"
Nghệ Thuật Xử Thế: Giỏi Vuông Giỏi Tròn PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nghệ Thuật Xử Thế: Giỏi Vuông Giỏi Tròn PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
ĐINH VIỄN TRÍ - ĐÔNG PHƯƠNG TRI NGỌC ANH dịch
-----
NGHỆ THUẬT XỬ THẾ (GIỎI VUÔNG GIỎI TRÒN)
-----
Dịch từ nguyên bản tiếng Trung Quốc, NXB Nhân dân Nội Mông Cổ, tháng 12 năm 2000 -----
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN Hà Nội - 2003
Thanks to the VOZ Ebook Team.
Editors: Diep Chi, HoaVoSac, Ran Mouri, Zerrakhan.
Proofreaders: Anon914, HDP_overovel, Súng của anh đây, Tiny Bear, Zerrakhan.
Supporters: Ryn, Quan, ffffff
Thân gửi tới độc giả của ebook “Nghệ thuật xử thế - Giỏi vuông giỏi tròn”, trong quá trình thực hiện ebook cho tập sách này chúng tôi đã gặp khá là nhiều lỗi chính tả, câu cú, tên nhân vật… VOZ Ebook Team đã cố gắng tìm kiếm thông tin cũng như chỉnh sửa, bổ sung những lỗi sai này. Tuy nhiên chất lượng bản chính có quá nhiều “sạn” nên ebook có thể vẫn tồn tại một số lỗi ngoài ý muốn. Hy vọng độc giả thông cảm và phản hồi tích cực.
VOZ Ebook Team.
21/04/2022
MỤC LỤC
Lời Nói Đầu
Phần I: Làm Người
1. Đại Trượng Phu Làm Người, Phải Đường Đường Chính Chính 2. Làm Người Nên Lấy Sự Ngay Thẳng Làm Gốc
3. Người Không Có Chí Hướng Không Đạt Được Vuông, Tròn 4. Dân Thường Nếu Có Chí
5. Đạo Dưỡng Tâm Là Gốc Của Lập Chí
6. Người Tự Tin Sẽ Sống Mãi
7. Lòng Tin Ở Trong Vuông Tròn
8. Tạo Niềm Tin Lớn Cho Thiên Hạ
9. Đánh Thức Tiềm Năng Đã Ngủ Quên
10. Thần Thánh Có Từ Sự Tự Tin
11. Quân Tử Giả Không Bằng Kẻ Tiểu Nhân
12. Nhân Cách Phải Được Tu Hành Ở Trong Vuông 13. Quân Tử Không Tự Trọng Thì Không Có Uy
14. Người Đứng Đắn, Ngay Thẳng Không Làm Vậy 15. Tôn Kính Còn Hơn Mọi Trò Ma Quỷ
16. Muốn Tự Tôn, Trước Hết Phải Tự Trọng
17. Tự Tôn Tự Ái, Danh Tiết Không Hoen Ố
18. Khí Phách Của Trang Nam Tử
19. Người Gánh Vác Trách Nhiệm Lớn Tràn Đầy Khí Phách 20. Thiên Hạ Ngày Nay
21. Không Nên Sống Chỉ Vì Tăm Tiếng
22. An Lòng Với Những Việc Nhỏ
23. Trong Công Việc Hiện Thực Xuất Hiện Thánh Nhân
24. Vượt Khỏi Phạm Vi Nhỏ Bé Của Chính Mình
25. Giữ Vững Chủ Kiến Của Mình
26. Sống Bằng Đức Hạnh Của Mình
27. Tụ Hội Được Chính Khí Của Đất Trời Sẽ Thành Công 28. Phong Thái Lớn Thì Dung Lượng Lớn
29. Con Người Bị Cô Lập Sẽ Nguy Hiểm
30. Nhẫn Nhục Chịu Đựng, Có Dung Lượng Lớn
31. Nhân Cách Mẫu Mực Hơn Người
32. Kết Hợp Vuông Tròn, Cương Nhu Đầy Đủ
33. Lấy Cái Chết Để Hoàn Thành Cuộc Đời
34. Con Người Từ Xưa Đến Nay Chẳng Có Ai Không Chết Phần II: Xử Thế
35. Đạo Trung Dung Giúp Gây Dựng Đại Nghiệp Trong Thiên Hạ 36. Dùng Thì Phải “Trung”, Làm Thì Phải “Vuông Tròn” 37. Trung Thành Theo Một Mà Dẫn Đến Hài Hòa
38. An Phận Thủ Thường, Trời Tròn Đất Vuông
39. Dưới Trăng Vén Mây Cười Một Tiếng
40. Người Tính Không Bằng Trời Tính
41. Đạo Thiền Truyền Miệng Lấy Đức Báo Oán
42. Những Ưu Điểm Của Bản Thân Thì Giấu Được Mấy Phần 43. Nhường Người Khác Là Hơn, Chịu Thiệt Là Phúc 44. Yêu Người Khác Như Yêu Chính Bản Thân Mình 45. Sống Lấy Phục Vụ Làm Mục Đích
46. Tiền Của Nhiều Sẽ Liên Lụy Bản Thân
47. Con Người Là Loài Động Vật Có Tình Cảm
48. Trung - Đại Diện Cho Mọi Chân Lý
49. Không Công Bằng Sẽ Khó Thuyết Phục Người
50. Người Nghiêm Khắc Ít Khoan Dung
51. Tính Nhẫn Nại Kiểu Anh Hùng
52. Bỏ Qua Những Lỗi Lầm Của Người Khác
53. Quên Bản Thân Có Thể Dung Nạp Vạn Sự Vạn Vật 54. Trong Tổ Ấm Vui Vẻ Có Một Sức Sống Riêng
55. Đem Lại Sự Tiện Lợi Cho Người Khác
56. Đại Bàng Làm Chấn Động Chín Vạn Dặm Trời Xanh 57. Lấy Nhất Hư Mà Phục Vụ Thiên Hạ
58. Ban Ơn Cho Người Không Mong Đền Đáp
59. Trong Lòng Thế Nào Cũng Được
60. Không Thể Trong Chốc Lát Quay Lưng Lại Với Chính Nghĩa 61. Vứt Bỏ Kiến Thức Và Thành Kiến Cá Nhân
62. Kết Bạn Với Người Chí Đồng Đạo Hợp
63. Con Người Khi Kết Bạn, Quý Nhất Là Tri Kỷ
64. Nên Thận Trọng Trong Kết Bạn
65. Khiêm Tốn Đối Đãi Bạn Bè
66. Kết Bạn Cần Có Sự Hào Phóng
67. Nói Chuyện Tùy Người, Gợi Ý Tuỳ Đối Tượng
68. Kẻ Kính Trọng Người Khác Tất Được Người Khác Kính Trọng Phần III: Bản Ngã
69. Dùng Máu Và Mồ Hôi Đổi Lấy Thành Công
70. Trời Làm Cho Toại Nguyện, Người Quân Tử Lúc Vuông Lúc Tròn 71. Quên Mình Để Tự Hoàn Thiện
72. Mình Vì Mọi Người, Mọi Người Vì Mình
73. Nhận Thức Chính Mình
74. Hy Sinh Bản Thân Để Hoàn Thiện Mình
75. Cái Tâm Của Đạo Chính Là Tâm Của Ta
76. Vạn Sự Do Mình Ta Gánh Vác
77. Hết Lòng Làm Việc Nghĩa
78. Con Người Quý Là Ở Chỗ Biết Tự Lập Và Tự Trọng 79. Mọi Hạnh Phúc Trên Đời Đều Xuất Phát Từ Tấm Lòng 80. Giữ Mình Chính Là Giữ Đạo
81. Thân Giáo Quan Trọng Hơn Ngôn Giáo
82. Đại Đạo Vốn Vô “Giới”
83. Ẩn Dật Là Quan Niệm Xử Thế Thấu Đáo
84. Đói Thì Ăn Cơm, Gật Gù Thì Đi Ngủ
85. Khai Thác Tiềm Năng Trí Tuệ
86. Trời Sinh Ra Tài Năng Của Ta Tất Hữu Dụng 87. Quân Tử Giúp Người Khác Hoàn Thiện
88. Luôn Thay Đổi, Ngày Ngày Thay Đổi
89. Báo Đền Xã Hội, Tự Mình Vuông Tròn
90. Tranh Một Xấu Hai, Nhường Một Có Hai
91. Tinh Thần, Một Vòng Tròn Lớn Xoay Chuyển 92. Ta Ở Trong Tròn, Trong Tròn Có Ta
93. Chấn Chỉnh Bản Thân, Vuông Tròn Thiên Hạ 94. Làm Điều Nhân Thì Không Cần Nhường Thầy 95. Khó Nhịn Có Thể Nhịn, Khó Làm Có Thể Làm 96. Giữ Gìn Thần Trí Để Dưỡng Tĩnh
97. Trong Cái Tĩnh Đã Có Trời Đất
98. Bồi Dưỡng Chí Khí Lớn Lao
Phần IV: Đời Người
99. Trị Bệnh Trước Tiên Phải Trị Tâm
100. Hành Động Có Vuông Thì Kết Cục Tự Tròn
101. Thời Gian Hiện Hình Là Sự Luân Chuyển Của Tròn 102. Nỗ Lực Là Mẹ Thành Công
103. Mọi Người Đều Có Thể Thành Thánh Nhân
104. Dũng Khí Là Ngọn Nguồn Của Sự Sống
105. Tinh Thần Coi Việc Thiên Hạ Trách Nhiệm Của Mình 106. Chiếm Giữ Vị Trí Đúng Đắn Trong Thiên Hạ
107. Lòng Can Đảm Và Sự Hiểu Biết Sinh Ra Dũng Khí Lớn 108. Biết Xấu Hổ Tức Là Dũng Cảm
109. Sống Vĩ Đại, Chết Vinh Quang
110. Quan Niệm Về Sự Sống Cái Chết Vượt Lên Những Quy Phạm Thông Thường
111. Kiên Định Lý Tưởng Và Niềm Tin
112. Mở Mang Cơ Nghiệp Thái Bình Vì Vạn Kiếp
113. Không Động Tâm Bởi Sự Vật Bên Ngoài
114. Dung Người, Dung Vật, Dung Trời Đất
115. Làm Việc Không Thể Hoàn Hảo
116. Đời Người Có Chỗ Nào Không Vuông Tròn
117. Chịu Đựng Điều Người Khác Không Thể Chịu Đựng 118. Cuộc Sống Trong Vòng Tròn Của Nó
119. Gieo Nhân Nào, Gặt Quả Ấy
120. Quan Niệm Biết Co Biết Duỗi
121. Vòng Luân Hồi Là Quy Luật Của Tròn
122. “Thiên Nhân Hợp Nhất”
123. Để Phúc Đức Trải Khắp Dương Gian
124. Phương (Vuông) Sinh Phương (Vuông) Tử, Phương (Vuông) Tử Phương (Vuông) Sinh
125. Người Có Tinh Thần Bất Tử Sẽ Trường Thọ
126. Mãi Ở Cảnh Giới Vô Sinh Tử
Phần V: Cuộc Sống
127. Sự Vĩ Đại Xuất Hiện Trong Khó Khăn
128. Chịu Khổ Là Giới Hạn Của Con Người
129. Không Có Việc Gì Khó
130. Tìm Con Đường Sống Trong Cái Chết
131. Nghĩ Suy Trong Nghịch Cảnh
132. Thắng Lợi Vì Thêm Một Lần Nhẫn Nại
133. Không Đáng Được Nhận Thì Không Nên Nhận
134. Tính Cách Thanh Liêm, Cương Trực
135. Sống Đạm Bạc Mà Ý Chí Sáng Suốt, Giữ Thái Độ Bình Tĩnh Để Suy Xét Sâu Rộng
136. Lấy Nhân Nghĩa Trị Vì Thiên Hạ
137. Trời Biết, Đất Biết, Người Biết, Ta Biết
138. Trân Trọng Phúc Thì Sẽ Luôn Có Phúc
139. Lập Nghiệp Thì Dễ Nhưng Giữ Được Nghiệp Mới Khó 140. Tính Cách Thực Của Cuộc Sống
141. Không Hổ Với Trời Xanh, Không Thẹn Với Nhân Gian 142. Giàu Nghèo Tại Ta, Chẳng Tại Người
143. Không Theo Những Thói Xấu Của Thế Tục
144. Không Thấy Tức Là Phú Quý
145. Tâm, Chí Kiên Định Không Dao Động
146. Biết Điểm Dừng, Biết Thế Nào Là Đủ Với Thực Tế
147. Tai Hoạ Lớn Nhất Là Không Biết Thế Nào Là Đủ Phần VI: Tu Thân
148. Tâm Rộng Lớn Có Thể Vô Hạn
149. Dưỡng Tâm Phải Thận Trọng
150. Con Người Là Trung Tâm Của Trời Đất Và Vạn Vật 151. Biết Thiện Biết Ác Là Lương Tri
152. Con Đường Hoàn Thiện Cái Tâm
153. Bản Chất Của Tâm Là Thanh Tĩnh Tự Nhiên
154. Tâm Là Chúa Tể Của Con Người
155. Trong Sáng Chính Là Bản Chất Của Tâm
156. Bồi Dưỡng Chân Tính Không Chỉ Là Nâng Cao Năng Lực 157. Điều Đáng Quý Của Nhân Tính Là Sự Thành Thật 158. Sự Dối Trá Khéo Léo Không Bằng Sự Thành Thật Vụng Về 159. Sự Chân Thành Có Thể Làm Trời Xanh Và Lòng Người Cảm Động
160. Nhân (Đạo) Là Đạo Lý Làm Người
161. Tự Mình Thực Hiện Là Gần Đạt Được Đến Nhân 162. Nhân Tâm Chính Là Thiên Tâm
163. Nhân Là Một Thứ Của Chung Thiên Hạ
164. Xây Dựng Hình Ảnh Của Bản Thân
165. Tức Giận Chỉ Có Thể Làm Hại Mình
166. Dùng Ân Uy Không Bằng Dùng Nhân Lễ
167. Nhân Chính Là Nghĩa
168. Người Biết Khiêm Nhường Thật Cao Quý
169. Luôn Tâm Niệm Không Quên Khiêm Tốn
170. Bất Kì Việc Gì Đều Phải Khiêm Tốn
171. Sửa Chữa Sai Lầm Phải Chịu Nhục Nhã
172. Lễ Là Thể Hiện Của Đức Hạnh
173. Không Làm Điều Vô Lễ
174. Chịu Ấm Ức Thì Có Thể Bình Yên Vô Sự
Phần VII: Sự Nghiệp
175. Kiên Trì Thì Sẽ Gặt Hái Được Nhiều Thành Quả 176. Khi Lập Nghiệp Điều Quan Trọng Là Có Sự Kiên Trì 177. Dự (Định) Trong Tròn, Lập Trong Vuông
178. Biến Mình Trở Thành Một Cục Nam Châm
179. Người Làm Việc Lớn Phải Có Vuông Có Tròn
180. Những Người Làm Việc Thực Tế Thì Mong Giành Được Hiệu Quả Thực Tế
181. Chuyên Tâm Tìm Hiểu Tin Tức Là Vuông, Trí Tuệ Là Tròn 182. Tay Trái Vẽ Vuông - Tay Phải Vẽ Tròn
183. Dùng Tất Cả Sức Mạnh Có Trong Thiên Hạ
184. Phòng Họa Từ Trước Khi Nó Xảy Ra
185. Nắm Chắc Thời Cơ
186. Thuật Vuông Tròn Âm Dương Để Giành Thắng Lợi 187. Ngọn Lửa Nhỏ Có Thể Bốc Cháy Lan Tràn
188. Giàu Có Gọi Là Đại Nghiệp
189. Loại Bỏ Tất Cả Khó Khăn Gian Khổ
190. Không Thành Công Thì Thành Nhân
191. Cố Gắng Một Lần Cuối Cùng
192. Nguyên Tắc “Dốc Đánh Canh Bạc Cuối Cùng”
193. Suy Nghĩ Một Cách Thực Sự Cho Sự Nghiệp Của Mình 194. Có Thể Tiến, Có Thể Lùi Và Có Cách Tránh Họa
Phần VIII: Nhân Từ
195. Dùng Những Tổ Chức Khác Nhau
196. Linh Hồn Của Cơ Quan Là Ở Chủ Nghĩa 197. Chỉ Có Đường Vòng Mới Thành Công
198. Lựa Chọn Người Kế Thừa Cho Thiên Hạ 199. Không Theo Quy Củ Thì Không Thành Vuông Tròn 200. Tuân Thủ Nghiêm Ngặt Hiệu Lệnh Thưởng Phạt 201. Phú Quý Chí Như Mây Khói Bay Qua
202. Khiêm Tốn Nhường Nhịn Ở Khắp Nơi
203. Cùng Chung Sống, Cùng Số Phận
204. Luôn Biết Giữ Chữ Tín
205. Dân Vô Tín, Tắc Bất Lập
206. Kích Thích Dục Vọng Của Mọi Người
207. Ít Hứa Suông
208. Dĩ “Hòa” Vi Quí (Coi Trọng Hòa)
209. Làm Chính Trị, Quý Ở Chỗ Có Được Người 210. Lòng Người Khó Đoán, Khó Hơn Cả Hiểu Trời 211. Biết Người Không Dễ, Làm Người Càng Khó 212. Tâm Ngay Thẳng Thì Tất Cả Đều Ngay Thẳng 213. Thần Do Tâm Lập, Khí Do Tính Mà Thành 214. Muốn Biết Người, Không Thể Không Tự Sửa Mình. 215. Nhân Tài Trăm Người Trăm Vẻ
216. Muốn Biết Người Không Nên Cầu Toàn. 217. Tướng Mạo Của Người Ta Sinh Ra Từ Trời Đất 218. Tài Đức Lấy Trung Hoà Làm Điều Quý Nhất 219. Quan Sát Nhân Tài Ở Nhiều Phương Diện
220. Xem Lý Do Của Người Xét Sự *** Của Người
221. Biết Lắng Nghe Người Khác Nói Chuyện
222. Dùng Người Có Tâm Huyết
Phần IX: Gia Quốc
223. Tất Cả Quay Về Chỗ Giản Đơn
224. Thiên Hạ Trăm Đường Mà Quy Về Một Mối
225. Không Cần Thiết Chuyện Gì Cũng Phải Lo Lắng 226. Đạo Lý Giản Dị
227. Tiêu Chuẩn Thưởng Phạt Nằm Ở Pháp Luật
228. Thưởng Quý Ở Chỗ Tin Dùng, Phạt Quý Ở Chỗ Buộc Phải Làm 229. Thưởng Phạt Phải Có Nguyên Tắc
230. Phạt Trước Để Lập Uy
231. Pháp Luật Rõ Ràng, Hình Phạt Nghiêm Minh
232. Dùng Đạo Đức Để Giáo Hoá Thiên Hạ
233. Lợi Dụng Nhược Điểm Con Người
234. Suy Đoán Tương Lai Sự Việc
235. Hoạch Định Mưu Lược Rộng Lớn
236. Bổ Nhiệm Nghiêm Khắc, Chịu Khó Sát Hạch
237. Danh Không Chính Thì Uy Không Lập Được
238. Sự Tu Dưỡng Lớn Lao, Là Hòn Đá Nam Châm
239. Chọn Người Cao Giữa Những Người Cao
240. Nhân Tài Có Cao Có Thấp
241. Tài Năng Lấy Trung Tín Làm Gốc
242. Gà Báo Thức, Mèo Bắt Chuột (Người Nào Việc Nấy) 243. Người Tự Tin Không Nghi Ngờ Người Khác
244. Dùng Người Hiền Cho Thiên Hạ
245. Thi Hành Đạo Lớn, Coi Thiên Hạ Là Của Chung 246. Dùng Hành Động Thực Tế Để Cảm Hóa
247. “Vô Vi Nhi Vô Bất Vi” (Không Làm Lại Là Làm) 248. Những Điều Khổng Tử Nói Đến Là Thần Học (Đạo Làm Tôi) 249. Xây Dựng Chế Độ Hoàn Thiện
Phần X: Mưu Lược
250. Biến Đổi Thuận Theo Là Dùng Tròn Một Cách Khéo Léo 251. Tùy Theo Chuyển Biến Của Kẻ Địch Để Giành Thắng Lợi 252. Mưu Kế Nhờ Vào Hiểu Biết Đầy Đủ
253. Biết Người Biết Ta, Trăm Trận Trăm Thắng
254. Ra Tay Trước Một Bước Chế Ngự Người
255. Không Mưu Tính Để Đối Phó Với Mưu Tính
256. Đi Ngược Đường
257. Vận Dụng Khéo Léo Xuất Quỷ Nhập Thần
258. Xỏ Mũi Địch Mà Dắt Đi
259. Vận Dụng Sách Lược Liên Kết, Liên Minh
260. Mượn Quân Cứu Viện
LỜI NÓI ĐẦU
Giỏi vuông giỏi tròn là quy luật của tự nhiên. Trong ”Kinh Dịch” có câu: ”Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức” và ”Địa thế khôn, quân tử dĩ hậu đức tải vật”. Ở đây, tròn tượng trưng cho sự vận động không ngừng, các thiên thể tuần hoàn; vuông biểu thị mặt đất bao la rộng lớn, bằng phẳng vững vàng.
