" Nghệ Thuật Quản Lý Tài Chính Cá Nhân PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nghệ Thuật Quản Lý Tài Chính Cá Nhân PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Nghe_thuat_quan_li Mục lục 1. Lời tựa: Những cuộc vấn đáp sôi nổi 2. Lời giới thiệu: Dan Strutzel 3. 1. Định nghĩa đồng tiền 4. 2. Nhầm tưởng hoang đường về tiền bạc 5. 3. Chi tiêu thông minh 6. 4. Quản lý nợ nần 7. 5. Kiến tạo nguồn thu nhập 8. 6. Dựng xây sự thịnh vượng 9. 7. Tăng cường sự thịnh vượng 10. 8. Bảo tồn sự thịnh vượng 11. 9. Mối liên hệ giữa tiền bạc và hạnh phúc 12. 10. Quy tắc vàng cho một nền kinh tế thịnh vượng Lời tựaNHỮNG CUỘC VẤN ĐÁP SÔI NỔI Brian Tracy là một trong những chuyên gia – diễn giả hàng đầu trên thế giới trong tất cả các lĩnh vực liên quan đến kinh doanh và thành công cá nhân. Đến nay, ông đã tham gia diễn thuyết hơn 5.000 buổi nói chuyện và hội thảo, phục vụ hơn 5 triệu người, và là một huấn luyện viên kinh doanh bậc thầy cho những lãnh đạo hàng đầu trong các ngành công nghiệp mũi nhọn trên khắp thế giới. Cùng với Brian Tracy, tác giả Dan Strutzel cũng là một người rất giàu kinh nghiệm với hơn 25 năm nghiên cứu và làm việc trong lĩnh vực phát triển con người. Ông đã cho ra đời nhiều chương trình phát thanh được coi là thành công nhất trong lịch sử. Bên cạnh đó, ông còn cộng tác và gắn bó với hầu hết các tác giả và diễn giả hàng đầu về lĩnh vực phát triển cá nhân. Dan rất phấn khích khi Brian đồng ý cùng ông ngồi xuống và thảo luận về một chủ đề mà Brian cũng quan tâm: Khoa học về tiền bạc - Khoa học về hạnh phúc. Cuộc gặp gỡ trao đổi giữa Dan và Brian thường diễn ra vào cuối tuần. Chính vì thế, cả hai người đều sắp xếp được nhiều thời gian hơn để có thể khám phá chủ đề này một cách sâu sắc và bao quát hơn. Những cuộc trò chuyện có chiều sâu giữa hai người đã được ghi âm và trình bày trong cuốn sách. Chúng tôi hy vọng bạn sẽ yêu thích và thu thập được nhiều lợi ích từ những cuộc thảo luận sôi nổi của họ. Lời giới thiệuDAN STRUTZEL Tiền bạc là một trong những chủ đề nhạy cảm, đáng suy ngẫm và gây ra nhiều luồng ý kiến trái chiều nhất trên thế giới. Vô số sách, báo, bài đăng trên Blog, cũng như diễn văn đề cập đến vấn đề tiền là gì, cách thức kiếm tiền, cách tiêu tiền, ai là người có tiền và ai là người không có tiền, cùng hàng loạt nội dung liên quan khác. Nhưng, bất chấp mối quan tâm không dứt dành cho chủ đề này, vẫn chỉ có một từ để diễn tả quan điểm thông thường của mọi người về tiền: mơ hồ. Mặc dù nhiều công trình nghiên cứu vô cùng to lớn về chủ đề này đã được công bố rộng rãi, vẫn còn rất nhiều thông tin sai lệch về tiền – chúng ta có thể gọi là tiếng ồn trắng1 trong lĩnh vực tài chính – đến nỗi mọi người có xu hướng hoặc trông chờ vào vận may hoặc cố tình phớt lờ toàn bộ chủ đề đó. Tình trạng này không chỉ vô nghĩa, mà còn là một bi kịch. Nó là bi kịch bởi tiềm năng nhân loại sẽ không được khai phá khi con người phó mặc cuộc sống của họ cho may rủi, hoặc tệ hơn, dần từ bỏ ước mơ của chính mình. Nó cực kỳ vô nghĩa vì các bí mật về tiền bạc, cách thức kiếm tiền, phương pháp đầu tư, và phương án chi tiêu khôn ngoan, đều đã được biết đến. 1 Tiếng ồn trắng (white noise), còn gọi là Nhiễu trắng, một dạng âm thanh được tạo ra bằng cách kết hợp nhiều loại âm thanh có tần số khác biệt lại với nhau, cũng có thể hiểu tiếng ồn trắng là một loại âm thanh với tần số thấp, phát đều nhau liên tục và thường dùng để che đậy các loại âm khác. Thật vậy, trên thế giới có hẳn một ngành khoa học về tiền bạc, cũng như nhiều ngành khoa học khác, chẳng hạn như dinh dưỡng học, giải phẫu học, thiên văn học, hóa học và kỹ thuật. Các lý thuyết cũng như thực hành trong ngành khoa học về tiền bạc đã được thử nghiệm và chứng minh nhiều lần không chỉ trong hàng năm trời hay hàng thập kỷ, mà là hàng thiên niên kỷ. Mặc dù, lý thuyết mới về tiền bạc liên tục được đưa ra – tương tự như chúng ta công bố nhiều học thuyết mới về cách chữa bệnh ung thư hay hói đầu – thì cơ sở ngành cũng như các quy tắc kiểm nghiệm kết quả sẽ, ngay lập tức, chuyển những ý tưởng mới từ khu vực lý thuyết vào một trong hai phạm trù sau: Thứ nhất, sự thực có thể xác minh mà Brian gọi là quy luật; và thứ hai, một quan điểm bị bác bỏ mà Brian gọi là nhầm tưởng. Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ xem xét cả hai phạm trù này: quy luật về tiền bạc, đây là những quy luật đã được chứng minh và có độ tin cậy cao như việc bạn luôn tin rằng mặt trời mọc ở phía Đông; và nhầm tưởng về tiền bạc. Những nhầm tưởng về tiền bạc có thể bao gồm những quan niệm vô căn cứ, nhưng tồn tại như những tin đồn; và những quan niệm được cho là đúng, nhưng lại được chứng minh là hoàn toàn sai, hoặc tệ hơn, chưa bao giờ được kiểm nghiệm. Tóm lại, ở đây chúng ta có một mục đích trọng tâm cần phải xử lý dứt điểm: Chấm dứt tình trạng mơ hồ về chủ đề tiền bạc, một lần và mãi mãi, đồng thời trình bày đầy đủ nhất những sự thật căn bản về tiền. Nếu bạn tìm hiểu những ý tưởng được đề cập trong cuốn sách này đồng thời áp dụng vào cuộc sống và công việc kinh doanh, bạn chắc chắn sẽ gặt hái được thành công tài chính, mức độ đảm bảo sẽ như mặt trời luôn mọc mỗi ban mai. 1ĐỊNH NGHĨA ĐỒNG TIỀN Trong bất kỳ bộ môn khoa học nào, chúng ta đều phải giải nghĩa thuật ngữ chuyên ngành để chắc chắn rằng chúng ta cùng đồng thuận về chủ đề mà mình đang nghiên cứu và về các nguyên tắc nền tảng được sử dụng để kiểm nghiệm mọi học thuyết xoay quanh chủ đề đó. Theo phần thảo luận này, Brian sẽ giúp chúng ta định nghĩa các thuật ngữ về chủ đề tiền bạc. Một số quan điểm của ông ấy có thể sẽ khiến bạn ngạc nhiên. DAN: Brian ơi, hãy bắt đầu bằng cách định nghĩa thế nào là khoa học về tiền bạc, và cách người ta nghiên loại phát triển, quá trình hàng đổi hàng trở nên rất bất tiện. Người ta thấy rằng họ có thể trao cứu về tiền từ trước đến nay. Hãy xem công trình nghiên cứu này đưa ra nhiều quy luật vững chắc và đáng tin cậy về cách kiếm tiền và tạo ra đồng tiền như thế nào, cũng như phủ nhận nhiều học thuyết đầu cơ và ảo tưởng ra sao. BRIAN: Nếu anh muốn biết tường tận đến từng ngóc ngách về chủ đề này, anh nên bắt đầu từ quy luật thứ nhất – quy luật trao đổi. Quy luật này phát biểu rằng tiền là phương tiện trung gian, mà thông qua nó, mọi người trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Họ trao đổi công sức lao động được truyền tải qua hàng hoá và dịch vụ để đổi lấy hàng hóa và dịch vụ của người khác. Tiền là phương tiện trung gian để trao đổi sức lao động. Trước khi xuất hiện tiền, chỉ có hàng đổi hàng. Quá trình này diễn ra cách đây 100.000 năm, khi người ta chế tạo được mũi giáo gắn đá đánh lửa, hoặc xoong nồi, rồi đem đổi lấy đồ vật khác như là thảm hoặc da. Trong hoạt động hàng đổi hàng, mọi người trực tiếp trao đổi hàng hoá và dịch vụ với nhau, mà không sử dụng phương tiện trung gian là tiền. Về sau, khi nền văn minh của nhân đổi hàng hóa và dịch vụ với nhau thông qua một phương tiện trung gian như vàng, bạc, đồng xu, vỏ ốc, hay đồng wampum1thời sơ khai ở Mỹ – thứ gì đó thật khan hiếm và có giá trị. Người ta đặt ra đồng xu hoặc thứ gì đó có giá trị, mà họ có thể dùng để đổi lấy gà, dê hay thứ gì khác. Nhờ thế, toàn bộ quá trình trao đổi trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn. 1 Một loại tiền của thổ dân da đỏ Bắc Mỹ, được làm từ vỏ sò, đánh bóng và xâu lại thành dây đeo. Đó là khởi đầu của tiền, và vẫn quyết định ý nghĩa của tiền tệ thời nay, dù mọi người còn rất mơ hồ về nó. Đồng tiền giúp toàn bộ quá trình trao đổi trở nên hiệu quả hơn. Ngày nay, chúng ta đi làm và đổi sức lao động để lấy tiền, thứ mà sau đó chúng ta lại dùng để mua sản phẩm đến từ sức lao động của người khác. Về cơ bản, tiền là phương tiện trung gian mà qua nó, chúng ta đổi sức lao động của mình để lấy sức lao động của người khác. Hệ quả đầu tiên được rút ra từ quy luật trao đổi: Tiền là thước đo giá trị mà con người gán cho hàng hóa và dịch vụ. Nó chỉ là thứ quyết định giá trị của hàng hóa và dịch vụ mà một người sẽ bỏ ra. Vật chất không tự thân có giá trị, mà giá trị của nó chỉ là thứ mà ai đó sẵn sàng trả để sở hữu nó. Anh không thể nói rằng sản phẩm hay dịch vụ của anh có giá trị ứng với một số tiền nào đó, trừ khi ai khác công nhận bằng cách thực sự thanh toán cho anh khoản tiền đó. Hàng hóa và dịch vụ có giá trị phụ thuộc vào người sẵn sàng chi trả để mua chúng. Do đó, tất cả các giá trị gán cho hàng hóa hay dịch vụ đều mang tính chủ quan. Đây chính là nền tảng tư tưởng kinh tế học Áo, trường phái sáng suốt nhất và hữu ích nhất trong lịch sử nhân loại. Nó được thiết lập dựa trên tư duy, cảm xúc, thái độ và quan điểm của khách hàng tiềm năng tại thời điểm ra quyết định mua. Hệ quả thứ hai được rút ra từ quy luật trao đổi phát biểu rằng: Sức lao động của anh được người khác xem như một yếu tố trong quá trình sản xuất, tức là, như một khoản chi phí bỏ ra để tạo nên thành phẩm. Hệ quả này đã đập tan gần như tất cả các tranh luận kinh tế về việc liệu mọi người có nên được trả 15 đô la một giờ hay không. Loài người còn có tên là con người kinh tế2. Cái tên này cho biết chúng ta luôn hành động theo hướng có lợi nhất về mặt kinh tế: Chúng ta luôn cố gắng thu được nhiều nhất và bỏ ra ít nhất. Đây là đặc tính di truyền, nó đã có sẵn trong mã gen của chúng ta. Và trong lịch sử loài người, chưa bao giờ tồn tại một biến thể trái ngược với điều này. Chúng ta sẽ không bao giờ trả giá cao hơn nếu chúng ta có thể trả ít hơn. 2 Con người kinh tế (Homo economicus hay Economic Man) là khái niệm xuất hiện trong nhiều học thuyết kinh tế, trong đó miêu tả con người như những cá thể luôn duy lý và tư lợi, thường theo đuổi những kết quả tối ưu theo chủ quan của họ. Mỗi chúng ta đều có xu hướng coi sức lao động của mình là thứ gì đó rất đặc biệt, bởi vì nó mang màu sắc cá nhân rất rõ ràng. Nó sinh ra từ cơ thể của chính chúng ta. Nó là biểu hiện cho chúng ta với tư cách con người. Nó rất dễ khơi gợi sự xúc động, thực vậy, vì nó chính là cuộc sống của chúng ta. Tuy nhiên, cho đến nay, đối với những người khác, thì sức lao động của chúng ta chỉ là một khoản phí. Với tư cách người tiêu dùng thông minh, hay chủ doanh nghiệp, hay khách hàng, chúng ta đều muốn đạt được nhiều nhất nhưng bỏ ra ít nhất, bất kể đó là sức lao động của ai. Điều này giải thích tại sao nhiều công ty đặt nhà máy sản xuất ở Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, hoặc Indonesia: Bởi vì khách hàng Mỹ không quan tâm đến việc sản phẩm được sản xuất tại đâu. Khách hàng chỉ quan tâm đến việc nhận được mức giá thấp nhất có thể. Người ta liên tục đề xuất giải pháp sử dụng nguồn lao động nước ngoài. Không phải các công ty, mà khách hàng đang gây áp lực và đòi hỏi doanh nghiệp sử dụng nguồn lao động nước ngoài, để hàng hóa và dịch vụ có thể được sản xuất với chi phí thấp hơn. Hầu hết các sản phẩm của Apple đều được sản xuất tại Trung Quốc. Tại sao vậy? Vì chi phí sản xuất tại các quốc gia phát triển hơn đắt gấp 3-4 lần chi phí sản xuất tại Trung Quốc, và khách hàng ở các nước phát triển sẽ không chấp nhận chi trả nhiều như vậy. Họ đòi hỏi, gián tiếp, rằng các công ty nên tận dụng nguồn nhân công giá rẻ nước ngoài để họ có thể nhận được nhiều lợi ích nhất nhưng bỏ ra ít nhất. Vì thế, chúng ta không thể tự gán một giá trị cho sức lao động của chính mình, bằng cách phản kháng và đòi hỏi các khoản tăng hay tương tự như vậy. Chỉ những gì người khác sẵn sàng trả cho sức lao động của anh, trong một thị trường cạnh tranh, mới quyết định anh kiếm được bao nhiêu và anh đáng giá thế nào về mặt tài chính. Chúng ta sẽ thảo luận về vấn đề 99% so với 1% trong phần sau của cuốn sách. Hệ quả thứ ba được rút ra từ quy luật trao đổi cho biết số tiền anh kiếm được là thước đo giá trị mà người khác gán cho sự đóng góp của anh. Nói cách khác, khách hàng trên thị trường là người quyết định những đóng góp của chúng ta đáng giá bao nhiêu. Khách hàng của doanh nghiệp mà chúng ta đang phục vụ mới là người quyết định chi trả bao nhiêu cho sản phẩm và dịch vụ mà chúng ta đóng góp công sức trong quá trình sản xuất. Đây cũng là cơ sở quyết định chúng ta sẽ được chi trả bao nhiêu. Chúng ta sẽ không được trả một khoản theo chủ quan của mình. Anh được trả bao nhiêu sẽ tương quan trực tiếp với số lượng và chất lượng đóng góp của anh trong quá trình sản xuất so với những đóng góp của người khác, kết hợp với giá trị mà người khác gán cho sự đóng góp của anh. Một điều mà tôi từng chia sẻ, đó là anh đang từng ngày từng giờ cạnh tranh với mọi cá nhân khác trong chính công ty của anh. Nhiều người sẽ thực sự nổi giận sau khi nghe được lời này; họ sẽ phản đối, “Chúng tôi không cạnh tranh với bất kỳ ai, tất cả chúng tôi đang làm việc cùng nhau như những thành viên trong một nhóm.” Sự thật là, người quyết định mức lương của anh sẽ quyết định anh được trả bao nhiêu so với mức thù lao của những người khác. Đó là lý do tại sao hầu hết các công ty đều đặt quy tắc yêu cầu anh không thảo luận tiền lương với người khác, vì mức lương của anh phụ thuộc vào những gì công ty nghĩ anh xứng đáng được hưởng, so với những người khác. Hệ quả thứ tư được rút ra từ quy luật trao đổi cho thấy: Tiền là kết quả, chứ không phải nguyên nhân. Sức lao động hay mức đóng góp của anh cho giá trị của một sản phẩm hay dịch vụ là nguyên nhân, còn tiền công, mức lương, hay thu nhập mà anh nhận được là kết quả. Nếu anh muốn tăng đầu ra, anh phải tăng đầu vào. Như Earl Nightingale3 chia sẻ nhiều năm trước, luật nhân quả là một quy luật nền tảng trong mọi khía cạnh cuộc sống con người, mọi bộ môn khoa học, công nghệ, toán học và tiền bạc. 3 Earl Nightingale (1921 – 1989) là tác giả và phát thanh viên người Mỹ. Hệ quả thứ năm của quy luật trao đổi phát biểu rằng: Để tăng thù lao nhận về, anh phải tăng giá trị sức lao động mà anh đặt vào trong quá trình tạo ra sản phẩm. Đây là một nhận định đáng ngạc nhiên với rất nhiều người, khi họ nghĩ rằng họ có thể nhận về nhiều hơn, mà không phải bỏ thêm công sức. Họ còn cho rằng nghĩ như thế là rất bình thường. Anh có thể hỏi, “Nếu vậy số tiền nhiều hơn đó sẽ đến từ đâu?” Và họ đáp, “Từ đâu đó.” Nếu anh gây sức ép để họ nói cụ thể hơn, họ sẽ bảo, “Thôi được, tiền sẽ đến từ những người khác đang tạo ra nhiều giá trị hơn, những người nhờ thế mà kiếm được nhiều tiền hơn. Rồi họ sẽ trả cho tôi – dù theo quan điểm của thị trường, tôi tạo ra ít giá trị hơn – để tôi không cảm thấy bứt rứt.” Loại thái độ chủ quan này – rằng tôi được quyền nhận nhiều tiền hơn – cực kỳ vô lý. Nhưng lại là lý do dẫn đến bạo loạn, đình công và những vấn nạn khác. Chúng ta có thể tuyên bố, để kiếm thêm nhiều hơn, anh phải tạo ra nhiều giá trị hơn. Xét trong lĩnh vực kinh doanh, bí quyết để trở nên giàu có, mà chúng ta sẽ thảo luận ở phần sau, là tạo thêm giá trị. Thỉnh thoảng, tôi hỏi mọi người rằng bao nhiêu người trong số họ làm việc và hưởng thu nhập dựa trên doanh thu. Tôi hỏi 1.000 người, và khoảng 10% hoặc 15% số họ đã giơ tay. Sự thực là, mọi người đều làm việc và nhận thù lao dựa trên doanh thu. Điều này nghĩa là sao? Nghĩa là, mọi người đều nhận được mức phần trăm nhất định của giá trị mà họ tạo ra. Nếu anh không hài lòng với tỷ lệ phần trăm mình nhận được, hãy tạo ra nhiều giá trị hơn, trở nên đáng giá hơn để sếp hoặc khách hàng sẵn sàng trả cho anh nhiều hơn bởi họ đánh giá rất cao sự đóng góp của anh. Nhiều người chỉ kiếm được 10 đô la một giờ, nhưng nhiều người khác kiếm được 1.000 đô la một giờ. Tôi có một anh bạn đã nâng cấp kỹ năng từ một luật sư thương mại để trở thành luật sư chuyên về bản quyền trí tuệ, một lĩnh vực mà thời bấy giờ không có ai chuyên nghiệp. Đó là cả một thị trường rộng mở. Các tập đoàn khổng lồ như Sony hay Disney, và nhiều công ty hàng đầu thế giới đã rất sẵn lòng trả cho anh ấy khoản thù lao 1.000 đô la một giờ để giúp họ trong các vấn đề về luật sở hữu trí tuệ, vì những khoản chi liên quan trị giá hàng trăm triệu đô la, còn anh ấy lại là một chuyên gia. Anh ấy đã làm cho bản thân trở nên đáng giá đến mức họ chấp nhận trả cho anh bất cứ mức thù lao nào mà anh muốn. Anh ấy thường được trả 2 triệu đô hoặc 3 triệu đô la để kiểm nghiệm hợp đồng hay liên doanh giữa các công ty có tài sản sở hữu trí tuệ, chẳng hạn như các công ty phim ảnh. Để kiếm được nhiều tiền hơn, anh phải gia tăng thêm giá trị; vì thế, anh phải tăng cường vốn hiểu biết của mình. Với tư cách chuyên gia quản lý, Peter Drucker chia sẻ rằng, tất cả chúng ta đều là lao động tri thức, vì vậy bằng cách gia tăng vốn hiểu biết để giúp cho công việc kinh doanh trở nên tốt hơn, anh sẽ gia tăng giá trị của chính mình, rồi mọi người sẽ sẵn sàng và hăm hở đẩy tiền vào túi anh. Hoặc anh hãy phát triển trình độ kỹ năng của mình, qua đó, anh có thể hoàn thành công việc nhiều hơn và tốt hơn trong cùng một khoảng thời gian. Hoặc anh cải thiện thói quen làm việc để đạt hiệu suất cao hơn nhiều. Những người được trả lương cao nhất trong mọi xã hội cũng như trong mọi công việc kinh doanh, luôn được miêu tả là những người làm việc có định hướng theo kết quả. Họ là những người có năng suất làm việc rất cao. Tôi đã làm việc với nhiều người, và chỉ dạy cho họ các kỹ năng quản lý thời gian, và họ đã tăng gấp ba mức thu nhập trong chưa đầy một năm với cùng một công việc, cho cùng một công ty. Công ty sẵn sàng trả cho họ nhiều hơn, bởi vì họ tạo ra nhiều giá trị hơn. Mọi người đều làm việc, và hưởng mức thu nhập tương xứng dựa trên khoản hoa hồng nhận trực tiếp. Hoặc anh có thể làm việc lâu hơn và vất vả hơn. Những người thành công nhất luôn làm việc vất vả hơn nhiều người khác. Trên thực tế, số liệu thống kê cho thấy 59-60 giờ làm việc mỗi tuần sẽ đưa anh vào nhóm 20% người có thu nhập cao nhất. Nếu anh làm việc 70 giờ mỗi tuần, anh sẽ vào nhóm 5% hoặc 10% người có thu nhập cao nhất. Ngày nay, người lao động bình thường làm việc 40 giờ một tuần, nhưng theo các nghiên cứu về thực trạng lao động, họ thực sự chỉ làm việc 32 giờ. Tại sao vậy? Vì họ còn thời gian để giải lao uống cà phê và ăn trưa, xả hơi sớm hơn và kết thúc muộn hơn. Trong 32 tiếng đồng hồ đó, họ lãng phí 50% thời gian vào tán chuyện, Facebook, phương tiện truyền thông xã hội, Internet, gọi điện thoại cho bạn bè, v.v... Vì vậy, mọi người thường chỉ thực sự làm việc 16 giờ mỗi tuần, và chỉ tạo ra mức giá trị thấp. Thế mà, họ không hiểu tại sao họ không được trả lương cao hơn. Một bí quyết dẫn tới thành công là làm việc toàn bộ thời gian làm việc. Bắt đầu làm việc sớm hơn, chăm chỉ hơn, về trễ hơn, và làm việc toàn bộ thời gian. Đừng sao nhãng. Đừng tán gẫu với bạn bè. Đừng ra ngoài ăn trưa, uống cà phê, đọc báo hoặc lướt Internet. Khi đi làm, hãy làm việc. Hãy bắt đầu làm việc với sự tập trung cao độ. Anh có thể làm việc sáng tạo hơn, hoặc bất cứ điều gì giúp anh gia tăng hiệu suất và đạt được kết quả tốt hơn. Một số người tạo ra năng suất gấp 5 lần người khác, trong cùng khoảng thời gian 8 giờ một ngày. Thêm nữa, tất cả những người giàu có đều làm việc 6 ngày một tuần. Điều này được hé lộ trong rất nhiều công trình nghiên cứu. Không khó để làm việc 6 ngày một tuần. Nếu đang làm công việc mình yêu thích, làm rất tốt, và nhận được kết quả tuyệt vời, khi ấy anh sẽ có động lực. Và nó khiến anh hạnh phúc. Trên thực tế, nhiều người thành công buộc phải dùng đến tinh thần kỷ luật tự giác để ngừng làm việc, bởi họ quá yêu thích công việc của mình. Một trong những trách nhiệm lớn lao của anh, mà chúng ta sẽ nói đến về sau, là tìm công việc mà anh thực sự đam mê, mang lại động lực, và khiến anh phải ép bản thân mới tạm nghỉ được. Với những người đang làm công việc yêu thích, thời gian như dừng lại. Họ quên ăn quên uống. Họ quên nghỉ ngơi. Họ quên đi uống cà phê. Họ say mê với công việc đến mức họ phải ép bản thân tạm nghỉ để ăn uống và làm những việc khác. Người được trả lương cao nhất trong xã hội chúng ta là người liên tục cải thiện những mặt này để gia tăng giá trị cho công việc mà họ đang thực hiện. Sự thật là, số tiền anh kiếm được phản ánh trực tiếp lượng giá trị mà anh tạo ra nhằm giúp cải thiện cuộc sống và công việc của người khác. Tất cả thành công trong cuộc sống đều đến từ việc phục vụ người khác theo một cách nào đó. Nếu anh muốn kiếm được nhiều tiền, hãy phục vụ nhiều người, và phục vụ theo cách thực sự tạo ra sự khác biệt với họ. DAN: Hãy thảo luận chi tiết hơn. Hãy thảo luận những cản trở đối với mọi người. Trong quan điểm của anh về gia tăng giá trị, anh thường thấy người đòi mức lương cao hơn nói rằng, “Hãy xem giám đốc điều hành cấp cao đi. Họ có dù vàng4 khi rời đi, ngay cả khi công ty thua lỗ. Hãy nhìn thị trường chứng khoán mà xem, nơi đó có những người lợi dụng thị trường như sòng bạc. Họ tung xúc xắc và kiếm lời khi thị trường chứng khoán dao động.” 4 Dù vàng (golden parachute) được dùng để chỉ thỏa thuận về việc bồi thường cho các giám đốc một khoản tiền khi kết thúc hợp đồng, kèm theo điều khoản lợi nhuận khác nếu sa thải họ sớm hơn so với hợp đồng. Nhiều người có thể nói rằng, có nhiều khúc mắc trong nền kinh tế, vì thế, việc gia tăng thu nhập không chỉ là vấn đề về trao đổi giá trị. Hãy thảo luận về một vài ý kiến phản đối gay gắt hơn về ý tưởng gia tăng giá trị. Anh sẽ phản ứng như thế nào trước những ý kiến đó? BRIAN: Hãy để tôi kể cho anh nghe một câu chuyện nổi tiếng về thứ được gọi là tín ngưỡng hàng hóa5. Chuyện kể rằng, trong Thế chiến II, tại đảo New Guinea, quân Đồng Minh tiến vào, xây dựng nhiều sân bay và thiết lập căn cứ quân sự để chống lại quân Nhật Bản. Một số trận đánh ác liệt nhất đã diễn ra trên một nửa đảo New Guinea, và một nửa còn lại thuộc quyền kiểm soát của người Úc và người Mỹ. Tất cả đạn dược, vũ khí, thực phẩm và mọi thứ khác của họ đều được vận chuyển đến bằng máy bay. 5 Tín ngưỡng hàng hóa (cargo cult) cho rằng thần linh sẽ tự nhiên mang hàng hoá đến cho mọi người. Các đội công binh lục quân cũng đến, bốc dỡ xe ủi đất, xây đường băng, và tiếp đến họ bắt đầu vận chuyển tất cả thực phẩm, trang phục, mọi thứ cho trận đánh. Khi chiến tranh kết thúc, họ rút quân, và đảo New Guinea trở lại là một nơi hỗn độn. Dân bản xứ xung quanh những khu chiến sự từng bị sử dụng như nhân công trong Thế chiến II, đều không biết của cải đến từ đâu. Họ tin rằng của cải đến từ máy bay chở hàng. Họ bắt đầu tin vào tín ngưỡng hàng hóa. Họ tạo ra các con búp bê nhỏ nhắn và mô hình máy bay, rồi đặt trên bệ thờ nhỏ. Họ thắp hương, cầu nguyện, thờ phụng chúng và cất cao lời ca tiếng hát. Họ cầu nguyện cho những chiếc máy bay trở lại với của cải bên trong. Bài học từ câu chuyện trên là hầu hết mọi người đều không thực sự hiểu về tiền bạc, nên họ mới có loại ý nghĩ như thế. Họ tin vào những thứ vô cùng quái dị. Khi một người được mời sang làm việc ở một công ty trong danh sách Fortune 500, họ được đề nghị mức lương rất cao, quyền chọn mua cổ phiếu có giá trị cao, và luật sư của họ đàm phán các hợp đồng này. Tôi biết điều này rất rõ từ kinh nghiệm của riêng tôi. Họ còn thương lượng cả khoản bồi thường khi thôi việc. Nếu có gì đó không diễn ra như mong đợi, nếu công ty, sau khi thuê anh, dứt khoát không cần anh nữa – vì bất kỳ lý do nào như thị trường đi xuống, hay anh không hoàn thành tốt công việc của mình – thì phía công ty sẽ trả cho anh một khoản tiền bồi thường. Số tiền bồi thường đó đã được thỏa thuận trước. Họ bảo, “Ôi, những người này đều có dù vàng.” Vâng, đó là điều khoản để họ chấp nhận công việc, và họ nhận công việc đến từ nơi khác với nơi họ cũng đã có công việc tuyệt vời. Đây chỉ là một phần hết sức bình thường trong hợp đồng. Trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán, anh sẽ thấy rằng những người có thu nhập cao nhất đều rất chăm chỉ làm việc để có được khoản thu đó. Ví dụ, Warren Buffett, một tỷ phú, dành 80% thời gian mỗi ngày nghiên cứu thị trường chứng khoán, nghiên cứu các công ty, nghiên cứu những biến đổi, và thay đổi để cạnh tranh – 80% thời gian mỗi ngày. Ông ấy đã 84 tuổi. Ông ấy vẫn đi làm, ông ấy tập trung cao độ, và ông ấy nghiên cứu những cơ hội đầu tư tiềm năng. Warren Buffet khởi nghiệp chỉ với 2.000 đô la, và ông đã ứng dụng một mô hình đầu tư giá trị, khái niệm này chúng ta sẽ nói đến về sau. Ông nghiên cứu giá trị, giá trị nội tại của sản phẩm, dịch vụ, quản trị, và định vị trong ngành so với đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước. Có rất nhiều thứ cần phải nghiên cứu tỉ mỉ. Trong khi đó, những người chỉ vui chơi trên thị trường chứng khoán thì hầu hết đều có kết cục là bị vỡ nợ, cũng giống như các tay chơi bài poker chuyên nghiệp đến Las Vegas để kiếm thật nhiều tiền. Họ nhận thấy rằng họ sẽ kiếm được nhiều tiền như khi lao động, vì với số tiền thắng được hay thua mất, họ sẽ kiếm được vài đô la mỗi giờ bằng cách ngồi chơi bài poker trong 12-14 giờ. Tôi chỉ vừa rời khỏi Las Vegas 2 ngày trước và tất cả mọi người ở đó đều biết chuyện này. Trong thị trường chứng khoán, có người mua bán cổ phiếu hằng ngày, có người mua bán cổ phiếu chớp nhoáng, những người thường xuyên gia nhập và rút lui khỏi thị trường – 70% số họ đều không thể tồn tại lâu dài. Tôi vừa trở về từ buổi gặp gỡ một trong những khách hàng của tôi. Anh giới thiệu tôi với một người đàn ông đã chi hàng trăm triệu đô la để thành lập một công ty giao dịch chớp nhoáng quy mô 50 thành viên. Tôi thấy ở đó có những màn hình khổng lồ, các nhà toán học xuất sắc liên tục mua vào bán ra các cổ phiếu, tích cóp từng xu lẻ trong mọi giao dịch. Ông ấy đầu tư vào đó hàng trăm triệu đô la, rồi mất sạch. Cuối ngày hôm ấy, tất cả những người đang làm việc toàn thời gian 16 giờ một ngày mất tất cả và phải ra đi. Nhưng may mắn thay, ông ấy là tỷ phú, nên đủ khả năng chịu được việc mất vài trăm triệu đô tiền đầu cơ. Sự thực là, hầu hết những người thực sự tạo nên lợi nhuận trong đầu tư cổ phiếu đều là các tay chơi dài hạn. Warren Buffett mua cổ phiếu nhưng không bán suốt 50 năm. Ông ấy là nhà đầu tư giá trị. Có lúc ông sẽ bán một phần cổ phiếu đang nắm giữ nhằm thu tiền mặt để mua một số thứ khác có mức lợi suất tốt hơn tại thời điểm đó. Ngày nay, chủ tịch của các công ty thuộc Fortune 500 có mức thu nhập trung bình gấp 303 lần lương trung bình của nhân viên trong chính công ty của họ. Thú vị là, tất cả họ đều có xuất phát điểm bình thường, như vận động viên chạy marathon, trong quãng thời gian khởi nghiệp. Khi khởi nghiệp, họ giống như nhiều người khác. Họ bắt đầu làm việc. Họ tập trung cao độ trong không gian làm việc riêng của mình. Một số có trình độ học vấn cao, một số có trình độ học vấn trung bình; một số đạt thành tích thi cử xuất sắc, một số thì không; một số xuất thân từ gia đình khá giả, một số đến từ gia đình nghèo khó; một số thuộc dòng dõi Mayflower6, một số là dân mới nhập cư không nói được ngôn ngữ bản địa khi bắt đầu sự nghiệp. Ngày nay, họ kiếm được số tiền gấp 303 lần mức lương của người làm thuê bình thường, tức là khoảng 10,3 triệu đô la mỗi năm, trong khi đó người bình thường tại công ty họ chỉ làm ra 52.000 đô la. 6 Dòng dõi Mayflower là hậu nhân của những hành khách trên chuyến tàu Mayflower rời châu Âu di dân tới Hoa Kỳ vào năm 1620. Con tàu này đã trở thành biểu tượng văn hóa trong lịch sử nước Mỹ. Sao lại có sự khác biệt lớn đến vậy? Họ nhìn lại cả chặng đường để tìm kiếm câu trả lời, và phát hiện ra một chiến lược. Đó là một trong những đột phá lớn trong lĩnh vực tiền bạc. Chiến lược đó cho biết, từ khi khởi nghiệp, họ đã đặt ra câu hỏi: Kỹ năng nào sẽ giúp tôi đóng góp tốt hơn tại thời điểm này trong sự nghiệp? Họ hỏi ông chủ, và ông ta nói, “Nếu anh thực sự giỏi tiếp thị, phân tích báo cáo tài chính, thuyết trình, xây dựng đội nhóm, hoặc đàm phán, anh sẽ thực sự trở nên đáng giá hơn nhiều trong công việc của mình.” Họ nghiêm túc coi đó là một đề án, và sắp xếp một kế hoạch học tập giống như việc cắp sách đến trường. Họ tìm những cuốn sách hay nhất để đọc, chương trình phát thanh tốt nhất để nghe (đặc biệt là của chúng tôi), khóa học chất lượng nhất để tham gia, và những điều tốt nhất để làm mỗi ngày nhằm phát triển các kỹ năng này. Sau một tháng, sáu tháng hoặc một năm, họ sẽ phát triển thành công các kỹ năng này, vì tất cả các kỹ năng kinh doanh đều có thể học hỏi được. Con số ma thuật ở đây là 10 giờ một tuần. Trong khi bạn bè đi xã giao, theo đuổi các chàng trai cô gái và đủ thứ, những người này dành trung bình 2 giờ mỗi ngày, 5 ngày mỗi tuần, để nâng cấp các kỹ năng. Nó trở thành một điều rất đỗi tự nhiên với họ giống như việc hít vào thở ra vậy. Họ trở về nhà vào buổi tối, ăn tối với bạn đời và con cái, rồi học 2 giờ mỗi đêm, 5 ngày mỗi tuần. Tôi từng đến Ấn Độ trong một lần diễn thuyết. Tôi có hỏi, “Tôi chưa quen múi giờ ở đất nước các bạn, nhưng một tuần ở Ấn Độ thường có bao nhiêu giờ?”. Tất cả đều cười. Tôi nói, “À vâng, 168 giờ, 7 lần 24 giờ.” Ở đâu cũng như nhau. Anh có thể sử dụng hiệu quả thời gian 10 giờ mỗi tuần để trở thành một trong những người giàu có nhất và hưởng mức thu nhập cao nhất trong lĩnh vực của anh hay không? Họ trả lời, “Vâng, tất nhiên là có.” Vì vậy, vấn đề thực sự không phải 10 giờ trong 168 giờ, mà là vấn đề về ý chí và tính kỷ luật. Mỗi kỹ năng mới đều tuân theo quy luật cộng hưởng. Với mỗi kỹ năng mới, anh có thể vận dụng các kỹ năng khác sẵn có ở mức độ cao hơn. Anh có thể tăng khả năng kiếm tiền và khả năng đóng góp. Anh có thể có giá trị hơn, vì anh có thể tạo ra kết quả tốt hơn. Anh trở nên ngày càng đáng giá hơn, và mọi người sẽ trả cho anh nhiều hơn và thăng cấp cho anh nhanh hơn. Hiệu ứng tích lũy sẽ xảy ra như hiện tượng tuyết lở vậy. Sau 10, 20 hay 30 năm, khi anh đang ở độ tuổi 40 hay 50, anh kiếm được thu nhập gấp 303 lần mức trung bình của người khác – những người không bắt tay học hỏi từ khi khởi đầu với công việc đầu tiên. Vì sao chủ tịch tại các công ty Fortune 500 được trả rất nhiều tiền? Có người nói, “Họ chỉ gặp may thôi.” Nhưng những người này lại đưa ra các quyết định gây ảnh hưởng đến hàng trăm triệu đô la, đôi khi là hàng tỷ đô la. Chẳng hạn như, họ có thể quyết định tham gia hoặc rời bỏ một ngành công nghiệp, bán một hay một loạt nhà máy, và tác động của quyết định này lên lợi nhuận ròng có thể là 1 tỷ đô la. Và họ nhận được gì? Họ nhận được 10 triệu đô la. Họ nhận được một phần nhỏ trong 1% của toàn bộ hiệu quả kinh tế đến từ các quyết định của họ. Nhưng thời bắt đầu, họ làm việc một mình, với một nhiệm vụ nhỏ được giao trong một không gian hẹp riêng tư, cùng với chiếc máy tính xách tay nhỏ bé. Và bây giờ họ điều hành các doanh nghiệp khổng lồ, văn phòng của họ nằm ở trên tầng cao nhất thuộc tòa nhà văn phòng sang trọng nhất. Mọi người đều có khả năng làm điều đó và những điều tương tự như vậy. DAN: Brian ơi, anh có thể kể cho tôi câu chuyện về cuộc hành trình của chính anh, từ xuất phát điểm với mức thu nhập khiêm tốn rồi trở thành người giàu có vĩ đại không? BRIAN: Nhiều người thường hỏi tôi rằng, động lực tuyệt vời, ước mơ hoặc đam mê của tôi là gì khi mới bắt đầu sự nghiệp? Câu trả lời của tôi là "để ăn". Điều tôi muốn làm, khi bắt đầu công việc đầu tiên, là kiếm đủ tiền để ăn. Công việc đầu tiên của tôi là rửa chén đĩa. Tôi sống trong căn hộ chỉ có một phòng, trong đó bếp nấu ở trên cùng, tủ lạnh bên dưới, phòng tắm với vòi hoa sen rẻ tiền và một chiếc giường ngủ. Đó là nơi tôi sống. Và tôi thường sống trong những góc như vậy tại nhiều nơi khác nhau suốt một thời gian dài, vì tôi chỉ là người lao động chân tay và không đủ tiền trang trải cho nơi ở tốt hơn. Tôi lái chiếc xe hơi đời cũ. Tôi mặc những bộ quần áo cũ sờn. Tôi làm việc 8-12 tiếng một ngày, và tất cả những gì tôi nghĩ đến chỉ là sinh tồn. Tôi đã có một vài trải nghiệm đáng giá. Khi còn là cậu thanh niên trẻ, tôi thấy mình có thể nhận làm một số việc trong khu phố – khi ở độ tuổi 12 – như cắt cỏ cho người khác. Ba mẹ tôi, cuối cùng, đã động viên tôi mua một chiếc máy cắt cỏ chạy bằng xăng. Tôi quyết định mua. Họ chở tôi tới Sears và chọn phải chiếc máy cắt cỏ tệ khủng khiếp, bởi vì họ không biết gì về nó. Tôi đã đẩy máy cắt cỏ quanh khu phố và bắt đầu công việc của mình. Chẳng bao lâu sau, tôi đã rất thành thạo công việc này nên quyết định mua chiếc máy cắt cỏ tốt hơn. Tôi bắt đầu dạo quanh các cửa hàng máy cắt cỏ. Tôi nhìn máy cắt cỏ ở đó, trông vẫn còn mới dù đã qua sử dụng, nhưng vẫn rất tuyệt vời. Nó chính là loại máy cắt cỏ được sử dụng để xén cỏ sân gôn. Bề ngoài đẹp, và nó có thể dùng lực thổi đám cỏ bay về phía trước, vì vậy không để lại vết lằn nào trên bãi cỏ. Sau đó, tôi bắt đầu xén được nhiều cỏ hơn. Mọi người bắt đầu giới thiệu cho tôi những mối làm ăn khác, bởi vì bãi cỏ của họ trông vô cùng đẹp mắt sau khi tôi xén. Một thời gian sau, tôi sắm thêm máy tỉa cây để dọn vỉa hè và luống hoa. Sau đó, tôi sắm một xe đẩy nhỏ để kéo chiếc máy này đi quanh khu. Khi lên 15, tôi đã kiếm được nhiều tiền hơn cả cha tôi, chỉ bằng cách kéo chiếc xe đẩy nhỏ gọn của mình đi xung quanh và xén cỏ, tôi còn từng cắt cỏ cho thị trưởng thành phố. Tôi nhận thấy có mối liên hệ trực tiếp giữa công việc, kỹ năng với thu nhập của anh. Trước đó, khi anh nhận ra có sự liên hệ giữa công việc anh làm với mức thu nhập của anh, càng làm tốt công việc bao nhiêu, anh càng thành công bấy nhiêu. Một thời gian sau, tôi trở lại và làm việc trong các nhà máy, xưởng xay và công trình xây dựng. Và sau đó, khi tôi không còn nhận được một công việc chân tay nào nữa, tôi quay trở lại với việc bán hàng. Tôi đã từng bán các dịch vụ tận nhà, bao gồm cả cắt xén cỏ. Tôi từng bán xà phòng. Tôi từng bán dịch vụ đặt báo dài hạn. Tôi còn bán sách Giáng sinh. Bấy giờ, tôi quay trở lại với công việc bán hàng, và gõ cửa từng nhà một. Tôi được trả tiền hoa hồng trực tiếp trên mỗi sản phẩm mà tôi bán thành công. Chúng tôi thường đùa với nhau rằng anh chỉ có thể ăn những gì anh bán được. Nếu anh không bán được hàng, anh sẽ không có cái ăn, đây chính là một trong những động lực to lớn. Tôi nhận ra rằng thu nhập của tôi hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng đạt được thành quả để người ta trả tiền cho tôi. Trong các buổi hội thảo chuyên đề mà tôi tổ chức trên khắp thế giới, tôi hỏi mọi người rằng, “Tài sản tài chính quý giá nhất của bạn là gì?”. Tôi để mọi người suy nghĩ một lúc, bởi vì khi lần đầu tiên nghe câu hỏi này, tôi cũng không biết trả lời thế nào. Sau đó, tôi nhận ra rằng tài sản tài chính giá trị nhất của mình chính là khả năng kiếm tiền. Vậy khả năng kiếm tiền của anh là gì? Đó là khả năng đạt được những kết quả mà mọi người sẽ phải trả tiền cho anh vì nó; từ quan trọng nhất đối với sự thành công, trong cuộc sống và trong kinh doanh, là kết quả. Anh có thể nói kết quả nghe thật thực dụng. Nhưng từ này còn bao hàm kết quả đối với gia đình anh. Nó là kết quả nuôi dưỡng con cái và làm cho chúng trở nên hạnh phúc, khoẻ mạnh, tự tin hơn; là kết quả xây dựng một cuộc hôn nhân tốt đẹp; là kết quả giúp đỡ những người xung quanh. Những người đạt kết quả là những người được kính trọng và ngưỡng mộ nhất trong mọi mặt của cuộc sống. Khả năng kiếm tiền của anh là một tài sản, và tất cả các tài sản, ví dụ như máy móc, thiết bị hay tòa nhà tạo được lợi ích cho người sở hữu chúng, đều có thể gia tăng hoặc sụt giảm giá trị. Nếu khả năng kiếm tiền là một tài sản đang gia tăng giá trị, thì điều đó tương đương với việc anh đang ngày càng trở nên có giá trị hơn. Có một câu chuyện trên tạp chí Fortune kể về một phụ nữ làm việc cho họ suốt 46 năm. Bà cuối cùng đã quyết định về hưu ở độ tuổi 70. Bà là một trong những người được kính trọng nhất tại đó. Họ tổ chức buổi tiệc lớn để chia tay bà. Họ hỏi bà lý do tại sao bà lại có giá trị đến vậy đối với một công ty như tạp chí Fortune suốt ngần ấy năm tháng, bà trả lời, “Bởi vì tôi quyết định sẽ không đi ngủ vào ban đêm nếu vẫn chưa thấy mình đã thông minh hơn so với khi thức dậy sáng đó. Mỗi ngày, tôi đều học được một điều mới giúp tôi làm việc tốt hơn.” Bà đã từng phỏng vấn các CEO, chủ tịch các công ty Fortune 500 và những ngôi sao hàng đầu trong lĩnh vực tài chính trên thế giới. Bà có thể gọi cho Warren Buffett hoặc Bill Gates hoặc bất kỳ ai khác trong giới tài chính, và họ sẽ nghe máy, bởi vì bà là người rất đáng kính trọng. Đó chính là khả năng kiếm tiền của bà. Anh hãy hỏi một người bình thường rằng, “Hôm nay, bạn đã làm gì để tăng giá trị bản thân, tăng tiềm năng đạt được kết quả, tăng khả năng tạo thêm nhiều giá trị hơn cho thế giới của bạn?” Hầu hết mọi người đều bị sốc bởi câu hỏi này. Albert Einstein đã từng nói, cộng hưởng là nguồn sức mạnh lớn nhất vũ trụ. Cộng hưởng tức là mỗi khi anh làm gì đó để cải thiện kỹ năng của mình, nó sẽ cộng hưởng với các thông tin khác mà anh đã có, và sớm hay muộn, tất cả những mảnh ghép thông tin này bắt đầu hợp lại với nhau. Hiện tượng này được gọi là quy luật trí tuệ tổng hợp. Và tất cả những mảnh ghép thông tin trí tuệ bắt đầu hợp nhất lại với nhau và hình thành nên một cách thức, một kế hoạch, hay một khuôn mẫu, mà nhờ đó, anh có thể trông thấy cơ hội giúp anh tạo dựng sự thịnh vượng mà anh chưa từng thấy. Đôi khi, nó chỉ là một mảnh thông tin bổ sung nhưng lại có thể biến đổi mọi thứ, khiến tất cả những mảnh thông tin mà anh đã thu thập được trước đây kết hợp lại với nhau. Đột nhiên, chúng va chạm vào nhau, và đột nhiên, anh sẽ nảy ra ý tưởng về một sản phẩm hay dịch vụ mới đột phá. Hãy nhìn Steve Jobs và Apple; ông đưa ra ý tưởng về chiếc iPod. Tất cả các loại công nghệ trong iPod đều đã có từ lâu và được nhiều công ty khác kinh doanh, ngoại trừ khả năng truy cập nhạc. Những gì ông làm là tạo ra mô hình kinh doanh mới. Ngày nay, có tổng cộng 55 mô hình kinh doanh khác nhau. Nếu mô hình kinh doanh không tốt, công ty của anh sẽ rơi vào tình trạng thụ động, mất phương hướng, và có nguy cơ phá sản. Mô hình kinh doanh đang thay đổi chóng mặt, đến mức ít nhất 80% các công ty, trong đó có công ty trong danh sách Fortune 500, đã phải tuyên bố phá sản, hoặc vẫn sử dụng một phần hoặc toàn bộ mô hình kinh doanh lỗi thời. Mô hình kinh doanh mới là tổng hòa tất cả các yếu tố khác nhau trong cùng một mô hình mới, và đột nhiên thay đổi mọi thứ. Google là một ví dụ hoàn hảo. Họ đã đưa ra ý tưởng cho hoạt động tìm kiếm. Họ đã liên kết hàng trăm và sau đó là hàng ngàn máy tính lại với nhau, rồi đưa ra ý tưởng cho hoạt động tìm kiếm miễn phí để cộng đồng có thể tra cứu thông tin. Khi mọi người lên mạng, họ có thể mua sắm sản phẩm hay dịch vụ, còn Google có thể theo dõi, bằng thuật toán, những thứ mà mọi người quan tâm đồng thời hiển thị hình ảnh quảng cáo có chọn lọc. Google đã trở thành một trong những công ty có giá trị nhất thế giới với mô hình kinh doanh hoàn toàn mới. Mô hình kinh doanh mà Google áp dụng, về cơ bản, là mô hình kinh doanh tự do. Họ đã cung cấp miễn phí các dịch vụ tốt nhất thế giới. Khả năng kiếm tiền của anh là tài sản quan trọng nhất, và giá trị của nó đang tăng lên hoặc giảm đi. Huấn luyện viên bóng rổ Pat Riley từng nói, hoặc anh tốt lên, hoặc anh tệ đi. Không ai là không thay đổi. Mỗi kỹ năng mới mà anh phát triển đều đưa anh lên nấc thang cao hơn về khả năng kiếm tiền. Mỗi kỹ năng mới đồng nghĩa với việc anh đáng giá hơn. Mỗi lần học được kỹ năng mới, anh bước lên một bậc, và khả năng kiếm tiền của anh tăng lên. Nếu anh tiếp tục bước lên nấc cao hơn, khả năng kiếm tiền của anh sẽ phát triển. Hãy quan sát những người có thu nhập cao nhất trong xã hội hiện nay. Họ là những người liên tục rèn luyện từng kỹ năng, ngày qua ngày, tuần qua tuần, tháng qua tháng. Họ không ngừng học kỹ năng mới. Họ ngày càng trở nên có giá trị hơn. Kết quả là, người ta sẵn sàng đổ tiền vào túi họ và chi trả cho họ hàng triệu đô la trên danh nghĩa tiền thưởng để đảm nhiệm công việc cấp cao, và thanh toán hàng triệu đô trợ cấp thôi việc nếu họ rời đi vì bất cứ nguyên nhân nào. Đây chính là lý do tại sao họ kiếm được rất nhiều tiền. Câu hỏi anh phải tự đặt ra là, “Hôm nay tôi đã làm gì để tăng khả năng kiếm tiền của mình, tăng chất lượng và số lượng kết quả nhằm tạo ra lợi ích cho người sẵn sàng trả cho tôi vì mức tăng đó?” Nếu anh tập trung cao độ vào việc tạo ra kết quả, sự khác biệt mà nó mang lại cho cuộc sống của anh sẽ rất phi thường. DAN: Brain ơi, hãy cho chúng tôi biết định nghĩa về tiền của riêng anh. Hãy nói về việc tại sao chuyển đổi từ tiền giấy sang tiền điện tử lại giúp chúng ta nhận ra rằng tiền chỉ là phương tiện trao đổi giá trị, không phải đồ vật hay tài sản sở hữu. Hãy thảo luận xem, làm thế nào mà điều đó lại thay đổi quan niệm của một người về tiền bạc, và họ sẵn lòng chi tiêu số tiền đó đến mức nào. Có người nói, tiền là năng lượng hay sự phản chiếu chính động lực cuộc sống của anh. Anh đồng ý hay không đồng ý với quan điểm này, và tại sao? BRIAN: Một thách thức rất lớn đối với tiền kỹ thuật số, tiền trong thẻ tín dụng, tiền gửi ngân hàng, v.v… là mọi người không thực sự xử lý hóa đơn. Họ không nhận thức được thực tế mình đã chi tiêu bao nhiêu. Tất nhiên, các sản phẩm thẻ tín dụng được quan tâm nhiều vì nó cho phép anh mua chịu. Nhiều công ty phát động các phong trào khuyến khích mọi người không nghĩ đến việc họ chi tiêu bao nhiêu. Thật đáng ngạc nhiên khi quá nhiều người rơi vào tình trạng phá sản, vỡ nợ mỗi năm do hậu quả của các khoản nợ trong thẻ tín dụng. Nguyên do chính dẫn tới việc ly dị của các cặp vợ chồng Mỹ, đặc biệt ở các cặp đôi trẻ trong độ tuổi 20-30, là vấn đề về tiền bạc. Một trong hai vợ chồng quyết định chi tiêu. Họ nói rằng, “Ôi, chỉ là thẻ tín dụng thôi mà.” Họ đặt hàng trực tuyến, một hành động khủng khiếp khác, bởi vì anh hoàn toàn xa rời thực tế. Anh nhấp chuột, đặt hàng, món hàng sẽ tới cửa nhà anh, rồi vài tuần sau hóa đơn xuất hiện. “Ai mua cái này thế? Chuyện gì đây? Ôi! Mình suy nghĩ thật không cẩn thận. Chính mình mua mà.” Trong dịch vụ gom nợ, khi nhiều người chìm vào vòng xoáy nợ nần, việc đầu tiên mà người cố vấn dịch vụ gom nợ làm là giúp họ vô hiệu hóa thẻ tín dụng hoặc gom tất cả các khoản nợ riêng lẻ vào một thẻ và quy định hạn mức để họ không thể chi tiêu vượt quá giới hạn cho phép trong một tháng nhất định. Tiếp theo, người cố vấn yêu cầu họ thanh toán mọi thứ bằng tiền mặt. Thú vị nhất là, khi anh bắt đầu rút tiền ra khỏi túi: Đó chính là khoản tiền anh đã kiếm được. Chúng là lương theo giờ của anh. Và đột nhiên, anh hiểu rất rõ mình đang chi bao nhiêu, và ngừng hẳn. Hành động rút tiền mặt ra khỏi túi khiến anh suy nghĩ sâu sắc và cẩn thận hơn trước các khoản chi tiêu. Đây là thách thức rất lớn mà mọi người phải đối mặt ngày nay. Tiền và thời gian có thể hoán đổi cho nhau theo cách này: Chúng có thể được chi tiêu hoặc đem đi đầu tư. Nếu anh chi tiêu tiền hoặc thời gian, nó sẽ biến mất mãi mãi, và anh không bao giờ có thể lấy lại được. Nếu anh đầu tư nó vào một việc có thể mang lại phần thưởng trong tương lai, thì anh có thể hưởng lợi từ nó trong dài hạn. Tôi luôn nói rằng, nơi tốt nhất để đầu tư thời gian và tiền bạc là nơi giúp gia tăng khả năng kiếm tiền. Warren Buffett là nhà đầu tư thành công nhất lịch sử. Ông bắt đầu sự nghiệp chỉ với 2.000 đô la. Ngày nay, các công ty của ông có tổng trị giá 350 tỷ đô la. Đặc biệt, công ty Berkshire Hathaway của ông được coi là công ty lớn thứ ba, thứ tư tại Hoa Kỳ. Năm vừa qua, ông kiếm được 25 tỷ đô la từ chính các công ty của mình. Gần đây, Warren Buffett nhận được câu hỏi, “Buffett, ông là nhà đầu tư vĩ đại nhất trong lịch sử. Theo ông, đâu là nơi tốt nhất để đầu tư hôm nay?”. Ông đáp, không hề do dự, rằng nơi tốt nhất để đầu tư vào hôm nay chính là bản thân bạn – để trở nên có giá trị hơn. Tại New York, các nhà nghiên cứu đã phỏng vấn 1.000 người giàu có nhất rằng: Nếu anh có 100.000 đô la tích lũy, thì đâu là nơi tốt nhất để anh đầu tư số tiền này? Tất cả đều đồng thuận rằng hãy đầu tư số tiền này để trở nên giỏi giang hơn ở công việc đã đem nó về cho anh. Nếu anh đầu tư số tiền đó vào thị trường chứng khoán, bất động sản hoặc bất cứ đâu, khoản đầu tư của anh có thể tăng hoặc giảm. Nó sẽ chịu sự kiểm soát của hàng trăm yếu tố. Nó sẽ chịu ảnh hưởng của cung và cầu trên thị trường, những nhận định của chuyên gia đầu tư tài chính, tình hình cạnh tranh, v.v... Nhưng nếu đầu tư vào chính mình, anh sẽ sở hữu 100% khoản đầu tư này mãi mãi. Anh sẽ được hoàn vốn 100%. Đồng thời, anh hoàn toàn có thể kiểm soát và chỉ đạo phân bổ nguồn lực thời gian và tiền bạc để học tập những kỹ năng liên quan mật thiết đến việc gia tăng các kết quả quan trọng nhất của anh. Nếu anh làm được điều này, đây sẽ là khoản đầu tư tốt nhất trong tất cả các khoản đầu tư của anh. Tôi sẽ nhắc đi nhắc lại điều này: Khoản đầu tư tốt nhất chính là những thứ giúp anh gia tăng khả năng kiếm tiền và ngày càng trở nên đáng giá hơn. DAN: Có một sự hiểu lầm lớn về việc tại sao nhiều ngành nghề khác nhau lại chỉ nhận được mức thu nhập nhất định, dù là ngành nghề đó đóng vai trò quan trọng trong xã hội chúng ta. Ví dụ, nhân viên xã hội nói chung, những người làm trong lĩnh vực chăm sóc người cao tuổi và giáo viên, được trả mức lương tương đối thấp so với nhân viên ngân hàng mảng đầu tư, luật sư, hay nhà vận động hành lang. Vậy tại sao người làm việc ở những vị trí như vậy, được xã hội ngưỡng mộ hơn, lại nhận được mức lương thấp hơn so với những người làm ngành ít được sùng bái hơn? BRIAN: Một trong những quy luật kinh tế vĩ đại về lao động là quy luật cung và cầu. Nếu một thứ thiếu hụt nguồn cung, nhưng nguồn cầu lớn, thì giá của nó sẽ tăng lên và ngược lại. Nhiều năm trước, Earl Nightingale đã tổng kết rằng, anh sẽ luôn nhận được mức thu nhập tỷ lệ thuận với những gì anh làm, anh làm tốt đến mức nào, và việc tìm người thay thế anh khó khăn hay dễ dàng đến đâu. Nếu là ngôi sao thể thao, anh có thể đàm phán để có được một hợp đồng trị giá 100 triệu đô la, vì không có ai như anh. Họ sẽ trả cho anh 100 triệu đô la bởi anh có thể đạt được mục tiêu, anh có thể ném bóng vào rổ thành công. Hãy nhìn Michael Jordan7, người đàn ông hàng tỷ đô la. 7 Michael Jordan (sinh năm 1963) là cầu thủ bóng rổ nhà nghề nổi tiếng thế giới của Hoa Kỳ, hiện đã giải nghệ. Anh được coi là một trong những cầu thủ bóng rổ vĩ đại nhất mọi thời đại. Nếu nhìn sang những ngành nghề khác, mặc dù họ đang làm công việc hữu ích cho xã hội, nhưng họ có thể dễ dàng bị thay thế, vì có hàng trăm ngàn, hàng triệu người khác có thể làm được những việc đó. Đó là những công việc tay nghề thấp, không đòi hỏi nhiều suy nghĩ và chất xám. Nó khiến mọi người trượt dốc, và bi kịch lớn nhất khi trượt dốc là anh chỉ có thể đi theo một hướng. Nhiều người chấp nhận làm những việc vụn vặt không đòi hỏi kỹ năng đặc biệt. Tôi đã chứng kiến một người phụ nữ đòi tăng mức lương hiện tại lên 15 đô la một giờ. Cô ấy 34 tuổi và có bảy đứa con. Cô làm việc trong một quán thức ăn nhanh. Cô chỉ kiếm được 8 đô la một giờ và đang đòi ông chủ trả mình 15 đô la một giờ. Vâng cô ấy đã 34 tuổi, và chưa bao giờ nâng cao trình độ kỹ năng để xứng đáng được nhận số tiền cao hơn, nhưng vẫn đòi người khác phải trả thêm tiền cho cô ấy. Nhưng không ai sẵn sàng, vì giá trị đóng góp của cô ấy quá thấp. Nếu giá trị đóng góp của anh cao, một ông chủ khác sẽ tự nguyện và lập tức trả thêm tiền cho anh. Trên thực tế, các nhà tuyển dụng thuê nhân viên giỏi bằng cách tìm kiếm nhân tài ở các công ty khác, rồi đề nghị trả lương cao hơn nếu người đó đến làm việc cho họ. Có đến 80% những cuộc trao đổi về công việc diễn ra như thế, với mức lương hấp dẫn nhất. Nhiều người trả cho anh nhiều tiền hơn để đến và làm việc cho họ. Cách nhanh nhất để tăng lương là hãy làm thật sự tốt công việc của mình, đến mức mà ông chủ sẽ trả thêm cho anh để đảm bảo anh không bỏ đi nơi khác làm việc, nơi mà ông chủ khác sẽ trả cho anh nhiều hơn. Đó là cách mà cung và cầu hoạt động. Công ty của tôi có 22 nhân viên. Tôi luôn cho rằng, nếu anh muốn tăng lương, cách duy nhất là anh phải làm việc tốt hơn. Tức là, sẽ không bao giờ xảy ra tình huống ai đó đến nói với tôi rằng, “Làm ơn, tôi có thể được tăng lương không? Tôi đã ở đây hơn một năm, và có nhiều kinh nghiệm hơn. Tôi có thể tăng lương chứ?” Không, tất cả mọi người sẽ được tăng lương khi giá trị của họ gia tăng. Họ không phải chờ đợi một năm. Nếu họ đang thực sự làm tốt công việc của mình và tạo nguồn thu lớn cho công ty, tôi sẽ trao cho họ nhiều tiền hơn, không chỉ bởi họ xứng đáng với nó, mà còn vì họ đã mất công sức để kiếm được nó. Số tiền tôi trả chỉ là một phần của giá trị gia tăng mà họ mang lại cho công ty tôi. Tôi không muốn họ bỏ đi nơi khác. DAN: Anh hãy giải thích sự khác biệt giữa sự giàu có, tự do tài chính và thu nhập. Những khái niệm này có mối liên hệ với nhau như thế nào? Liệu một người có thể có thu nhập cao, nhưng lại không mấy giàu có không? Có phải tất cả những ai độc lập tài chính thì đều giàu không? BRIAN: Đó là một câu hỏi thú vị. Có một câu nói đùa rằng những người có thu nhập cao nhất chỉ cách nguy cơ trở thành người vô gia cư có hai tháng thôi, theo định luật Parkinson. Định luật này phát biểu rằng chi phí sẽ tăng lên để tương ứng thu nhập. Tức là, dù anh kiếm được bao nhiêu chăng nữa, anh vẫn sẽ chi tiêu như trước, hoặc hơn thế. Một người Mỹ bình thường sống dựa vào 110% thu nhập, và phần còn lại là từ thẻ tín dụng, vay mượn, hoặc từ người thân trong gia đình, v.v... Họ vẫn đang kéo dài danh sách chi tiêu. Cuối cùng, họ sẽ cạn kiệt tiền mặt. Ngày nay, một người Mỹ bình thường, khi nghỉ hưu, có giá trị tài sản ròng khoảng 41.000 đô la, cộng với các khoản tiền hỗ trợ từ An sinh Xã hội – sau quãng thời gian 40-50 năm sống và làm việc trong nền kinh tế giàu có nhất lịch sử loài người. Tại sao con số này thấp đến như vậy? Đó là bởi họ nghĩ thu nhập cao sẽ đem lại giàu có. Tuy nhiên, chỉ có một kiểu giàu có là có ý nghĩa thực sự. Tôi học được điều này từ một người nhập cư đến đây và anh ấy đã trở nên cực kỳ giàu có. Anh ấy nói nguồn thu nhập quan trọng duy nhất là tiền sinh ra từ tiền của anh. Đó là tiền nảy nở từ khoản đầu tư của anh. Anh ấy còn nói, thu nhập không đem đến sự giàu có. Thu nhập chỉ hỗ trợ cuộc sống của anh. Thứ giàu có duy nhất là dòng tiền sinh ra từ các nguồn khác. Những người giàu có nhất mà tôi biết luôn nói về dòng tiền tới từ các nguồn khác. Đặc biệt, khi họ phân tích một khoản đầu tư, mà họ thường dành ra 6 tháng để phân tích một khoản đầu tư, thì câu hỏi được đặt ra là dòng tiền đến từ khoản đầu tư này có vượt trội đáng kể so với chi phí đầu tư và chi phí đồng tiền không? Lợi tức từ khoản đầu tư này có hơn hẳn lợi tức đến từ những cách thức đầu tư khác không? Anh sẽ nhận thấy, những người thông minh nhất trong chúng ta luôn luôn cẩn trọng trong đầu tư, để đảm bảo rằng lợi nhuận sẽ trội hơn hẳn chi phí đầu tư. DAN: Theo ý kiến của anh, tiền nên đặt ở mức độ ưu tiên nào trong cuộc sống con người? BRIAN: Nếu anh hỏi các doanh nhân, bất kể người thành công hay đang gặp khó khăn, rằng tiền có ý nghĩa gì đối với họ, đáp án sẽ luôn là: Tự do. Tự do là động lực thúc đẩy mọi người cố gắng để đạt thành công tài chính. Tiền có nghĩa là “Tôi tự do”. Tôi từng đùa rằng, “tự do” này tương đương với việc khi đến nhà hàng, anh có thể gọi bất cứ món nào mà không cần xem giá. Mọi người đều yêu tự do. Nó là một trong những thứ quan trọng nhất, nếu không muốn nói là thứ quan trọng duy nhất trong tất cả các loại giá trị. Chẳng ai phàn nàn mình có quá nhiều tự do. Nhiều người còn nghĩ một số cá nhân khác quá tự do đến nỗi nên đặt thêm luật để hạn chế điều đó. Cụ thể là, những người thành công nên bị đánh thuế, bị kiểm soát và bị trừng phạt. Cũng có nhiều người nghĩ khác, họ cảm thấy họ được quyền có tất cả tự do họ muốn. Barbara De Angelis8 đặt câu hỏi thú vị thế này, “Đến lúc nào bạn mới biết mình có đủ tiền, và bạn định làm gì sau đó?” Tiền đại diện cho tự do, vì vậy chúng ta sẽ xem xét cần bao nhiêu tiền ta mới thấy mình hoàn toàn tự do. Tôi thường nhắc người tham gia chương trình huấn luyện kinh doanh của tôi xác định con số cụ thể của họ. Con số của anh là gì? Anh cần đạt được mức tài sản và dòng tiền mặt, hằng tháng, hằng năm, bao nhiêu thì có thể dừng lại? 8 Barbara De Angelis (sinh năm 1951) là tư vấn viên phát triển cá nhân, cố vấn mối quan hệ, giảng viên và nhà văn. Các triệu phú tự thân làm nên dành rất nhiều thời gian suy nghĩ đáp án cho câu hỏi: Tôi cần bao nhiêu tiền để có thể trang trải lối sống mà tôi muốn, và khi có được rồi, tôi sẽ làm gì? Sau đó, họ tập trung vào nó, họ phải hy sinh rất nhiều trong ngắn hạn để tích lũy được lượng tài sản ròng đủ lớn đó, sản sinh nguồn thu nhập, để họ được tự do, gia đình họ được tự do, con cái họ được tự do. Họ không ngừng làm việc cho đến khi đạt điểm tới hạn. Tại đó, họ có thể tham gia nhiều hoạt động như từ thiện, và cắt giảm những việc họ không mong muốn. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của cuộc đời, anh sẽ phải làm việc cật lực, phải đặt cả trái tim vào mục tiêu tự do tài chính, và phải thực hiện nó khi có nhiều năng lượng nhất, nhiều khát khao nhất, nhiều tham vọng nhất và nhiều cơ hội nhất. DAN: Ai đã chỉ dạy cho anh nhiều nhất về tiền bạc? Anh hãy mô tả ngắn gọn từng bài học, cũng như bài học quan trọng nhất về tiền mà họ đã dạy cho anh. BRIAN: Tôi đã đọc nhiều cuốn sách, bài báo cũng như những bài phỏng vấn về hàng ngàn người thành công trong khoảng thời gian dài – bao gồm triệu phú, tỷ phú, tỷ tỷ phú – và nghiên cứu một số người được xem là giàu nhất trong lịch sử. Rất nhiều trong số họ khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng. Người giàu nhất trong lịch sử, Jacob Fugger9, vốn xuất thân là một nhân viên ngân hàng người Đức. Ông bắt đầu kinh doanh với số vốn ít ỏi. Với tư cách một doanh nhân tài ba, một người cho vay có con mắt rất tinh tường, một người sử dụng đồng tiền hiệu quả, một người luôn cổ vũ nhiệt tình cho các hoạt động giao thương mạo hiểm, toàn bộ triết lý của ông là: tiết kiệm, chú ý, thận trọng, chính xác, cứng rắn, nghiêm khắc khi nói về vấn đề tiền bạc. Và rồi, ông ấy đã trở thành người giàu nhất châu Âu. 9 Jakob Fugger (1459 – 1525) là một thương gia lớn, doanh nhân khai thác khoáng sản và chủ ngân hàng châu Âu. Đại gia tộc Rothschild10, từ một gia đình nhỏ, trở thành đại gia tộc ngân hàng giàu có nhất châu Âu thời bấy giờ, và sau này là một trong những gia đình giàu có nhất châu Mỹ. Tôi từng nghiên cứu những người thuộc dòng dõi Rothschild nhiều năm. 10 Gia tộc Rothschild là một gia tộc người Do thái xuất thân từ Frankfurt, Đức. Họ đã tạo nên một đế chế tài chính – ngân hàng tại châu Âu bắt đầu từ cuối thế kỷ 18. Anh có thể đọc toàn bộ một cuốn sách về John Rockefeller11, và nắm được một quan điểm tối quan trọng của ông là tiết kiệm, tiết kiệm, và tiết kiệm. Quan điểm này được thể hiện qua việc ông đã giảm giá hàng hóa, bao gồm dầu mỏ và khí đốt, cho người tiêu dùng. Nhiều người gọi ông là một nhà đại tư bản trộm cắp. Vâng, ông đúng là nhà đại tư bản trộm cắp. Ông ấy đã đá đối thủ cạnh tranh ra khỏi công việc kinh doanh. Ông ấy kiểm soát gần như toàn bộ thị trường dầu khí ở Bắc Mỹ. 11 John Davison Rockefeller (1839 – 1937) là một nhà công nghiệp người Mỹ, đóng vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp dầu mỏ thời sơ khai. Ông được xem là một trong những người giàu nhất lịch sử theo ước tính của Forbes. Đó là những thông tin nhỏ mà anh có thể tìm thấy khi đọc cuốn sách nói về Rockefeller. Nếu anh muốn thành công trong kinh doanh, anh phải thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, thật nhanh chóng và đơn giản với mức giá thấp hơn đối thủ, đồng thời phải liên tục phát huy điều đó. Đây là một trong những bài học tài chính hữu ích nhất. DAN: Brian ơi, quan niệm nào về tiền bạc là sai lầm nhất, và làm thế nào để thay đổi quan niệm này? BRIAN: Đại học Harvard từng đưa ra kết luận rằng, phẩm chất quan trọng nhất của những người đạt được thành công tài chính là tầm nhìn dài hạn. Chúng ta hiện sống trong một nền kinh tế nơi con người thiếu đi tính kiên nhẫn, luôn muốn sự hài lòng tức thời. Chính điều này đã giết chết hy vọng và ước mơ của mọi người. Tầm nhìn dài hạn có nghĩa là, anh đưa ra các quyết định ngắn hạn để thu về những phần thưởng tuyệt vời trong dài hạn; tức là, anh làm việc chăm chỉ, tiết kiệm và đầu tư tiền thật cẩn thận. Anh tích lũy nhờ phép màu của lãi kép. Ngày nay, 65% người trưởng thành tại Mỹ cho rằng cách duy nhất để độc lập tài chính khi nghỉ hưu là trúng xổ số. Hầu hết họ cho rằng thành công tài chính là trò chơi may rủi, và họ coi Mark Zuckerberg – một tỷ phú ở độ tuổi 20 – là điển hình cho điều đó. Họ không hiểu rằng Zuckerberg chỉ là một người trong hàng triệu người đã cố gắng thực hiện điều này. Với anh, hội tụ đủ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa, và chúng liên kết với sự xuất hiện của Internet, sự ra đời của việc xử lý dữ liệu siêu tốc, sự bùng nổ phương tiện truyền thông xã hội. Mọi thứ đến với anh đúng lúc. Không nhiều người kiếm được hàng trăm triệu đô la, thậm chí hàng tỷ đô la. Hầu hết mọi người kiếm tiền bằng cách làm việc chăm chỉ, đóng góp giá trị, tiết kiệm tiền, đầu tư cẩn thận, và tích lũy theo thời gian. 2NHẦM TƯỞNG HOANG ĐƯỜNG VỀ TIỀN BẠC Trước khi giải thích các quy luật về tiền bạc, chúng ta cần làm sáng tỏ nhiều quan niệm hoặc sai lầm, hoặc chỉ chứa một phần sự thật, hoặc hoàn toàn dối trá trong chủ đề này. Nếu có bất kỳ quan điểm nêu trên nào ẩn náu trong những góc sâu kín nơi tâm hồn bạn, chúng có thể cám dỗ bạn hướng tới sự giàu có theo con đường bất minh, để rồi đâm đầu vào ngõ cụt. Brian gọi những quan điểm sai lầm này là những nhầm tưởng về tiền bạc. Anh ấy sẽ mô tả những ý niệm làm nền cho mỗi lầm tưởng này, sau đó nhận diện từng lầm tưởng một. DAN: Brian ơi, hãy bắt đầu bằng việc thảo luận về ý niệm đứng sau hầu hết các nhầm tưởng về tiền bạc: Không công vẫn đòi thụ lộc. Hãy xem quan điểm này đã vi phạm luật nhân quả như thế nào, và tại sao nó có thể khiến người ta uổng phí nhiều năm trên con đường làm giàu sai lầm, để rồi cuối cùng chỉ còn những giấc mộng tan vỡ và tài khoản ngân hàng trống rỗng. BRIAN: Có rất nhiều lý do giải thích tại sao có người cả đời nghèo túng. Quy luật niềm tin phát biểu rằng mọi điều anh thật lòng tin tưởng đều sẽ trở thành hiện thực của anh. Nhiều người tin vào những thứ hoàn toàn bất khả thi về phương diện tiền bạc. Trong Alice ở xứ sở thần tiên, Alice nói với Mũ Điên rằng, “Ông không thể tin điều đó được. Không thể nào.” Mũ Điên đáp, “Không, ta đã rèn được khả năng tin vào tối thiểu hai điều bất khả trước mỗi bữa sáng.” Vô số người tin vào những điều sai trái. Nhà văn hài hước Josh Billings từng nói, “Vấn đề không phải ở chỗ con người biết điều gì khiến anh ta bị tổn thương, mà điều anh ta biết là dối trá.” Đây là sai lầm chí tử đối với thành công tài chính. Tôi muốn bắt đầu từ quy luật vĩ đại nhất, thứ quy luật quyết định mọi chuyện xảy ra đối với anh. Cách đây 350 năm, trước cả Chúa Giêsu, triết gia vĩ đại Aristole đã cho ra đời nguyên lý nhân quả Aristole, mà ngày nay, chúng ta gọi là luật nhân quả. Khi mà mọi người đều tin vào thần thánh, phép màu và vận may, ông tuyên bố rằng không có thánh thần, chúng ta đang sống trong một vũ trụ có trật tự, nơi mọi thứ xảy ra đều có lý do; mỗi hệ quả sinh ra đều vì một hoặc nhiều nguyên nhân cụ thể. Nếu anh muốn thu được kết quả, anh phải hiểu rất rõ ràng về nó, và suy luận để tìm ra nguyên nhân có thể tạo ra nó. Vì vậy, nếu anh muốn tăng gấp đôi thu nhập, hãy tìm ai đó có thu nhập gấp đôi thu nhập của anh trong chính lĩnh vực anh đang làm. Sau đó, hãy suy luận ngược lại để xem bằng cách nào họ làm được như vậy. Rồi anh sẽ thấy, tất cả những ai kiếm được gấp đôi số tiền mà anh kiếm được hôm nay, đều có lúc chỉ kiếm được một nửa số đó. Họ chắc chắn đã làm được những điều đặc biệt nào đó. Nếu anh đặt câu hỏi với họ, họ sẽ nói cho anh biết. Nếu anh không quen họ, hãy xem sách, báo, những cuộc phỏng vấn về họ, và qua đó, họ sẽ nói cho anh biết, bởi những người thu nhập cao thường rất hào phóng chia sẻ cách thức thành công. Nếu anh làm theo những gì người thành công đã làm, anh sẽ thu về kết quả tương tự, dựa trên luật nhân quả. Chúng ta đang sống trong một thế giới tuân theo quy luật, chứ không phải ngẫu nhiên. Mọi chuyện xảy ra không phải do may mắn, cũng không phải do tình cờ. Luật nhân quả phát biểu rằng, tất cả mọi thứ xảy ra đều có lý do. Luôn có nguyên nhân cho mọi sự việc. Đó chính là quy luật bất biến quyết định vận mệnh con người. Nó nói rằng mọi thứ xảy ra đều có lý do, bất kể ta có biết lý do hay không. Nó là quy luật, và điều này có nghĩa là anh hoàn toàn có thể kiểm soát được tương lai của mình. Mọi kết quả, thành công hay thất bại, giàu có hay nghèo đói, đều có một hoặc nhiều nguyên nhân cụ thể gây nên. Mọi nguyên nhân hoặc hành động đều có hệ quả dạng này hay dạng khác, bất kể chúng ta có trông thấy hay không, có thích nó hay không. Isaac Newton, nhà vật lý vĩ đại nhất trong lịch sử, gọi đây là luật về lực và phản lực (định luật III Newton). Định luật này phát biểu rằng, trong mọi trường hợp, khi vật A tác dụng một lực lên vật B, thì vật B cũng tác dụng lại một lực lên vật A; hai lực này có cùng giá trị, cùng độ lớn, nhưng ngược chiều. Đây là quy luật của vũ trụ. Nói cách khác, nếu anh tạo ra giá trị, anh sẽ thu lại giá trị – lực và phản lực. Nếu anh không tạo ra giá trị, anh sẽ không thu về giá trị. Anh không thể vi phạm quy luật tự nhiên này. Napoleon Hill, tác giả cuốn sách Nghĩ giàu & Làm giàu, nói rằng mọi người đừng cố vi phạm quy luật tự nhiên, cũng đừng mong vượt mặt nó. Nó là lý do chính cho sự thành công. Quy luật nhân quả này nói rằng tất cả các thành tựu, giàu sang, hạnh phúc, thịnh vượng và thành công đều là hệ quả trực tiếp hay gián tiếp của nguyên nhân hoặc hành động cụ thể. Earl Nightingale nói, chẳng bao giờ có chuyện một người ngồi trước lò sưởi trống không và khẩn nài, “Hãy cho tôi chút hơi nóng, rồi tôi sẽ bỏ vào ít gỗ.” Không phải như vậy. Anh phải cho gỗ vào lò sưởi trước, rồi mới nhận được hơi ấm. Anh phải đầu tư vào rồi mới lấy được thứ mình muốn. Chẳng khác nào người nông dân nói với cánh đồng, “Cho tôi một vụ mùa, rồi tôi sẽ gieo hạt giống.” Thế giới hiện đầy rẫy những người tuyên bố rằng, “Nếu muốn tôi làm việc chăm chỉ hơn, họ phải trả tôi nhiều tiền hơn.” Không thể có chuyện đó được, điều anh thực hiện là làm việc chăm chỉ hơn và năng suất hơn, rồi cấp trên, hoặc người khác, sẽ trả cho anh nhiều tiền hơn. Định luật này cũng hàm ý rằng, nếu anh hiểu rõ kết quả anh muốn, anh có thể đạt được nó. Anh có thể nghiên cứu về những người khác, những người đã cùng đạt được một mục tiêu giống vậy, và bằng cách bắt chước theo những gì người khác đã làm, anh có thể nhận về được những kết quả tương tự. Khi nhận diện được những nguyên nhân này và đưa chúng vào cuộc sống và các hoạt động cá nhân, anh sẽ nhận được kết quả tương tự như hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu người khác đã nhận được. Thú vị là, năm 1900, có 5.000 triệu phú trên thế giới. Và khi tôi bắt đầu nghiên cứu chủ đề này vào năm 1980, con số này đã lên tới 1 triệu, trong đó đa số là người Mỹ. Đến năm 2000, con số là 7 triệu. Đến nay, đã có 10 triệu triệu phú, và con số này đang tăng với mức 10-12% mỗi năm. Hàng triệu triệu người bắt đầu từ hai bàn tay trắng và trở thành triệu phú, nhờ thực hiện một số việc nhất định theo một phương pháp nhất định. Nếu chỉ có một người trở thành triệu phú, anh có thể nói đó là chuyện hiếm hoi. Nếu hai người, anh có thể nói đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng nếu hàng triệu triệu người, với bối cảnh khác nhau, giới hạn và ràng buộc khác nhau, trở thành triệu phú, thì chắc chắn tồn tại một số quy luật và nguyên tắc nhất định được họ áp dụng hiệu quả. Tôi học rằng, cuộc sống rất khách quan. Cuộc sống không thiên vị ai. Chẳng có thế lực vĩ đại nào trong vũ trụ muốn anh thành công lớn. Cuộc sống luôn trung lập. Giống như vị thần công bằng với đôi mắt nhắm chặt, cuộc sống chỉ nói rằng, nếu anh làm theo những người thành công, anh sẽ thu được những kết quả tương tự, và ngược lại. Tôi không thấy thoải mái chút nào khi lần đầu nghe được điều này. Nhưng nó là kẻ bảo trợ tuyệt vời nhất cho thành công. Anh có thể ngớ ngẩn, có thể cao hay thấp, đen hay trắng, được giáo dục bài bản hoặc không, dân nhập cư hay người bản xứ, tất cả đều không quan trọng. Đó là lý do tại sao tất cả mọi người đều muốn đến Mỹ, Úc, New Zealand, Anh, Phần Lan – những quốc gia có hệ thống tiêu chuẩn đạo đức kinh doanh – bởi ở đó, anh có thể khởi nghiệp bằng hai bàn tay trắng rồi đạt được thành công tài chính. Mỗi dịp ghé qua các quốc gia này, tôi thường gặp những người bạn đến từ Ấn Độ, Trung Quốc và nhiều nơi trên thế giới, họ đều là triệu phú, họ đến đó và bắt đầu làm những việc mà các doanh nhân thành đạt khác đã làm. Biểu hiện quan trọng nhất của quy luật nhân quả cho thấy, suy nghĩ chính là nguyên nhân, và hoàn cảnh là kết quả. Nói cách khác, suy nghĩ khác nhau sẽ tạo ra nhiều kết quả độc đáo khác nhau. Những suy nghĩ của anh là lực lượng sáng tạo chính trong cuộc sống của anh. Anh có thể tạo nên toàn bộ thế giới theo cách anh nghĩ. Mọi người, mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống của anh đều được tạo nên theo suy nghĩ của riêng anh. Khi thay đổi suy nghĩ, anh sẽ thay đổi cuộc sống của mình, đôi khi chỉ trong vài giây. Nguyên tắc quan trọng nhất góp phần tạo nên thành công cá nhân hay thành công kinh doanh là: Anh sẽ trở thành những gì mà anh dành nhiều thời gian suy nghĩ. Đây là bí mật lạ lùng nhất của Earl Nightingale, nhưng đã được nhắc đến trong Kinh Thánh: Khi hắn tưởng trong lòng thế nào, thì hắn đúng là thế ấy1. Anh trở thành người thế nào phụ thuộc suy nghĩ hoặc đức tin của anh. 1 Nguyên văn “As a man thinketh in his heart, so is he”, thiên 23:7, sách Cách ngôn của Vua Solomon (một cuốn sách thuộc Kinh Thánh). Thế giới bên ngoài là sự phản chiếu thế giới nội tâm của chính anh. Vì vậy, không phải những gì xảy với anh, mà việc anh suy nghĩ thế nào về chúng mới quyết định cảm xúc cũng như phản ứng của anh. Không phải thế giới bên ngoài kiểm soát hoàn cảnh hay điều kiện của anh, mà chính thế giới nội tâm anh mới tạo nên cuộc sống của anh. Cách anh nghĩ về tiền bạc và tài chính sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ tới tình hình tài chính của anh hôm nay. Những người xuất thân từ gia đình khá giả có nhiều khả năng thành công về mặt tài chính hơn, vì đó chính là môi trường họ đã lớn lên. Đó là những gì họ thấy xung quanh. Đó là những gì họ nghe thấy, và thế giới quan của họ mách bảo với họ rằng nếu anh làm việc chăm chỉ và tạo ra giá trị, thì anh cũng có thể thành công về mặt tài chính. Sau đây là một điểm quan trọng liên quan đến nguyên tắc trên, và gắn liền với một trong những lý do chính khiến mọi người thất bại, một trong những thói xấu tồi tệ nhất là ghen tị. Sự ghen tị và bực bội như một cặp song sinh. Chúng đi cùng nhau, khoác tay nhau. Nếu anh ghen tị với người khác, anh sẽ bực bội với họ. Nếu bực bội với họ, anh sẽ muốn làm tổn thương họ hoặc dìm họ xuống. Dù anh ghen tị và bực bội với người khác, chỉ trích và vùi dập họ, tham gia những cuộc trò chuyện tiêu cực, nói xấu sau lưng họ, thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến họ. Họ còn không biết anh đang làm điều đó, và thẳng thắn mà nói, họ không quan tâm; vậy mà, nó lại phá hủy tất cả hy vọng và ước mơ vươn tới thành công của anh. Vậy nên, đừng bao giờ tham gia nói xấu hoặc chỉ trích những người thành công. Người ta hay nói, “Ồ, họ giàu đấy, nhưng họ không hạnh phúc.” Tôi đã nghiên cứu rất kỹ nhóm người giàu, nên tôi có thể khẳng định rằng họ rất hạnh phúc. Họ rất hạnh phúc vì những vấn đề của họ rất nhỏ bé so với những cơ hội họ có được. Vì thế, hãy tôn trọng và ngưỡng mộ những người thành công. Hãy học hỏi từ họ. Dành lời tốt đẹp cho họ. Vui mừng cho thành công của họ. Từ đó, anh có thể tạo ra trường năng lượng của riêng anh – thứ sẽ thu hút cơ hội và giúp anh cũng được như họ. Nghe nói, thu nhập của anh sẽ bằng trung bình thu nhập của năm người mà anh dành hầu hết thời gian tiếp xúc với họ. Dù điều này đúng hay sai, thì cũng là một cách suy nghĩ thú vị. Giá trị tài sản ròng của anh sẽ bằng trung bình giá trị tài sản ròng của những người mà anh kết giao. Tại sao thế? Đó là bởi anh phát triển với phong cách tư duy và thái độ giống như họ. Anh thực sự tin tưởng vào điều gì, điều đó sẽ trở thành hiện thực với anh. Thách thức lớn nhất mà chúng ta mắc phải là niềm tin tự hạn chế. Tôi tin rằng chúng ta đang bị hạn chế, theo một hoặc nhiều cách nào đó. Với cá nhân tôi, điều kìm hãm sự phát triển của tôi suốt nhiều năm là việc lầm tưởng rằng nếu không có được nền giáo dục tốt, nếu không tốt nghiệp trung học phổ thông và lên đại học, tôi sẽ không bao giờ thành công. Nhưng rồi, tôi bị đá khỏi trường trung học. Tự nghi ngờ bản thân là một niềm tin hạn chế, và anh phải nhận ra rằng nếu vượt qua được những niềm tin hạn chế này, anh có thể thay đổi cuộc sống của chính mình. Đây cũng là những gì tôi truyền đạt cho nhiều người. Tôi nói, “Hãy tưởng tượng có một cửa hàng bán niềm tin. Anh có thể bước vào và mua niềm tin, rồi đặt nó vào chương trình quản lý tiềm thức của anh. Nếu anh có thể mua bất cứ niềm tin nào trong cửa hàng đó, thì niềm tin tốt nhất nên mua là gì?” Câu trả lời là, hãy mua niềm tin nói rằng anh sẽ thành công lớn. Hãy mua nó và lặp đi lặp lại với chính mình rằng, “Bất kể ra sao, tôi cũng sẽ thành công lớn.” Hãy truy tìm mọi dấu vết để chứng minh cho niềm tin đó. Ai đó khen anh, vì anh làm tốt điều gì đó. Hãy khẳng định rằng, “Đúng thế, tôi đang trên đường đạt tới thành công lớn.” Khi đọc một quyển sách và học được cách để thành công hơn và cách thiết lập mục tiêu, hãy tuyên bố, “Đúng, đây là một phần trong kế hoạch của tôi. Tôi sẽ thành công lớn.” Đó là bí quyết giúp anh vượt qua mọi nhầm tưởng về giới hạn của bản thân. Thực tế là, không ai tốt hơn anh, cũng không ai thông minh hơn anh. Bất cứ điều gì người khác đã làm, thì anh cũng có thể làm tốt. Anh không nên so sánh bản thân với tỷ phú hay đại gia hàng nghìn tỷ. Hãy so sánh mình với những người anh học cùng, những người đang thực hiện công việc tốt hơn anh. Kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy những người thành công thường so sánh bản thân. Đây là lý thuyết so sánh xã hội, được ghi nhận qua công trình nghiên cứu của Leon Festinger tại Harvard. Nhiều người so sánh mình với những cá nhân thành công và có tiềm năng phát triển. Bất kể đã đạt được thành tựu gì, họ đều sẽ nhìn tới các nấc thang cao hơn. Hãy giống những người đang ở nấc cao hơn, và đừng cố gắng dìm họ xuống. Cố gắng vùi dập họ chẳng gây ảnh hưởng gì tới họ, nhưng lại phá huỷ cơ hội thành công tài chính của anh. Vì vậy, hãy cẩn thận trong lời nói và suy nghĩ, bởi vì anh sẽ trở thành những gì anh nghĩ đến. DAN: Chúng ta hãy thảo luận chi tiết về từng nhầm tưởng. Nhầm tưởng số 1 là: Bạn có thể thu hút tiền bạc và sự giàu sang bằng cách sử dụng sức mạnh tâm trí – ý tưởng chủ đạo phía sau luật hấp dẫn. Hãy miêu tả ý tưởng này trong văn hoá đại chúng và giải thích tại sao nó chỉ đúng một phần. BRIAN: Định luật hấp dẫn đã tồn tại suốt 4.000 năm. Tôi đã bắt đầu nghiên cứu rất sâu các lý thuyết siêu hình của các bậc thầy cổ xưa. Định luật hấp dẫn phát biểu rằng, anh là một thỏi nam châm sống và luôn hút vào cuộc sống của anh những con người, tình huống và hoàn cảnh tương thích với những suy nghĩ thống trị tâm trí anh. Vì vậy, khi nghĩ tới điều gì đó, hãy nhớ rằng: Anh sẽ trở thành những gì mà anh nghĩ. Định luật hấp dẫn phải được xem xét cùng với các định luật khác, bao gồm cả định luật tương ứng, trong đó nói rằng thế giới bên ngoài anh là sự phản chiếu thế giới nội tâm của anh. Giống như có một tấm gương 360 độ bao quanh anh, bất cứ nơi nào anh nhìn tới, anh sẽ thấy bản thân mình trong đó, và suy nghĩ của anh, dòng suy nghĩ đang thống trị tâm trí anh, được thể hiện trong hoàn cảnh sống của anh ở ba lĩnh vực chính: sức khỏe, bạn bè và tài chính. Trước tiên, sức khỏe của anh phản ánh cách anh nghĩ về thực phẩm, dinh dưỡng, chế độ ăn, việc tập thể dục, v.v... Lĩnh vực thứ hai là các mối quan hệ của anh: Anh luôn thu hút những kiểu người phù hợp với suy nghĩ thống trị tâm trí anh. Cho nên, người có tư duy thực sự tích cực dường như luôn được bao quanh bởi những người thực sự tích cực khác. Cuối cùng, là tình hình tài chính của anh. Anh sẽ luôn biết một người nghĩ gì về tiền bạc bằng cách quan sát những gì họ đang thu hút vào cuộc sống của họ. Đó chỉ là khởi đầu, nhưng còn nhiều điều sâu xa hơn nữa. Một số cuốn sách nói rằng, tất cả những gì anh phải làm là suy nghĩ những điều hạnh phúc, hình dung sự giàu có và thành công, rồi anh sẽ thu hút nó. Không phải vậy. Kinh Thánh viết, đức tin không kèm theo hành động sẽ vô dụng. Tức là, anh phải làm việc rất rất chăm chỉ để thiết lập được trường năng lượng tác động. Và việc thiết lập trường năng lượng có ảnh hưởng vĩnh viễn để thành công tài chính sẽ là bất khả thi, nếu anh không liên tục thực hiện những điều nhất quán và hài hòa với nó. Một nguyên tắc khác có tên định luật rung động rất nổi tiếng trong giới âm nhạc. Định luật này được hiểu như sau: Mọi đơn chất trên thế giới đều rung động, giống như chiếc âm thoa2 vậy. Sỏi và đá rung lên, một số loài thực vật và động vật cũng tạo ra những rung động. Hãy tưởng tượng một căn phòng lớn với hai cây đàn dương cầm ở hai phía. Anh bước đến bên một cây dương cầm rồi nhấn phím Đô giáng. Anh lặp lại hành động này với cây đàn bên kia, và nốt Đô giáng sẽ rung lên trong sự hài hòa đầy xúc cảm với nốt Đô giáng đầu tiên. 2 Âm thoa là thanh kim loại dễ rung, hình chữ U, khi gõ phát ra một âm đơn có tần số nhất định, thường dùng để lấy âm chuẩn. Sự rung động này, hay sự cộng hưởng cảm thông, là thứ anh nhìn thấy trong các mối quan hệ. Nhà thơ Kahlil Gibran3 đã viết về điều đó cách đây 100 năm. Ông nói, khi anh gặp người bạn đời của mình, sẽ có một khoảnh khắc mà sự cộng hưởng cảm thông xuất hiện. Vào thời điểm ấy, khi ánh mắt hai bên chạm nhau, sự cộng hưởng này sẽ diễn ra ngay lập tức, trong vài giây. Nó sẽ diễn ra vào lúc đó, hoặc không bao giờ. 3 Kahlil Gibran (1883 – 1931) là nghệ sĩ, nhà thơ và nhà văn người Liban. Có một câu hỏi dành cho những người có cuộc hôn nhân hạnh phúc là: Các bạn đã gặp nhau như thế nào? Cả hai người đều nhớ lại khoảnh khắc diễn ra sự rung động cảm thông tức thì đó. Trong căn phòng đông người, ánh mắt họ chạm nhau, và xuất hiện một sự hòa hợp hay rung động đã mang họ lại gần nhau. Họ nói, khi anh gặp người tâm đầu ý hợp, anh sẽ nhận ra mình vừa gặp được người bạn thân nhất đời mình. Chỉ như thế. Hai bạn đi cùng nhau một chút, rồi ở bên nhau mãi mãi. Vợ tôi và tôi đã kết hôn được 36 năm, và chúng tôi gặp nhau chỉ trong một khoảnh khắc. Chúng tôi vẫn hồi tưởng lại giây phút ánh mắt chúng tôi chạm nhau. Đây là một phần của luật hấp dẫn. Trái với luật hấp dẫn, mà ít người nhắc đến, là luật đẩy lùi. Nếu anh lấy ra hai thỏi nam châm, và cố đưa hai đầu cực cùng dấu lại gần nhau, chúng sẽ đẩy nhau ra xa. Nếu anh suy nghĩ tiêu cực, anh sẽ thực sự đẩy những gì mà anh muốn ra khỏi cuộc sống của mình. Đó chính là lý do tại sao tôi nói anh đừng nên suy nghĩ tiêu cực về những người đã chạm tới thành công tài chính. Nếu không, anh thực sự đẩy tất cả hy vọng về thành công tài chính ra khỏi cuộc đời mình. Một số người thường nghĩ tiêu cực về tiền bạc như “Người giàu là kẻ xấu”. Thông thường, suy nghĩ như vậy xuất phát từ việc người đó nghèo túng và tức giận. Nếu anh tin vào điều đó, anh sẽ không bao giờ thành công về mặt tài chính, bởi vì anh sẽ tự hủy hoại bản thân mình. Đó là lý do tại sao rất nhiều người mắc chứng tự hủy hoại bản thân4 sau khi kiếm được rất nhiều tiền. Diễn viên hài Robin Williams đùa rằng: Cocain5 là cách mà Chúa nói với anh rằng anh đang kiếm quá nhiều tiền. Anh sẽ thường xuyên nghe được chuyện một tài xế taxi báo cáo có người để lại cả một vali đầy tiền trên xe họ. Đó là hành vi của hội chứng tự hủy hoại mình, khi người ta không tin rằng họ xứng đáng với thành công mình đang có. 4 Chứng tự hủy hoại bản thân (self-sabotage) xảy ra khi cách hành xử của một cá nhân gây ra nhiều vấn đề và tác động xấu tới mục tiêu dài hạn của người đó. Hành vi tự hủy hoại bản thân phổ biến là lạm dụng ma túy và đồ uống có cồn, ăn uống vô tội vạ và tự làm mình bị thương. 5 Cocain là loại ma túy chiết xuất từ lá Coca, có tinh thể hình kim, không màu, không mùi, vị hơi đắng, mát và gây cảm giác hơi tê nơi đầu lưỡi. Một phần quan trọng khác của luật hấp dẫn là cảm giác xứng đáng. Đây là đề tài lớn khi mà gần như mọi vấn đề đều xuất phát từ những người tin rằng họ không xứng đáng với những điều tốt đẹp xảy đến với họ. Nhìn bề ngoài, họ làm việc cực kỳ chăm chỉ, nhưng nội tâm họ tràn ngập rung động tiêu cực. Nhìn từ bên ngoài, họ đang làm việc cật lực. Họ làm việc 16 giờ một ngày. Đôi khi, họ uống hoặc ăn quá nhiều. Họ hủy hoại hôn nhân và gia đình của họ. Họ kiếm được rất nhiều tiền, nhưng họ tự hủy hoại bản thân vì trong sâu thẳm tâm hồn, họ không tin mình xứng đáng với nó. Họ rơi vào luật đẩy lùi, thứ tước đi tất cả các thành tựu mà họ dốc hết sức lực mới đạt được và khiến thành công biến mất khỏi cuộc sống của họ. Luật hấp dẫn là những ý nghĩ đã được cảm xúc hóa. Nó giống như một chiếc đèn chiếu sáng. Anh có thể có được một chiếc đèn chiếu và tuyên bố đây là nguồn ánh sáng tuyệt vời, nhưng nó sẽ không thể phát quang nếu anh không cắm dây vào ổ điện. Một suy nghĩ vốn không mang xúc cảm. Suy nghĩ thì trung lập và, về cơ bản, là một chất trơ. Chỉ khi nào anh nhân nhiều lần sức mạnh của suy nghĩ bằng cảm xúc, thì khi ấy suy nghĩ mới có sức mạnh. Đó là lý do tại sao mọi thứ anh có trong đời đều bị thu hút về phía anh tùy theo cách anh suy nghĩ. Anh có thể thay đổi cuộc sống của mình, vì anh có thể thay đổi cách anh suy nghĩ. Khi anh nuôi dưỡng một mong muốn cháy bỏng về thành công tài chính và luôn nghĩ về nó, anh sẽ tạo ra một trường năng lượng cảm xúc tích cực thu hút con người, ý tưởng và cơ hội vào cuộc sống của anh, từ đó giúp anh biến mục tiêu của mình thành hiện thực. Giả sử anh muốn sở hữu một chiếc xe thể thao màu đỏ, anh sẽ đột nhiên bắt đầu nhìn thấy chiếc xe đó xuất hiện khắp mọi nơi. Anh thấy quảng cáo xe thể thao màu đỏ. Anh thấy những chiếc xe thể thao màu đỏ đang rẽ vào góc phố cách hai đến ba dãy nhà. Anh thấy những chiếc xe thể thao màu đỏ đậu trong nhà để xe và đang di chuyển trên lối vào tòa nhà. Điều này xảy ra bởi anh đã nói với tiềm thức rằng anh đang quan tâm đến xe thể thao màu đỏ. Đây chính là một phần của luật hấp dẫn. Nếu anh quyết định đi nghỉ mát ở Hawaii, anh bắt đầu thấy quảng cáo kỳ nghỉ ở đó. Nếu anh quyết định giảm cân, anh thấy quảng cáo giảm cân ở khắp nơi. Đây là cách bộ não giúp anh thành công trong cuộc sống. Nó giúp anh sống sót và phát triển. Hãy nhìn vào cuộc sống tài chính của anh hôm nay, và xem nó hòa hợp với dòng suy nghĩ của anh như thế nào. Hãy đón nhận trọn vẹn những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Chúng ở đó bởi vì anh đã thu hút chúng đến với mình. Hãy nhìn những thứ anh không thích và nhận trách nhiệm hoàn toàn với chúng. Chúng ở đó cũng bởi vì anh, vì một vài suy nghĩ lệch lạc của chính anh. Suy nghĩ lệch lạc đó là gì và anh định làm gì với nó? Anh đang hấp dẫn hoặc không hấp dẫn thứ gì vào cuộc sống của mình? Hãy lấy một ví dụ đơn giản về các triệu phú tự thân làm nên. Tôi bắt đầu nghiên cứu họ cách đây nhiều năm. Tôi đã nhận được cuộc gọi đề nghị tôi giảng dạy cho 800 chủ sở hữu doanh nghiệp độc lập và nhà phân phối về cách thức trở thành triệu phú tự thân. Tôi trả lời rằng, dĩ nhiên là có. Tôi kết thúc cuộc gọi và nhận ra rằng mình đã 38 tuổi. Như nhiều người khác, tôi luôn muốn trở thành triệu phú tự thân lập nên từ thời thanh niên, nhưng tôi bị phá sản, và vẫn đang ngập trong nợ nần. Lúc đó, tôi thực sự không biết gì nhiều về các triệu phú tự thân. Tôi có hai tháng trước khi thực hiện bài giảng này. Vì vậy, tôi ngồi xuống và bắt đầu nghiên cứu. Tôi bắt đầu đọc. Tôi khởi đầu với cuốn The Millionaire Next Door (tạm dịch: Triệu phú nhà bên) và Selling to the Affluent (tạm dịch: Bán hàng cho người giàu), đều của Thomas Stanley. Tôi nhận ra rằng các triệu phú tự thân là những người có tư duy hấp dẫn sự giàu có. Tư duy này là một tập hợp cách thức mà họ luôn nghĩ đến. Nếu anh cũng như họ, anh sẽ bắt đầu thiết lập sự rung động ở mức độ rất rất cao. Sự rung động này phát ra từ anh giống như những đợt sóng vô tuyến và, như một thỏi nam châm, bắt đầu hấp dẫn tất cả những thứ mà anh cần trong cuộc sống. Bài nói chuyện của tôi khi đó rất được đón nhận. Tôi đặt tên cho nó là 21 Bí quyết Thành công của Triệu phú Tự thân. Tôi được mời diễn thuyết lại lần nữa, và lần nữa. Điều thú vị nhất đã xảy ra, trong vòng 5 năm, tôi trở thành triệu phú đô la. Càng có nhiều dịp truyền đạt những bí quyết này, tôi càng nghĩ về chúng nhiều hơn và thực hành nhiều hơn. Anh trở thành những gì anh thường nghĩ. Anh cũng trở thành những gì anh thường truyền dạy. Vì vậy, nếu anh bắt đầu dạy các bí quyết này cho người khác, anh sẽ tiếp thu sâu sắc hơn. Anh bắt đầu gia tăng cường độ rung động. Nếu anh truyền đạt thuyết phục, thực sự cảm nhận mạnh mẽ về chúng và cố gắng tạo niềm hào hứng cho mọi người, anh bắt đầu cộng hưởng ở mức độ cao hơn. Ngày càng nhiều điều thu hút tiền bạc diễn ra, và ngày càng nhiều tiền chảy vào cuộc sống của anh. Hầu hết các triệu phú tự thân đều làm kinh doanh, nhưng hầu hết họ trở thành triệu phú mà không hề nhận ra điều đó. Một năm nọ, sau hàng năm trời làm việc, kế toán viên nói với họ rằng, “Anh hiện có giá trị hơn 1 triệu đô rồi đấy!”. Họ nói, “Thật sao? Làm thế nào mà chuyện đó xảy ra được nhỉ?”. Họ bận rộn làm việc đến mức không nhận ra điều đó. Chuyện này cũng xảy ra với tôi. Tôi ngồi xuống điền tờ đơn vay tiền ngân hàng, anh phải liệt kê ra tất cả các tài sản của mình, anh biết đấy. Tôi phải tổng hợp tất cả rồi trình bày thật rõ ràng. Tôi đã nghĩ, “Ôi Chúa ơi, tôi đáng giá 1,1 triệu đô la trong năm nay”. Tôi phải gọi cho vợ tôi. Đây là giá trị tài sản ròng và cũng là những gì mà các ngân hàng xem là giá trị – giá trị ròng của căn nhà, tài sản công ty, tài khoản tiết kiệm, cổ phiếu và trái phiếu, v.v... Khi càng nghiên cứu sâu hơn về lĩnh vực này, anh càng thiết lập được trường rung động mạnh mẽ hơn. Khi càng suy nghĩ rõ ràng hơn, anh càng hấp dẫn được nhiều hơn những gì anh nghĩ. Ví dụ, nếu anh muốn trở thành triệu phú, hãy tưởng tượng có một tấm séc 1 triệu đô la được tạo ra bằng tên của anh. Chỉ nghĩ về tấm séc. Chỉ nhìn vào tấm séc. Chỉ tưởng tượng rằng tấm séc đó có thể thanh toán cho anh 1 triệu đô la và ghi ngày tháng trên nó. Hãy đọc và nuôi dưỡng hình ảnh này. Anh mường tượng về nó, mỗi lần nuôi dưỡng hình ảnh về mục tiêu mong muốn trong tâm trí, thì tiềm thức của anh sẽ coi nó như một bức ảnh chụp nhanh, đặt nó vào chương trình tiềm thức lâu dài và liên tục hình dung nó. Một cách khác là hãy hình dung bản thân anh đang làm công việc mà anh mong muốn. Nhiều nhân viên bán hàng thường hình dung cảnh họ đang bán các sản phẩm lớn, đóng các giao dịch lớn, dù là giao dịch bảo hiểm, tàu biển, máy bay, cổ phiếu, hay trái phiếu. Họ sẽ tưởng tượng họ đang tương tác với khách hàng, thấy khách hàng mỉm cười và ký tờ séc hoặc hợp đồng. Cách khác nữa – mà tôi và vợ tôi thực hiện – là hãy bắt đầu mường tượng ngôi nhà anh sẽ sống khi trở nên giàu có. Mỗi thứ Bảy hằng tuần, vợ tôi, Barbara, và tôi sẽ đi tới những ngôi nhà trong các khu phố giàu có nhất. Chúng tôi đi bộ qua những ngôi nhà đắt tiền, nói về những gì chúng tôi muốn thấy trong ngôi nhà của mình. Chúng tôi trò chuyện về việc mua thứ này thứ kia, làm cầu thang và sân sau, hồ bơi, phòng tập thể dục. Trong ba năm áp dụng cách này, chúng tôi đã chuyển từ căn nhà đi thuê đến một ngôi nhà tuyệt đẹp trong khu vực tuyệt đẹp. Sau đó, chúng tôi di chuyển từ Canada sang California, ngắm nhìn 150 căn nhà rồi bước vào trong ngôi nhà này. Chúng tôi nhìn nhau và nhận ra đây chính là căn nhà mơ ước. Đây chính là căn nhà chúng tôi đã hình dung, đã viết ra, đã nói về, và giá cả, điều khoản thỏa thuận, mọi thứ mà chúng tôi có khả năng đáp ứng, họ đều chấp thuận. Mọi thứ đều vừa khít, và chúng tôi đã ở trong ngôi nhà đó 28 năm. Đó chính xác là ngôi nhà chúng tôi đã mường tượng. Chúng tôi đã viết ra 42 tiêu chí mà chúng tôi mong muốn ở một ngôi nhà hoàn hảo. Sau khi nhìn ngôi nhà này, chúng tôi soát lại danh sách đó. Và kỳ diệu làm sao, nó đáp ứng tất cả 42 tiêu chí đó. Thật không may, trong tất cả mọi thứ viết về luật hấp dẫn, từ làm việc không hề xuất hiện. Họ nghĩ anh có thể đạt được một số thứ mà không cần làm gì cả, và – như những gì chúng ta đã thảo luận – đây là một trong những nhầm tưởng tệ hại nhất, loại nhầm tưởng không công vẫn đòi thụ lộc. Nó ám chỉ rằng ta có thể nhận về nhiều hơn những gì ta cho đi. Thực tế là, anh chỉ có thể lấy ra một phần nhỏ giá trị mà anh tạo ra. Anh có được một lát cắt mỏng trong một miếng bánh lớn, theo cách nói ở New York. Anh nhận được một tỷ lệ phần trăm nhất định dựa trên giá trị anh tạo ra. Vì vậy, anh chỉ có thể lấy ra từ những gì anh bỏ công; nếu không, anh chẳng thể lấy được thứ gì. Ý niệm không công vẫn đòi thụ lộc đang hủy hoại vô số người ở rất nhiều lĩnh vực trên khắp thế giới. Ý niệm sai lầm này, một nhầm tưởng về việc anh có thể nhận mà không cần cho đi, đang khiến nhiều người biến thành tội phạm tâm thần. Họ tức giận với người kiếm được nhiều tiền. Họ đòi chính phủ phải ra sức ép để số tiền của những người kia được chuyển giao cho họ, số tiền đó phải được lấy từ những người thành công, người thành công phải bị trừng phạt, v.v… và đòi nhận lấy số tiền mà họ không kiếm ra cũng không xứng đáng có được. Đó là vấn đề phát sinh từ ý niệm muốn nhận lại mà không muốn cho đi. Như anh cũng biết, tôi đã viết và ghi chép rất nhiều tài liệu về chủ đề này. Trên thực tế, mọi khía cạnh của những vấn đề trên thế giới ngày nay, là một ví dụ về việc mong đợi một thứ gì đó mà không phải bỏ ra công sức gì cả. Mong muốn kiếm được thứ gì đó mà không cần bỏ công hoặc trả giá, mong muốn sở hữu thứ gì đó mà anh không kiếm được và không xứng đáng với nó, là một trong những ý niệm hủy diệt mọi hy vọng và ước mơ của con người trên toàn cầu. DAN: Brian, hãy cùng thảo luận về nhầm tưởng số 2: Người giàu có dành thời gian suy nghĩ cách thức kiếm tiền. Hãy thảo luận xem tại sao điều này lại không đúng, bởi vì đại đa số những người giàu có ngày nay đều dành thời gian tìm cách tạo ra giá trị và sự giàu có; tiền chỉ là sản phẩm phụ, chứ không phải là thứ họ quan tâm. Người có năng suất làm việc tốt luôn tạo thêm giá trị nhờ công việc hiệu quả, sáng chế mới, hoặc doanh nghiệp mới, nơi tạo ra sự công bằng dưới hình thức tiền lương, tài sản có giá trị gia tăng, v.v... Vậy vì sao điều này vẫn tuân thủ đúng luật nhân quả? BRIAN: Ý tưởng cho rằng người giàu luôn nghĩ về việc kiếm tiền là không chính xác. Nguyên tắc quan trọng nhất trong cuộc sống con người là nguyên tắc phục vụ. Earl Nightingale đã từng nói rằng, phần thưởng của anh luôn tương xứng với giá trị dịch vụ của anh đối với người khác. Câu hỏi mà anh cần đặt ra mỗi ngày là, hôm nay, anh có thể làm gì để gia tăng giá trị dịch vụ của anh đối với người khác? Hãy trở lại với John Rockefeller. Ông vốn không ưa mạo hiểm. Ông bắt đầu kiếm được 3,75 đô la một tuần với vai trò thư ký cấp bậc đứng chót trong một công ty. Mỗi tuần, ông đều trao 1,75 đô la cho tổ chức từ thiện. Đó là cách ông bắt đầu cuộc sống của mình: Quyên một nửa thu nhập cho tổ chức từ thiện, và sau đó tiết kiệm từng chút và tích lũy dần dần. Ông ấy luôn tìm cách phục vụ người khác. Nhiều người đã sử dụng những chiếc đèn lồng thắp sáng bằng dầu hỏa mà ông là một trong những người đầu tiên tìm ra cách sản xuất dầu hỏa. Về sau, khi động cơ đốt trong và ô tô xuất hiện, toàn bộ sự tập trung của ông dồn vào việc phục vụ mọi người bằng cách mang lại cho họ những sản phẩm họ cần để nâng cao chất lượng cuộc sống với mức giá thấp hơn. Ông sở hữu mọi thứ từ mỏ dầu, máy bơm, đường ống, đường ray, nhà máy tinh chế dầu, đến tất cả đường đến trạm xăng, vì thế ông có thể tiếp tục hạ giá mà không phải trả tiền cho người trung gian, có thể phục vụ được ngày càng nhiều người hơn với những mức giá thấp hơn và thấp hơn nữa. Hãy nhìn Henry Ford. Henry Ford đã cách mạng hóa thế giới sản xuất. Khi mọi người sản xuất theo nhóm, cần khoảng 300 giờ mới làm ra một chiếc xe hơi, bởi một nhóm sẽ làm mọi thứ. Nhờ phối hợp với các kỹ sư của mình, Ford đã phát triển một dây chuyền sản xuất, mà họ có thể sản xuất xe ô tô với cùng thời gian đó nhưng với giá 300 đô la thay vì 3.000 đô la. Những người thực sự tạo nên những chiếc xe, người lao động chân tay, người thuộc tầng lớp thấp nhất trong xã hội vào thời điểm bấy giờ, đều có đủ khả năng mua sản phẩm mà họ tạo ra. Henry Ford đã biến đổi toàn bộ thế giới, và đây chính là niềm vui lớn nhất của ông. Ông gần như trở thành người giàu nhất thế giới nhờ việc đưa xe hơi đến gần hơn với tất cả mọi người, điều mà trước đó chưa ai làm được. Xe hơi từng chỉ dành cho người giàu. Chúng từng chỉ dành cho người có thể chi tiêu bằng hai đến ba năm thu nhập trung bình của một người lao động chân tay bình thường. Nhưng giờ đây, ai cũng có thể mua được một chiếc ô tô. Về sau, một số người đưa ra ý tưởng trả trước một phần tiền. Nhờ đó, người lao động có khả năng mua xe hơi với số tiền thanh toán trước nhỏ và trả góp số còn lại trong hơn ba năm. Điều này đã thực sự thay đổi mọi thứ. Hãy nhìn vào Walmart ngày nay. Tôi thực sự yêu Walmart. Tôi đã làm việc cho họ vài năm trước và từng có dịp diễn thuyết trong hội nghị của họ. Tôi đã tổ chức hội thảo chuyên đề diễn ra trong một ngày cho một trong những đơn vị của họ. Trong buổi hội nghị thường niên của họ tại St. Louis, có 25.000 người tham gia và tôi đang diễn thuyết trước 2.000 quản lý, thì vị chủ tịch của Walmart bước vào, và tất cả mọi người đều dừng lại. Ông bước vào và phát biểu trong khoảng năm phút. Ông nói rằng Walmart có một triết lý rất đơn giản: Chúng tôi đại diện cho những người không dư dả và chi tiêu thường nhật chỉ dựa vào đồng lương hằng tháng, những người thực sự không có khoản tiền dư thừa và không được phép sai lầm khi mua hàng. Công việc của chúng ta là giúp họ đưa ra lựa chọn sản phẩm tốt nhất với mức giá thấp nhất có thể, nhờ tận dụng sức mua và đảm bảo vô điều kiện mọi thứ chúng tôi bán ra, để không ai phải băn khoăn về sản phẩm hay về việc trả thêm tiền cho một sản phẩm ở bất cứ đâu. Công việc của chúng tôi là giúp khách hàng nâng cao chất lượng và tiêu chuẩn cuộc sống của họ, để họ có thể mua những thứ họ muốn và cần thiết cho gia đình họ nhiều hơn. Ông đã nói như vậy với một niềm đam mê mãnh liệt! Mọi người trong khán phòng đều đứng dậy hoan hô. Đó chính là triết lý của Walmart: Phục vụ khách hàng của chúng tôi. Mọi thứ chúng tôi làm đều nhằm hạ giá xuống thấp hơn và thấp hơn nữa để khách hàng của chúng tôi có thể mua ngày càng nhiều hơn những thứ họ cần để cải thiện chất lượng cuộc sống của họ. Walmart, với 11.000 cửa hàng, là chuỗi cửa hàng bán lẻ thành công nhất trong lịch sử. Mọi người ở đó đều say mê với việc phục vụ người khác. Đó là cách người giàu có nghĩ. Khi những người giàu có xem xét sự phát triển của một khách sạn, bất động sản, cửa hàng, cổ phiếu, hay sản phẩm, họ luôn cân nhắc xem làm thế nào họ có thể phát triển sản phẩm hay dịch vụ đó để giúp mọi người nâng cao chất lượng cuộc sống. Đó là những gì họ luôn nghĩ đến. Đó là điều truyền cảm hứng cho họ và giúp họ nhận được phần thưởng xứng đáng. DAN: Hãy thảo luận về nhầm tưởng số 3: Anh không thể đạt được mục tiêu tài chính cá nhân, chứ chưa nói đến việc trở nên giàu có, nếu anh chỉ là người làm thuê. Liệu điều này có hàm ý rằng đại đa số những người không phải doanh nhân không có cách nào trở nên giàu có hay độc lập về mặt tài chính? Anh hãy nói xem, thông qua việc lên kế hoạch chi tiêu và tiết kiệm, mà bất cứ ai đều có thể trở nên tự do tài chính, ngay cả khi họ có thể phải bỏ ra nhiều thời gian hơn các chủ doanh nghiệp. BRIAN: Peter Lynch từng là nhà đầu tư thành công nhất trong lịch sử. Ông đã xây dựng quỹ đầu tư Magellan trị giá nhiều tỷ đô la và nghỉ hưu trong sự giàu có. Ông từng nói một câu tuyệt vời rằng, “Vấn đề không phải là chọn thời điểm thị trường, mà là ở lại thị trường bao lâu.” Nếu một người mua cổ phần trong quỹ tương hỗ hoặc quỹ chỉ số, họ đang thực sự trở thành những chủ sở hữu, vì mỗi cổ phần đại diện cho phần trăm quyền sở hữu của công ty đó. Mười phần trăm triệu phú tự thân đều là những người làm việc cho một công ty khác suốt cuộc đời. Họ làm việc thực sự chăm chỉ, được trả lương cao, và dần tiết kiệm được số tiền của họ. Họ tận dụng những chương trình phúc lợi hưu trí trả sau như quỹ hưu tư nhân 401(k)6 hay quỹ hưu cá nhân Roth. Họ đặt tiền vào đó và để nó phát triển. 6 Quỹ hưu tư nhân 401(k) là chương trình tiết kiệm hưu trí cho nhân viên ở các công ty tư nhân, theo quy định tại tiểu mục 401(k) của Bộ luật Thuế vụ Hoa Kỳ. Lý do mọi người không được nghỉ hưu trong sự độc lập tài chính là họ chi tiêu mọi thứ họ kiếm được. Sau đó, họ bắt đầu hơi tuyệt vọng, bởi họ không có nhiều tiền tiết kiệm ở độ tuổi 50; họ bắt đầu cố cải thiện tình trạng này bằng cách ném bất cứ đồng tiền nào mà họ có hoặc vay mượn được vào những kế hoạch làm giàu nhanh chóng, thứ chắc chắn thất bại. Người duy nhất kiếm được tiền từ các kế hoạch làm giàu nhanh là kẻ bán chúng. Vì vậy, nhiều người trở nên tuyệt vọng. Thực tế là, một người, nếu tiết kiệm được 100 đô la một tháng và đầu tư nó vào một quỹ chỉ số, hoặc quỹ tương hỗ được quản lý tốt, sẽ thấy rằng nó tăng trưởng khoảng 8-10% mỗi năm, và nếu giữ nguyên mức đầu tư 100 đô la mỗi tháng trong suốt thời gian làm việc, họ sẽ trở thành triệu phú. Những con số sau thật thú vị: Theo ước tính, cứ 100 người bắt đầu làm việc hôm nay, thì một người sẽ trở nên giàu có, bốn người sẽ khá giả, 15 người sẽ độc lập tài chính, và 80 người khác sẽ bị vỡ nợ hoặc vẫn phải làm việc đến tuổi nghỉ hưu. Tại sao vậy? Đó không phải vì họ không kiếm được đủ tiền. Cách đây vài năm, tôi có tổ chức một buổi hội thảo bàn về cách mọi người có thể trở nên giàu có nếu họ bắt đầu đủ sớm, làm việc chăm chỉ, ở lại muộn, v.v... Nhiều người tụ tập xung quanh tôi trong giờ giải lao để đặt câu hỏi, và một chàng trai trẻ đầy thách thức về tinh thần lẫn thể chất đã bước tới. Anh ấy hét lên, “Ông Tracy! Ông Tracy!”. Những người khác dần im lặng. Anh ấy hỏi, “Liệu tôi cũng có thể trở nên giàu có không?”. Tất cả ánh mắt đều dồn về phía tôi. Anh ấy tiếp tục nói, “Tôi làm việc trong một ngôi nhà tập thể. Và chúng tôi sửa chữa đồ nội thất. Họ trả tiền cho chúng tôi, và tôi tiết kiệm được 100 đô la mỗi tháng. Nếu tôi tiếp tục như vậy, liệu tôi cũng có thể trở nên giàu có?”. Tôi đã nhìn những con số này vào ngày hôm trước và nhận thấy rằng nếu anh tiết kiệm được 100 đô la mỗi tháng rồi đầu tư vào một quỹ tương hỗ suốt thời kỳ làm việc, nó sẽ có giá trị hơn 1 triệu đô la khi anh nghỉ hưu ở độ tuổi 60. Tôi đã lặp lại những con số đó. Tôi nói rằng, “Đúng vậy, nếu anh tiết kiệm được 100 đô la mỗi tháng trong suốt sự nghiệp, thì khi đến độ tuổi 60, anh sẽ là một triệu phú. Anh sẽ giàu hơn những người đang dạo chơi vòng quanh, lái xe khắp nơi và tận hưởng những chuyến du lịch nghỉ dưỡng. Nhờ chút lợi thế trong cuộc sống, anh sẽ trở thành triệu phú.” Hãy nhớ rằng, một người bắt đầu đủ sớm, tiết kiệm đủ lâu và không động đến số tiền đó, sẽ nhận được sự kỳ diệu của lãi kép – thời gian ở lại thị trường. Anh không cần phải sở hữu một công ty. Anh cũng không cần phải là doanh nhân. Anh chỉ cần đầu tư vào những cổ phiếu khác và trở thành chủ sở hữu nhỏ nắm giữ một phần nhỏ của nhiều công ty khác nhau đang được các chuyên gia điều hành và quản lý tốt, và anh cũng có thể đạt được độc lập tài chính. DAN: Sự nhầm tưởng tiếp theo là nhầm tưởng mà nhiều người tin nhất. Nhầm tưởng số 4 phát biểu rằng: Hầu hết người giàu đều sống trong các khu phố đắt đỏ, lái xe sang và chi tiêu phung phí. Chính công trình nghiên cứu đột phá trong cuốn sách The Millionaire Next Door đã đập tan nhầm tưởng này, khi chỉ ra rằng hầu hết người giàu sống trong những khu phố trung lưu, lái những chiếc xe tiêu chuẩn và thường căn cơ hơn. Vậy ai sống ở những nơi đắt đỏ và lái những chiếc xe sang trọng, đời mới? Hãy thảo luận về sự khác biệt giữa giàu sang và thu nhập. Làm thế nào anh cân bằng được hai cách sống này? BRIAN: Cuộc đời một người có ba thời kỳ: năm tháng học tập, năm tháng kiếm tiền, và năm tháng ao ước. Ngày nay, tất nhiên, chúng ta thường nói những năm tháng học tập sẽ kéo dài mãi mãi, nhưng những năm tháng kiếm tiền là lúc anh làm việc chăm chỉ và tích lũy tiền, rồi phát triển số tiền đó; sẽ đến một lúc, anh đạt được điểm tới hạn mà tại đó số tiền anh đem đầu tư tạo ra khoản lãi lớn hơn mức thu nhập của anh. Đó là điểm mà anh bắt đầu giảm tốc, và anh có thể giảm dần tần suất cũng như khối lượng công việc trong khoảng 5-10 năm. Sau đó, anh chỉ cần quản lý chi tiêu thật cẩn thận và sống thoải mái suốt quãng đời còn lại. Hầu hết các doanh nhân đều có chung đặc điểm là tham vọng, nói cách khác, họ đang cảm thấy đói, và lý do cho sự đói khổ đó đến từ việc họ có xuất phát điểm thấp trong xã hội. Họ nói rằng, bất cứ điều gì anh cảm thấy bị tước đoạt khi còn là đứa trẻ, sẽ trở thành thứ anh đấu tranh nhiều nhất khi lớn lên. Nó gần giống như kiểu nhu cầu bị thiếu hụt và đã được kiểm chứng trong tâm lý học. Họ thường cảm thấy bản thân rất thiếu thốn, nên rất khát khao kiếm tiền. Họ thấy rằng bắt đầu kinh doanh, bán hàng và làm việc chăm chỉ là cách để kiếm được nhiều tiền. Câu hỏi là, khi nào thì đến điểm tới hạn? Một người bạn của tôi làm trong lĩnh vực ngân hàng có kể về một vị doanh nhân đến ngân hàng vay tiền để mua một ngôi nhà đắt đỏ. Bạn tôi nói, anh luôn có thể biết được khi nào một người gặp rắc rối trong kinh doanh. Đó chính là lúc công việc kinh doanh bắt đầu thu được lợi nhuận và chủ doanh nghiệp nghĩ mình đã có thể hành động tùy tiện. Họ mua ô tô đắt tiền. Họ tài trợ vốn cho nó nhờ ngân hàng. Anh có thể nói rằng họ sẽ gặp rắc rối, bởi vì họ bắt đầu chi tiêu quá sớm. Sau đó, tất nhiên, sự suy thoái, trì trệ và thăng trầm trong nội bộ ngành hay trong nền kinh tế diễn ra. Công ty đi xuống, dòng tiền bị cắt giảm, và một người không thể trả các khoản thanh toán của họ. Công ty xe hơi lấy lại xe hơi và ngân hàng lấy lại ngôi nhà. Bên ngân hàng luôn yêu cầu phải có khoản tiền ký quỹ tối thiểu 20%, nên họ có lớp đệm đảm bảo rất tốt. Người bạn đó của tôi nói rằng, thời điểm để bắt đầu mua nhà, thời điểm để bắt đầu chi tiêu, là sau khi anh đã vượt qua được giai đoạn gian nan, đã đạt đến độc lập tài chính, và có thể bắt đầu đầu tư phần dư ra của anh. Điều này gợi nhớ một câu chuyện nhỏ về Warren Buffett. Khi ông trở về từ trường Đại học Columbia để chuyển tới Omaha, bang Nebraska, cùng với vợ, ông đã có khả năng mua một căn nhà nhỏ với giá khoảng 25.000 đô la vào thời điểm đó. Đến nay, ông ấy vẫn sống ở đó. Theo Forbes, ông là người giàu thứ ba thế giới, nhưng ông vẫn sống trong ngôi nhà nhỏ bé đó, và không hề có ý định chuyển đi nơi khác. Ông ấy nói, sẽ không phải ý hay nếu bạn tiêu tiền của bạn quá sớm, vì thế ông có thói quen đầu tư tất cả số tiền và không chi tiêu gì. Ngày nay, ông là nhà đầu tư thành công nhất trong lịch sử. Điều quan trọng là thời điểm anh có đủ tiền dành dụm, để nếu anh muốn mua một ngôi nhà, dù cả thế giới đang rơi vào tình trạng rất tồi tệ, anh vẫn có khả năng chi trả các khoản thanh toán, đáp ứng mức sống của anh và chu cấp cho gia đình anh. Nhưng nếu anh tiêu pha quá sớm, anh sẽ gặp rủi ro khi xảy ra biến cố và có nguy cơ trắng tay. DAN: Một nhầm tưởng khác có vẻ đang trở thành trào lưu – một minh chứng cho sự phát triển của nạn cờ bạc trên Internet – nhầm tưởng số 5 phát biểu như sau: Anh có thể giàu lên nhờ chơi xổ số hoặc trúng giải độc đắc. Brian ơi, tôi biết anh rất hào hứng với kiểu nhầm tưởng đặc biệt này. Chúng ta hãy thảo luận xem tại sao nhầm tưởng này lại lan rộng đến vậy và làm thế nào ta có thể sử dụng chính khoản chi tiêu cho những phương pháp chắc chắn trắng tay này để trở nên giàu có theo những cách đã được khoa học chứng minh. BRIAN: Căn bệnh "muốn có nhưng không chịu làm" cũng giống như ung thư vậy. Nó cám dỗ mọi người theo cách rất tinh vi, và một trong những thủ đoạn tinh vi đó là một đô la đổi lấy một tấm vé số. Việc đấu tranh hay cố gắng đạt được điều mong muốn mà không phải bỏ công sức sẽ hủy hoại tâm hồn con người. Nó là một căn bệnh tích tụ dần. Nó bắt đầu xói mòn tinh thần và thể chất của anh ta. Tôi vừa mới trở về từ Las Vegas. Tôi đã ở đó 2 ngày, trong hai sòng bạc. Tôi đi bộ ngang qua các sòng bạc nhiều lần trong một khoảng thời gian đáng kể, bởi vì họ thiết kế kiến trúc như vậy. Anh không thể vào phòng của mình mà không phải đi qua các sòng bạc, bàn đánh bạc và máy đánh bạc. Tôi không bao giờ dành chút thời gian nào cho Las Vegas, bởi vì nó trái với triết lý của tôi. Không phải vì vấn đề tiền bạc. Người thông minh không bao giờ chơi bạc, bởi họ biết đó là sai lầm cơ bản. Trước hết, không ai thắng được ở Las Vegas cả. Và nếu anh thắng, anh sẽ bị chụp hình và nhận lệnh cấm từ nhiều sòng bạc. Đây còn chả phải bí mật gì. Nếu anh là con bạc chuyên nghiệp và anh thắng, họ sẽ sớm chụp ảnh anh. Họ có thể ngồi đó, xem máy quay ẩn và theo dõi anh. Nếu họ thấy anh thắng tiền, họ bắt đầu kiểm tra những thông tin về anh ở tất cả các sòng bạc khác. Họ sẽ đối chiếu ảnh của anh tại các sòng bạc ở thành phố Atlantic, Monte Carlo. Nếu anh từng thắng tiền ở một sòng bạc, tất cả bọn họ đều chia sẻ thông tin đó với nhau. Không có ai thắng được tiền ở Las Vegas. Họ sẽ trì hoãn khoản tiền mà họ bị mất. Nếu anh may mắn, anh có thể kéo dài thời gian bị mất hết tiền trước khi anh rời đi. Nhưng nó vẫn hủy hoại tâm hồn của nhiều người. Tôi đã từng đọc một bài báo du lịch, trong đó tác giả viết, “Tôi đã tới địa ngục và trở về vào tuần trước, nơi đó có tên Las Vegas ở sa mạc Nevada.” Ông ấy còn nói rằng ông đã thấy “nhiều người đáng thương và bất hạnh cực độ, lôi thôi, dơ bẩn, hút thuốc phì phèo, đi những chiếc xe trông như máy kéo có mái che, mặc áo ba lỗ, lang thang qua sòng bạc, nhìn những người đàn ông và phụ nữ thừa cân đang đánh bạc rồi mất trắng khoản tiền mua đồ ăn, tiền đồ chơi và tiền mua xe đạp cho những đứa con của họ.” Ông viết tiếp, “Và trên khuôn mặt họ hiện lên vẻ tuyệt vọng, bởi vì họ đã bỏ tiền vào, và mất sạch. Họ không thể lấy lại được nữa.” Khi anh làm thủ tục nhận phòng tại một khách sạn ở đó, họ sẽ xử lý toàn bộ hóa đơn thanh toán bằng thẻ tín dụng của anh, bởi vì họ biết rất nhiều khách hàng sẽ không thể trả tiền khi rời đi. Một số bạn bè của tôi di chuyển từ Los Angeles đến Las Vegas trên chiếc Cadillac mới mua, và trở về trên chiếc xe buýt Greyhound cùng chiếc vali; chiếc Cadillac và mọi thứ khác đều biến mất. Những người thành công không tham gia bài bạc. Họ sẽ đo lường các rủi ro có ảnh hưởng lớn đến kết quả cuối cùng. Họ sẽ chọn một sản phẩm hay một dịch vụ, và thử nghiệm trên quy mô nhỏ. Họ lựa chọn đầu tư rất cẩn thận để xem hiệu quả ra sao. Họ nghiên cứu kỹ lưỡng để đảm bảo rằng số tiền họ đặt vào có khả năng thu hồi an toàn rất cao. Tiếp theo hãy nhìn vào những người đánh bạc ở các sòng bài. Luôn là những người nghèo. Và người nghèo thì đánh bạc liều lĩnh hơn người giàu. Những người ít có điều kiện tiêu pha nhất là những người chơi đủ trò bài bạc này. Khoản tiền họ thua là khoản tiền họ không thể gánh, vì nó đến trực tiếp từ tiền nuôi sống con cái họ. Nó là tiền họ không thể chi tiêu cho thực phẩm. Những người này đều không có tiền để dành. Không phải họ kiếm được 10.000 đô la một tháng và các chi phí chỉ ngốn 5.000 đô la, nên họ còn 5.000 đô la để chi tiêu. Mà thực ra, mỗi tháng, họ kiếm được 2.000 hoặc 3.000 đô la, nhưng các chi phí tốn tới 3.500 đô, nên họ không còn một đồng dư dả. Họ bắt đầu tuyệt vọng. Tôi phát hiện rằng những tay cờ bạc này không bao giờ thấy mình thua. Họ lúc nào cũng gần như thắng. Hãy hỏi một người, “Anh ở Las Vegas thế nào?”. Anh ta sẽ đáp, “Tôi suýt thắng được một ván lớn. Tôi gần như đã thắng.” “Nhưng tôi thấy anh bắt xe buýt đi làm hôm nay mà.” ”À phải, tôi đã cắm lại ô tô ở đó. Tôi phải đi lấy tiền mặt. Nhưng tôi đã suýt thắng lần đó. Tôi chắc chắn sẽ thắng lần tới.” Trước bữa sáng, họ thuyết phục bản thân mình tin vào một vài thứ hoàn toàn bất khả thi. Họ thức dậy và ăn sáng với ý niệm rằng mình sắp giành lại được số tiền đã bị mất đêm trước. Ý của tôi là, hãy tránh xa nhầm tưởng “không công vẫn đòi thụ lộc”. Khi tôi còn trẻ, mẹ tôi nói với tôi rằng, đừng trộm cắp. Đừng làm bất cứ điều gì sai trái. Đừng phạm tội. Hầu hết các bà mẹ đều nói với chúng ta như vậy. Tôi không bao giờ làm trái lời mẹ. Tôi nói với các con của tôi rằng, đừng làm điều gì gian dối. Không bao giờ được phạm tội. Tôi luôn đóng thuế đầy đủ, không thiếu một xu. Sở Thuế vụ Hoa Kỳ (IRS) kiểm toán khoản đóng thuế cá nhân của tôi cách đây vài năm, và sau bảy tháng kiểm tra, họ quay trở lại, và nói, “Những người mang họ Tracy là kiểu người mà IRS thực sự thích. Họ kiếm được thu nhập cao; họ đóng đầy đủ mọi khoản thuế theo yêu cầu. Họ không có một hành vi trốn thuế hoặc khoản khấu trừ thuế nào đáng ngờ cả. Họ tuyệt đối trung thực về tiền thuế.” Anh biết những lời sau đó là gì không? “Chúng tôi sẽ không bao giờ kiểm tra lại nữa.” Họ thực sự không tìm tôi để kiểm toán lại, vì họ hiểu rõ. Họ nhìn tờ khai thuế chuyên nghiệp của chúng tôi, và chúng tôi không hề mập mờ một đồng thuế nào cả. Chúng tôi ghét thuế như bao người khác, nhưng thật không đúng nếu cố giành lấy thứ gì đó ta muốn mà không chịu bỏ công sức, và thật không đúng nếu anh chiếm được khoản tiền mình không làm ra và không xứng đáng với nó. Đó là lý do tại sao tôi phản đối trò bài bạc dưới bất kỳ hình thức nào. Nó sẽ hủy hoại linh hồn của con bạc. 3CHI TIÊU THÔNG MINH DAN: Vì đang phác thảo các đặc trưng của ngành khoa học về tiền, chúng ta hãy bắt đầu từ một việc mà mọi người đều phải làm, bất kể giàu hay nghèo, thuộc tầng lớp thấp hạ lưu, trung lưu hay thượng lưu, đó là chi tiêu. Có rất nhiều người không tiết kiệm, không đầu tư, và một số hiếm hoi không vay nợ, nhưng tất cả đều tiêu tiền. Có câu: Chi tiêu hợp lý giải thích cho sự giàu có, và chi tiêu bất hợp lý giải thích cho việc thiếu thốn tiền bạc. Brian ơi, hãy bắt đầu bằng việc mô tả trải nghiệm của hầu hết mọi người về chi tiêu, mà thường là tiêu tốn vào thứ họ muốn mà không có chiến lược hay kế hoạch. Liệu anh có thể phác họa một ngày điển hình của một người bình thường, dù thuộc tầng lớp trung lưu, vẫn cảm thấy không có tiền để tiết kiệm và cách chi tiêu của họ, chẳng hạn như uống Starbucks hằng ngày, ăn trưa ngoài tiệm, hay đốt tiền vào quần áo không? Hãy so sánh với một người có kế hoạch hoặc chiến lược chi tiêu nhé. BRIAN: Hãy bắt đầu với việc tìm hiểu về nguồn gốc của chi tiêu. Chúng ta đều là sinh vật có thói quen, và tới 95% những gì chúng ta thường làm đều là theo thói quen. Chúng ta thực hiện nó thường xuyên, và chúng ta tự động làm mà không cần suy nghĩ. Khi anh còn nhỏ, cha mẹ thưởng cho anh một khoản tiền. Đó là khoản trợ cấp nhỏ để làm hoặc không làm gì đó. Tôi vẫn còn nhớ, cha tôi từng đề nghị tôi tiết kiệm 10% khoản trợ cấp ít ỏi đó khi tôi tầm 5 hoặc 6 tuổi. Điều đó, đối với tôi, là hơi quá đáng. Tôi muốn tiêu tiền, và tôi muốn tiêu vào việc mua kẹo. Vì thế, tôi thường lấy tiền trợ cấp của mình, đi cùng mẹ đến cửa hàng, và mua kẹo. Những gì tôi làm ở độ tuổi non nớt là gắn việc kiếm tiền với mua kẹo, với niềm vui, sự thích thú, và thỏa mãn. Điều này dễ hiểu thôi, bởi vì tiêu tiền làm cho chúng ta hạnh phúc. Khi lớn lên, chúng ta vẫn giữ cảm giác đó. Đặc biệt, khi chúng ta kiếm tiền, điều đầu tiên chúng ta nghĩ đến là mua gì với số tiền này? Tiêu số tiền này như thế nào để giúp tôi hạnh phúc? Và đó là lý do tại sao, nếu anh đi đến khu du lịch, anh sẽ thấy nơi đó bày bán đầy ắp những đồ nữ trang rẻ tiền, cùng với nhiều thứ ít giá trị khác. Hơn nữa, đường phố ở đó có dãy dài các cửa hàng bán đồ lặt vặt chất lượng thấp – những thứ được coi là hoàn toàn vô dụng. Họ bán những thứ đó cho du khách, những người dạo chơi trong những con phố, mua đồ nữ trang rẻ tiền và nhiều đồ vật có chất lượng thấp khác. Nếu anh hỏi một người xem họ sẽ làm gì nếu thắng xổ số, thì thứ đầu tiên mà họ nhắc đến sẽ là thứ mà họ sẽ định mua. Anh cần thay đổi cách tư duy về chi tiêu. Thay vì nghĩ, “Nếu có tiền, tôi sẽ làm cho mình hạnh phúc bằng việc chi tiêu nó”, thì anh nên nghĩ, “Nếu có tiền, tôi sẽ làm cho mình hạnh phúc bằng cách tiết kiệm nó”. Mọi người thường làm gì khi có tiền? Một ngày nọ, tôi ghé nhà hàng dùng bữa. Nhà hàng chật cứng người, và điều này làm tôi không thể hiểu nổi, vì đó là đêm thứ Tư. Hóa ra, đó là ngày trả lương, nên nhà hàng đầy ắp khách, những người vừa mới nhận lương qua tài khoản ngân hàng. Họ đến các nhà hàng đắt tiền, và chi tiêu hào phóng. Hiện tượng này xuất phát từ mối liên quan giữa việc nhận tiền và việc chi tiêu nó. Chúng ta ngày càng ít suy nghĩ khi chi tiêu. Rất nhiều hoạt động chi tiêu đều chỉ tùy hứng. Vô số giao dịch mua hàng diễn ra mà người mua không hề suy nghĩ gì. Đó là lý do tại sao các cửa hàng được thiết kế, sắp xếp rất bắt mắt những món đồ anh không cần hoặc không muốn, tại quầy tính tiền, để kích thích mua sắm. DAN: Brian ơi, theo anh, sự khác biệt giữa chi tiêu hợp lý và bất hợp lý là gì? Ví dụ, chi tiêu hợp lý là chi tiêu vào những thứ có sự gia tăng về mặt giá trị, những thứ mà anh có khả năng mua được, đồng thời giúp anh đạt được sự giàu có trong dài hạn. Còn chi tiêu bất hợp lý thì ngược lại. BRIAN: Thời gian và tiền bạc có thể được chi tiêu hoặc đầu tư. Nếu anh tiêu dùng nó, nó sẽ biến mất mãi mãi. Nếu anh đầu tư nó, anh sẽ nhận được một khoản lợi nhuận từ nó. Đây lại là những thứ mọi người không hiểu được. Anh càng đầu tư nhiều thời gian vào việc cải thiện bản thân và khả năng kiếm tiền của mình, anh càng kiếm được nhiều tiền hơn; và càng tích lũy được nhiều hơn, nó sẽ càng sản sinh thêm nhiều hơn. Trong vấn đề tiền bạc, có một định luật về bảo toàn tiền. Định luật này phát biểu rằng, vấn đề không phải là anh làm được, mà là anh giữ được bao nhiêu – điều này sẽ quyết định tương lai tài chính của anh. Chi tiêu hợp lý thì anh sẽ nhận được lợi tức đầu tư, anh giữ gìn nó, anh tiết kiệm nó. Chi tiêu bất hợp lý xảy ra thì đồng tiền biến mất mãi mãi, và anh không bao giờ thu lại được. DAN: Doanh nhân Jim Rohn đưa ra triết lý về sự giàu có như thế này, “Hãy làm những việc cần làm càng nhanh càng tốt, thì bạn mới có thể làm những việc bạn muốn bao lâu tùy thích”. Nói cách khác, hãy thiết lập kỷ luật cho bản thân để làm những việc tưởng chừng khó khăn trong ngắn hạn, để anh có thể sống cuộc đời anh muốn trong dài hạn. Hãy áp dụng quan niệm này vào chi tiêu. Theo đó, khi còn trẻ, anh nên chi tiêu tằn tiện và có chiến lược; rồi, trong phần còn lại của cuộc đời, anh sẽ đủ giàu có để chi tiêu theo ý muốn. Nếu không thiết lập kỷ luật chi tiêu khi còn trẻ, thì anh sẽ phải vật lộn với việc chi tiêu mọi thứ anh kiếm được trong suốt phần đời còn lại. BRIAN: Rich DeVos, một trong những sáng lập viên của Amway, cũng nói điều tương tự: Anh làm được rất nhiều điều mà anh không muốn làm – thức dậy vào buổi sáng, làm việc vất vả cả ngày dài, học hành vào các buổi tối, hay nâng cấp kỹ năng của anh. Anh làm những việc này trong một thời gian dài để có thể làm tất cả những điều mà anh muốn làm trong phần còn lại của cuộc đời. Nhiều người vừa muốn giữ lại bánh vừa muốn được ăn bánh. Họ lúc nào cũng muốn vui chơi, vui chơi và vui chơi. Anh sẽ nghe thấy họ tuyên bố rằng, “Làm việc cần phải vui và cuộc sống cũng cần phải vui!” Denis Waitley, nhà văn kiêm diễn giả, đưa ra một nhận xét tuyệt vời rằng hầu hết mọi người dành cả đời vào những thứ giúp họ thư thái chứ không phải những thứ giúp họ đạt được mục tiêu. Albert Grey, một nhà tư tưởng đã dành hơn 12 năm truy tìm bí quyết thành công và phát hiện ra rằng nó rất giản đơn. Ông nói, những người thành công thường tạo thói quen là làm những việc mà người không thành công không thích làm. Vậy những người không thành công không thích làm gì? Chà, cũng giống việc những người thành công không thích thôi. Người thành công cũng không thích dậy sớm, vận động, lên kế hoạch ngày, làm việc chăm chỉ, nâng cao kỹ năng; nhưng họ vẫn làm vì họ hiểu đó là cái giá của sự thành công. Nếu anh không trả giá, nếu anh không gieo trồng, anh sẽ không gặt hái được thành quả. Nếu anh không trả giá cho sự thành công, anh sẽ không bao giờ có nó. Có một bi kịch mang tên do dự, trong đó người ta dự định làm việc gì đó. Họ lúc nào cũng sắp làm, nhưng họ lại do dự và trì hoãn. Cuối cùng, họ chẳng làm gì cả. Chúng ta đều hiểu rằng việc chi tiêu diễn ra vô thức. Vậy, làm thế nào để anh ngừng chi tiêu? Trước hết, hãy bắt đầu theo dõi các khoản chi tiêu của anh. Nếu anh sử dụng dịch vụ gom nợ, điều đầu tiên họ yêu cầu anh sẽ là liệt kê ra một danh sách đầy đủ các khoản chi tiêu, chi tiết tới từng xu. Anh phải viết. Đừng chi tiêu, qua thẻ tín dụng hay tiền mặt, mà không ghi chép lại. Có một số ứng dụng rất hữu ích trong việc giúp anh theo dõi các khoản chi tiêu. Thực tế là, dành thời gian suy nghĩ xem mình đang chi tiêu bao nhiêu sẽ khiến anh càng có ý thức hơn về số tiền mình đang tiêu. Kết quả sẽ thường là anh không chi tiêu nữa. Một điều nữa mà tôi hiểu được khi bắt đầu nghiên cứu các triệu phú tự thân là họ không bao giờ mua xe mới. Tôi từng thảo luận chủ đề này với một số người giàu trong bài giảng của tôi. Họ mua chiếc xe hơi hai năm tuổi, chất lượng tốt, kiểu dáng tuyệt vời, đã được thợ máy kiểm tra, và họ đi nó suốt. Những chiếc xe này sụt giá rất nhiều, vì vậy anh có thể mua chiếc xe 55.000 đô với giá 35.000 đô. Giả sử anh tiết kiệm được 10.000 đô la khi mua một chiếc xe mới. Nếu anh đầu tư 10.000 đô la này vào bất động sản hoặc vào một quỹ chỉ số tốt, trong 3-5 năm, đôi khi là 10 năm anh vẫn lái chiếc xe đó, thì số tiền anh tiết kiệm ban đầu có thể tăng lên gấp đôi hoặc gấp ba. Nếu anh bắt đầu thường xuyên áp dụng kiểu đầu tư này, anh sẽ thu được kết quả rất đáng kinh ngạc. Chi tiêu sao cho đồng tiền phát triển, đầu tư sao cho đồng tiền sản sinh, thế mới là chi tiêu hợp lý. Chi tiêu bất hợp lý thì đồng tiền sẽ một đi không trở lại. DAN: Brian ơi, nếu nghiêm túc trong việc tạo dựng sự giàu có, thì người ta nên loại bỏ những khoản chi nào khỏi danh sách chi tiêu? BRIAN: Trước hết, anh hẳn đã thấy rằng có các loại chi phí cố định như tiền thuê nhà, tiền bảo hiểm xe hơi, v.v… Vì thế, anh nên sống ở một ngôi nhà nhỏ hơn. Như Warren Buffett, ông sống trong căn nhà nhỏ khi ông mới bắt đầu sự nghiệp, và ông vẫn sống ở đó tới tận hôm nay. Nếu Warren có thể làm được, anh cũng có thể làm được. Sống trong căn nhà nhỏ hơn sẽ giúp anh trả tiền thuê nhà thấp hơn. Còn phải tính cả định luật Parkinson: Chi phí sẽ tăng lên tương ứng với thu nhập. Hầu hết mọi người, khi thu nhập tăng lên, sẽ chuyển đến nơi ở to lớn và tốn kém hơn. Vì to lớn hơn, nên họ sẽ mua nhiều đồ nội thất hơn, mà 80% số đó họ không bao giờ động đến. Hãy ở một nơi nhỏ hơn, lấy riêng khoản tiền tăng thêm để tiết kiệm hoặc đầu tư. Hãy nhớ rằng: Chỉ những đồng tiền có thể sản sinh ra tiền mới đem lại lợi nhuận cho anh. Tôi cũng có một trải nghiệm quý giá nhiều năm trước, hồi những năm 80. Khi đó, tôi đang làm một dự án phát triển bất động sản, cũng tương đối nhỏ, thì một khu chung cư phức hợp lớn đang rao bán căn hộ. Anh có thể mua một căn với giá 1.250 đô la, và trả góp hằng tháng. Tôi đến xem: 1.250 đô cho một căn hộ trị giá 30.000- 35.000 đô. Tôi không biết gì nhiều về đầu tư, nhưng tôi có thể kiếm được 1.250 đô la, bằng cách ứng trước trên thẻ tín dụng. Tôi mua một căn hộ cỡ nhỏ, và rồi tôi phát hiện ra người ta cho thuê căn hộ trong khu này với giá khoảng 275 đô la một tháng. Tôi rao tin cho thuê căn hộ trên tờ báo địa phương với giá 250 đô la một tháng, và ngay lập tức có người tìm tới. Đó là một phụ nữ với hai đứa trẻ. Cô ấy trả cho tôi 250 đô la một tháng, trong khi đó tôi đang phải trả góp 275-300 đô la một tháng. Vì vậy, tôi bị lỗ trong 6 tháng đầu tiên; sau đó, tôi đã nâng tiền thuê lên, và cuối cùng tôi cũng hòa vốn. Sáu tháng sau, tôi tăng giá thuê nhà lên 25 đô la. Chẳng bao lâu sau, tôi nhận ra cô ấy đang trả tiền thuê 350-375 đô la một tháng. Cô ấy ở đó hết năm này qua năm khác. Cô ấy thực sự ở lại đó để nuôi dạy con cái của mình. Chúng đến trường rồi đi học đại học nữa. Cô ấy ở đó trong 10 năm, và tôi vẫn định kỳ tăng tiền thuê nhà. Đến lúc, tôi thu được 1.250 đô la lợi nhuận từ căn hộ đó. Hãy nhớ lại: Số tiền đầu tư ban đầu của tôi chỉ là 1.250 đô la! Khi cô ấy thông báo rằng lũ trẻ của cô ấy đã trưởng thành và hoàn thành việc học nên cô ấy sẽ dọn đi, tôi đã bán căn hộ đó. Ngẫm lại, việc bán căn nhà có lẽ là một trong những điều ngu xuẩn nhất mà tôi từng làm. Căn hộ đã mang lại cho tôi 100% lợi nhuận ròng mỗi năm, trên khoản đầu tư ban đầu 1.250 đô la. Tận 100% lợi nhuận. Nếu hằng năm, tôi mua một căn hộ như thế thì sao? Khi anh mua nhà, ngân hàng sẽ cho anh vay nhiều tiền hơn để mua thêm căn hộ, vì anh đã cho thấy thành công trong lĩnh vực này. Đó là một trong những việc mà Warren Buffett đã làm. Ông đã mua các công ty, để chúng sản sinh ra dòng tiền cho ông. Ông lại tận dụng dòng tiền này để mua thêm công ty. Cứ như vậy, giờ đây, ông ấy tạo ra 25 tỷ đô một năm. Tức là 2 tỷ đô một tháng mà ông ấy có thể tận dụng cùng với tiền hỗ trợ từ ngân hàng. Các ngân hàng sẽ cho ông vay bao nhiêu cũng được. Nếu tôi làm như vậy, tôi đã sở hữu cả tòa chung cư, nhưng tôi khi đó còn quá trẻ đến nỗi không thể nghĩ được thế. Chẳng ai có thể. Nếu anh thấy một căn hộ đang rao bán, và chắc chắn rằng sạch sẽ, gọn gàng, và thỏa thuận thanh toán thành công, anh có thể bắt đầu đế chế bất động sản của riêng mình. DAN: Đó là một cách tuyệt vời để chi tiêu vào những thứ quan trọng có thể đem lại lợi nhuận. Brian ơi, nếu nghiêm túc tạo dựng sự giàu có, những khoản chi nào ta nên xem xét đưa vào kế hoạch chi tiêu, như giáo dục thường xuyên, trang thiết bị chất lượng cao để tăng hiệu suất? BRIAN: Earl Nightingale có nguyên tắc thế này: Đầu tư 3% thu nhập vào bản thân bằng cách nâng cấp các kỹ năng của mình. Ngay khi biết nguyên tắc này, tôi đã bắt đầu thực hành nó, và bây giờ tôi có thể tuyên bố rằng không có hạn định về số tiền anh có thể chi tiêu để nâng cấp kỹ năng của bản thân. Mấy năm trước, tôi đã chi ra hàng ngàn đô la. Tôi lấy được tấm bằng MBA cho cấp quản lý sau hai năm học tại một trường đại học. Tốn hàng ngàn đô la, nhưng là một khoản đầu tư tuyệt vời. Khoản đầu tư tốt nhất, hay khoản chi tiêu tốt nhất, chính là khoản tiền anh nâng cấp chính bản thân anh. Hãy chi tiêu để bản thân trở nên giá trị hơn. Nếu ai đó đến gặp anh với một khoản đầu tư và nói, “Tôi đề nghị anh đầu tư cái này. Có vẻ là cơ hội đầu tư tốt đấy. Có tiềm năng rất lớn đấy.” thì sao? Anh nên xem xét rồi trả lời rằng, “Không, tôi sẽ không đầu tư vào đó đâu. Tôi nghĩ nó chẳng có tương lai. Tôi không nghĩ đó là khoản đầu tư thành công, chỉ lãng phí thôi.” Thế nếu là đầu tư vào chính bản thân anh thì sao? Trong vô thức, những người không chịu đầu tư vào bản thân mình sẽ luôn cảm thấy họ không xứng đáng, tự nghi ngờ và thiếu niềm tin vào bản thân họ. Họ quyết định rằng họ không xứng, và đầu tư vào bản thân chỉ lãng phí tiền bạc mà thôi, vì họ không có tương lai. Anh luôn có thể xác định được những ai không bao giờ có ý định đầu tư vào bản thân họ. Nhiều người sẽ bị sốc khi nghe vậy. Nhưng đó là sự thật. Vì nó là một trong những phát hiện vĩ đại nhất mọi thời đại: Anh chỉ có thể nhận biết niềm tin của mình là gì bằng cách nhìn vào những gì anh làm. Đặc biệt là những gì anh tự do lựa chọn. Anh luôn chọn những thứ tương thích với niềm tin sâu thẳm trong tâm hồn và với những giá trị mà anh theo đuổi. Vì vậy, nếu anh được chọn mua cốc latte hay đĩa CD, chọn đi du lịch hay tham dự hội thảo chuyên đề, anh luôn chọn thứ khiến anh vui vẻ, những hoạt động thư giãn; khi đó, anh đang tuyên bố những lựa chọn kia quan trọng hơn sự trưởng thành và phát triển của bản thân anh. Bất cứ việc gì anh làm đi làm lại đều trở thành thói quen. Ngay khi anh quen với việc không đầu tư vào bản thân, nó sẽ trở thành vô thức. Thực sự, nếu có ai đó đến gặp anh và bảo, “Anh mua cuốn sách này đi – bìa cứng, giá chỉ 12 đô la thôi”, có khi anh sẽ tức giận với cái người đang gợi ý anh rời khỏi vùng an toàn đó. Anh sẽ tức điên lên và chống đối. Anh sẽ thực sự mất thiện cảm với những ai đề nghị anh nên đầu tư vào chính mình. Louise Hay, tác giả dòng sách về tinh thần, từng nói vấn đề lớn nhất của nhân loại là luôn cảm thấy “Tôi không đủ tốt. Đầu tư vào bản thân vô ích thôi, vì tôi không đủ tốt, và cũng chẳng tác dụng gì vì tôi không có tương lai.” Anh có thể biện minh, “Tôi không bao giờ nói vậy.” Không nói nhưng anh đã vô thức thực hiện rồi. Nếu anh là một cổ phiếu, liệu anh có đầu tư cho bản thân không? Anh có mua chính mình không? Điều này cũng gây sốc không kém. Anh có nghĩ mình là loại cổ phiếu có khả năng tăng trưởng không? Anh có phải loại cổ phiếu mà đến góa phụ và trẻ mồ côi cũng sẵn sàng đầu tư, vì giá trị của anh luôn tăng, hay không? Hãy nghĩ về điều đó. Anh có phải loại cổ phiếu tăng trưởng không? Anh có phải là loại cổ phiếu khiến tôi phải thốt lên rằng “Tôi sẽ đầu tư vào anh. Tôi sẽ trở nên giàu có, vì giá trị của anh đang tăng lên rất nhiều” không? DAN: Đối với doanh nhân và chủ doanh nghiệp nhỏ, những sai lầm lớn nhất khi chi tiêu mà họ mắc phải là gì? BRIAN: Quy tắc số 1 khi mở doanh nghiệp là dự trữ tiền mặt, dự trữ tiền mặt và dự trữ tiền mặt. Tức là, không bao giờ mua khi có thể thuê. Không bao giờ thuê dài hạn khi có thể thuê ngắn hạn. Không bao giờ thuê ngắn hạn khi có thể mượn. Không bao giờ mượn dài hạn nếu có thể mượn ngắn hạn. Cho nên, anh đừng bao giờ thuê văn phòng dài hạn, thuê ngắn hạn thôi, dù có lúc phải chuyển đi. Anh mua đồ nội thất cũ. Tôi nhận ra rằng, đồ nội thất cũ giá chỉ 10 xu trên mỗi đô la, và rất thích hợp với hoàn cảnh của anh. Nhiều năm trước, tôi được mời thành lập hệ thống phân phối cho một dòng xe Nhật Bản tại miền Tây Canada. Tôi phát hiện được nhiều kho hàng tại khu vực đồ cũ. Tôi đã mua đồ đạc cũ, mở văn phòng, phân lô và mọi thứ. Rồi đối tác Nhật Bản đến từ Tokyo sang tham quan cơ sở vật chất. Người quản lý bước vào và nói, “Aha! Văn phòng giá rẻ. Đồ nội thất giá trẻ. Tôi thích. Văn phòng giá rẻ, lợi nhuận lớn. Chúng tôi thích cách các nhà phân phối của chúng ta tạo ra lợi nhuận lớn.” Ông ta nói ông ta thường thấy các nhà phân phối lúc nào cũng ra ngoài, vay một núi tiền, thuê văn phòng mới tinh, trả lương rất cao cho nhân viên cấp cao, sắm mới mọi thứ. Ông ta còn nói hầu hết họ đều phá sản trước khi tạo ra đủ lợi nhuận. Ông khẳng định, “Văn phòng giá rẻ, lợi nhuận lớn.” Tôi không bao giờ quên lời này. Đây là bài học rất quan trọng mà nhiều công ty đã học được trong sự kiện bong bóng dot-com1. Họ chọn văn phòng làm việc hạng nhất. Họ mua mới mọi thứ hạng sang, và sau đó họ cạn tiền. 1 Bong bóng dot-com, hay bong bóng Y2K, diễn ra khi cổ phiếu của các công ty công nghệ cao, nhất là các công ty mạng, được đầu cơ. Bong bóng dot-com đã khiến kinh tế Mỹ thịnh vượng một cách bất thường trong giai đoạn 1995-2000 nhưng khi nó phát nổ, kinh tế Mỹ nhanh chóng rơi vào suy thoái. Điều anh cần làm là bảo toàn tiền mặt. Nếu có thể tránh chi tiêu, đừng dùng đến nó. Hãy tiết kiệm tiền. Hãy mượn hoặc thuê trong ngắn hạn. Hỏi mượn bạn bè nếu cần, nhưng hãy giữ tiền mặt, vì tiền mặt quan trọng như Ôxy với bộ não. Nếu có tiền mặt, anh có thể sống sót. Nếu hết tiền, doanh nghiệp sẽ như con tàu bị lật trên đại dương và lập tức chìm nghỉm. Một doanh nghiệp tuổi đời gần 100 năm vẫn có thể sụp đổ nếu hết tiền mặt. Vì thế, hãy dự trữ tiền mặt. Đó là những bài học xương máu mà tôi đúc kết được, từ tất cả những sai lầm tương tự mà tôi đã mắc phải. DAN: Brian ơi, tổng kết lại, có ba nguyên tắc hoặc bí quyết không được quên khi nhắc tới chủ đề chi tiêu này đúng không? BRIAN: Hãy ghi chép lại. Điều quan trọng nhất là lập kế hoạch tài chính cho bản thân anh, và liệt kê thật chi tiết. Ghi chép những khoản chi tiêu tốn kém và xem xét lại. Nhiều công ty đi đến bờ vực phá sản vì họ đánh giá thấp phí tổn đồ đạc thiết yếu, nguyên liệu thô thiết yếu, nhân sự thiết yếu, chương trình quảng cáo thiết yếu; họ không thẩm tra chi tiêu. Thẩm tra chi tiêu là một trong những cụm từ yêu thích của tôi, sau những sai lầm chi tiêu mà tôi mắc phải trong kinh doanh. Nhiều người đưa ra những cam kết và quyết định tài chính khi không có đủ thông tin. Hãy lập kế hoạch tài chính tỉ mỉ. Tuân thủ kế hoạch sẽ buộc anh phải suy nghĩ rất cẩn thận. Lập ngân sách là việc mà nhiều doanh nhân ghét làm, bởi họ không phải những người tỉ mỉ. Thế thì, hãy tìm người giúp anh làm việc này. Thuê kế toán viên, những người tỉ mỉ, để liệt kê mọi thứ anh có thể cần đến khi kinh doanh. Sau đó, khi đi mua sắm, hãy kiểm tra rồi gọi cho kế toán viên, rồi lại kiểm tra; hãy bảo đảm chi phí thấp nhất có thể. Thứ hai, hãy trì hoãn các khoản chi tiêu lớn càng lâu càng tốt. Nếu anh thấy cần một dàn máy tính hoàn toàn mới, hoặc tương tự, hãy trì hoãn trong một tháng, thậm chí hai tháng, vì không khẩn cấp đâu. Anh sẽ thấy người kinh doanh máy móc sẽ làm mọi thứ có thể để khiến anh vội vàng mua chúng. Nếu máy móc được bán theo hình thức ủy thác, họ sẽ nhận được hoa hồng khi anh hoàn tất thanh toán. Xét cả khía cạnh tài chính cá nhân lẫn kinh doanh, anh sẽ thấy nếu anh chờ thêm 30 ngày trước khi ra bất kỳ quyết định nào, anh có thể sẽ không thực hiện nó nữa. