnh làm sao, Mérimée lại phù hợp với khóa nhỡ; hậu quả là nhà văn này đồng thời sống hai cuộc đời: ở kệ thứ tư của giá sách thư viện, Colomba42 là nàng bồ câu trẻ trung có trăm cánh, bị giá lạnh, bị phơi ra và bị Lãng quên hoàn toàn; chẳng ai buồn ngó để mà phá trinh. Nhưng ở kệ bên dưới, cũng nàng trinh nữ đó lại bị giam cầm trong một cuốn sách bé, bẩn thỉu, màu nâu và bốc mùi; câu chuyện và ngôn ngữ đều không thay đổi, nhưng có những ghi chú bằng tiếng Đức và một bảng từ vựng; ngoài ra tôi còn biết thêm một xì càng đan độc nhất vô nhị kể từ khi vùng Alsace-Lorraine bị hiến cho Đức, rằng cuốn sách đã được xuất bản ở
Berlin. Cuốn sách ấy, ông ngoại tôi tuần hai lần cho vào cặp của ông, trước đó ông đã bôi vào nó bao nhiêu vết bẩn, vết cháy, gạch đỏ và tôi căm ghét nó: đó là Mérimée bị làm nhục. Mở nó ra là tôi đã thấy ngán muốn chết: từng âm tiết rời rã dưới mắt tôi như vẫn thế, ở Viện Sinh Ngữ của ông ngoại tôi, trong miệng ông. In ở Đức, cho người Đức đọc, những con chữ quen thuộc nhưng xa lạ kia là gì nếu không phải là sự giả mạo ngôn từ Pháp văn? Lại một xì căng đan nữa: có khi chỉ cần cạo đi là đủ để phát hiện ra rằng, dưới lớp giả trang ngôn ngữ Gô-loa, là những từ ngữ Giéc-ma-nic đang mai phục. Rốt cuộc tôi tự hỏi phải chăng có hai Colomba, một chưa thuần và chân thực, một giả dối và giáo điều, như kiểu có hai Iseult43 vậy.
Gian truân của những người bạn nhỏ của tôi khiến tôi tin rằng tôi ngang hàng với họ. Tôi không có được tài năng hay công trạng như họ, tôi cũng chưa dự định viết văn, nhưng là cháu ngoại của một giáo sĩ, tôi vượt họ ở nguồn gốc; không nghi ngờ gì nữa, tôi được dâng hiến: nhất định không phải cho những thống khổ luôn hơi quá mức như của họ, mà cho một viên chức nào đó; tôi sẽ là người lính canh gác cho nền văn hóa, như ông ngoại Charles Schweitzer của tôi. Và vì tôi còn sống, và rất tích cực: tôi chưa biết chặt những người chết này ra từng khúc nhưng tôi bắt họ chịu đựng tính thất thường của tôi: tôi cầm họ trong tay, mang họ đi, đặt xuống sàn, mở ra và đóng lại, lôi họ khỏi hư không để lại dìm họ vào đó: đó là những con búp bê của tôi, những thằng người không chân tay, và tôi thấy thương xót sự sống sót khốn khổ bất lực vẫn được gọi là bất tử của họ. Ông ngoại tôi khuyến khích sự gần gụi này: tất cả trẻ con đều có cảm hứng, chúng chẳng phải ghen tức gì với các thi sĩ, những kẻ thực ra cũng là những đứa trẻ. Tôi mê mệt Courteline, tôi theo chị bếp vào tận bếp để đọc to cho chị ấy huyện Theodore đi tìm những que diêm. Người ta vui đùa với sự hâm mộ của tôi;
có những chăm nom ân cần phát triển nó lên và biến nó thành một say mê không giấu giếm. Một ngày đẹp trời, ông ngoại tôi bâng quơ nói với tôi: "Courtelme hẳn là một anh chàng tử tế. Nếu cháu thích anh ta đến mức ấy, tại sao không viết cho anh ta?" Thế là tôi viết. Ông ngoại tôi hướng dẫn tôi viết và quyết định để lại nhiều lỗi chính tả trong bức thư đó của tôi. Cách đây vài năm, báo chí in lại và tôi không thể đọc lại nó mà không khó chịu. Tôi đã kết thúc bức thư bằng câu: "người bạn tương lai của ông", một câu dường như hoàn toàn tự nhiên với tôi: tôi thân với cả Voltaire và Corneille; làm sao mà một nhà văn còn sống lại có thể từ chối tình bạn của tôi? Thế mà Courteline đã từ chối và làm thế là đúng: bởi vì nếu trả lời cho đứa cháu, hẳn anh ta sẽ rơi phải người ông. Vào thời kỳ ấy, chúng tôi phán xét nghiêm khắc sự im lặng của anh ta, ông ngoại tôi nói: "Ông chấp nhận rằng anh ta có nhiều việc phải làm, nhưng quỷ sứ có ở đấy thì người ta cũng nên trả lời một đứa trẻ chứ."
Cho đến bây giờ, trong tôi vẫn còn cái tật xấu là sự thân mật suồng sã ấy. Tôi coi họ như bạn đồng môn, tất cả những nhân vật lừng danh quá cố này; tôi nói không vòng vo về Baudelaire, về Flaubert và khi vì vậy mà bị khiển trách, tôi luôn muốn trả lời thế này: "Các vị đừng chọc mũi vào chuyện riêng của chúng tôi. Các thiên tài của các vị đã thuộc về tôi, tôi đã cầm họ trong tay, đã yêu họ si mê, với tất cả sự vô lễ. Chả lẽ với họ tôi lại cần phải đeo găng hay sao?" Nhưng chủ nghĩa nhân văn của ông ngoại tôi, thứ chủ nghĩa nhân văn của giáo sĩ cao cấp, tôi đã tống khứ vào cái ngày tôi hiểu rằng mỗi người đều là một con người trọn vẹn. Những sự tỉnh mộng thật đáng buồn: ngôn ngữ mất hết mầu nhiệm; các anh hùng văn chương, những người đồng trang lứa xưa kia của tôi, sau khi bị lột sạch đặc quyền, trở nên phục tùng: thế là tôi để tang họ hai lần.
Điều mà tôi vừa viết kia là sai? Hay đúng? Chẳng sai mà cũng chẳng đúng, như tất cả những gì người ta viết về những kẻ điên, về loài người. Tôi đã thuật lại các sự việc với độ chính xác mà trí nhớ của tôi cho phép. Nhưng tôi tin vào sự điên rồ của mình tới mức nào? Đó là câu hỏi mấu chốt, tuy thế lại không do tôi quyết định. Sau đó tôi thấy rằng ta có thể biết tất cả về các loại tình cảm trìu mến trừ sức mạnh của chúng, tức là độ chân thật của những tình cảm đó. Bản thân hành động không thể được sử dụng làm chuẩn trừ phi ta chứng minh được rằng chúng không phải là cử chỉ, một việc không phải bao giờ cũng dễ làm. Hãy nhìn thế này thì hơn: một mình giữa đám người lớn, tôi là một người lớn thu nhỏ, và tôi đã đọc sách của người lớn; điều này nghe đã thấy sai sai, vì cũng vào thời điểm đó tôi vẫn còn là một đứa trẻ. Tôi không dám chắc là tôi có lỗi: sự thể là như thế, vậy thôi; dù thế nào đi nữa thì các chuyến thám hiểm và các cuộc đi săn của tôi cũng góp phần vào vở kịch gia đình, ai trong nhà cũng khoái và tôi biết điều ấy: đúng thế, tôi biết, hằng ngày đứa trẻ tuyệt vời kia làm thức dậy những cuốn sách ma mị mà ông ngoại nó không còn đọc nữa. Tôi sống già hơn tuổi như người ta sống trên khả năng tài chính của mình: hăng hái, mỏi mệt, chịu đắt để khoe mẽ. Vừa đẩy cửa phòng đọc sách là tôi rơi ngay trúng bụng của một lão già trơ lì: chiếc bàn làm việc to đùng, tấm lót tay, những vết mực, đỏ và đen, trên tờ giấy thấm màu hồng, thước kẻ, lọ cồn, mùi ứ đọng hôi thối của thuốc lá, và mùa đông là ánh đỏ nhạt của lò sưởi gang, những tiếng cót két của mặt bàn làm bằng mica, đó là hiện thân của ông ngoại Karl, được vật thể hóa: chỉ cần như thế là đủ để tôi có cảm giác được hưởng ân sủng, tôi lao vào những cuốn sách. Một cách chân thật? Điều ấy có nghĩa là gì? Làm sao tôi có thể xác định - nhất là sau ngần ấy năm - đường biên luôn thay đổi và khó nắm giữa thú hưởng thụ và thói rởm đời? Tôi nằm sấp, mặt hướng về cửa sổ, trưóc mắt là một cuốn sách
để ngỏ, một ly nước pha chút rượu vang để bên tay phải, còn bên tay trái là một đĩa đựng một lát bánh mì phết mứt hoa quả. Trong tận cùng cô đơn, tôi vẫn diễn trò: mẹ tôi và ông bà ngoại tôi đã lật những trang sách này nhiều năm trước khi tôi được sinh ra, tri thức của họ đang bày ra trước mắt tôi: buổi tối, mọi người chắc sẽ hỏi tôi: "đọc gì? có hiểu được gì?" tôi biết, tôi đang trở dạ, tôi sắp đẻ ra một từ trẻ con; trốn người lớn vào những trang sách, đó là cách tốt nhất để chia sẻ với họ. Tuy vắng mặt, nhưng ánh mắt của họ hẳn sẽ đi vào tôi ở chỗ xương chẩm, để rồi trồi ra qua đồng tử, dõi sát sạt những câu chữ đã từng được đọc hàng trăm lần còn tôi mới đọc lần đầu. Bị họ nhìn, tôi nhìn thấy chính tôi: tôi thấy tôi đang đọc như người ta nghe nhau nói. Liệu tôi có thay đổi nhiều hay không kể từ lúc giả vờ đoán chữ trong "Một người Hoa ở Trung Quốc" trước khi thuộc bảng chữ cái? Không đâu: trò chơi vẫn tiếp diễn. Sau lưng tôi, cửa mở, mọi người bước vào để xem tôi "đang làm chuyện gì vậy": tôi ăn gian, tôi đứng bật dậy, mang cuốn của Musset44 trả về chỗ cũ, và ngay lập tức, kiễng chân, giơ tay với cuốn của Corneille nặng trịch; mọi người đong đo sự say mê của tôi bằng những cố gắng mà tôi tỏ ra, tôi nghe thấy sau lưng tôi một giọng kinh ngạc thì thào: "Ôi thằng bé yêu Corneille làm sao!" Tôi không yêu Corneille, tôi chán ngấy thơ làm theo luật alexandrin. May quá nhà xuất bản chỉ in đầy đủ những vở kịch nổi tiếng nhất; còn những vở khác thì có mỗi tên và dàn ý phân tích: chính điều này khiến tôi quan tâm: "Rodelinde, vợ của Pertharite, vua của người Lombard bị Grimoald đánh bại, nên bị Unulphe ép phải cưới ông hoàng ngoại quốc này..." Tôi đã biết các vở Rodogune, Théodore, Agésilas trước vở Le Cid và vở Cinna; miệng tôi chất đầy những cái tên rất kêu, tim tôi ôm ấp những tình cảm cao quý và tôi lo làm sao đừng bị lạc giữa những mối quan hệ họ hàng của họ. Mọi
người cũng nói: "Thằng bé này khao khát được học, nó ngấu nghiến từ điển Larousse!" và tôi cứ để họ nói. Nhưng tôi có học gì mấy: tôi đã khám phá ra rằng cuốn từ điển ấy có tóm tắt các vở kịch và tiểu thuyết; điều đó khiến tôi rất khoái.
Tôi thích làm hài lòng mọi người và tôi muốn tắm mình trong văn hóa: ngày nào tôi cũng chất vào đầu những điều thiêng liêng. Đôi khi một cách lơ đãng: chỉ cần cúi xuống và lật trang; tác phẩm của những người bạn nhỏ kia của tôi thường được sử dụng làm bánh xe cầu nguyện. Cùng một lúc, tôi thực sự cảm thấy vừa sợ hãi vừa thích thú; đôi khi tôi cũng quên vai diễn của mình và lao vào ngôi mộ mở sẵn, bị cuốn đi bởi một con cá voi điên mà chả là ai khác, chính là loài người. Nào chúng ta cùng kết luận! Dù sao thì hành động nhìn sách của tôi cũng cày xới ngôn từ đấy chứ: phải dùng thử từng từ, quyết định nghĩa của chúng; vở kịch văn hóa này, theo thời gian, đã trau dồi kiến thức cho tôi.
