"
Ngọc Xuyến Án: Địch Công Kỳ Án 7 PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ngọc Xuyến Án: Địch Công Kỳ Án 7 PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Robert van Gulik
ĐỊCH CÔNG KỲ ÁN #12
NGỌC XUYẾN ÁN Necklace and Calabash (1967) Nguyễn Việt Hải dịch
Giới thiệu
Các nhân vật chính
ĐỊCH NHÂN KIỆT, huyện lệnh Phổ Dương, một trấn huyện thuộc địa phận phủ Kim Hoa. Ông thường được gọi là “Địch Công” hay “Địch huyện lệnh”.
Các nhân vật khác
TAM CÔNG CHÚA, ái nữ của Hoàng đế, ngụ tại cung Bích Thủy, phía đông trấn Thanh Xuyên.
VƯƠNG CẨM TÚ, Tổng quản nữ quan.
LÔI CÔNG CÔNG, Đại tổng quản ở cung Bích Thủy.
VĂN ĐÔNG, Tổng giám cung ở cung Bích Thủy.
KHANG TƯỚNG QUÂN, Chỉ huy Cấm quân.
TRÂU LẬP UY, Hiệu úy Cấm quân, dưới trướng Khang Tướng quân. NGỤY THÀNH, chưởng quỹ của khách điếm Thúy Điểu. ĐỚI NINH, thủ quỹ của khách điếm Thúy Điểu.
TỬ TÂY, cháu gái của Ngụy Thành.
LANG LƯU, một phú thương buôn tơ lụa.
HỒ LÔ TIÊN SINH, một ẩn sĩ Đạo gia.
Các vụ án trong truyện
Vụ án Viên thủ quỹ bị sát hại.
Vụ án Vị phu nhân bỏ trốn.
Vụ án Chuỗi ngọc của Tam Công chúa.
Ngọc
Xuyế
n
Qu
ả
Bầ
u
HỒI 1
Lạc trong rừng, gặp được đạo nhân
Ra bến sông, thấy ngay thảm án
Thêm nửa canh giờ nữa độc hành trong khu rừng tĩnh lặng và ẩm ướt, Địch huyện lệnh dừng ngựa và lo lắng nhìn lên tán lá rậm rạp trên đầu. Ông chỉ thấy một khoảnh trời nhỏ xám xịt. Cơn mưa phùn có thể biến thành mưa rào mùa hạ bất cứ lúc nào. Mũ và y bào vi hành nâu viền đen của ông đều ẩm ướt, những giọt nước lấp lánh đọng trong bộ râu dài. Trưa nay, trước khi Địch Nhân Kiệt rời khỏi làng, người dân đã cho hay nếu rẽ sang phải ở mỗi ngã ba đường trong khu rừng, thì ông sẽ đến trấn Thanh Xuyên trước giờ cơm tối. Chắc chắn ông đã rẽ sai đường ở đâu đó, vì ước chừng đã nhiều canh giờ trôi qua mà ông không thấy gì khác ngoài cây cối cao vút và bụi rậm dày đặc, không một bóng người nào. Trong những tán cây tăm tối, chim chóc đã ngừng hót, mùi lá cây ẩm ướt và mục ruỗng dường như ám vào từng thớ vải trên người ông. Lau bộ râu dài vào cổ áo cho khô, ông âu sầu nghĩ nếu đúng mình bị lạc thì thật không may. Trời đang tối dần và khu rừng trải dài nhiều dặm dọc theo bờ phía nam của con sông. Rất có thể đêm nay ông sẽ phải ngủ ngoài trời. Địch huyện lệnh thở dài rồi mở chiếc hồ lô nâu buộc bằng sợi dây đỏ treo bên yên ngựa để uống nước. Nước đã hơi ấm và chớm bốc mùi.
Địch huyện lệnh cúi đầu và dụi mắt. Mồ hôi chảy từ trán làm mắt ông cay xè. Khi ngẩng lên, ông bỗng lạnh cứng người, hồ nghi nhìn chăm chăm vào dáng người to lớn đang ngồi trên lưng ngựa tiến về phía mình, con ngựa bước từng bước êm ái trên lớp rêu mềm mại. Nam nhân kia giống ông như đúc: bộ râu dài, mũ đen và y bào vi hành nâu có viền đen. Bên yên ngựa, sợi dây đỏ treo một hồ lô lớn màu nâu.
Địch huyện lệnh lại dụi mắt. Khi nhìn thêm lần nữa, ông thở phào nhẹ nhõm. Ánh sáng nhập nhoạng và đôi mắt xót bỏng đã đánh lừa ông. Bộ râu dài của người kia đã chớm bạc và ông ta cưỡi một con lừa già tai dài. Rồi thêm lần nữa Địch huyện lệnh lại phải cảnh giác. Hai ngọn giáo ngắn nằm
ngang phía trên mông con lừa. Ông vòng tay ra sau lưng nắm lấy chuôi kiếm.
Nam nhân kia dừng lại trước ngựa của Địch huyện lệnh và chằm chằm nhìn ông, một tia thấu hiểu sáng lóe lên trong mắt. Bản mặt rộng của ông ta nhăn nheo. Dù đã gắng ngồi ngay ngắn, đôi vai xương xẩu của ông ta vẫn cứ nhô lên bên dưới chiếc áo vá đã sờn bạc. Thứ mà khi nãy Địch huyện lệnh
tưởng là hai ngọn giáo hóa ra lại là đôi nạng gỗ, đầu nạng cong gập vào.
Ông buông tay khỏi chuôi kiếm và kính cẩn hỏi, “Lão trượng, chẳng hay đây có phải là đường tới trấn Thanh Xuyên?”
Lão nam nhân kia không đáp ngay. Ông ta nhìn sang chiếc hồ lô treo bên yên ngựa của Địch Nhân Kiệt rồi mỉm cười. Hướng thẳng đôi mắt đục mờ lạ lùng vào Địch huyện lệnh, ông ta đáp bằng âm giọng trầm và vang, “Đúng thế, thưa đại phu. Con đường này sẽ đưa ngài đến trấn Thanh Xuyên, qua một đường vòng.”
Ông lão nhầm Địch huyện lệnh là một đại phu, chắc vì ông đang đi xa một mình và mang theo người chiếc hồ lô mà các vị đại phu thường dùng để đựng thuốc nước.
Trước khi rẽ sang ngả khác, ông ta nói tiếp, “Lão hủ vừa rời khỏi trấn bằng lối tắt ấy. Lão hủ sẽ chỉ đường cho đại phu, vì đi đường ấy ngài chỉ mất một khắc.”
Thúc con lừa quay lại, ông lão lẩm bẩm, “Tốt nhất hai ta nên đến xem kẻ vừa được vớt từ dưới sông lên. Hẳn anh ta sẽ cần ngài cứu chữa đấy, đại phu à.”
Địch huyện lệnh định nói mình là Địch Nhân Kiệt của Phổ Dương, một huyện phía bắc trấn. Nhưng nghĩ đến việc phải giải thích dông dài với một người qua đường về lý do mình vi hành trong y phục tầm thường mà không hề có tùy tùng, ông chỉ hỏi, “Lão trượng sinh sống bằng nghề gì vậy?”
“Lão hủ không có nghề nghiệp chi hết. Lão hủ chỉ là một đạo nhân vân du tứ hải mà thôi, một đệ tử của Đạo gia.”
“Tại hạ hiểu rồi. Tại hạ tưởng lão trượng cũng là một đại phu kia. Lão trượng đựng thứ gì trong hồ lô đấy?”
“Hồ lô này không có gì cả. Bên trong nó rỗng không. Ấy mà cái rỗng của nó lại giá trị hơn bất cứ loại linh dược nào ngài có thể đựng trong hồ lô của mình, đại phu à! Lão hủ không hề có ý miệt thị ngài. ‘Hư’ lại giá trị hơn ‘Thật’. Ngài có thể lấy thứ đất sét tốt để nặn nên chiếc bình đẹp, nhưng bình phải rỗng ruột thì mới chứa đựng được. Dù ngài có mất công trang trí cửa lớn hay cửa sổ công phu cỡ nào, cửa mà không rỗng thì làm sao có thể mở rộng cánh.”
Lão đạo nhân tặc lưỡi làm hiệu thúc con lừa đi, rồi gửi lại một lời sau cùng, “Người ta gọi lão hủ là Hồ Lô tiên sinh.”
Ra nam nhân kia là đệ tử của Đạo gia. Các đạo nhân thường thờ ơ trước những lễ nghi thông thường, Địch huyện lệnh thấy mình chẳng cần tiết lộ thân phận thật cho ông ta làm gì.
Ông hỏi, “Tiên sinh vừa nói về một người được vớt dưới sông lên?”
“Lúc rời khỏi trấn, lão hủ được nghe rằng có hai ngư phủ vừa đưa được một nam nhân vào bờ. Đây chính là lối tắt ấy. Lão hủ sẽ đi trước.”
Con đường mòn nhỏ hẹp dẫn tới một cánh đồng đang được cày cấy, một nông phu mặc áo tơi đang cặm cụi rẫy cỏ. Một lối đi lầy lội đưa họ đến con lộ chạy dọc theo bờ sông. Mưa phùn đã ngưng hẳn, lúc này một màn sương mỏng đang lơ lửng trên mặt nước màu nâu trải rộng. Không một gợn gió làm xao động bầu không khí nóng ẩm tràn xuống từ bầu trời ủ dột. Nhà cửa bên đường khang trang, khách bộ hành đều ăn vận đẹp đẽ. Không hề có bóng dáng một kẻ hành khất nào.
“Có vẻ như đây là một thị trấn phồn hoa,” Địch huyện lệnh bình phẩm.
“Tuy chỉ là một trấn nhỏ, nhưng Thanh Xuyên hưởng lợi từ việc giao thương sông nước, ngư nghiệp thuận lợi và lề lối của cung Bích Thủy. Đó là một trong số những cung điện độc lập của hoàng thất, kéo dài tới tận phía đông của trấn, bao trùm cả một bên rừng thông. Bách tính phía tây trấn lại nghèo nàn hơn. Những người sống khấm khá chỉ ở phần phía đông trấn, bên chợ cá đằng kia. Lão hủ sẽ chỉ cho ngài hai khách điếm tốt nhất, là khách điếm Thúy Điểu và khách điếm Cửu Tiêu. Trừ khi ngài định tá túc ở nhà thân quyến hay bằng hữu.”
“Không đâu, tại hạ chỉ là khách lạ qua đường thôi. Tại hạ thấy tiên sinh có mang theo một đôi nạng gỗ. Chẳng hay chân của tiên sinh có gì đau yếu?”
“Một chân lão hủ tập tễnh, chân còn lại cũng không còn vững nữa. Đại phu, ngài chẳng còn việc gì để làm đâu. Ôi, các vị quan sai đều đã có mặt. Vẫn cấp tốc như mọi khi! Xem ra kẻ được đưa vào bờ không cần ngài cứu chữa nữa! Nhưng dù sao ta cũng cứ đến xem sao.”
Trên bến sông rộng lớn phía trước chợ cá, bên cạnh trạm thuyền, một đám đông đang tụ tập. Ngó qua đầu họ, Địch huyện lệnh thấy vóc dáng hiên ngang của một kỵ binh. Mũ trụ mạ vàng có ngù bông và khăn cổ đỏ cho thấy y là Hiệu úy của Cấm quân.
Hồ Lô tiên sinh nắm chắc đôi nạng, trèo xuống khỏi lưng lừa và tập tễnh bước lại phía đám đông. Con lừa cụp tai xuống và bắt đầu tìm kiếm những mẩu đầu thừa đuôi thẹo lẫn trong đá cuội. Địch huyện lệnh xuống ngựa và đi theo. Đám đông tránh đường cho đạo nhân, dường như họ biết rõ ông ta.
“Thưa Hồ Lô tiên sinh, đó là Đới Ninh, thủ quỹ của khách điếm Thúy Điểu,” một người cao lớn khẽ nói. “Anh ta chết chắc rồi.”
Hai vệ binh giáp trụ uy nghiêm đứng trông chừng đám đông trên bến sông. Địch huyện lệnh ngó qua vai Hồ Lô tiên sinh, trông thấy kẻ xấu số đang nằm ngay trước ngựa của Hiệu úy. Ông bỗng co rúm người lại. Ông đã từng chứng kiến những cái chết ghê rợn, nhưng tử thi này có một vẻ kinh khủng độc nhất. Đó là một nam tử còn trẻ, trên mình khoác độc chiếc áo choàng, ống tay áo bó chặt vào hai cánh tay dang rộng. Mớ tóc dài ướt sũng bết vào khuôn mặt trương phù, méo mó kinh dị. Đôi chân trần và bàn
chân đều bị thiêu đốt tàn tạ, hai bàn tay giập nát. Bụng nạn nhân bị mổ phanh, lục phủ ngũ tạng xám ngoét xổ cả ra ngoài. Một vị Binh tào mình hổ lưng gấu, giáp vai ánh vàng, đang quỳ bên tử thi đó.
“Có một gói nhỏ trong tay áo trái của hắn!” Một giọng nói khàn khàn cất lên. “Chắc chắn đó là số bạc của tiểu nhân!”
“Im miệng!” Vị Binh tào quát một nam nhân gầy gò đứng ngay hàng người phía trước. Lão có cái mũi khoằm và có bộ râu lưa thưa.
“Đó là Ngụy Thành, chưởng quỹ của khách điếm Thúy Điểu,” Hồ Lô tiên sinh thì thào với Địch huyện lệnh. “Lúc nào cũng đội kim ngân lên đầu mà thờ!”
Địch huyện lệnh nhìn thoáng qua lão chưởng quỹ cao gầy, rồi lại đánh sang thiếu nữ đứng bên lão. Nàng chừng mười bảy tuổi, mảnh mai trong bộ thanh y chít đai lưng vải đỏ, mái tóc đen bóng búi thành hai búi dung dị. Trông thấy thi thể, nữ nhân liền quay mặt đi, sắc diện trắng bệch.
Vị Binh tào đứng thẳng người, kính cẩn thưa với thượng cấp, “Bẩm, tình trạng tử thi cho thấy người này đã ở dưới nước suốt một ngày. Xin ngài ra lệnh.”
Viên Hiệu úy dường như không nghe thấy gì. Địch huyện lệnh không tài nào thấy rõ khuôn mặt của y vì chiếc khăn quàng đỏ đã được kéo lên che kín miệng. Nam nhân đang mải nhìn chiếc roi ngựa trong bàn tay bọc giáp chắc chắn. Y ngồi trên yên ngựa, thân hình mảnh khảnh trong bộ giáp ánh vàng, bất động như một pho tượng đồng.
“Hiệu úy, ngài có ra lệnh gì không ạ?” Vị Binh tào hỏi lại.
“Đưa thi thể này về tổng quân doanh,” giọng Hiệu úy hơi nghẹn lại. “Đưa cả hai ngư phủ đã vớt được tử thi, cùng viên chưởng quỹ, ông chủ của nạn nhân.”
Hiệu úy bất ngờ quay ngựa, khiến những người đứng xem phía sau phải nhảy sang một bên để tránh bị ngựa giẫm phải. Y thúc tuấn mã phi về phía
con phố lớn nối liền bến sông, vó ngựa rộn vang trên nền đá ẩm ướt. “Mọi người lùi lại!” Binh tào ra lệnh.
“Một vụ giết người đê tiện!” Địch huyện lệnh nói với Hồ Lô tiên sinh trong khi hai người quay lại chỗ buộc ngựa. “Tuy vậy, người đó chỉ là một thường dân. Tại sao quan quân lại xử lý vụ án này mà không phải Địch Nhân Kiệt lão gia?”
“Trấn Thanh Xuyên không có Địch Nhân Kiệt, vì đã có cung Bích Thủy cai quản, hẳn đại phu sẽ hiểu. Trấn này và những vùng lân cận đều là khu vực đặc biệt do Cấm quân cai quản.”
Đạo nhân trèo lên lưng lừa và xếp đôi nạng lại phía sau. “Chà, lão hủ phải cáo biệt đại phu ở đây. Ngài cứ đi về phía con phố mà Hiệu úy vừa đi, đó là con đường chính của trấn. Ngài sẽ thấy hai khách điếm ở cách tổng quân doanh không xa. Khách điếm Thúy Điểu và khách điếm Cửu Tiêu nằm đối diện nhau trên phố. Cả hai đều tiện lợi, tùy ý ngài lựa chọn!”
Đạo nhân lại tặc lưỡi thúc con lừa đi trước khi Địch Nhân Kiệt kịp nói lời cảm tạ.
Địch huyện lệnh dẫn tuấn mã đến chỗ người thợ rèn ở góc chợ cá. Ngựa của ông cần nghỉ ngơi. Ông đưa cho người thợ rèn một nắm tiền xu, bảo gã hãy chăm sóc và cho con vật ăn. Sáng mai, ông sẽ đến lấy ngựa.
Bước ra phố chính, Địch huyện lệnh chợt thấy hai chân mình đã tê mỏi sau một hành trình dài, miệng khô như rang. Ông vào quán trà đầu tiên trong tầm mắt và gọi một chén trà lớn. Năm, sáu khách đang quây quanh một bàn lớn gần cửa sổ. Họ vừa sôi nổi trò chuyện vừa cắn hạt dưa.
Trong lúc nhấm trà, Địch huyện lệnh nhớ ra mình còn phải tuân theo những quy củ nghiêm ngặt của khu vực đặc biệt. Ông phải đến trình diện tại tổng quân doanh của Cấm quân ngay khi đến nơi. Ông sẽ làm việc ấy trên đường tới khách điếm, vì theo lời đạo nhân kia, hai khách điếm nằm cách tổng quân doanh một quãng ngắn. Vì thủ quỹ của khách điếm Thúy Điểu bị hành hung và sát hại một cách man rợ, mọi người ở đó hẳn rất bối rối. Tốt
hơn nên thuê một phòng ở khách điếm Cửu Tiêu. Dù vậy, tên gọi Thúy Điểu*
Thúy Điểu nghĩa là Chim bói cá.
thật hấp dẫn, ông vốn định đi câu cá trong hai ngày lưu lại trấn Thanh Xuyên. Ở Phổ Dương, chẳng bao giờ ông có thời gian đi câu. Địch huyện lệnh duỗi chân nghĩ ngợi, quan quân sẽ sớm bắt được hung thủ. Họ là một lực lượng trị an hữu ích, dù những phương thức thiên về vũ lực hơn so với phương thức của các quan phụ mẫu.
Có thêm nhiều khách kéo nhau vào quán. Địch huyện lệnh nghe được đôi phần trong câu chuyện của họ.
“Lão Ngụy chỉ nói càn,” một vị chưởng quỹ đứng tuổi nói. “Đới Ninh không phải quân trộm cắp. Ta từng quen biết phụ thân cậu ta, một tiểu thương hàng xén già cả.”
“Phường đạo tặc nào lại đi chặn cướp một người không mang theo nhiều bạc,” một nam nhân trẻ tuổi góp lời. “Và anh ta đã lẻn ra khỏi trấn lúc nửa đêm. Chính miệng ông thợ rèn nói như vậy. Họ Đới đã thuê một con ngựa của ông ta. Anh ta nói mình phải đi thăm một người thân lâm trọng bệnh.”
Nhóm người đang ngồi một bàn trong góc đằng xa.
Địch huyện lệnh tự rót cho mình một chén trà nữa. Ông băn khoăn về lai lịch của Hồ Lô tiên sinh. Lão đạo nhân ấy dường như là một thân sĩ uyên thâm. Nhưng ông biết rằng từ khi đệ tử của Đạo gia không còn bị bất cứ giáo luật nào cấm đoán, nhiều học sĩ cao tuổi thấy mình cô độc và không màng tới thế sự nữa, họ đã chọn cuộc sống vân du. Quán trà ngày một đông hơn, chỉ toàn những tiếng rì rầm lộn xộn. Tiểu nhị bắt đầu thắp những ngọn đèn dầu, khói từ đó trộn lẫn với mùi y phục ẩm ướt. Địch huyện lệnh trả tiền và rời khỏi quán.
Trời đang mưa phùn. Ông mua một tấm vải dầu trên một quầy hàng đối diện, trùm qua đầu và vai, rồi bước nhanh xuống con phố náo nhiệt.
Qua hai dãy nhà nữa, con phố chính mở ra thành một khoảng trống vuông vức. Ở chính giữa là một khu nhà ba lầu rộng lớn tựa pháo đài. Một ngọn
cờ phướn xanh đỏ bay phấp phới trên mái nhà ngói lam. Phần mái hiên của cánh cổng sơn son đồ sộ có viết mấy chữ lớn bằng mực đen: ‘Cấm quân. Tả dực đệ nhị đoàn’, ở bậc thềm phía trên những bậc tam cấp đá xám, hai vệ binh đang nói chuyện với vị Binh tào lực lưỡng mà Địch huyện lệnh thấy ở bến sông.
Ngay khi ông định bước lên, Binh tào đã mau mắn đi xuống và bảo nhanh, “Hiệu úy muốn gặp ngài. Xin hãy theo ti chức.”
Địch huyện lệnh ngạc nhiên, chưa kịp nói một lời thì nam nhân kia đã biến mất vào một góc tòa nhà. Anh ta vội mở cánh cửa hẹp của tháp canh, chỉ lên một cầu thang chật và dốc. Trong lúc leo lên, Địch Nhân Kiệt nghe thấy tiếng vị Binh tào đặt thanh sắt chắn ngang cánh cửa phía dưới.
HỒI 2
Tiếp tân khách, Hiệu úy cậy việc tư
Mang tên giả, Địch Nhân Kiệt thành đại phu
Trong hành lang tờ mờ tối trên lầu, vị Binh tào gõ lên một cánh cửa gỗ nhẵn nhụi. Anh ta dẫn Địch huyện lệnh vào một căn phòng rộng và trống trải, chỉ được chiếu sáng bởi một ngọn nến lớn trên án thư độc nhất kê sát vách trong. Viên Hiệu úy vạm vỡ đang ngồi phía sau án thư liền bật dậy nghênh tiếp khách quý.
“Địch đại nhân đại giá đến trấn Thanh Xuyên, quả là quý hóa!” Nam nhân trẻ tuổi cất tiếng chào với nụ cười hồn hậu. “Ti chức là Hiệu úy Trâu Lập Uy. Mời đại nhân ngồi!”
Địch huyện lệnh nhìn nhanh sang viên Hiệu úy. Y có khuôn mặt tròn trĩnh và tinh anh, được tô điểm bởi một hàng ria mép đen và hàm râu thô đen bóng. Ông không tài nào nhớ ra người này.
Hiệu úy chỉ tay xuống ghế bành và nói, “Ba năm trước ngài còn đang bận xử lý công cán, làm sao có thể để ý đến ti chức! Lần đó ở huyện Hán Nguyên, ngài đang xử lý một vụ giết người trên hồ nước. Khi ấy, ti chức hãy còn đi theo Khâm sai đại nhân.”
Rồi y quay sang thuộc hạ, “Được rồi, Liễu đệ! Ta sẽ tự pha trà.”
Địch huyện lệnh khẽ mỉm cười, nhớ lại những ngày tháng sôi nổi ở Hán Nguyên năm xưa. Ông dựa thanh kiếm vào một bên án thư và ngồi xuống chiếc ghế mà Hiệu úy đã mời.
“Hẳn túc hạ đã nhận ra Địch mỗ lúc ở bến sông?”
“Quả đúng vậy. Đại nhân đứng bên một người đáng kính trong trấn này là Hồ Lô tiên sinh. Ti chức không muốn hỏi chuyện đại nhân ngay lúc ấy vì dường như ngài đang cải trang để vi hành. Ti chức biết dù sao đại nhân
cũng sẽ đến tổng quân doanh để trình diện, nên đã bảo Binh tào chờ đón. Hẳn đại nhân đang có một công vụ quan trọng? Ngài chỉ đi có một mình…”
Y bỏ lửng câu nói, châm một chén trà rồi ngồi xuống sau án thư.
“Không hề. Địch mỗ được triệu đến chỗ Tri phủ từ mười ngày trước để hỗ trợ giải quyết một vụ buôn lậu có ảnh hưởng đến Phổ Dương. Tri phủ đại nhân giao cho ta và hai trợ thủ là Mã Vinh và Kiều Thái kha khá công vụ, trước khi cho phép bọn ta được thư thái hồi phủ. Bọn ta đã định lưu lại trấn Thanh Xuyên ít ngày. Nhưng khi cả ba đến làng Quan Đế Miếu sáng nay, trưởng làng đã nhờ giúp tiêu diệt đám lợn rừng đang phá hoại mùa màng. Mã Vinh và Kiều Thái là những thợ săn cừ khôi. Địch mỗ đã bảo họ ở lại tiêu trừ đám lợn rừng trong khi bản thân tiếp tục lên đường. Cả ba dự định tái hợp tại trấn này sau hai ngày nữa. Trong lúc đợi, ta sẽ nghỉ lại đây, đi câu cá hoặc làm vài việc khác, đương nhiên là hoàn toàn ẩn danh.”
“Đại nhân thật sáng suốt! Ti chức cũng muốn hỏi vì sao ngài lại có chiếc hồ lô đó?”
“Đây là một món quà mà trưởng làng ấn vào tay Địch mỗ. Người làng Quan Đế Miếu trồng được những trái bầu to lớn khác thường. Vì đem theo nó mà Hồ Lô tiên sinh đã nhầm ta với một đại phu!”
Hiệu úy nhìn vị khách bằng vẻ trầm tư, rồi chậm rãi nói, “Phải rồi, với y phục hiện giờ, rất dễ nhầm ngài với một vị đại phu.”
Ngừng lại một chút, y nói tiếp, “Hẳn Hồ Lô tiên sinh phải thất vọng lắm khi biết ngài không phải một đại phu. Tiên sinh biết rõ nhiều loại thảo dược và thích đàm đạo về những thứ ấy.”
“Thật ra,” Địch huyện lệnh ngập ngừng thừa nhận, “ta đã không cải chính lại, tránh một lời giải thích dài dòng. Chẳng hay vị đạo nhân ấy có lai lịch thế nào?”
“Hồ Lô tiên sinh là một nhà hiền triết, đã đến trấn này được bốn, năm năm nay. Tiên sinh sống như một ẩn sĩ khổ hạnh trong một túp lều tranh giữa chốn lâm tuyền. Đại nhân dùng thêm một chén trà nữa chứ?”
Viên Hiệu úy xoa mặt. Liếc nhanh sang Địch huyện lệnh, y tiếp lời, “Địch đại nhân, nếu ngài thực sự muốn có khoảng thời gian yên tĩnh ở trấn này, ti chức khuyên đại nhân cứ đóng giả một đại phu đi. Vùng này là khu vực đặc biệt, triều đình có đủ mọi kiểu tai mắt quanh đây, việc ngài ẩn danh sẽ có thể… bị hiểu sai. Bản thân từng phục vụ trong triều nên ti chức biết rõ tâm tính của bọn họ!”
Địch huyện lệnh vuốt râu. Dưới tư cách một Địch Nhân Kiệt, ông sẽ phải gặp gỡ các quan viên lớn nhỏ, phải mặc quan phục và đội mũ cánh chuồn, trong khi tất cả đều nằm trong gói hành lý lớn ông để tại làng Quan Đế Miếu. Đương nhiên ông có thể mượn một bộ quan phục và thuê một cỗ kiệu, nhưng đó chính là thứ mà ông muốn tránh trong vài ngày…
Nhận thấy vẻ do dự của ông, Trâu Lập Uy vội nói, “Ti chức sẽ chuẩn bị mọi thứ cho đại nhân! Ngài xứng đáng có được mấy ngày nghỉ ngơi. Ti chức đã nghe kể về vụ án ngôi chùa mà ngài phá giải ở Phổ Dương. Đại nhân quả là thần thám! Giờ hãy để ti chức xem xét. Phải rồi, ti chức biết
một vị đại phu đã giải nghệ ở kinh thành. Ông ta tên là Lương Mặc, người cao lớn, râu dài, chuyên chữa bệnh phổi và gan.”
Y kéo một tờ giấy về trước mặt mình, chấm bút lông vào mực và viết vài dòng.
“Đại nhân, chắc ngài có biết qua một chút y thuật? Tốt rồi! Ti chức có thể xem giấy thông hành của ngài chứ?”
Địch huyện lệnh rút ra một mảnh giấy từ trong giày và đặt lên án thư. Ông mở lời, “Địch mỗ không nghĩ…”
Nhưng Hiệu úy còn đang mải xem mảnh giấy. Khi ngẩng lên, y thốt lên, “Quá tốt rồi, thưa đại nhân! Ngày tháng năm sinh đều trùng khớp, không sai chút nào!”
Y gõ ngón tay xuống bàn và gọi, “Liễu Binh tào!”
Vị Binh tào lập tức có mặt, như thể vẫn đợi ở ngay ngoài cửa. Trâu Hiệu úy đưa tờ giấy mình vừa viết lẫn giấy thông hành của Địch huyện lệnh cho
anh ta.
“Hãy làm một bản mới cho ta, theo đúng danh tính này. Ờ, đừng quá mới thì tốt hơn!”
Họ Liễu cúi thi lễ rồi lui ra ngoài. Trâu Lập Uy tì khuỷu tay trên án thư.
“Địch đại nhân, thật ra ti chức đang gặp phải một chuyện nhỏ khó xử,” y nghiêm trang nói. “Việc ngài ẩn danh khi ở đây sẽ giúp hóa giải chuyện này. Sẽ không mất nhiều thời gian đâu, ti chức cần thỉnh ý đại nhân một
việc vô cùng hệ trọng! Dĩ nhiên phẩm quan của đại nhân cao hơn, nhưng có thể nói công việc của chúng ta cũng giống nhau… Ngài đang hạ cố giúp ti chức rất nhiều! Để có một cái nhìn mới mẻ vào mọi chuyện…”
“Thế vấn đề của túc hạ là gì nào?” Địch huyện lệnh ngắt lời.
Viên Hiệu úy đứng dậy và đến bên một tấm địa đồ lớn treo trên vách. Từ chỗ ngồi, Địch Nhân Kiệt có thể thấy tấm địa đồ vẽ khu vực phía nam con sông, kèm theo phần phác họa chi tiết về trấn này. Phía đông trấn có một khoảng trống đề mấy chữ lớn, “Bích Thủy Cung”.
Trâu Lập Uy khoát tay và nói, “Toàn bộ khu vực đặc biệt này nằm dưới quyền cai quản của cung Bích Thủy. Hẳn đại nhân đã biết là suốt bốn năm qua, cung Bích Thủy là nơi nghỉ dưỡng của Tam Công chúa vào mỗi mùa hè.”
“Không, Địch mỗ không biết.”
Nhưng Địch Nhân Kiệt biết rõ về nàng Công chúa được Hoàng thượng sủng ái vô cùng. Nàng có dung nhan diễm lệ hơn người. Dù Hoàng thượng chiều theo mọi mong muốn của ái nữ, nhưng Công chúa không hề hư hỏng như thiên hạ vẫn nghĩ. Nàng rất thông minh, là một nữ nhân thanh cao yêu thích nghệ thuật và khoa học. Nhiều quan viên trẻ trung và xuất chúng đã được cân nhắc để trở thành phò mã, nhưng Hoàng thượng vẫn dùng dằng chưa quyết. Ông nghĩ Công chúa cũng tầm hai lăm tuổi rồi.
Họ Trâu nói tiếp, “Đứng đầu ở đất này là ba vị thượng quan, hai quan văn và một quan võ. Đại tổng quản họ Lôi chịu trách nhiệm chăm lo cho Tam Công chúa, các nữ quan của nàng và mọi việc trong cung. Tổng giám cung Văn Đông cai quản những người còn lại, nhân lực lên đến cả ngàn người. Thượng cấp của ti chức, Khang Tướng quân, là Chỉ huy Cấm quân. Huynh ấy chịu trách nhiệm cho sự an nguy của cung Bích Thủy và phần còn lại của khu vực đặc biệt. Tướng quân đặt phủ đệ trong cung và lúc nào cũng bận bù đầu ở đó. Khang huynh giao cho ti chức hai trăm Cấm binh và quyền cai quản trấn Thanh Xuyên cùng vùng thôn quê.
“Đây là một trấn nhỏ yên bình và có trật tự kỷ cương. Để ngăn ngừa các loại bệnh dịch lan sang cung Bích Thủy, trấn này không cho phép mở thanh lâu kỹ viện hay diễn ca kịch, không cho phép gái giang hồ hay kẻ hành khất lang thang trên phố. Các tội ác rất hiếm hoi, vì bất cứ hành vi phạm pháp nào ở đây đều có thể bị coi là khi quân phạm thượng và bị xử lăng trì. Ngay cả đám tội nhân sừng sỏ nhất cũng không muốn phải bị xẻo dần từng miếng thịt! Đao phủ thông thường chỉ mất hơn một canh giờ để hành quyết. Nhưng ti chức được nghe kể, đao phủ ở trấn này có thể giữ cho kẻ tử tội sống thêm vài ngày.”
Trâu Hiệu úy trầm ngâm day day sống mũi, rồi nói tiếp, “Đương nhiên, họ là những đao phủ thiện nghệ nhất. Dù thế nào, đám trộm cướp giang hồ luôn lánh xa khỏi trấn này như một thứ dịch bệnh!”
“Vậy nhiệm vụ của túc hạ thật đơn giản, chỉ là công việc cai quản thông thường thôi.”
Viên Hiệu úy ngồi xuống.
“Không đâu, thưa đại nhân,” y ảo não đáp, “ngài đã nhầm. Vì vô cùng an toàn trước đám trộm cướp lặt vặt nên vùng này trở thành chốn đào viên cho đám tội nhân ác độc hơn lưu trú! Giả sử ngài là một tên gian thương đã lắm của lại nhiều kẻ tư thù. Còn nơi nào thích hợp hơn trấn này để ngài có một kỳ nghỉ yên tĩnh? Ở đây không có thích khách nào dám ám toán ngài. Giả như ngài đứng đầu một phường buôn lậu có uy thế, hoặc một bang hội giang hồ bí mật? Ở địa phận của mình, ngài sẽ cần hộ vệ kè kè suốt ngày
đêm để đối phó với bọn sát thủ do những bang hội thù địch cử đến. Nhưng ở trấn này, ngài có thể tự do tản bộ mà không sợ bị làm phiền. Đại nhân, ngài đã thấy rõ vấn đề của ti chức chưa?”
“Chưa hẳn. Nếu bất cứ ai đến đây đều phải trình diện, tại sao túc hạ không áp giải những kẻ đáng nghi về lại nơi của chúng?”
Trâu Lập Uy lắc đầu.
“Trước hết, hàng trăm du khách đến đây đều là những người đàng hoàng, phần lớn thương nhân đến trấn này đều vì công việc chính đáng. Ti chức không thể xác minh lai lịch của tất cả bọn họ. Thứ hai, một lượng lớn thu nhập của dân địa phương đến từ những du khách. Nếu ti chức tra vấn sách
nhiễu các du khách, họ sẽ tránh xa trấn này. Hơn nữa, kinh thành đã đưa ra quy định nghiêm ngặt là quan quân phải hữu hảo với dân chúng. Niên hiệu của Hoàng thượng là ‘Nhân Trị’, đại nhân cũng đã rõ. Đây là một tình huống nan giải, chẳng ai biết khi nào tranh chấp sẽ bất chợt xảy ra giữa mấy tên giang hồ cường đạo. Trong khi đó, ti chức lại chịu trách nhiệm duy trì trật tự bình an ở trấn Thanh Xuyên!”
“Địch mỗ hiểu rồi. Nhưng ta không hiểu mình có thể làm gì để thay đổi tình thế.”
“Đại nhân, ngài chỉ cần quan sát xung quanh! Nhìn ngó mọi thứ với tư cách một thường dân. Một người dạn dày kinh nghiệm và có nhiều thành tích điều tra án như…”
Địch huyện lệnh khoát tay.
“Được rồi. Địch mỗ không ngại tìm hiểu chuyện xảy ra ở khu vực đặc biệt…”
Có tiếng gõ cửa và vị Binh tào quay lại. Anh ta đặt hai mảnh giấy xuống trước mặt Hiệu úy. Một mảnh là giấy thông hành của Địch huyện lệnh. Họ Trâu tập trung chú ý đến mảnh giấy kia, hơi nhem nhuốc với các mép đã sờn.
“Được lắm!” Y mỉm cười rạng rỡ. “Liễu Binh tào, đệ làm rất tốt! Đại nhân, hãy nhìn xem!”
Y đưa mảnh giấy thứ hai cho Địch huyện lệnh. Đó là một giấy thông hành chính thức được Bộ Hình lưu hành cấp cho Lương Mặc đại phu từ bốn năm trước. Ngày tháng năm sinh là của Địch huyện lệnh, nhưng nơi cư trú lại là một khu vực nổi tiếng ở Trường An.
Xoa hai tay vào nhau, Trâu Hiệu úy hỏi, “Đại nhân trông thấy ngày tháng chưa? Đúng y thời điểm mà các pháp quan Bộ Hình thay giấy thông hành mới cho dân chúng! Làm tốt lắm, Liễu đệ!”
Lấy con dấu từ trong ngăn bàn, y đóng dấu lên một góc tờ giấy và viết đè lên trên, “Người mang giấy này đang trên đường trở lại kinh thành. Được phép lưu lại ba ngày.” Y điền thêm ngày tháng rồi ngoáy bút ký tên.
“Đây, thưa đại nhân! Đầy đủ lệ bộ! Giấy thông hành của ngài thì ti chức sẽ cất giữ cẩn thận. Thật bất tiện nếu có ai thấy đại nhân mang hai giấy thông hành khác nhau! Ti chức khuyên ngài nên trọ ở khách điếm Thúy Điểu. Đó là một khách điếm yên tĩnh, hầu hết những nhân vật tai to mặt lớn đều từng ở trọ tại đó.”
Y đứng dậy và mạnh bạo nói, “Không cần nói chắc đại nhân cũng hiểu, ti chức hoàn toàn chịu sự sai khiến của ngài! Bất cứ khi nào, cả ngày lẫn đêm!”
Địch Nhân Kiệt cũng đứng dậy.
“Địch mỗ phải thú thật. Khi nghe Hiệu úy rào trước đón sau, ta đã tưởng túc hạ định nhắc đến vụ sát hại viên thủ quỹ của khách điếm Thúy Điểu. Chính là nạn nhân được vớt từ sông lên.”
“Quả là một vụ án nghiêm trọng! Nhưng thưa đại nhân, người đó bị sát hại bên ngoài địa phận của ti chức. Ti chức đã xem xét ngay lúc đó rồi. Canh phu* đã trông thấy anh ta rời khỏi trấn sau nửa đêm khoảng nửa canh giờ, đi về hướng đông. Lính tuần của ti chức cũng không tìm thấy bất cứ dấu vết nào của đám đạo tặc hoặc cướp đường trong khu vực này hay vùng lân
cận. Nam nhân kia bị giết ở đâu đó trên đường lên núi, xác bị ném xuống sông, ngược dòng vài dặm. Thi thể mắc vào đám rong rêu đối diện trạm thuyền. Ti chức sẽ chuyển vụ án này cho vị đồng liêu của đại nhân ở huyện kế bên, phía đông trấn Thanh Xuyên, cùng với mọi thứ tìm được trong tay áo nạn nhân.”
Canh phu là người đi tuần vào ban đêm.
Trâu Lập Uy kéo Địch huyện lệnh lại bên án thư và chỉ vào một tấm địa đồ đã được gập cẩn thận, một bàn tính, một chiếc hộp đựng danh thiếp và một xâu tiền. Ông tiện tay mở tấm địa đồ và xem xét một lúc. ��
Trâu Lập Uy chỉ tấm địa đồ cho Địch Công
“Đây là địa đồ chi tiết của huyện này,” ông nói. “Con đường từ trấn Thanh Xuyên đến làng Thập Lý, nằm ở sườn núi phía đông, được đánh dấu đỏ.”
“Chính thị! Rõ ràng nam nhân này đang bỏ trốn đến nơi ấy cùng hai mươi đĩnh bạc lấy trộm từ ông chủ, một kẻ keo kiệt có tiếng. Lão ta dám đòi ti chức trả lại số bạc đã mất! Xin đại nhân hãy đem chiếc bàn tính này đi trả lại cho lão già hà tiện kia, kẻo lão đổ cho ti chức là ăn cắp đồ nhà lão!”
Địch huyện lệnh cất chiếc bàn tính vào ống tay áo.
“Địch mỗ sẵn lòng. Nhưng túc hạ cũng nên kê khai vật này trong bản trình báo gửi cho vị Địch Nhân Kiệt kia. Nó có thể liên quan đến vụ án. Chẳng
hạn, viên thủ quỹ đã chuẩn bị để thực hiện vài giao dịch kim ngân phức tạp nào đó ở ngôi làng mình sắp tới.”
Trâu Hiệu úy nhún vai.
“Một thủ quỹ mang theo bàn tính, chuyện thường ngày ở huyện. Dù sao ti chức cũng sẽ đề cập đến chi tiết này.”
Trong khi đeo lại kiếm ra sau lưng, ông hỏi, “Sao túc hạ biết viên thủ quỹ muốn lấy trộm bạc?”
“Ngụy Thành khẳng định rằng anh ta lấy bạc từ rương. Đại nhân có thể tin tưởng rằng lão biết rõ trong rương hòm có bao nhiêu tiền, đến từng hào từng cắc! Lão điều hành khách điếm cũng khá đấy, nhưng lại là một lão già cáu kỉnh khó ưa. Thiên hạ bảo Ngụy phu nhân làm vậy thật không phải, nhưng họ chẳng chê trách gì bà ấy. Đại nhân biết không, nửa tháng trước, bà ấy đã bỏ đi theo nhân tình. Ôi, ti chức vô cùng biết ơn khi đại nhân nhận lời ngó nghiêng xung quanh hộ mình. Nhưng ngài đừng vì chuyện đó mà lỡ mấy buổi ra sông câu cá! Ở đây có cá vược rất ngon, còn cả cá hương nữa.”
Họ Trâu còn khách khí tiễn Địch huyện lệnh xuống thang và đích thân vị Binh tào lực lưỡng ra mở cửa. Trời đang mưa như trút nước.