Giỏi vuông giỏi tròn là sách lược để hiểu đời, trị nước. Tròn tượng trưng cho sự tốt lành: mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Vuông tượng trưng cho cảnh: thiên hạ một lòng, khắp nơi thanh bình. Tròn được ví như tấm lòng bao la ôm cả năm châu bốn biển, dọc ngang trời đất. Vuông ví với tạo hóa: ”Thời gian trôi không trở lại, vật có thật, người không thật, chỉ có núi sông là trường tồn”.
Đặng Tiểu Bình là một con người cự phách, mọi người đều ngưỡng vọng, là nhà kiến trúc sư vĩ đại, tay trái vẽ tròn, tay phải vẽ vuông. Ông là hội tụ của trí tuệ, văn hóa truyền thống Trung Hoa. Ông đã tổng kết những kinh nghiệm thành công của chiến lược, hiệp thương của Đảng Cộng sản Trung Quốc, mạnh dạn đề ra phương pháp ”Một nước hai chế độ”. Cái gọi là ”một nước” tức là lấy cái vuông - cái bất biến để ứng với một cái vạn biến, cái gọi là ”hai chế độ” chính là lấy cái tròn - cái vạn biến để ứng với cái bất biến. Cách nghĩ thành công này cuối cùng đã vạch tấm màn mở đầu cho sự nghiệp thống nhất tổ quốc vĩ đại: Hồng Kông trở về thuận lợi, Ma Cao cũng sắp được trao trả. Gần đây, một hiệp hội ở Đài Loan do ông Hạnh Chấn Phủ dẫn đầu, khi về đến Bắc Kinh, phó thủ tướng Tiền Kỳ Thâm ra đón tiếp, đã nói: ”Với nguyên tắc ”Một nước Trung Quốc”, điều gì cũng có thể làm được”.
Xem lại phản ứng của Đài Loan khi đó, liệu có phù hợp bối cảnh lịch sử, có thuận ý dân, thuận với ”vuông”, thuận với ”tròn” hay không? Trong ”Thiên hạ” của Trang Tử có nói: ”Củ (thước vẽ vuông) tuy vẽ được vuông nhưng bản thân nó lại không vuông, quy (thước vẽ tròn - compa) tuy vẽ được tròn nhưng bản thân nó lại không tròn”. Trong tác phẩm ”Toàn kinh” có nói: ”Trong vuông có tròn, gọi là vuông tròn. Trong tròn
có vuông gọi là tròn vuông”. Người xưa đã nói rõ đạo lý ”Giỏi vuông giỏi tròn”.
Giỏi vuông giỏi tròn là mức độ cao nhất trong đối nhân xử thế. Làm người nên tuân theo trời đất, chứ không vô tư giống như trời; chất phác chân thật, phóng khoáng khoan dung, giống như đất. Tôn quý hay hèn hạ, khôn ngoan hay ngu đần, đắt giá hay rẻ mạt, được hay mất… đều nằm trong vuông và tròn. Tục ngữ nói: ”Tròn thì không vững, vuông thì không đổ”.
“Tròn thì không vững” tức là làm người không được quá nhu nhược. Làm người mà quá nhu nhược thì sẽ chỉ là kẻ bỏ đi, làm quan mà quá nhu nhược thì không được việc, dân tộc quá nhu nhược thì chỉ là kẻ bệnh hoạn.
“Vuông thì không đổ” tức là xử lý việc không được quá cứng nhắc. Đối nhân xử thế quá cứng nhắc thì sẽ bị cô lập, làm việc quá cứng nhắc thì sẽ thành hại nước hại dân, quốc sách quá cứng nhắc thì nước sẽ thành bế quan tỏa cảng, lạc hậu, bị uy hiếp.
Làm người một tay vẽ vuông, một tay vẽ tròn là rất khó, làm người, lúc nào, việc nào, chỗ nào cũng toàn vẹn thì cực khó. Vậy nhưng, chỉ cần dũng cảm hành động, tích cực chăm chỉ… thì sẽ thấy trong khó có dễ.
Phương pháp và mưu sách trình bày trong cuốn sách này đều là bí quyết thành công của những người đi trước. Nếu có thể đúc kết kinh nghiệm làm người bằng một câu thì đó chính là: ”Làm người phải theo trời đất, thuận theo vuông, thuận theo tròn”.
TÁC GIẢ
PHẦN I:
LÀM NGƯỜI
Vuông - tròn là một cặp khái niệm thường gặp trong văn hóa Trung Quốc, hàm nghĩa của nó thì tùy sự khác nhau của từng đối tượng thảo luận, thứ tự thảo luận… mà sẽ khác nhau. Nói chung, hàm nghĩa của “tròn” là: ở thể động, chỉ chỉnh thể, thể, có tính viên mãn, linh hoạt…; hàm nghĩa của “vuông” là: ở thể tĩnh, chỉ bộ phận, dụng, có tính quy tắc, nguyên tắc.
Ở góc độ động - tĩnh: tròn là động, vuông là tĩnh.
Người xưa cho rằng: trời tròn, đất vuông; trời động, đất tĩnh. Do đó có hàm nghĩa “tròn động, vuông tĩnh”.
Nghiên cứu thảo luận quẻ thứ 64 của “Kinh Dịch” có “phương đồ” và “viên đồ”, nếu kết hợp phương đồ và viên đồ thì sẽ có thể phân tích và giải quyết được các vấn đề về không gian và thời gian.
Ở góc độ chỉnh thể - bộ phận: tròn là chỉnh thể, là toàn bộ tính khả năng, tính đa dạng của sự vật. Vuông là bộ phận, là một phương diện của sự vật. Kết hợp tất cả “vuông” sẽ tạo thành “tròn”.
Ở góc độ thể - dụng: tròn là thể của sự vật, tức là cái bản chất, cái trừu tượng, tổng hợp. Vuông là dụng, tức tính ứng dụng và hiện tượng, là cụ thể, là phân hóa.
Ở góc độ linh hoạt - nguyên tắc: tròn có tính linh hoạt, tùy cơ ứng biến, tùy từng vấn đề mà phân tích cho phù hợp. Vuông là cứng nhắc, là quy định bất di bất dịch, là lấy bất biến ứng vạn biến.
Người xưa nói “Trí dục viên nhi hạnh dục phương”, ý nói: trí tuệ con người thì phải tròn, còn hành động thì phải vuông. Không chỉ nhìn thấy mặt tĩnh tại, bất biến của sự vật mà còn phải nhìn thấy mặt vận động, phát triển; không những phải thấy được đặc tính của từng sự vật khác nhau và đặc tính riêng mà phải nhìn thấy chỉnh thể các sự vật và đặc tính chung;
không chỉ thấy hiện tượng và ứng dụng cụ thể của sự vật mà còn phải thấy bản chất của sự vật, không chỉ có khả năng giữ vững nguyên tắc, lấy bất biến ứng vạn biến mà còn phải cực kỳ linh hoạt, phân tích cụ thể từng lúc, từng nơi, từng người và chọn phương pháp tốt đẹp nhất. Điều này nói từ góc độ của “trí viên”.
Về mặt hành vi, tuy trí tuệ con người phải vô hạn nhưng những việc cụ thể không thể đại khái qua loa. Tức là, làm người phải tuân theo những nguyên tắc, mức độ nhất định mới có chỗ đứng trong xã hội. Đây chính là hàm ý của “hành dục phương” (hành động phải theo “vuông”). Cho nên “vuông” là nền tảng khi làm người.
1. ĐẠI TRƯỢNG PHU LÀM NGƯỜI, PHẢI ĐƯỜNG ĐƯỜNG CHÍNH CHÍNH
Lập chí trong sự nghiệp là chí hữu hình - vuông
Lập chí trong lý tưởng là chí vô hình - tròn.
Đại trượng phu làm người phải đường đường chính chính, tấm lòng ngay thẳng. Lý Bạch có câu thơ: “Đại trượng phu tất hữu tứ phương chi chí” (Đại trượng phu phải có chí tung hoành bốn phương). Lưu Viêm đời Tống nói: “Quân tử chí vu trạch thiên hạ, tiểu nhân chí vu vinh kỳ thân” (Người quân tử chí ở việc ban phúc cho thiên hạ, kẻ tiểu nhân chỉ cầu vinh hoa cho mình). Mạnh Tử thì cho rằng: “Sỹ hà sự, viết thượng chí”. Sở dĩ chúng sinh chỉ là chúng sinh bởi vì họ không có chí lớn. Kẻ có chút sĩ khí nhưng chỉ màng chuyện công danh lợi lộc, ăn mặc, thê thiếp, con cái… Người như thế cũng có thể làm quan lớn, tài nhiều, lộc lắm, hưởng thụ
vinh hoa phú quý suốt đời, nhưng sẽ chẳng lưu dấu tích gì cho thiên thu vạn cổ, chẳng hiểu chút gì về thế thái nhân sinh, rốt cuộc vẫn chỉ là kẻ phàm phu tục tử.
Lập chí ở đây phải là chí lớn vượt hẳn người đời, chí lớn chuyển xoay trời đất, sáng tạo lịch sử. Như vậy dù có không hơn người nhưng cũng đứng vững được, từ đó khiến cho sự sống chết của mình khác với sự sống chết của loài cầm thú. Con người hội tụ linh khí trời đất mà sinh ra, nên cố gắng làm gì đó cho trời đất, cho nhân loại lịch sử, cho bố mẹ gia đình… Đó không chỉ là những chuyện ăn uống, ăn mặc, sinh con đẻ cái. Vì vậy, lập chí là việc lớn nhất, căn bản nhất của việc làm người.
Tăng Quốc Phiên đã nói: “Hữu chí tắc bất cam vi hạ lưu” (Người có chí thì không cam chịu phận làm hạ lưu), nhân tài lấy chí khí làm gốc. Tạ Lương Tá cũng đã nói: “Người ta trước tiên phải lập chí, lập chí phải có căn bản, cũng như cây cối, cần phải có rễ rồi mới chăm bẵm và lớn thành cây vừa người ôm”. Người đời thường cứ mở miệng là nói “chí khí” rồi thì “chí hướng”. Nói đến chí khí thì lập chí là cái gốc của việc làm người, cũng là sức mạnh để làm người. Nói đến chí hướng thì lập chí là mục tiêu, cũng là đạo lý để làm người. Muốn làm một nam tử hán đội trời đạp đất,
trước hết phải lập lên chí hướng đội trời đạp đất, lập chí làm đại nhân thì phải noi theo thánh hiền, lập chí làm đại sự thì phải noi theo các anh hùng hào kiệt, lập chí để giàu sang thì chỉ lo đến danh lợi, lập chí làm kẻ tiểu nhân thì chỉ nghĩ đến ăn mặc.
Làm người phải lập được chí mới có hướng đi. Vương Dương Minh đã nói: “Không lập chí sẽ không có việc gì thành công. Dù là những kẻ tài giỏi trăm bề, cũng phải là người có chí. Ngày nay nhiều học giả tài cao nhưng cả trăm người không có ai thành công, đều do chưa lập chí. Lập được chí thì làm thánh hiền cũng được, không lập chí thì cũng như con thuyền không có bánh lái, con ngựa không có đường đi, cứ lang thang trôi dạt, cuối cùng chẳng thể chống đỡ nổi!”. Lập được chí rồi thì không được thay đổi, không dao động, mới có thể thành công. Từ trước đến nay chẳng có ai không có chí hướng mà có thể thành công. Làm người chỉ có lập chí, lập chí lớn đứng đầu thiên hạ, lập chí coi thiên hạ là trách nhiệm của mình, mới có thể thành người có ích.
2. LÀM NGƯỜI NÊN LẤY SỰ NGAY THẲNG LÀM GỐC Lập tâm vì trời đất là ”tròn”
Lập mệnh vì dân chúng là ”vuông”
Trong thơ của Văn Thiên Tường có nói “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh” (từ trước đến nay có ai là không phải chết, nguyện lấy tấm lòng son để chiếu sáng sử xanh). Vương Hỗn đời Nguyên cũng viết: “Thành sự tự lai du hữu chí, bất giáo huân nghiệp kính trung khán” (sự nghiệp thành công do có chí, những người có công trạng chính là những tấm gương soi).
Là con người sống trên cõi đời này, phải có lý tưởng, có hoài bão, có mục tiêu, không thể hồ đồ cả đời được. Lý tưởng và mục tiêu chính là chí hướng của con người, chính là sự ngay thẳng ở tâm. Trương Hoành Cừ có câu nói rất nổi tiếng. “Vị thiên địa lập tâm, vị sinh dân lập mệnh, vị vãng thánh kế tuyệt học, vị vạn thế khai thái bình”. (Lập tâm sống theo trời đất, lập mệnh vì dân chúng, học kế tiếp thánh hiền xưa, giữ thái bình cho muôn đời”. Ông tổ thứ sáu, Thiền Tông có nói “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Đây chính là chí hướng và hoài bão làm người của họ, cũng là lý tưởng và mục tiêu làm người của họ, đây dường như là khí khái nhất trong thiên hạ, cũng là biểu hiện cao cả của tinh thần.
Muốn làm thánh nhân thì phải có lý tưởng của thánh nhân, muốn làm anh hùng hào kiệt phải có lý tưởng của anh hùng hào kiệt. Điều này có thể khiến người ta phấn đấu vươn lên, nâng cao phẩm chất, tinh thần; nâng cao nhân cách, địa vị; khiến người ta tuy sống trên đời nhưng lại vượt hơn hẳn người đời. Từ đó đã sáng tạo ra lịch sử, không bị lịch sử đào thải và nhấn chìm. Triết gia cổ đại đã nói: “Thất phu nhất lập chí, tiện khả
tham thiên địa” (người dân thường nếu nuôi chí thì có thể so sánh với đất trời). Người ta không sợ không đủ tài mà chỉsợ không lập được chí hướng. Có đại chí mưu lược chính là có cơ sở để sự nghiệp thành công vĩ đại. Thế gian này không có ai không có chí lớn, mưu lược mà đạt thành tựu to lớn
cả. Vì thế tất cả tài trí, tự tin, dũng cảm đều cần phải lấy chí hướng ngay thẳng làm gốc.
3. NGƯỜI KHÔNG CÓ CHÍ HƯỚNG KHÔNG ĐẠT ĐƯỢC VUÔNG, TRÒN
Khí chất của con người là nguồn tài nguyên trời phú - tròn Chí hướng con người là công lao khổ luyện - vuông
Tăng Quốc Phiên đã nói về cái đạo của người quân tử: “Quân tử lập chí, phải lớn như dân giàu nước mạnh, có nghiệp như của thánh hiền, đế vương, không kém những người đi trước và không hổ thẹn với những con người hoàn mỹ trong thiên hạ. Lo khi không bằng Thuấn, không bằng Chu Công, lo khi chưa tu đức, chưa học hành, lo khi tiểu nhân đắc thế, hiền tài không được dùng, lo khi dân chúng không được yên vui, thương cho số
phận và xót cho dân nghèo, tất cả những điều ấy là những nỗi lo của bậc quân tử. Sự thăng trầm của đời người, sự no ấm của mỗi nhà, nhục và vinh, được và mất, tôn quý và hạ tiện, danh dự và sỉ nhục, người quân tử không thể không lo”. Đây là những lời nói đáng kính mà chúng ta đời đời ghi nhớ, cũng là cái căn bản của đạo làm người, tức là tâm phải “vuông”.
Người xưa nói “Trạch vô thuỷ, khốn, quân tử dĩ trí mệnh toại chí”. Câu nói này có nghĩa là: Dù khó khăn người quân tử vẫn phải gắng sức thực hiện chí nguyện của mình, kiên trì với nó suốt cả cuộc đời, dù có chết nhưng chí vẫn còn, dù khốn cùng vẫn không nản lòng. Cho nên Tô Thức đã nói: “Những người làm nên nghiệp lớn ngày xưa, không những phải có tài năng xuất chúng mà phải có tài chí kiên cường không thay đổi. Người không có chí lớn, thì không làm được việc lớn, lập lên nghiệp lớn. Hàn Thuỵ Chi nói: “Thiên hạ không có người có chí mà không thành công, cũng không có người không có chí mà thành công”. Bất cứ việc gì cũng phải lập chí hướng trước, có chí hướng thì chắc chắn sẽ thành công. Lập được chí lớn rồi thì phải kiên trì không thay đổi, dù phải dùng cả mạng sống của mình để đấu tranh. Đúng như lời Chu Tang đã nói: “Lập chí bất kiên, chung bất tế sự” (Nếu chí không vững vàng, cuối cùng sẽ chẳng được việc gì). Làm người nếu giữ được chí khí, làm nổi bật chí khí, thì còn có việc gì mà không đạt được, có việc gì mà không làm được? Có chí mà không làm được việc, chỉ bởi vì lập chí không kiên định, giữa chừng
gặp trở ngại liền từ bỏ. Cho nên Napoleon đã nói “Tài trí thực sự chính là một ý chí cương nghị và bền bỉ”.