Nhưng tôi cũng có những vụ đọc thực sự: bên ngoài chính điện, trong phòng ngủ của chúng tôi hay dưới gầm bàn phòng ăn; tôi không nói cho ai hay, mà cũng không một ai, trừ mẹ tôi, nói với tôi về những vụ đọc ấy. Mẹ tôi nhìn nhận những con hào hứng giả tạo của tôi một cách nghiêm trọng. Mẹ thổ lộ những lo lắng ấy cho bà ngoại. Bà ngoại trở thành đồng minh vững chắc của mẹ, bà nói với mẹ: "Charles thật không tỉnh táo. Chính ông ấy đã thúc thằng bé, mẹ thấy mà. Để đến lúc nó kiệt sức thì tha hồ được việc." Bà và mẹ còn nói với nhau về tình trạng lao lực và chứng viêm màng não. Tấn công trực tiếp ông ngoại tôi có lẽ là một việc nguy hiểm và vô ích, nên bà và mẹ đã đi đường vòng. Trong một lần dạo phố, mẹ dừng lại như thể tình cờ hước một quầy sách mà ngày nay vẫn còn nằm ở góc đại lộ Saint-Michel và phố Soufflot: tôi trông thấy những hình ảnh tuyệt đẹp với
những màu sắc sặc sỡ khiến tôi mê mẩn, tôi đòi và được mua; bà và mẹ tôi đã thành công: tuần nào tôi cũng muốn có Cri-cri45, Cậu bé cừ khôi46, Những kỳ nghỉ, Ba cậu hướng đạo sinh47 của Jean de la Hire và Vòng quanh thế giới bằng máy bay48 ra từng tập vào các thứ Năm. Từ thứ Năm này đến thứ Năm kia, tôi nghĩ về Đại bàng vùng Andes49, võ sĩ quyền Anh Marcel Dunot50 với đôi bàn tay thép, và về chàng phi công Christian51 nhiều hơn là nghĩ về những người bạn Rabelais52 và Vigny53. Mẹ tôi bắt đầu lùng các tác phẩm có khả năng trả tôi về với tuổi thơ: đầu tiên là "những cuốn sách nhỏ màu hồng", nguyệt san cổ tích, rồi dần dần đến Những đứa con của thuyền trưởng Grant, Người cuối cùng của bộ tộc Mohicans, Nicolas Nickleby, Những đồng 5 xu của chàng Lavarède. Tôi thích sự ngông cuồng của Paul d’Ivoi hơn là Jules Verne quá ư điềm tĩnh. Nhưng dù tác giả có thế nào đi nữa thì tôi cũng vô cùng thích những tác phẩm trong bộ Hetzel, tựa như những sân khấu bé nhỏ mà bìa sách màu đỏ cùng với những quả tua óng ánh vàng tượng trưng cho bức màn: bụi nắng, trên những mép sách, là hàng đèn chiếu. Chính nhờ những chiếc hộp thần kỳ này, chứ không phải ở những câu văn cân đối của Chateaubriand, mà tôi đã có những cuộc gặp gỡ đầu tiên với Cái Đẹp. Khi tôi mở chúng ra, tôi quên đi tất cả: thế là đọc ư? Không, mà là chết vì ngây ngất: từ sự triệt tiêu bản thân đó của tôi lập tức sinh ra những người bản địa tay cầm lao, khu rừng rậm, một nhà thám hiểm đội mũ bảo hiểm màu trắng. Tôi là cái nhìn, tôi rọi ánh sáng vào đôi má xinh đẹp buồn thảm của nàng Aouda54, vào hai chòm râu má của chàng Philéas Fogg55. Cuối cùng, thoát khỏi bản thân, kỳ quan bé nhỏ đã tự trở thành một kinh ngạc thật sự. Cách sàn nhà năm mươi phân đã ra đời một hạnh phúc mông lung, hoàn hảo. Lúc đầu, Thế giới
Mới có vẻ như đáng lo ngại hơn Thế giới Cũ: có cướp giật, giết người; máu chảy thành sông. Những tên da đỏ, Hindu, Mohican, và cả Hottentot, bắt cóc nàng thiếu nữ, trói ông bố già nua của nàng, quyết hành hạ ông bằng những nhục hình khủng khiếp nhất. Đó là Cái Ác thuần túy. Nhưng nó chỉ xuất hiện để khúm núm trước Cái Thiện: ngay trong chương tiếp theo, tất cả sẽ được khôi phục. Những người da trắng dũng cảm đã tiến hành tàn sát bọn mọi rợ, chặt đứt xiềng xích cho ông bố để ông lao vào vòng tay con gái. Chỉ bọn độc ác mới chết và một vài người tốt (những nhân vật rất phụ) mà sự qua đời của họ nằm trong số những tổn thất không đáng kể của câu chuyện. Vả lại, bản thân cái chết đã được khử trùng: người ta ngã vật xuống trong tư thế hình chữ thập, với một lỗ tròn nhỏ ở ngực trái hoặc, nếu súng trường lúc đó chưa được phát minh, thì lũ người có tội sẽ bị "đưa đầu vào lưỡi kiếm”. Tôi rất thích đoản ngữ xinh xẻo kia: tôi hình dung ánh chớp thẳng và trắng đó, lưỡi kiếm; nó chém nhẹ như không, xuyên về phía lưng một tên-ngoài-vòng-pháp- luật, tên này gục xuống mà không nhỏ một giọt máu nào. Đôi khi, cái chết thậm chí còn nực cười: đó là cái chết của tên Hồi giáo, tôi nghĩ là trong vở kịch Người con gái đỡ đầu của chàng Roland56, hắn lao ngựa vào ngựa của một chiến binh thập tự quân; chàng hiệp sĩ này đã chém cho hắn một nhát mạnh vào đầu, xẻ hắn làm đôi từ trên xuống dưới; một bức vẽ của Gustave Doré đã minh họa biến cố này. Thú vị làm sao! Hai nửa thân bị tách rời nhau bắt đầu rơi xuống, mỗi bên làm một hình bán nguyệt xung quanh bàn đạp yên ngựa; còn con ngựa thì ngạc nhiên hất vó chồm lên. Trong nhiều năm liền, tôi không thể xem bức tranh đó mà không cười chảy nước mắt. Cuối cùng tôi ghi nhớ điều mà tôi phải nhớ: kẻ thù của chúng ta, có đáng ghét đến mức nào tóm lại cũng vô hại, bởi vì những kế hoạch của nó đều chẳng đi đến
thành công, thậm chí là, dù nó có cố gắng và nhiều âm mưu xảo quyệt, thì các kế hoạch ấy cũng chỉ để phục vụ cho sự nghiệp của Cái Thiện; thực vậy, tôi nhận thấy rằng sự lập lại trật tự luôn đi kèm một tiến bộ: các anh hùng sẽ được đền bù, nhận danh vọng, sự ngưỡng mộ, tiền bạc; nhờ sự dũng cảm của họ, một vùng đất được chinh phục, một đồ mỹ nghệ bị tước khỏi tay dân bản xứ được chuyển về các bảo tàng của nước chúng ta; nàng thiếu nữ phải lòng nhà thám hiểm đã cứu mạng mình, tất cả kết thúc bằng một đám cưới. Từ những cuốn sách và tạp chí ấy, tôi đã rút ra được cái ảo ảnh kỳ quái sâu kín nhất trong tôi: sự lạc quan.
Trong một thời gian dài, việc đọc những tác phẩm đó được làm một cách lén lút; Anne-Marie mẹ tôi thậm chí không cần phải cảnh báo tôi: ý thức được sự thấp kém của những loại sách báo đó, tôi không hé một lời với ông ngoại. Tôi giao thiệp với bọn vô lại, tự do phóng túng, chơi bời nghỉ ngơi ở nhà thổ nhưng không quên rằng chân lý của tôi đã ở lại đền thờ. Kể ra những lầm lỗi khiến vị linh mục là ông ngoại tôi bị sốc thì lợi lộc gì. Nhưng cuối cùng ông cũng bắt quả tang tôi; ông rất giận bà ngoại và mẹ tôi, và hai người phụ nữ này lợi dụng lúc ông dừng lại để lấy hơi, đã đổ hết tội lỗi lên đầu tôi: tôi đã trông thấy những tạp chí ấy, những tiểu thuyết phiêu lưu ấy, tôi thèm đọc, đòi mua, nỡ lòng nào họ từ chối tôi? Lời nói dối khéo léo này đã đẩy ông ngoại tôi vào chân tường: chính tôi, chỉ mình tôi, đã bội tình nàng Colomba để chơi bời với lũ đàn bà bê tha trụy lạc son phấn rã rời kia. Tôi, một đứa trẻ có tài tiên tri, một Pythie57 trẻ tuổi, một Eliacin58 của vương quốc văn chương, vậy mà lại bộc lộ thiên hướng cuồng nhiệt đối với những điều nhơ bẩn. Ông phải lựa chọn: hoặc là tôi sẽ không tiên tri nữa, hoặc là người ta phải tôn trọng sở thích của tôi và không tìm hiểu tại sao. Nếu tôi mà là con của ông thì ông đã đốt tất cả đống kia
rồi, nhưng vì tôi là cháu nên ông đành buồn bã tỏ ra rộng lượng. Tôi không đòi hỏi gì hơn và thanh thản tiếp tục cuộc sống hai mặt. Cuộc sống kiểu này không bao giờ chấm dứt: ngay cả ngày hòm nay, tôi vẫn sẵn lòng đọc tiểu thuyết "trinh thám đen" hơn là các tác phẩm của Wittgenstein59.
Tôi là kẻ đứng đầu, là kẻ vô song ở hòn đảo lơ lửng trên không của mình; tôi rơi tõm xuống hạng cuối cùng khi người ta ép tôi vào luật lệ chung. Ông ngoại tôi quyết định ghi tên cho tôi vào tiểu trung học Montaigne60. Một buổi sáng, ông dẫn tôi tôi gặp thầy hiệu trưởng và ca tụng tôi hết lời: tôi chỉ có một lỗi duy nhất là quá siêu so với tuổi. Thầy hiệu trưởng chấp thuận: người ta cho tôi vào lớp bốn và tôi đã tin là sẽ được học cùng lớp với bọn cùng tuổi. Nhưng không: sau bài chính tả đầu tiên của tôi, ban giám hiệu triệu tập gấp ông ngoại tôi; ông về nhà trong tình trạng giận dữ, lôi từ cặp ra một tờ giấy tệ hại, đầy những nét chữ nguệch ngoạc, những vết bẩn và ném lên bàn: đó là bài kiểm tra mà tôi đã nộp ở trường. Ban giám hiệu đã lưu ý ông những lỗi chính tả - "con tỏ giại thít cỏ sạ hương"61 - và cố giải thích cho ông hiểu rằng trình độ của tôi không phải là lớp bốn mà là lớp hai. Nhìn thấy câu "con tỏ giại" mẹ tôi phá lên cười như điên, và ông ngoại tôi đã ngăn mẹ lại bằng một cái nhìn đầy dữ tợn. Ông bắt đầu lên án tôi thiếu thiện ý và lần đầu tiên trong đời cao giọng mắng tôi, rồi tuyên bố là người ta đã đánh giá tôi không đúng; ngay ngày hôm sau, ông rút tôi ra khỏi trường và giận nhau với thầy hiệu trưởng.
Tôi chẳng hiểu gì về vụ này và thất bại của tôi không khiến tôi buồn chút nào: tôi là một đứa trẻ thiên tài không biết chính tả, chỉ vậy thôi. Thế
rồi, tôi trở về với nỗi cô độc mà không hề buồn chán: tôi yêu nỗi đau của tôi. Tói đã đánh mất cơ hội được trở thành chính mình mà thậm chí không ngờ đến chuyện đó: một thầy giáo tiểu học người Paris tên là Liévin được giao nhiệm vụ đến dạy riêng tôi; hầu như ngày nào thầy cũng đến. Ông ngoại tôi mua cho tôi một bộ bàn ghế học riêng bằng gỗ màu trắng. Tôi ngồi ở ghế, còn thầy Liévin đi đi lại lại đọc chính tả. Thầy trông giống Vincent Auriol và ông ngoại tôi ngờ thầy là thành viên của hội Tam điểm, ông kể với vẻ kinh tởm sợ sệt của một người đàng hoàng bị một thằng loạn dâm hậu môn tán tỉnh: "Khi tôi chào anh ta, anh ta dùng ngón cái phác hình tam giác của hội Tam điểm lên lòng bàn tay tôi." Còn tôi, tôi ghét thầy lắm vì thầy quên chiều chuộng tôi, tôi tin rằng thầy có lý do để coi tôi là một đứa trẻ chậm phát triển. Sau đó, thầy biến mất, tôi không hiểu tại sao nữa, có thể là thầy đã thổ lộ với ai đó suy nghĩ của thầy về tôi.
Gia đình tôi có một thời gian ở Arcachon và tôi đã đến học ở trường làng: những nguyên tắc dân chủ của ông ngoại tôi yêu cầu phải như vậy. Nhưng ông cũng muốn rằng người ta cách ly tôi với sự dung tục. Ông giới thiệu về tôi với thầy giáo trường làng như thế này: "Đồng nghiệp quý mến, tôi giao phó cho bạn thứ quý báu nhất của tôi." Thầy Barrault có một chỏm râu cằm và đeo kính kẹp mũi, thầy đến biệt thự của gia đình tôi uống rượu nho và tuyên bố là rất vinh dự khi được một thành viên ngành giáo dục trung học tín nhiệm. Thầy để tôi ngồi ở một bàn học đặc biệt, cạnh bục giảng, và giữ tôi lại cạnh thầy trong giờ ra chơi. Tôi thấy cách đối xử ưu đãi này có vẻ chính đáng; những đứa bạn ngang hàng, những "đứa con của nhân dân" nghĩ gì thì tôi chịu: tôi tin là chúng mặc xác chuyện này. Còn tôi, sự nghịch phá của chúng khiến tôi mệt mỏi, và tôi thấy thật tao nhã cái việc ngồi chảy dài bên cạnh thầy Barrault lúc chúng nó chơi đuổi bắt ngoài sân.
Tôi có hai lý do để tôn trọng thầy Barrault: thầy muốn tốt cho tôi và thầy bị hôi mồm. Người lớn thì phải xấu xí, nhăn nheo, khó chịu; khi họ ôm tôi, tôi không bực mình vì có một cảm giác hơi kinh tởm cần phải vượt qua: điều ấy chứng tỏ rằng đức độ không hề dễ. Có những niềm vui rất đơn giản, tầm thường: chạy, nhảy, ăn bánh ngọt, hôn làn da mềm mại và thơm phức của mẹ tôi; nhưng tôi đánh giá cao hơn những thú vui học hỏi và tạp nham mà tôi cảm nhận khi ở cạnh những người đàn ông lớn tuổi: sự ghê tởm mà họ khơi gợi nơi tôi cũng làm nên một phần uy tín của họ: tôi nhầm sự tởm lợm với tinh thần nghiêm trọng62. Tôi đua đòi làm sang. Khi thầy Barrault nghiêng đầu về phía tôi, hơi thở của thầy bắt tôi phải có những khó chịu cao nhã, tôi hăm hở hít lấy mùi ghê tởm tỏa ra từ những đức độ của thầy. Một hôm, tôi phát hiện một dòng chữ mới viết trên tường của trường, tôi đến gần và đọc: "Lão Barrault là một thằng ngu." Tim tôi đập vỡ lồng ngực, tôi sững sờ đến đần người ra, tôi sợ. "Thằng ngu", đó chỉ có thể là một trong những "từ bậy" lúc nhúc dưới đáy của kho từ vựng mà một đứa trẻ có giáo dục không bao giờ bắt gặp; cụt lủn và tàn nhẫn, nó mang vẻ thô mộc khủng khiếp của những sinh vật hạ đẳng. Đọc nó bằng mắt đã là quá rồi: tôi tự cấm mình không được phát âm nó dù chỉ bằng một giọng rất nhỏ. Con gián đang bám vào tường ấy, tôi không muốn nó nhảy vào miệng, lọt vào cổ họng và biến thành một tiếng kèn đen tối. Nếu tôi giả vờ không nhận ra nó, thì nó sẽ chui vào một lỗ trên tường thôi. Nhưng, khi tôi đưa mắt sang hướng khác, là lại để thấy cụm từ bỉ ổi "lão Barrault" còn khiến tôi hoảng sợ hơn nữa, vì từ "thằng ngu" nói cho cùng tôi chỉ đoán nghĩa, nhưng tôi biết rất rõ ai bị gọi là "lão" trong nhà tôi: lão làm vườn, lão phát thư, lão bố cô người ở, tóm lại là những lão già thảm hại. Ai đó đã nhìn thấy thầy Barrault, thầy giáo tiểu học của tôi, đồng nghiệp của ông
ngoại tôi, dưới vẻ một lão già thảm hại. Đâu đó, trong cái đầu nào đấy, rình rập ý tưởng bệnh hoạn và tội phạm này. Đầu ai? Có thể là đầu tôi. Chẳng phải chỉ cần đọc cái câu báng bổ kia là đã thành đồng lõa với tội phạm thượng này? Cùng một lúc tôi có cảm giác rằng một kẻ tàm thần tàn nhẫn đang cười cợt thói lịch sự, lòng tôn trọng, sự hồ hỏi, niềm vui mà tôi cảm nhận mỗi sáng được tháo mũ và nói: "Chào thầy giáo của con!" và tôi chính là kẻ tâm thần đó, những từ ngữ láo lếu kia, những ý nghĩ láo lếu kia nhung nhúc trong tim tôi. Điều gì đã ngăn tôi không được gào vỡ họng: "Lão mọi này hôi như lợn", ví dụ thế. Tôi thì thầm: "Lão Barrault khắm khú" và mọi vật bắt đầu quay cuồng: tôi vừa khóc vừa chạy trốn. Ngay ngày hôm sau, tôi tìm lại được sự tôn kính với thầy Barrault, với cổ cồn độn cứng và nơ bướm của thầy. Nhưng, khi thầy cúi xuống quyển vở của tôi, tôi quay đầu đi và nín thở.
Mùa thu năm sau, mẹ tôi quyết định dẫn tôi đến trường Poupon. Phải leo cầu thang gỗ và đi vào một càn phòng trên tầng hai; học trò ngồi thành nhóm hình bán nguyệt, im lặng; còn các bà mẹ ngồi ở cuối phòng, lưng thẳng và dựa vào tường, mắt trông chừng giáo viên. Nghĩa vụ đầu tiên của những cô giáo trẻ khốn khổ là phân phối các lời ca ngợi và điểm tốt một cách công bằng ở ngôi trường của các thần đồng. Nếu cô nào có hành động thiếu kiên nhẫn hoặc tỏ ra quá hài lòng với một câu trả lời đúng, thì tất cả các cô sẽ mất học trò và cô giáo đó mất chỗ dạy. Chúng tôi gồm ba mươi học viên không bao giờ có thời gian nói chuyện cùng nhau. Giờ tan trường, các bà mẹ ai nấy hùng hổ giật lấy con rồi chẳng chào hỏi gì, lôi vội về nhà. Sau một học kỳ, mẹ tôi cho tôi thôi học: ở đó chúng tôi không học mấy và mẹ tôi cuối cùng cũng mệt mỏi bởi cái nhìn nặng nề của mấy bà mẹ khác mỗi khi đến lượt tôi được cô giáo khen. Cô Marie-Louise, một cô giáo trẻ
tóc vàng, đeo kính kẹp mũi, dạy tám tiếng mỗi ngày trong trường Poupon để lấy một cái lương chết đói, đã chấp nhận đến dạy tôi tại nhà và giấu không cho ban giám hiệu biết. Đôi khi, cô đang đọc chính tả thì dừng lại để trút khỏi tâm can những tiếng thở dài nặng nề: cô nói với tôi rằng cô chán lắm rồi, rằng cô đang sống trong cô đơn khủng khiếp, rằng cô có thể cho đi tất cả để có được một người chồng, người nào cũng được. Cuối cùng, cả cô nữa, cô cũng biến mất: gia đình tôi cho rằng cô chằng dạy được tôi cái gì, nhưng tôi tin cái chính là vì ông ngoại tôi thấy cô đầy tai ương. Con người yêu công bằng này không từ chối an ủi những kẻ khốn khổ nhưng lại kinh tởm việc mời họ tới nhà. Đã đến lúc rồi: cô Marie-Louise khiến tôi mất tinh thần ghê gớm. Tôi đã tưởng lương tháng tỷ lệ với công lao và người ta bảo tôi là cô có công: vậy mà tại sao có lại được trả lưong ít thế? Khi hành nghề, người ta thật đáng trọng và tự hào, cảm thấy hạnh phúc được làm việc: cô có cái may mắn là làm việc tám tiếng một ngày, tại sao cô lại nói về cuộc sống của mình như một nỗi đau không chữa nổi? Khi tôi kể lại những lời ca thán của cô, ông ngoại tôi phá lên cười: cô xấu quá nên chẳng người đàn ông nào thèm lấy. Tôi thì tôi không cười: chẳng lẽ con người sinh ra đã bị kết án? Nếu vậy thì trước đây người ta đã nói dối tôi: trật tự thế giới ẩn giấu những bất trật tự khủng khiếp. Nhưng cơn khó chịu của tôi cũng tiêu tan ngay khi người ta tách cô ra khỏi tôi. Ông ngoại tôi tìm cho tôi những người thầy dạy riêng khá khẩm hơn. Khá khẩm đến nỗi mà tôi quên tất cả bọn họ. Thế đấy, cho đến năm lên mười, tôi vẫn đơn độc với một lão già và hai người đàn bà.
Chân lý của tôi, tính cách của tôi và tên tuổi của tôi nằm trong tay người lớn; tôi đã học nhìn bản thân bằng đôi mắt của họ; tôi là một đứa trẻ, con
quỷ này chính họ đã tạo ra với những hối tiếc. Dù vắng mặt, họ vẫn để cái nhìn ở lại, nó hòa vào ánh sáng; tôi chạy tôi nhảy đều qua cái nhìn đó, nó giữ cho tôi bản chất của một đứa cháu trai kiểu mẫu trong nhà, nó tiếp tục
tặng tôi đồ chơi và vũ trụ. Bên trong cái bể kính xinh xinh của tôi, bên trong tâm hồn tôi, những ý nghĩ của tôi quay tròn, ai cũng có thể theo dõi vòng quay của chúng: chẳng hiện diện một góc tối khó hiểu. Tuy vậy, không ngôn từ, không hình thù, lỏng lẻo, bị pha loãng vào sự trong suốt vô tội ấy, một điều chắc chắn trong suốt đã phá hỏng tất cả: tôi là một tên bịp. Làm sao có thể đóng một vở kịch mà không biết là đang đóng nó? Cái bề ngoài trong trẻo rực rỡ tạo nên con người tôi đã tự tố cáo: bởi một sự thiếu vắng bản thể mà tôi không thể hiểu rõ cũng không thể quên đi. Tôi quay về phía người lớn, yêu cầu họ bảo đảm giá trị của tôi: như vậy là tôi tự lún sâu vào sự bịp bợm. Bị kết án phải làm hài lòng người lớn, tôi tỏ vẻ duyên dáng nhưng chẳng giữ được lâu; tôi mang theo khắp nơi vẻ hiền từ giả dối, vẻ quan trọng vô dụng, để rình một cơ may mới: tôi tin là sẽ tóm được nó, tôi lao vào thử một thái độ và lại tìm thấy ở đó sự hời hợt mà tôi muốn bỏ trốn. Ông ngoại tôi ngủ gà ngủ gật trong chiếc chăn nhỏ; dưới bộ ria rối bù của ông, tôi nhận ra sự trơ trụi màu hồng của cặp môi, thật không sao chịu nổi: may mà kính của ông trượt khỏi mũi và tôi vội vàng cúi xuống nhặt nó lên. Ông thức dậy, nhấc tôi ôm vào lòng và chúng tôi lại diễn một cảnh thương yêu vô cùng cảm động: đó không còn là cái tôi đã muốn trước đó. Tôi đã muốn gì? Tôi quên hết, tôi rúc vào đám râu dài rậm của ông. Tôi ra bếp, tôi tuyên bố rằng tôi muốn vẩy rau sống; mọi người kêu to, phá lên cưòi: "Ôi, cảm ơn cháu yêu, không phải như thế đâu! Nắm chặt tay lại thế này cơ! Marie hãy giúp thằng bé! Nhưng nó làm giỏi thật đấy." Tôi là một đứa trẻ vờ vịt, cầm một rổ rau xà lách vờ vịt; tôi thấy các hành động của tôi chuyển thành các cử chỉ. Kịch đã ăn cắp của tôi thế giới và loài người: tôi
chỉ còn nhìn thấy những vai diễn và những đạo cụ biểu diễn; phục vụ công việc của người lớn bằng những trò gây cười, làm sao tôi có thể coi trọng những lo lắng của họ? Tôi chấp thuận mọi ý đồ của người lớn với một sự vồn vã ngoan ngoãn luôn ngăn cản tôi chia sẻ các mục đích mà họ đang nhằm tới. Xa lạ với các nhu cầu, hy vọng, vui thú của đồng loại, tôi lạnh lùng phung phí bản thân để quyến rũ họ, họ là khán giả của tôi, một hàng đèn ngăn cách tôi với họ, ném tôi vào một chốn lưu đày kiêu hãnh nhưng nhanh chóng biến thành nỗi khắc khoải.
Nhưng tệ nhất là tôi ngờ người lớn diễn tồi. Ngôn từ mà họ sử dụng để nói với tôi là những viên kẹo ngọt; nhưng khi họ nói chuyện với nhau thì lại là một giọng hoàn toàn khác. Ngoài ra, thỉnh thoảng họ cũng phá vỡ những giao kèo thiêng liêng, ví dụ tôi làm cái bĩu môi phụng phịu đáng yêu nhất mà tôi cũng tin tưởng nhất, nhưng họ lại bảo tôi bằng giọng rất thật: "Cu con đi chỗ khác chơi để mọi người nói chuyện." Những dịp khác, tôi có cảm giác họ lợi dụng mình. Mẹ tôi đưa tôi đi chơi ở vườn hoa Luxembourg, bác Emile trước đó dỗi với cả nhà thế mà bỗng nhiên hiện ra; bác rầu rĩ nhìn mẹ tôi và nói cộc lốc: "Anh đến đây không phải để gặp em, mà gặp thằng cu." Rồi bác giải thích rằng tôi là kẻ vô tội duy nhất trong gia đình, kẻ duy nhất có lẽ không bao giờ xúc phạm bác một cách xấc xược hay chỉ trích bác dựa vào những lời mách lẻo đơm đặt. Tôi mỉm cười ngại ngùng trước sức mạnh của mình và trước tình cảm yêu quý mà chính tôi đã nhóm lên trong trái tim của người đàn ông chán chường này. Nhưng ngay lập tức mẹ tôi và bác Émile cãi nhau và trách móc lẫn nhau. Bác nổi con tức giận ông ngoại tôi và mẹ tôi vừa bênh ông vừa nhượng bộ, rồi hai người nói chuyện về bà ngoại tôi, tôi bị bỏ rơi giữa hai chiếc ghế sắt mà họ đang ngồi. Tôi đã được giáo dục để chấp nhận - giá mà tôi ở cái tuổi để hiểu
được bác và mẹ - tất cả những phương châm sống hữu khuynh mà ông ngoại tôi, một ông già tả khuynh dạy tôi qua cách ăn ở của mình: rằng Chân lý và Ngụ ngôn là một, rằng phải giả vờ say mê để cảm thấy say mê, rằng con người là một bản thể của nghi lễ. Người ta thuyết phục tôi rằng con người được tạo ra để diễn kịch cho chính mình: diễn kịch, tôi chấp nhận thôi, nhưng tôi đòi được vào vai chính: ấy vậy mà, ở vài thời điểm choáng váng, tôi nhận thấy rằng tôi lại đang diễn một "vai-chính-rởm", có thoại, xuất hiện nhiều, nhưng không có cảnh "riêng cho tôi"; tóm lại, tôi chỉ đáp thoại người lớn. Ông ngoại tới nịnh tôi để được chết nhẹ nhàng; bà ngoại tôi thì lấy sự sôi động của tôi để thanh minh cho những cơn hờn dỗi của bà, còn mẹ tôi thì lấy đó để thanh minh cho nỗi tủi nhục của mẹ. Thế nhưng, nếu không có tôi, hẳn là ông bà ngoại vẫn nhận lại mẹ, hẳn là sự tế nhị của mẹ sẽ khiến mẹ rơi vào tay bà ngoại không chút kháng cự; nếu không có tôi, bà ngoại vẫn giận hờn, ông ngoại vẫn kinh ngạc trước ngọn Cervin63, những ngôi sao băng và con cháu người ngoài. Tôi là nguyên nhân tạo cơ hội cho các cuộc cãi cọ rồi làm lành giữa họ; còn nguyên nhân sâu xa nằm ở những thứ khác: ở làng Mâcon, làng Gunsbach, thị trấn Thiviers, ở trái tim già cỗi đổ đốn, ở quá khứ từ đời nảo đời nào trước khi tôi ra đời. Tôi phản ánh giúp họ sự đoàn kết gia đình và những mâu thuẫn cổ xưa; họ dùng cả tuổi thơ thần thánh của tôi để trở thành họ như bây giờ. Tôi sống trong nỗi bất ổn: cứ vào lúc mà các nghi lễ của họ thuyết phục tôi rằng mọi thứ đều có lý do để tồn tại, rằng từ người lớn tuổi nhất đến đứa trẻ con đều có vị trí nào đó trong vũ trụ, thì ý nghĩa cuộc đời tôi bỗng vuột đi, tôi chợt phát hiện ra rằng tôi chẳng là cái quái gì cả và tôi xấu hổ về sự hiện diện không giống ai của tôi trong thế giới chỉn chu trật tự này.