“Thưa đại nhân, thời tiết thật ghê gớm! May thay, khách điếm Thúy Điểu chỉ ở ngay bên phải một đoạn. Mong đại nhân an tâm nghỉ ngơi!”
HỒI 3
Tử Tây thuật chuyện kẻ si tình
Địch Công lên nhầm kiệu cấm cung
Địch huyện lệnh rảo bước, che tấm vải dầu trên đầu để tránh cơn mưa lớn. Sắp đến giờ ăn tối, con phố chính đã vãn người. Ông gượng cười khi nghĩ đến viên Hiệu úy cứ nói không ngớt miệng. Câu chuyện của y về những vị khách không mời đầy rắc rối chỉ là trò che mắt. Y cũng chẳng để tâm tới
vụ sát hại viên thủ quỹ. Phải có một lý do khác nữa khiến cho họ Trâu muốn ông ẩn danh ở lại trấn Thanh Xuyên. Một lý do vô cùng thuyết phục, nếu không y đã không chuẩn bị kỹ lưỡng đến thế để tạo cho ông một danh tính mới. Trâu Lập Uy quả là một gã khôn ngoan và tinh ý. Lúc ở bến sông, họ Trâu đã nhận ngay ra Địch Nhân Kiệt, dù cho ông ăn vận luộm thuộm.
Địch huyện lệnh đứng khựng lại, quên cả trời mưa. Lúc ở bến sông, hình như viên Hiệu úy có phần mảnh khảnh, trong khi Trâu Lập Uy có vóc người vạm vỡ. Lúc trước, ông chỉ nhìn thoáng qua khuôn mặt y, bị khăn quàng che mất nửa dưới. Địch Nhân Kiệt nhíu đôi mày rậm. Viên Binh tào đã đưa ông lên cầu thang bằng lối đi bên sườn để không ai trông thấy ông vào hay ra. Lúc này, ông đang đơn độc ở một trấn xa lạ, mang theo giấy thông hành giả. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, ông linh cảm có điều không hay sắp xảy đến. Rồi ông nhún vai. Nếu có bất cứ thủ đoạn nào ở đây, ông sẽ sớm biết thôi.
Một chiếc đèn lớn đong đưa trên mái cổng, đề mấy chữ “Khách điếm Thúy Điểu”. Bên kia đường, ông thấy một chiếc đèn còn lớn hơn, đề dòng chữ “Khách điếm Cửu Tiêu”. Sau một thoáng do dự, ông bước vào cánh cổng đầu tiên. Giũ mạnh tấm vải dầu cho sạch nước, ông tiến vào sảnh lớn. Một cây nến lớn trên giá đồng thau chiếu sáng cả gian sảnh, tạo nên những bóng hình kỳ lạ trên vách.
Cậu tiểu nhị trẻ tuổi đứng sau quầy nói, “Khách quan, mọi phòng rộng đều đã có người đặt trước. Nhưng ở trên gác, khách điếm còn một phòng nhỏ khá tiện lợi.”
“Ta sẽ lấy phòng đó,” Địch huyện lệnh đáp.
Trong lúc đăng ký bằng họ tên và nghề nghiệp giả, ông nói thêm, “Trước khi lên phòng, ta muốn tắm rửa và thay đồ. Còn nữa, cậu hãy cử người đến chỗ ông thợ rèn ở bến sông để lấy mã yên bao*
mã yên bao là túi đeo bên yên ngựa.
giúp ta.”
Khi đẩy cuốn sổ đăng ký qua quầy, Địch Nhân Kiệt thấy ống tay áo mình nằng nặng. Ông bèn lấy chiếc bàn tính ra.
“Lúc ta đến trình diện ở Tổng quân doanh, có người nhờ ta trả lại chiếc bàn tính này. Nó là của viên thủ quỹ ở khách điếm này, người vừa được tìm thấy dưới sông.”
Cậu tiểu nhị cảm ơn khách rồi bỏ chiếc bàn tính vào ngăn kéo. “Khi trông thấy Đới Ninh tội nghiệp ở bến sông,” y chế nhạo, “lão gia nghĩ thứ này được gói cùng hai mươi đĩnh bạc. Thật đáng đời lão già bủn xỉn!”
Y liếc nhanh ra sau, về phía bức bình phong lớn trổ mắt lưới. Đằng sau đó, một nam nhân đang ngồi cúi rạp mình trên án thư.
“Đại phu, để tiểu nhân dẫn ngài đi.”
Phòng tắm nằm ngay phía sau khách điếm. Phòng thay đồ trống trải, nhưng các gói y phục nằm la liệt trên sàn và những giọng nói khàn khàn từ phía sau tấm mành tre cho thấy còn có nhiều vị khách khác đang ở dưới hồ tắm. Địch huyện lệnh tháo giày và đặt thanh kiếm một bên, treo chiếc mũ ẩm ướt và hồ lô lên giá. Ông lấy hầu bao gấm đựng ngân lượng và giấy thông hành từ trong tay áo ra, xếp nó xuống dưới mũ, rồi đưa tay vén tấm mành tre.
Hai nam nhân mình trần trùng trục, vừa la hét vừa tập quyền phía trước hồ tắm rộng. Họ khích lệ lẫn nhau bằng những lời bình phẩm tục tĩu. Thấy Địch huyện lệnh bước vào, cả hai bỗng im bặt và gằm ghè nhìn ông.
“Cứ việc luyện võ nhưng im cái miệng thối của các ngươi lại!” Một giọng nói khô khan ra lệnh.
Người vừa lên tiếng là một nam nhân phương phi, tuổi tầm trung niên, đang ngồi trên băng ghế thấp cạnh hồ tắm. Đứng ngay sau gã là người hầu của khách điếm, đang ra sức đấm bóp đôi vai mềm nhũn của khách. Trong khi hai gã giang hồ kia tiếp tục tập quyền, Địch huyện lệnh ngồi xổm xuống sàn nhà lát đá đen và múc nước nóng giội lên người. Rồi ông ngồi trên băng ghế, đợi người hầu kia đến kì cọ cho mình.
“Các hạ là người ở đâu?” Nam nhân đứng tuổi lịch thiệp bắt chuyện. “Tại hạ sống ở Trường An. Tại hạ họ Lương, là một lang trung.”
Thật khiếm nhã nếu không đáp lời một người cùng đi tắm với mình. Nhà tắm là nơi duy nhất trong khách điếm để các vị khách gặp nhau như bằng hữu.
Người kia ngắm nhìn hai cánh tay vạm vỡ và lồng ngực rộng của Địch huyện lệnh.
“Đại phu quả là minh chứng sống cho y thuật của mình! Ta là Lang Lưu, người Giang Nam. Hai kẻ mãng phu kia là hộ vệ của ta. Ta… ôi!” Gã ngừng lời khi người hầu giội nước lạnh lên người mình. Họ Lang thở hắt ra.
“Ta là thương nhân tơ lụa, đến đây nghỉ dưỡng. Không thể tin vào thứ thời tiết ác nghiệt ở chốn này!”
Hai người trò chuyện qua lại về khí hậu phương nam trong khi người hầu cọ lưng cho Địch huyện lệnh. Sau đó, ông xuống hồ tắm và thả mình trong làn nước ấm.
Vị thương nhân kia lau người cho khô rồi cộc lốc giục hộ vệ, “Nhanh lên nào!” Cả hai nhanh chóng lau người và ngoan ngoãn đi theo vị chủ nhân bệ vệ vào phòng thay đồ.
Địch huyện lệnh nghĩ Lang đại gia không giống tên gian thương giàu có mà Trâu Hiệu úy đã đề cập. Diện mạo họ Lang còn có phần phi phàm, khuôn mặt chính trực và kiêu hãnh, chòm râu cằm thanh mảnh. Những phú thương thường đi cùng hộ vệ. Chân tay vốn tê cứng đã được nước nóng làm dịu đi, lúc này ông thấy bụng đã đói. Ông lên bờ và bảo người hầu lau khô người giúp mình.
Hai chiếc mã yên bao đã được đặt sẵn trong một góc phòng thay đồ. Mở chiếc đầu tiên để lấy một bộ y phục sạch, Địch huyện lệnh chợt nhớ lại một chuyện. Mã Vinh, trợ thủ luôn chuẩn bị mã yên bao cho ông, vốn là người ngăn nắp, nhưng số y phục này lại không được gấp cẩn thận. Ông nhanh chóng mở mã yên bao còn lại, thấy y phục dạ hành lẫn giày mũ đều có đủ, nhưng chiếc bao này cũng đã bị lục lọi. Ông vội tìm dưới chiếc mũ xếp trên giá. Trong hầu bao gấm không mất thứ gì, nhưng một góc giấy thông hành lại bị ướt.
“Lang đại gia thật là kẻ tọc mạch,” ông lẩm bẩm, “hoặc có thể chỉ là người cẩn trọng.”
Ông mặc lớp áo bông trắng trước, rồi khoác bộ trường bào xám có ống tay dài. Những ngón chân tê mỏi thật dễ chịu trong đôi giày mới. Bỏ lại bộ đồ ẩm ướt và đôi giày lấm đất cho người hầu giặt, ông đội mũ, cầm thanh kiếm và hồ lô, rồi bước ra sảnh đường.
Tiểu nhị đưa Địch Nhân Kiệt đến một căn phòng nhỏ sạch sẽ trên gác và thắp nến trên bàn. Y báo bữa tối sẽ sớm được đem đến. Địch huyện lệnh mở toang cửa sổ. Trời đã tạnh mưa, những mái nhà ẩm ướt trong trấn Thanh Xuyên bỗng lấp lánh dưới ánh trăng bàng bạc. Sân sau của khách điếm rất bừa bộn. Giữa sân là một đám cây khẳng khiu và bụi rậm um tùm, phía sau đó là một nhà kho thấp xây áp vào tường. Cánh cổng khép hờ nhìn ra một ngõ hẻm vừa tối vừa hẹp phía sau khách điếm. Khu chuồng ngựa bên phải sân khiến ông nhớ ra, rằng ngày mai mình sẽ phải nhờ mã phu đi lấy ngựa ở chỗ người thợ rèn. Tiếng người quát gọi đồ ăn và tiếng bát đĩa lạch cạch từ chái nhà bên trái cho thấy nơi ấy chính là bếp. Trong góc sân là bãi nuôi gà được quây tạm bợ, có thể là thú vui sinh lợi của một trù sư. Ông quay lại khi có tiếng gõ cửa.
Thật là một bất ngờ thú vị khi một thiếu nữ mảnh mai vận thanh y bước vào. Một dải khăn đỏ quấn quanh bờ eo thon gọn, hai đầu có núm rủ xuống chấm đất. Trong khi thiếu nữ đặt khay đồ ăn lên bàn, ông vui vẻ nói, “Ta đã thấy cô nương ở bến sông. Đúng ra nàng không nên đến đó, thật là một cảnh tượng đáng sợ.”
Đôi mắt thiếu nữ vừa to vừa sáng, nhìn Địch huyện lệnh bẽn lẽn.
“Thưa khách quan, Ngụy chưởng quỹ đã đưa tiểu nữ đến đó. Viên Hiệu úy nói cần có hai người thân thích đến xác nhận nạn nhân.”
“Đúng vậy, ta thấy cô nương không đơn giản chỉ là một nữ tỳ.”
“Tiểu nữ là cháu họ xa với Ngụy chưởng quỹ. Nửa năm trước, sau khi song thân tiểu nữ tạ thế, Ngụy thúc thúc đã đem tiểu nữ về nuôi để giúp việc nhà. Hôm nay, những nữ tỳ khác đều đang sợ hãi về chuyện xảy ra với viên thủ quỹ…”
Thiếu nữ rót trà cho Địch huyện lệnh, tay trái nàng khẽ vén ống tay áo bên phải bằng một cử chỉ duyên dáng, tự nhiên. Lúc này, nhờ ánh nến soi tỏ, ông có thể ngắm rõ dung nhan nữ nhân. Thiếu nữ không chỉ đẹp mà còn sở hữu một vẻ duyên dáng đầy huyền ảo rất khó diễn tả.
Ngồi xuống bên bàn, ông vô tình hỏi, “Ở phòng tắm dưới lầu, ta đã gặp một vị khách, là Lang đại gia. Ông ta ở đây lâu chưa?”
“Ông ta mới ở có nửa tháng thôi ạ. Nhưng Lang đại gia là một vị khách chuẩn mực. Cũng dễ hiểu, vì ông ta có một hiệu buôn tơ lụa ở trấn này, ngay tại phố dưới. Là một cự phú, ông ta luôn du nhàn cùng ít nhất tám phụ tá và hộ vệ. Họ thuê dãy phòng tốt nhất ở dưới lầu.”
Thiếu nữ bày biện đồ ăn ra bàn, Địch Nhân Kiệt nhấc đũa lên.
“Lúc ở bến sông, ta nghe Ngụy chưởng quỹ nói viên thủ quỹ xấu số đã lấy trộm hai mươi đĩnh bạc.”
Thiếu nữ tỏ vẻ không hài lòng.
“Số ngân lượng đó là do Ngụy thúc tưởng tượng ra mà thôi! Thúc thúc hi vọng được quan quân hoàn trả ngần ấy bạc! Đới Ninh đâu phải kẻ trộm. Huynh ấy là một người dung dị và dễ gần. Tại sao đám đạo tặc lại tra tấn huynh ấy dã man như vậy? Đới huynh chưa bao giờ có nhiều tiền cả.”
“Chúng vốn là quân cường bạo, ta e vậy. Vì Đới Ninh là thủ quỹ, hẳn chúng mong anh ta mang theo một số bạc lớn. Cô nương biết rõ họ Đới ư?”
“Đúng vậy, bọn tiểu nữ hay ra bờ sông câu cá cùng nhau. Huynh ấy sinh trưởng ở đất này, biết rõ từng ngọn cỏ ngoài bờ sông!”
“Hai người… hẳn rất thân thiết?”
Thiếu nữ mỉm cười dịu dàng và lắc đầu.
“Đới huynh chỉ thích có tiểu nữ đi cùng, vì tiểu nữ giỏi chèo thuyền. Nếu không vì chuyện đó, huynh ấy gần như không biết có tiểu nữ tồn tại, vì huynh ấy chỉ toàn tâm toàn ý…”
Nàng bỗng ngừng lại và cắn môi. Rồi nàng nhún vai nói tiếp, “Ôi, Đới huynh xấu số đã qua đời rồi, kể cho khách quan thì cũng chẳng hại gì. Huynh ấy đã đem lòng yêu mến đại thẩm của tiểu nữ.”
“Đại thẩm của cô nương ư? Ngụy phu nhân chắc chắn hơn Đới Ninh nhiều tuổi!”
“Tiểu nữ nghĩ đại thẩm hơn huynh ấy tầm chục tuổi. Nhưng giữa họ chưa bao giờ xảy ra bất cứ chuyện gì. Đới huynh chỉ dám ôm mối tương tư từ xa mà thôi! Đại thẩm cũng không đoái hoài đến kẻ si tình kia, vì bà ấy đã bỏ đi cùng nam nhân khác, chắc khách quan đã được nghe rồi.”
“Cô nương có biết nam nhân kia là ai không?”
Thiếu nữ lắc đầu quyết liệt.
“Đại thẩm đã xoay xở rất khôn khéo để che giấu mối tình ngoài luồng ấy. Thậm chí tiểu nữ chưa bao giờ nghĩ rằng bà ấy lại có thể phản bội phu quân. Khi Ngụy thúc kể đại thẩm đã bỏ mình vì một nam nhân khác, tiểu nữ gần như không thể tin vào tai mình. Đại thẩm có vẻ là người nhân hậu và trầm tính… tốt hơn thúc thúc cả trăm ngàn lần!”
Thiếu nữ nhìn ông rất nhanh như muốn dò xét. Rồi nàng khẽ cười và nói thêm, “Khách quan, ngài là người rất đàng hoàng nên tiểu nữ mới dám kể! Có lẽ vì ngài là một đại phu.”
Không hiểu sao, câu nói sau cùng làm Địch Nhân Kiệt cảm thấy khó chịu. Ông bật ra câu hỏi đầu tiên xuất hiện trong đầu mình, “Vì Đới Ninh rất ngưỡng mộ Ngụy phu nhân, hẳn anh ta vô cùng đau khổ trước việc bà ấy bỏ đi với nam nhân khác?”
“Không hề, huynh ấy không buồn bã chút nào.” Nữ nhân trầm ngâm vuốt tóc. “Giờ nghĩ lại, tiểu nữ thấy chuyện đó thật lạ lùng.”
Địch huyện lệnh nhướn mày.
“Cô nương dám chắc chứ? Sự luyến ái trong sáng và dài lâu thường ảnh hưởng sâu sắc đến người ta hơn một mối tình nồng nàn mà ngắn ngủi.”
“Tiểu nữ chắc chắn. Thậm chí, đã có lần tiểu nữ bắt gặp huynh ấy ngân nga lúc tính toán tiền nong.”
Địch huyện lệnh gắp một miếng dưa muối và ăn chậm rãi. Ngụy phu nhân đã qua mặt cô cháu gái thật tài tình. Viên thủ quỹ chính là nhân tình của bà ấy, hẳn nhiên rồi. Phu nhân đã một mình đến làng Thập Lý, nơi được đánh dấu đỏ trên tấm địa đồ tìm thấy trong thi thể Đới Ninh. Họ Đới sẽ đi theo
bà ấy sau vài tuần. Nhưng bọn cường đạo đã chặn cướp và sát hại anh ta trên đường. Bây giờ, chắc chắn Ngụy phu nhân đang đợi tình lang trong vô vọng ở làng Thập Lý. Địch huyện lệnh sẽ truyền đạt lập luận này cho Trâu Hiệu úy, để y chuyển lời cho vị đồng liêu của ông. Mọi người đều nghĩ Đới Ninh đã bị đạo tặc giết hại, nhưng có thể vụ án còn phức tạp hơn thế.
“Ờ, cô nương vừa nói gì vậy?”
“Tiểu nữ vừa hỏi có phải đại phu đến đây thăm bệnh không?”
“Không, ta chỉ đang nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Đi câu vài con cá chẳng hạn. Cảm phiền cô nương chỉ chỗ cho ta.”
“Tiểu nữ sẽ giúp ngài nhiều hơn thế! Tiểu nữ có thể tự mình đưa ngài ra sông bằng thuyền của khách điếm. Hôm nay, tiểu nữ còn phải giúp các tỷ muội khác, nhưng sáng mai tiểu nữ sẽ rảnh rang.”
“Cô nương thật tốt bụng. Ta sẽ trông chừng thời tiết xem thế nào. Chẳng hay cô nương tên họ là gì vậy?”
“Ngài cứ gọi tiểu nữ là Tử Tây.”
“Tử Tây cô nương, ta không dám làm phiền nàng nữa. Xin đa tạ!”
Địch huyện lệnh khoan thai thưởng thức bữa tối. Ăn xong, ông nhâm nhi một chén trà đặc rồi thư thái tựa mình ra sau ghế trong, cảm thấy vô cùng dễ chịu. Trong căn phòng dưới lầu, có người đang gảy đàn nguyệt. Âm điệu du dương, nhè nhẹ, làm rung động không gian tĩnh lặng của khách điếm. Ông lắng nghe giai điệu có phần quen thuộc ấy suốt một lúc lâu và chỉ đứng dậy khi tiếng đàn đã ngừng.
Địch Nhân Kiệt kết luận rằng mọi mối lo về Trâu Hiệu úy và động cơ của y chắc chắn bắt nguồn từ thể trạng mệt mỏi sau hành trình dài băng qua rừng. Tại sao viên Hiệu úy không nên quan tâm đến nhận xét của người ngoài cuộc về tình trạng địa phương? Về việc chuẩn bị kỹ lưỡng danh tính giả cho ông, y thừa hiểu đám mật thám trong cung luôn có hứng thú soi mói những chi tiết như vậy. Bây giờ ông cũng phải thận trọng! Địch huyện lệnh mỉm cười, đứng dậy và đến bên bàn. Mở chiếc hộp sơn mài đựng bút mực, ông lựa một tờ giấy hồng điều tốt, gập lại rồi xé thành sáu mảnh nhỏ hình chữ nhật. Ông chấm mực và viết lên các danh thiếp ứng khẩu những chữ lớn “Đại phu Lương Mặc”. Bỏ tất cả vào ống tay, ông cầm kiếm và hồ lô rồi xuống lầu. Ông muốn đi thăm thú xung quanh trấn.
Trong gian sảnh, Ngụy chưởng quỹ đang đứng bên quầy tính tiền và thì thào nói chuyện với tiểu nhị. Lão vội đến chào Địch huyện lệnh.
Sau khi cúi rạp người, lão cất giọng khàn khàn, “Đại phu à, ta là Ngụy Thành, chủ khách điếm này. Đang có người muốn báo tin cho đại phu đấy. Vì y không chịu để lại danh tính nên ta bảo người đó đợi ở ngoài. Ta đang định bảo tiểu nhị lên báo với ngài.”
Địch huyện lệnh mừng thầm. Đây chắc phải là tin của Trâu Hiệu úy. Tìm thấy giày của mình giữa những đôi giày khác xếp bên cửa, ông xỏ vào chân rồi bước ra ngoài. Một nam nhân cao lớn mặc hắc phục đang khoanh tay đứng dựa vào cột. Mũ và áo của y đều có diềm đỏ.
