"
Nghệ Thuật Tư Duy Rành Mạch PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nghệ Thuật Tư Duy Rành Mạch PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
NGHỆ THUẬT
tư duy
RÀNH
MẠCH
99 LỖI TƯ DUY CẦN TRÁNH
Rolf Dobelli, Die Kunst des klaren Denkens
Copyright ©2011 Carl Hanser Verlag, Munich/FRG
All rights reserved.
Published by Carl Hanser Verlag, Munich/FRG
Xuất bản theo hợp đồng nhượng quyền giữa
Carl Hanser Verlag GmbH & Co. KG và Nhã Nam
Bản quyền bản tiếng Việt © Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam, 2016.
DÀNH TẶNG SABINE
M
LỜI MỞ ĐẦU
ùa thu năm 2004, một ông trùm truyền thông ở châu Âu mời tôi đến Munich tham dự sự kiện được miêu tả là một “cuộc trao đổi thân mật của giới trí thức”. Tôi thì chưa bao giờ tự coi bản thân là “trí thức” - tôi từng theo học kinh doanh, chuyên ngành này thực ra còn khiến tôi trái ngược với một trí thức - thế nhưng tôi cũng đã viết được hai cuốn tiểu thuyết, và tôi đoán rằng điều đó khiến mình được xem như đủ tư cách khách mời.
Nassim Nicholas Taleb cũng có mặt ở đó. ời điểm ấy, ông là một thương gia Phố Wall chưa có tiếng tăm, một người đam mê triết học. Người ta giới thiệu tôi là một chuyên gia về thời kỳ Khai sáng của Scotland và Anh quốc, đặc biệt chuyên sâu về triết lý của David Hume. Hẳn nhiên, tôi đã bị nhớ nhầm với ai đó. Dù rất đỗi ngạc nhiên, tôi vẫn nở nụ cười gượng gạo với quan khách trong phòng, và cứ thế đáp lễ họ bằng sự im lặng như minh chứng cho sự tinh thông triết học của mình. Ngay lập tức, Taleb kéo một chiếc ghế trống và vỗ tay vào đó. Tôi liền ngồi xuống. Sau vài trao đổi qua loa về Hume, may mà cuộc trò chuyện chuyển sang đề tài Phố Wall. Cả hai đều kinh ngạc trước những sai lầm có hệ thống trong quá trình ra quyết định của các CEO và lãnh đạo doanh nghiệp -không ngoại trừ cả hai chúng tôi. Chúng tôi tán gẫu về thực tế rằng, ngẫm lại những sự việc không ngờ tới hóa ra lại có khả năng xảy ra cao hơn nhiều những sự việc được định
sẵn, rồi cùng cười trước những lý do khiến các nhà đầu tư không chịu từ bỏ cổ phiếu của họ khi chúng mất giá đến mức thấp hơn cả giá mua. Sau sự kiện ấy, Taleb gửi cho tôi vài trang bản thảo quý báu của ông, những trang mà tôi đã nhận xét và góp vài lời phê bình. Những trang sách đó sau này đã trở thành một phần của tác phẩm bán chạy khắp toàn cầu của ông, iên nga đen. Cuốn sách đã đưa Taleb gia nhập hàng ngũ các trí thức tinh hoa. Cũng trong khoảng thời gian này, đam mê viết lách trong tôi lớn dần lên, tôi bắt đầu đọc ngấu nghiến những cuốn sách và bài viết của các nhà khoa học xã hội và khoa học nhận thức về các đề tài như “suy nghiệm và thành kiến”, rồi tôi còn tăng cường trao đổi email với rất nhiều nhà nghiên cứu cũng như đến thăm phòng thí nghiệm của họ. Tới năm 2009, tôi nhận ra rằng, ngoài công việc của một tiểu thuyết gia, tôi còn trở thành một nhà nghiên cứu tâm lý học nhận thức và xã hội học.
Việc không thể suy nghĩ thấu suốt, hay điều mà các chuyên gia gọi là một “lỗi nhận thức”, là sự đi chệch có hệ thống khỏi logic - chệch khỏi cách cư xử và tư duy tối ưu hợp tình hợp lý. Khi dùng từ “có hệ thống”, tôi muốn nói đó không chỉ là những sai lầm thi thoảng mắc phải trong xét đoán, mà là những sai lầm đều đặn, những rào cản đối với logic mà chúng ta vấp phải hết lần này đến lần khác, những kiểu tư duy lặp đi lặp lại từ thế hệ này sang thế hệ khác và kéo dài nhiều thế kỷ. Chẳng hạn như, chúng ta thường đánh giá quá cao sự hiểu biết của chính mình chứ chẳng mấy khi đánh giá thấp nó. Tương tự, nguy cơ đánh mất một thứ gì đó khiến chúng ta bị kích động hơn nhiều so với khả năng kiếm được thứ tương tự. Khi ở bên cạnh những người khác, chúng ta thường có xu hướng điều chỉnh cách cư xử của mình cho phù hợp với cách cư xử của họ, chứ không phải ngược lại. Những câu chuyện ngắn khiến chúng ta bỏ qua phân bố thống kê (tỷ lệ cơ bản) ẩn phía
sau, chứ không phải ngược lại. Sai lầm chúng ta mắc phải vì cứ mải miết đeo đuổi cùng một kiểu tư duy cũ cứ chất chồng lên nhau ở một góc riêng dễ đoán giống như quần áo bẩn vậy, trong khi góc bên kia thì vẫn được giữ khá sạch sẽ (nghĩa là chúng chất đống trong “góc tự tin thái quá”, chứ không phải “góc thiếu tự tin”).
Để tránh ném khối tài sản tôi đã tích lũy được trong suốt sự nghiệp cầm bút vào những canh bạc vô bổ, tôi bắt đầu lập ra một danh sách các lỗi nhận thức mang tính hệ thống ấy, bổ sung các ghi chú và những câu chuyện cá nhân làm minh họa - mà không hề có ý định sẽ xuất bản chúng. Ban đầu tôi chỉ định lập ra danh sách này cho riêng mình. Trong đó, một số lỗi tư duy đã được biết đến hàng thế kỷ nay, còn số khác chỉ được phát hiện trong vài năm qua. Một số lỗi được đặt cho hẳn hai đến ba cái tên, và tôi lựa chọn những cái tên được sử dụng rộng rãi nhất. Chẳng bao lâu tôi nhận ra công việc biên soạn những cái bẫy tư duy đó không chỉ hữu ích cho việc đưa ra quyết định đầu tư, mà còn cho việc kinh doanh cũng như xử lý các vấn đề cá nhân. Từ khi soạn ra danh sách này tôi đã cảm thấy bình tĩnh và điềm đạm hơn. Tôi bắt đầu nhận ra những sai lầm của bản thân sớm hơn và có thể né tránh chúng trước khi xảy ra tổn thất khó cứu vãn. ế là, lần đầu tiên trong đời, tôi có khả năng nhận biết khi nào thì những người khác có thể bị chi phối bởi chính những sai lầm mang tính hệ thống kia. Với một danh sách như thế, giờ đây tôi đã có thể cưỡng lại sức hút của chúng - và thậm chí còn giành lợi thế trong các cuộc giao dịch. Tôi đã có các thư mục, các thuật ngữ và những cách lý giải để xua đi bóng ma của sự phi lý. Từ thời Benjamin Franklin làm thí nghiệm thả diều, sấm chớp không hề xuất hiện với tần suất ít đi, hay giảm cường độ hoặc bớt ồn ào hơn - nhưng chúng đã
trở nên bớt đáng lo ngại. Đây chính xác là điều giờ đây tôi cảm nhận về sự phi lý trí của chính mình.
Không bao lâu sau thì bạn bè biết đến bản danh sách của tôi và tỏ ra quan tâm. Kết quả là một chuyên mục trên các tuần báo ở Đức, Hà Lan và ụy Sĩ ra đời, cùng với đó là vô số những buổi thuyết trình (chủ yếu là trước các bác sĩ, giới đầu tư, thành viên ban quản trị, các CEO và quan chức nhà nước), rồi cuối cùng là cuốn sách này.
Xin hãy nhớ cho ba điều khi bạn đọc những trang sách sắp tới: thứ nhất, bản danh sách các lỗi ngụy biện trong cuốn sách này chưa phải là hoàn thiện. Chắc chắn người ta sẽ còn phát hiện ra những lỗi khác nữa. ứ hai, phần lớn các lỗi này có liên quan đến nhau. Điều này vốn dĩ không có gì đáng ngạc nhiên. Xét cho cùng thì mọi phân khu của bộ não đều được liên kết với nhau. Những phóng chiếu thần kinh dịch chuyển từ phân khu này sang phân khu khác của bộ não; không có khu vực nào hoạt động độc lập cả. ứ ba, nghề nghiệp chính của tôi là tiểu thuyết gia và doanh nhân, chứ không phải là một nhà khoa học xã hội; tôi không có phòng thí nghiệm riêng để thử nghiệm các lỗi nhận thức, và tôi cũng không có một nhóm nghiên cứu để cử đi tìm kiếm các lỗi hành vi. Trong lúc viết cuốn sách này, tôi giống như một dịch giả có nhiệm vụ chuyển ngữ và tổng hợp những gì mình đã đọc và học được - để diễn giải chúng thành những từ ngữ mà người khác có thể hiểu. Tôi vô cùng kính phục các nhà nghiên cứu trong những thập niên gần đây đã phát hiện ra những lỗi nhận thức và lỗi hành vi ấy. ành công của cuốn sách này về cơ bản là một sự tri ân đối với công tác nghiên cứu của họ. Tôi hàm ơn họ rất nhiều.
Đây không phải là một cuốn sách kim chỉ nam. Bạn sẽ không tìm thấy “bảy bước để đạt được cuộc sống không sai lầm” ở đây. Những lỗi nhận thức
in sâu trong tiềm thức chúng ta đến mức không thể nào rũ bỏ chúng hoàn toàn. Chỉ có ý chí siêu nhiên mới có thể triệt tiêu chúng, nhưng đó thậm chí không phải là một mục tiêu đáng hướng tới. Bởi không phải tất cả những lỗi nhận thức đều nguy hại, và một số trong đó thậm chí còn cần thiết để giúp ta sống tốt. Mặc dù cuốn sách này không cung cấp chìa khóa mang đến hạnh phúc, nhưng chí ít nó cũng đảm bảo cho bạn có thể đương đầu với quá nhiều bất hạnh bạn vẫn tự gây ra cho mình.
Nguyện vọng của tôi vốn dĩ khá giản dị: nếu chúng ta có thể học được cách nhận ra và tránh khỏi những sai lầm lớn nhất trong tư duy - trong đời sống riêng, trong công việc, hay trong quản lý nhà nước - chúng ta có thể tận hưởng sự thịnh vượng vượt bậc. Chúng ta sẽ không cần thêm những mưu ma chước quỷ, những ý tưởng mới, những công cụ không cần thiết, hay sự nỗ lực đến quên mình - tất cả những gì chúng ta cần chỉ là bớt phi lý trí đi mà thôi.
1
VÌ SAO BẠN NÊN ĐI VIẾNG CÁC NGHĨA TRANG
ành kiến sống sót
N
hìn đâu Rick cũng thấy những ngôi sao nhạc rock. Họ xuất hiện trên truyền hình, trên trang nhất các tạp chí, trong các chương trình hòa nhạc, và trên các trang của người hâm mộ. Đâu đâu cũng nghe thấy những bài hát của họ - trong trung tâm mua sắm, trong danh sách phát của máy nghe nhạc cá nhân, trong phòng tập gym. Các ngôi sao nhạc rock có mặt ở khắp nơi. Có rất nhiều người như thế. Và họ đều thành công cả. Những câu chuyện về vô số tay guitar xuất sắc khích lệ Rick, khiến anh chàng thành lập một nhóm nhạc. Nhưng liệu Rick có thể làm nên chuyện? Khả năng thành công chỉ nằm ở mấp mé con số không. Như rất nhiều người khác, có khả năng cao anh chàng sẽ kết thúc sự nghiệp ở nghĩa địa của những nhạc sĩ thất bại. Các nhạc sĩ trú ngụ trong nghĩa địa ấy đông hơn gấp mười nghìn lần số nhạc sĩ đứng trên sân khấu, thế nhưng chẳng có nhà báo nào hứng thú đưa tin về các thất bại của họ cả - trừ trường hợp của những siêu sao thất thế. Điều này làm cho những nghĩa trang kia trở nên vô hình đối với người ngoài cuộc.
Trong cuộc sống hằng ngày, vì chiến thắng hiển hiện rõ ràng hơn thất bại, nên bạn thường đánh giá cơ hội thành công cao hơn mức thực tế. Là một người ngoài cuộc, bạn (cũng như anh chàng Rick) rơi vào ảo tưởng và
quên mất tỷ lệ thành công trên thực tế nhỏ đến thế nào. Như bao người khác, Rick là một nạn nhân của thành kiến sống sót.
Đằng sau mỗi tác giả được ưa chuộng, bạn có thể tìm thấy một trăm văn sĩ khác chẳng bao giờ bán được sách. Đằng sau họ lại là một trăm người nữa thậm chí còn chẳng tìm được đơn vị xuất bản. Đằng sau những người này lại là một trăm người khác có những bản thảo dang dở đóng bụi trong các ngăn kéo. Và đằng sau mỗi người trong số đó là một trăm người khác đang mơ mộng rằng - một ngày nào đó - họ sẽ viết một cuốn sách. Riêng bạn thì chỉ nghe nói đến những tác giả thành công (ngày nay, nhiều người trong số họ còn tự xuất bản sách của mình), mà không nhận ra rằng thành công trong văn chương khó đạt được đến thế nào. ực tế đó cũng áp dụng với giới nhiếp ảnh gia, doanh nhân, nghệ sĩ, vận động viên, kiến trúc sư, những người đoạt giải Nobel, những người dẫn chương trình truyền hình, và những người đẹp trong các cuộc thi nhan sắc. Giới truyền thông hoàn toàn không có hứng thú đào bới quanh khu mộ của những kẻ không thành công. Đó cũng không phải là phận sự của họ. Để tránh sập bẫy thành kiến sống sót, chính bạn phải tự đào sâu tìm hiểu.
Bạn cũng sẽ gặp phải thành kiến sống sót khi giải quyết chuyện tiền nong hay rủi ro: hãy hình dung bạn của bạn thành lập một công ty mới. Bạn nằm trong nhóm các nhà đầu tư tiềm năng, và nhận thấy một cơ hội thực sự: đây có thể là một Google thứ hai. Có thể bạn sẽ gặp may mắn. Nhưng thực tế là gì? Kịch bản dễ xảy ra nhất chính là công ty đó thậm chí còn không thể bước qua vạch xuất phát. Kịch bản thứ hai dễ xảy ra hơn là công ty đó sẽ bị phá sản trong vòng ba năm. Trong số các công ty sống sót qua ba năm đầu này, phần lớn không bao giờ phát triển đến hơn mười nhân viên. Nếu như thế, bạn chớ nên mạo hiểm đầu tư số tiền mồ hôi nước mắt của mình hay sao?
Không nhất thiết như vậy. Nhưng bạn nên hiểu rằng thành kiến sống sót ấy đang hiện hữu, bóp méo tỷ lệ thành công một cách tinh vi. Ta hãy lấy ví dụ là chỉ số bình quân công nghiệp Down Jones. Chỉ số này chỉ bao gồm những người sống sót tuyệt đối mà thôi. Các doanh nghiệp nhỏ và thua lỗ không thể nào gia nhập thị trường chứng khoán, nhưng lại chiếm phần lớn trong tổng số các doanh nghiệp. Chỉ số chứng khoán không thể hiện nền kinh tế của một quốc gia. Tương tự như thế, báo chí cũng không đưa tin về tất cả các nhạc sĩ. Và bạn cũng nên cẩn trọng với số lượng đông đảo các cuốn sách và diễn giả thuyết trình về thành công: những người không thành đạt chẳng bao giờ viết sách hay diễn giảng về các thất bại của họ.
ành kiến sống sót có thể trở nên đặc biệt nguy hại khi bạn trở thành hội viên của đội “chiến thắng”. ậm chí nếu thành công của bạn có được hoàn toàn do tình cờ, bạn sẽ phát hiện ra những điểm tương đồng với những người chiến thắng khác và coi chúng như là các “yếu tố làm nên thành công”. Tuy nhiên, nếu từng một lần thăm viếng nghĩa trang của các công ty và cá nhân thất bại, bạn sẽ nhận ra rằng họ cũng sở hữu nhiều phẩm chất làm nên thành công giống như bạn.
Nếu có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về một hiện tượng cụ thể, một vài nghiên cứu sẽ công bố những kết quả có ý nghĩa thống kê hoàn toàn do tình cờ - ví dụ như mối liên hệ giữa mức tiêu thụ rượu vang đỏ và tuổi thọ cao. Những nghiên cứu (không chính xác) này ngay lập tức sẽ rất được quan tâm và yêu thích. Vì thế, bạn sẽ chẳng đời nào đọc được thông tin về những nghiên cứu có kết quả chính xác nhưng “tẻ nhạt”.