Một người cha hẳn sẽ nhồi cho tôi vài điều ngoan cố dai dẳng, hẳn ông
sẽ ở riết trong tôi bằng cách biến tính khí của ông thành nguyên tắc của tôi, cái không biết của ông thành kiến thức của tôi, nỗi oán hận của ông thành niềm kiêu hãnh của tôi, sự gàn dở của ông thành luật lệ nơi tôi; kẻ thuê nhà đáng kính ấy hẳn sẽ mang lại cho tôi Sự tôn trọng với bản thân. Chính trên sự tôn trọng mà tôi xác lập quyền được sống của mình. Người cha ấy hẳn sẽ quyết định tương lai tôi: tốt nghiệp Bách khoa từ khi rời bụng mẹ, tôi sẽ yên tâm suốt đời. Nhưng nếu có bao giờ cha tôi biết trước số phận của tôi thì ông lại mang sang thế giới bên kia cái bí mật đó; mẹ tôi chỉ nhớ rằng ông đã nói: "Con trai anh sẽ không vào ngành hải quân." Vì thiếu thông tin chính xác hơn thế, không ai, trước hết là tôi, biết được rằng tôi sinh ra trên đời để làm gì. Giá cha tôi để cho tôi ít nhiều gia tài thì tuổi thơ của tôi cũng đã thay đổi rồi; tôi sẽ chẳng cầm bút bởi vì tôi sẽ là một con người khác. Cánh đồng và ngôi nhà thường mang lại cho đứa trẻ thừa kế một hình ảnh ổn định về bản thân. Nó tự ve vuốt bằng lối đi rải sỏi của mình, bằng những ô hình thoi của mái hiên lợp kính của mình, và biến sự bất động của những thứ này thành chất liệu bất tử cho tâm hồn. Cách đây vài hôm, trong một quán ăn, con trai của chủ quán, một thằng bé bảy tuổi đã quát chị thu ngân: "Khi cha tôi không ở đây thì tôi là chủ của chị." Một người đàn ông hẳn hoi! Bằng tuổi nó, tôi không là chủ của ai và chẳng có gì thuộc về tôi. Một vài phút hiếm hoi khi tôi bỗng trở nên nghịch ngợm, mẹ tôi thì thào nhắc tôi: "Con chú ý nhé, mẹ con mình không phải đang ở nhà của mình đâu!" Chúng tôi chẳng bao giờ ở nhà của mình cả: cả lúc ở phố Le Goff lẫn sau này khi mẹ tôi đi bước nữa. Tôi không lấy thế làm đau khổ vì người lớn cho tôi mượn tất cả; nhưng tôi luôn lơ đễnh. Nhà cửa đất đai của thế giới này phản ánh cho những người làm chủ chúng biết họ là cái gì; chúng cho tôi biết con người mà tôi không phải là - tôi không bền vững, cũng không vĩnh cửu; tôi không phải là kẻ tiếp nối trong tương lai công trình của
người cha; tôi không cần thiết cho việc sản xuất thép: nói tóm lại, tôi không có hồn.
Hoàn hảo biết bao nếu tôi sống hòa thuận với thể xác của mình. Nhưng tôi với nó lại tạo thành một cặp đôi kỳ cục. Trong sự khốn khó, một đứa trẻ sẽ không tự vấn bao giờ. Chịu đau khổ về mặt thể xác bởi thiếu thốn và bệnh tật, thân phận không thể biện bạch ấy lại biện bạch cho sự hiện diện trên đời này của nó, chính cái đói, chính sự nguy hiểm chết người thường trực đã tạo nên quyền sống của nó: nó sống để không phải chết. Tôi không đủ giàu để tin rằng mình đã được dành sẵn địa vị, cũng không đủ nghèo để cảm thấy những thèm muốn của mình như những đòi hỏi. Tôi hoàn thành nhiệm vụ ăn uống và Thượng đế thỉnh thoảng gửi đến cho tôi chút ngon miệng hiếm hoi như một ân huệ giúp tôi ăn mà không thấy chán, uể oải hít thở, tiêu hóa, đi ị, tôi tiếp tục sống bởi vì trước đó tôi đã bắt đầu sống. Tôi không hề biết sự hung bạo và những đòi hỏi man rợ của thể xác, tên đồng hành bị nhồi thức ăn: thể xác tôi gây chú ý bằng một loạt những khó ở nhõng nhẽo mà người lớn rất mong chờ. Vào thời đại đó, một gia đình tao nhã phải có ít ra một đứa trẻ yếu ớt ẻo lả. Tôi là một đối tượng tốt vì ngay từ khi sinh ra, tôi đã nghĩ mình sẽ chết. Người lớn rình rập tôi, bắt mạch, đo nhiệt độ, bắt tôi phải thè lưỡi: "Con không thấy là thằng bé hơi xanh à?" "Không, do ánh đèn thôi." "Cha bảo đảm với con là nó gầy đi!" "Không, cha ơi, con vừa cân cho cháu hôm qua." Dưới những cái nhìn săm soi ấy, tôi cảm thấy mình trở thành một đồ vật, một bông hoa cắm trong lọ. Cuối cùng, tôi bị ấn vào giường. Nghẹt thở vì hơi nóng, ninh hầm dưới các lớp chăn, tôi không xác định được đâu là thể xác, đâu là sự khó ở của nó: giữa hai cái này, tôi không còn biết cái nào bị ghét bỏ.
Ông Simonnot, cộng tác viên của ông ngoại tôi, thường ăn trưa với chúng tôi vào thứ Năm hằng tuần. Tôi ghen tức với cái ông ngũ tuần má hồng như con gái, ria đánh xi và tóc túm nhuộm này. Khi mẹ tôi, để nói cho có chuyện, đã hỏi ông ta có thích Bach không, có khoái đi biển, đi núi không, có giữ những kỷ niệm đẹp về quê cũ không, ông ta từ từ nghĩ ngợi, vẻ đăm chiêu hướng về những sở thích vững như núi đá của mình. Sau khi có đủ thông tín về thứ được hỏi, ông ta vừa truyền đạt lại cho mẹ tôi bằng một giọng khách quan vừa gật đầu như chào. Con người hạnh phúc! Tôi nghĩ, hẳn là sáng nào ông ta cũng thức dậy trong một niềm vui vẻ hân hoan, kiểm kê những đỉnh, những đường sống núi, những thung lũng của mình từ một Tuyệt Điểm nào đó, rồi vươn vai khoan khoái: "Chính là tôi, ngài Simonnot một trăm phần trăm đây." Khi bị hỏi, dĩ nhiên là tôi hoàn toàn có thể nói cho người khác biết những điều mà tôi thích, thậm chí còn khẳng định nữa; nhưng lúc chỉ có mình tôi, chúng tuột đi đâu mất: đừng nói là nhận thấy chúng, mà phải giữ chúng, thúc chúng và hà hơi cho chúng sống lại; thậm chí tôi không còn chắc là có thích món thăn bò hơn món bê quay. Có cái gì mà tôi không thể cho đi để được người ta dựng lên trong tôi một cõi sóng gió và những vách đá thẳng đứng bướng bỉnh. Khi bà Picard, tế nhị sử dụng một số từ ngữ thời thượng, nói về ông ngoại tôi thế này: ''Charles là một bản thể cao nhã" hoặc "Chúng ta không hiểu được các bản thể", tôi cảm thấy bị kết án vĩnh viễn. Những viên sỏi ở vườn hoa Luxembourg, ông Simonnot, những cây dẻ, ông bà ngoại tôi, đều là những bản thể. Tôi thì không: tôi không có tính trơ lì, độ sâu sắc và sự bí hiểm của họ. Tôi là một không-gì-cả: một sự trong suốt không xóa đi được. Nỗi ghen tức trong tôi không còn giới hạn nữa vào cái ngày mà người ta bảo tôi rằng ông Simormot, bức tượng ấy, khối đá nguyên ấy, lại còn tối cần thiết cho nhân loại.
Hôm ấy là ngày lễ. Ở Viện Sinh Ngữ của ông ngoại tôi, đám đông vỗ tay dưới ánh sáng bập bùng của ngọn đèn ga, mẹ tôi chơi nhạc Chopin, mọi người nói tiếng Pháp theo lệnh của ông: một thứ tiếng Pháp chậm, phát ra từ cổ họng, với những duyên dáng đã phai nhạt và vẻ long trọng của một vở thanh xướng kịch. Tôi bay từ tay người này sang tay người khác, chân không chạm đất; vào lúc một nữ tiểu thuyết gia người Đức ghì tôi vào ngực tới nghẹt thở, ông ngoại tôi từ đỉnh cao vinh quang bỗng thốt ra một bản án khiến tôi điếng tim: "Hôm nay ở đây thiếu một người: đó là Simonnot." Tôi thoát khỏi tay của nữ tiểu thuyết gia, tôi trốn vào một góc, các khách mời biến mất; ở chính giữa vòng tròn náo động, tôi nhìn thấy một cột trụ: ông Simonnot đấy, nhưng vắng mặt bằng xưong bằng thịt. Sự vắng mặt phi thường này đã thay hình đổi dạng ông ta. Còn nhiều người nữa thì Viện mới đông đủ: một số học trò bị ốm, một số xin phép nghỉ; nhưng đó là những chuyện ngẫu nhiên và có thể bỏ qua. Chỉ thiếu mỗi ông Simonnot thôi. Chỉ cần nói tên ông ta: sự trống trải sẽ đâm sâu vào gian phòng đông nghịt này như một lưỡi dao. Tôi kinh ngạc trước việc một con người có thể có sẵn một vị trí đã định. Vị trí của ông Simonnot: một hư vô được hình thành tà sự chờ đợi của nhân loại, một cái bụng vô hình mà từ đó dường như bỗng nhiên chúng ta có thể tái sinh. Thế nhưng, nếu ông ta chui ra từ đất, giữa những hoan hô nhiệt liệt, được các bà các cô lao vào hôn tay, thì tôi đã tỉnh mộng rồi: sự hiện diện trần thịt luôn thừa thãi. Trống trơn, được đơn giản hóa thành sự thuần khiết của một âm bản, ông ta giữ vẻ trong suốt bất biến của kim cương. Vì phận của tôi là khoảnh khắc nào cũng bị đặt giữa một số người, tại một địa điểm nhất định của trái đất và biết là bị thừa ở đó, nên tôi muốn những người khác, ở những địa điểm khác, phải thiếu tôi như thiếu nước, bánh mì, không khí.
Ý muốn này trở đi trở lại mỗi ngày trên môi tôi. Ông ngoại tôi đòi mọi thứ đều phải cần thiết để che giấu một sự khốn quẫn không bao giờ được phơi bày trước mắt tôi khi mà ông còn sống và bây giờ tôi mới chỉ bắt đầu đoán ra. Tất cả các đồng nghiệp của ông đều làm công việc đưa vai đỡ trời. Trong số những người khổng lồ Atlas ấy, có các nhà ngữ pháp học, ngữ văn học và các chuyên gia ngôn ngữ, ông Lyon-Caen và giám đốc Tạp chí sư phạm. Ông ngoại tôi nói về họ một cách trịnh trọng để chúng tôi đo được hết tầm quan trọng của họ: "Lyon-Caen biết việc của mình. Vị trí của ông ấy là ở trường này", hoặc: "Shurer đang già đi; hy vọng chúng ta sẽ không ngu xuẩn để ông ấy về hưu: trường không biết họ sẽ mất cái gì đâu." Bị vây quanh bởi các cụ già không ai có thể thay thế mà sự qua đời nay mai sẽ khiến châu Âu chìm trong tang tóc và có thể cả trong mông muội, tôi sẵn sàng đánh đổi tất cả để được nghe trong tim mình một giọng nói phi thường phán là: "Thằng cu Sartre này biết việc của mình; nếu nó chẳng may qua đời, nước Pháp sẽ không biết họ mất cái gì đâu!" Tuổi thơ trưởng giả sống trong sự vĩnh cửu của thời khắc, tức là trong trạng thái không hành động: tôi ngay lập tức muốn trở thành Atlas đưa vai đỡ trời, từ bấy lâu và mãi mãi về sau, tôi thậm chí không tưởng tượng được là người ta có thể lao động để trở thành thần Atlas; tôi cần một tòa án tối cao, với một sắc lệnh lập lại quyền cho tôi. Nhưng các quan tòa đâu rồi? Những người đương nhiên có quyền làm thẩm phán của tôi đã bị mất uy tín vì diễn tồi; tôi không thừa nhận họ, nhưng tôi cũng chẳng nhìn thấy các vị khác đâu cả.
Như tên vô lại bị điếng hồn, không niềm tin, không luật pháp, không lý lẽ, không mục đích, tôi trốn vào vở kịch gia đình, quay tròn, chạy, bay từ bịp bợm này sang bịp bợm khác. Tôi chạy trốn thể xác vô lý của tôi cùng
"""