“Tại hạ là Lương đại phu. Tại hạ giúp gì được túc hạ chăng?”
“Có người bị bệnh đang muốn nhờ cậy đại phu,” nam nhân đáp cộc lốc. “Ở ngay trong cỗ kiệu đằng kia.”
Nghĩ rằng tin báo từ viên Hiệu úy chắc hẳn phải tối mật, Địch Nhân Kiệt theo người kia đi một đoạn xuống phố, đến chỗ cỗ kiệu lớn có rèm đen. Sáu kiệu phu đang ngồi quay lưng vào tường liền đứng bật dậy cùng lúc.
Họ đều mặc y phục giống trưởng quản của mình. Địch huyện lệnh vén bức màn kiệu ra. Rồi ông đứng sững người. Giáp mặt với ông hóa ra là một nữ nhân trẻ trung. Áo choàng kèm mũ trùm đầu đều màu đen làm nổi lên vẻ xanh xao trên khuôn mặt đẹp nhưng tự phụ của nàng.
“Tại hạ… phải báo trước với tiểu thư rằng tại hạ không khám chữa cho nữ nhi,” ông lẩm bẩm. “Bởi vậy tại hạ khuyên tiểu thư nên đến nhờ…”
“Ngài cứ vào trong kiệu, ta sẽ giải thích sau,” thiếu nữ ngắt lời.
Rồi nàng ngồi nhích sang để dành chỗ cho Địch huyện lệnh. Ngay khi ông vừa lách xuống chỗ ngồi chật chội, tấm rèm đen được khép lại từ bên ngoài. Những phu kiệu vác đòn kiệu lên vai rồi rảo bước.
HỒI 4
Cung Bích Thủy, Địch Công thăm bệnh
Cầu Kim Ngọc, thái giám chặn đường
“Chuyện này nghĩa là sao?” Địch huyện lệnh lạnh lùng hỏi.
“Mẫu thân ta muốn gặp ngài,” thiếu nữ đáp cộc lốc. “Gia mẫu họ Vương, là Tổng quản nữ quan của Công chúa.”
“Lão phu nhân bị bệnh ư?”
“Hãy cứ đợi cho đến khi hai ta vào đến khu rừng.”
Địch Nhân Kiệt đành đợi cho đến lúc ông biết được thêm về nhiệm vụ bí ẩn này, trước khi giáo huấn cho vị tiểu thư xấc xược kia một bài. Đám phu kiệu bước uể oải dần. Lúc này kiệu đã ra khỏi trấn.
Sau khoảng hai khắc, thiếu nữ bất chợt vén rèm. Kiệu đang đi dọc theo con đường qua rừng, giữa hai hàng thông cao vút. Nàng vô tư bỏ mũ trùm đầu, để lộ mái tóc được búi đơn giản mà tao nhã, phía trước cài một chiếc lược
vàng chạm lộng. Cái mũi nhỏ và hơi hếch tạo cho khuôn mặt nàng một vẻ bướng bỉnh.
Quay sang Địch huyện lệnh, thiếu nữ vẫn nói bằng giọng độc đoán ấy, “Ta cũng nói luôn rằng mình không hề biết mục đích của chuyện này! Ta chỉ làm theo những chỉ thị. Ngài đừng hỏi ta làm gì cho rách việc.”
Nữ nhân tìm gì đó dưới chỗ ngồi rồi lấy lên một chiếc tráp nhẵn nhụi có bọc da sơn đỏ, loại tráp mà các đại phu hay dùng để đựng đơn thuốc.
Đặt chiếc tráp lên lòng, nàng nói tiếp, “Trong đây, ngài sẽ thấy một tập giấy kê đơn thuốc, rất nhiều danh thiếp đề tên ngài và…”
“Tại hạ đã đem sẵn danh thiếp rồi, xin đa tạ tiểu thư,” Địch huyện lệnh đáp sẵng.
“Không sao đâu. Còn có một ít cao lá và sáu gói giấy đựng mấy loại thuốc bột vô hại. Đại phu đã bao giờ đến trấn Vạn Tường, cách đây tám mươi dặm về phía thượng lưu con sông chưa?”
“Tại hạ đã qua đó một lần.”
“Tốt lắm. Phía sau Quan Đế miếu là trạch viện của Quách nhị gia, một thư lại đã hồi hưu của văn khố triều đình. Ông ta biết ngài từ kinh thành đến, nên ít ngày trước đã mời ngài đến để chữa chứng hen suyễn cho mình. Giờ ngài đang trên đường về Trường An. Ngài đã nhớ hết chưa?”
“Tại hạ sẽ cố nhớ,” Địch Nhân Kiệt lạnh lùng đáp.
“Quách nhị gia đã viết thư cho mẫu thân ta, cho hay ngài sẽ đi qua đây, nên bà ấy muốn mời ngài đến khám bệnh. Gia mẫu cũng bị hen suyễn, mới hôm qua bà ấy lên cơn đau nặng.”
Nàng khó chịu liếc nhanh sang phía ông và hỏi, “Sao ngài lại mang theo kiếm? Sẽ dễ bị người khác để ý đấy. Mau giấu kiếm xuống dưới ghế đi!”
Địch huyện lệnh chậm rãi tháo kiếm. Ông biết ngoại nhân không được phép mang theo binh khí vào cung.
Sau hồi lâu băng qua khu rừng tĩnh lặng, con đường dần mở rộng hơn. Kiệu đi qua một cổng đá vòm kép đồ sộ, rồi đến một cây cầu đá hoa cương lớn có phần thành cầu chạm khắc tinh xảo. Ở phía bên kia hào nước, cánh cổng cao lớn của cung Bích Thủy lờ mờ hiện ra. Thiếu nữ kéo kín rèm lại. Địch huyện lệnh nghe tiếng binh lính dõng dạc truyền lệnh và cỗ kiệu bất ngờ dừng lại. Viên trưởng quản của đám phu kiệu thì thầm trao đổi vài lời với lính gác, rồi kiệu lại lên một đợt tam cấp. Tiếng then cửa chát chúa vang lên và tiếng tháo xích cho thấy cánh cổng đã được mở. Có thêm nhiều mệnh lệnh khác được ban ra, cỗ kiệu tiến lên phía trước một quãng rồi mới hạ xuống. Rèm ở cửa phía trước và cửa sổ hai bên đều được kéo ra cùng một lúc. Ánh sáng chói lòa tràn vào làm mắt ông tạm thời không nhìn được gì. Khi mở mắt ra, ông thấy trước mặt mình là một vị Hiệu úy, đứng ngay gần cửa sổ bên cửa kiệu. Sau lưng y là sáu vệ binh giáp trụ uy nghi, kiếm tuốt sẵn trên tay.
Vị Hiệu úy thô lỗ bảo thiếu nữ, “Tiểu thư đương nhiên không vấn đề gì.” Rồi y nói với Địch huyện lệnh, “Mau xưng tên họ, nghề nghiệp, mục đích đến đây!”
“Tại hạ là đại phu Lương Mặc, được Vương phu nhân, Tổng quản nữ quan của Công chúa, triệu đến.”
“Mời xuống kiệu!”
Hai binh sĩ lục soát Địch Nhân Kiệt nhanh gọn và thành thục. Họ thậm chí còn kiểm tra cả giày và lấy giấy thông hành của ông ra. Vị Hiệu úy soi xét kỹ lưỡng mảnh giấy đó.
“Được rồi. Khi nào rời khỏi đây, ngài sẽ nhận lại giấy thông hành. Tiểu thư, xin cho xem tráp đồ của đại phu!”
Vị Hiệu úy mở chiếc tráp và đưa ngón tay trỏ to mập vào sục sạo mọi thứ bên trong. Đưa cái tráp cho Địch Nhân Kiệt, y vớ lấy chiếc hồ lô, tháo nút và lắc lắc để xem bên trong có giấu dao găm hay không rồi mới trả lại.
“Giờ ngài có thể chuyển sang kiệu của cung Bích Thủy.”
Y lớn tiếng ra lệnh. Bốn phu kiệu mặc chế phục may bằng thứ lụa đẹp tiến lại, đem theo một cỗ kiệu uy nghi có đòn khiêng mạ vàng và rèm gấm thêu kim tuyến. Sau khi Địch huyện lệnh cùng vị tiểu thư kia bước vào trong, kiệu lặng lẽ đi qua khoảng sân trong lát đá hoa, vị Hiệu úy đi trước dẫn đường. Cấm cung rộng lớn được trang hoàng lộng lẫy bằng vô số đèn lồng tơ lụa, mỗi chiếc được đặt trên một cái đôn sơn son. Có hàng chục Cấm binh đang đi lại trong cung, tất cả đều vận giáp trụ kín thân, mang nỏ và đeo bao đựng tên dài. Khoảnh sân tiếp theo yên tĩnh hơn, các cận thần mặc triều phục màu lam đang đứng bàn tán xung quanh những cột trụ lớn chạy dọc hành lang.
Địch huyện lệnh chỉ xuống những hồ sen và các suối nhỏ róc rách, “Tại hạ cho rằng tất cả nước ở đây đều dẫn từ sông?”
“Thế nên nơi này mới được gọi là Bích Thủy cung,” thiếu nữ đáp cụt ngủn.
Đến một cánh cổng kép trổ mắt lưới mạ vàng, hai lính gác vác trường kích chặn kiệu lại. Sau khi trình bày về mục đích nhập cung, vị Hiệu úy tránh sang một bên. Lính gác đóng rèm kiệu lại và đi kèm hai bên. Hai người lại ngồi trong bóng tối.
“Ngoại nhân không được phép trông thấy quang cảnh của nội cung,” nữ nhân đành phải giải thích.
Địch huyện lệnh nhớ trên tấm địa đồ trong phòng Trâu Hiệu úy, Bích Thủy cung được dựng trên một khu đất vuông vức. Triều đình vô cùng gắt gao trong việc thực thi các biện pháp bảo an. Địch Nhân Kiệt cố đoán xem kiệu đang đi theo đường nào nhưng ông nhanh chóng quên hết mọi ngã rẽ, mọi cầu thang mà cỗ kiệu lên xuống. Cuối cùng, kiệu hạ dần. Một đại hán mặc giáp, đội mũ trụ có đầu mâu nhọn gắn lông vũ nhiều màu, yêu cầu họ xuống kiệu. Một đồng sự to lớn của gã gõ chuôi thanh đao đã tuốt trần vào cánh cổng sắt uốn trổ. Ông thoáng nhìn thấy một khoảng sân lát đá, bao quanh là tường lớn sơn sắc tía rực rỡ. Rồi cánh cổng sắt mở rộng và một nam nhân to béo ra hiệu cho kiệu vào. Y mặc trường bào thêu chỉ vàng và đội mũ ô sa màu đen. Cái mũi to bạnh nổi bật trên khuôn mặt tròn hoàn toàn nhẵn nhụi.
Gật đầu thân mật với thiếu nữ, viên thái giám mập quay sang hỏi Địch huyện lệnh bằng chất giọng eo éo, “Đại tổng quản muốn gặp đại phu trước khi ngài đi qua cầu Kim Ngọc.”
“Mẫu thân ta đang lâm bệnh,” nữ nhân vội xen vào. “Lương đại phu phải thăm bệnh cho bà ngay lập tức…”
“Lệnh của Lôi tổng quản đã rõ ràng,” nam nhân mặt tròn kia điềm tĩnh đáp. “Tiểu thư vui lòng đợi ở đây. Mời đại phu theo lối này.”
Y chỉ xuống một hành lang dài và yên tĩnh.
HỒI 5
Công chúa tiếp khách trong mật thất
Tri huyện nhận lời tìm ngọc xuyến
Địch huyện lệnh hoảng hốt nhận ra mình không có lấy một khắc để quyết định. Cũng chỉ mất từng ấy thời gian để ông đứng trước cánh cửa thếp vàng ở cuối hành lang.
Trước lúc này, Địch Nhân Kiệt vẫn chưa hề lo lắng đến sự bất thường của tình cảnh. Người triệu ông đến theo lối kỳ lạ này chắc hẳn phải vô cùng quyền uy, biết rõ danh tính thật của ông do gã Hiệu úy tinh khôn kia đã cấp báo đầy đủ. Người đó muốn giữ kín mục đích thật sự của chuyến đi bí mật này, sẵn sàng gánh trọn vẹn trách nhiệm việc ông vào cấm cung dưới danh tính giả. Nhưng rõ ràng người bảo hộ giấu mặt kia đã không tính đến chuyện Đại tổng quản sẽ gây phiền phức. Trong suốt cuộc gặp sắp tới, Địch huyện lệnh sẽ phải nói dối một trong số những viên chức có phẩm hàm cao nhất triều đình, hành vi này đi ngược với những tôn chỉ nghiêm ngặt của ông về nghĩa vụ đối với Đại Đường. Hoặc ông sẽ phải nói thật, hệ quả thế nào thì ông không thể ước đoán nổi.
Sự thật có thể phá hoại một mục đích tốt lành cũng như ngăn cản một âm mưu xấu xa. Địch Nhân Kiệt cố kiềm chế bản thân. Nếu một tên nịnh thần đồi bại hoặc một viên tham quan đang có ý lợi dụng ông cho mục đích bất chính, tức là quan án Địch sẽ không thể đạt được lý tưởng sống thiện lương và công bằng mà bản thân theo đuổi, thì ông đáng phải gánh chịu cái chết đầy ô nhục đang chờ đợi nếu danh tính thật bị lộ. Nhận định này giúp ông củng cố lại niềm tin trong lòng.
Trong khi viên thái giám to béo gõ cửa, Địch huyện lệnh lục trong tay áo một tấm danh thiếp đỏ mà ông đã viết lúc ở khách điếm.
Ông quỳ xuống ngay bên ngoài cửa, kính cẩn cúi đầu, hai tay dâng tấm thiếp lên quá đầu. Có người đón lấy tấm thiếp và ông nghe thấy một cuộc trao đổi ngắn ngủi. Sau đó là một giọng nói yếu ớt vang lên trong bực tức,
“Rồi, được rồi, ta biết hết rồi! Lương đại phu, ngẩng mặt lên cho ta xem nào!”
Khi ngẩng đầu lên, Địch huyện lệnh ngỡ ngàng. Thay vì một phủ đường lộng lẫy như ông vốn tưởng, Địch Nhân Kiệt trông thấy một thư phòng tao nhã của một học sĩ có sở thích cầu kỳ. Hai bên vách đều là những giá sách ngất ngưởng, trên đó xếp kín những tập sách bìa gấm và những cuộn bản thảo viết tay. Cửa sổ phía sau mở ra một hoa viên ngào ngạt sắc hương, vô số loại hoa đang đua nở giữa những hòn non bộ hình dạng lạ lùng. Trên khung cửa sổ là một dãy hoa lan trồng trong những chậu sứ tinh tế đủ màu sắc. Hương hoa phảng phất khắp căn phòng yên tĩnh.
Bên cạnh án thư bằng gỗ tử đàn, một lão nhân đang ngồi khom người trên chiếc ghế lớn bằng gỗ mun chạm trổ. Bộ trường bào uy nghi bằng gấm thêu kim tuyến, trùm qua đôi vai hẹp và buông xuống như một cái lều. Với hàng ria mép thưa ngả bạc, râu cằm lún phún, khuôn mặt tái ngắt của lão dường như quắt lại dưới chiếc mũ miện cao, gắn đầy vàng quý và châu báu rực rỡ một vẻ hoang phí. Phía sau ghế là một đại hán vai hùm hông gấu, mặc hắc phục toàn thân. Y mang một vẻ mặt vô cảm, một sợi lụa đỏ luồn qua hai bàn tay to lớn đầy lông lá. Lão nhân kia nhìn ông một hồi bằng cặp mắt ngây dại, hai mí đã sụp xuống. Rồi lão công công cất lời, “Mau đứng dậy và lại gần đây!”
Địch huyện lệnh vội đứng dậy và bước tới ba bước. Ông cúi thấp người thi lễ, thu tay vào trong ống tay áo rồi chắp tay trước mặt, đợi Đại tổng quản hỏi chuyện mình. Tiếng thở nặng nề nhắc ông rằng viên thái giám to béo đang đứng ngay sau.
“Tại sao Vương phu nhân lại triệu ngươi tới?” Lão nhân hỏi bằng giọng khó chịu. “Chúng ta có đến bốn ngự y giỏi trong cung.”
“Thưa công công, kẻ hèn này,” Địch Nhân Kiệt kính cẩn đáp, “không bao giờ dám so tài với những ngự y bậc nhất trong cung. Tuy nhiên, có được cơ duyên này là do tiểu nhân đã chữa thành công căn bệnh tương tự cho Quách nhị gia. Quách đại nhân có lòng tốt nên chắc đã quá lời ca ngợi y thuật kém cỏi của tiểu nhân với Vương nữ quan.”
“Ra là vậy.” Đại tổng quản chậm rãi xoa cằm, đăm chiêu dò xét Địch huyện lệnh. Bất chợt, Lôi công công nhìn lên và ra lệnh vẻ quả quyết, “Các ngươi lui ra đi!”
Nam nhân mặc hắc phục đi ra cửa, viên thái giám mập cũng theo sau. Cánh cửa vừa khép lại sau lưng họ, Đại tổng quản chậm chạp đứng dậy khỏi ghế. Nếu không phải vì đôi vai còng, chắc lão nhân cũng cao gần bằng ông. Lôi công công nói bằng giọng mệt mỏi, “Ta muốn cho ngươi thấy những cây
hoa của ta. Mau đến đây!”
Lão công công lê bước ra cửa sổ.
“Cây bạch lan quý hiếm này là loại khó trồng nhất. Hoa có hương thơm dịu dàng khó nắm bắt.”
Trong khi ông cúi xuống chậu hoa, viên thái giám già nua tiếp lời, “Tự tay ta chăm sóc hoa mỗi ngày. Đại phu à, những người như ta vẫn còn có thể tạo ra và nuôi dưỡng mầm sống.”
Địch huyện lệnh đứng thẳng người lại.
“Thưa công công, sáng tạo thực sự là khả năng của vạn vật. Những kẻ nghĩ rằng đó chỉ là đặc quyền của nam nhân thì thật là nông cạn.”
“Thật nhẹ nhõm,” Đại tổng quản nói với nỗi nuối tiếc phảng phất, “khi trao đổi riêng tư với một người thông thái. Đại phu, trong cung có quá nhiều tai mắt. Quả thực quá nhiều.”
Một ánh nhìn khó nắm bắt lóe lên trong đôi mắt sụp mí, Đại tổng quản lại hỏi, “Nói ta nghe, tại sao ngươi lại chọn nghề y?”
Địch Nhân Kiệt suy nghĩ một lúc. Câu hỏi này có thể được hiểu theo hai cách. Ông quyết định chọn câu trả lời an toàn.
“Bẩm công công, cổ nhân đã nói, bệnh tật và đau khổ chỉ là những sai lệch của Thiên đạo. Tiểu nhân nghĩ cũng đáng để thử sức uốn nắn những sai lệch ấy về với chiều hướng tự nhiên.”
“Ngươi rồi sẽ nhận thấy thất bại và thành công luôn luôn ngang nhau.”
“Thưa công công, tiểu nhân đã chấp nhận việc phàm nhân chúng ta bị hạn chế trong vòng ‘sinh, lão, bệnh, tử’, không ai có thể thoát khỏi thiên mệnh.”
“Đại phu quả có thái độ đáng nể. Rất đáng nể.”
Đại tổng quản vỗ tay. Khi viên thái giám to béo quay lại, Lôi công công bảo gã, “Lương đại phu được phép qua cầu Kim Ngọc.”
Lão nhân uể oải nói thêm với Địch huyện lệnh, “Ta tin rằng một chuyến thăm bệnh là đủ rồi. Tuy rất lo ngại cho sức khỏe của Vương nữ quan, nhưng bọn ta không thể cho phép ngoại nhân tự do ra vào nơi này. Xin cáo từ.”
Địch huyện lệnh cúi thấp mình. Đại tổng quản ngồi xuống ghế và cắm cúi đọc văn thư.
Viên thái giám kia đưa ông về lại hành lang nơi thiếu nữ đang đợi. Gã ngọt nhạt với nàng, “Tiểu thư được phép đưa vị đại phu này qua.” Nữ nhân quay người bỏ đi không thèm đáp nửa lời.
Tận cùng dãy hành lang dài là một ô cửa tròn, có hai lính gác hộ pháp đứng canh. Trông thấy bóng dáng viên thái giám, họ liền mở rộng cửa. Ba người bước xuống một hoa viên bài trí đẹp đẽ với đủ loại kỳ hoa dị thảo, được ngăn đôi bởi một dòng suối nhỏ. Một cây cầu cẩm thạch cong cong chỉ rộng khoảng ba thước bắc qua dòng suối nhỏ ấy. Hai thành cầu chạm khắc công phu đều được thếp vàng. Phía bên kia là bức tường màu tía có một cánh cổng nhỏ duy nhất. Mái ngói vàng của một cung điện độc lập lấp ló phía trên bức tường.
Viên thái giám dừng lại dưới chân cầu. “Đại phu, ta sẽ đợi ngài ở đây!”
“Lão béo, cứ đợi cho đến khi ngươi gầy giơ xương!” Thiếu nữ cướp lời. “Nhưng chớ có dại mà đặt chân lên cầu này!”
Lúc theo chân nàng qua cầu, Địch huyện lệnh nhận ra mình đang tiến vào vùng cấm địa, tư dinh của Tam Công chúa.
Hai cung nữ đưa họ vào một khoảng sân rộng có nhiều mĩ nhân đang tha thẩn dưới những bóng liễu rủ. Trông thấy có người mới đến, đám quần thoa bắt đầu xì xào đầy phấn khích, những mái tóc cài trâm ngọc lấp lánh dưới ánh trăng. Người dẫn đường đưa Địch Nhân Kiệt qua một ngách cửa nhỏ dẫn vào một trúc viên rồi tới hiên sau. Một vị phu nhân có phong thái điềm tĩnh đang pha trà ở một bàn gần đó. Bà ta thi lễ và thì thầm với thiếu nữ, “Phu nhân đang ho rất nhiều.”
Nữ nhân gật đầu và đưa Địch huyện lệnh vào một phòng ngủ được bài trí lộng lẫy. Trong lúc nàng cài cửa, ông tò mò nhìn lên chiếc giường lớn gần như chiếm trọn bức vách trong. Phía trước giường, gần bức rèm thêu kim tuyến, đã để sẵn một chiếc ghế đẩu, trên ghế đặt một chiếc đệm tròn để bắt mạch.
“Thưa mẫu thân, Lương đại phu đã đến,” thiếu nữ cất tiếng.
Tấm rèm hé ra độ vài thốn và một bàn tay nhăn nheo xuất hiện. Quanh cổ tay gầy gò là một vòng xuyến bằng bạch ngọc có khắc hình rồng uốn lượn. Thiếu nữ đặt bàn tay ấy lên tấm đệm rồi quay ra đứng bên cánh cửa đã chốt.
Địch huyện lệnh đặt chiếc tráp lên ghế để bắt mạch cho người bệnh. Bất chợt, vị phu nhân nằm sau tấm rèm thì thầm một cách hấp tấp, “Mau chui vào cửa mặt bên trái giường!”
Địch huyện lệnh kinh ngạc, vội buông tay phu nhân rồi vòng qua bên giường. Có ba ô tường khá cao nằm khuất trong một góc tối tăm. Ngay khi ông ấn mạnh lên ô tường gần giường nhất, nó dịch chuyển êm ru vào phía trong. Ông bước vào một điện đường, được chiếu sáng bởi một trụ đèn bọc lụa trắng. Dưới ánh đèn, một thiếu nữ đang ngồi đọc sách trên chiếc tràng kỷ gỗ mun nặng trịch. Trông thấy bộ y phục của hoàng thất, Địch huyện lệnh liền quỳ xuống. Chỉ có hai người trong gian mật thất yên tĩnh. Âm thanh duy nhất là tiếng những khúc gỗ đàn hương cháy tí tách trong lò
hương cổ bằng đồng đặt phía trước tràng kỷ. Làn khói xanh mang theo mùi hương ngọt ngào phảng phất khắp gian điện đường.
Thiếu nữ ngẩng lên, cất giọng trong trẻo và êm ái, “Địch khanh, bình thân. Thời gian không có nhiều, khanh được phép miễn mọi thứ lễ nghi vô nghĩa.”��
Tam
Công
Chúa
tiếp
khác
h
trong
mật
thất
Nàng đặt cuốn sách đọc dở xuống tràng kỷ và quan sát ông bằng đôi mắt to chất chứa bao phiền muộn. Địch huyện lệnh hít một hơi thật sâu, lòng tự nhủ Công chúa quả là bậc tuyệt thế giai nhân hiếm có. Ôm lấy khuôn mặt trái xoan trắng trẻo là mái tóc bới cao cầu kỳ và quý phái, có cài hai chiếc trâm dài gắn ngọc lục bảo. Chân mày thanh mảnh vẽ nên hai đường cong dài trên vầng trán cao mịn màng, khuôn miệng nhỏ đỏ thắm như nụ hồng đào, sống mũi tinh tế. Ở nàng toát lên một phẩm cách cao đẹp, nhưng cũng đồng thời có vẻ thanh nhàn tự nhiên của một nhân cách nồng hậu chân thật.
Công chúa khẽ nói, “Địch khanh, bản cung được nghe danh khanh là một vị thần thám và một quan viên tận tụy với triều đình. Ta triệu khanh theo cung
cách bất thường này vì có một vụ án cần nhờ khanh điều tra trong bí mật. Hai ngày trước, gần nửa đêm canh ba, ta ra tòa tiểu đình ngoài kia để ngắm nhìn sông nước. Chỉ có mình ta.”
Nàng đau đáu nhìn vào lớp giấy ánh bạc trên bức mành cửa sổ.
“Đó là một đêm trăng sáng vằng vặc giống như đêm nay, bản cung đến bên cửa sổ để ngắm nhìn cảnh vật. Trước đó, ta đã tháo ngọc xuyến trên cổ và đặt nó lên bàn trà bên trái lối vào. Địch khanh, chuỗi ngọc đó là một báu vật cung đình. Nó có tổng cộng tám mươi tư viên minh châu to lớn khác thường và đều chằn chặn. Phụ hoàng đã tặng cho mẫu thân. Sau khi bà từ trần, chuỗi ngọc ấy được trao lại cho ta.”
Tam Công chúa dừng lại. Nàng thất vọng đưa mắt nhìn xuống đôi bàn tay trắng nõn đang siết lại trong lòng, đoạn kể tiếp, “Bản cung phải tháo chuỗi ngọc ra, vì đã có lần ta làm mất một chiếc vòng tai khi nhoài người ra ở chính khung cửa sổ đó. Lòng say đắm trước khung cảnh sông nước tráng lệ, ta không biết mình đã đứng ở đó bao lâu. Cuối cùng, khi ta quay người để trở vào trong, ngọc xuyến đã biến mất.”
Đôi mắt có hàng mi dài ngước lên nhìn thẳng vào Địch huyện lệnh.
“Bản cung lập tức ra lệnh cho quan sai trong cung tiến hành tra soát kỹ lưỡng nhất có thể, tìm kiếm cả trong lẫn ngoài dinh cơ. Nhưng rồi họ vẫn không tìm ra bất cứ manh mối nào, dù là nhỏ nhất. Chỉ hai ngày nữa, bản cung sẽ phải hồi kinh. Trước lúc đó, ta sẽ phải tìm lại ngọc xuyến, vì phụ hoàng luôn muốn trông thấy ta đeo nó. Ta nghĩ… không, ta chắc chắn rằng vụ trộm do ngoại nhân nhúng tay vào, Địch khanh à. Hẳn hắn đã đi thuyền đến đây và leo qua tường, lấy trộm chuỗi ngọc trong khi ta đứng quay lưng về phía hắn. Mọi hoạt động của tất cả những người trong cung cấm đều được kiểm tra tỉ mỉ. Bởi vậy, tên đạo chích phải đến từ bên ngoài. Vì thế, bản cung mới đích thân cậy nhờ ngươi tra án.
“Việc ngươi tìm kiếm ngọc xuyến phải giữ bí mật tuyệt đối, không ai trong hay ngoài cung được biết chuyện bản cung phó thác nhiệm vụ này cho ngươi. Tuy nhiên, ngay khi tìm thấy chuỗi ngọc, ngươi không cần ẩn danh
nữa, cứ đến đây dưới quyền hạn đích thực của mình và công khai trao trả chuỗi ngọc ấy cho ta. Địch khanh, hãy xé đường chỉ ở cổ áo khanh ra.”
Trong khi Địch huyện lệnh tách đường chỉ trên tà áo phải, Công chúa lấy từ trong tay áo ra một mảnh giấy vàng được gập cẩn thận. Nàng nhỏm dậy và dúi mảnh giấy vào lớp vải lót bên trong áo ông. Nàng có vóc người cao ráo, Địch huyện lệnh cảm nhận được một hương thơm tinh tế khi mái tóc nàng khẽ quét qua mặt ông.
Thiếu nữ lại ngồi xuống và dặn dò, “Mảnh giấy ta giao cho khanh sẽ cho phép khanh công khai ra vào cấm cung này mà không kẻ nào dám ngăn cản. Khanh sẽ trả lại nó cho ta cùng với ngọc xuyến.”
Đôi môi chúm chím khẽ mỉm cười khi nàng nói thêm, “Địch khanh, hạnh phúc của bản cung đặt cả vào tay khanh đấy.”
Công chúa gật đầu cho Địch huyện lệnh lui bước và cầm cuốn sách lên.
HỒI 6
Giả thầy thuốc, đôi điều đã tỏ
Bị mất gươm, đơn độc giữa rừng
Địch huyện lệnh cúi đầu thi lễ rồi lui bước trở lại phòng của Vương nữ quan. Cửa mật đóng lại sau lưng ông không một tiếng động. Bàn tay nhợt nhạt vẫn nằm yên trên tấm đệm nhỏ. Ngay khi ông vừa bắt mạch cho nữ quan thì có tiếng gõ cửa. Ái nữ của bà nhẹ nhàng kéo then cài cửa để hai cung nữ khác bước vào. Một nàng bưng khay giấy mực, nàng kia cầm chiếc giỏ tre đựng y phục mới.
Địch huyện lệnh buông cổ tay người bệnh, mở chiếc tráp và lấy một tờ giấy trắng. Ông gật đầu ra hiệu cho cung nữ thứ nhất, chọn một cây bút lông trên khay rồi nhanh chóng kê đơn thuốc, gồm một liều nhẹ ma hoàng thiêm và trấn tĩnh tệ.
“Xin hãy sắc thuốc này ngay,” Địch huyện lệnh bảo nhi nữ của Vương nữ quan. “Tại hạ tin thuốc này sẽ khiến bệnh nhân bớt đau đớn.”
Ông ôm chiếc tráp và đi ra cửa. Thiếu nữ lặng lẽ đưa ông qua sân trong và tới cây cầu ban nãy, rồi nàng bỏ đi không một lời từ biệt. Ở bên kia cầu, viên thái giám to béo đang đợi ông.
“Ngươi khám cũng nhanh đấy, đại phu,” gã nói với vẻ hài lòng. Gã dẫn Địch huyện lệnh qua nhiều hành lang trong tư dinh của Đại tổng quản. Lúc ông ra đến cổng chính thì đã có một cỗ kiệu chờ sẵn.
Ngồi ngả người trên đệm ghế mềm mại trong kiệu, Địch huyện lệnh ngẫm ngợi lại cuộc gặp gỡ kỳ lạ vừa rồi. Công chúa đã cho ông biết các sự vụ tối thiểu, không có gì hơn. Rõ ràng cơ sở của vụ trộm này gắn với những vấn
đề tế nhị mà nàng không thể, hoặc không muốn, giải thích chi tiết. Nhưng ông có cảm giác, những gì nàng giấu kín còn quan trọng hơn nhiều những gì nàng tiết lộ.
Công chúa tin chắc rằng hung thủ là người ngoài, nhưng rõ ràng tên trộm có kẻ đồng lõa trong cung. Nếu không, sao hắn biết trước nàng sẽ ra tòa tiểu đình vào một thời điểm nhất định, rồi bằng cách nào hắn biết được nàng sẽ tháo chuỗi ngọc xuyến và đặt lên bàn. Chỉ có kẻ bí mật theo dõi Công chúa từ một vị trí thuận tiện trong cung ở mới có thể quan sát nàng, rồi ra hiệu cho tên trộm đang đợi trên con thuyền nhỏ bên dưới tòa tiểu đình.
Địch huyện lệnh chau mày. Đó dường như là một kế hoạch rất liều lĩnh mà lại phức tạp quá mức. Ngay cả khi Công chúa có thói quen đứng bên cửa sổ tòa tiểu đình lúc nửa đêm, chắc chắn nàng cũng sẽ có cung nữ đi theo hầu hạ trong suốt thời gian ấy. Bọn đạo chích cũng không thể neo thuyền bên dưới tòa tiểu đình vào mỗi đêm trăng sáng! Mọi thành lũy trong cung đều được canh phòng cả ngày lẫn đêm, hộ quân sẽ nhanh chóng phát hiện ra bất cứ chiếc thuyền nào. Càng suy nghĩ, ông càng không ưng vụ án này. Có điều gì đó rất không tự nhiên.
Điểm duy nhất rõ ràng là lý do Công chúa nhờ ông phá án: nàng nghi ngờ một người cụ thể trong đoàn tùy tùng thân cận của mình có liên quan đến vụ trộm. Bởi thế, nàng cần một người không có bất cứ liên hệ nào đến cung Bích Thủy và không ai trong cung biết người ấy đang tìm kiếm chuỗi ngọc. Do đó nàng một mực muốn giữ bí mật tuyệt đối. Đáng tiếc là Công chúa đã không mô tả tổng quan về cách bố trí trong cung của nàng. Hiển nhiên nhiệm vụ đầu tiên của ông là quan sát dãy tường phía bắc từ phía con sông và nghiên cứu vị trí tòa tiểu đình cùng khu vực bao quanh.
Địch huyện lệnh thở dài. Ít ra ông không còn phải lo về chuyện mang danh tính giả bước vào cấm cung hoặc nói dối Đại tổng quản. Chắc chắn mảnh giấy giấu trong cổ áo sẽ công nhận việc ông hành động theo lệnh riêng của Tam Công chúa. Cũng không cần lo về động cơ của Trâu Hiệu úy nữa. Gã ranh mãnh này hẳn đã biết về vụ trộm, có thể là qua thượng cấp của mình
là Khang Tướng quân, người đã góp phần vào cuộc tra xét dưới tư cách chỉ huy Cấm quân. Và Trâu Lập Uy đã tự mình tiến cử ông là người thích hợp để tiến hành một vụ điều tra bí mật. Ông mỉm cười gượng gạo. Tên ranh này đã che mắt ông từ đầu chí cuối!
Kiệu hạ và rèm kiệu được kéo ra. Cỗ kiệu đang ở sân trong, nơi ông và ái nữ của Vương nữ quan đã đổi kiệu. Một vị Hiệu úy thô lỗ nói, “Mau theo ta. Ta được lệnh đưa ngươi đến gặp Tổng giám cung đại nhân.”
Địch huyện lệnh cắn môi. Nếu bị phát giác lúc này, ông sẽ phản bội niềm tin của Công chúa trước khi cả bắt tay vào nhiệm vụ được ủy thác. Địch huyện lệnh được dẫn vào một sảnh đường uy nghi, ở chính giữa kê một án thư trang trí lộng lẫy, văn thư ký lục chất thành từng chồng trên mặt án. Ngồi sau án thư là một nam nhân gầy gò mang khuôn mặt nghiêm nghị, bộ ria xám và chòm râu thưa góp phần tạo nên vẻ khổ hạnh. Ông ta đội mũ cánh chuồn nâu có vành vàng kim, bộ trường bào đồng màu may từ gấm thêu kim tuyến ôm lấy đôi vai vuông vức. Hình như nam nhân kia đang mải mê xem xét mảnh giấy trước mặt. Một vị cận thần đẫy đà mặc lam phục và đội mũ Viên ngoại đứng phía sau, đang ngó qua vai ông ta để đọc. Phía trước án thư là một tá cận thần khác. Một số đang bưng những tráp công văn, số khác ôm những tập văn thư đồ sộ. Khi cúi đầu chắp tay thi lễ đầy kính cẩn, Địch huyện lệnh cảm thấy mọi ánh mắt đều đang dõi vào mình.
“Bẩm Văn đại nhân, Lương đại phu đã đến,” vị Hiệu úy bẩm báo.
Tổng giám cung ngẩng đầu lên. Trong khi ông ta ngả người ra sau, Địch huyện lệnh liếc nhanh vào mảnh giấy mà họ Văn và Viên ngoại chăm chú nghiên cứu nãy giờ. Lòng ông chùng xuống. Đó là giấy thông hành của ông. Nhìn xoáy vào Địch huyện lệnh bằng cặp mắt nhỏ sắc lạnh, Tổng giám cung hỏi bằng giọng sắt đá, “Tổng quản nữ quan thế nào rồi?”
“Bẩm đại nhân, tiểu nhân đã kê đơn thuốc cho Vương phu nhân rồi. Tiểu nhân tin phu nhân sẽ sớm bình phục.”
“Ngươi đến khám bệnh ở đâu?”
“Bẩm đại nhân, tiểu nhân nghĩ đó là tư thất của phu nhân. Ái nữ của phu nhân cũng có mặt cùng hai cung nữ khác.”
“Ta hiểu rồi. Ta mong là thuốc ngươi kê sẽ hiệu nghiệm. Tốt cho bà ấy, mà cũng là tốt cho ngươi nữa. Vì ngươi vừa đến thăm bệnh, nên từ giờ trở đi
ngươi sẽ chịu trách nhiệm trị bệnh cho Tổng quản nữ quan luôn, Lương đại phu à.”
Ông ta chìa tờ giấy thông hành cho Địch huyện lệnh. “Ngươi không được rời khỏi trấn Thanh Xuyên cho đến khi được ta cho phép. Ngươi có thể đi.”
Vị Hiệu úy đưa ông ra ngoài. Khi băng qua sân, y bỗng dừng bước và thi lễ. Một vị quan quân cao lớn hùng dũng đi ngang qua, mình vận giáp vàng, đầu đội mũ trụ của một chỉ huy Cấm quân, đôi giày sắt nện loảng xoảng trên nền đá hoa. Ông thoáng thấy một khuôn mặt khôi ngô mà hơi xanh xao, bộ ria mép đen bóng và phần cằm nhẵn nhụi.
“Đó có phải là Khang Tướng quân không?” Ông hỏi vị Hiệu úy. “Đúng vậy.”
Rồi y đưa Địch huyện lệnh đến sân trước, chờ sẵn tại đó vẫn là cỗ kiệu đen đã rước ông từ khách điếm Thúy Điểu. Ông bước vào kiệu và được đưa ra khỏi những cánh cổng cao.
Khi kiệu đi qua cây cầu cẩm thạch bắc qua con hào, Địch huyện lệnh kéo rèm ra để bầu không khí buổi tối xoa dịu khuôn mặt nóng bừng. Ông thấy nhẹ lòng khôn tả khi mảnh giấy thông hành giả kia đã được chấp nhận. Nhưng làm sao giải nghĩa được thái độ đáng nghi của Đại tổng quản lúc trước và Tổng giám cung sau này? Có phải các vị có phẩm hàm cao này luôn tỏ vẻ thù địch như vậy với những người lạ đến thăm cung Bích Thủy? Phải chăng họ liên quan đến vụ trộm ngọc xuyến? Không, ông đang tưởng tượng quá lố! Không thể có chuyện những vị có phẩm hàm cao của triều đình nhắm mắt thông đồng với một tên đạo chích! Tiền bạc chẳng có nghĩa lý gì với họ, sao họ phải liều mạng…
Chợt Địch huyện lệnh ngồi thẳng dậy. Có thể nào chuỗi ngọc ấy là tín vật trong các âm mưu quỷ quyệt chốn quan trường, những cuộc chiến tranh giành quyền lực thâm hiểm giữa bè lũ quan lại đối địch? Đó là lý do Công chúa phải giữ bí mật về mục đích chuyến đi của ông, kể cả với hai bề tôi thân cận nhất là Đại tổng quản và Tổng giám cung. Mặt khác, nếu một
hoặc cả hai người đặc biệt để mắt đến ngọc xuyến và nghi ngờ ông được Công chúa triệu đến vì vụ trộm, tại sao họ lại để ông đi mà không chất vấn tỉ mỉ? Câu trả lời thật hiển nhiên: họ không dám công khai đối đầu với Tam Công chúa. Hai người dự định sẽ thủ tiêu Địch huyện lệnh khi ông ra khỏi cung, cách giải thích thuận tiện nhất là xem như ông đã gặp tai nạn. Ông vội tìm phía dưới ghế ngồi. Thanh Long Vũ đã biến mất.
Cùng lúc đó, cỗ kiệu hạ xuống. Một nam nhân cao lớn kéo màn kiệu ra.
“Đại phu, mời ngài xuống kiệu. Xin cứ đi theo con đường này, chẳng bao lâu ngài sẽ ra đến trấn Thanh Xuyên.”
Đó không phải người trưởng quản phu kiệu đã đến đón Địch huyện lệnh. Ông bước xuống và nhanh chóng nhìn xung quanh. Dường như tất cả đang ở giữa rừng thông. Đám phu kiệu đang chăm chú nhìn ông với vẻ mặt vô cảm.
“Trấn Thanh Xuyên rất gần rồi,” ông bực bội nói với viên trưởng quản, “các vị hãy đưa ta đến thẳng khách điếm. Ta thấy mệt rồi.”
Ông toan quay trở vào kiệu, nhưng viên trưởng quản đã ngăn lại. “Đại phu, xin thứ lỗi cho tại hạ, nhưng tại hạ đã nhận được lệnh.”
Đám phu khiêng kiệu lên rồi nhanh chóng quay đầu và trở về theo lối cũ, viên trưởng quản đi sau cùng. Địch huyện lệnh chỉ còn một thân một mình giữa rừng thông tĩnh lặng và cao ngút ngàn.
HỒI 7
Trong nhà kho, mãnh hổ địch quần hồ
Với giấy vàng, huyện lệnh hóa khâm sai
Địch huyện lệnh đứng tần ngần thêm một lúc nữa, trầm ngâm giật hai bên tóc mai dài. Nguy hiểm đang ở phía trước mà ông hầu như không thể xoay chuyển được tình thế, ngoại trừ cách tránh khỏi đoạn đường này và thử tìm đường băng qua rừng. Nhưng như vậy cũng chẳng ích gì, nếu quả thực đám sát thủ đã được cử bám theo ông, chắc chắn chúng là những kẻ thông thuộc địa thế nơi này. Đến bây giờ, có thể chúng đã bủa vây khắp vùng rừng này.
Ông quyết định thử khám phá xem nỗi sợ của mình có đúng không. Có một khả năng ít ỏi là đám phu kiệu làm theo lệnh của Vương nữ quan. Vì lý do nào đó mà bà không muốn người khác trông thấy ông công khai trở về trấn Thanh Xuyên trên cỗ kiệu của cung Bích Thủy. Và có thể trong lúc khám xét kiệu ở cổng cung, vị Hiệu úy đã tìm thấy thanh kiếm của ông dưới chỗ ngồi rồi tịch thu. Ông phải tìm cách lấy lại thanh Long Vũ. Nó là thanh bảo kiếm uy chấn thiên hạ, được đệ nhất tuyệt thế thợ rèn kiếm chế tác từ ba trăm năm trước, là bảo vật gia truyền của Địch gia từ nhiều đời nay. Ông đút chiếc tráp vào ngực áo và chậm rãi tiến thẳng vào khu rừng tăm tối, đi dọc theo bên lề con đường. Không được trở thành mục tiêu cho một cung thủ dã tâm.
Cứ đi được một đoạn, Địch huyện lệnh lại dừng chân nghe ngóng. Không có bóng dáng kẻ nào bám theo, nhưng cũng không có bất cứ âm thanh nào cho thấy ông sắp về đến trấn. Vừa định rẽ sang lối khác, ông nghe thấy tiếng thở phì phò kỳ lạ ở phía trước.
Ông vội nấp vào bụi cây và lắng nghe. Xa một chút có tiếng cành cây con gãy tách một cái. Cẩn thận rẽ những nhánh cây, ông tìm cách luồn qua bụi rậm cho đến khi trông thấy một bóng đen to lớn đang quẩn quanh dưới những cây thông. Đó là một con lừa già đang hau háu gặm cỏ.
Trong lúc tiến lại gần con lừa, ông trông thấy đôi nạng gỗ dựa vào một thân cây đại thụ xù xì bên đường. Dưới gốc cây, Hồ Lô tiên sinh đang ngồi gục đầu trên một tảng đá lớn phủ đầy rêu. Ông ta vẫn mặc bộ y phục nâu sờn rách nhưng mái đầu bạc để trần, một miếng vải đen phủ kín búi tóc theo kiểu những ẩn sĩ Đạo gia. Chiếc hồ lô đặt cạnh chân. Lão nhân ngẩng đầu lên.��
Địch
Côn
g
gặp
lại
Hồ
Lô
tiên
sinh
“Ngài thức muộn quá đấy, đại phu à.”
“Tại hạ đang đi dạo để hít thở không khí trong lành thì bị lạc.” “Kiếm của ngài đâu?”
“Người ta bảo nơi đây tuyệt đối an toàn, tại hạ không cần đem theo binh khí khi ra ngoài.”
Hồ Lô tiên sinh tỏ vẻ không hài lòng.
“Hẳn một đại phu như ngài phải biết là không tin tất cả những điều người khác nói.”
Đạo nhân đưa tay ra phía sau tìm đôi nạng. “Được rồi, lão hủ sẽ lại dẫn đường cho ngài. Đi nào, ngài sẽ không gặp bất cứ hiểm nguy nào nếu đi cùng lão hủ.”
Ông ta buộc hồ lô vào dải dây lưng rồi trèo lên lưng lừa. Địch huyện lệnh thở phào nhẹ nhõm. Có nhân vật nổi danh như Hồ Lô tiên sinh làm nhân chứng, kẻ thù sẽ không dám liều lĩnh tấn công.
Sau khi đi được một lúc, ông mỉm cười gượng gạo, “Lần đầu hai ta gặp nhau trong khu rừng ven trấn chiều nay, tiên sinh đã khiến tại hạ giật mình! Mắt tại hạ cay xè và ánh sáng lại nhập nhoạng. Trong thoáng chốc, tại hạ nghĩ bản thân đang gặp một bản sao của chính mình.”
Hồ Lô tiên sinh ghìm cương con lừa.
“Đừng nên coi nhẹ những chuyện nghiêm túc như vậy,” đạo nhân trách. “Không ai trong chúng ta là đơn thể, tất cả đều là tổng thể của nhiều thành tố. Nhưng người ta dễ coi thường những thành tố ít trọng yếu. Nếu một trong số những thành tố đó tách ra khỏi thể thống nhất và bị ngài bắt gặp, ngài sẽ coi nó như một bóng ma, đại phu ạ. Và đó sẽ là một bóng ma gớm ghiếc!”
Lão nhân dừng lại lắng nghe. “Nói về những bóng ma, ngài có nghĩ chúng ta đang bị bám theo không?”
Lúc này Địch huyện lệnh mới nghe thấy tiếng bụi cây chuyển động lao xao. Ông vội chụp lấy một chiếc nạng và thì thầm, “Nếu chúng ta bị mai phục, tiên sinh hãy mau tẩu thoát. Tại hạ có thể tự lo liệu được, tại hạ cũng biết chút côn bổng. Xin tiên sinh đừng lo!”
“Lão hủ không lo sợ, không ai có thể làm hại lão hủ cả. Từ nhiều năm nay, lão hủ chỉ là hư không mà thôi.”
Ba kẻ lạ mặt nhảy vọt ra giữa đường. Chúng mặc đồ vải dạ thô, tóc buộc bằng những mẩu vải đỏ. Cả ba đều mang kiếm và có hai kẻ cầm đoản kích. Trong khi một tên chộp lấy dây cương của con lừa, một tên chĩa ngọn kích vào Địch huyện lệnh và quát, “Ngoan ngoãn đi theo ta, đồ hạ lưu!”
Ông định dùng chiếc nạng chống trả thì bỗng thấy đau buốt ở trên lưng. “Cấm manh động, quân cẩu trệ!” Một gã đứng phía sau ông gầm lên.
“Đại phu, trả lại nạng cho lão hủ đi,” Hồ Lô tiên sinh nói. “Lão hủ cần cả đôi nạng.”
“Đại ca, chúng ta xử lý lão già kia thế nào đây?” Tên cầm kích hỏi. Gã đứng sau gầm gừ, “Đưa cả lão già đi theo. Ai bảo số lão đen đủi.” Địch huyện lệnh lại cảm thấy mũi kiếm thúc vào lưng mình. “Đi mau!”
Ông đành tạm thời không phản kháng. Đám giang hồ này giống bọn đâm thuê giết mướn hơn là đám đạo tặc thông thường, ông chắc rằng mình có thể xử lý được chúng.
Ông rảo bước và nói gọn lỏn, “Hi vọng chúng ta sẽ không chạm trán lính tuần, vì lợi ích của mấy vị thôi.”
Gã đi sau cười ha hả, “Đồ ngốc, lúc này bọn quan quân còn đang bận lo những chuyện khác!”
Đám giang hồ đưa hai người đi theo một lối mòn nhỏ. Một tên nắm cương con lừa của Hồ Lô tiên sinh mà dắt đi, tên thứ hai cầm kích theo sau, trong khi hai tên khác áp giải Địch huyện lệnh.
Lối mòn này dẫn đến một trảng đất trống. Một căn nhà gạch thấp bé nằm giữa rừng. Đám người đi tới căn nhà thứ hai trông giống một nhà kho bỏ hoang. Kẻ đi trước thả cương con lừa ra và đạp cửa bước vào. Một ngọn đèn lập tức được thắp lên.
“Đi mau!” Một trong hai kẻ đứng sau Địch huyện lệnh dùng kiếm thúc thúc ông bước vào.
Nhà kho này trống không, chỉ có vài ba kiện đồ xếp chồng lên nhau ở một góc và một băng ghế gỗ đặt trước mấy cây cột. Ánh sáng đến từ ngọn nến trong hốc tường. Địch huyện lệnh quay lại và lúc này mới thấy rõ tên cầm đầu. Gã là một kẻ vạm vỡ, thô kệch, cao ngang ông, khuôn mặt thô lỗ với
bộ râu quai nón lởm chởm. Gã mang trường kiếm. Hai kẻ khác, một tên cầm kích và một tên mang kiếm, đều trông rất ti tiện và có vóc dáng khỏe mạnh. Ông chậm rãi đi đến giữa gian nhà, chờ đợi thời cơ để tước vũ khí từ những kẻ bắt cóc. Nhưng hiển nhiên chúng là những tội nhân lão luyện trên giang hồ, luôn giữ khoảng cách với ông để phòng bất trắc, tay lăm lăm binh khí.
Hồ Lô tiên sinh tập tễnh bước vào, theo sau là tên cầm kích thứ hai. Lão nhân đến thẳng chỗ băng ghế và ngồi xuống. Đặt đôi nạng vào giữa hai đầu gối, ông ta bảo Địch huyện lệnh, “Đại phu, ngài cũng ngồi xuống đi! Sẽ đỡ mệt hơn.”
Địch huyện lệnh ngồi xuống. Nếu ông tỏ vẻ như mình đã chịu bỏ cuộc thì kẻ địch sẽ lơ là cảnh giác hơn. Gã cầm đầu đứng ngay trước mặt ông và Hồ Lô tiên sinh. Hai tên khác đứng hai bên tả hữu của băng ghế. Tên thứ tư đứng sau lưng ông, kiếm tuốt sẵn cầm tay.
Gã râu xồm dùng ngón tay trỏ lướt qua mũi kiếm và nghiêm trang nói, “Ta và các huynh đệ đây không có thù oán gì với hai ngươi cả. Chúng ta được trả ngân lượng để giết các ngươi, vì đó là cách mưu sinh duy nhất.”
Địch huyện lệnh biết đến đây là mình cầm chắc cái chết. Bọn giang hồ mạt hạng này rất tin vào quỷ thần, chúng luôn nói những lời này trước khi ra tay, chỉ để về sau oan hồn nạn nhân không đeo bám và đem vận xấu đến cho chúng.
“Bọn ta hiểu điều đó,” Hồ Lô tiên sinh điềm tĩnh đáp.
Rồi ông ta nâng một chiếc nạng lên và run rẩy chỉ vào gã cầm đầu. “Điều ta không hiểu là tại sao người ta lại chọn một con xú vật như ngươi để làm việc này!”
“Lão phế nhân kia, ta sẽ cắt lưỡi ngươi!” Gã râu xồm giận dữ quát.
Gã bước đến trước mặt Hồ Lô tiên sinh. “Trước hết, ta sẽ…”
Đúng lúc đó, chiếc nạng bỗng ngừng run và phóng ra, đâm sâu vào mắt trái của gã râu xồm. Gã rú lên đau đớn và buông rơi thanh kiếm. Địch huyện lệnh nhoài người xuống và chụp được thanh kiếm, kiếm của kẻ đứng sau lướt qua vai ông. Địch huyện lệnh đứng thẳng người trong tích tắc. Ông xoay mình và đâm thẳng lưỡi kiếm vào ngực tên đang định đâm Hồ Lô tiên sinh từ phía sau. Rút kiếm ra khỏi xác kẻ đang gục xuống, ông thấy gã râu xồm vừa chửi rủa vừa nhào vào lão nhân. Ông chỉ kịp thấy chiếc nạng của Hồ Lô tiên sinh phóng ra nhanh như chớp và đâm trúng mạng sườn gã đầu đảng to lớn, cùng lúc ông nhảy lùi lại và gạt nhát chém của tên cầm kiếm thứ hai vừa nhằm vào đầu mình. Chỉ còn lại một tên cầm kích. Hắn định phóng kích vào Địch huyện lệnh, nhưng đạo nhân đã dùng đầu cong của nạng mà móc cổ chân hắn rồi xoáy mạnh. Hắn ngã sấp xuống sàn, đánh rơi cả kích, lão nhân liền khéo léo dùng nạng kéo chiếc kích về phía mình. Gã râu xồm ôm bụng lăn lộn trên sàn và kêu như bị nghẹn cổ.
Địch huyện lệnh nhận ra kẻ thù là một kiếm khách lão luyện. Ông phải dùng hết khả năng để chống trả những đường kiếm liều lĩnh. Thanh kiếm ông lượm được thiếu đi sự cân bằng so với thanh Long Vũ trứ danh. Nhưng ngay khi quen với thanh kiếm này, ông dồn được đối phương vào một vị trí mà từ đó ông có thể để mắt đến hai tên giang hồ còn lại. Tuy nhiên, một lát sau, ông phải tập trung vào đấu thủ duy nhất, vì kẻ địch đang tung ra một loạt đòn “dương Đông kích Tây” khôn ngoan, kèm theo những nhát truy kiếm rất bạo liệt.
Khi đã lấy lại lợi thế, Địch huyện lệnh liếc nhanh sang Hồ Lô tiên sinh. Đạo nhân vẫn ngồi nguyên trên ghế, nhưng tay đã cầm một thanh kiếm, đang chống đỡ đòn tấn công của kẻ địch bằng thứ kiếm pháp kỳ dị. Tên đại hán râu xồm loạng choạng đứng dậy, cố dựa vào vách để đứng vững. Đối thủ của Địch huyện lệnh vội tận dụng khoảnh khắc sơ hở ấy. Hắn phá vỡ thế phòng vệ của ông bằng một đường kiếm dài nhằm thẳng vào ngực. Trước khi Địch huyện lệnh kịp tránh, mũi kiếm đã sượt qua cẳng tay ông. Đúng ra nhát kiếm ấy sẽ đâm trúng sườn ông, nhưng chiếc tráp cất trong áo đã cản lại và cứu ông thoát chết.
Địch huyện lệnh lùi lại và vung kiếm ra. Sau một loạt chiêu lưỡng kiếm phức tạp kết hợp giữa hư kiếm với truy kiếm, ông đã lấy lại được thế thượng phong. Nhưng máu đang nhỏ xuống từ vết thương trên tay, lại thêm lâu ngày thiếu luyện tập khiến ông cảm thấy hụt hơi. Lúc này, ông cần kết liễu kẻ địch càng sớm càng tốt.
Nhanh như chớp, Địch huyện lệnh chuyển thanh kiếm từ tay phải sang tay trái. Giống như mọi kiếm khách thượng thừa, ông dùng kiếm thuận cả hai tay. Đối thủ của ông lập tức bối rối vì góc tấn công mới. Hắn mất thế phòng vệ và bị Địch huyện lệnh đâm trúng cổ họng. Tên này vừa ngã ngửa ra sau, ông liền nhào tới trợ giúp Hồ Lô tiên sinh. Tiếng thét của ông làm tên kia phải quay lại thủ thế. Nhưng bỗng Địch huyện lệnh đứng sững lại. Ông gần như chết lặng, chăm chăm nhìn cảnh tượng đáng kinh ngạc trước mắt.
Tên cầm kiếm hung hăng nhảy vào vị đạo nhân đang ngồi, muốn áp đảo ông ta bằng những đòn kiếm gió. Nhưng Hồ Lô tiên sinh tựa người vào cây cột phía sau, giữ tư thế thư nhàn và thong thả mà gạt đỡ chuẩn xác được mọi đường kiếm. Dù đối phương có nhằm vào đầu hay vào chân, lưỡi kiếm của đạo nhân luôn che đỡ kịp thời. Bất ngờ, ông ta hạ thấp kiếm, nắm chuôi kiếm bằng cả hai tay. Đúng lúc kẻ địch lao vào, lão nhân lại vung kiếm lên, chuôi kiếm tì vào phần ghế giữa hai đầu gối. Tên ác nhân không kịp phòng bị. Hắn vừa nhào xuống đã bị lưỡi kiếm của đạo nhân đâm sâu vào ngực.
Địch huyện lệnh quay lại. Gã râu xồm đang nhắm tới ông, con mắt lành lộ rõ vẻ điên loạn. Gã nhặt ngọn kích lên và vận hết sức bình sinh nhằm đầu ông mà đâm tới. Ông cúi rạp người và đâm thẳng kiếm vào ngực gã.
Gã đầu đảng râu xồm ngã gục, Địch huyện lệnh liền cúi xuống quát, “Là kẻ nào đã sai các ngươi đến?”
Gã to lớn nhìn lên Địch huyện lệnh, con mắt lành đã đảo tròng, đôi môi dày lắp bắp.
“Ho… ắc…” Gã vừa mở miệng, máu từ trong mồm đã ộc ra. Thân hình to lớn co giật một cái rồi nằm yên không cục cựa.
ẳ
Địch huyện lệnh đứng thẳng người lên. Sau khi lau sạch máu trên mặt, ông quay sang Hồ Lô tiên sinh và hổn hển nói, “Xin đa tạ! Nhờ có tiên sinh sáng suốt ra tay trước tiên mà gã cầm đầu đã bị hạ gục. Tiên sinh đã cứu cả hai ta!”
Lão nhân ném thanh kiếm vào một góc. “Lão hủ ghét binh khí.”
“Nhưng tiên sinh sử dụng binh khí thật tài tình! Tiên sinh đỡ kiếm của địch thủ mới chính xác làm sao, dường như mọi mũi kiếm của tiên sinh đều được liên kết bằng một sợi dây vô hình!”
“Lão hủ đã nói với ngài rồi, lão hủ là hư không,” đạo nhân gắt gỏng. “Khi lão hủ trống rỗng, tự khắc bản thể thật của kẻ địch sẽ lấp đầy lão hủ. Lão hủ biến thành hắn, nên lão hủ có thể dùng kiếm giống như hắn. Đấu kiếm với lão hủ giống như đấu kiếm với chính mình, chỉ tổ tốn công vô ích. Mau đến đây, cánh tay ngài đang chảy máu. Thật đáng buồn khi thấy một đại phu bị thương.”
Đạo nhân xé một mảnh vải từ áo gã đầu đảng đã chết. Sau khi băng bó cho cánh tay của Địch huyện lệnh một cách thành thạo, ông ta nói, “Tốt hơn là chúng ta nên ra ngoài quan sát, đại phu à. Hãy xem hai ta đang ở đâu và mấy vị bằng hữu đáng thương kia có chờ ai đến nữa không!”
Địch huyện lệnh bèn ra ngoài, kiếm vẫn cầm trên tay.
Con lừa đang nhẩn nha gặm cỏ trên trảng đất trống lạnh lẽo dưới ánh trăng bàng bạc. Không có kẻ nào xuất hiện. Lúc đi xem xét căn nhà đối diện, ông thấy có những nhà kho khác phía đằng sau. Vòng qua góc nhà kho cuối cùng trong dãy đó, ông nhìn thấy trước mặt mình là con sông. Hai người đang ở góc phía đông của bến sông. Ông giắt kiếm sau lưng rồi quay trở lại.
Đang định bước vào trong, ông để ý thấy dòng chữ trên cánh cửa, “Nhà kho của phường tơ lụa Lang đại gia”.
Địch huyện lệnh trầm ngâm vuốt bộ râu dài.
Người ông quen trong nhà tắm cũng sở hữu một hiệu buôn tơ lụa ở trấn Thanh Xuyên. Vì “Lang” không phải một họ phổ biến, nên nhà kho này chắc chắn thuộc về gã nhà giàu tọc mạch đó. Hồ Lô tiên sinh tập tễnh chống nạng ra ngoài.
“Hai ta đang ở đoạn cuối của bến sông,” Địch huyện lệnh bảo. “Toàn bộ nơi này đã bị bỏ hoang.”
“Đại phu, chúng ta quay về nào. Lão hủ đã mệt rồi.”
“Xin tiên sinh hãy qua chỗ người thợ rèn ở góc chợ cá, nhờ ông ta cử người đưa ngựa của tại hạ về. Tại hạ sẽ đi xem xét những kẻ kia một lần nữa, rồi trình báo chuyện này cho quan quân.”
“Được. Nếu có ai muốn lão hủ làm chứng, họ sẽ biết phải tìm lão hủ ở đâu.”
Đạo nhân trèo lên lưng lừa và bỏ đi.
Địch huyện lệnh vào trong. Mùi máu tươi và cảnh tượng bốn xác chết khiến ông buồn nôn. Trước khi khám xét chúng, ông nhìn sang những kiện hàng trong góc. Ông dùng mũi kiếm rạch một kiện ra và thấy trong đó chứa những cuộn tơ. Rồi ông chú ý đến các vết sẫm màu trên băng ghế mà mình và Hồ Lô tiên sinh đã ngồi. Những vết đen này rất giống vết máu, trông hãy còn mới. Dưới ghế, ông thấy có vài sợi thừng mỏng dính đầy máu khô. Rồi ông quay sang những tử thi và lục soát y phục của chúng. Không kẻ nào mang theo thứ gì khác ngoài một ít tiền xu. Địch huyện lệnh lấy cây nến từ hốc tường và quan sát kỹ khuôn mặt chúng. Bọn người này trông giống đám côn đồ nơi phố thị hơn là đám cướp đường. Những sát thủ chuyên nghiệp, mẫn cán và có thể được trả công rất hậu. Nhưng kẻ nào trả tiền chúng?
Đặt cây nến lại chỗ cũ, Địch huyện lệnh nhớ ra mảnh giấy mà Tam Công chúa đã trao cho mình. Ông đưa hai ngón tay lần tìm mảnh giấy ấy trong cổ áo. Mở mảnh giấy ra dưới ánh nến, ông thở dốc. Phần trên cùng của văn thư này có dấu triện son của riêng Hoàng thượng. Bên dưới được viết theo lối Khải thư, cho biết người đem văn thư này tạm thời được bổ nhiệm
chức Khâm sai, được ban cho toàn quyền hành pháp. Ngày tháng và tên của ông được viết thêm bằng thư pháp thanh tao của một nữ nhân. Bên dưới cùng là dấu triện của Đại lý tự khanh, ở một góc văn thư có dấu triện riêng của Tam Công chúa.
Ông cẩn thận gập mảnh giấy lại và cất vào trong áo. Hoàng thượng đã giao phó cho ái nữ một thông lệnh quan trọng như vậy, đây là minh chứng hùng hồn cho tình cảm và sự tin tưởng vô bờ của Bệ hạ. Điều này cũng thể hiện
rằng chuyện còn có nhiều uẩn khúc hơn một vụ trộm báu vật trong cung. Ông bước ra ngoài, ngồi xuống một gốc cây và bắt đầu suy xét mọi việc.
HỒI 8
Trâu Hiệu úy kể chuyện cung cấm
Ngụy chưởng quỹ than thở nỗi nhục
Tiếng ngựa hí làm Địch huyện lệnh bừng tỉnh khỏi cơn mơ màng. Viên mã phu nhảy xuống, Địch huyện lệnh đưa cho anh ta chút tiền công. Rồi ông nhảy lên yên và phi ngựa thẳng đến bến sông.
Ở chợ cá, ông thấy nhiều người đang tụ tập quanh những quầy hàng rong. Lúc đi ngang qua họ, ông nghe được đôi điều về một vụ cháy ở đâu đó.
Bên ngoài tổng quân doanh của Cấm quân, có rất nhiều kị binh đã tập hợp lại, tay mang theo những chiếc đèn lồng chống bão ám đầy bụi than. Địch huyện lệnh trao ngựa cho một lính canh và bảo anh ta cho mình gặp Liễu Binh tào. Một vệ binh đưa ông lên thư phòng của Trâu Hiệu úy theo lối cầu thang chính. Viên Hiệu úy đang ngồi bên án thư trò chuyện với vị Binh tào lực lưỡng kia.
Vừa trông thấy Địch huyện lệnh, y đứng bật dậy và hồ hởi nói, “Đại nhân, ngài lại hạ cố qua thăm ti chức! Đêm nay ở đây thật náo loạn. Mái của kho lương trong trấn đã bắt lửa mà không ai biết nguyên do. Người của ti chức đã nhanh chóng đến dập lửa rồi. Mời đại nhân ngồi! Liễu đệ có thể lui
được rồi.”
Địch huyện lệnh ngồi phịch xuống ghế.
“Địch mỗ muốn biết thêm về thân thế một vị khách ở khách điếm Thúy Điểu,” ông nói. “Đó là thương gia Lang Lưu.”
“Vậy là đại nhân đã bắt đầu vào việc ngay rồi! Ti chức rất sẵn lòng! Đúng rồi, họ Lang kia cũng là một người trong chốn giang hồ mà ti chức phải lo nghĩ. Gã đứng đầu một đám bảo kê kỹ viện và sòng bạc ở vùng phía nam trấn. Chúng là một bang hội bí mật, lấy tên là Thanh Y bang. Lang Lưu cũng là chủ một phường buôn tơ lụa ở phương nam, nhưng chỉ để gã có
một diện mạo đàng hoàng. Theo nguyên tắc, gã vẫn tuân theo vương pháp và đóng thuế rất đúng hạn. Đến gần đây, gã mới xung đột nhiều với một bang hội đối địch là Hồng Y bang, đám này nắm giữ những kỹ viện và sòng bạc ở huyện bên.”
Y gãi sống mũi. “Ti chức nghe nói Lang Lưu đã đi gặp đại diện của Hồng Y bang tại trấn Thanh Xuyên từ mười ngày trước, hai bên đã đồng ý ngưng chiến. Chắc chắn họ Lang đã quyết định ở lại đây một thời gian, để quan sát tình hình hòa hoãn từ một khoảng cách an toàn! Thật lạ là đại nhân đã sớm chạm mặt gã!”
“Đúng hơn là gã tìm đến Địch mỗ.”
Địch huyện lệnh kể lại cho Trâu Lập Uy về cuộc gặp gỡ với Lang Lưu trong phòng tắm. Trong lúc thuật lại vụ tấn công trong rừng, ông chỉ bảo mình đi vãn cảnh và gặp Hồ Lô tiên sinh.
“Đó là một vụ mật phục được tính toán kỹ lưỡng,” ông kết luận. “Ngọn lửa ở kho lương chắc chắn là để câu dụ người của Hiệu úy tập trung hết về một phía của trấn.”
“Trời đất! Đám giang hồ này! Ngàn lần tạ lỗi đại nhân vì chuyện đã xảy ra ngay trong địa hạt của ti chức. Không thể chấp nhận những việc như vậy!”
“Địch mỗ cũng không chấp nhận,” Địch huyện lệnh đáp ráo hoảnh. “Ban đầu, dường như cả hai đã bị bọn chúng khống chế nhưng chính Hồ Lô tiên sinh đã cứu vãn tình thế. Thật là một nhân vật kiệt xuất. Các hạ có biết gì về lai lịch của vị đạo nhân ấy không?”
“Cũng không nhiều, thưa đại nhân. Có thể nói ông ta là người của trấn Thanh Xuyên. Bách tính đều quen biết Hồ Lô tiên sinh, nhưng không ai biết rõ xuất thân của ông ta. Thiên hạ kháo nhau rằng thời trai trẻ, ông ta là một lục lâm hảo hán, một kẻ giang hồ hiệp nghĩa chuyên lấy của kẻ giàu để cứu giúp người nghèo. Một lần, ông ta gặp một đạo sĩ sống ẩn dật trong núi và muốn trở thành đệ tử của người này. Khi bị khước từ, ông ta đã ngồi xếp bằng dưới một gốc cây phía trước thảo am của đạo sĩ trong nhiều
ngày, thành ra chân bị tật. Vị ẩn sĩ kia cảm động mà truyền thụ cho ông ta mọi bí mật của sinh tử.”
Trâu Lập Uy dừng lại, trầm ngâm xoa cằm. “Đúng rồi, bốn kẻ tấn công hai vị chắc chắn là đám tay sai từ phương nam của Lang Lưu. Người vùng này không bao giờ dám hành hung Hồ Lô tiên sinh, vì họ vô cùng kính phục trí tuệ của ông ta. Hơn nữa, dân chúng tin là ông ta có thuật đoạt hồn, có thể
cướp linh hồn của người khác rồi nhốt vào hồ lô. Nhưng sao bọn chúng lại biết đại nhân sẽ đi vãn cảnh?”
“Trước khi trả lời câu đó, Địch mỗ muốn hỏi thẳng một điều. Khi chúng ta ngồi trò chuyện chiều nay, ta thấy rõ là bên cạnh mối lo về Lang Lưu và những vị khách không mời khác, các hạ còn giữ trong lòng những vấn đề nghiêm trọng hơn. Vì các hạ mà ta bị dính líu vào một vụ việc mà bản thân hầu như không biết gì. Địch mỗ cần một lời giải thích trọn vẹn ngay tức khắc.”
Viên Hiệu úy đứng bật dậy và đi đi lại lại trong phòng, hơi thở lộ vẻ lo lắng, “Xin đại nhân thứ lỗi! Đương nhiên là ngài đã đúng. Ti chức sẽ kể hết mọi chuyện ngay bây giờ. Thật sai lầm khi che giấu…”
“Xin các hạ hãy nói luôn đi! Đã khuya rồi, Địch mỗ cảm thấy mệt!”
“Vâng, thưa đại nhân. Khang Tướng quân là bằng hữu của ti chức, đại nhân cũng đã biết. Phải nói là hảo bằng hữu. Bọn ti chức là đồng hương, luôn qua lại thân mật. Chính Khang huynh đã chuyển ti chức từ kinh thành về đây, vì muốn có một người kế cận mà mình có thể tin tưởng. Huynh ấy là một bậc nam nhi đại trượng phu, xuất thân từ một gia tộc quan võ lâu đời. Một chiến binh uy dũng nhưng kim tài nghèo nàn, lại không có người thân thích trong triều. Thêm nữa, tính tình Khang huynh có chút lập dị, thích sống tách biệt. Đại nhân có thể hình dung, khi huynh ấy được thăng chức làm Tướng quân chỉ huy trong cung Bích Thủy, nhiều kẻ đã khó chịu ra mặt. Bọn họ thích những kẻ biết nịnh nọt quà cáp hơn. Thế là Khang huynh gặp đủ mọi gian truân, nhưng lúc nào huynh ấy cũng vượt qua được.
“Tuy vậy, gần đây Khang huynh tỏ ra vô cùng phiền muộn. Ti chức có gặng hỏi, nhưng vị bằng hữu ngang bướng này chỉ nói cung Bích Thủy đang xảy
ra chuyện. Mới hôm qua, Khang huynh còn phải tiến hành tra xét gì đó, một việc mà huynh ấy thổ lộ là rất khó giải quyết, bản thân đang không biết phải làm sao. Đáng ra huynh ấy không được phép nói với ti chức nửa lời, nhưng đó là tình huống một mất một còn! Đại nhân có thể hình dung…”
“Tất cả đều rất đáng quan tâm, nhưng các hạ mau đi vào trọng tâm đi!”
“Vâng, thưa đại nhân. Khi nhận ra đại nhân ở bến sông, ti chức nghĩ sự hiện diện của ngài quả là ý trời. Đại nhân cũng đã biết ti chức vô cùng cảm phục ngài… Đại nhân có thể giúp ti chức nắm vững đám gian thương ở trấn này. Ngoài ra, nếu ti chức bố trí cho ngài gặp gỡ Khang Tướng quân, có thể huynh ấy sẽ sẵn lòng tiết lộ nhiều điều về cuộc điều tra với ngài. Và đại nhân, vốn có nhiều thành tích tra án lẫy lừng, sẽ có thể…”
Địch huyện lệnh khoát tay.
“Chính xác là khi nào các hạ nói với bằng hữu là Địch mỗ đang ở đây?”
“Đại nhân hỏi khi nào ư? Ti chức mới gặp đại nhân chiều nay! Ti chức chỉ được gặp Khang huynh vào buổi sáng, lúc ti chức vào cung Bích Thủy trình tấu mỗi ngày. Ti chức định kể về đại nhân với huynh ấy ngay sáng ngày mai!”
“Địch mỗ hiểu rồi.” Ông ngả người ra ghế và chậm rãi vuốt hàng tóc mai.
Một lát sau, ông cất lời, “Địch mỗ muốn các hạ không được nói nửa lời về ta với bằng hữu. Một lúc nào đó, ta sẽ tự mình đến gặp người đó, nhưng không phải lúc này. Các hạ có thể nhờ Khang Tướng quân bố trí cho ta đến cung Bích Thủy trước khi ta rời trấn. Nhân tiện, các hạ có biết Tam Công chúa nổi danh sống ở khu nào trong cung?”
“Bẩm đại nhân, Công chúa ở khu đông bắc của cung. Đó là nơi ít người qua lại nhất và cũng được canh phòng cẩn mật nhất. Để đến đó, ngài phải đi qua tư thất và phủ đường của Đại tổng quản. Ti chức nghe nói Lôi công công là một người xuất chúng. Đại nhân cũng hiểu rõ, phàm là kẻ sống
trong điện tía, không thể có đầu óc tầm thường. Nơi ấy đầy rẫy những mưu mô.”
“Địch mỗ nghe nói Tam Công chúa là một nữ nhân tài năng và thông minh trác tuyệt. Sao nàng không chấm dứt tất những cuộc ám đấu này?”
“Chắc chắn Công chúa sẽ làm vậy, nếu nàng biết chuyện gì đang diễn ra! Đại nhân, đối với một Công chúa mà nói, việc khó nhất trần đời là biết được chuyện gì đang diễn ra giữa hàng trăm con người trong cung cấm. Nàng bị bủa vây mọi phía bởi những nữ quan, cung nữ và thị tỳ, tất cả bọn họ đều bóp méo các sự vụ đi chút xíu để lấy lòng nàng, ơn trời, nhiệm vụ của ti chức nằm ngoài những bức tường ấy!”
Y lắc đầu rồi mau mắn hỏi, “Đại nhân muốn ti chức xử lý Lang Lưu thế nào? Còn bốn cái xác trong nhà kho nữa?”
“Các hạ chưa cần động vào Lang Lưu. Đến thời điểm thuận lợi, Địch mỗ sẽ đích thân đối mặt với gã. Ta muốn nhờ mấy người thân tín của các hạ chuyển mấy thi thể kia đến nhà xác của tổng quân doanh. Các hạ cứ nói đó là xác đám đạo tặc bị lính tuần hạ sát khi chúng tấn công một khách bộ hành. Đúng rồi, lại nói đến đám giặc cướp, ta có chút tin tức thú vị về vụ sát hại viên thủ quỹ. Thanh niên đó si mê thê tử của chủ khách điếm. Có khả năng là bà ấy đã đến làng Thập Lý ở phía bên kia dãy núi, nơi mà Đới Ninh đánh dấu trên địa đồ. Có vẻ họ Đới sẽ đến đó gặp vị phu nhân kia. Nhưng anh ta đã bị cướp chặn và sát hại trên đường.”
“Thật đáng lưu tâm,” viên Hiệu úy chậm rãi nói. “Nếu Ngụy phu nhân là kiểu nữ nhân lẳng lơ, có thể bà ấy còn có tình nhân khác. Ghen tuông thường là động cơ thúc đẩy ác tâm giết người. Chà, cũng thật tình cờ là hai bộ hạ của ti chức sẽ lên đường đến đó ngay tối nay. Ti chức sẽ lệnh cho họ hỏi thăm về Ngụy phu nhân. Có thể bà ấy đang ở làng Thập Lý cùng với kẻ giết Đới Ninh cũng nên! Xin đa tạ đại nhân!”
Thấy Địch huyện lệnh đứng dậy, họ Trâu nói thêm, “Chuyện đại nhân bị tấn công làm ti chức thấy bất ngờ. Đại nhân có muốn ti chức cử vài vệ binh đóng giả thường dân đi theo bảo vệ ngài không?”
“Không cần đâu, xin đa tạ các hạ, họ sẽ chỉ cản đường Địch mỗ mà thôi. Xin cáo từ Trâu Hiệu úy. Ta sẽ báo cho các hạ khi có bất cứ tin tức gì.”
Viên Hiệu úy chưng hửng. Y đích thân tiễn khách xuống.
Đã sắp nửa đêm, con phố chính vắng hoe. Địch huyện lệnh buộc ngựa vào cây cột trước cổng khách điếm Thúy Điểu rồi bước vào. Trong sảnh đường không còn lại ai, nhưng ông trông thấy Ngụy Thành phía sau bức bình phong. Lão đang khom lưng bên chiếc rương bọc da trên sàn. Ông đi vòng qua quầy và gõ nhẹ lên bức bình phong.
Lão chưởng quỹ đứng thẳng người và quay lại. “Đại phu cần gì sao?” Lão cất giọng nhàn nhạt.
“Ông hãy bảo một mã phu đưa ngựa của ta về chuồng. Sau khi đi thăm bệnh nhân, ta cưỡi ngựa qua rừng và bị lạc.”
Ngụy Thành lẩm bẩm gì đó về giờ giấc muộn mằn và lê bước về phía cửa sau. Địch huyện lệnh bỗng thấy cả người mệt mỏi rã rời. Ông ngồi xuống ghế và duỗi thẳng đôi chân đã mỏi cứng. Hướng đôi mắt mờ nhòa lên một họa tiết rối rắm trên bức bình phong, ông nhớ lại những sự kiện ghê gớm
tối nay.
Ban đầu, ông cho rằng chuyện mình được triệu đến cung Bích Thủy là do Trâu Hiệu úy sắp xếp. Nhưng y vẫn chưa gặp bằng hữu và không hề biết về vụ trộm ngọc xuyến. Chắc chắn có kẻ nào đó ở trấn Thanh Xuyên đã nhận ra Địch huyện lệnh và biết về danh tính giả của ông nhờ dò hỏi ở khách điếm Thúy Điểu. Kẻ giấu mặt kia hẳn đã đến gặp thẳng Tam Công chúa, ông mới đến trấn một canh giờ rưỡi thì được Vương phu nhân mời. Thật khó hiểu. Ông nghe tiếng đàn nguyệt ngân lên đâu đó bên ngoài sảnh đường. Rõ ràng người đánh đàn thức muộn.
Địch huyện lệnh nhìn xuống chiếc rương đựng y phục trên sàn. Trong đó chỉ toàn những vật phẩm của nữ nhi. Nhiều xống áo được vắt qua lưng ghế của lão chưởng quỹ. Trên cùng là một bộ xiêm y có đôi ống tay dài, may bằng gấm đỏ với các bông hoa bắt mắt thêu bằng chỉ vàng óng.
Ngụy Thành quay lại và thông báo rằng mã phu sẽ chăm sóc ngựa cho ông. “Ngụy chưởng quỹ, xin thứ lỗi vì đã làm phiền ông lúc nửa đêm.”
Địch huyện lệnh còn chưa muốn đứng dậy, ông hỏi đại một câu, “Ta trông thấy một gian nhà lớn đối diện chuồng ngựa. Đó có phải nhà kho không?”
Lão Ngụy liếc nhanh qua ông, đôi mắt xảo quyệt ánh lên những tia hằn học.
“Ở đó chỉ chứa những thứ vô giá trị, đại phu à! Toàn là gỗ xẻ từ đồ dùng đã hỏng. Ta đang phải xoay xở cực nhọc để kiếm đủ ngân lượng sinh sống! Nếu ngài biết những phí tổn của ta…”
Lão cầm lấy bộ đồ trên ghế, ném nó vào rương, rồi ngồi xuống. “Những ngày này, ta bận rộn đến nỗi không có thời gian sắp xếp đồ đạc của hiền thê!”
Rồi lão lẩm bẩm như đang nói với chính mình, “Hi vọng chủ hiệu cầm đồ sẽ trả hậu hĩnh! Ta đã luôn để nàng sống trong nhung lụa!”
“Ta rất buồn khi biết những chuyện không may trong nhà ông, Ngụy chưởng quỹ. Ông không biết kẻ nào đã cám dỗ phu nhân sao?”
“Không biết đó có phải tên lưu manh cao lớn thỉnh thoảng vẫn đến xin được giữ chân gác cửa không nữa! Hắn sống ở phố bên.”
“Ông có thể đưa đơn kiện hắn mà.”
“Kiện hắn ư? Không, xin đa tạ đại phu! Hắn có đám tay chân trong chốn lục lâm. Ta không muốn bị cắt cổ trong lúc ngủ! Ta chỉ muốn tống khứ mấy món đồ phiền phức này đi, có thế thôi, đại phu à.”
Địch huyện lệnh đứng dậy và cáo từ.
Trên lầu vô cùng tĩnh lặng. Lúc bước vào phòng, ông nhận ra người hầu đã đóng cửa sổ từ lúc sẩm tối nên bây giờ trong phòng nóng và ngột ngạt. Địch huyện lệnh định ra mở cửa sổ rồi lại đổi ý. Chẳng khác nào mời gọi bọn sát thủ ghé thăm lúc đêm hôm. Sau khi chèn chặt cánh cửa bằng một
thanh gỗ cứng, ông cởi bỏ y phục để xem xét vết thương trên tay, vết rách dài nhưng không sâu. Ông lấy nước trà nóng trong bình rửa sạch vết thương rồi thay lớp băng mới, sau đó thả mình trên chiếc giường hẹp, những mong có một giấc ngủ yên bình. Nhưng không khí trong phòng rất ngột ngạt, người ông nhanh chóng ướt sũng mồ hôi. Khuôn mặt sứt sẹo của gã râu xồm lại hiện ra trong tâm trí Địch huyện lệnh, rồi ông thấy rõ từng đường nét kinh khủng của những tử thi khác, ông ngẫm nghĩ về việc Hồ Lô tiên sinh, một lão nhân có tật ở chân, đã thể hiện khả năng và cách xử lý phi thường lúc giao đấu. Thật lạ lùng… lúc ở gian nhà kho, ông đã thấy khuôn mặt của ông ta dường như có phần quen thuộc. Phải chăng trước đây ông từng gặp đạo nhân ấy ở đâu đó? Mải ngẫm nghĩ, ông ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
HỒI 9
Thiếu nữ chèo thuyền trên bến nước
Địch Công buông cần bắt cá to
Địch huyện lệnh dậy sớm sau giấc ngủ chập chờn. Ông ngồi dậy và ra mở cánh cửa sổ. Bầu trời trong xanh hứa hẹn một ngày nắng đẹp. Sau khi rửa mặt và chải bộ râu, ông chắp tay sau lưng và bắt đầu đi lại trong phòng. Rồi ông chợt nhận ra mình đang mất thời gian chờ đợi Tử Tây cô nương đem trà sáng đến. Trong lòng khó chịu, ông quyết định sẽ ăn điểm tâm ở khách điếm Cửu Tiêu bên kia đường. Tốt hơn hết là ông nên đi thu thập thông tin chung chung về trấn Thanh Xuyên và tìm ra cách quan sát cung Bích Thủy hiệu quả nhất.
Dưới sảnh đường khách điếm, cậu tiểu nhị trẻ tuổi đứng ngáp vặt phía sau quầy. Ông chiếu lệ đáp lại lời chào của y rồi sang bên kia phố.
Không giống khách điếm Thúy Điểu, khách điếm Cửu Tiêu có quán ăn riêng nằm phía sau sảnh chính. Sáng sớm, mới chỉ có năm, sáu thực khách ngồi thưa thớt quanh mấy cái bàn ăn, ăn vội bữa điểm tâm. Một nam nhân thấp và béo tròn đứng bên quầy tính tiền, đang mắng mỏ một tiểu nhị cáu kỉnh. Gã dừng lại, giương cặp mắt ti hí nhìn chằm chằm Địch huyện lệnh rồi lạch bạch đến chào ông.
“Thật vinh hạnh cho bản quán khi được đón tiếp vị danh y từ kinh thành đến! Mời đại phu ngồi trong góc này, rất yên tĩnh và thoải mái! Ngài sẽ thấy đồ ăn ở quán ngon hơn bất cứ món nào mà khách điếm Thúy Điểu có thể phục vụ. Ngài có muốn gọi một suất cơm rang với thịt lợn và hành lá, cùng món cá hương rán giòn, cá tươi đánh thẳng từ sông?”
Địch huyện lệnh muốn một bữa điểm tâm thanh đạm hơn, nhưng cũng đáng để lấy lòng gã chưởng quỹ ba hoa này nhằm moi một vài câu chuyện sau đó. Ông gật đầu, gã béo liền gọi tiểu nhị đem đồ lên.
“Phòng nghỉ bên khách điếm Thúy Điểu khá thoải mái,” ông nhận xét, “nhưng ta không muốn làm phiền gia nhân bên ấy, vì chuyện viên thủ quỹ bị sát hại man rợ đã làm đảo lộn mọi hoạt động.”
“Đúng đó, thưa đại phu. Đới Ninh là một thủ quỹ giỏi việc, một thanh niên khoan hòa và mộc mạc. Nhưng Ngụy phu nhân mới là người điều hành khách điếm đó. Một nữ nhân xinh đẹp lại có tài, nhưng chỉ do cách lão phu quân hà tiện cư xử với bà ấy! Ngài biết không, lão soi mói từng hào từng xu mà thê tử chi tiêu! Mỗi lần phu nhân đến đây, ta luôn mời bà ấy hai chiếc bánh bao nhồi đậu xanh, món đặc sản của quán. Bà ấy rất thích món đó. Vào cái đêm mà Ngụy phu nhân bỏ đi, ta đã biếu bà ấy ba hoặc bốn chiếc bánh. Ta không tán thành chuyện một nữ nhân đã lập gia thất làm những việc không nên, không hề. Nhưng chính Ngụy Thành đã đẩy thê tử đến nước đó, đó là sự thật!”
Gã ra hiệu cho tiểu nhị rồi tiếp lời, “Ngụy phu nhân luôn nghĩ đến việc làm ăn trước tiên. Bà ấy không muốn bỏ đi trước khi giải thích cho cô cháu gái cách trông nom khách điếm. Nếu ngài chưa biết thì đó chính là cô nương trẻ tuổi, dễ coi nhưng có phần kiêu căng ở bên đó. Có thể gọi phu nhân là một bà nội tướng tận tâm. Ước gì ta cũng có thể nói tương tự về tiện nội…”
Tiểu nhị đem lên một lồng hấp xếp đầy bánh bao.
“Mời đại phu!” Gã chưởng quỹ đon đả. “Ngài muốn ăn bao nhiêu tùy thích, bánh này không tính tiền!”
Địch huyện lệnh nếm thử nhưng thấy bánh quá ngọt so với khẩu vị của mình.
“Ngon lắm!” Ông khen đãi bôi.
“Số bánh này là mời đại phu!” Gã béo vươn người qua bàn rồi tự tin bộc bạch, “Đại phu, giờ ta có chút chuyện cần đến ngài. Ta muốn hỏi về một chứng bệnh. Bất cứ khi nào ta dùng bữa, sau tầm hai khắc, đều có một cơn đau âm ỉ ở sườn trái. Rồi ta thấy nóng, ở ngay trên ổ bụng, và còn thấy chua, ở sâu trong…”
“Ta lấy một đĩnh bạc mỗi lần khám bệnh,” Địch huyện lệnh thản nhiên ra giá. “Xin trả tiền trước.”
“Một đĩnh bạc! Nhưng đại phu đâu cần khám cho ta. Ta chỉ muốn biết kiến giải của ngài thôi. Ta còn bị chứng tiện bí. Lúc này ta…”
“Đến gặp đại phu của ông đi,” Địch huyện lệnh trả lời cộc lốc rồi cầm đũa lên. Gã béo tức tối nhìn ông rồi lạch bạch trở lại quầy, đem theo lồng đựng bánh.
Địch huyện lệnh khoan khoái thưởng thức bữa ăn. Ông phải thừa nhận món cá rán thực sự rất ngon. Khi rời khỏi khách điếm Cửu Tiêu, ông thấy Tử Tây đứng trước cổng khách điếm bên kia phố. Thiếu nữ mặc áo nâu và quần ống rộng, dải khăn đỏ quấn ngang eo, tóc buộc lên bằng mảnh vải đỏ.
Nàng ân cần chào Địch huyện lệnh và hỏi, “Thời tiết thật dễ chịu! Ngài có muốn ra sông không?”
“Để ta thay đồ đã.”
“Ồ, không cần đâu. Trên đường đi, chúng ta sẽ mua mũ rơm.”
Tử Tây đưa ông qua mấy ngõ hẻm chật chội, chẳng mấy chốc họ đến góc phía đông của bến sông. Địch huyện lệnh mua hai chiếc mũ rơm. Trong khi thiếu nữ buộc dải mũ xuống cằm, ông liếc nhanh qua dãy nhà kho. Hai phu dịch đang khiêng kiện hàng ra trảng đất trống. Một nam nhân gầy gò, đầu to và nhọn, đang đứng giám sát. Tử Tây bước xuống những bậc đá dẫn ra mép sông, chỉ vào một chiếc thuyền nhỏ có nước gỗ nâu bóng đậu giữa những thuyền bè lớn hơn. Nàng giữ yên thuyền cho ông bước xuống và ngồi ở phía mũi. Thiếu nữ cầm sào, khéo léo đẩy thuyền đi qua những thuyền bè khác, rồi buông sào và cầm lấy mái chèo dài.
Khi nàng chèo thuyền ra giữa dòng, Địch huyện lệnh liền lên tiếng, “Cô nương này, ta đang muốn tận mắt ngắm nhìn cung Bích Thủy nổi tiếng.”
“Dễ lắm! Hai ta sẽ chèo dọc bờ sông và đi ngang qua đó trước khi đến nơi câu cá. Ngài sẽ thấy, những địa điểm đẹp nhất đều nằm cả ở phía bên kia.”
Gió nhẹ thổi trên mặt sông tĩnh lặng, nhưng nắng sáng khiến khuôn mặt Địch huyện lệnh lấm tấm mồ hôi. Ông bỏ mũ vào ống tay áo và đội mũ rơm lên. Tử Tây đã cởi bỏ tấm áo ngoài. Một dải khăn hồng quấn chặt
quanh khuôn ngực đầy đặn của nàng. Tựa mình ra mũi thuyền, ông quan sát thiếu nữ đứng phía đuôi thuyền, chèo từng nhịp với vẻ khoan thai yêu kiều. Đôi bờ vai và hai cánh tay nàng đã rám nắng. Thoáng chút buồn bã, ông nghĩ rằng không gì thay thế được tuổi xuân xanh. Rồi ông chú ý đến
hai bên bờ sông. Những cụm thông cao vút mọc sát mép nước, vượt lên hẳn đám cây bụi lộn xộn. Ông trông thấy đâu đó các cửa sông và bãi đậu thuyền nhỏ hẹp.
“Ngài sẽ không bắt được gì hay ho ở đó đâu,” Tử Tây nói. “Chỉ có cua và cá nheo thôi. Thời điểm này trong năm thì chưa có lươn.”
Càng về ngược dòng, rừng càng rậm hơn. Trên những cành cây thấp nhô ra mặt nước bám đầy dây leo và rêu xanh. Một lúc sau, thiếu nữ chèo thuyền ra giữa dòng.
“Chúng ta không thể men theo bờ sông thêm chút nữa ư?” Địch huyện lệnh vội hỏi. “Hãy đến gần cung Bích Thủy hơn vì ta muốn ngắm nơi đó.”
“Để cả hai ta cùng bị giết ư? Ngài không thấy những phù tiêu* phù tiêu là phao báo hiệu các vùng nước.
phía trước sao? Trên bến sông có một tờ yết thị lớn bằng đầu người, ra lệnh cho mọi thuyền bè đều phải ở ngoài phạm vi những phù tiêu đó. Bờ sông phía bên kia cung Bích Thủy cũng có những yết thị tương tự. Nếu xâm phạm, cung thủ sau các lỗ châu mai sẽ lấy ngài làm bia tập bắn đấy. Ngài sẽ phải chiêm ngưỡng cung Bích Thủy từ một khoảng cách an toàn vậy.”
Đến gần phù tiêu, Tử Tây chèo thuyền vòng qua, tạo thành một vòng cung trên mặt nước. Rồi Địch huyện lệnh thấy ba tòa tháp canh nhiều lầu ở góc tây bắc trong khu vực của cung. Khu rừng đột ngột kết thúc ở một con lạch nhỏ, đó hiển nhiên là cửa con hào bao quanh cung Bích Thủy. Tường phía bắc nhô lên sừng sững trên mặt nước, tạo thành một góc hơi nhọn. Những
tháp canh chia tách các thành lũy đầy lỗ châu mai thành những khoảng đều nhau. Ánh nắng khiến mũ đầu mâu của các cung thủ trên kia sáng lấp lánh.
“Thật đồ sộ, phải không Lương đại phu?” Thiếu nữ từ đuôi thuyền nói lên.
“Khá đồ sộ. Hãy đi thêm chút nữa cho đến khi thuyền đến sát tháp canh phía đông bắc. Ta muốn quan sát tất cả!”
Một chiếc thuyền mành lớn chở hàng lướt ngang qua, các thuyền phu khỏa mái chèo dài theo nhịp một bài ca ảm đạm. Tử Tây hát cùng họ bằng chất giọng trẻ trung và trong trẻo, tay chèo của nàng cũng khỏa nhịp nhanh hơn. Địch huyện lệnh thấy thành quách quanh cung rất cao và nghiêm ngặt. Ông đếm được tám cổng vòm có rào sắt ngay trên mặt nước, rõ ràng chúng là những thủy môn để dẫn nước vào các con hào bên trong. Rồi ông trông thấy tòa tiểu đình ló ra từ sau tường thành ngay trên thủy môn cuối cùng. Đó là một kiểu tiểu đình hình thang có mái che, ba phía có cửa sổ, một cửa sổ lớn ở giữa và hai cái nhỏ hơn bên sườn. Địch huyện lệnh ước đoán tòa tiểu đình cách mặt nước khoảng sáu thước. Từ trên không thể trông thấy thuyền nhỏ đậu dưới đó. Nhưng làm sao một chiếc thuyền lọt vào gần mà không bị cung thủ trên các tháp canh bắt gặp?
“Ngài hi vọng trông thấy Công chúa xinh đẹp bên cửa sổ ư? Giờ ta sang bờ bên kia sông được chưa?”
Địch huyện lệnh gật đầu. Chèo thuyền ngược dòng thật rất nặng nhọc, hai vai của Tử Tây bóng lên dưới ánh nắng mỗi lúc một gắt. Bờ bắc, cây mọc thưa thớt hơn, đâu đó một túp lều tranh của ngư phủ hiện ra giữa những tán lá xanh. Đến gần bờ, thiếu nữ ném chiếc neo có gắn hai hòn đá xuống nước. Thuyền tròng trành một lát trước khi neo chạm đáy.
Nữ nhân mãn nguyện nói, “Đúng nơi chúng ta cần đến rồi. Hôm nọ, khi tiểu nữ đến đây cùng Đới huynh, cả hai đã bắt được một đôi cá vược. Ngài nhìn xem, trong chiếc bình kia là chân cua, loại mồi câu tốt nhất!”
“Đức Khổng Tử ngày xưa luôn câu cá bằng cần,” Địch huyện lệnh bình phẩm lúc chuẩn bị mồi câu. “Cho rằng loài cá xứng đáng có được cơ hội sống sót, ngài không bao giờ dùng lưới đánh bắt.”
“Tiểu nữ biết điển tích ấy. Khi còn sống, phụ thân thường hay cùng tiểu nữ đọc cổ văn. Ông là người đứng đầu ở trường làng. Vì mẫu thân qua đời khi tiểu nữ còn nhỏ, phụ thân luôn dành thời gian ở bên tiểu nữ. Không, lấy sợi dây câu khác đi! Ngài cần một sợi dây dài hơn để bắt cá vược.”
Buông dây câu xuống, nàng nói thêm, “Cha con tiểu nữ đã sống vô cùng hạnh phúc. Nhưng khi phụ thân qua đời, tiểu nữ phải chuyển đến khách điếm này vì Ngụy thúc là người thân gần nhất. Tiểu nữ không thể mang theo số sách ngày xưa từng đọc, tất cả đều thuộc về trường. Là một đại phu uyên thâm, chắc chắn ngài phải có một thư viện rất lớn?”
“Cũng khá lớn. Nhưng ta không có nhiều thời gian để đọc sách.”
“Tiểu nữ thích sống trong nhà một học sĩ. Đọc mọi loại sách về những chủ đề thú vị, vẽ tranh và viết thư pháp. Những việc ấy khiến tâm hồn ta thư thái, nếu ngài hiểu ý tiểu nữ. Ngài biết không, khi đại thẩm vẫn còn ở nhà, khách điếm Thúy Điểu không hề xuống cấp như vậy. Ngụy thúc không bao giờ cho thê tử may sắm nhiều y phục, nhưng đại thẩm được thừa hưởng mấy cuộn vải tốt, tiểu nữ đã giúp bà ấy may thêm xiêm y. Chiếc áo choàng đại thẩm yêu thích được làm từ gấm đào thêu hoa bằng chỉ vàng. Đại thẩm nghĩ chiếc áo đó rất hợp với mình, quả đúng thế thật!”
Địch huyện lệnh thả dây câu trên mặt nước lờ đục. Cầm vững cần câu, ông hỏi tiếp, “Phải rồi, nghe nói đại thẩm của cô nương là một nữ nhân xinh đẹp. Ta có thể hiểu được lý do một thanh niên đa cảm như Đới Ninh dành thứ tình cảm bồng bột cho phu nhân.”
“Phải nói rằng Đới huynh mê đắm đại thẩm đến điên cuồng! Tiểu nữ tin chắc huynh ấy bắt đầu đánh bạc chỉ để có ngân lượng mua quà cho bà ấy!”
“Chơi cờ bạc thì thua trắng nhanh hơn là kiếm được tiền,” Địch huyện lệnh lơ đãng nhận xét. Ông cảm thấy cá đã cắn câu.
“Đới huynh từng thắng bạc. Nhưng tiểu nữ nghĩ Lang đại gia đã cố ý để huynh ấy thắng, nhằm lừa huynh ấy chơi tiếp! Ông ta làm tiểu nữ thấy rùng mình!”
“Lang Lưu ư? Bọn họ đánh bạc ở đâu?”
“Ôi, Đới huynh từng đến khu phòng của họ Lang nhiều lần. Ô kìa, cá!”
Địch huyện lệnh buông dây câu. Trong thoáng chốc, ông thấy một hình ảnh hiện ra. Họ Lang sẽ không bao giờ kết bạn với viên thủ quỹ trẻ tuổi mà không có lý do nhất định.
“Ngài thả dây nữa đi!” Tử Tây phấn chấn nói.
Phải rồi, ông sẽ để Lang Lưu tự cắn câu. Rắc cho gã thật nhiều thính. Mối liên hệ giữa nhà kho đổ nát của họ Lang và những cánh cổng vàng nơi cung cấm có thể sẽ hé lộ. Tay cầm cần câu, lúc cương lúc nhu, ông cố gắng thăm dò những kết quả từ khám phá của mình.
“Mau kéo lên!” Thiếu nữ giục rối rít.
Từ từ kéo dây câu lên, ông thấy một con cá vược khá to nổi lên mặt nước. Ông nghiêng người qua mạn thuyền, kéo con cá đang quẫy lên và bỏ vào giỏ.��
Địch
huyệ
n
lệnh
bắt cá
vược
“Thật tuyệt! Giờ ngài hãy xem tiểu nữ câu đây!” Tử Tây chăm chú nhìn chiếc phao, mặt nàng ửng hồng. Cơn gió lướt qua làn tóc buông bên dưới chiếc mũ rơm.
Địch huyện lệnh nóng lòng trở lại bờ phía nam, ông muốn lên bờ để xem có con đường mòn nào ở đó không. Nhưng thật chẳng ra sao nếu phá hỏng niềm vui của thiếu nữ. Ông lại buông cần, để tâm trí quay về với những khả năng. Lúc trước, việc viên thủ quỹ bị tra tấn đã khiến ông kinh hãi mà tò mò. Bây giờ ông đã tìm được lời giải thích khả quan. Giọng nói của Tử Tây làm ông sực tỉnh.
“Chúng chẳng thèm cắn câu. Đại phu, ngài có bao nhiêu vị phu nhân?”
“Ta có ba vị phu nhân.”
“Chính thất của ngài có phải một vị phu nhân hòa nhã?”
“Nàng đã đẹp người lại tốt nết. Có thể hãnh diện mà nói rằng ta có một gia đình hòa thuận, yên ấm.”
“Ngài là một vị đại phu danh tiếng, phải có bốn phu nhân mới đúng. Số chẵn sẽ đem đến vận may! Nói đến vận may, tiểu nữ nghĩ…”
Nàng giật cần câu và kéo lên một con cá nhỏ hơn. Hai người lặng yên một lúc lâu, thiếu nữ chăm chú ngồi câu, còn Địch huyện lệnh thì mải miết với những suy nghĩ riêng.
Sau khi Tử Tây câu được một con cá vược khá lớn, ông mới nói, “Chân ta mỏi rồi. Ta muốn thử tự tay chèo thuyền. Ta đã không chèo thuyền nhiều năm rồi!”
“Được thôi! Miễn là ngài không làm lật thuyền!”
Cả hai khom người đổi chỗ cho nhau. Thuyền bắt đầu rung, Địch huyện lệnh phải ôm vai thiếu nữ để giữ nàng đứng vững.
“Thật diễm phúc khi được ở bên ngài!” Nàng thì thầm.
Địch huyện lệnh vội cầm lấy mái chèo. Ông quỳ xuống đuôi thuyền và chèo ngược dòng một quãng ngắn để nàng có thể kéo được chiếc neo lên. Sau đó, ông cho thuyền ra khỏi bờ. Địch huyện lệnh chèo không quá vụng, nhưng ở tư thế quỳ, ông không thể tận dụng trọng lượng cơ thể mà chỉ phụ thuộc vào sức lực đôi tay. Vết thương trên cẳng tay bắt đầu đau. Ông cố đứng dậy, nhưng chiếc thuyền bắt đầu rung lắc dữ dội. Tử Tây buông ra một tràng cười.
“Ôi, không cần đứng dậy ta vẫn xoay xở được,” ông cười chua chát. “Ngài định đi đâu?”
“Ta muốn lên bờ ở một quãng nào đó, tìm vài loại thảo dược trong đám cây bụi quanh đây. Cô nương có phiền không?”
“Không đâu. Nhưng ngài chỉ có thể quanh quẩn ở những bãi đậu thuyền nhỏ. Không có bất cứ con đường mòn nào đâu.”
“Nếu đã như vậy, chúng ta sẽ trở lại bến sông. Như vậy sẽ dễ hơn, vì ta sẽ đi xuôi dòng.”
Tuy nhiên, ông sớm nhận ra mọi việc không dễ dàng như mình nói. Lúc này, trên sông đã tấp nập thuyền bè, ông phải gắng hết sức để tránh va chạm. Ông vừa chèo vừa lắng nghe Tử Tây trò chuyện rất vui vẻ. Bất chợt, ông hỏi, “Lục lọi? Ai lục lọi cái gì cơ?”
“Là thúc thúc của tiểu nữ! Chắc chắn Ngụy thúc đã lục lọi căn gác của Đới huynh. Sáng nay, khi dọn dẹp, tiểu nữ thấy có người đã khám xét nơi ấy! Thúc thúc định tìm gì ở đó cơ chứ? Tiểu nữ sẽ tiếp quản từ đây, ngài sẽ không thể cập bến nổi đâu!”
"""