Triết gia cổ đại cho rằng: “Bần mạc bần vu vô tài, tiện mạc tiện vu vô chí”. Sự bần tiện của con người có thể thay đổi và người có chí sẽ thay đổi được; nếu không có chí việc gì cũng khó khăn. Kê Khang nói: “Vô chí giả, phi nhân dã”, (người không có chí không phải là người). Người ta nếu muốn lập công mà lại không có chí thì dù thánh nhân cũng chẳng làm gì được, Phật tổ cũng chẳng có cách nào và thượng đế cũng bó tay. Vì vậy Khổng Tử nói: “Tam quân khả đoạt soái dã, thất phu bất khả đoạt chí dã” Chí ở đông thì hướng về đông, chí ở tây thì hướng về tây, chí làm vĩ nhân thì học theo thuyết của vĩ nhân, nói lời mà vĩ nhân đã nói, đi con đường mà vĩ nhân đã đi, làm những việc mà vĩ nhân đã làm. Nếu chí làm kẻ tiểu nhân, tất nhiên chẳng cần phấn đấu vươn lên mà chỉ cam chịu đứng vào đội ngũ của những kẻ tiểu nhân.
Nếu chúng ta muốn thay đổi cuộc sống, sáng tạo ra cuộc sống, đều phải xuất phát từ điều căn bản là việc lập chí. Tăng Quốc Phiên từng nói: “Tính cách con người do trời sinh ra, khó mà thay đổi. Nếu muốn thay đổi “vuông” thì phải có ý chí kiên cường, vững vàng. Chí hướng đã quyết, phải nỗ lực không ngừng để thực hiện ý chí đó, kiên trì với ý chí đó, nuôi dưỡng ý chí dó, tự nhiên sẽ đổi mới từng ngày, sẽ thay đổi một trời một vực. Đào Giác từng nói “Bậc trượng phu nếu ý chí kiên định sẽ chẳng còn việc gì không thể thành công. Những kẻ chỉ cần có tiền tài thì chẳng thể tạo được công trạng gì. Người có chí tức là “Phương - Viên”, “Phương -
Viên” tức là người có thể làm nên nghiệp lớn”.
4. DÂN THƯỜNG NẾU CÓ CHÍ
Sỹ là gốc của chí - tròn
Khí là ngọn của chí - vuông
“Thất phu dưỡng khí, có thể sánh ngang trời đất”, đây là điều quan trọng nhất khi người quân tử lập chí. Cho nên Chu Hy khi ở Tinh Xá, Thương Châu đã dạy học sinh rằng: “Sách không nhớ, đọc kỹ sẽ nhớ; nghĩa không hiểu, nghĩ kỹ sẽ hiểu. Chỉ có kẻ không nuôi chí thì sẽ không làm gì được. Những kẻ ham lợi lộc mà không ham đạo nghĩa, muốn làm quý nhân mà không muốn làm người tốt, đều là những kẻ có bệnh” không lập chí, có tật trí không “vuông”. Cần phải suy nghĩ thật kĩ, tìm ra mầm mống của các bệnh về tư tưởng, phải dũng cảm phấn đấu, vươn lên, “vuông” ở trong nghìn vạn lời răn dạy của thánh hiền xưa, chẳng có câu nào sai cả, “Vuông” bắt đầu từ “chí” này đây và cũng chính từ đó gom góp công sức, cố vươn cao, làm nên việc lớn”.
Trương Hoành Cự thì nói: “Đức” mà thắng “khí” tức là tính cách có đức, “khí” mà thắng “đức” tức là tính cách có khí. Những kẻ mà tính có khí thường sẽ bác bỏ khí, những kẻ có đức thường sẽ nuôi dưỡng khí. Không thắng được “khí” thì chỉ vì không có chí, nếu dưỡng được chí rồi thì khí sẽ phải tuân theo”. Chí là gốc của khí, khí là ngọn của chí. Phạm Văn Chính coi việc thiên hạ là việc của mình, có chí khí của một vị quan tể tướng nhưng hết lòng làm việc chỉ mong mang lại lợi ích cho người khác, vừa là bậc hiền nhân vừa là trang hào kiệt, làm quan hay dân sỹ đều được. Nếu người ta chỉ biết nghĩ cho mình, không biết nghĩ đến người khác, ngoài bản thân mình ra, tất cả việc khác đều bỏ qua, đã không có chí lớn như vậy, làm sao có thể làm nên việc lớn? Lã Duy Kỳ cũng nói “Lập chí phải học thánh nhân, chứ không nên chỉ dừng lại ở bậc trung nhân, và cũng không thể cho mình là bậc anh hùng hào kiệt”. Nếu không có chí lớn tầm nhìn sẽ hạn hẹp, chí hướng tất sẽ không lớn, kiến thức nông cạn, chí khí ắt cũng sẽ yếu.
Hãy một đời hết lòng làm việc theo lý tưởng và phương pháp làm việc của mình, không gò bó mình trong một phạm vi nhỏ hẹp. Lập chí làm
người về mặt tâm lý phải chứa đựng những yếu tố như: Phải làm cho quốc gia không thể thiếu mình, nhân loại không thể thiếu mình, lịch sử không thể thiếu mình, trời đất cũng không thể thiếu mình. Những tấm lòng cao cả, tự gánh trọng trách như vậy là ý chí lớn nhất của đời người. Như vậy, có thể siêu thoát một cách khí khái, hiên ngang độ lượng. Thành tựu của những con người như vậy tất nhiên không có giới hạn.
Quản Trọng thời xưa phò tá Tề Hoàng Công, xưng bá chư hầu, thao túng thiên hạ. Vậy mà Khổng Tử cho rằng Quản Trọng Tử chỉ là một kẻ tiểu nhân, ông ta không chí hướng hoài bão, khí chất của thánh nhân. Gia Cát Lượng từng nói: “Người có chí lớn nhìn xa trông rộng, học thánh hiền xưa, đoạn tuyệt tình sắc dục, không bị sự đình đốn che lấp chí khí. Nhẫn nhục chịu đựng, ghét thói ích kỷ keo kiệt; dù bị ức chế cũng không làm mất hứng thú, cho dù có bệnh tật gì cũng chẳng để ý. Nếu như chí không mạnh mẽ, ý không khẳng khái, bị tình cảm trói buộc, mãi ẩn nấp trong sự tầm thường… chắc chắn chỉ là kẻ hạ lưu!”. Đây đều là những ý bàn luận con người nên có chí nguyện cao xa, chí khí rộng lớn, chí hướng kiên định, trí lực kiên nghị, nếu có bốn điều này mà không phải là kẻ siêu phàm xuất chúng thì rất hiếm thấy.
Nếu chúng ta muốn trở thành kẻ đội trời đạp đất, trở thành một kẻ xưa không ai bằng, người đời sau không ai sánh nổi, thì chí nguyện phải cao xa, chí khí phải rộng lớn, chí hướng phải kiên định, trí lực phải kiên cường, cương nghị. Nếu thiếu một trong bốn điếu này, khó mà có thể đạt được sự nghiệp thành công không ai vượt nổi.
5. ĐẠO DƯỠNG TÂM LÀ GỐC CỦA LẬP CHÍ
Vẻ ngoài không khác gì quần chúng - ngoài tròn
Trong lòng luôn ngay thẳng - trong vuông
Ngụy Bí Khang thời Tam Quốc đã nói: “Ngoại bất thù tục, nội bất thất chính”. Khi giao tiếp với thế giới bên ngoài thì có thể thích ứng với phong khí của thế tục, nhưng chí hướng của bản thân vẫn không xa rời chính đạo.
Tăng Quốc Phiên cho rằng: “Quan tướng cũng có nhiều, thánh nhân hào kiệt cũng vô cùng đông, chỉ cần chịu lập chí thì đều có thể làm được”. Nếu muốn thực sự làm được thì phải dựa vào chí khí. Chí có thể bổ sung cho khí, khí có thể duy trì chí, tuy nhiên, về tu dưỡng chí, khí chỉ đóng góp một phần công sức. Nếu việc leo lên đỉnh núi cao nhất thế giới Everest là lập chí, thì việc muốn leo lên chính là chí khí, từng bước từng bước leo lên chính là tu dưỡng chí khí.
Cái đạo của sự dưỡng tâm, thứ nhất là cần chí hướng kiên định, thứ hai cần chí hướng thuần chính; kiên định thì sẽ không bị lung lay, không bị thay đổi ý chí… Thuần chính tức là làm điều thiện, không làm điều ác, theo chính nghĩa chứ không theo gian tà. Lập chí không kiên định thì việc gì cũng không thành công. Mạnh Tử đã nói: Phải giữ khí không tỏ ra nóng nảy. Nếu nóng nảy khí sẽ rời rạc mất, nếu nản chí thì khí sẽ nguy mất, nếu chí kiệt thì khí sẽ yếu. Khí thế hơn người khác, chí hướng có thể kém người khác, nếu chí hướng hơn người khác thì không được ngang ngược, ngạo mạn đi ức hiếp người khác. Dùng khí để hiếp áp người khác là kém cỏi, kém cỏi tức là không dưỡng khí. Khí thế cô đọng ở bên trong là khí chất chứa, khí chất chứa là khí được nuôi dưỡng. Việc nuôi dưỡng khí này hàng nghìn năm nay vẫn chưa có ai chê trách cả. Thực tế đó chính là gốc rễ vững chắc trong đạo làm người của thánh nhân hào kiệt.
Rễ có sâu thì cây mới có thể mạnh, gốc có chắc thì lá cây mới tốt tươi, chẳng có thứ cây nào gốc rễ thưa thớt mà lại xum xuê xanh tốt cả. Chí khí là điều quan trọng nhất trong tính cách của con người. Nếu nắm
vững được điều quan trọng này và tất cả những thứ quan trọng khác thì chí khí sẽ được bảo tồn và phát huy. Nếu có thể nuôi dưỡng chí khí thì tự nhiên sẽ cải tạo được cuộc sống, bổ sung cho cuộc sống, làm cho cuộc sống cao thượng hơn, con người tốt đẹp hơn, vững vàng trong cuộc sống, hiên ngang giữa vũ trụ. Cho nên, Kỳ Thừa Diệp từ việc tu chí suy rộng ra đến việc tu chí cho con em, ông nói: “Tu chí cho con em cũng giống như việc nuôi dưỡng Chi Lan vậy, vừa phải dùng tri thức phong phú để nuôi dưỡng, lại vừa phải dùng chí khí cao thượng để thấm đẫm cho chúng.
6. NGƯỜI TỰ TIN SẼ SỐNG MÃI
Bạn đã bao giờ cảm thấy trống rỗng và cô đơn chưa
Tặng cho bạn một phương thuốc kỳ diệu: tự tin
Cô lập chỉ là căn nguyên nhỏ, rộng mở mới là căn nguyên to lớn. Đây chính là sự tự tin cao hơn hết thảy, lớn hơn tất cả mà chúng ta đang bàn luận tới.
Chúng ta làm người, lập được chí vẫn chưa đủ, mà còn phải có sự tự tin mạnh mẽ. Không những tự tin với sự nghiệp to lớn và lý tưởng của mình, mà còn phải tự tin với dân tộc và quốc gia, với truyền thông văn hóa dân tộc của nước mình. Như vậy, chúng ta mới có thể kế thừa và nối tiếp quá khứ, đồng thời có thể truyền lại cho đời sau. Đây chính là sự rộng mở và phát huy lòng tự tin. Cho nên chúng ta mới khuyên người khác “Tự
tin”. Bàn về “Tự tin” nhưng sự tự tin được nói đến ở đây không phải là sự tự tin của kẻ lầm lì, hẹp hòi quái gở.
Làm người, bất kể bậc thánh nhân hay anh hùng, không được cô lập mình giữa nhân loại. Phải hấp thụ và tiếp thu tất cả từ quốc gia dân tộc, mọi người, mọi thứ dương đại. Phải kế thừa truyền thống và lịch sử văn hóa để truyền lại cho con cháu đời sau. Phải coi mình là một phần của quốc gia dân tộc và toàn nhân loại. Đây chính là nguyên nhân phải tiếp thu. đồng thời cũng phải phát huy truyền thống lịch sử, văn hóa vĩ đại. Nếu bạn làm được như vậy, lịch sử văn hóa truyền thống ngược lại cũng sẽ hoàn thiện bạn, làm vẻ vang bạn. Hơn thế, bạn làm rạng rỡ hơn cho lịch sử văn hóa tương lai nên lịch sử văn hóa tương lai cũng sẽ đền đáp lại bạn như thế. Đây chính là nguyên nhân bạn tiếp thu và sáng tạo lịch sử. Đây cũng chính là cái mà lịch sử văn hóa con người gọi là “trời đất và con người hòa làm một”.
Do đó nói, Phật Thích Ca trở thành Phật Thích Ca, nhưng không phải là Phật Thích Ca cô lập; Khổng Tử trở thành Khổng Tử, nhưng không phải là Khổng Tử cô lập. Họ đều kế thừa những người đi trước, tiếp thu cuộc sống đương đại và để lại, mở đầu cho đời sau. Bỏ nhân thế đi quy y
cửa Phật, bỏ một đời để góp đức cho ba đòi, đó cũng chính là “một người trong tất cả, tất cả trong một người”.
7. LÒNG TIN Ở TRONG VUÔNG TRÒN
Làm người có chủ kiến
Làm việc có vuông tròn thì không bao giờ gặp trở ngại
Tự tin là phẩm chất tốt đẹp để con người là chính bản thân mình. Có niềm tin to lớn sẽ có thành công to lớn, có niềm tin nhỏ bé sẽ có thành công nhỏ bé, không có niềm tin sẽ chẳng có thành công nào cả. Thế gian này chẳng bao giờ có người thiếu lòng tin mà lại thành công. Đây là một chân lý không bao giờ xoay chuyển nổi.
Người có chủ kiến trước hết phải có lòng tin không đổi. Có chủ kiến thì sẽ xử lý được mọi việc chính xác, khi “tròn” có thể “tròn”, khi “vuông” có thể “vuông”.
Độ cao của suối phun nước không bao giờ vượt quá đầu nguồn của nó. Sự nghiệp của mỗi con người cũng vậy, thành tích của anh ta không bao giờ vượt quá mức tin tưởng ở bản thân anh ta. Sức mạnh của sự tự tin là không thể tưởng tượng được, nó có thể biến tất cả những cái không thể thành có thể, đưa một người từ mặt đất đứng dậy sánh ngang với trời cao.
Sức mạnh của sự tự tin đối với sự nghiệp quả là những kỳ tích, có nó, bạn có thể dùng mãi không vơi cạn tài trí của mình. Một người thiếu đi sức mạnh tự tin, bất kể anh ta tài năng như thế nào cũng sẽ không có cơ hội để thành công. Tất nhiên, những người muốn xây dựng nghiệp lớn nhất định phải tự tin, nhưng trước khi làm việc phải vẫn luôn nên lắng nghe mọi người, tìm các quy luật để làm tốt công việc, nhất định phải xoá bỏ sự cố chấp ngu ngốc, sự ngoan cố ương ngạnh cho mình là đúng. Nhưng cũng phải nói, hai điều này là hai bệnh mà người lãnh đạo rất hay mắc phải.
Rất nhiều người, hễ vừa có chút thành tích, thường không coi ai ra gì, tự coi chỉ có mình là thông minh, mọi mặt đều tốt. Họ không hiểu như thế rất dễ mắc phải thói “Dùng riêng cái ngu của mình, dùng riêng cái kém của mình”.
Bàn về điều này, có học giả cho rằng: Tự tin không có nghĩa là chỉ tin mỗi bản thân mình, cố chấp thành kiến, bảo thủ ý kiến riêng, rơi vào con đường ngang ngạnh ương bướng. Song cũng không phải là chỉ nghe người khác, tin vào số đông, không có chủ trương định kiến riêng, mù quáng bước đi trên con đường a dua, nịnh hót.
Vậy thì làm sao để có thể đạt được sự chí thiện mà không gặp trở ngại? Đáp án chính là “Vận dụng khéo léo, dốc hết sức mình”.
8. TẠO NIỀM TIN LỚN CHO THIÊN HẠ
Tạo niềm tin ở con người, trong mọi việc và cả thiên hạ
Sự tự tin cần xây dựng trên nền tảng niềm tin của xã hội, giữa các đồng nghiệp, người thân với nhau. Không có chỗ dựa là niềm tin của cộng đồng và sự tin tưởng lẫn nhau, sự tự tin cũng như cái cây không có gốc, như dòng nước không nguồn. Cho nên để có thể thực sự tự tin, trước tiên phải có lòng tin của cộng đồng và sự tin tưởng lẫn nhau tạo nên tín ngưỡng và sự tín nhiệm. Nói một cách đơn giản thì chính là: lập tín - “tạo dựng lòng tin”. Đây chính là một khía cạnh của lòng tin. Phải tạo lòng tin với mọi người, trong mọi việc và cả thiên hạ. Tự tin ở mình và phải khiến mọi người cũng tin mình, cả thiên hạ tin ở mình… Như vậy sẽ được gọi là “Đại tín”.
Trong “Kinh dịch” có nói: “Lý hành tư thuận” (hành động giữ chữ tín, mọi suy nghĩ sẽ đều thuận lợi). Nói phải để ý đến hành động, hành động phải chú ý đến lời nói; như vậy là lập tín. Ra chính sách phải thi hành chính sách, ra lệnh phải thi hành lệnh, như vậy là lập tín; thưởng phạt đều phải thi hành, không kể quyền thế, thân thích, không bỏ mặc những kẻ thấp cổ bé họng, như vậy cũng là lập tín.
Ngày xưa, Tử Công hỏi Khổng Tử về chính sự. Khổng Tử nói: “Lương thực đầy đủ, binh lực dồi dào chính là coi sức mạnh quốc phòng lên hàng đầu, khi được dân chúng tin tưởng thì phải dùng lòng tin đó vào những việc lớn. Đây là ba điều căn bản của chính sự”. Tử Cống lại hỏi: “Nếu vạn bất đắc dĩ thì trong ba điều này phải bỏ điều gì trước?”. Khổng Tử nói: “Phải bỏ sức mạnh quốc phòng” Tử Cống lại hòi: “Nếu vạn bất đắc dĩ thì trong hai điều đó phải bỏ điều gì trước?”. Khổng Tử đáp: “Bỏ lương thực. Từ xưa đến nay, người ta ai cũng phải chết, nhưng lòng tin của nhân dân không thể mất được”. Cho nên nói rằng nếu người ta có thể
“lập tín” mới có thể đứng vững trong trời đất, giỏi vuông giỏi tròn.
9. ĐÁNH THỨC TIỀM NĂNG ĐÃ NGỦ QUÊN
Chiến thắng sự tự ti và nhút nhát là lời chúc phúc tốt lành nhất cho sự nghiệp.