ành kiến sống sót đồng nghĩa với việc: mọi người đánh giá quá cao khả năng thành công của họ một cách có hệ thống. Hãy đề phòng sai lầm bằng
cách thường xuyên thăm viếng nghĩa trang của các thương vụ đầu tư, các dự án và những nghề nghiệp từng-có-lúc-hứa-hẹn. Chuyến thăm ấy có thể buồn thật, nhưng nó sẽ giúp giữ cho đầu óc bạn được sáng suốt.
2
HARVARD CÓ LÀM BẠN THÔNG MINH HƠN?
Ảo tưởng về vóc dáng kình ngư
T
iểu luận gia kiêm thương gia Nassim Taleb quyết tâm xử lý đám mỡ thừa ngoan cố của mình, nên ông bèn cân nhắc thử tập nhiều môn thể thao khác nhau. Có điều, mấy tay chạy bộ trông có vẻ khẳng khiu và khổ sở quá, trong khi những gã tập thể hình trông lại thô kệch và ngu ngốc, còn những tay đua xe thì sao? Ôi trời, toàn những gã nặng mông! Trong khi đó thì, những tay kình ngư thu hút ông nhờ vóc dáng cân đối, thon gọn. Ông bèn quyết định đăng ký tại một bể bơi địa phương và tập luyện chăm chỉ hai lần một tuần.
Sau một thời gian ngắn, ông nhận ra mình đã rơi vào ảo tưởng. Những kình ngư chuyên nghiệp có được cơ thể hoàn hảo không phải nhờ tập luyện miệt mài. Đúng hơn, họ bơi lội giỏi chính là nhờ vóc dáng của họ. Kết cấu cơ thể chính là một nhân tố giúp họ được chọn chứ không phải là kết quả từ hoạt động rèn luyện. Đối với những người mẫu nữ quảng cáo mỹ phẩm cũng vậy, rất nhiều người tiêu dùng nữ tin rằng các sản phẩm đó giúp họ trở nên xinh đẹp. ế nhưng đâu phải mỹ phẩm khiến các cô gái ấy xinh đẹp như người mẫu. Đơn giản chỉ là các cô người mẫu kia bẩm sinh đã hấp dẫn rồi, và chỉ vì thế nên họ mới được chọn để quảng cáo mỹ phẩm. Còn với vóc dáng kình ngư, thì vóc dáng đẹp là một nhân tố để được chọn, chứ không phải là kết quả.
Bất cứ khi nào chúng ta nhầm lẫn các nhân tố để chọn lọc với kết quả, chúng ta rơi vào cái mà Taleb gọi là ảo tưởng vóc dáng kình ngư. Nếu không có sự ảo tưởng này, một nửa các chiến dịch quảng cáo sẽ chẳng đạt được kết quả. ế nhưng thành kiến này không chỉ liên quan đến mong ước có được một bộ ngực đẹp hay gò má chuẩn mực. Chẳng hạn, trường Harvard có tiếng là một đại học hàng đầu. Rất nhiều người vô cùng thành đạt đã từng theo học ở đó. Liệu có phải vì Harvard là một ngôi trường tốt? Chúng ta không biết được điều đó. Có lẽ ngôi trường ấy dở tệ, nhưng nó lại chiêu mộ được những sinh viên sáng dạ nhất. Tôi từng kinh qua hiện tượng này tại Đại học St. Gallen ở ụy Sĩ. Đây được coi là một trong mười trường kinh doanh hàng đầu tại châu Âu, nhưng những buổi học tôi từng tham dự (dù sao cũng xin lưu ý là chúng diễn ra hai mươi lăm năm trước) lại chỉ ở mức tầm tầm. Tuy nhiên, rất nhiều người tốt nghiệp trường ấy ra lại thành công. Lý do là gì vẫn còn chưa rõ - có thể là vì khí hậu ở vùng thung lũng hẹp hoặc thậm chí là đồ ăn ở căng tin. ế nhưng lý do khả dĩ nhất có lẽ chính là sự tuyển chọn gắt gao.
Khắp nơi trên thế giới, các trường đào tạo MBA(1) chiêu dụ thí sinh bằng những số liệu liên quan đến thu nhập tương lai. Tính toán đơn giản này nhằm mục đích chứng tỏ rằng tiền học phí cao ngất ngưởng sẽ được bù đắp trong một thời gian ngắn. Cách làm này khiến rất nhiều sinh viên tiềm năng sập bẫy. Tôi không có ý nói là các trường cường điệu hóa số liệu, thế nhưng bạn không nên tin sái cổ những tuyên bố của họ. Tại sao? Bởi vì những người theo đuổi tấm bằng MBA vốn đã khác biệt so với phần còn lại. Chênh lệch thu nhập giữa cả hai nhóm bắt nguồn từ vô vàn các lý do vốn chẳng liên quan gì đến tấm bằng MBA cả. Một lần nữa chúng ta lại thấy ảo tưởng vóc dáng kình ngư phát tác: nhân tố của sự chọn lọc bị nhầm lẫn với kết
quả. Do đó, nếu như bạn đang cân nhắc học lên cao, hãy làm điều đó vì những lý do nằm ngoài một khoản lương cao hơn.
(1) Master of Business Administration (MBA or M.B.A.), thạc sĩ quản trị kinh doanh. (Mọi chú thích trong sách đều là của người dịch và Ban biên tập tiếng Việt.)
Khi tôi hỏi những người hạnh phúc về bí quyết đạt được sự mãn nguyện, tôi thường được nghe những câu trả lời kiểu như “Bạn phải nhìn nhận chiếc cốc đầy một nửa thay vì vơi một nửa”. Cứ như thể những người ấy không hề nhận ra rằng họ sinh ra đã hạnh phúc và giờ đây có xu hướng nhìn thấy điều tích cực ở vạn sự. Họ không hề nhận ra rằng tính cách tươi vui - theo rất nhiều nghiên cứu, chẳng hạn nghiên cứu do Dan Gilbert thuộc trường Harvard tiến hành - chính là một đặc điểm tính cách chủ đạo được duy trì suốt đời. Hoặc, như các nhà khoa học xã hội David Lykken và Auke Tellegen tuyên bố thẳng tưng, “cố gắng cảm thấy hạnh phúc hơn cũng vô ích như cố gắng trở nên cao ráo hơn”. Vì thế, ảo tưởng vóc dáng kình ngư cũng chính là một dạng tự ảo tưởng. Khi những người lạc quan ấy viết sách rèn luyện bản thân (self-help), ảo tưởng này có thể trở nên lừa mị. Đó là lý do ta nên bỏ qua những lời khuyên lẫn bí kíp mà những tác giả ấy đưa ra. Đối với hàng tỷ người, những lời khuyên ấy khó lòng có tác dụng. Bởi những người không hạnh phúc thì chẳng bao giờ viết sách rèn luyện bản thân về các thất bại của họ cả, nên thực tế này vẫn bị che giấu.
Kết luận: Hãy cẩn trọng khi người ta khuyến khích bạn cố gắng đạt được một số thứ nhất định - cho dù đó là cơ bụng săn chắc, vẻ ngoài không tì vết, một thu nhập cao hơn, tuổi thọ cao hơn, một phong thái đặc biệt, hay là hạnh phúc. Bạn có thể sập bẫy ảo tưởng vóc dáng kình ngư. Trước khi quyết định dấn thân, xin bạn hãy nhìn vào gương - và thành thật với những gì mình nhìn thấy.
3
VÌ SAO TA THẤY MÂY CÓ HÌNH THÙ
Ảo tưởng tụ nhóm
V
ào năm 1957, ca sĩ opera người ụy Điển Friedrich Jorgensen mua một cái đài quay băng để ghi âm giọng ca của mình. Khi nghe lại phần ghi âm, ông nghe thấy những tiếng động lạ, những tiếng thì thầm nghe giống như những thông điệp siêu nhiên vậy. Vài năm sau, ông ghi âm tiếng chim hót. Lần này, ông lại nghe thấy giọng nói thì thầm xa xăm của người mẹ đã khuất: “Fried ơi, Fried con yêu, con có nghe thấy mẹ nói không? Mẹ đây.” ế là đủ. Cuộc đời Jorgensen đảo lộn hoàn toàn và ông dành trọn thời gian để liên lạc với người đã khuất qua những đoạn băng ghi âm.
Năm 1994, Diane Duyser đến từ Florida cũng trải qua một cuộc chạm trán với thế giới bên kia như vậy. Sau khi cắn lát bánh mì nướng và đặt nó xuống đĩa, bà nhìn thấy gương mặt của Đức Mẹ Đồng Trinh trên đó. Ngay lập tức, bà dừng ăn và cất giữ thông điệp thần thánh ấy (với một vết cắn) vào trong một cái hộp nhựa. Vào tháng Mười một năm 2004, bà bán đấu giá miếng bánh được giữ gìn gần như nguyên vẹn ấy trên eBay. Miếng bánh mì để ăn hằng ngày đó đem lại cho bà 28.000 đô la.
Năm 1978, một phụ nữ từ New Mexico cũng có một trải nghiệm tương tự. Những vết đen trên miếng bánh tortilla của bà tạo ra hình trông giống như gương mặt của Đức Chúa Jesus. Báo chí liền chộp ngay lấy câu chuyện,
và hàng ngàn người lũ lượt đổ tới New Mexico để chiêm ngưỡng đấng cứu thế trong hình hài chiếc bánh. Trước đó hai năm, tức năm 1976, nhà thám hiểm của tàu vũ trụ Viking chụp từ trên cao một thành tạo đá trông giống như khuôn mặt người. “Gương mặt trên sao Hỏa” trở thành chủ đề nóng của các tờ báo trên toàn cầu.
ế còn bạn thì sao? Bạn đã bao giờ nhìn thấy những gương mặt trên các đám mây hay hình dáng của loài vật trên các tảng đá hay chưa? Dĩ nhiên là có rồi. Chuyện này hoàn toàn bình thường. Bộ não chúng ta luôn tìm kiếm những khuôn mẫu và quy tắc. ực ra, nó hoạt động còn tích cực hơn thế. Nếu không thấy một hình mẫu quen thuộc nào, bộ não sẽ tự động chế ra một hình mẫu nào đó. Dấu hiệu càng khó đoán, ví dụ như tiếng động xa xăm trong băng ghi âm, thì càng dễ để tìm thấy những “thông điệp ẩn” đằng sau nó. Hai mươi lăm năm sau khi “gương mặt trên sao Hỏa” được phát hiện, tàu vũ trụ Mars Global Surveyor gửi về những hình ảnh rõ nét, sinh động của các thành tạo đá kia: gương mặt người đầy thu hút ấy hóa ra chỉ là cồn đá bình thường giữa sa mạc.
Những ví dụ phù phiếm ấy khiến cho ảo tưởng tụ nhóm tưởng như vô thưởng vô phạt; nhưng không phải vậy. Hãy nghĩ đến các thị trường tài chính vẫn sản xuất ồ ạt hàng núi dữ liệu mỗi giây. Một người bạn của tôi đã cười khoái trá mà bảo rằng cậu ta vừa phát hiện ra một quy luật trong biển dữ liệu. “Nếu anh nhân sự thay đổi phần trăm của Dow Jones với sự thay đổi phần trăm của giá dầu, anh sẽ có được sự dịch chuyển của giá vàng trong hai ngày tới.” Nói cách khác, nếu như giá cổ phiếu và dầu mỏ cùng leo thang hoặc đi xuống, thì giá vàng sẽ tăng sau hai ngày. Lý thuyết của cậu ta tỏ ra chính xác trong một vài tuần, cho đến khi cậu ta đầu tư tất tay khoản
tiền rất lớn và hệ quả là quẳng hết tiền tiết kiệm của mình qua cửa sổ. Cậu ta đã cảm nhận được một quy luật không hề tồn tại.
oxxxoxxxoxxoooxooxxoo. Chuỗi ký tự này liệu có phải là ngẫu nhiên không, hay đã được tính toán trước? Giáo sư tâm lý học omas Gilovich đã phỏng vấn hàng trăm người để tìm câu trả lời. Hầu hết trong số họ không muốn tin rằng chuỗi ký tự đó là vô nghĩa. Họ cho rằng hẳn là có một quy luật nào đó tạo nên trình tự của các ký tự. Lầm rồi, Gilovich liền giải thích, và ông chỉ vào một con súc sắc: ta hoàn toàn có thể thả được cùng một số bốn lần liên tiếp trong một lượt chơi, một điều khiến cho nhiều người cảm thấy khó hiểu. Rõ ràng là chúng ta khó lòng chấp nhận rằng những sự việc như thế có thể diễn ra thuần túy ngẫu nhiên.
Trong ế chiến II, người Đức đã đánh bom London. Trong các loại đạn dược, họ sử dụng tên lửa V1, một loại máy bay không người lái tự dẫn đường. Cứ mỗi đợt tấn công, các khu vực chịu ảnh hưởng lại được đánh dấu cẩn thận trên bản đồ, khiến cho dân London phải khiếp sợ: họ cho rằng họ đã phát hiện ra một quy luật và dựng lên những giả thuyết về khu vực an toàn nhất của thành phố. Tuy nhiên, sau chiến tranh, phân tích số liệu lại khẳng định rằng sự phân bổ là hoàn toàn ngẫu nhiên. Ngày nay lý do đã trở nên rõ ràng: hệ thống dẫn đường của V1 vô cùng thiếu chính xác.
Nói tóm lại: chúng ta thường nhạy cảm quá mức trong việc phát hiện quy luật. Hãy lấy lại thái độ hoài nghi ban đầu của bạn. Nếu bạn nghĩ rằng mình vừa phát hiện ra một quy luật, thì trước tiên hãy coi đó như một sự ngẫu nhiên thuần túy. Nếu nó có vẻ quá đúng, hãy tìm một nhà toán học và kiểm nghiệm dữ liệu trên bằng thống kê. Và nếu có phần nào trên chiếc bánh của bạn giống y hệt như gương mặt của Chúa Jesus, hãy tự hỏi bản
thân: nếu như ngài thực sự muốn lộ diện, vì sao ngài không làm vậy ngay ở quảng trường ời Đại hoặc trên đài CNN?
4
KỂ CẢ KHI NĂM MƯƠI TRIỆU NGƯỜI CÙNG NÓI VỀ THỨ NGỚ NGẨN NÀO ĐÓ, THÌ NÓ VẪN CỨ LÀ THỨ NGỚ NGẨN
Bằng chứng xã hội
B
ạn đang trên đường đến xem một buổi hòa nhạc. Ở một ngã tư, bạn bắt gặp một đám người, tất cả đều chăm chăm nhìn lên trời. Không cần suy nghĩ, bạn cũng ngước lên theo. Tại sao vậy? Bằng chứng xã hội. Giữa buổi hòa nhạc, một ai đó bắt đầu vỗ tay và bất ngờ cả phòng vỗ tay theo. Bạn cũng vậy. Vì sao? Bằng chứng xã hội. Sau buổi hòa nhạc, bạn đi đến quầy gửi áo để lấy lại áo khoác. Bạn quan sát thấy những người phía trước bạn đặt một đồng xu lên chiếc khay, mặc dù chính ra thì dịch vụ gửi đồ đã bao gồm cả trong giá vé. Vậy bạn sẽ làm gì? Hẳn là bạn cũng sẽ để lại tiền tip.
Bằng chứng xã hội, đôi khi được gọi là “bản năng bầy đàn”, làm cho các cá nhân cảm thấy như mình cư xử đúng khi hành động giống như những người khác. Nói cách khác, càng có nhiều người theo đuổi một suy nghĩ cụ thể, thì ta càng cảm thấy ý tưởng đó đúng đắn. Và càng nhiều người thể hiện một cách hành xử cụ thể, thì cách hành xử ấy càng dễ được những người khác đánh giá là phù hợp. Điều này, hẳn nhiên, là rất phi lý.
Bằng chứng xã hội chính là con quỷ nấp sau hiện tượng bong bóng kinh tế và cơn hoảng loạn của thị trường chứng khoán. Nó hiển hiện trong ngành thời trang, kỹ thuật quản trị, sở thích, tôn giáo và cả chế độ ăn uống. Nó có
thể làm tê liệt cả nền văn hóa, ví dụ như khi các nhóm tín đồ cực đoan tự sát tập thể.
Một thí nghiệm đơn giản, do nhà tâm lý học huyền thoại Solomon Asch tiến hành hồi thập niên 1950, chứng minh rằng áp lực từ những người xung quanh có thể làm lệch lạc trí khôn của người ta như thế nào. Một đối tượng thí nghiệm được cho xem một đường kẻ vẽ trên giấy, và bên cạnh đó là ba đường kẻ khác - được đánh số 1,2, và 3 - một đường ngắn hơn, một đường dài hơn, và một đường cùng chiều dài với đường kẻ đầu tiên. Anh ta hoặc cô ta phải chỉ ra đường kẻ nào trong số ba đường tương đương với đường kẻ đầu. Nếu đối tượng chỉ có một mình trong phòng, người đó sẽ đưa ra câu trả lời đúng vì công việc này thực sự khá đơn giản. ế nhưng năm người khác lại bước vào phòng; họ đều là những diễn viên, nhưng đối tượng lại không hề biết điều đó. Lần lượt hết người này đến người khác đều trả lời sai là “đường số 1”, mặc dù sự thật hiển nhiên là đường số 3 mới là câu trả lời đúng. Và rồi đến lượt đối tượng. Một phần ba trường hợp, người này sẽ trả lời sai để trùng khớp với câu trả lời của những người kia.
Tại sao chúng ta lại hành động như vậy? ực ra trong quá khứ, bắt chước những người khác là một chiến lược hiệu quả để tồn tại. Giả sử năm mươi ngàn năm trước nhóm người săn bắt-hái lượm của bạn đang đi trong vùng đồng cỏ châu Phi, và bỗng nhiên tất cả bọn họ đều chạy mất. Bạn sẽ làm gì khi đó? Liệu bạn có đứng yên một chỗ, gãi đầu gãi tai và đánh giá xem liệu thứ bạn đang nhìn thấy có phải là một con sư tử hay chỉ là một con vật hoàn toàn vô hại hao hao sư tử nhưng thực ra lại là nguồn cung cấp protein dồi dào hay không? Không đâu, thể nào bạn cũng sẽ chạy thục mạng theo sau mấy người kia thôi. Lát sau, khi đã an toàn rồi, bạn có thể ngồi nhớ lại chuyện gì thực sự đã xảy ra. Những người hành xử khác đi -
mà tôi chắc chắn có một số người như thế - thì đã bị loại khỏi nguồn gen. Chúng ta là hậu duệ trực tiếp của những người bắt chước cách hành xử của người khác. Hình mẫu này đã ăn sâu vào chúng ta đến nỗi tận ngày nay chúng ta vẫn còn dùng đến chúng, mặc dù nó chẳng hề đem lại một lợi thế sống còn nào. Tôi chỉ nghĩ ra một số ít trường hợp trong đó bằng chứng xã hội tỏ ra có giá trị. Ví dụ như khi bạn bị đói ở một thành phố lạ và không biết nhà hàng nào tốt, thì bạn chọn nhà hàng nào có nhiều khách địa phương là điều dễ hiểu. Nói cách khác, bạn bắt chước theo cách hành xử của dân địa phương.
Các chương trình hài và đối thoại trên truyền hình đều lợi dụng bằng chứng xã hội bằng cách lồng tiếng cười thu âm sẵn vào những thời điểm quan trọng, kích thích khán giả cười theo. Một trong những trường hợp ấn tượng nhất, dù gây phản cảm, của hiện tượng này chính là bài diễn văn nổi tiếng mà bộ trưởng tuyên truyền đảng Quốc xã Joseph Goebbels trình bày trước đám đông khán giả vào năm 1943. (Bạn có thể xem trên YouTube.) Khi chiến tranh diễn biến theo chiều hướng xấu thêm đối với nước Đức, ông ta hỏi: “Các bạn có muốn một cuộc chiến triệt để không? Nếu cần thiết, các bạn có muốn một cuộc chiến triệt để và ác liệt hơn tất cả những gì chúng ta có thể tưởng tượng ra vào ngày hôm nay hay không?” Đám đông liền hò reo. Nếu như từng người có mặt được hỏi riêng mà không bị công khai danh tính, có thể đã chẳng có ai đồng tình với đề nghị điên rồ ấy.
Ngành quảng cáo được hưởng lợi đáng kể từ sự yếu đuối của chúng ta trước bằng chứng xã hội. Nó tỏ ra hiệu nghiệm trong một tình huống khiến chúng ta rối trí (ví dụ như khi lựa chọn giữa vô vàn nhãn hiệu xe, các sản phẩm tẩy rửa, sản phẩm làm đẹp, vân vân, mà không đưa ra được lợi ích
hay bất lợi hiển nhiên nào), và khi đó nhóm người “cùng hội cùng thuyền” được hình thành.
Do đó, hãy biết hoài nghi bất cứ khi nào một công ty tuyên bố rằng sản phẩm của họ tốt hơn vì đó là sản phẩm “được ưa chuộng nhất”. Làm sao một sản phẩm lại có thể tốt hơn chỉ vì nó bán được nhiều hơn chứ? Và hãy nhớ lại câu nói khôn ngoan của văn hào Anh W. Somerset Maugham: “Kể cả khi năm mươi triệu người cùng nói về thứ ngớ ngẩn nào đó, thì nó vẫn cứ là thứ ngớ ngẩn.”
5
VÌ SAO BẠN NÊN QUÊN ĐI QUÁ KHỨ
Ngụy biện chi phí đã mất
B
ộ phim thật kinh khủng. Sau một tiếng, tôi liền thì thầm với vợ: “ôi nào, ta về nhà thôi.” Nàng trả lời: “Không được. Chúng ta không thể phí phạm 30 đô la.” “Không có lý do gì để ở lại cả,” tôi phản đối. “Tiền thì đã mất rồi. Ngụy biện chi phí đã mất đang phát tác đấy - đây là một sai lầm về tư duy!” Nàng cau mày nhìn tôi với ánh mắt hình viên đạn. ôi được, đôi khi tôi hơi quá trớn trong chuyện này, mà bản thân nó cũng là một lỗi gọi là bệnh nghề nghiệp (xem chương 92). Tôi tìm cách làm rõ tình huống này trong tuyệt vọng. “Cho dù có ở lại hoặc bỏ đi thì ta cũng đã tiêu mất 30 đô la rồi, vì thế yếu tố này không có vai trò gì trong quyết định của chúng mình hết.” Khỏi phải nói, tôi vẫn phải chịu thua và ngồi im tại ghế của mình.
Ngày hôm sau, tôi tham dự một cuộc họp về quảng bá sản phẩm của công ty. Chiến dịch quảng cáo của chúng tôi đã diễn ra trong bốn tháng mà không thu được nổi một trong những mục tiêu đặt ra. Tôi muốn hủy bỏ nó. Song giám đốc quảng cáo lại không chịu, và nói rằng: “Nhưng chúng ta đã đầu tư quá nhiều tiền của vào đó rồi. Nếu giờ chúng ta dừng lại, thì công sức bỏ ra sẽ đổ sông đổ bể.” Lại một nạn nhân khác của ngụy biện chi phí đã mất.
Một người bạn tôi vật lộn nhiều năm trong một mối quan hệ khốn khổ. Bạn gái anh ta đã lừa dối anh ta nhiều lần. Lần nào cô ta cũng quay về đầy vẻ hối lỗi và van xin anh ta tha thứ. Anh ta giải thích với tôi như sau: “Tôi đã đầu tư quá nhiều công sức vào mối quan hệ này, sẽ là sai lầm nếu từ bỏ nó.” Một trường hợp kinh điển về ngụy biện chi phí đã mất.
Ngụy biện chi phí đã mất trở nên nguy hiểm nhất khi chúng ta đã đầu tư rất nhiều thời gian, tiền bạc, công sức hoặc tình yêu vào một điều gì đó. Khoản đầu tư trở thành một lý do để tiếp tục, ngay cả khi chúng ta đang đi đến thất bại. Càng đầu tư nhiều, chi phí đã mất càng lớn, thì động lực để tiếp tục càng cao.
Các nhà đầu tư thường xuyên trở thành nạn nhân của ngụy biện chi phí đã mất. ường thì họ quyết định các thương vụ qua giá mua. “Tôi đã mất quá nhiều tiền vào cổ phần này, tôi không thể bán nó đi lúc này được,” họ nói như vậy; Chuyện này thật phi lý. Giá mua không nên có vai trò gì ở đây cả. Điều quan trọng là diễn biến của cổ phiếu đó trong tương lai (cũng như diễn biến của các khoản đầu tư thay thế trong tương lai). Trớ trêu là, một cổ phiếu càng mất giá, thì các nhà đầu tư càng muốn giữ lấy nó.
Cách hành xử vô lý này được thúc đẩy bởi nhu cầu nhất quán. Dẫu sao thì tính nhất quán cũng biểu thị lòng tin. Chúng ta vốn dĩ chán ghét những sự mâu thuẫn. Nếu quyết định hủy bỏ một dự án mới đi được nửa chặng đường, thì nghĩa là chúng ta tạo ra một sự mâu thuẫn: chúng ta thừa nhận mình từng nghĩ khác. Còn việc tiếp tục một dự án vô nghĩa sẽ trì hoãn sự thừa nhận đau đớn này và giúp ta giữ thể diện.
Dự án Concorde chính là ví dụ điển hình về một dự án thâm hụt của chính phủ. Mặc dù cả hai bên liên quan là Anh và Pháp đã nhận thấy từ lâu rằng thương vụ máy bay siêu âm sẽ chẳng bao giờ đi đến đâu, nhưng họ
vẫn tiếp tục đầu tư hàng núi tiền vào đó - chỉ để giữ thể diện. Từ bỏ dự án đó chẳng khác nào thừa nhận thất bại. Ngụy biện chi phí đã mất vì thế thường được gọi là “hậu quả Concorde”. Sai lầm trong tư duy này dẫn đến những phán xét sai lầm gây hậu quả tốn kém, thậm chí thảm khốc. Người Mỹ kéo dài sự can dự của họ trong chiến tranh Việt Nam cũng vì điều này. Họ nghĩ: “Chúng ta đã hy sinh quá nhiều cho cuộc chiến; sẽ là sai lầm khi bỏ cuộc lúc này.”
“Chúng ta đã đi xa đến thế này rồi…” “Tôi đã dành quá nhiều thời gian để đọc cuốn sách này…” “Nhưng tôi đã dành đến hai năm để theo đuổi khóa học này…” Nếu bạn nhận thấy mình có những khuôn mẫu tư duy đó, thì nghĩa là ngụy biện chi phí đã mất đang vận hành trong một góc não bộ của bạn.
Hiển nhiên, có thể có những lý do hợp lý khiến bạn tiếp tục đầu tư để hoàn tất một điều gì đó. Nhưng xin hãy coi chừng nếu làm thế vì những lý do sai lầm, ví dụ như để biện minh cho những khoản đầu tư không thể thu hồi. Việc đưa ra quyết định hợp lý đòi hỏi bạn phải quên đi những chi phí mình phải bỏ ra cho đến hiện tại. Dù bạn đã đầu tư nhiều đến đâu, hãy chỉ xem xét đánh giá về lợi ích và chi phí tương lai.
6
ĐỪNG LẤY ĐỒ UỐNG MIỄN PHÍ
Có qua có lại
K
hông lâu trước đây, bạn có thể đã bắt gặp các môn đồ của giáo phái Hare Krishna trong những bộ áo thụng dài màu nghệ lướt qua trong lúc bạn đang rảo bước để kịp lên một chuyến bay hoặc một chuyến tàu tới đâu đó. Một thành viên của giáo phái này bèn tặng bạn một bông hoa nhỏ và mỉm cười với bạn. Giống như hầu hết mọi người, bạn sẽ nhận lấy bông hoa chỉ để tránh tỏ ra thô lỗ. Nếu như có ý định từ chối, thể nào bạn cũng sẽ nghe được một lời nói dịu dàng: “Cứ cầm lấy đi, đây là món quà của chúng tôi dành cho bạn.” Nếu vứt bông hoa vào thùng rác gần nhất, bạn sẽ nhìn thấy trong đó đã có một vài bông hoa giống như thế. ế nhưng chuyện này chưa kết thúc. Ngay khi bạn cảm thấy như mình có lỗi, thì một môn đồ Krishna khác tiến lại gần, và lần này họ đề nghị bạn quyên tiền. Trong nhiều trường hợp, lời khẩn cầu này sẽ thành công - hiệu ứng
của nó lan tỏa đến mức nhiều sân bay đã cấm môn phái này xuất hiện. Nhà tâm lý học Robert Cialdini có thể giải thích được vì sao việc này và những cuộc vận động tương tự như vậy đã thành công. Ông đã nghiên cứu hiện tượng có qua có lại và khẳng định rằng con người ta cảm thấy vô cùng khổ sở khi mắc nợ một ai đó.
Rất nhiều tổ chức phi chính phủ và các tổ chức thiện nguyện lợi dụng chính xác phương pháp này: cho đi để nhận lại. Tuần trước, một tổ chức
bảo tồn gửi cho tôi một phong bì thư chứa đầy bưu thiếp của hàng loạt thắng cảnh tuyệt đẹp. Bức thư đi kèm cam đoan với tôi rằng những tấm bưu thiếp kia là quà tặng của họ, cho dù tôi có quyết định đóng góp cho tổ chức hay không. Mặc dù tôi thừa biết chiến thuật này, nhưng tôi đã phải rất quyết tâm và tàn nhẫn thì mới có thể ném hết chúng vào thùng rác.
ật không may, hình thức tống tiền êm ái này - mà bạn cũng có thể gọi là hành vi tham nhũng - lan tràn khắp nơi. Một nhà cung cấp đinh vít mời một khách hàng tiềm năng đến dự một trận đấu thể thao lớn. Một tháng sau, đã đến lúc vị khách phải đặt mua đinh vít. Nguyện vọng thoát khỏi nợ nần quá mãnh liệt đến mức người khách kia đành thỏa hiệp và đặt mua hàng từ người bạn mới của mình.
Đây cũng là một chiến thuật cổ xưa. Hiện tượng có qua có lại xuất hiện ở mọi giống loài không có nguồn cung cấp lương thực ổn định. Lại giả sử bạn là một người săn bắt-hái lượm. Một hôm bạn gặp may và giết được một con hươu. Bạn không có khả năng ăn hết toàn bộ số thịt hươu trong một ngày, và tủ lạnh thì phải mất nhiều thế kỷ nữa mới xuất hiện. Bạn quyết định chia sẻ thịt hươu với bầy đàn của mình, và yên trí rằng mình sẽ được hưởng chiến lợi phẩm của họ khi mà bạn chẳng kiếm được là bao. Dạ dày của những người kia chính là tủ lạnh của bạn.
Có qua có lại là một chiến thuật sinh tồn hết sức hữu dụng, một dạng quản lý rủi ro. Nếu không có nó, con người - và vô số giống loài khác - hẳn đã tuyệt chủng từ lâu. Nó là cốt lõi của sự hợp tác giữa người với người (những người không có họ hàng với nhau) và là một nhân tố thiết yếu của tăng trưởng kinh tế và gây dựng của cải. Sẽ không có nền kinh tế toàn cầu nếu thiếu chiến thuật này - đúng hơn là sẽ chẳng có nền kinh tế nào hết. Đó chính là mặt tốt của có qua có lại.
ế nhưng có qua có lại cũng có mặt trái: ăn miếng trả miếng. Hận thù sẽ sinh ra hận thù, và bạn sẽ sớm nhận ra mình đang bị cuốn vào một cuộc chiến toàn diện. Jesus đã thuyết giảng rằng chúng ta nên phá vỡ vòng luẩn quẩn này bằng cách chìa nốt má bên kia khi bị tát, một điều hiển nhiên là rất khó thực hiện, vì sức cám dỗ của nguyên tắc có qua có lại rất mạnh mẽ ngay cả khi rủi ro không hề cao.
Một vài năm trước, một cặp đôi đã mời vợ chồng tôi đến ăn tối với họ. Chúng tôi đã quen biết họ được một thời gian. Cả hai đều dễ mến nhưng chẳng mấy thú vị. Chúng tôi không nghĩ ra được lý do nào thích hợp để từ chối, nên đã nhận lời. Mọi chuyện diễn biến đúng y như vợ chồng tôi dự tính: bữa tiệc tối hôm đó tẻ nhạt vô cùng. Mặc dù vậy, vài tháng sau chúng tôi vẫn cảm thấy buộc phải mời họ đến nhà. Sự ràng buộc của có qua có lại khiến chúng tôi phải chịu đựng hai buổi tối tẻ ngắt. Và rồi, thật ngạc nhiên khi vài tuần sau đó họ lại tiếp tục mời chúng tôi. Tôi tự hỏi người ta đã phải chịu đựng không biết bao nhiêu buổi tiệc tối chỉ vì hiện tượng có qua có lại, mặc dù những người tham dự hẳn đã muốn phá vỡ cái vòng tròn khắc nghiệt ấy từ nhiều năm trước.
Tương tự như thế, nếu như ai đó tiếp cận bạn trong siêu thị, dù là để mời bạn nếm một chút rượu, thử một khoanh pho mát hay một ít quả ô liu, lời khuyên chân thành của tôi là bạn hãy từ chối đề nghị của họ - trừ phi bạn muốn có một chiếc tủ lạnh chứa đầy những món bạn không hề ưa thích.
7
HÃY CẢNH GIÁC VỚI “TRƯỜNG HỢP CÁ BIỆT”
ành kiến chứng thực (phần 1)
G
il muốn giảm cân. Anh ta liền chọn một chế độ ăn kiêng cụ thể và sáng nào cũng kiểm tra kết quả trên bàn cân. Nếu sụt cân, anh ta sẽ khoái trí cho rằng chế độ ăn kiêng đó là hiệu quả. Còn nếu tăng cân, anh ta sẽ coi như đó chỉ là dao động bình thường và quên nó đi. Suốt nhiều năm, anh chàng này sống với ảo tưởng rằng việc ăn kiêng đang tỏ ra có hiệu quả, ngay cả khi cân nặng của anh ta không thay đổi. Gil là một nạn
nhân của thành kiến chứng thực, mặc dù ở ví dụ này nó là vô hại. ành kiến chứng thực là nguồn gốc của mọi loại tư duy sai lầm. Đó là xu hướng diễn giải thông tin mới sao cho nó trở nên phù hợp với những lý thuyết, đức tin và niềm tin sẵn có của chúng ta. Nói cách khác, chúng ta lọc bỏ bất cứ thông tin mới nào mâu thuẫn với những cách nhìn vốn có của mình (“những bằng chứng phủ quyết”). Đây là một thói quen nguy hiểm. “Sự vật không ngừng tồn tại chỉ vì chúng bị quên lãng,” văn sĩ Aldous Huxley đã nói như vậy. Tuy nhiên, chúng ta lại làm chính xác như thế, y như lời ông trùm đầu tư Warren Bufet đã nói: “Điều loài người làm giỏi nhất chính là diễn giải mọi thông tin mới khớp với kết luận ban đầu.” ành kiến chứng thực hiển hiện sống động trong giới kinh doanh. Lấy ví dụ: một nhóm quản lý thông qua một chiến lược mới. Nhóm này hào hứng ăn mừng khi có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy đây là một chiến lược thành
công. Các nhà quản lý nhìn thấy vô số các bằng chứng xác thực điều đó ở mọi nơi, trong khi những gì chỉ ra điều ngược lại thì không được nhìn thấy hoặc nhanh chóng bị bỏ qua như các “ngoại lệ” hoặc “trường hợp cá biệt”. ế là họ trở nên mù quáng trước bằng chứng phủ quyết.
Vậy bạn có thể làm gì? Khi từ “ngoại lệ” đột nhiên xuất hiện, hãy dỏng tai lắng nghe. ường thì nó che giấu sự hiện diện của bằng chứng phủ quyết. Hãy nghe theo Charles Darwin: từ khi còn trẻ, ông đã bắt đầu học cách chống lại thành kiến chứng thực một cách có hệ thống. Cứ khi nào xuất hiện những quan sát mâu thuẫn với lý thuyết của mình, ông đều rất nghiêm túc xem xét chúng rồi ghi lại ngay lập tức. Ông biết rằng trí óc thường tích cực “quên đi” bằng chứng phủ quyết sau một thời gian ngắn. Càng tin vào tính xác tín của lý thuyết mình đưa ra, ông càng tích cực tìm kiếm bằng chứng phủ quyết.
ực nghiệm sau đây chứng tỏ hoài nghi lý thuyết của chính mình mất nhiều công sức đến thế nào. Một giáo sư cho các sinh viên của mình xem dãy số 2, 4, 6. Họ phải tính toán để tìm ra quy luật của dãy số mà giáo sư đã viết đằng sau mẩu giấy. Các sinh viên phải đưa ra con số tiếp theo trên dãy số mà sau đó giáo sư sẽ trả lời là “phù hợp quy luật” hoặc “không phù hợp quy luật”. Các sinh viên có thể đoán bao nhiêu số tùy thích nhưng họ chỉ có thể đưa ra quy luật đúng một lần. Hầu hết các sinh viên đều cho rằng 8 là số tiếp theo, và giáo sư đều trả lời: “Hợp quy luật.” Để chắc chắn, họ lại nói 10, 12, và 14. Lần nào giáo sư cũng đáp: “Hợp quy luật.” Các học sinh bèn kết luận: “Quy luật là cộng thêm 2 vào số cuối cùng.” Giáo sư lắc đầu: “Đó không phải là quy luật.”
Một học sinh thông minh bèn thử một phương pháp khác. Cậu thử nêu con số -2. Giáo sư nói: “Không hợp quy luật.” “Số 7?” cậu hỏi. “Hợp quy
luật.” Cậu học sinh liền thử nói ra mọi kiểu số: -24; 9; -43. Rõ ràng cậu ta có một ý tưởng, và cậu ta đang thử tìm hiểu xem nó có vấn đề gì không. Chỉ khi không còn có thể tìm ra một ví dụ phủ quyết, cậu ta mới nói: “Quy luật là số tiếp theo phải lớn hơn số trước đó.” Vị giáo sư liền lật mặt sau của tờ giấy và nó viết đúng những gì cậu vừa nói. Vậy điều gì làm nên sự khác biệt của cậu học sinh lanh lợi đó so với các bạn? Trong khi phần lớn những người khác chỉ muốn khẳng định lý thuyết của họ, thì cậu tìm cách xác định xem nó có lỗi gì, từ đó chủ động tìm kiếm bằng chứng phủ quyết. Bạn có thể nghĩ: “Tốt cho cậu ta thôi, nhưng đối với người khác thì cũng đâu phải tận thế.” Tuy nhiên, mắc phải cái bẫy của thành kiến chứng thực không phải là một lỗi tư duy nhỏ. Chương sau sẽ bàn đến việc nó tác động đến cuộc sống của chúng ta như thế nào.
8
KẾT LIỄU CÁC TÌNH NHÂN
ành kiến chứng thực (phần 2)
T
rong chương trước, chúng ta đã được gặp vị cha đẻ của mọi lỗi ngụy biện, thành kiến chứng thực. Sau đây là một vài ví dụ điển hình: chúng ta bị buộc phải xác lập các niềm tin về thế giới, về cuộc sống, về nền kinh tế, về các khoản đầu tư, về sự nghiệp, và còn nhiều thứ khác nữa. Chúng ta sống chủ yếu dựa vào các suy đoán, và những suy đoán này càng mơ hồ thì thành kiến chứng thực lại càng mạnh mẽ. Cho dù bạn sống trên đời với niềm tin rằng “con người về bản chất đều tốt” hay “con người về bản chất là xấu”, thì bạn sẽ tìm thấy bằng chứng mỗi ngày củng cố luận cứ của mình. Cả hai phe, hội bác ái lẫn những kẻ chán ghét loài người, đều cứ thế lọc bỏ đi những bằng chứng phủ quyết (chứng cứ chỉ ra điều ngược lại) và chỉ quan tâm đến những đấng từ bi hoặc những tên độc tài để củng cố quan điểm của mình.
Các nhà chiêm tinh và chuyên gia kinh tế cũng làm việc theo cùng một nguyên tắc đó. Họ thốt ra những dự báo mơ hồ đến mức bất kỳ sự kiện nào cũng có thể chứng minh điều họ nói: “Trong mấy tuần tới bạn sẽ cảm thấy buồn khổ,” hoặc “Trong trung hạn, sức ép đối với đồng đô la sẽ gia tăng.”
ế nhưng trung hạn là trong bao lâu? Yếu tố nào sẽ làm cho đồng đô la mất giá? Và nó mất giá so với cái gì - vàng, đồng yên, đồng pê-sô, lúa mì, bất
động sản tại Manhattan, hay giá trung bình của một chiếc bánh mì kẹp xúc xích?
Những niềm tin tôn giáo hoặc triết học là mảnh đất màu mỡ làm sinh sôi nảy nở thành kiến chứng thực. Trên mảnh đất tơi xốp ấy, nó cứ thế mọc lên như nấm. Ví dụ như, các con chiên luôn kiếm tìm những bằng chứng khẳng định sự hiện diện của Chúa, mặc dù ngài không bao giờ chính thức ra mặt - ngoại trừ với người mù chữ ngoài sa mạc và ở trong các làng bản miền núi xa xôi cách trở. Ngài không bao giờ xuất hiện trước đám đông, giả dụ như ở Frankfurt hay New York cả. Những lời bác bỏ mọi luận chứng phản bác của đám con chiên ngoan đạo thể hiện rõ quyền lực lớn lao của thành kiến xácthực.
Không có người làm nghề nào chịu ảnh hưởng của thành kiến chứng thực mạnh hơn các nhà báo kinh tế. Họ chuyên đời đưa ra giả thuyết dễ dãi, nhồi nhét hai hoặc ba “bằng chứng” vào bài viết, và coi như thế là xong việc. Ví dụ như thế này: “Google thành công nhờ biết nuôi dưỡng văn hóa sáng tạo trong công ty.” Một khi đã viết ra ý tưởng, thì nhà báo sẽ củng cố nó bằng cách nhắc đến một vài công ty làm ăn phát đạt khác cũng khuyến khích sự sáng tạo. Hiếm có cây viết nào tìm tòi bằng chứng phủ quyết, mà trong trường hợp này sẽ là những công ty hết mình vì sự sáng tạo nhưng lại làm ăn khó khăn, hoặc ngược lại, những công ty phát đạt mà hoàn toàn không hề dựa trên sự sáng tạo. Cả hai nhóm đều có rất nhiều thành viên, nhưng nhà báo thì chẳng buồn để ý. Chỉ nhắc đến một ví dụ thôi là sẽ phá hỏng cả cốt truyện.
Các cuốn sách rèn luyện bản thân hoặc sách dạy chóng-làm-giàu cũng là ví dụ về lối viết nghèo nàn. Những tác giả khôn ngoan chỉ cần thu thập cả đống bằng chứng để bơm cho căng những giả thuyết tầm thường nhất, ví
dụ như “thiền tịnh là chìa khóa của hạnh phúc”. Bất kỳ độc giả nào tìm kiếm bằng chứng phủ quyết đều không thể tìm ra chúng được: sẽ không có bất kỳ đoạn nào trong các cuốn sách đó chỉ ra rằng những người có cuộc sống viên mãn không hề thiền, hoặc những người mặc dù đã tìm đến thiền tịnh vẫn âu sầu buồn khổ.
Mạng Internet là mảnh đất đặc biệt màu mỡ để nuôi trồng thành kiến chứng thực. Để nắm bắt thông tin, chúng ta đào xới các trang tin và blog, mà quên rằng những trang web được chúng ta yêu thích chỉ phản ánh lại những giá trị mà chúng ta vốn đã tin vào, cho dù chúng mang tính cởi mở, bảo thủ, hay trung dung. Hơn thế nữa, nhiều trang mạng còn cho hiện cả nội dung theo sở thích cá nhân và lịch sử truy cập của người đọc, khiến cho những ý kiến mới mẻ và khác biệt biến mất hoàn toàn khỏi tầm nhìn của họ. Lẽ tất yếu, chúng ta rơi vào những cộng đồng người cùng tư tưởng, từ đó càng chứng thực thêm những niềm tin đã cũ của chính mình - rồi lún sâu vào thành kiến chứng thực.
Nhà phê bình văn học Arthur Quiller-Couch từng đưa ra một tôn chỉ đáng nhớ: “Hãy kết liễu các tình nhân.” Đây là lời khuyên của ông dành cho những cây viết luôn cảm thấy khổ sở vì phải cắt đi những câu văn thừa thãi mình yêu thích. Lời kêu gọi của Quiller-Couch không chỉ dành cho những tay viết còn do dự, mà còn dành cho tất cả những ai miễn cưỡng tán đồng điều gì đó. Để chống lại thành kiến chứng thực, hãy thử viết ra những niềm tin của bạn - bất kể đó là cách bạn nhìn nhận thế giới, các khoản đầu tư, hôn nhân, chăm sóc sức khỏe, chế độ ăn uống, hay chiến lược phát triển sự nghiệp - và bắt đầu tìm kiếm bằng chứng phủ quyết chúng. Từ bỏ những niềm tin thân thuộc đòi hỏi nhiều nỗ lực nhưng là điều cần thiết.
9
ĐỪNG CÚI ĐẦU TRƯỚC QUYỀN LỰC
ành kiến quyền lực
Q
uyển đầu tiên trong Kinh ánh giảng giải những gì sẽ xảy đến nếu chúng ta bất tuân đấng quyền uy: chúng ta bị đuổi cổ khỏi thiên đàng. Đây cũng chính là điều mà những thế lực ít quyền uy hơn - các học giả chính trị, nhà khoa học, bác sĩ, CEO, các nhà kinh tế học, lãnh đạo chính phủ, bình luận viên thể thao, chuyên gia tư vấn và chuyên gia chứng khoán - muốn chúng ta tin vào.
Các thế lực này có hai vấn đề chính mà chúng ta cần suy xét thấu đáo: thứ nhất, bảng thành tích của họ thường rất đáng để ta nghiền ngẫm. Có khoảng một triệu chuyên gia kinh tế trên hành tinh này, thế nhưng không ai dự báo được chính xác thời điểm xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 (ngoại trừ Nouriel Roubini và Nassim Taleb), chứ chưa nói đến việc chỉ ra được nguồn gốc của nó là hiện tượng vỡ bong bóng địa ốc, sự sụp đổ của hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng, hay là khó khăn kinh tế toàn cục. Chưa bao giờ các chuyên gia lại thất bại một cách thảm hại đến vậy. Tình hình giới y khoa cũng chẳng khá khẩm hơn: cho đến tận năm 1900, các bệnh nhân khôn ngoan vẫn tránh đi khám bác sĩ; vì thường thì lúc nào việc “chữa trị” cũng chỉ làm bệnh nặng thêm, do vấn đề vệ sinh kém và những cách chữa bệnh dân gian như trích máu.
Nhà tâm lý học Stanley Milgram chứng minh thành kiến quyền lực này rõ ràng nhất qua một thí nghiệm năm 1961. Các đối tượng thí nghiệm được chỉ dẫn phải gây sốc điện ngày càng tăng với một người ngồi cách họ một lớp kính. Họ được chỉ đạo bắt đầu với 15 vôn, 30 vôn, rồi 45 vôn, rồi cứ thế tiếp tục, cho đến mức tối đa - mức chết người lên đến 450 vôn. ực tế, không hề có một dòng điện nào cả; Milgram sử dụng một diễn viên để đóng vai nạn nhân, nhưng những người được giao nhiệm vụ gây sốc điện không biết điều đó. Kết quả thực sự gây sốc. Trong khi người ngồi ở phòng bên kêu gào và quằn quại vì đau đớn, và người được giao nhiệm vụ gây sốc điện muốn dừng lại, thì vị giáo sư vẫn nói: “Tiếp tục đi, việc này cần thiết cho thí nghiệm.” Phần đông mọi người vẫn tiếp tục. Hơn nửa số người tham gia thậm chí còn tiếp tục cho đến mức hiệu điện thế tối đa - chỉ vì muốn tuân theo kẻ nắm quyền.
Mới một thập niên trước, các hãng hàng không cũng đã được một bài học về sự nguy hiểm của thành kiến quyền lục. ời đó, cơ trưởng là vua. Không ai được phép nghi ngờ mệnh lệnh của ông vua đó. Nếu một cơ phó nghi ngờ có sơ suất, anh ta sẽ chẳng dám hé răng vì quá kính trọng - hoặc nể sợ - cơ trưởng. Khi phát hiện ra cách ứng xử này, gần như mọi hãng hàng không đều thiết lập ban quản lý nguồn cán bộ (CRM) với nhiệm vụ huấn luyện các phi công và tổ bay nhanh chóng cùng nhau thảo luận cởi mở bất kỳ lo ngại nào của họ. Nói cách khác: họ cẩn trọng hủy diệt thành kiến quyền lực. Cơ chế này giúp ích cho an toàn bay trong hai mươi năm trở lại đây còn hơn cả bất kỳ bước tiến kỹ thuật nào.
Nhiều công ty không hề có được tầm nhìn này. Những công ty chịu rủi ro lớn nhất chính là những công ty có vị CEO độc đoán, nơi các nhân viên
thường chỉ có thể giữ trong đầu những ý kiến “ít giá trị hơn” - khiến công việc kinh doanh vì thế mà chịu nhiều thiệt hại.
Những kẻ có quyền lực luôn muốn được công nhận và không ngừng tìm cách củng cố địa vị của mình. Các bác sĩ và nhà nghiên cứu mặc cổ cồn trắng. Các giám đốc ngân hàng diện com-lê và ca-vát. Các vị vua đội vương miện. Các sĩ quan quân đội đeo quân hàm. Ngày nay, ngay cả những biểu tượng và đạo cụ được sử dụng để thể hiện chuyên môn cũng xuất hiện trên các chương trình đối thoại truyền hình và trên bìa tạp chí, cho đến các chuyến du lịch theo tour có sẵn và các trang Wikipedia theo từng chủ đề. Quyền lực xoay vần không khác gì thời trang, và xã hội cứ thế mà tuân theo y vậy.
Kết luận: Bất cứ khi nào bạn sắp sửa quyết định một chuyện gì, hãy nghĩ về những nhân vật có quyền lực có thể đang gây ảnh hưởng đến lý trí của bạn. Và khi bạn đối mặt với một người bằng xương bằng thịt, hãy cố gắng chống lại họ hết sức có thể.
10
ĐỪNG MANG THEO CÔ BẠN SIÊU MẪU
Hiệu ứng đối lập
T
rong cuốn sách Ảnh hưởng, Robert Cialdini kể về hai anh em Sid và Harry, chủ một cửa hàng quần áo hồi thập niên 1930 tại Mỹ. Sid phụ trách bán hàng còn Harry điều hành xưởng may. Bất cứ khi nào Sid nhận thấy khách hàng nào đứng ngắm nghía trước gương thực sự thích bộ com-lê, anh ta sẽ giả bộ hơi lãng tai. Anh ta gọi với sang người em: “Harry ơi, bộ com-lê này giá bao nhiêu?” Harry liền ngẩng đầu khỏi bàn may và đáp lớn: “Bộ com-lê cotton đẹp đó giá bốn mươi hai đô la.” (Vào thời điểm đó, đấy là mức giá cắt cổ). Sid vẫn vờ như chưa nghe rõ: “Bao nhiêu cơ?” Harry lại hét lên: “Bốn mươi hai đô la!” Sid liền quay lại nhìn vị khách và nói: “Cậu ấy bảo là hai mươi hai đô la.” Đến đó, vị khách bèn nhanh tay đặt tiền lên bàn và vội vã rời khỏi cửa hàng cùng bộ com-lê trước khi Sid tội nghiệp kịp nhận ra “nhầm lẫn” của mình.
Có lẽ bạn đã biết thí nghiệm sau từ hồi còn đi học: lấy hai xô nước, đổ nước ấm vừa phải vào xô thứ nhất, nước đá vào xô thứ hai. Nhúng tay phải của bạn vào nước đá trong một phút. Sau đó cho cả hai tay vào xô nước ấm vừa phải. Bạn nhận thấy điều gì? Tay trái sẽ thấy nước ấm đúng như nó vẫn thế, còn tay phải sẽ thấy rất nóng.
Cả hai câu chuyện trên đây minh chứng cho hiệu ứng đối lập: chúng ta coi một cái gì đó là đẹp, đắt, hoặc to lớn nếu như trước mắt chúng ta là thứ gì
đó xấu xí, rẻ tiền, hoặc nhỏ bé. Chúng ta lúng túng trong việc đưa ra phán xét triệt để.
Hiệu ứng đối lập là một lỗi tư duy phổ biến. Bạn đặt hàng chiếc ghế da cho chiếc xe hơi mới chỉ vì, so với mức giá 60.000 đô la của chiếc xe, con số 3.000 đô la có vẻ rẻ. Tất cả những ngành công nghiệp đưa ra lựa chọn nâng cấp đều lợi dụng ảo tưởng này.
Hiệu ứng đối lập cũng diễn ra ở những lĩnh vực khác. Các thí nghiệm chỉ ra rằng người ta sẵn sàng đi bộ thêm mười phút để tiết kiệm mười đô la tiền mua thực phẩm. ế nhưng cũng những người đó lại không hề nghĩ đến việc đi bộ mười phút để tiết kiệm mười đô la cho một bộ vest 1.000 đô la. Đây là một động thái vô lý vì khoảng cách vẫn là mười phút và số tiền tiết kiệm được vẫn là mười đô la. eo logic, bạn nên chọn hoặc là đi bộ trong cả hai trường hợp hoặc là không làm vậy trong cả hai.
Nếu không có hiệu ứng đối lập, mánh khóe khuyến mãi sẽ hoàn toàn vô tác dụng. Một sản phẩm được giảm giá từ 100 đô la xuống còn 70 đô la có vẻ như đáng tiền hơn một sản phẩm luôn luôn có giá 70 đô la. Mức giá khởi điểm đáng lẽ không nên được tính đến. Hôm trước, một nhà đầu tư bảo tôi: “Cổ phiếu này rất đáng tiền bởi vì giá của nó chỉ còn 50% so với mức giá đỉnh điểm.” Tôi bèn lắc đầu. Mức giá của một cổ phiếu không bao giờ là “thấp” hay “cao.” Giá vẫn chỉ là giá, và điều duy nhất cần suy tính là liệu từ mức giá đó nó sẽ tăng hay giảm mà thôi.
Khi chúng ta bắt gặp những sự đối lập, chúng ta phản ứng như những con chim trước tiếng súng. Chúng ta nhảy dựng lên và bay mất. Điểm yếu của chúng ta là: không nhìn thấy những thay đổi nhỏ diễn ra từ từ. Một ảo thuật gia có thể làm chiếc đồng hồ của bạn biến mất bởi vì khi ông ta ấn vào một bộ phận cơ thể bạn, bạn sẽ không để ý thấy cái chạm nhẹ hơn của ông
ta nơi cổ tay bạn khi rút chiếc Rolex. Tương tự, chúng ta thường không để ý việc tiền của mình biến mất ra sao. Tiền không ngừng mất giá, nhưng chúng ta không để ý thấy bởi vì lạm phát diễn biến theo thời gian. Nếu như mức lạm phát bị áp đặt vào chúng ta theo dạng một mức thuế tàn nhẫn (mà cơ bản thì đúng là như vậy), thì chúng ta sẽ giận điên lên.
Hiệu ứng đối lập có thể hủy hoại cả cuộc đời bạn: một phụ nữ quyến rũ lấy phải một người đàn ông tầm thường. ế nhưng vì cha mẹ nàng là những người kinh khủng, nên người đàn ông tầm thường kia dường như là một chàng hoàng tử. Suy nghĩ cuối cùng của tôi là: vì chúng ta đắm chìm với các cô siêu mẫu trong các quảng cáo, nên chỉ còn thấy những người phụ nữ đẹp là hơi hấp dẫn mà thôi. Nếu bạn đang tìm kiếm người yêu, đừng bao giờ đi ra ngoài với những người bạn siêu mẫu. Người ta sẽ thấy bạn kém hấp dẫn hơn so với thực chất. Hãy đi một mình, hoặc tốt hơn, mang theo hai người bạn xấu xí.
11
VÌ SAO CHÚNG TA THÀ CÓ MỘT BẢN ĐỒ SAI CÒN HƠN KHÔNG CÓ GÌ CẢ
ành kiến vềthứ sẵn có
“H
út thuốc không thể nào nguy hại như người ta nói: ông tôi hút tới ba bao thuốc một ngày, nhưng vẫn sống đến hơn một trăm tuổi đấy thôi.” Hoặc “Manhattan thực sự an toàn. Tôi biết một anh chàng sống ngay giữa khu Village và không bao giờ khóa cửa. ậm chí anh ta không khóa cửa ngay cả khi đi nghỉ mát, nhưng căn hộ của anh ta chưa bao giờ bị trộm đột nhập.” Chúng ta đưa ra những nhận định như thế để cố gắng chứng tỏ một điều gì đó, nhưng thực ra chúng ta chẳng chứng minh được điều gì. Khi chúng ta nói chuyện như vậy, chúng ta bị rơi vào thành kiến vềthứ sẵn có.
Còn nữa, số từ tiếng Anh bắt đầu bằng chữ k nhiều hơn hay ít hơn số từ tiếng Anh có chữ cái thứ ba là k? Câu trả lời là số từ tiếng Anh có chữ cái thứ ba là k nhiều gấp đôi số từ bắt đầu bằng chữ k. ế nhưng tại sao hầu hết mọi người đều tin vào điều ngược lại? Bởi vì chúng ta có thể nghĩ ra những từ bắt đầu bằng chữ k nhanh hơn. Trong trí nhớ của chúng ta, chúng dồi dào hơn nhiều.
ành kiến về thứ sẵn có quy định rằng: chúng ta vẽ nên một bức tranh về thế giới qua việc sử dụng các ví dụ gần như ngay lập tức hiện lên trong tâm
trí. Hiển nhiên, điều đó không hợp lẽ chút nào, bởi vì trên thực tế, mọi thứ không xuất hiện thường xuyên hơn chỉ vì chúng ta dễ nghĩ đến chúng hơn. Do thành kiến về thứ sẵn có, nên chúng ta bước đi trên đường đời với một tấm bản đồ thiếu chính xác và đầy rủi ro lệch lạc ở trong đầu. Vì thế, chúng ta thường hay phóng đại rủi ro của việc trở thành nạn nhân của một vụ rơi máy bay, một tai nạn xe hơi, hoặc một vụ sát hại. Đồng thời chúng ta coi nhẹ rủi ro tử vong từ những nguyên nhân ít gây chú ý hơn, ví dụ như do bệnh tiểu đường hoặc ung thư dạ dày. Còn nữa, khả năng xảy ra ném bom thấp hơn rất nhiều so với những gì chúng ta vốn nghĩ, nhưng khả năng mắc bệnh trầm cảm thì cao hơn nhiều. Chúng ta gán quá nhiều khả năng cho những kết quả ngoạn mục, hào nhoáng, hoặc ồn ào. Bất cứ điều gì lặng lẽ hoặc vô hình đều bị coi nhẹ. Bộ óc của chúng ta dễ mường tượng ra những kết quả ấn tượng hơn so với những điều quá thông thường. Chúng ta thường suy nghĩ theo hướng thái quá, chứ không theo định lượng. Các bác sĩ cũng thường trở thành nạn nhân của thành kiến về thứ sẵn có. Họ áp dụng những phương thức chữa trị yêu thích của mình vào mọi trường hợp có thể. Dẫu rằng trong một góc khuất của tâm trí họ cũng có những phương thức điều trị phù hợp hơn thế. Hệ quả là, họ áp dụng những cách mình biết rõ. Các nhà tư vấn cũng chẳng khá khẩm hơn. Nếu họ gặp phải một trường hợp hoàn toàn mới, họ sẽ chẳng giơ tay lên trời mà thở than: “Tôi thực sự không biết phải nói gì với bạn.” Ngược lại, thể nào họ cũng quay về với một trong những phương pháp quen thuộc của mình, bất chấp nó có thực sự phù hợp hay không.
Nếu tâm trí bạn tiếp nhận một điều gì đó thường xuyên, thì nó sẽ được hằn sâu thành vết trên vỏ não. ậm chí điều đó có thể không phải là sự thực. Những kẻ cầm đầu Đức Quốc xã phải nhắc đi nhắc lại cụm từ “vấn
nạn Do ái” biết bao nhiêu lần trước khi đám đông bắt đầu tin rằng đây là một vấn đề nghiêm trọng? Bạn đơn giản chỉ cần thốt ra những từ “UFO”, “năng lượng sống”, hoặc “quả báo” thật nhiều lần cho đến khi người ta bắt đầu tin vào chúng.
ành kiến về thứ sẵn có thậm chí cũng nắm giữ một ghế ngồi danh dự tại bàn họp của ban quản trị doanh nghiệp. Các thành viên quản trị bàn luận về các báo cáo của bộ phận quản lý - thường là những số liệu hằng quý - thay vì những vấn đề quan trọng hơn, ví dụ như một chiến lược sắc sảo của đối thủ, tinh thần làm việc sa sút của nhân viên, hay một thay đổi bất ngờ trong xu hướng tiêu dùng. Họ thường không bàn luận những gì nằm ngoài chương trình định sẵn. Hơn nữa, người ta vốn ưa thích thông tin nào họ dễ dàng nắm bắt, cho dù là số liệu kinh tế hay chỉ là các công thức. Họ đưa ra quyết định dựa trên thông tin ấy thay vì những thông tin quan trọng hơn nhưng lại khó thu thập hơn thường kèm theo những hậu quả khủng khiếp. Ví dụ, trong hàng thập kỷ nay chúng ta đã biết là công thức có tên gọi là Black-Schole dùng để định giá các sản phẩm tài chính phái sinh không hề có tác dụng. ế nhưng chúng ta không có giải pháp nào khác, vì vậy chúng ta cứ tiếp tục sử dụng một công cụ không phù hợp. Nó giống như khi bạn đang ở một thành phố xa lạ mà không có lấy một tấm bản đồ, nên bạn đành lôi ra một tấm bản đồ của quê nhà và dùng tạm vậy. Đấy, chúng ta chẳng thà có thông tin sai lệch còn hơn là không có chút thông tin nào. Vì thế, thành kiến về thứ sẵn có khiến các ngân hàng phải giải quyết hàng tỷ đồng thua lỗ.
Chẳng phải đó chính là lời bài hát Frank Sinatra từng hát - tôi yêu cô gái ở bên tôi khi không được ở bên cô gái tôi yêu - hay sao? ật là một ví dụ hoàn hảo của thành kiến về thứ sẵn có. Hãy né tránh nó bằng cách dành thời
gian ở bên những người tư duy khác với bạn - những người có kinh nghiệm và năng lực chuyên môn khác xa bạn. Chính nhờ tiếp thu ý kiến của người khác, chúng ta mới có thể vượt qua thành kiến vềthứ sẵn có.
12
VÌ SAO BẠN CẦN CẢNH GIÁC VỚI CÂU “KHÔNG VẤP NGÃ, KHÔNG THÀNH CÔNG”
Ngụy biện chuyện-tồi-tệ-đi-để-rồi-trở-nên-tốt-hơn
V
ài năm trước, tôi đi nghỉ dưỡng ở đảo Corsica và bị ốm. Tôi chưa từng biết đến những triệu chứng ấy, còn cảm giác đau đớn thì tăng lên từng ngày. Cuối cùng tôi quyết định tìm đến một phòng khám địa phương. Một bác sĩ trẻ khám cho tôi, chọc chọc vào bụng, bóp vào vai và đầu gối tôi, sau đó chọc vào từng đốt sống. Tôi bắt đầu nghi ngờ rằng anh ta chẳng hề biết bệnh của tôi, nhưng lại không chắc lắm nên đành bấm bụng chịu đựng việc khám bệnh kỳ lạ đó. Khám xong, anh chàng rút ra cuốn sổ tay và nói: “Dùng kháng sinh đi. Uống ngày ba lần, mỗi lần một viên. Anh sẽ thấy đau hơn nhưng sau đó sẽ khá lên.” Yên tâm là mình đã
được điều trị, tôi lê bước quay về khách sạn với đơn thuốc trong tay. Cơn đau mỗi lúc một tệ hơn - đúng y như vị bác sĩ đã dự báo. Hẳn là anh ta biết rõ điều gì đã xảy ra với tôi. ế nhưng, khi cơn đau không hề thuyên giảm sau ba ngày, tôi gọi điện cho anh ta. “Hãy tăng lên năm liều một ngày. Sẽ còn đau nữa,” anh ta nói. Sau hai ngày đau đớn nữa, tôi đành gọi cấp cứu của hàng không quốc tế. Một bác sĩ ụy Sĩ chẩn đoán tôi bị viêm ruột thừa và tiến hành mổ cho tôi ngay. Sau ca mổ, ông hỏi tôi: “Sao anh lại đợi đến tận bây giờ?”
Tôi đáp: “Bệnh tình diễn biến đúng y như tay bác sĩ kia nói, nên tôi tin anh ta.”
“Trời, anh đã mắc vào cái bẫy ngụy biện chuyện-tồi-tệ-đi-để-rồi-trở nên-tốt-hơn. Tay bác sĩ Corsica đó chẳng biết mô tê gì. Có lẽ anh ta chỉ là dạng bác sĩ thời vụ thường gặp ở những điểm du lịch vào mùa cao điểm.”
Hãy xem xét một ví dụ khác: một vị CEO đang gặp bế tắc. Tình hình bán hàng rất kém, các nhân viên bán hàng không nhiệt tình làm việc, còn chiến lược quảng bá thì chìm nghỉm không sủi tăm. Trong cơn tuyệt vọng, ông thuê một chuyên gia tư vấn. Với mức phí 5.000 đô la một ngày, người này phân tích tình hình công ty và trở lại với phát hiện sau: “Bộ phận bán hàng của ông không có tầm nhìn, và thương hiệu của ông không được định vị rõ ràng. Đây là một tình huống rắc rối. Tôi có thể giải quyết nó cho ông - nhưng không thể một sớm một chiều. Các phương pháp này đòi hỏi sự tinh tế, và có khả năng cao là doanh số bán hàng sẽ sụt giảm hơn nữa trước khi mọi thứ khá lên.” Vị CEO bèn thuê chuyên gia đó về. Một năm sau, doanh thu sụt giảm, và vẫn trên đà sụt giảm vào năm tiếp theo. Hết lần này đến lần khác, gã chuyên gia nhấn mạnh rằng tình hình của công ty chỉ phản ánh đúng như mình dự báo. Đến năm thứ ba doanh số vẫn tiếp tục giảm, vị CEO mới sa thải chuyên gia đó.
ực thế, ngụy biện chuyện-tồi-tệ-đi-để-rồi-trở-nên-tốt-hơn chỉ là một biến thể của thành kiến chứng thực. Nếu như vấn đề tiếp tục trở nên tồi tệ, dự báo càng được củng cố. Nếu như tình hình tốt lên bất ngờ, thì khách hàng sẽ vui mừng và năng lực của tay chuyên gia lại được thêm một điểm cộng. Dù kết quả có thế nào thì anh ta vẫn được lợi.
Giả sử bạn là tổng thống của một nước và không biết làm cách nào để điều hành nó cả. Vậy bạn sẽ làm gì? Bạn hãy dự báo sắp tới sẽ là “những
năm khó khăn”, và yêu cầu người dân “thắt lưng buộc bụng”, rồi sau đó hứa hẹn cải thiện tình hình nhưng chỉ sau khi “giai đoạn nhạy cảm” dành cho công tác “dọn dẹp”, “thanh lọc”, và “tái cấu trúc” kết thúc. Hiển nhiên bạn sẽ không nói chi tiết thời gian cũng như mức độ nghiêm trọng của giai đoạn này.
Bằng chứng rõ rệt nhất cho thành công của chiến lược này chính là niềm tin của những kẻ cuồng tin rằng trước khi chúng ta đến được thiên đàng, thế giới này phải bị hủy diệt. Các loại thảm họa, lũ lụt, hỏa hoạn, chết chóc - đều là một phần của kế hoạch lớn lao hơn và đều phải diễn ra. Những kẻ cuồng tín này sẽ nhìn nhận mọi diễn biến xấu như sự khẳng định lời tiên tri và mọi sự cải thiện đều được gán cho là món quà của Chúa.
Kết luận: Nếu ai đó nói, “Mọi thứ tệ đi để rồi trở nên tốt hơn”, thì bạn nên cảnh giác. Nhưng hãy nhớ: quả thực có những tình huống trong đó mọi chuyện tụt dốc, sau đó tốt lên. Ví dụ như, việc chuyển đổi nghề nghiệp sẽ mất một khoảng thời gian thất nghiệp và thường bao gồm sụt giảm thu nhập. Tái tổ chức một doanh nghiệp cũng thường tốn thời gian. ế nhưng trong tất cả những trường hợp đó, chúng ta sẽ nhìn thấy được diễn biến một cách nhanh chóng nếu các biện pháp được thực hiện có hiệu quả. Các cột mốc đều rõ ràng và dễ dàng được kiểm chứng. Hãy nhìn vào thực tế thay vì ngước lên trời.
13
NGAY CẢ NHỮNG CÂU CHUYỆN CÓ THẬT CŨNG CHỈ LÀ CỔ TÍCH ành kiến truyện kể
C
uộc sống là một mớ bòng bong, phức tạp như nút thắt Gordias(2) vậy. Hãy tưởng tượng có một người sao Hỏa vô hình quyết định đi theo quanh quẩn bên bạn với một cuốn sổ cũng vô hình, ghi chép lại mọi việc bạn làm, nghĩ, và cả giấc mơ của bạn. Bản báo cáo dài dằng dặc về cuộc sống của bạn sẽ bao gồm những thứ như “uống cà phê, hai cục đường”, “giẫm phải một cái đinh ghim và chửi thề một tràng”, “mơ thấy tôi hôn người hàng xóm”, “đặt vé đi nghỉ dưỡng ở Maldives, giờ thì gần cháy túi”, “thấy lông thòi ra khỏi lỗ tai, rứt đi ngay”, và đại loại như vậy. Chúng ta vốn thích đan cài một đống chi tiết lộn xộn vào với nhau để tạo ra một câu chuyện gọn ghẽ. Chúng ta muốn cuộc sống của mình đi vào khuôn khổ để dễ dàng làm theo. Nhiều người gọi nguyên tắc chỉ dẫn này là “ý nghĩa cuộc sống”. Nếu như câu chuyện của chúng ta cứ thế tiếp diễn đều đặn sau nhiều năm, chúng ta sẽ gọi đó là “bản sắc”. Giống như Max Frisch, một tiểu thuyết gia nổi tiếng người ụy Sĩ từng nói: “Ta ướm mình vào những câu chuyện giống như ta thử đồ.”
(2) Một khái niệm trong truyền thuyết cổ thường được dùng làm ẩn dụ cho một vấn đề rắc rối, giống như gót chân Achilles.
Chúng ta cũng làm điều tương tự với lịch sử thế giới, bằng cách đóng khung những chi tiết vào một câu chuyện có tính thống nhất. Rồi bỗng dưng chúng ta “hiểu ra” những điều nhất định, ví dụ như, vì sao Hiệp ước Versailles lại dẫn đến ế chiến II, hay tại sao chính sách tiền tệ lỏng lẻo của Alan Greenspan lại khiến Lehman Brothers(3) sụp đổ. Chúng ta hiểu vì sao Bức màn sắt(4)lại phải hạ xuống và tại sao Harry Potter trở thành một tác phẩm bán chạy. Ở đây, chúng ta nói về sự “hiểu”, nhưng những chuyện đó không thể được hiểu theo nghĩa truyền thống. Chúng ta chỉ đơn giản gắn ý nghĩa vào chúng sau đó mà thôi. Những câu chuyện là những thực thể mơ hồ. Chúng đơn giản hóa, bóp méo hiện thực và lọc bỏ những thứ không phù hợp. Nhưng rõ ràng, ta không thể nào thiếu chúng. Tại sao thì vẫn còn chưa rõ. Điều rõ ràng là trước tiên người ta sử dụng những câu chuyện để lý giải thế giới, trước khi họ bắt đầu tư duy một cách khoa học, thế nên thần thoại có đời sống lâu dài hơn cả triết học. Điều này dẫn đến thành kiến truyện kể.
(3) Một tập đoàn tài chính lớn của Mỹ, do ba anh em Henry, Emanuel và Mayer Lehman thành lập và điều hành, bị phá sản và ngừng hoạt động năm 2008.
(4)Iron Curtain, một biên giới vật lý lẫn tư tưởng mang tính biểu tượng chia cắt châu Âu thành hai khu vực riêng rẽ từ cuối ế chiến II vào năm 1945 đến cuối cuộc chiến tranh lạnh vào năm 1991.
Trong lĩnh vực truyền thông, thành kiến truyện kể tác oai tác quái như lửa cháy. Chẳng hạn, một chiếc xe đang đi lên cầu thì cầu bỗng nhiên bị sụp. Ngày hôm sau chúng ta đọc được những gì? Chúng ta sẽ nghe được câu chuyện về người tài xế xui xẻo, anh ta đến từ đâu, anh ta đi đâu. Chúng ta đọc được cả lý lịch của anh ta: sinh ra ở đâu đó, lớn lên ở đâu đó khác, kiếm sống bằng nghề gì đó. Nếu như anh ta sống sót và có thể trả lời phỏng vấn, chúng ta sẽ nghe được chính xác cảm giác của anh ta khi cây cầu bị sụp là như thế nào. Điều ngớ ngẩn là: không có một câu chuyện nào giải thích lý do đằng sau tai nạn đó. Bỏ qua câu chuyện của người lái xe đó - và xem xét việc xây dựng cây cầu: đâu là chỗ yếu của cây cầu? Có phải vì nó bị giảm sức chịu đựng? Nếu không, có phải cây cầu đã bị hư hại? Nếu đúng vậy, cái gì đã gây ra điều đó? Liệu cây cầu có được xây dựng theo thiết kế chuẩn hay không? Có những cây cầu khác được xây dựng theo cùng một thiết kế không? Vấn đề của những câu hỏi đó là chúng không làm nên một câu chuyện hấp dẫn, dù chúng đáng được đặt ra. Truyện kể thu hút chúng ta; còn những chi tiết trừu tượng làm chúng ta chán ngán. Hệ quả là, những câu chuyện mang tính giải trí và chuyện bên lề được ưu tiên hơn cả thực tế quan trọng. (Điểm tốt là, nếu không vì mục đích này, chúng ta sẽ chỉ có những cuốn sách phi hư cấu để đọc mà thôi).
Sau đây là hai câu chuyện của tiểu thuyết gia người Anh E. M. Forster. Bạn sẽ nhớ câu chuyện nào hơn? (a) “Nhà vua chết, nữ hoàng chết.” (b) “Nhà vua chết, và nữ hoàng chết vì đau buồn.” Hầu hết mọi người sẽ dễ nhớ câu chuyện thứ hai hơn. Ở đây, hai cái chết không chỉ tiếp nối nhau; những cái chết này còn liên quan đến cảm xúc. Câu chuyện A là một bản cáo bạch thực tế, nhưng câu chuyện B thì có “ý nghĩa”. eo thuyết thông tin, chúng
ta đáng lẽ phải dễ nhớ câu chuyện A hơn vì nó ngắn hơn. Nhưng não bộ của chúng ta không hoạt động như thế.
Các nhà quảng cáo cũng đã học cách lợi dụng điều này. ay vì tập trung vào tác dụng của một sản phẩm nào đó, họ tạo ra một câu chuyện xung quanh nó. Nói một cách khách quan, những câu chuyện chẳng hề quan trọng. ế nhưng chúng ta vẫn bị chúng thu hút. Google chứng minh điều này một cách ngoạn mục trong đoạn quảng cáo phát sóng trên Super Bowl(5) năm 2010, “Google Parisian Love”. Hãy xem nó trên YouTube.
Chúng ta sắp xếp mọi thứ thành những câu chuyện có ý nghĩa, từ những câu chuyện cuộc sống của chính chúng ta cho đến các sự kiện toàn cầu. Làm như vậy là bóp méo hiện thực và tác động đến những quyết định của chúng ta, nhưng vẫn còn một liệu pháp: hãy phân tích chúng. Hãy tự hỏi mình: họ đang cố gắng che giấu điều gì? Hãy lên thư viện và dành nửa ngày đọc các tờ báo cũ. Bạn sẽ thấy rằng các sự kiện hiện nay dường như có sự kết nối lại không hề như vậy trong quá khứ. Để trải nghiệm lại hiệu ứng đó một lần nữa, hãy thử nhìn nhận cuộc sống của bạn bên ngoài bối cảnh của nó. Hãy đào sâu những ghi chép và nhật ký của bạn, và bạn sẽ thấy rằng cuộc sống của bạn không hề đi theo một con đường thẳng dẫn đến ngày hôm nay, mà là hàng loạt những sự kiện và trải nghiệm không được lên kế hoạch, không có sự kết nối với nhau, như chúng ta sẽ thấy ở chương tiếp.
Bất cứ khi nào bạn được nghe một câu chuyện, hãy hỏi bản thân: ai là người kể chuyện, động cơ của người đó và điều gì được che giấu đằng sau câu chuyện đó? Những yếu tố bị bỏ qua có thể không hề có liên quan. Nhưng, ngược lại, chúng có thể thậm chí còn có liên quan hơn những yếu tố được khắc họa trong câu chuyện, ví dụ như khi “lý giải” một cuộc khủng hoảng tài chính hay “nguyên nhân” của chiến tranh. Vấn đề thực sự với
những câu chuyện là: chúng đem đến ảo tưởng rằng chúng ta đạt được sự hiểu biết, và điều đó tất yếu khiến chúng ta vớ phải những rủi ro lớn hơn và đẩy chúng ta vào tình huống nguy hiểm.
(5) Quảng cáo được phát đi kèm giải Super Bowl, hay Siêu Cúp, giải vô địch của Liên đoàn bóng bầu dục quốc gia Hoa Kỳ, được tổ chức hằng năm và là một trong những chương trình có lượng người xem cao nhất tại Mỹ.
14
VÌ SAO BẠN NÊN VIẾT NHẬT KÝ
ành kiến hồi tưởng
G
ần đây tôi tìm thấy những cuốn nhật ký của ông chú tôi. Vào năm 1932, ông di cư từ một ngôi làng nhỏ ở ụy Sĩ đến Paris để tìm kiếm vận may trong ngành điện ảnh. áng Tám năm 1940, hai tháng sau khi Paris bị chiếm đóng, ông ghi lại: “Tất cả mọi người đều chắc chắn quân Đức sẽ rời đi vào cuối năm. Các sĩ quan cũng khẳng định lại điều đó với tôi. Anh sẽ chiến bại nhanh như Pháp vậy, và sau đó cuộc sống ở Paris cuối cùng sẽ trở lại với chúng tôi - mặc dù giờ đây giống như một phần của nước
Đức.” Ấy vậy mà thời gian chiếm đóng kéo dài suốt bốn năm. Trong các sách lịch sử ngày nay, việc quân Đức chiếm đóng Pháp dường như là để thiết lập một phần chiến lược quân sự rõ ràng. Khi nhìn lại quá khứ, diễn biến của cuộc chiến có vẻ như là có khả năng nhất trong số tất cả các viễn cảnh. Tại sao vậy? Bởi vì chúng ta đã mắc vào cái bẫy thành kiến hồi tưởng.
Hãy xem xét một ví dụ mới hơn: năm 2007, các chuyên gia kinh tế vẽ ra một bức tranh lạc quan về những năm tiếp theo. Tuy nhiên, chỉ mười hai tháng sau đó, các thị trường tài chính nổ tung. Khi được hỏi về cuộc khủng hoảng này, cũng chính họ lại liệt kê nguyên do của nó: chính sách tiền tệ mở rộng dưới thời Greenspan, nới lỏng phê duyệt cho vay thế chấp, các cơ quan đánh giá xếp hạng bị mua chuộc, yêu cầu về vốn tối thiểu thấp, vân
vân. Hồi tưởng lại thì ta thấy lý do của sự sụp đổ đó dường như là quá hiển nhiên.
ành kiến hồi tưởng là một trong những ảo tưởng phổ biến nhất. Chúng ta có thể gọi nó là hiện tượng “tôi đã bảo rồi mà”: nhìn lại quá khứ, mọi thứ có vẻ như thật rõ ràng và tất yếu. Nếu như một vị CEO đạt được thành công nhờ vào may mắn, thì khi nhìn lại, ông ta sẽ đánh giá khả năng thành công của chính mình cao hơn rất nhiều so với thực tế. Tương tự, sau chiến thắng toàn diện của Ronald Reagan trước Jimmy Carter trong cuộc bầu cử năm 1980, các nhà bình luận tuyên bố việc ông nhậm chức là dễ đoán, mặc dù trước đó một vài ngày tình hình còn ở thế kẻ tám lạng người nửa cân. Ngày nay, các phóng viên kinh tế nói rằng sự thống trị của Google là chuyện đã được định trước, mặc dù vào năm 1998 hẳn chính họ lại cười vào dự đoán này. Một ví dụ đặc biệt ngớ ngẩn khác: việc phát súng duy nhất ở Sarajevo vào năm 1914(6) có thể hoàn toàn làm đảo lộn thế giới trong ba mươi năm và khiến năm mươi triệu người thiệt mạng dù ngày nay nghe rất bi kịch, nhưng hoàn toàn hợp lý. Trẻ con ai cũng được học chi tiết lịch sử này ở trường. Nhưng hồi đó, hẳn không ai có thể mơ thấy rằng sự việc lại leo thang khủng khiếp như vậy. Người ta sẽ thấy điều đó quá ngớ ngẩn.
(6) Tác giả đang muốn đề cập đến vụ ám sát thái tử Áo-Hung Franz Ferdinand ngày 28/6/1914, một trong những vụ ám sát gây chấn động nhất thế giới thế kỷ XX, được coi là nguyên nhân trực tiếp của ế chiến I (1914-1918).
Vậy tại sao thành kiến hồi tưởng lại nguy hiểm đến vậy? ực chất, nó khiến chúng ta tin rằng mình là những người có khả năng dự đoán giỏi hơn thực tế, khiến chúng ta trở nên ngạo mạn về sự hiểu biết của mình, và hệ quả là hứng chịu mạo hiểm quá mức. Nó không chỉ liên quan đến các vấn đề toàn cầu: “Cậu nghe tin gì chưa? Sylvia và Chris không còn ở bên nhau nữa. Chuyện của họ rõ ràng là không ổn, họ quá khác nhau.” Hoặc “Họ thật sự quá giống nhau.” Hoặc: “Họ dành quá nhiều thời gian bên nhau.” Hoặc: “Họ hầu như chẳng gặp nhau.”
Vượt qua thành kiến hồi tưởng không hề dễ dàng. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người biết về nó vẫn cứ mắc bẫy với tần suất y như những người khác. Vì thế, tôi rất lấy làm tiếc, nhưng quả thực bạn vừa lãng phí thời gian đọc chương này.
Nếu bạn vẫn còn theo dõi, thì tôi còn một mẹo cuối cùng, lần này là điều được rút ra từ kinh nghiệm riêng tư chứ không phải kinh nghiệm nghề nghiệp: hãy ghi nhật ký. Hãy viết ra những dự đoán của bạn - về những biến động chính trị, sự nghiệp của bạn, cân nặng của bạn, thị trường chứng khoán, vân vân. Sau đó, thi thoảng hãy so sánh các ghi chép của bạn với những diễn biến thực tế. Bạn sẽ phải kinh ngạc khi nhận ra mình dự báo tồi đến thế nào. Cũng đừng quên đọc cả về lịch sử - không phải chỉ là những lý thuyết về lịch sử được đúc kết và biên soạn trong sách giáo khoa, mà cả nhật ký, lịch sử truyền miệng, và các tài liệu lịch sử của thời trước. Nếu bạn không thể sống thiếu tin tức, hãy đọc báo của năm, mười, hoặc hai mươi năm trước. Việc làm này sẽ khiến bạn nhận thức rõ ràng rằng thế giới này khó lường đến mức nào. Hồi tưởng có thể tạm thời an ủi những kẻ bị ngợp trước những gì phức tạp, nhưng để hiểu sâu hơn về cách thế giới vận hành, tốt hơn hết là bạn tìm kiếm ở nguồn khác.
15
VÌ SAO BẠN THƯỜNG ĐỀ CAO SỰ HIỂU BIẾT VÀ NĂNG LỰC CỦA BẢN THÂN
Hiệu ứng tự tin thái quá
N
hạc sĩ yêu thích của tôi, Johann Sebastian Bach, không phải là một tượng đài âm nhạc chỉ nhờ một bản nhạc duy nhất. Ông đã sáng tác vô số tác phẩm. Số lượng là bao nhiêu thì tôi sẽ tiết lộ ở cuối chương này. Nhưng tạm thời, tôi xin đưa ra một câu hỏi nhỏ với bạn: bạn nghĩ Bach đã sáng tác bao nhiêu bản nhạc? Hãy chọn một khoảng ước lượng nào đó, chẳng hạn như từ một trăm đến năm trăm, làm sao để đoán đúng tới 98% và chỉ sai lệch 2%.
Chúng ta nên tự tin đến đâu về vốn kiến thức của mình? Hai nhà tâm lý học Howard Raifa và Marc Alpert đã phỏng vấn hàng trăm người với cùng kiểu câu hỏi như tôi đưa ra ở trên. Đôi khi họ còn yêu cầu những người tham gia ước tính tổng sản lượng trứng của nước Mỹ hoặc số lượng bác sĩ nội khoa và bác sĩ ngoại khoa được liệt kê trên những “trang vàng” danh bạ điện thoại của Boston hoặc số lượng xe hơi ngoại nhập của Mỹ, hoặc thậm chí là tổng số tiền phí thu được từ kênh Panama tính theo đơn vị triệu đô la. Các đối tượng phỏng vấn có thể chọn bất kỳ một khoảng ước lượng nào mà họ muốn, nhưng không được sai quá 2% mỗi lần. Kết quả thu được hết sức thú vị. Tổng kết lại, thì thay vì chỉ sai 2%, họ đoán sai tới 40%. Các nhà nghiên cứu gọi hiện tượng thú vị này là hiệu ứng tự tin thái quá.
Hiệu ứng tự tin thái quá còn đúng với các dự báo, ví dụ như tình hình thị trường chứng khoán trong một năm, hoặc lợi nhuận của công ty bạn trong vòng ba năm. Chúng ta luôn tự tin thái quá vào kiến thức cũng như khả năng dự đoán của mình một cách có hệ thống - ở hầu hết mọi lĩnh vực. Hiệu ứng tự tin thái quá không chỉ ra liệu các ước tính riêng lẻ có đúng hay không. Chính xác hơn, theo lời Taleb, “nó đo lường khoảng cách giữa những gì người ta thực sự biết và lượng kiến thức mà họ nghĩ rằng mình biết”. Điều đáng ngạc nhiên là: các chuyên gia chịu ảnh hưởng của hiệu ứng tự tin thái quá nặng nề hơn so với những người không chuyên khác. Nếu được yêu cầu dự báo giá dầu trong vòng năm năm, một giáo sư kinh tế sẽ đưa ra con số chẳng chính xác hơn một người trông coi vườn thú. ế nhưng vị giáo sư thì sẽ đưa ra dự báo của mình như thể đoán chắc vào nó.
Hiệu ứng tự tin thái quá không chỉ dừng lại ở kinh tế học: theo Taleb, 84% người Pháp ước tính rằng họ là những người tình trên trung bình. Nếu không vì hiệu ứng tự tin thái quá, thì con số chính xác đáng ra phải là 50%, bởi theo giá trị trung bình trong thống kê, 50% phải thuộc về nhóm cao hơn còn 50% còn lại rơi vào nhóm thấp hơn. Trong một cuộc khảo sát khác, 93% sinh viên Mỹ tự cho mình là những tài xế “trên trung bình”. Và 68% giáo viên của Đại học Nebraska tự chấm bản thân nằm trong top 25% dẫn đầu về năng lực giảng dạy. Các doanh nhân và những người mong muốn kết hôn cũng tự coi bản thân là khác biệt: họ tin rằng mình có thể vượt qua mọi nghịch cảnh. ực tế, hoạt động kinh doanh sẽ thấp hơn rất nhiều nếu không có hiệu ứng tự tin thái quá. Chẳng hạn, mọi chủ nhà hàng đều hy vọng sẽ mở thêm được nhà hàng gắn sao Michelin(7) mới, cho dù các số liệu thống kê chỉ ra rằng hầu hết họ đều phải đóng cửa chỉ sau ba năm. Lợi tức
từ khoản đầu tư trong ngành kinh doanh nhà hàng bị rơi vào mức âm trong một thời gian dài.
Hầu như không có một dự án lớn nào được hoàn thành trước hạn và tốn ít chi phí hơn so với dự tính. Một số trường hợp trì hoãn và bội chi thậm chí đã trở thành huyền thoại, ví dụ như dự án Airbus A400M, nhà hát Opera Sydney, và dự án cao tốc Big Dig tại Boston. Bạn còn có thể bổ sung thêm nhiều cái tên nữa vào danh sách này. Vì sao như vậy? Trong chuyện này, có hai hiệu ứng cùng tác động. ứ nhất, đó là hiệu ứng tự tin thái quá truyền thống. ứ hai, những người có mối quan tâm trực tiếp đến dự án này có động cơ để hạ thấp chi phí: các chuyên gia tư vấn, nhà thầu và các nhà cung cấp đều cần có đơn đặt hàng. Các đơn vị xây dựng cảm thấy tự tin hơn với các số liệu lạc quan, và thông qua hoạt động của họ, các chính trị gia sẽ nhận được nhiều phiếu bầu hơn. Chúng ta sẽ xem xét hiện tượng xuyên tạc có chiến thuật này trong chương khác của cuốn sách (chương 89).
Điều khiến cho hiệu ứng tự tin thái quá hoành hành và gây hậu quả đáng kinh ngạc đến vậy chính là việc nó không được thúc đẩy bởi các cơ chế khuyến khích; nó nguyên sơ và mang tính bẩm sinh. Và không hề tồn tại một hiệu ứng ngược như “thiếu tự tin” để cân bằng lại. ực tế sau đây sẽ không làm độc giả ngạc nhiên: hiệu ứng tự tin thái quá thường thấy hơn ở nam giới - vì phụ nữ thường không tự đề cao sự hiểu biết và năng lực của mình đến vậy. Rắc rối hơn nữa là: những người lạc quan không phải là những nạn nhân duy nhất của hiệu ứng tự tin thái quá. Ngay cả những người tự nhận mình bi quan cũng thường đề cao bản thân - chỉ là ít cực đoan hơn mà thôi.
(7) Các nhà hàng chất lượng cao.
Kết luận: Bạn hãy ý thức rằng mình thường tự đánh giá quá cao sự hiểu biết của bản thân. Hãy biết nghi ngờ các dự báo, nhất là khi chúng do các chuyên gia đưa ra. Và với mọi kế hoạch, hãy thiên vị kịch bản nào bi quan nhất. Như thế, bạn sẽ có cơ hội xét đoán tình huống một cách chân thực.
Quay lại chuyện tôi nói ban đầu: Johann Sebastian Bach đã sáng tác 1.127 tác phẩm còn được lưu giữ tới ngày nay. Ông có thể đã sáng tác một số lượng lớn hơn thế nữa, nhưng chúng đã bị mất.
16
ĐỪNG QUÁ TIN VÀO PHÁT THANH VIÊN
Kiến thứctài xế
S
au khi nhận giải Nobel vật lý năm 1918, Max Planck đi công tác vòng quanh nước Đức. Ở bất cứ nơi đâu ông được mời, ông đều trình bày cùng một bài giảng về thuyết cơ học lượng tử mới. Dần dà, tài xế của ông đã học thuộc lòng cả bài giảng ấy: “Cứ phải trình bày mãi một bài phát biểu chắc là chán lắm nhỉ, thưa giáo sư Planck. Hay là đến Munich tôi trình bày hộ ông nhé? Ông có thể ngồi ở hàng ghế đầu tiên và đội chiếc mũ tài xế của tôi. Như vậy cả hai ta đều có dịp được trải nghiệm.” Planck thích ý tưởng đó, nên buổi chiều hôm ấy chàng tài xế được dịp trình bày một bài giảng thật dài về cơ học lượng tử trước một nhóm thính giả khả kính. Sau đó, một giáo sư vật lý đứng lên đặt câu hỏi. Chàng tài xế bèn chống chế: “Tôi chưa từng nghĩ rằng một người đến từ thành phố phát triển như Munich lại đặt câu hỏi đơn giản đến vậy! Tài xế của tôi sẽ trả lời câu hỏi này.”
eo lời Charlie Munger, một trong những nhà đầu tư xuất sắc nhất trên thế giới (và tôi đã nghe câu chuyện này từ ông), thì có hai dạng kiến thức. Dạng thứ nhất là kiến thức thật sự. Chúng ta thấy nó ở những người đã bỏ ra rất nhiều thời gian và công sức để hiểu một đề tài. Dạng thứ hai là kiến thức tài xế - những kiến thức mà người ta học chỉ để thuyết trình. Có thể những người đó có chất giọng tuyệt hay hoặc mái tóc bóng bẩy, nhưng thứ kiến
thức họ trình bày không phải là của chính họ. Họ thốt ra những lời lẽ trơn tru như thể đang đọc một kịch bản vậy.
Rủi thay, việc phân biệt đâu là kiến thức thực sự và kiến thức tài xế càng lúc càng trở nên khó khăn. Tuy thế, với các phát thanh viên, điều này thực dễ dàng. Họ là các diễn viên. Chấm hết. Ai cũng biết điều đó. ế nhưng cho đến giờ, tôi vẫn còn ngạc nhiên vì sao những người đọc kịch bản chải chuốt ấy lại được kính trọng đến vậy, chưa kể số tiền họ kiếm được thông qua việc dẫn dắt các nhóm thảo luận về những đề tài họ chẳng hiểu rõ.
Với các nhà báo, bạn khó phân biệt hơn. Một số người quả có học được kiến thức thật sự. ường thì họ là những phóng viên kỳ cựu chuyên trách một mảng đề tài cụ thể trong nhiều năm. Họ thực sự bỏ công bỏ sức để hiểu được mức độ phức tạp của một vấn đề và truyền đạt lại chúng. Họ thường viết những bài báo dài trong đó nhấn mạnh đến sự đa dạng của các tình huống và những trường hợp cá biệt. Tuy nhiên, phần đông các nhà báo rơi vào nhóm tài xế. Họ tự sáng tạo ra các bài viết, hoặc thường là từ việc tra cứu Google. Những bài viết của họ ngắn, một chiều, và - như để bù đắp cho kiến thức chắp vá của họ - đầy giọng tự mãn.
Tính nông cạn tương tự cũng có thể thấy trong kinh doanh. Một công ty càng lớn, thì người ta càng trông đợi vị CEO của công ty đó sở hữu phẩm chất của một “ngôi sao”. Lòng tận tụy, nghiêm túc, và đáng tin cậy không được coi trọng mấy, ít nhất là ở vị trí cấp cao. ường thì các cổ đông và phóng viên kinh tế tin rằng khả năng thể hiện bản thân sẽ mang đến kết quả tốt hơn, một điều hiển nhiên là không đúng.
Để đề phòng hiệu ứng tài xế, Warren Bufet, đối tác kinh doanh của Munger, đã đưa ra một khái niệm tuyệt vời gọi là “vòng tròn hiểu biết”: bên trong vòng tròn là thứ bạn hiểu rất rõ; những gì bên ngoài thì bạn chỉ hiểu
lơ mơ. Một trong những lời khuyên tuyệt vời nhất của Munger là: “Bạn phải giữ vững vị trí của mình trong vòng tròn hiểu biết. Bạn phải biết mình hiểu được những gì và không hiểu được những gì. Vòng tròn của bạn lớn đến đâu không phải là điều tối quan trọng. Điều tối quan trọng là bạn biết được chu vi của vòng tròn đó.” Munger còn gạch chân những dòng này: “Vì thế bạn phải tìm ra năng khiếu của mình là gì. Nếu chỉ chơi trò chơi mà những người khác có năng khiếu còn bạn thì không, bạn sẽ thua chỏng gọng. Và đó là một dự báo gần như chắc chắn đúng mà bạn có thể đưa ra. Bạn phải tìm ra chu vi vòng tròn của mình và chỉ nên chơi trong vòng tròn hiểu biết ấy.”
Kết luận: Hãy đề phòng kiến thức tài xế. Đừng nhầm lẫn người phát ngôn của một công ty, người dẫn chương trình, phát thanh viên, một kẻ khéo miệng, người bán rong nhiều lời, hoặc những kẻ thích ba hoa chích chòe với những người thực sự hiểu biết. Làm thế nào để nhận biết sự khác biệt? Có một dấu hiệu rõ ràng: những chuyên gia thực sự biết được giới hạn của điều họ biết và những gì họ không biết. Nếu họ nhận thấy mình đã rơi ra khỏi vòng tròn hiểu biết của bản thân, họ sẽ im lặng hoặc chỉ nói, “tôi không biết”. Họ thốt ra điều đó một cách thản nhiên, thậm chí còn có chút kiêu hãnh. Còn những gã tài xế sẽ nói cho chúng ta nghe đủ thứ ngoại trừ câu nói đó.
17
BẠN KIỂM SOÁT ÍT HƠN BẠN NGHĨ
Ảo tưởng kiểm soát
N
gày nào cũng thế, lúc gần chín giờ, một người đàn ông đội mũ đỏ đứng giữa quảng trường và bắt đầu khua loạn xạ chiếc mũ của mình. Sau năm phút, anh ta biến mất. Một ngày, có viên cảnh sát lại gần và hỏi anh ta: “Anh đang làm gì vậy?” “Tôi đuổi bọn hươu cao cổ.” “Nhưng làm gì có hươu cao cổ ở đây.” “ế thì nghĩa là tôi đang làm tốt việc của mình.”
Người bạn của tôi bị gãy chân nằm bẹp gí trên giường có nhờ tôi mua hộ một tờ vé số. Tôi bèn đến tiệm tạp hóa, tích một vài ô, viết tên anh ta vào, rồi trả tiền. Khi tôi về đưa cho anh bạn một bản copy của tấm vé, anh ta kêu lên: “Sao cậu lại điền vào tờ vé số? Tôi muốn làm việc đó. Tôi sẽ không bao giờ trúng số với các số của cậu!” Tôi bèn hỏi: “Cậu thực sự nghĩ nếu cậu chọn số thì nó sẽ ảnh hưởng đến kết quả sao?” Cậu ta nhìn tôi mặt ngẩn ra.
Ở các casino, hầu hết mọi người đều ném súc sắc thật lực nếu họ cần một con số to và hết sức nhẹ nhàng khi họ đang muốn một số nhỏ - điều này phi lý chẳng khác nào các fan bóng đá nghĩ rằng họ có thể thay đổi trận đấu bằng cách hoa chân múa tay trước ti vi. Rủi thay, họ có cùng một ảo tưởng với những người tìm cách tác động đến thế giới bằng cách truyền phát những suy nghĩ “đúng đắn” (ví dụ: các rung chấn, năng lượng tích cực, quả báo…).
Ảo tưởng kiểm soát chính là xu hướng tin rằng chúng ta có thể tác động đến một điều gì đó mà chúng ta không thể suy chuyển được. Nó được phát hiện vào năm 1965 bởi hai nhà nghiên cứu, Jenkins và Ward. Các thí nghiệm của họ chỉ đơn giản bao gồm hai nút bấm và một cây đèn. Hai người họ có thể điều chỉnh khi nào thì các nút bấm được kết nối với cây đèn và khi nào thì không. Dù cho cây đèn bật lên hay tắt đi một cách ngẫu nhiên, thì các đối tượng thí nghiệm vẫn tin rằng mình có thể tác động lên cây đèn bằng cách dùng nút bấm.
Hãy xem xét thêm ví dụ này: một nhà nghiên cứu người Mỹ nghiên cứu độ nhạy với sự đau đớn do âm thanh gây ra. Để thực hiện, ông ta xếp người tham gia đứng trong các buồng cách âm và vặn tiếng to dần lên cho đến khi các đối tượng thí nghiệm ra dấu cho ông dừng lại. Hai buồng A và B giống y hệt nhau, ngoại trừ một điểm: buồng B có một nút bấm khẩn cấp màu đỏ trên tường. Nút bấm này được bố trí chỉ để cho có, nhưng nó đem lại cho những người tham gia cảm giác họ đang kiểm soát được tình hình, giúp họ chịu đựng được âm thanh ở mức lớn hơn khá nhiều. Nếu như bạn từng đọc các tác giả như Aleksandr Solzhenitsyn, Primo Levi, hay Viktor Frankl(8), bạn sẽ không ngạc nhiên trước phát hiện này: chính ý nghĩ rằng người ta có thể kiểm soát được số phận, dù chỉ một chút xíu, đã khuyến khích những tù nhân ấy không từ bỏ hy vọng.
(8) Những tác giả này có điểm chung là từng phải ngồi tù trong chiến tranh.
Băng qua đường ở Los Angeles không phải là điều dễ dàng, nhưng may thay, chỉ cần bấm nút, ta có thể khiến xe cộ dừng lại. Nhưng có thật là như vậy? Mục đích thực sự của cái nút bấm là khiến chúng ta tin rằng mình có thể tác động đến đèn giao thông, và nhờ đó chúng ta chấp nhận chờ tín hiệu thay đổi một cách kiên nhẫn hơn. Tương tự như thế là hai nút bấm “mở cửa” và “đóng cửa” trong thang máy: rất nhiều trong số đó thậm chí còn chẳng được nối với bảng điện. Mẹo này cũng xuất hiện ở những văn phòng thiếu vách ngăn: với một số người, nhiệt độ là quá nóng, nhưng những người khác lại thấy quá lạnh. Những kỹ thuật viên khôn ngoan bèn tạo ra ảo tưởng kiểm soát bằng cách lắp các đĩa chỉ số nhiệt độ giả. Nhờ đó người ta giảm được tiền điện và cả những lời than phiền. Những mánh khóe như vậy được gọi là các “nút trấn an” và người ta sử dụng nó khắp mọi nơi.
Các lãnh đạo ngân hàng và quan chức chính phủ sử dụng các nút trấn an vô cùng thành thục. Lấy ví dụ như tỷ giá ngân sách liên bang - một tỷ giá vô cùng ngắn hạn - nói chính xác thì đó là tỷ giá một đêm. Mặc dù tỷ giá này không ảnh hưởng đến tỷ giá lãi suất (vốn là một chức năng của cung và cầu, và là một nhân tố quan trọng trong các quyết định đầu tư), thị trường chứng khoán lại hốt hoảng trước từng biến động của nó. Không ai hiểu được tại sao tỷ giá lãi suất qua một đêm lại có thể gây ảnh hưởng lớn như vậy đến thị trường, nhưng ai cũng tin vào điều đó thì họ buộc phải tin theo. Tương tự như thế với trường hợp các phát ngôn chính thức của chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang; các thị trường dịch chuyển, mặc dù những phát ngôn ấy không có giá trị thực tế mấy đối với nền kinh tế thực. Chúng chỉ là những sóng âm. ế mà chúng ta vẫn cho phép những kẻ đứng đầu trong lĩnh vực kinh tế tiếp tục tạo ra ảo tưởng. Tất cả mọi người có liên
quan chỉ tỉnh ngộ khi nhận ra sự thật: kinh tế toàn cầu là một hệ thống về cơ bản không thể kiểm soát.
Còn bạn thì sao? Bạn vẫn giữ được mọi thứ trong tầm kiểm soát chứ? Có lẽ không nhiều như bạn nghĩ đâu. Chớ nghĩ rằng bạn đang điều khiển mọi thứ trong cuộc sống như một hoàng đế La Mã. ay vào đó, bạn là người đàn ông đội mũ đỏ. Vì thế, hãy tập trung vào một số ít những việc quan trọng mà bạn có thể thực sự tác động vào. Còn những việc khác thì: Que sera, sera(9).
(9) Điều gì đến, sẽ đến.
18
KHÔNG BAO GIỜ TRẢ CÔNG LUẬT SƯ THEO GIỜ
Xu hướng làm vì thưởng
H
ồi thế kỷ XIX, nhằm kiểm soát sự hoành hành của chuột, chính quyền Pháp tại Hà Nội thông qua một đạo luật: cứ mỗi con chuột chết nào được giao nộp cho nhà chức trách, người bắt chuột sẽ được nhận phần thưởng. ế là, mặc dù có rất nhiều chuột bị tiêu diệt, nhưng rất nhiều con trong số chúng đồng thời cũng được nuôi chỉ vì mục đích lãnh thưởng.
Vào năm 1947, khi các bút tích Biển Chết(10) được phát hiện, các nhà khảo cổ học đưa ra một mức thưởng cho người nào trình lên một mảnh da mới. Mặc dù người ta tìm ra được thêm rất nhiều cuộn da, nhưng chúng toàn là những cuộn da bị xé rách để nhận được nhiều tiền thưởng hơn. Tương tự như thế, ở Trung Quốc vào thế kỷ XIX, người ta trao thưởng cho người nào phát hiện ra xương khủng long. Một số nông dân tìm thấy một vài mẩu xương trên đất nhà họ, đập gãy chúng, sau đó mới đi lãnh thưởng. Nhưng phương thức thưởng công ngày nay cũng chẳng hiệu quả gì hơn: ban lãnh đạo các công ty cam kết khen thưởng cho những ai đạt được mục tiêu đề ra. Kết quả là sao? Những người quản lý liền dốc sức tìm cách hạ mức mục tiêu hơn là tìm cách để kinh doanh phát đạt hơn.
(10) Một tập hợp bao gồm khoảng 980 bút tích khác nhau được phát hiện trong thời kỳ 1946-1956 tại mười một hang động cách bờ biển phía Tây Bắc của Biển Chết 2km.
Trên đây là một số ví dụ của xu hướng làm vì thưởng. uật ngữ nghe có phần to tát này, do Charlie Munger đặt tên, thực ra lại miêu tả một nhận định khá thông thường: người ta thường làm đủ mọi thứ để hưởng lợi tối đa từ hình thức khen thưởng. Điều đáng lưu tâm trước hết là, mức độ thay đổi chóng vánh trong cách xử sự của mọi người khi các phương thức khen thưởng được áp dụng hoặc bị thay đổi; thứ hai là thực tế rằng người ta chỉ chăm chăm nhắm đến việc tưởng thưởng vì chính bản thân họ, chứ không vì những dụng ý lớn hơn ẩn sau chúng.
Các hệ thống khen thưởng hiệu quả thường bao gồm cả dụng ý lẫn phần thưởng. Chẳng hạn: vào thời La Mã cổ đại, các công trình sư được đứng dưới công trình của họ vào các buổi lễ khai thông cầu. Trong khi các hệ thống khen thưởng tồi thì ngược lại, phớt lờ hoặc thậm chí bóp méo mục đích ẩn sau nó. Ví dụ, kiểm duyệt một cuốn sách sẽ khiến cho nội dung của nó càng được biết đến, còn trao thưởng cho các nhân viên ngân hàng theo từng khoản cho vay sẽ dẫn đến một hồ sơ tín dụng tệ hại. Công khai mức lương của CEO không làm giảm mức tiền lương cao ngất ngưởng đó, mà ngược lại, còn nâng chúng cao thêm. Vì không ai muốn làm một vị CEO thiệt thòi trong ngành của mình cả.
Bạn có muốn tác động đến hành vi của một nhóm người hoặc các tổ chức không? Bạn luôn luôn có thể rao giảng về các giá trị và tầm nhìn, hoặc bạn có thể viện đến lý luận. Nhưng trong gần như mọi trường hợp, các biện pháp tưởng thưởng đều tỏ ra có hiệu quả hơn. Những biện pháp này không cần phải là tiền; bất cứ thứ gì khả dĩ, từ điểm số cao cho đến giải Nobel rồi thì việc được cứu rỗi ở kiếp sau.
Tôi từng mất một thời gian dài tìm hiểu điều gì khiến cho các nhà quý tộc đầy học thức thời Trung cổ từ bỏ cuộc sống phong lưu nhung lụa của họ
để trèo lên lưng ngựa và lao vào những cuộc thập tự chinh. Họ thừa biết hành trình gian khổ đến Jerusalem kéo dài ít nhất sáu tháng và sẽ phải đi xuyên qua lãnh thổ địch; nhưng họ vẫn dấn thân vào. Và rồi tôi ngộ ra: câu trả lời chính là các cơ chế tưởng thưởng. Nếu họ sống sót trở về, họ có thể giữ lại các chiến lợi phẩm từ cuộc chiến và sống sung túc đến cuối đời. Nếu họ chết một cách tự động, họ sẽ ra đi như những kẻ tử vì đạo - với tất cả những lợi ích đi kèm. Một quyết định vẹn cả đôi đường.
ử hình dung rằng thay vì lấy tài sản của kẻ địch, các binh lính lại được tính tiền công theo giờ. Như vậy rõ ràng họ sẽ muốn làm việc càng lâu càng tốt, phải không? ế thì tại sao chúng ta lại làm thế với các luật sư, kiến trúc sư, chuyên gia tư vấn, nhân viên kế toán, và thầy dạy lái xe? Tôi khuyên bạn: hãy quên đi tiền công theo giờ và luôn luôn thương lượng một cái giá cố định ngay từ đầu.
Bạn cũng cần phải đề phòng những nhà cố vấn đầu tư ủng hộ một số sản phẩm tài chính cụ thể. Họ không quan tâm tình trạng tài chính của bạn tốt hay xấu, mà chỉ quan tâm làm sao kiếm được hoa hồng từ những sản phẩm ấy mà thôi. Kế hoạch kinh doanh của những doanh nhân và chuyên viên đầu tư ngân hàng cũng giống như vậy. ường thì chúng đều vô giá trị, vì các công ty chỉ thực tâm nghĩ đến lợi ích của bản thân họ. “Đừng bao giờ hỏi một thợ cạo xem bạn có nên cắt tóc hay không,” bạn còn nhớ câu ngạn ngữ xưa cũ này không nhỉ?
Kết luận: Hãy đề phòng xu hướng làm vì thưởng. Nếu cách hành xử của một tổ chức hay một cá nhân khiến bạn bối rối, hãy tự hỏi xem họ hưởng lợi gì từ đó. Tôi cam đoan rằng bạn sẽ có thể lý giải 90% các trường hợp theo cách này. Còn điều quyết định 10% còn lại ư? Đam mê, sự ngốc nghếch, chứng rối loạn tâm thần, hoặc dã tâm.
19
HIỆU QUẢ ĐÁNG NGỜ CỦA BÁC SĨ, CHUYÊN GIA TƯ VẤN, VÀ CHUYÊN GIA TRỊ LIỆU TÂM LÝ
Dao động vềtrung bình(11)
C
hứng đau lưng của ông có lúc đỡ hơn, có lúc lại tệ đi. Có những ngày ông cảm thấy mình có thể dịch chuyển được cả trái núi, nhưng cũng có ngày chỉ cử động thôi cũng đủ mệt. Mỗi khi ông bị như vậy - mà cũng may chuyện này hiếm xảy ra - là vợ ông lại lái xe đưa ông đến gặp chuyên gia xương khớp. Hôm sau ra viện, ông lại cảm thấy khỏe khoắn hơn và giới thiệu người trị liệu đó cho tất cả mọi người.
Một người đàn ông khác, trẻ hơn và là một tay golf nghiệp dư với điểm chấp là 12 cũng ca tụng thầy dạy golf của mình y như vậy. Cứ khi nào anh ta chơi kém, anh ta lại đặt hẹn để học một tiếng với tay golf chuyên nghiệp đó, và ngạc nhiên làm sao, ở buổi chơi sau anh ta khá lên nhiều.
(11) Các nhà khoa học giải thích, sau các sự kiện cực đoan, sự kiện xảy ra tiếp sau thường có khả năng bớt cực đoan hơn. Nhà khoa học người Anh Francis Galton giải thích bằng phát hiện của ông: con cái của cha mẹ cao thường có xu hướng thấp hơn họ, trong khi đó con cái của cha mẹ thấp thường có xu hướng cao hơn cha mẹ. Galton cho rằng những quá trình không đi theo quy luật này sẽ nhanh chóng trở nên mất kiểm soát.
Người thứ ba, một cố vấn đầu tư tại một ngân hàng lớn, sáng tạo ra một kiểu “vũ điệu nhảy mưa” để tự nhảy trong nhà vệ sinh mỗi khi chứng khoán của ông ta giảm điểm thảm hại. oạt nghe thì ngớ ngẩn, nhưng ông ta cảm thấy mình buộc phải làm vậy: vì mọi chuyện luôn khá hơn sau đó.
Điều kết nối ba người đàn ông này lại với nhau là một tư duy sai lầm: ảo tưởng dao động vềtrung bình.
Giả sử khu vực bạn sống đang trải qua một thời kỳ lạnh kỷ lục. Và gần như chắc chắn là, nhiệt độ sẽ tăng lên sau một vài ngày - để quay lại mức trung bình hằng tháng. Các hiện tượng như nắng nóng gay gắt, hạn hán, hoặc mưa gió cũng thế. ời tiết luôn dao động xung quanh một mức trung bình. Điều tương tự cũng đúng là chứng bệnh kinh niên, số điểm chấp trong chơi golf, cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, sự may mắn trong tình yêu, cảm giác hạnh phúc chủ quan, và điểm thi. Nói tóm lại, chứng đau lưng trầm trọng gần như sẽ dịu đi mà không cần đến người trị liệu. Tay golf có thể lại đạt được hệ số điểm chấp là 12 mà không cần thêm các buổi học. Và cổ phiếu của nhà cố vấn đầu tư hẳn cũng sẽ quay lại mức trung bình của thị trường - dù có hay không có điệu nhảy trong nhà vệ sinh.
Bên cạnh những biểu hiện cực đoan là những biểu hiện ít cực đoan hơn. Những cổ phiếu thành công nhất trong ba năm qua khó có thể tiếp tục là những cổ phiếu thành công nhất trong ba năm sắp tới. Biết điều này rồi, bạn có thể hiểu được vì sao một số vận động viên không muốn xuất hiện trên trang nhất các tờ báo: trong tiềm thức, họ biết rằng lần tới khi họ tranh tài, họ có thể sẽ không đạt được thành tích cao tương tự nữa - điều này vốn không liên quan đến sự quan tâm của truyền thông, mà liên quan đến phong độ của họ.
Hoặc không hãy lấy ví dụ về vị giám đốc một bộ phận muốn nâng cao tinh thần của nhân viên bằng cách cử 3% số nhân viên làm việc kém nhiệt huyết nhất tham gia một khóa học. Kết quả ra sao? Lần tới ông ta theo dõi mức độ nhiệt huyết của họ, những người này không còn nằm trong tốp dưới nữa - thay vào đó sẽ là những người khác. Liệu có phải đó là nhờ khóa học không? Cũng khó nói, vì độ nhiệt huyết của nhóm nhân viên này hẳn vẫn sẽ trở về mức trung bình của họ ngay cả khi không được tập huấn. Tình huống này cũng gần giống việc những bệnh nhân nhập viện vì bệnh trầm cảm vậy. Họ thường rời viện trong tâm trạng khá hơn. Tuy nhiên, vẫn có khả năng là nhập viện chẳng giúp ích được gì cho họ cả.
Một ví dụ khác: tại Boston, những ngôi trường có năng lực kém nhất phải đăng ký tham gia vào một chương trình hỗ trợ phức tạp. Năm kế tiếp, những trường này đều đạt thứ hạng cao hơn, một sự tiến bộ mà giới quyền chức gán cho thành công của chương trình thay vì hiện tượng tự nhiên là dao động vềtrung bình.
Phớt lờ hiện tượng dao động về trung bình có thể đem lại những hậu quả tai hại, ví dụ như việc các giáo viên (hoặc quản lý) kết luận rằng cây gậy thì hiệu quả hơn củ cà rốt(12). Ví dụ, sau một bài kiểm tra, những học sinh đạt kết quả cao nhất được khen ngợi còn những em đạt kết quả thấp nhất bị khiển trách. Trong bài kiểm tra sau, thì các học sinh khác - thuần túy tình cờ - lại đạt được điểm số cao nhất và thấp nhất. Vậy là, người giáo viên kết luận rằng khiển trách có tác dụng và khen ngợi thì gây cản trở: lại một suy nghĩ sai lầm.
(12) Cây gậy và củ cà rốt là một cách ví von của phương Tây ám chỉ sự trừng phạt và phần thưởng. Trong quan hệ quốc tế, cách diễn đạt này ám chỉ một loại chính sách ngoại giao mà các nước lớn áp dụng nhằm thay đổi hành vi của các nước nhỏ hơn. Cây
gậytượngtrưngchosựđedọatrừngphạt,củcàrốttượngtrưngchoquyềnlợihay phầnthưởng.
Kết luận: Khi bạn nghe những câu chuyện kiểu như: “Tôi bị ốm, tôi đến bác sĩ, vài ngày sau thì tôi khỏe hơn” hoặc “Công ty vừa có một năm tồi tệ, vì thế chúng tôi mời một nhà tư vấn về, và giờ các kết quả đã trở lại bình thường”, hãy nghĩ đến người bạn cũ của chúng ta, ảo tưởng dao động về trung bình.
20
ĐỪNG BAO GIỜ NHÌN VÀO KẾT QUẢ ĐỂ PHÁN XÉT MỘT QUYẾT ĐỊNH ành kiến kết quả
M
ột giả thuyết nhanh: giả sử có một triệu con khỉ đầu cơ vào thị trường chứng khoán. Chúng mua bán cổ phiếu điên cuồng và dĩ nhiên, một cách hoàn toàn ngẫu nhiên. Chuyện gì sẽ xảy ra? Sau một tuần, khoảng nửa số khỉ sẽ thu lời còn nửa kia thì lỗ. Những con thu lời có thể ở lại; những con thua lỗ sẽ bị gửi trả về chuồng. Đến tuần thứ hai, một phần hai số khỉ còn lại vẫn tiếp tục thu lời, còn nửa kia thì lỗ và bị gửi trả về. Việc này cứ thế tiếp diễn. Sau mười tuần, sẽ chỉ còn khoảng một ngàn con khỉ - những con đã luôn đầu tư tiền bạc đúng chỗ. Sau hai mươi tuần, chỉ còn lại đúng một con - con khỉ này luôn luôn chọn được những cổ phiếu
sinh lời và giờ đã trở thành triệu phú. Ta tạm gọi nó là khỉ phát đạt. Truyền thông phản ứng ra sao trước câu chuyện này? Họ sẽ chộp ngay lấy con khỉ này để truy ra “những nguyên tắc thành công”. Và họ sẽ tìm ra một vài bí quyết: có thể con khỉ này ăn nhiều chuối hơn những con khác. Có lẽ nó ngồi ở góc khác của chuồng. Hoặc có thể nó luôn quăng mình vun vút giữa các cành cây, hoặc là nó thường trầm ngâm suy tư trong lúc tự rửa ráy. Nó ắt phải có công thức nào đó để thành công, phải không nhỉ? Nếu không thì làm sao nó có thể đầu tư khôn ngoan đến vậy? Bách phát bách trúng hai năm liền - mà nó lại chỉ là một con khỉ chứ? Không thể nào!
"""