Mao Chủ tịch có câu thơ: “Tự tin nhân sinh nhị bách niên, hội đương thủy kích tam thiên lý” (kẻ tự tin có thể sống hai trăm năm, có thể đánh trận thủy chiên khắp ba nghìn dặm).
Tự tin là bí quyết số một để thành công trong sự nghiệp. Lương Khởi Siêu cũng từng nói rằng “Muốn làm bất cứ việc lớn gì trong thiên hạ, không thể không có sự tự tin. Mỗi khi làm một việc gì, có thể nhìn thấu suốt, tự tin mà vượt qua, thì phải nắm bắt lấy nó bằng dũng khí chưa từng có, giữ lấy nó bằng sự kiên trì không ngăn cản nổi, dù trăm nghìn ngọn núi cùng một lúc sụp đổ cũng không hề gì, dù giận như sóng cồn nhưng sắc mặt không đổi”. Từ đó chúng ta có thể thấy rằng, đối với một người muốn làm nên nghiệp lớn, sự tự tin vô cùng quan trọng.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, giá trị tồn tại của cái tôi cá nhân và tác dụng cải tạo xã hội của cái tôi cá nhân ngày càng bộc lộ một sức mạnh to lớn, lòng tin và sự tự tin trở thành điều kiện tiên quyết để thành công. Huyên Viên đại đế đã sáng tạo ra bánh xe khi có một gợi ý, Đại Thục ba lần qua cổng nhà mà không vào để dẫn dân chúng đi trị thuỷ, cho đến tinh thần Ngu Công dời núi - tất cả đều ẩn giấu sự tự tin mạnh mẽ và lòng tin dám thách thức với thiên nhiên để làm nên một sự nghiệp thành công.
Những người đã làm nên nghiệp lớn từ xưa đến nay không có ai là kẻ thiếu tự tin và nhút nhát cả. Tần Hoàng Hán Vũ, Đường Tông Tống Tổ đều thể hiện rất rõ sự tự tin đầy kiêu hãnh của mình. Lý Gia đã viết về khí phách hơn hẳn người đời của Tần vương “Tần vương kỵ hổ du bát cực, kiếm quang chiếu không thiên tự bích”. (Vua Tần cưỡi hổ dạo chơi khắp chốn, lưỡi kiếm chiếu lên bầu trời nên nhuốm màu xanh biếc). Lư Luân cũng đã miêu tả về khí thế điềm tĩnh thản nhiên, giết rồng giết hổ của tướng quân Lý Quảng: “Lâm án thảo kinh phong, tướng quân dạ dẫn cung. Bình minh tầm bạch vũ, một tại thạch lăng trung”. Tần vương và Lý
Quảng không phải là những nhân vật lịch sử cùng một mẫu hình nhưng trong các chiến tích lẫy lừng để thống nhất Trung Quốc, họ đều có sự tự tin khiến trời xoay đất chuyển và giúp họ thoát mọi hiểm nguy.
Nên tự tin nâng cao giá trị bản thân, nhận thức đúng về bản thân mình. Lý Bạch trong “Tướng Tiến Tửu” có viết: “Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng” tức là: ta có thể sinh ra trên thế gian này nhất định bởi thế gian cần có ta, ta có thể phát huy được sự hữu ích của mình cho thế gian, thậm chí có những cống hiến nhất định cho thế gian.
Có những người sống cuộc sống “thuận buồm xuôi gió”, giọng điệu hùng hồn như thể đầy niềm tin, nhưng vừa gặp phải khó khăn thì đã nản lòng nhụt chí, không thể gượng dậy nổi như thể đóa hoa sen héo rũ vì sương muối, cần phải biết rằng: “chiến thắng sự tự ti nhút nhát là lời chúc phúc tốt đẹp nhất cho sự nghiệp”. Trong nghịch cảnh, không những phải “tay cầm thanh kiếm trí tuệ, người khoác tấm giáp nhẫn nhục” mà còn phải tự tin và dốc lòng cho đất nước.
Những người có sự nghiệp thành công luôn luôn là những người tin ở kiến giải cá nhân của mình, dám nghĩ những điều mà người khác không dám nghĩ, dám làm những chuyện mà người khác không dám làm, không bao giờ sợ bị cô lập, dũng cảm và có sáng tạo. Còn những kẻ chỉ ngập chìm trong cảm giác tự ti, không dám ngẩng cao đầu mong muốn những thứ tốt đẹp hơn, vậy tất nhiên sẽ ôm hận mà chết già nơi xó cửa.
Những người bình thường, do không phát hiện được “tiềm năng thần thánh” ngủ quên trong mình nên không thể gọi dậy tiềm năng đó, không dám tin rằng mỗi người đều là anh hùng hào kiệt, mà chỉ yên phận với kiếp sống của kẻ tầm thường. Những anh hùng hào kiệt thì không như vậy, họ có chí hướng hơn hẳn người thường, có lý tưởng cao xa, mục tiêu cao cả, có ý chí dũng cảm, lòng tin son sắc, ngẩng đầu mạnh bước, luôn tiến xa vươn cao, kiên trì không bao giờ khuất phục, tăng sức sống cho mình, sáng tạo những kỳ tích vĩ đại.
10. THẦN THÁNH CÓ TỪ SỰ TỰ TIN
Người có lòng tin, có thể biến nhỏ bé thành vĩ đại, biến những cái bình thường thành những cái thần kỳ.
Sự tự tin đem đến cho người ta dũng khí đối với cuộc sống và công việc.
Sự tự tin có sức mạnh ngút trời. Có một vị triết gia xưa đã nói: Tự tri giả minh, tự tín giả cường” (kẻ tự biết mình thì sẽ sáng suốt, kẻ tự tin thì sẽ là kẻ mạnh). Sự tự tin là điều kiện đầu tiên của tất cả những vĩ nhân, những người có sự nghiệp thành công. Chỉ có lòng tự tôn mà không có sự tự tin, nếu không ngông cuồng thì cũng khoác lác. Người tự tin có thể biến những cái nhỏ bé thành vĩ đại, những cái bình thường thành những cái thần kỳ. Tất cả những phẩm chất tốt đẹp của con người như: sự kiên nhẫn, chí tiến thủ, lòng dũng cảm, sự nhẫn nại, bền gan khắc phục mọi khó khăn, chiến thắng mọi nguy hiểm… đều sinh ra từ sự tự tin. Có nhiều người đã nói: “Tự tin là ông tổ của sự thành công. Tự tin sẽ phát triển tài năng, khiến cho tinh lực dồi dào, tăng thêm sức mạnh, đồng thời giúp cho rất nhiều phẩm chất tốt đẹp khác có thể phát huy. Tự tin là sức mạnh trung tâm, sức mạnh chủ đạo để có thể không bao giờ chịu khuất phục, kiên trì bền bỉ, dù gục ngã vẫn can đảm gượng dậy”, nếu không có cơ sở là lòng tự tin thì làm sao có thể làm được điều đó?
‘'Nghiêu, nhân dã; Thuấn, nhân dã; bỉ năng thi, ngã diệc tất năng thi” (Nghiêu là người, Thuấn là người, họ có thể làm được việc, tôi cũng có thể làm được việc). Có được sự tự tin đó thì tất nhiên sẽ có đủ dũng khí và nghị lực để khi chưa đạt được mục đích thì chưa thôi phấn đấu. Người ta bình thường, tầm thường chính vì không tự tin được như người khác, sự tự tin của họ không hơn được người khác, đây là tư tưởng cam chịu thua kém, lạc hậu; người ta là anh hùng hào kiệt vì có sự tự tin hơn người thường, mới có được một sự nghiệp phi thường. Nếu tin tưởng ở sự nghiệp và không bao giờ chịu khuất phục thì sẽ không bao giờ thất bại.
Một người nếu mất tự tin thì cũng như một kẻ buông bỏ vũ khí trong tay, cam chịu thất bại. Tự tin chính là sự tin tưởng ở lý tưởng của mình,
tự tin chính là tin ở năng lực của mình, từ đó mới có thể đạt được ý tưởng của mình. Cho dù bạn tin có thượng đế nhưng tôi không tin thì chẳng bao giờ tôi gặp được thượng đế: Nếu tôi tin ở thánh nhân, Phật tổ, mà bạn không tin mình có thể thành Phật, thành thánh thì chẳng bao giờ bạn có thể thành Phật tổ hay thánh nhân.
Dù là lên thiên đàng hay đấu tranh để lên được chốn Tây Thiên cực lạc thì vẫn phải có lòng tin và sức mạnh của mình, để từng bước đi về nơi đó, đến tận cùng mới thôi.
Lòng tin là sự hòa trộn cái yếu đuối của cuộc sống hữu hạn với sự kiên cường của cuộc sống vô hạn, từ đó sinh ra một sức mạnh không gì sánh nổi, như vậy, tự tin thì sẽ có thể không ngừng đi lên, cho đến khi đạt được lý tưởng mục tiêu mới dừng lại. Có sự tự tin thì sẽ có dũng khí chiến thắng mọi khó khăn. Có sự tự tin thì mới có thể làm nên sự nghiệp vĩ đại mà chưa ai làm nổi với tâm trạng tốt nhất của mình.
11. QUÂN TỬ GIẢ KHÔNG BẰNG KẺ TIỂU NHÂN Chỉ trong chân tính, chân tình mới thấy chí khí thực sự
Chúng ta làm người, khi đã lập được chí hướng và có được lòng tin để phấn đấu không ngừng, vẫn phải có tính tình chân thật.
Giữa bạn bè với nhau chỉ có trong chân tính - chân tình mới thể hiện được một tình bạn chân thật; giữa nam và nữ phải ở trong chân tính, chân tình mới thấy được một tình yêu chân thật. Tình hơi sâu sắc đã vội biến thành những ham muốn thì không còn là “vuông”, không còn là “chính”, không còn là “chân”, không còn là “thiện” nữa, cần phải cắt đứt nó dù có phải đau đớn. Cho nên, Khổng Tử đã nói: “phát vu tình, chỉ vu lễ”. “Chỉ vu lễ” chính là sự kiềm chế giữa chừng như vậy.
Con người không thể vô tình, vô tình thì sẽ không thể hiện được “tính” - cũng không thể hiện ra mình là một con người nữa. Tính người và tình người là đặc điểm làm người rõ nhất. Ham muốn của con người có thể kiềm chế nhưng tình cảm của con người không những không nên kiếm chế mà hãy nên duy trì nó, nó như là cỗ máy chạy đến với thành công. Trong cuộc sống, người ta vẫn mắng nhau: không có tính người, không có tình người, vô tình vô nghĩa… đây chính là sự lý giải thông tục đối với tình người.
Không cần nói đến những nhà nho tạm thời dời xa thế tục, mà hãy nói đến tư tưởng của những Phật gia thoát đời, thoát tục họ cũng chẳng bao giờ bỏ qua cái “thế giới hữu tình”, thậm chí còn rất coi trọng cái “tình”. Nhà Phật chủ trương “giác mê tính”, kẻ quá mê đắm trong tình cảm là kẻ ngây dại si mê, si mê đến mức không còn ngay thẳng nữa thì cần phải có đại triệt đại ngộ(sự sáng suốt, tỉnh táo) đến thức tỉnh để trở về
với ngay thẳng. Sự sáng suốt, tỉnh táo là chủ thể của tình, tình lại do tính sinh ra, tính là tròn, tình là vuông. Tính cách sinh ra tình duyên, nếu tính có duyên thì sẽ có tình với nhau, khi mất đi “tình” thì không còn thấy “tính” nữa. Người mà không có tính tình thì đâu còn là con người?
Trong sự biểu lộ của tính tình, đáng quý nhất là chân tình, chân tính, hỏi có chút giả dối thì đã trở thành quân tử giả rồi. Quân tử giả thì cũng bằng kẻ tiểu nhân, mà còn có hại hơn. Cho nên người ta nói: chỉ có trong chân tính - chân tình thì thấy đâu là hào kiệt thực thụ, đâu là thánh nhân. Khi thuận lợi, chỉ có trong chân tính - chân tình mới thấy khí thế thực sự; trong khốn khó, chỉ có chân tính - chân tình mới thấy đâu là khí khái thực sự.
Là người phải có một cái tôi hoàn toàn chân thực và thể hiện một cái tôi chân thực; chỉ có từ lúc sinh ra cho đến khi chết đi, trước sau giữ lấy chân tính thì mới có thể hòa cùng với lẽ trời, trường tồn cùng với núi sông! Như vậy không những giữ được cái tôi chân thật của mình mà còn giữ được cái chân thật trong trời đất. Và chỉ có những người có được đất trời thì mới có thể tồn tại cùng trời đất, chỉ cần trời đất vẫn còn thì cái tôi ấy cũng vẫn còn.
12. NHÂN CÁCH PHẢI ĐƯỢC TU HÀNH Ở TRONG VUÔNG Nhân cách hoàn chỉnh là vuông
Nhân cách lương thiện là tròn
Khi nói tới bản tính của con người, nhất thiết phải nói tới nhân cách con người. Bản tính con người là cái đã có sẵn, nhưng nhân cách là cái mà con người phải tu dưỡng mới có được. Chúng ta đều biết, mục đích của nho gia chính là cố gắng hoàn thiện một nhân cách hoàn chỉnh của con người.
Mạnh Tử đã nói: Điểm khác nhau giữa con người và cầm thú vốn không nhiều, vậy nhưng con người có thế giới nội tâm và thế giới tinh thần, có thể vượt qua chính mình và trở thành thánh nhân, còn cầm thú chỉ có thế giới hình thể và thế giới vật chất, vốn không thể vượt qua cái vốn có của nó nên chẳng làm được điều gì. Điều này không liên quan đến việc vì sao một người có thể chỉ là con người - cũng có thể siêu phàm - hoặc trở thành thánh nhân.
Kẻ thống trị trong các thời đại trước chỉ là thống trị về mặt thống trị, những hào kiệt thời trước chỉ đạt thành tựu trong sự nghiệp, các chuyên gia, học giả, nhà phát minh, nhà khoa học của thời đại trước chỉ đạt thành tựu về tri thức trí tuệ mà không phải là thành tựu trong thế giới nội tại bên trong con người. Những thành tựu ở thế giới bên ngoài bất kể cao bao nhiêu, nhiều như thế nào, có nó thì cũng không làm cho cái tôi nhiều lên là mấy, mà thiếu nó thì cũng không làm cho cái tôi bớt đi là mấy, nó chẳng liên quan gì tới cái tôi cá nhân của con người.
Muốn hoàn thiện cái tôi cá nhân, mỗi con người phải đạt được những thành tựu liên quan đến phương diện này, chúng ta gọi những thành tựu đó là “nhân cách”, “đạo đức”. Đó cũng chính là điều khác biệt so với những tri thức khoa học. Điều này dựa trên sự sáng tạo và tu dưỡng của bản thân mình, chứ không thể chiếm đoạt hay thừa hưởng lại cái tôi cá nhân của người khác. Vì vậy, Khổng Tử mới sánh ngang được với Nghiêu
Thuấn, và từ xưa đến nay không ai có thể bằng được Thích Ca, Na Tộ, Lão Tử, Khổng Tử cũng chính vì đạo lý này.
Thế giới vật chất phát triển song song với sự tiến bộ từng ngày của việc tích lũy và kế thừa tri thức của nhân loại, lại thêm việc khoa học phát triển nhanh chóng trong nền văn minh vật chất, làm cho con người dần dần bị ngập chìm trong thế giới vật chất bên ngoài, khó có thể quay trở lại mong cầu được thỏa mãn, có thành tựu trong thế giới nội tâm và tinh thần của con người, làm mất đi cái tôi cá nhân và con người đích thực của mình, thậm chí không hiểu nổi chính bản thân mình nữa, ngược lại còn cho rằng văn hóa thế giới chỉ có như vậy, điều đó chẳng phải rất đáng buồn sao?
Chỉnh thể văn hóa của nhân loại, là sự kết hợp của cả hai mặt, tinh thần và vật chất, chỉ có sự kết hợp của tinh thần và vật chất mới có thể ghép thành một chỉnh thể hoàn chỉnh.
Tốc độ phát triển của văn minh tinh thần không bắt kịp sự phát triển của văn minh vật chất, dần dần khiến sự tiến hóa của loài người di đến cực đoan. Kết quả này cuối cùng sẽ làm cho nhân loại tự đi tới huỷ diệt bản thân mình. Bây giờ cần phải cứu vãn nó, chỉ có kết hợp phát triển đồng bộ văn hóa phương Đông và phương Tây mới làm cho con người dần kiềm chế được những nhu cầu về vật chất và chuyển sang nền văn minh tinh thần của thế giới nội tâm con người. Từ đó, dần dần giải thoát cho bản thân mình không trở thành nô lệ của vật chất, không trở thành nô lệ của danh lợi, tiền tài, không phải là nô lệ của tất cả các dạng trong thế giới bên ngoài. Từ đó, tĩnh tâm mà hoàn thiện một con người hoàn chỉnh để có thể đạt được sự cải tử hoàn sinh.
13. QUÂN TỬ KHÔNG TỰ TRỌNG THÌ KHÔNG CÓ UY Thẳng thắn, trang nghiêm, cung kính
Không tùy tiện, không cẩu thả, không phân tán.
Âu Dương Tu - một học giả lớn thời Tống nói: “Việc tu dưỡng đạo đức của người quân tử, bên trong phải chấn chỉnh tư tưởng của mình, bên ngoài cần chấn chỉnh dung mạo của mình”. Tô Tuần - một học giả lớn khác đời Tống cũng nói: “Nếu trên mặt có vết bẩn thì nhớ phải rửa hàng ngày. Nếu trên quần áo có vết bẩn thì cũng phải thường xuyên giặt”. Đây là những sự việc tối thiểu nhất của con người. Có tuân thủ theo lẽ thường đó, hoàn thiện nhân cách hoàn chỉnh thì mới được người khác tôn trọng. Do vậy, muốn được người khác coi trọng thì bản thân mình phải có sự tự trọng. Nhân cách cần phải thẳng thắn, trang nghiêm, phải cung kính, không được tùy tiện, không cẩu thả, không phân tán. Người xưa nói: “Người quân tử không tự trọng thì không có uy”. Người như vậy mới có thể làm gương cho người khác, thần sắc oai hùng khiến cho người khác vừa nhìn thấy đã tự cảm thấy kính phục. Con người vốn là linh hồn của vạn vật, họ có thể vượt qua chính mình thành Thánh, thành Phật, đều dựa vào bản thân minh, tự mình làm lấy, “coi việc quốc gia đại sự là của mình”.
Con người nếu có thể đi sâu quan sát chính mình, nhận thức chính mình, đánh thức những năng lực tiềm tàng còn chìm đắm trong giấc ngủ say, như vậy, sức mạnh và kỳ tích to lớn khôn cùng có thể sinh ra từ đây. Hơn nữa, sẽ vô cùng kinh ngạc khi phát hiện thấy mình chẳng khác gì với thiên cổ quái nhân, thiên cổ quái nhân cũng chẳng khác gì mình; mình chính là anh hùng hào kiệt, anh hùng hào kiệt cũng chính là mình, hoàn toàn chẳng có chút khiếm khuyết nào. Sở dĩ mình không theo kịp người ta, là bởi vì mình không dốc hết tâm sức đi tìm tòi chính mình, sáng lập chính mình. Bởi vậy, khi làm người thì phải có lòng tự trọng, lòng tự trọng là một yếu tố không thể thiếu của những người thành công, hay những thánh hiền hào kiệt. Người tự trọng phải biết tự tôn trọng mình, người tôn trọng mình phải biết tự tôn, người tự tôn phải biết tự ái. Ngược lại, người
tự trọng thì không được tự ti, biết tôn trọng người khác thì không được tự hạ thấp mình, người tự tôn thì không được tự ái, người tự ái thì không được huỷ hoại mình.
Nhan Uyên nói: “Ai cũng có thể là Nghiêu, ai cũng có thể là Thuấn. Mọi người đều có thể trở thành như vậy” Đây chính là tự tôn. Lục Tương Sơn nói: “Dùng hai tay với sao Nam Đẩu. vươn mình dựa vào sao Bắc Cực, ngẩng đầu nhìn ra khỏi bầu trời, tôi không phải là loại người chỉ tầm thường như vậy”. Đây chính là tự tôn tự trọng. Vì anh ta có cảm giác này nên anh ta mới nói: “Dùng hai tay với sao Nam Đẩu, vươn mình dựa vào sao Bắc Cực, ngẩng đầu nhìn ra khỏi bầu trời”. Đây chính là tự biết coi trọng bản thân. Con người phải biết coi trọng mình mới có thể khiến người khác coi trọng mình, mới có thể sinh ra một lòng tự tin không gì sánh kịp. Muốn để người ta coi trọng mình thì mình sống phải có sự tự trọng, thẳng thắn, trang nghiêm, cung kính, không tùy tiện, không cẩu thả, không phân tán. Tức là phải sống đứng đắn, xử sự đúng mực, làm tròn bổn phận đối với gia đình, làm tròn nghĩa vụ với đất nước và phải làm trọn vẹn các việc trong thiên hạ.
14. NGƯỜI ĐỨNG ĐẮN, NGAY THẲNG KHÔNG LÀM VẬY Lòng tự tôn tự trọng chứa đựng ở nội dung bên trong.
Sự tự cao tự đại thể hiện ở sự nông cạn bên ngoài.
Nếu muốn sống đúng đắn chỉ có cách là phải có lòng tự tôn. Lòng tự tôn là bản thân phải ngay thẳng, bản thân ngay thẳng có thể khiến mình hoàn thiện vuông tròn. Sự tự tôn không có nghĩa là tự mình khuếch đại và “duy ngã độc tôn” (chí mình là cao nhất). Khuếch đại thì dễ trở nên tự cao, sẽ trở nên quái đản. Vì thế nên sự tự tôn và tự đại có khác biệt lớn. Mục đích của lòng tự tôn là khiến mình biết tự coi trọng ban thân, hiểu rằng bản thân do trời đất sinh ra và không hề thua kém bất cứ ai điều gì. Chỉ cần luôn cố gắng không ngừng, kiên trì nghị lực, nếu cứ tiếp tục như vậy thì tên bạn không thể thiếu trong số các thánh hiền hào kiệt trong lịch sử. Vì vậy làm người không nên cam chịu thụt lùi mà phụ lại ý trời, không xứng với cuộc đời.
Lòng tự trọng là một phẩm chất tốt, là một động lực thúc đẩy con người không ngừng phát triển. Shakespeare có một câu danh ngôn là: “Nếu chúng ta tự ví mình với bùn đất, thì nhất định chúng ta sẽ trở thành bùn đất bị người ta giày xéo”. Ông còn nói: “Người không có lòng tự trọng, thì cũng chính là sự tự ti”. Người tự ti luôn thỏa mãn với hiện thực, an lòng với sự tầm thường, không có chí tiến thủ, luôn cảm thấy mình không bằng người khác. Trên thực tế, những gì trời cho và những gì là của bạn chẳng có chỗ nào là thua kém người khác cả. Chỉ cần bạn có thể
tự khám phá mình, tự phấn đấu, ngày đêm gắng sức, thì chắc chắn bạn sẽ thành công. Vì thế, người tự trọng quyết không thể tự ti được.
Sự tự tôn và tự đại không hề liên quan gì với nhau. Chỉ có sự tự ti và tự đại là luôn đi đôi với nhau. Có người đã ví von: “Mặc cảm tự ti và sự tự cao tự đại là hai mặt của một sự vật, giống như lưỡi dao, cả hai bên đều có lưỡi sắc có thể khiến người khác bị thương…” Lưỡi dao sắc đâu chỉ khiến người khác bị thương, có khi còn làm đau chính mình. Mặc cảm tự ti, không phải chỉ ở những người bình thường, mà ở rất nhiều vĩ nhân cũng tồn tại nó. Làm một con người, không chỉ mỗi người có một sở
trường mà mỗi người còn có một nhược điểm. Nếu như là người yếu đuối thì rất dễ nảy sinh cảm giác tự ti, thế là dùng sở trường của anh ta che đậy đi nhược điểm của anh. Nhưng mặt khác lại dễ sinh ra cảm giác tự đại, thế là đem nhược điểm của anh ta che đậy sở trường. Vì thế thường tự cho là thông minh, tự cảm thấy là anh hùng, tự coi mình là bậc thánh nhân hay lên mặt dạy đời.
Những người ngu dốt mà hay tự làm theo ý mình, thấp kém mà thích chuyên quyền, thích lên mặt dạy đời đều rất dễ mắc lỗi này. Đây chính là tự tay chặt đứt và đưa sự vĩ đại thành công của mình xuống mồ, không biết có bao nhiêu loại người như vậy. Mặt khác, tự tôn không phải là ngạo mạn, tự tôn không phải là cuồng vọng. Tự tôn tự đại luôn ẩn chứa ở bên trong, sự ngạo mạn, tự cao luôn lộ ra ở bên ngoài. Chỉ trông thấy việc nhỏ
mà không trông thấy việc lớn. Việc lớn, nếu đem so với trời đất thì có gì đáng tự cao tự đại đây?
15. TÔN KÍNH CÒN HƠN MỌI TRÒ MA QUỶ
Biết cung kính với người khác mới không bị coi thường
Thành kính giữ lễ với người khác thì không bao giờ phải chịu ấm ức
Khổng Tử khi dạy học sinh có nói: “Cung tắc bất vũ” (cung kính với người khác thì không bị coi thường). Nếu luôn thành kính, giữ lễ với người khác thì không bao giờ phải chịu ấm ức. Đây chính là đạo lý tôn trọng người khác và tôn trọng chính mình. Muốn tự trọng trước hết phải tự tôn trọng mình. Không tự tôn trọng bản thân thì làm sao có thể tôn kính người khác, làm sao có thể tự trọng được. Người tự tôn trọng mình không được hạ thấp mình. Tôn trọng bản thân chính là môn học “chủ kính”. Trình Phu Tử nói: “Kiềm chế phải đi đôi với sự tự tôn trọng”. Tôn trọng bản thân thì không khinh mạn bản thân, tôn trọng cái tâm thì không động đến tâm, tôn trọng hành động thì hành động không phóng túng, tôn trọng sự việc thì không thể làm việc lười biếng, tôn kính trời đất quỷ thần thì không thể vô tình sơ ý với trời đất quỷ thần. Nếu luôn biết giữ cho mình có lòng tôn kính đó, thì làm gì có ai là không thành công? Nếu luôn giữ cho mình có lòng tôn kính đó, thì tinh thần không lúc nào là không tập trung không lúc nào là không chuyên tâm.
Người xưa nói: “Thành giả thiên chi đạo, kính giả nhân sự chi bản” (Sự chân thành chính là đạo trời, kính trọng người khác là điều cơ bản trong cuộc đời), “kính thắng bách tà” (sự tôn kính có thể hơn mọi trò ma quỷ), “xây dựng cơ nghiệp rồi hành sự tạo đó, chỉ một chữ kính”, “kính” không có gián đoạn, cái mà không thể bị mất đó là thành kính”. Phải làm cho thể xác và tâm hồn bớt phóng túng, tinh thần tập trung, không lười không ngại.
Nếu tự cho rằng bản thân mình tôn quý, thì đối với những bậc hiền đức, có học vấn, lại áp dụng thái độ ngạo mạn. Nếu cho rằng mình là người thông minh, không chịu tiếp thu ý kiến của người khác, khoe khoang bản thân - những người như vậy thì chẳng bao giờ được người khác kính trọng.
16. MUỐN TỰ TÔN, TRƯỚC HẾT PHẢI TỰ TRỌNG Sống chết có số con người không cần lo can dự
Vui buồn tùy lúc chẳng phải suy tư
“Công đức thận hành, vi thế sư phạm” (luôn cung kính, làm việc thận trọng, nêu gương sáng cho đời) - đây chính là tiêu chuẩn tự tôn tự trọng, ngay thẳng đứng đắn của người làm lãnh đạo. Tự tôn là tiêu chuẩn của tự trọng, tự trọng là điều kiện của tự tôn. Muốn tự tôn, trước hết phải biết tự trọng. Có thể khẳng định bản thân mới có thể đưa ra vị trí của tự tôn. Coi trọng lượng bản thân mình nặng như thiên hạ mới có thể tự tôn tự trọng và lớn ngang tầm thiên hạ. Coi trọng lượng bản thân mình nhẹ tựa lông hồng, thì sẽ khiến mình chẳng từ bất cứ việc xấu xa nào và chẳng có việc gì cần mình lưu tâm và thực thi. Do đó, người biết tự trọng chắc hẳn không cam chịu thụt lùi, mới có thể trở nên cao quý mà không bị làm nô dịch cho vạn vật. Người phải làm nô lệ cho vạn vật thì thể xác chịu mệt nhọc, người phải làm nô dịch cho danh dự thì tâm trí bị phiền não, người phải làm nô lệ cho lợi ích thì tinh thần bị tổn thương, người phải làm nô lệ cho người khác thì không coi trọng bản thân mình. Do đó Lão Tử nói: “Cái đáng quý ở chỗ bản thân chính là thế giới, lại có thể gửi gắm vào thế giới. Cái đáng yêu ở chỗ bản thân là thế giới, lại có thể nương nhờ thế giới”.
Nghiêu muốn nhường thiên hạ cho Hứa Do, Hứa Do không chịu nhận là vì ông không chỉ tự trọng với bản thân, mà còn tự trọng với thiên hạ. Nếu là người tự trọng thì thể xác sẽ không phải chịu sự vất vả bởi ngoại cảnh, sẽ không bị dục vọng làm mê hoặc tâm trí. Như vậy, bản thân có thể giữ được lời hẹn, giữ được sự đồng nhất, giữ được phạm vi, giữ
được đạo lí.
Người xưa có thơ viết rằng: “Khi say rượu, trời đất không bằng vạn vật, khi rỗi nhàn vạn vật lại kém ai, sống chết có số” con người đâu cần lo lắng. Thêm bớt đúng lúc, bản thân chẳng lo buồn”. Đây chính là sự tự trọng tự đáy lòng, trong lòng có sự chi phối. Hoà thượng Triệu Châu nói: “Các vị thì bị 12 tiếng đồng hồ sai khiến, còn lão tăng lại sai khiến 12
tiếng đồng hồ”. Đây chính là tâm đã có sự chi phối, không bị dao động bởi xung quanh, chỉ những người rất tự trọng mới có thể làm được. Người tự trọng có thể thay đổi trời đất, người không tự trọng sẽ bị đất trời thay đổi. Đây chính là chân lý không thể thay đổi được.
17. TỰ TÔN TỰ ÁI, DANH TIẾT KHÔNG HOEN Ố Người tự tôn tự trọng, chắc chắn phải biết tự ái
Người biết tự trọng không bao giờ coi thường, hạ thấp bản thân, không chịu thụt lùi.
Phần trước đã nói đến tự tôn, tự kính trọng, tự trọng, ở đây lại bàn về tự ái. Làm người thì phải yêu cái gì? Đó là yêu quý nhân cách của bản thân, bảo vệ danh dự của chính mình. Giữ được danh dự mà vẫn có nhân cách, bảo tồn được nhân cách thì mới được hoàn thiện vuông tròn.
Người tự tôn tự trọng hẳn phải biết tự yêu quý mình. Người biết tự yêu quý mình không bao giờ tự coi thường tự hạ thấp mình, tự cam chịu thụt lùi. Người hiểu được thế nào là tự yêu quý bản thân mới có thể được an toàn. Có yêu quý bản thân mới có thể tự tu dưỡng đức hạnh cho mình, có yêu quý tâm hồn của mình mới có thể nuôi dưỡng được tâm hồn.
Người xưa thường nói: “Danh tiết không bị hoen ố”. Muốn cho danh tiết không hoen ố, thì cần biết tự yêu quý bản thân. Trang Tử nói: “Thánh nhân nhẹ nhàng mà bình dị, bình dị mà điềm nhiên, nếu luôn bình dị điềm tĩnh thì bản thân không gặp hoạn nạn khốn khó, không bị ảnh hưởng bởi tà khí, do vậy tâm đức mới được vẹn toàn mà tinh thần không bị tổn hại”. Những điều nói ở đây hoàn toàn là đạo lý tự ái tự tôn. Nhan Tử chỉ một ống cơm, một muôi nước mà vẫn gối đầu lên những tác phẩm kinh điển, an nhàn vui vẻ. Nếu không phải là người hiểu về sự tự yêu quý bản thân thì đâu làm được như vậy.
Chung Li Quyền, một trong tám vị tiên có một bài thơ nội dung như sau: “Sương nhỏ xuống bậc thềm hồng ngọc đầy bờ. Rảnh rỗi đi cùng bầy voi bước đến đỉnh núi phía Tây. Nhưng trái tim trong sạch như hoa sen, hà tất thân thể phải ngang với cành khô. Cổ khiếm hương đưa với cây hồng cổ. Một nửa vầng mây và đám tuyết tan, đám mây trắng khóc lóc. Cho dù không phải là động hoa đào. Nhưng mùa xuân đến hoa đào cũng nở đầy lối đi”.
Đây chính là sự tự yêu quý bản thân. Có biết yêu quý bản thân thì trong lòng mới có những cảnh đẹp khác vời. Có lẽ là: “Trong lòng tôi có một thế giới riêng, thì toàn thể thế giới cũng ở trong lòng tôi”, đây là những điếu Lữ Động Tân đã nói “Trong một hạt thóc chứa cả thế giới”
Khuất Nguyên trong lần ngâm vịnh ở bờ đầm đã thổ lộ tâm sự với người đánh cá: “Nước dòng sông Thương Lãng nếu trong suốt, có thể dùng để giặt sợi dây trên mũ của ta. Nước dòng sông Thương Lãng nếu vẩn đục, thì sẽ dùng để rửa chân của ta”. Những lời bàn như vậy đã thể hiện một chí hướng kiên định không đổi thay theo cuộc đời hỗn loạn.
18. KHÍ PHÁCH CỦA TRANG NAM TỬ
Khí phách là một loại phản xạ thiên cơ, là một cách bộc lộ hoài bão lớn lao.
Bên trong khí khái phải chứa đựng một sức sống vô hạn và thần lực khôn cùng.
Sở Bá Vương nói: “Ta, sức mạnh không gì sánh được, có thể vượt lên đỉnh núi cao. Dũng khí của ta luôn cao vút, chẳng ai có thể sánh được”. Làm người không những cần tự tôn tự kính tự trọng còn cần phải có một khí phách anh hùng như vậy. Người có chí hướng cao xa đặc biệt cần phải biết chú ý bồi dưỡng khí phách anh hùng đó. Có khí phách anh hùng thì mới có thể sáng lập ra một sự nghiệp anh hùng. Có khí phách của một thánh nhân mới có thể sáng lập ra sự nghiệp của một thánh nhân.
Quân tử hiểu biết, tiểu nhân hạ lưu. Người hiểu biết mới có được cách nghĩ thông suốt tuyệt vời. Người an tâm với sự thấp hèn, luôn gặp sao hay vậy nước chảy bèo trôi, chẳng có chút khí phách anh hùng.
Ngạn ngữ nói: “Khí phách chỉ anh hùng là có, tầm thường thì chẳng có gì”. Vì vậy mà những người hành động thiếu thận trọng thì chỉ có sự chuyển động của cuộc sống bình thường chứ không thể có hành động mang khí phách anh hùng. Khí phách là một loại phản xạ cơ mật, là một cách bộc lộ hoài bão lớn lao. Bên trong khí phách phải chứa đựng một sức sống vô hạn và thần lực vô cùng, nếu không sẽ trở nên tự đại và tự khoe khoang. Khoe khoang, tự đại là bệnh thường có của kẻ tiểu nhân, chỉ cần nhìn một cái là biết được ngay, người như vậy không có khí phách anh hùng. Chúng ta thường ở bên cạnh một người, có thể trông thấy khí phách của anh ta, và có thể từ trong khí phách đó tìm thấy phẩm chất của họ. Vì vậy, chỉ người nào biết nuôi dưỡng một khí phách anh hùng xuất chúng siêu quần mới có thể trở thành một anh hùng xuất chúng siêu quần.
Thời Xuân Thu, Thành Anh từng nói với Tề Cảnh Công: “Anh cũng là một người đàn ông, tôi cũng là một người đàn ông, tại sao tôi lại phải sợ anh chứ”. Đây là khí phách của Thành Anh.
Công Tôn Sửu, đệ tử của Mạnh Tử có lần hỏi: “Thưa thầy, khả năng đặc biệt nhất của thầy là gì?” Mạnh Tử nói: “Ta hiểu được sự kỳ diệu của ngôn ngữ. Ta có sở trường về bồi dưỡng tinh thần ngay thẳng cương trực của mình”. Rồi ông trả lời Cảnh Xuân: “Cư trú tại một vùng đất lớn như thế này trong thiên hạ, cần phải tìm một vị trí chính xác trong trời đất, đi lại trên con đường lớn của đất trời, sau khi làm quan phải luôn sát cánh với nguyện vọng của nhân dân, nếu không được làm quan phải kiên trì chí hướng của mình. Nếu phú quý thì không được phóng túng, khi nghèo hèn không được thay đổi chí hướng, khi đối mặt với quyền thế bạo ngược không được khuất phục. Con người như vậy sẽ được gọi là người đàn ông chân chính”.
Mạnh Tử còn nói: “Cứ 500 năm thì lại có một thánh đế thống nhất thiên hạ xuất hiện. Lúc này nhất định sẽ xuất hiện một người kiệt xuất tiếng tăm vang mãi đời sau. Từ đời nhà Chu tới nay, đã hơn 700 năm rồi. Thời gian có thể nói là đã vượt qua rồi, nếu quan sát lúc này cũng nên xuất hiện một bậc thánh hiền danh tướng. Đây là trời cao không muốn trị vì thiên hạ. Bây giờ khiến thiên hạ có được bình an. Những thói đời ngày hôm nay, ngoài ta ra còn có ai?” Mạnh Tử còn nói với người khác: “Các hào kiệt tráng sĩ trong lịch sử không nhiều bằng dưới thời Chu Văn Vương”. Tất cả những điều này đã nói lên lòng dạ và khí phách của Mạnh Tử.
Tu dưỡng tính ngay thẳng cương trực là sự tự tôn, tự tin một cách lớn lao nhất, hàng trăm hàng nghìn năm nay nó không ngừng thúc đẩy con người phát triển đi lên, tự lập hơn người. Jesu - là con của Thượng Đế, nhận lệnh của Thượng Đế là phải chuộc tội cho mọi người, cứu vớt trần thế. Sứ mệnh của ông ta thật là có một không hai, dây cũng chính là khí phách của ông.
19. NGƯỜI GÁNH VÁC TRÁCH NHIỆM LỚN TRÀN ĐẦY KHÍ PHÁCH
Phú quý không vấy bẩn, nghèo hèn mà vẫn vui
Nam nhi như thế mới là anh hùng.
Thơ Lục Do viết: “Chí sĩ núi Tê lòng không ôm hận. Mọi người biết là đã gánh vác trách nhiệm từ ban đầu. Không cần nói là thế hệ Nghiêm Quang. Từ đời Sào, Do còn sai lầm cho đến ngày nay”. Trong lòng các hiền lương ẩn sĩ, còn có một thế giới khác, một trời đất khác, không cần để người ngoài phải biết.
Tăng Tử nói: “Sự giàu có của nước Tấn, nước Sở thì ta không theo kịp. Thế nhưng, ông ta dựa vào sự giàu có của ông ta, ta dựa vào lòng nhân ái của ta, ông ta dựa vào chức quan của ông ta, ta dựa vào nghĩa của ta. Ta còn có điều gì chưa được thỏa mãn đây?”, đây là một khí phách khác thường của Tăng Tử. Có thể nói, “nhân” có thể so sánh với quyền cao chức trọng. Bọn họ coi phú quý tước lộc là tôn quý, ta coi nhân nghĩa mới là tôn quý. Vậy ông ta sao thể vì có chút nương dựa mà coi thường ta, ta sao có thể để cho nhân nghĩa của mình phải sợ hãi ông ta.
Coi thường vương hầu mà khinh bỉ quyển chức bổng lộc, người quân tử luôn biết cân nhắc, lúc này có thể thấy được thực chất to lớn của đạo đức nhân nghĩa. Đây chính là vẻ ngời sáng trong cuộc đời Tăng Tử. Trình Minh Đạo có thơ ca ngợi rằng: “Phú quý không vấy bẩn, nghèo hèn mà vẫn vui. Nam nhi như thế mới là anh hùng”. Các bậc anh hùng hào kiệt mọi người hay nhắc tới không phải được nhìn thấy từ chốn phú quý công danh. Người ở giữa chợ đông và cảnh nghèo hèn, giữa các ẩn sĩ chốn sơn lâm, chỉ cầu cho mình được một chút thôi, đó chẳng phải anh hùng hào kiệt sao?
Lo nỗi “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, đây là khí phách lo cho nước cho dân của Phạm Trung Yêm. Khi còn là một tú tài, ông coi việc thiên hạ là nhiệm vụ của mình. Vì vậy, ông có thể đảm nhiệm công việc
mà người thường không làm được và trở thành người mà người bình thường không thể theo được.
“Muôn đời sau, có thể gặp một người tri kỷ, giống như đã gặp hôm nay đây”. Đây chính là khí phách của Trang Chu khi viết cuốn “Trang Tử”.
“An dật nơi rừng núi, truyền đến tận mọi người”. Đây chính là khí phách Tư Mã Thiên khi viết cuốn sử kí.
“Biết ta phải chăng chỉ là bộ Xuân Thu. Trừng phạt ta phải chăng cũng là bộ Xuân Thu”. Đây chính là khí phách của Khổng Tử khi biên soạn cuốn kinh Xuân Thu.
Chỉ vài chữ mà để đến muôn đời, một chữ mà vĩnh viễn ngàn thu, một văn nhân học giả, nếu không có khí phách lớn lao thì không thể biết cái đáng trọng của mình, cái đáng quý của mình, chỉ nhìn thấy thấp kém hơn người và bị người đời sai khiến.
“Hai tay với sao Nam Đẩu, vươn mình dựa vào sao Bắc Cực, ngẩng đầu nhìn ra khỏi bầu trời. Tôi không phải là con người bình thường như vậy”, “ở biển Đông xuất hiện một vị thánh nhân, người này tâm tương đồng, lý cũng tương đồng, ở biển Tây có xuất hiện một thánh nhân, người này tâm tương đồng, lý cũng tương đồng. Biển Nam biển Bắc đều có thánh nhân, tâm này tương đồng, lý cũng tương đồng. Hàng ngàn hàng vạn năm trước có thánh nhân xuất hiện, tâm này tương đồng, lý cũng tương đồng. Hàng nghìn hàng vạn năm sau có thánh nhân đến, tâm này tương đồng, lý cũng tương đồng”. Đây chính là khí phách của Lục Tượng Sơn.
Một nhà tư tưởng không thể nào thiếu sự đảm nhận này, không thể thiếu khí phách này. “Phía trước không thấy người xưa, phía sau không thấy người đến. Niệm đất trời dài dằng dặc. Một mình đau buồn mà rơi lệ”. Đây hoàn toàn có thể nói là khí phách của một nhà thơ đang một mình một bóng trong trời đất.
“Thề nguyện sẽ cứu độ cho muôn ngàn chúng sinh, thề nguyện sẽ dứt nỗi buồn khổ vô tận, thề nguyện học hết pháp môn vô lượng, thề nguyện sẽ thành Phật đạo vô thượng”. Đây là khí phách của lục tổ Thiền Sư Huệ Năng khi làm lãnh tụ tôn giáo.
“Tôi không vào địa ngục thì ai vào địa ngục”. Đây là khí phách của Bồ Tát Địa Tạng Vương. “Nam nhi có chí hướng xông lên trời cao. Chứ không chỉ như Như Lai”. Đây chính là khí phách của Đại Đức Thiền Tông.
“Trong cuộc đời xưa nay chẳng ai là không chết cả, chỉ lưu lại một tấm lòng son chiếu ngời trong sử sách”. Đây không chỉ là khí phách qua vài câu nói đơn giản, mà qua câu thơ còn thấy được khí phách vì mọi người, và vẫn còn dũng mãnh đến tận hôm nay. Từ các nhân vật anh hùng trong lịch sử có thể thấy được khí phách của họ, và từ trong khí phách đó có thể thấy được con người, nếu không phải là bậc chí sĩ anh hùng hào kiệt, liệu có được khí phách đó không?
20. THIÊN HẠ NGÀY NAY
Lời người không đáng phải lo buồn
Trời đất chưa đáng để sợ hãi
Hán Cao Tổ lần đầu gặp Tần Thủy Hoàng đã nói: “Trời, Đại trượng phu, cần phải như thế này!” sở Hạng Vương nói: “Anh ta, giá tôi có thể giành được anh ta”.
Tào Tháo khi than về cuộc đời nói: “Thà để ta phụ thiên hạ chứ không để thiên hạ phụ ta”. Khi bình luận về các anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, ông nói với Lưu Bị: “Anh hùng trong thiên hạ chỉ có ông và Tào Tháo tôi mà thôi”
Vì vậy nói, lòng vì người khác của chúng ta trước hết phải nuôi dưỡng cho mình một khí khái trong sạch, kiên cường, to lớn, phải dốc hết toàn lực để hoàn thành khí phách đó. Khí phách này cao lớn nguy nga sừng sững như núi Thái sơn, như thảo nguyên Bình Yến rộng nghìn dặm hay lòng Trường Giang cuồn cuộn ngút trời, hay là biển lớn mênh mông vô tận, để cho các tuấn kiệt hàng ngàn đời sau nghe thấy tiếng tăm cảm thấy như được gặp người, không ai là không tôn kính ngưỡng mộ.
Muốn làm một anh hùng hào kiệt cần có một khí phách vô thường: “Thiên hạ ngày nay, ngoài ta ra thì còn có ai” đồng thời còn phải có khí phách để khi hành động được mọi người ca ngợi, không bị phê phán, khi làm gì không có ai phải bàn luận và ngăn trước, lời nói con người không đáng để phải lo nghĩ, trời đất không đáng phải sợ hãi, tổ tông chưa đủ để
noi theo, chuyện thị phi chưa đủ để dựa vào, việc thành bại chưa đủ để tiếc rẻ, sống chết không đáng phải tính toán”. Trước hết phải có sự thức tỉnh lớn, sau đó phải có được công tích lớn, rồi phải biết hoài thai và nuôi dưỡng tinh thần ngay thẳng cương trực trong lòng làm nền tảng, thì mới có được khí phách: “Đã không kêu thì thôi chứ kêu một tiếng khiến người khác kinh ngạc, đã không bay thì thôi chứ vừa bay là vút tận trời xanh”.
Khí phách là sự thể hiện khí chất nội tại của một con người, khí chất luôn lấy sự tu dưỡng đạo đức làm cơ sở. Chúng ta đều biết, điều kiện thành
công của sự nghiệp ở bên ngoài, điều kiện tu dưỡng đạo đức ở bên trong. Tu dưỡng đạo đức không quyết định bởi người khác, xã hội và ngoại vật, mà hoàn toàn là do tự bản thân mà thôi.
Đạo đức không hề có sự khác biệt về ngôi vị cao thấp, trên dưới, lớn nhỏ. Có đức hạnh của một thánh nhân, thì dù là đốn củi gánh nước, làm người quét rác, làm con buôn hay sai dịch cũng đâu có gì khác so với vua Nghiêu vua Thuấn. Do đó không thể luôn hết lòng ca ngợi những nhân vật như Trưởng Tử, Kiệt Nịch.
Một người cam tâm tình nguyện làm một việc tầm thường, có một chức vị nhỏ nhoi, hoàn toàn khác biệt giữa người do giác ngộ mà đi làm việc tầm thường, chức vị thấp và người không hề giác ngộ mà đi làm việc tầm thường, chức vị thấp. Người có tài năng, học vấn trình độ để làm việc lớn, nhưng cam tâm đi làm việc nhỏ, đương nhiên so với những người chỉ
đủ khả năng làm việc nhỏ mà cả đời luôn bị những việc tầm thường sai khiến - cũng không thể nói là giống như nhau được.
Về chức phận làm người với quốc gia, với xã hội mà nói: Lãnh tụ một quốc gia, người nắm việc quân cơ, lãnh đạo các cấp về chính trị đều cần có người làm, mà các chiến sĩ vác súng đứng gác, bảo vệ biên cương cũng càng cần một lượng lớn người đảm nhiệm. Tôi là một chiến sĩ cần làm tròn chức trách một người chiến sĩ, tôi là một nông dân phải làm tròn chức phận của một nông dân, là công nhân, thương nhân thì phải làm tròn chức trách của công nhân, thương nhân, giá trị đối với quốc gia với xã hội của họ so với những người làm lãnh tụ quan viên các cấp đều làm tròn trách nhiệm của mình, có thể nói là như nhau. Đây chính là khí phách phi phàm của những người dân bình thường, sức mạnh mà nó sinh ra mới khiến người người phải kinh ngạc.
21. KHÔNG NÊN SỐNG CHỈ VÌ TĂM TIẾNG
Vĩ đại chân chính trong giá trị nhân sinh là ở chỗ bình thường Điều cao quý nhất của chân chính là ở chỗ phổ thông
Trang Tử nói: “Thiên hạ chẳng ai coi một sợi lông tơ mùa thu là lớn, coi núi Thái Sơn là nhỏ, cũng chẳng ai coi Thương Tử (chết yểu) là trường thọ, coi ông Bành Tổ là số ngắn cả”. Vì nó to lớn nên được coi là lớn, vạn vật không thể không lớn. Vì nó nhỏ nên coi là nhỏ, vạn vật không thể
không nhỏ. To hay nhỏ đều phụ thuộc vào bản thể chính mình, chứ không phụ thuộc vào quan niệm của người khác, và cũng không phụ thuộc bởi nổi tiếng hay không nối tiếng, biết hay không biết.
Các vì sao lơ lửng trên bầu trời, chúng ta nhìn thấy nó rất nhỏ nhưng không thể nói là nó nhỏ. Mặt khác, những điều rất nhỏ bé trong lòng chúng ta cũng không thể làm tổn thương đến cái lớn của bản thể nó. Huống hồ còn có bao điều lớn nhỏ tồn tại mà vẫn chưa được con người phát hiện, vẫn chưa được biết. Ví như các vì sao thì vẫn cứ là các vì sao. Có biết vậy nó cũng không tăng thêm, không biết vậy nó cũng chẳng giảm đi.
Làm người cũng chỉ là làm người, không nên sống chỉ vì danh tiếng, không nên sống chỉ vì để người khác biết đến mình. Lão Tử nói: “Người biết ta không nhiều, điều đó thể hiện sự tôn quý của ta”. Người biết ta nhiều, hành động giống ta, chẳng qua cũng chỉ là bình thường nông cạn, nên rất dễ biết được. Người biết ta ít, hành động giống ta, nên sâu sắc khó đoán, do đó khó lý giải, vì thế mà tôn quý. Hơn nữa, con người trong cuộc đời phần đông có tầm nhìn hạn hẹp, danh tiếng và sự hiểu biết như thế, danh dự và nghị lực như thế, thì sao có thể làm tăng thêm hay giảm đi sự lớn nhỏ về bản chất của chúng ta đây!
Sự vĩ đại chân chính của giá trị cuộc sống là ở cái bình thường. Sự cao quý chân chính cũng nằm ở sự bình thường. Cái bình thường nhất lại có thể vĩ đại nhất, cao quý nhất.
Từ trong sự bình thường nổi lên sự đặc sắc, từ trong sự bình thường nổi bật lên cái vĩ đại, đây chính là đạo lý làm người thực tế nhất, có giá trị
nhất. Chỉ cần bản thân có cống hiến cho nhân loại, cho nhà nước, cho dân tộc, dù không được danh, không được lợi, thì cũng không thể làm tăng hay giảm chút cống hiến nào. Vàng ngọc châu báu chôn vùi trong lòng đất, dù mọi người biết nó vẫn là vàng ngọc, dù không biết nó vẫn là vàng ngọc, việc nâng cao giá trị của nó và hạ thấp giá trị của nó đối với bản thân của nó thì chẳng thể có chút tăng giảm nào. “Chuông vàng thì bị vứt bỏ, tiếng gạch ngói vang lên như sấm dậy”. Trong lịch sử, phần lớn các nhân vật cao cấp trong chính trị đều là “tiếng ngói gõ”, còn “chuông vàng” trong lĩnh vực chính trị rất khó đạt được thành công.
Khổng - Mạnh sống trong thời đại khác nhau, đều là nhân vật hàng đầu, nhưng lại khó dung thân trong lĩnh vực chính trị, chu du khắp các nước, không được các nước chọn dùng, lúc đó, những người như Khổng - Mạnh bị mai một danh tiếng không biết có bao nhiêu. Do đó nói con người là thứ vĩ đại nhất trong lịch sử, thường bị mai một trong những người không tăm không tiếng, chẳng ai biết tới. Tôn chỉ để làm người là: thà làm tiếng chuông vàng bị vứt bỏ chứ không làm tiếng gạch ngói kêu như sấm dậy.
22. AN LÒNG VỚI NHỮNG VIỆC NHỎ
Làm người - không nên chỉ sống vì một cá nhân nhỏ nhoi, hãy sống vì mọi người.
Những người trước ba triều đại Hạ, Thương, Chu đều rất sợ danh tiếng tốt, những người sau ba triều đại đó lại sợ danh tiếng không tốt. Những người trước ba triều đại đều sợ có danh tiếng, những người sau ba triều đại đều sợ không có danh tiếng. Đây chính là những điều rất căn bản ngày một trầm luân của thói đời.
Làm người không nên chỉ sống vì một cá nhân nhỏ nhoi của chính mình mà hãy sống vì mọi người. Sống cũng không phải để trở thành một cá nhân nhỏ bé mà là trở thành một “con người” hoàn chỉnh, vì rời xa người khác thì không có ta. Hơn nữa, làm người không sống vì lợi ích, xa rời danh, xa rời lợi, mới có thể nhận thấy sự tồn tại đích thực của chính bản thân mình, mới có thể thấy được ý nghĩa cuộc đời chân chính. Vì vậy, nhân cách mới trở nên cao cả vô cùng, có thể nói là vô cùng thuần khiết.
Con người sống vì danh lợi có nghĩa là không có nhận thức, không có lý tưởng, không có đức tin, không có hiểu biết, chỉ bôn ba vất vả với hư danh và sự ham muốn vật chất mà thôi. Con người như vậy và hành vi như vậy thì không thấp hèn cũng phải thấp hèn. Khi phân biệt nhân cách và giá trị của hai con người hoàn toàn không phải do ở sự tốt xấu của danh tiếng, sự cao thấp của chức vị hay sự thành bại trong sự nghiệp. Có danh tiếng, có địa vị, có thành công cũng nghĩa là có giới hạn. Không danh tiếng, không địa vị không thành công, cũng là không thể đánh giá, không thể so sánh không thể xưng danh, cũng là không giới hạn.
Do đó, Lão Tử nói: “Đạo” nếu như có thể dùng ngôn ngữ mà nói rõ ràng thì đó không phải là “đạo” nữa. “Danh” nếu như có thể lấy lời lẽ để chải chuốt thì đó không còn là “danh” nữa. Làm người nếu như sống được không thể nổi tiếng, không cần nổi tiếng thì có thể nói anh ta đã đạt tới sự lớn lao”.
Đạo lý “nghịch thành” trong “Dịch Kinh”, đạo lý “Phản Thành” của Lão Tử đều đã chứng tỏ rằng đạo lý chỉ mang tính tương đối. Nhờ “thuận” mà có thể thành công, nhờ “nghịch” cũng có thể thành công, nhờ “chính” mà có thể thành công, nhờ “phản” cũng có thể thành công. Mọi người đều chọn cái lớn chỉ mình ta là chọn cái nhỏ, mọi người đều giành ở trên chỉ mình ta là ở dưới. Do vậy nếu có thể không tranh giành với cuộc đời thì dễ dàng đạt được thành công.
Thiên Huyền Tử nói: “An tâm với sự thấp kém nhỏ nhoi nên ít khi oán hận. Thích giành lớn thích công to nên luôn gây chuyện lôi thôi. Tranh giành quyền lợi nên đánh mất chính mình. Giữ sự hài hòa, ở chức vị thấp thì có thể nhường nhịn người khác”. Điều này có thể coi là “bốn bí quyết xử thế” của đạo lý làm người.
Nói tóm lại, những danh ngôn này luôn giáo dục con người sống phải biết an lòng làm những việc nhỏ, an tâm với địa vị thấp, Người có thể an lòng với việc nhỏ, ở địa vị thấp kém thì cách xử thế của anh ta tự nhiên sẽ không có đố kỵ, không gò bó, nghĩa là không oán hận, không sơ suất. Chúng ta nên vui vẻ lạc quan khi làm những việc bình thường, chức vị thấp, nhưng không có nghĩa là không yêu cầu ta không có sự tiến lên, mà là trong khi làm việc nhỏ có thể làm được đại sự, ở địa vị thấp mà vẫn là một bậc cao minh.
Một hiền triết thời xưa đã nói: “Sự suy xét của người quân tử không vượt quá vị trí của anh ta”. Có nghĩa là yêu cầu mọi người trên một cương vị, chức vụ hiện tại hãy gây dựng nên một sự nghiệp cao siêu mà vĩ đại.
23. TRONG CÔNG VIỆC HIỆN THỰC XUẤT HIỆN THÁNH NHÂN
Sống không được đánh mất đạo làm người của mình, trở thành một người chân chính, chỉ có cách là phải khổ công thực sự.
Mỗi người đều có sự nghiệp cuộc đời của mình, đều có ý nghĩa cuộc sống của mình, đều xác định được lý tưởng cuộc sống của mình. Phạm trù tư tưởng của con người bình thường, nói chung không vượt qua ý nghĩ muốn làm việc lớn, thành đại nghiệp, thành đại danh và luôn hổ thẹn vì những việc tầm thường, sự nghiệp nhỏ bé và danh tiếng ít ỏi. Trong lòng luôn cảm thấy là lớn thì tốt hơn nhỏ, nhưng thực ra lớn nhỏ và cách nhìn của người đời có sự khác biệt rất nhiều.
Các thánh nhân thời xưa nói rằng cuộc đời có ba điều bất hủ đó là: lập đức, lập công và lập ngôn. Trong ba điều này, lập công cần phải xem cơ hội, lập ngôn phải căn cứ vào tình hình thích hợp, chỉ có lập đức là không có tính hạn chế, cũng không có sự phân biệt lớn nhỏ, mà người người đều có thể làm, ai ai cũng được.
Nghiêu, Thuấn có thể trở thành thánh nhân, Khổng Tử không hề có tôn vị của Nghiêu, Thuấn cũng có thể trở thành thánh nhân. Bá Di, Thúc Tề và Liễu Hạ Huệ không hề có ngôn luận như Khổng Tử, cũng chưa từng giảng dạy cho học trò, vậy mà cũng thành thánh nhân. Hơn nữa, trong lịch sử, trong hiện thực còn có biết bao thánh nhân vô danh chẳng qua chỉ là không lôi cuốn sự chú ý của người khác, không được các nhà lịch sử học lưu truyền lại mà thôi. Từ ý nghĩa bản thân của mỗi thánh nhân mà nói, thánh nhân không do nổi tiếng hay không nổi tiếng, lưu truyền hay không lưu truyền mà là do bản thân anh ta có sự nghiệp cuộc đời, ý nghĩa cuộc sống, lý tưởng sống và do đạo làm người của anh ta.
Trên thực tế, sự quý giá của con người không nằm ở chỗ họ có làm việc lớn, lập đại nghiệp, thành công lớn hay không, mà do ở chỗ họ có đạo đức khát vọng của thánh nhân, có thể nói là trong công việc hiện thực xuất hiện thánh nhân, chứ không là sự tưởng tượng vô căn cứ, từ trên trời rơi xuống. Chủ tịch nhiệm kỳ thứ nhất của thành phố trực thuộc Trùng
Khánh nói: “Quan niệm của tôi là ở công việc hiện thực, dù có cho tôi đi quét dọn nhà vệ sinh, tôi cũng sẽ quét dọn sạch sẽ hơn người khác”. Đây chính là quan điểm của thánh nhân - Thánh nhân không để ý đến địa vị, cũng không để ý đến hư danh, mà điều quan tâm chính là công việc và sự
nghiệp hiện tại của mình. Đây chính là nguyên nhân của ba điều bất hủ của Thánh Nhân.
Còn về các đế vương trong lịch sử, có mấy người trở thành thánh nhân? Vị trí của họ quả cao đến đỉnh điểm đó! Nghiêu Thuấn là bậc đế vương, Lương Trụ cũng là bậc đế vương. Một thì được người đời tôn kính, một thì bị ngàn đời chửi rủa. Do đó nói, tiêu chuẩn cao nhất trong cuộc đời không phải là trở thành một đế vương mà là thành một thánh nhân, không phải được đánh giá bằng địa vị chính trị mà là bằng tu dưỡng đạo đức. Địa vị chính trị là cái bên ngoài, tu dưỡng đạo đức mdi là cái bên trong. Địa vị là chi tiết trong cuộc đời, đạo đức là căn bản cuộc đời. Đạo làm người chỉ chú trọng điều căn bản chứ không chú trọng những chi tiết.
24. VƯỢT KHỎI PHẠM VI NHỎ BÉ CỦA CHÍNH MÌNH Cho dù việc lớn hay việc nhỏ, bất cứ lúc nào cũng làm hết mình, hết trách nhiệm, thì chức trách cũng được hoàn thành đúng lúc.
Sở dĩ chúng ta đặc biệt nhấn mạnh khi sống phải biết vui dù làm việc nhỏ, an tâm với chức vị thấp, khiến cho mọi người luôn thoải mái khi làm việc nhỏ và yên lòng với địa vị thấp, mục đích chính là để mọi người có thể yên phận với chức vị của mình, không đi tranh quyền đoạt lợi. Ở đây, trước hết cần phải nâng cao tu dưỡng đạo đức và bản chất làm người của mọi người, thuận lợi cho việc nâng cao trình độ nhân tài và trình độ chính trị của mọi người và tạo thành tinh thần đạo đức tuyệt đối chân thành, trong sáng, thuần tuý và tinh thần đại trí, đại nhân, đại dũng của thánh nhân, thăng hoa một cách cao độ đến mức độ “trời và người hợp nhất” của thuyết duy vật, thuyết tề vật và thuyết tương đối, để con người trong sáng đến mức là trung tâm của sự văn minh và khoa học.
Do vậy làm người không nên bị hạn chế bởi sự lớn nhỏ, bị khống chế bởi thời gian, bị kìm hãm bởi không gian, cần phải có quan niệm vượt khỏi chính mình, vượt qua không gian, thời gian, vượt quá phạm vi lớn nhỏ, trở thành chính mình một cách bình thường nhất mà đặc biệt nhất, bình thường nhất mà kiệt xuất nhất, nhỏ bé nhất mà vĩ đại nhất. Như vậy mới có thể phát huy giá trị cuộc sống, phát huy sự tôn nghiêm khi làm người, hoàn thành một nhân cách hoàn thiện và cao thượng.
Giữ quan niệm: “Không để nhỏ làm tổn hại lớn, không để ít làm tổn hại nhiều”, bỏ đi sự tranh chấp lớn nhỏ, bỏ đi ý định cao thấp, bỏ đi ham muốn phú quý, bỏ đi những tính toán quyền lợi mà toàn tâm toàn ý đi làm việc nhỏ, có thể là con buôn hay sai dịch, có thể là quét dọn nhà vệ sinh, quét dọn đường phố, thì cũng có tấm lòng của một thánh hiền, dù là gánh nước nấu cơm cũng có khí chất của vua Nghiêu, vua Thuấn.
Làm việc nhỏ, nói ngược lại chính là làm việc lớn, nếu như tự nhiên từ trong công việc nhỏ, trong chức vụ thấp lại xuất hiện một bậc thánh hiền, như vậy chẳng phải việc lớn cũng chính là việc nhỏ sao. Như một con khỉ sau khi tắm xong, cho nó mặc trang phục của Nghiêu Thuấn, đội
mũ của Trang Công, nhưng con khỉ vẫn là con khỉ, đương nhiên con người không thể biến con khỉ trở thành Nghiêu Thuấn, Trang Công. Vì thế, địa vị về mặt chính trị tuyệt nhiên không hề nâng cao nhân cách con người, ý nghĩa cuộc sống và quan niệm về giá trị hoàn toàn nằm ở bản chất làm người của anh ta.
“Hết lòng tận tụy, có chết đời sau cũng biết đến”, Gia Cát Lượng đã nói câu này, nó chứa đựng tinh thần làm việc quên mình đến chết cũng hoàn thành trách nhiệm. Cho dù chức trách là lớn hay nhỏ, chủ hay thứ, tinh thần làm việc quên mình lấy cái chết hoàn thành nhiệm vụ chính là tinh thần của một thánh nhân.
Cho dù việc lớn hay việc nhỏ nếu bất cứ lúc nào cũng làm hết trách nhiệm, làm hết phận sự thì chức trách sẽ được hoàn thành đúng thời hạn. Chức trách có thể hoàn thành đúng lúc, cuộc đời cũng có thể được hoàn thành đúng lúc, nghĩa là có thể từ trần ở mọi nơi mọi lúc. Cuộc đời là hữu hạn, sự nghiệp là vô hạn, do đó nên hướng một cuộc đời hữu hạn vào một sự nghiệp vô hạn.
25. GIỮ VỮNG CHỦ KIẾN CỦA MÌNH
Chẳng liên luỵ, chẳng sợ hãi, chẳng tính toán, về sau sẽ không bị ngoại vật bó buộc
Không có sinh tử, không có thị phi, không có vinh nhục, về sau sẽ có một nhân cách độc lập.
Cho dù là làm việc nhỏ hay làm việc lớn, mục đích là để có thể hoàn thiện nhân cách bản thân từ trong sự nghiệp chứ không phải là vì để đạt được hư danh, giành được phú quý. Nếu không thà ở nơi thấp kém, thà rằng nghèo hèn.
Phú và quý là điều mà con người đều khát khao có được nhưng không phải có được bằng con đường chính đáng - rất hiếm. Nghèo và hồn là điều mà mọi người rất ghét, thế nhưng không thể vứt bỏ nó thông qua con đường chính đáng, thà rằng không vứt bỏ. Muốn làm được điều này thì cần phải có sự rèn luyện tinh thần lạc quan với số mệnh của mình.
Khổng Tử đã từng nói: “Người không hiểu được mệnh trời thì không thể trở thành quân tử”. Ông còn nói: “Tôi không oán hận ông trời, cũng không trách con người, truyền dạy lễ lạt, đạt đến thiên mệnh, hiểu ta chỉ có ông trời thôi”. Làm người nếu có thể yên với mệnh trời, vui vẻ lạc quan, tự nhiên sẽ không oán không hận, không có đố kị, không có gò bó, tự nhiên lòng dạ rộng mở, tinh thần vui vẻ, chẳng có gì là không thích hợp, chẳng chỗ nào là không an tâm. Sự thịnh vượng của đại đạo là do số mệnh, sự suy tàn của đại đạo cũng do số mệnh. Khi Khổng Tử bị thổ dân của nước Khuông vây khốn ông nói: “Sau khi Chu Văn Vương chết, văn hóa lễ nhạc của nhà Chu không phải đều biểu hiện ở con người ta sao? Ông trời nếu không muốn tuyệt diệt con người văn hóa này, thì người nước Khuông có thể làm gì được ta đây?”. Vì vậy mà nói, làm người dù được hay mất cũng phải an với số trời, đối với việc sống và chết thì cũng như vậy,
Tử Hạ nói với Tư Mã Ngưu: “Tôi từng nghe nói: Sống chết có số, phú quý tại trời”. Trang Tử cũng từng nói rằng: “Khi có thể đạt được, đó
là thời vận, khi mất đi cũng phải thuận theo. An với thời vận mà biết cách thuận theo thì vui buồn hay đau khổ đều không bị ảnh hưởng, đây chính là cách lý giải mà người xưa từng nói. Làm người thì không thể tự hóa giải được, thì sự vật sao đều có thể giải thích được. Hơn nữa, vật thì không thể thắng “thiên”, đây là quy luật vĩnh hằng không thay đổi, ta sao có thể
ghét nó đây!”
Trang Tử nói: “Con người vĩ đại thì không có bản thân mình, thần thì không có công tích, thánh thì không có danh tiếng”. Sau đó còn mượn câu nói của một người không rõ tên tuổi nói rằng: “Anh rong chơi trong cuộc sống thanh bạch, hòa hợp với cảnh mênh mông vắng vẻ, thuận theo tự nhiên mà không có chút tư lợi nào, thì thiên hạ đã được thái bình rồi. Lại đem “chí đạo” trong truyện Quảng Thành Tử cho hoàng đế vận dụng để tu thân dưỡng tính, nói: “Tinh hoa của chí đạo thì sâu không thể đo được. Đỉnh điểm của chí đạo trầm tĩnh sâu thẳm, không cần nhìn cũng chẳng cần nghe, chăm chú suy ngẫm thì có thể tự nhiên sẽ khoẻ mạnh, tỉnh táo không lo, không cần phải làm phiền thể xác của bạn, không cần quấy rối tinh thần bạn, không cần phải làm khổ cho tâm tư của bạn”. Đây chính là con đường duy nhất để tĩnh tâm tĩnh trí, cũng là công phu thượng thừa để lạc quan với số mệnh.
Một người nếu muốn có thể an lòng với số mệnh cần phải luôn luôn thoải mái ở mọi nơi, yên tâm ở mọi lúc. La Hồng Tiên nói: “Khi có thể thoải mái thì hãy vui vẻ, đến được chỗ vô lo thì đừng ưu sầu”. Đối với cuộc đời, nếu tất cả sự việc đều có thể nhìn một cách rộng lượng thì tự
nhiên cõi lòng sẽ rộng mở vô cùng. Và khi đó tư tưởng lạc quan, đau buồn, lo lắng tự nhiên sẽ không hề tồn tại nữa.
Đào Đảng nói: “Không có mệt nhọc, không sợ hãi, không tính toán thì sau này không bị trói buộc bởi ngoại vật. Không có chuyện sống chết, không có chuyện thị phi, không có vinh nhục, sau này sẽ có một nhân cách độc lập”. Ông còn nói: “Khi được đắc ý thì liền vui mừng, khi không được như ý thì ưu sầu, như vậy sẽ bị điều khiển bởi sự thuận nghịch của hoàn cảnh, thì bản thân sao có thể làm chủ được? Loài trâu ngựa bị con người
xâu mồm xâu mũi, bắt nó làm nó phải làm, cho nó nghỉ nó mới được nghỉ, nhưng lại không biết rằng tất cả những người có thể sai khiến mình trên đời này đều là những người xâu qua lỗ mũi của mình một sợi dây thừng cứng chắc. Bị hoàn cảnh chi phối, tức là bị nó xâu vào lỗ mũi, ta sao có thể làm chủ đây, cũng chỉ giống như loài trâu ngựa bị xỏ mũi mà thôi”.
An phận thủ thường tức là có thể giữ vững được chủ kiến của mình, mọi điều trong lòng mình phải vững vàng, không bị công danh phú quý mê hoặc, không bị tiền của thanh sắc sai khiến. Hiên ngang sừng sững, không bị dao động bởi ngoại cảnh, đây chính là thái độ lạc quan mà không phải là tự đắc.
26. SỐNG BẰNG ĐỨC HẠNH CỦA MÌNH
Mệnh lập nên trong vuông, phúc cầu được ở tròn
Khổng Tử nói: “Quân tử mọi mặt đều phải dựa vào chính mình, tiểu nhân mọi mặt đều ỷ lại vào người khác”. Đại trượng phu sống cần phải tự lập chứ không cần sự giúp đỡ của người khác. Khổng Tử nói: “Sống bằng đức hạnh của mình, dựa vào sức của mình để làm người chân chính”. Đây chính là đạo lý làm người vĩ đại. Nếu “Sống dựa vào người khác để đứng lên, cầu sự giúp đỡ của người khác” đây là đạo lý làm người của kẻ tiểu nhân.
Nghèo cũng không nên cảm thấy nhục nhã, nếu nghèo mà không tự làm lấy mà ăn mới là nhục nhã. Hèn cũng không nên cảm thấy nhục nhã, nếu hèn mà phải cầu cạnh người khác mới là nhục nhã. Ngươi nếu có thể xem thường thiên tử, ngạo mạn vương hầu, coi thường tước lộc, thờ ơ với công danh thì chẳng cần phải cầu cạnh người khác. Người muốn cầu cạnh người khác chắc chắn coi thường chính bản thân mình và hắn cũng coi thường người khác.
Mạnh Tử nói: “Yêu quý con người mà không cảm thấy thân thiết thì hãy tự hỏi lại xem mình có thật sự đạt đến nhân ái hay không. Quản lý mọi người mà quản lý không xong hãy tự hỏi lại mình có tài năng thật hay không, lấy lễ tiết đối xử với người khác mà không được đáp lại thì hãy tự hỏi mình có thật sự cung kính hay không, khi làm việc mà không có hiệu quả hãy tự hỏi lại chính mình, tìm ra nguyên nhân còn tồn tại”. Khi bản thân chân chính thì thiên hạ sẽ quy thuận theo, do đó trong “Kinh Thi”
nói: Nếu lời nói và việc làm của mình luôn hợp với mệnh trời, thì có thể tìm được mọi nguồn hạnh phúc”. Khi bản thân tìm được mọi nguồn hạnh phúc, thì tức là anh ta đã hoàn thành mục tiêu đầu tiên của cuộc đời trong việc làm người. Trong cuốn “Thượng Thư - Đại Giáp Biên” có nói: “Tai họa từ trên trời giáng xuống vẫn có thể tránh được, nghiệp chướng mà mình tạo ra mới là không thể tránh được”. Câu nói mà Đạo gia thường nói: “Số phận của ta nằm trong tay ta chứ không phải tại trời”, cũng chính có nghĩa là: “Số mệnh do ta tạo nên, phúc do ta cầu đến”.
Cho dù là một bậc thánh nhân hay một con người bình thường, đều quyết định bởi chính mình. Do đó một thánh nhân thời xưa nói: “Sự phân biệt là thánh nhân hay là người điên đều ở chữ “niệm” (ý nghĩ)”. Nếu bị mê hoặc bởi ý nghĩ thì sẽ cuồng vọng tự cao tự đại. Nếu kiềm chế được ý định tự cao tự đại thì sẽ là thánh nhân. Là phúc hay là hoạ, là thành công hay thất bại, người thông minh chỉ nhìn qua cái là thấy ngay. Do đó mới nói: “Đạo đức là phụ thuộc thái độ đôi nhân xử thế của mình, bậc thánh nhân cũng phải dựa vào chính bản thân mình”.
27. TỤ HỘI ĐƯỢC CHÍNH KHÍ CỦA ĐẤT TRỜI SẼ THÀNH CÔNG
Tiết tháo không thể tạo nên
Nhân cách có thể bị mất hoàn toàn do hám lợi.
Lão Tử, Khổng Tử, Phật Thích Ca, Na Tra đều là những người tụ hội được chính khí của đất trời mà thành, hội tụ được nhiều thì thành công lớn, hội tụ được ít thì thành công nhỏ, chẳng có cái gì là không phải như thế này mà tạo thành thế kia được. Do đó mới nói là trời đất có thể bằng nhau. Quốc gia có thể thoái thác, tước lộc có thể vứt bỏ, tiền tài có thể chối từ, cơm áo có thể thiếu thốn, đầu có thể lìa, có thể vỡ, thân có thể bị chém, có thể bị phơi khô nhưng đạo nghĩa thì không thể làm trái, không thể rời xa trong khoảnh khắc. Đây chính là cái gọi là đại nhân thời xưa.
Lão Tử nói: “Trong đất trời có bốn cái lớn: đạo, thiên, địa, nhân”. Con người có thể nhận thức được cái đạo của đất trời để xây dựng cái khí của đất trời, đây chính là tinh thần ngay thẳng cương trực vô cùng cứng rắn, có thể chứa đầy đất trời mà Mạnh Tử đã nói. Hào khí này nếu được dùng vào lúc thành đạt, có thể kinh thiên động địa, nếu dùng vào lúc khôn, có thể lấy cái chết để giữ tròn đạo nghĩa. Cái chết vào lúc đường cùng này chính là khí tiết hay tiết tháo mà người ta thường nhắc đến, tức là tiết tháo hi sinh vì nghĩa lớn, xả thân vì nghĩa, lấy cái chết giữ đạo nghĩa, coi thường cái chết - thường nhắc đến trong lịch sử.
Khổng Tử nói: “Buổi sáng nghe mà hiểu được đạo nghĩa thì tối có chết cũng đáng”. Trong ranh giới giữa sự sống và cái chết, “nếu đạo còn thì mình còn tồn tại, nếu đạo không còn thì mình nên chết đi, những gì trông thấy trước mắt chỉ là đạo, không phải suy nghĩ sự sống chết tồn vong của bản thân”. Nếu không nghe thấy đạo, thì ranh giới sống chết cũng chẳng thể phân biệt rõ ràng, không thể tránh khỏi thoái chí nhục nhã, công danh mất trắng, vi phạm đạo nghĩa mà sống lén lút, cẩu thả.
Chính khí không được tu dưỡng, tà khí tất sẽ sinh ra ở trong lòng. Tiết tháo không thể lập nên, nhân cách lại có thể bị mất toàn bộ do hám
lợi. Như vậy nếu không phải là đứa con ngỗ ngược của gia đình thì cũng là con sâu trong xã hội, nếu không phải là gian thần của nước nhà thì cũng là kẻ ngu xuẩn của nhân loại. Đến cầm thú cũng không bằng, thì sao có thể trở thành người tốt được.
Ngày trước, vua Nghiêu muốn nhường lại thiên hạ cho Hứa Do, Hứa Do không nhận mà lui về ở ẩn. Đây chính là chính khí, cũng là tiết tháo. Khi nhường lại cho vua Thuấn, Thuấn đợi Nghiêu chết, chịu tang ba năm sau, trốn đến phía Nam của Nam Hà, nhưng nhân dân trong thiên hạ đều đi theo ông, vạn bất đắc dĩ ông phải nhận chức. Đây là chính khí, cũng là tiết tháo. Vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà An đối xử bạo ngược với nhân dân. Thang nhà Ân, Vũ nhà Chu trượng nghĩa đứng lên làm cách mạng. Đây là chính khí cũng là tiết tháo. Y Quân trợ giúp Thái Giáp, Chu Công phò tá cho Thành Vương, đây đều là biểu hiện của chính khí.
Thời xưa, thừa tướng Tỉ Vu trước khi chết vẫn còn can gián, chứa đầy trung nghĩa. Bá Di, Thúc Tề chịu chết đói trên núi Thủ Dương mà không chịu xuất hiện, Trung Bao Tư đứng bảy ngày đêm trong triều nhà Tần khóc lóc thảm thiết để giữ được nước Sở, Tử Lộ đã nói ra chuyện nước Vệ phản loạn, chạy đi cứu giá, đến chết vẫn giữ tròn khí tiết. Nhan Nhân chỉ một ống cơm, một muôi nước mà không thay đổi niềm vui của mình. Tăng Tử mặc áo bào thô còn chưa hoàn chỉnh, bữa cơm toàn rau dại, cám lợn mà cũng không đủ no, nhưng chức Thượng Khanh không hợp đạo nghĩa cũng từ chối chẳng làm. Hình Khoái Hối chết vì Trang Công, Ngọc Yết chết vì đô thành, hưởng bổng lộc của nước nhà nên phải chết để bảo vệ, tôi trung không thờ hai chủ. Bình Nguyên Quân coi sự cao quý là bạn bè thì thật hèn hạ, coi sự giàu sang làm phản là vì nghèo khổ nhưng không rời khỏi Ngụy Tề sang Tần, Ngu Khanh giao toàn bộ tướng ấn rồi cùng Ngụy Tề chạy sang Đại Lương, Ngụy Tề vì câu nói “Mới đầu khó mà gặp được” của Tín Lăng Quân mà tự sát. Tất cả những việc như vậy, vừa là chính khí, cũng là tiết tháo.
Nếu như chúng ta có thể tu dưỡng được những chính khí này, tiết tháo sẽ tự được hình thành mà tiếng tăm nổi khắp thiên hạ, có thể trở thành
một tấm gương để ngàn đời noi theo. Nếu như có thể lấy điều đó để báo ơn với tổ quốc tức là có thể “trung thành”, lấy điều đó để phục vụ nhân dân tức là có nhân nghĩa, lấy điều đó để làm việc trên quan vị của mình tức là tự coi trọng bản thân, lấy điều đó để quản lý tài chính là có thanh liêm, lấy điều đó để kết giao bạn bè là có lòng tín nghĩa, lấy điều đó để tu tâm dưỡng tính là nghiêm túc cẩn thận, tiếng tăm thế này không phải tùy tiện mà có được, sự tồn tại này không phải tùy tiện mà đạt được, cái chết không phải tự nhiên mà tránh được, như thế tự nhiên sẽ trung thành với nhật nguyệt, hào khí khắp đất trời. Làm sao để mãi là khí phách bậc đại trượng phu “phú quý không hề vấy bẩn, nghèo hèn không hề đổi thay, uy lực không thể khuất phục” mà Mạnh Tử đã nói đây?
28. PHONG THÁI LỚN THÌ DUNG LƯỢNG LỚN
Lớn đến mức có thể chứa được trời đất, rộng đến mức không có giới hạn là tròn. Tròn có thể chứa được đất trời.
Trời chẳng bao giờ che phủ không công bằng, đất không bao giờ chịu sức nặng một cách thiên lệch, nhật nguyệt không bao giờ chiếu rọi không công bằng. Đây chính là điều kiện để mỗi người đạt được thành công, cũng chính là nghệ thuật anh hùng và nghệ thuật chính trị.
Những người biết cách hình thành cho mình một tính khí cương trực, tự nhiên sẽ có một khí chất, phong thái, khí phách, khí tiết của tính cách ngay thẳng cương trực. Khí chất lớn, phong thái tự nhiên sẽ lớn. Phong thái lớn, phí phách tự nhiên sẽ lớn lao. Công phu khí chất mà các bậc thánh hiền nhắc đến, những người nào có được khí chất thiên địa thì sẽ là khí chất của thánh nhân. Rất khó để hình thành khí chất này, cả bậc thánh nhân cũng khó có được. Anh hùng hào kiệt, đế vương tướng soái, chỉ có thể thấy được khí phách và phong thái của họ, đây chính là bản lĩnh bậc hai. Nếu dễ làng hình thành thì dễ dàng thành công, do đó cả thiên hạ đều cuồn cuộn, đều là như vậy. Nếu một người không thể dung nạp người khác, không biết dung nạp sự vật, không biết dung nạp cuộc đời thì sao có thể biến mọi vật phục vụ mình, sao có thể xây dựng nghiệp lớn và lập công được. Có dung lượng, đó là phong thái. Phong thái hơn người mới có thể dung nạp con người, phong thái hơn vật mới có thể dung nạp sự vật, phong thái hơn đời mới có thể dung nạp cuộc đời, phong thái hơn trời đất mới có thể dung nạp trời đất. Nếu đối tốt với con người thì dễ được lòng người, nhờ người mà thành sự nghiệp, nhờ đời mà lập được công, có chỗ dung nạp thì mới tụ hội được. Dung lượng này phụ thuộc vào phong thái, phong thái lớn thì dung lượng lớn, thành công cũng sẽ lớn, phong thái nhỏ thì dung lượng nhỏ, thành công cũng rất nhỏ.
Thời xưa, Triệu Khang tiết công trước khi chết mở hai tay ra hiệu cho Trinh Y Xuyên nói: “Con đường phía trước hẹp, ngày nay cần phải mở rộng. Con đường chật hẹp thì mình không chỗ lập thân”. Huống hồ còn để cho người khác đi lại? Cái mà người học thể hiện ra là những việc
thuộc phương diện học thuật, cái mà anh hùng hào kiệt sở dĩ có thể dùng đời, dùng người làm cái cơ bản để sáng lập sự nghiệp. Có thể dung nạp một nhà, thì một nhà được anh ta dùng, có thể dung nạp một vùng, thì một vùng được anh ta dùng, có thể dung nạp một nước thì một nước được anh ta dùng, có thể dung nạp toàn thiên hạ, toàn thiên hạ được anh ta dùng. Mà nếu lấy một nhà hay một vùng đi đối địch với cả thiên hạ thì thành bại ra sao? Trang Tử nói: “Cái không tương đồng mà lại có thể tương đồng được gọi là cái lớn, nơi chưa đi đến bờ bến được coi là rộng”. Nếu như chỉ có thể giống với cái tương đồng, làm việc mình có thể làm được, như vậy sẽ vừa nhỏ vừa hẹp, không thể dung nạp những thứ khác.
Do đó, vật lớn đến mức có thể chứa được trời đất rộng đến mức không có giới hạn chính là hình tròn. Trong hình tròn có thể chứa đựng trời đất.
29. CON NGƯỜI BỊ CÔ LẬP SẼ NGUY HIỂM
Bản thân cô lập, bản thân gặp nguy hiểm
Một nhà cô lập, một nhà gặp nguy hiểm
Một nước cô lập, một nước gặp nguy hiểm.
Phải như thế nào mới có thể hình thành một phong thái không gì sánh được? Trước hết phải hình thành nó từ lĩnh vực học thuật.
Học đến mức trước chẳng ai bằng, sau chẳng ai hơn, siêu phàm tuyệt thế, phong thái của anh ta tự nhiên là như vậy. Có thể học được đến mức rợp trời kín đất, học cả những gì chứa trong câu chữ, thì sao lại không thể không dung nạp con người, sự vật và cuộc đời được. Những gì học được là rộng lớn, những gì tích lũy được thì phong phú, những gì nhìn thấy thì xa rộng, phong thái như vậy chắc chắn sẽ lớn lao, tấm lòng hẳn sẽ khoáng đạt. Hơn nữa, trong lòng không thể chỉ có một cá nhân mình, một sự riêng tư của mình. Rất nhiều nhân vật thiên tài, thậm chí cả lãnh tụ xưa nay có thể thành sự nghiệp lớn, xây dựng đại nghiệp mà lại thất bại trên hành trình lịch sử là do đã mắc phải lỗi “ý, tất, cố, chấp”.
Vì trong lòng chỉ tồn tại một mình mình, vì tư chất tự nhiên của mình hơi khác với người thường, nên cảm thấy tự cao tự đại, cảm thấy “mình trở thành thánh nhân”. Đây chính là đã mắc lỗi “kỷ”. Tiết Văn Thanh Công nói: “Con người sở dĩ có hàng ngàn hàng vạn lỗi lầm chỉ vì ở họ có chữ “kỷ”. Do vậy tính toán mọi cách chỉ muốn cho mình giàu sang, yên ổn, vui sướng và sống lâu. Còn như sự nghèo hèn, nguy nan, vất vả, chết chóc của người khác thì không thèm quan tâm. Thế là sức sống không thu về được, lẽ trời bị tuyệt diệt. Cho dù có thể xác con người nhưng thực chất đâu có gì khác với loài cầm thú. Nếu như có thể sửa được lỗi “kỷ” trong mình, không vì phú quý nghèo hèn, yên vui, sống chết, có thể cùng chung sống hòa bình với con người, thì làm ăn thông suốt, hai bên đều được như ý của mình, lẽ trời đại thịnh, có một cảm nhận tưởng như không thể có được mà lại giành được”. Nếu như có thể quên bản thân mình, thì tự nhiên
sẽ không phải suy nghĩ, không phải ép buộc, không phải cứng rắn, không phải chấp hành nữa.
Mắc lỗi “ý, tất, cố, chấp” tức là trong lòng đã có tính toán cho bản thân, như vậy không phải là “tự thông minh, tự hùng mạnh” mà là “ngu xuẩn tự cho là đúng”. Người tự cho mình luôn đúng thì sẽ bị cô lập. Con người không thể trơ trọi một mình, cô lập tức là sẽ nguy hiểm. Bản thân cô lập bản thân sẽ nguy hiểm; một nhà cô lập, một nhà sẽ nguy hiểm; một nước cô lập, một nước sẽ nguy hiểm.
Người thông minh thực sự phải biết dựa vào trí tuệ của người khác. Làm người không nên chỉ dựa mỗi trí tuệ của mình, nếu không sẽ là trí tuệ của người đần độn. Đây không phải là hành động thông minh. Khi so sánh với người, sẽ rơi vào thất bại mà không hề hay biết. Do vậy Lão Tử
nói: không tự trông thấy thì sẽ hiểu được, không tự cho mình là đúng thì tiếng tăm sẽ lẫy lừng, không tự cho mình là đúng mà còn biết dựa vào người khác, không tự dung nạp mình mà còn dung nạp người, quên đi mình tức là để tồn tại mình. Đây chính là nghệ thuật xử thế vuông tròn.
Lão Tử còn nói: “Thánh nhân không có tấm lòng bình thường mà ông lấy tấm lòng của nhân dân trăm họ làm tấm lòng của mình. Người tốt thì ta dùng, đối xử tốt với anh ta, người xấu ta cũng dùng, cũng đối xử tốt với anh ta, như vậy thì có thể được điều tốt. Người giữ chữ tín ta tín nhiệm anh ta, người không giữ chữ tín ta cũng tín nhiệm anh ta, như vậy thì có
thể được tín nhiệm. Thánh nhân ở trong thiên hạ, khi hít thở không khí thì quên mất rằng vạn vật và mình có sự khác biệt, trăm họ đều chú ý đến ông ta, cứ như thánh nhân cũng giống như một đứa trẻ. Như vậy thánh nhân thường lấy cái thiện để cứu vớt mọi người, do đó không vứt bỏ bất cứ một con người nào, lấy cái thiện để cứu vớt vạn vật, do đó không vứt bỏ vạn vật. Đây là phong thái cao thượng làm sao, khí chất cao cả làm sao.
30. NHẪN NHỤC CHỊU ĐỰNG, CÓ DUNG LƯỢNG LỚN Trên nắm tay, người có thể đứng được
Trên cánh tay ngựa có thể phi được.
Có khí khái của một thánh nhân, thì có thể dung nạp được đất trời. Có khí phách của một lãnh tụ thì có thể dung nạp được thiên hạ. Cho dù thân hay sơ, tốt hay xấu, ta hay địch, cho dù là thông minh hay ngu dốt, hiền tài hay phẩm hạnh xấu xa, ta đều có thể lấy sự độ lượng để dung nạp họ, khiến cho họ giống như con cá quên mất rằng mình đang ở trong ao hồ vậy. Con người quên rằng mình ở giữa đất trời, không muốn cầu được thánh hiền mà muốn tự nhiên được làm thánh hiền, vậy còn phải lo buồn vì mọi người không chịu sự lãnh đạo của mình. Khi hít thở khí trời mà quên rằng mình và vạn vật có sự khác biệt, quên đi sự cạnh tranh lẫn nhau thì có thể thành thật với nhau được.
Con người nếu muốn kế tục thành công đại nghiệp lưu truyền muôn đời thì không thể thiếu khí chất to lớn khoáng đạt, ngay thẳng cương trực. Đây là điếu mà người bình thường cũng có thể làm được. Nhưng học vấn trong thiên hạ không phải chỉ với trí tuệ của một cá nhân là có thể hiểu hết được. Sự nghiệp trong thiên hạ không phải chỉ dựa. vào sức lực của một cá nhân là có thể làm được. Sự mênh mông của biển cả không phải chỉ một dòng nước là có thể hợp thành. Cái sừng sững của núi đồi không phải chỉ một gò đất mà chất lên được. Đạo lý này đã cho thấy rằng: “Phải biết dựa vào sức mạnh của cộng đồng mới có thể sinh tồn. Nếu độc đoán ngang ngược thì sẽ bị diệt vong”.
Trời đất có khả năng dung nạp, người muốn thành công đại nghiệp thì phải có sự độ lượng. Dù Hạng Vũ có sức khoẻ nhổ được núi đồi, khí phách cái thế, tay không mà gây dựng cơ đồ đánh bại nhà Tần nhưng khi tranh hùng tranh bá với Lưu Bang vẫn không tránh khỏi thất bại, ông ta không những không dung nạp người khác, ngay cả bậc kỳ tài như Phạm Tăng cũng không dung nạp. Còn như so với Lưu Bang: Lưu Bang biết dung nạp vô số người như Phạm Tăng. Do vậy, mới thấy rằng sự độ lượng trước có thể làm bạn với khắp thiên hạ, sau có thể dung nạp thiên hạ, biết
độ lượng thì trước có thể áp đảo khắp thiên hạ, sau có thể chỉ huy toàn bộ thiên hạ. Trí tuệ, trước có thể áp đảo thiên hạ, sau có thể xoay chuyển thiên hạ. Dùng khí, trước có thể áp đảo thiên hạ, sau có thể dựa vào thiên hạ. Một người nếu có đươc phong thái như vậy thì có thể cao lớn ngang bằng trời đất.
Phong thái mà mọi người thường nói là bao gồm đại lượng, sự rộng rãi, sự bao dung và sức chịu đựng. Cách tu dưỡng của nó chủ yếu vẫn là có thể bỏ hẳn lòng đố kị, oán hận, đặc biệt là phải biết khoan dung và tha thứ. Như vậy vừa có thể biết thông cảm, biết khoan dung mà không tính toán chuyện được mất. Lữ Khôn nói: “Nỗi đau lớn nhất của một học giả
chính là khí phách lớn hay nhỏ”. Vì thế Đào Giác nói: “Anh hùng hào kiệt từ xưa tới nay chỉ vì không chịu thiệt mà làm hỏng biết bao việc khác”.
Trong Đường thư có lời giáo huấn “phải biết nín nhịn chịu đựng”, nhà Phật có nghĩa cử “nhẫn nhục”, Na Tra có lời răn dạy “Người đánh ta mặt bên trái, ta lại quay mặt bên phải ra đón”. Đây đều là những dẫn chứng tốt nhất để rèn luyện sự bao dung độ lượng.
"""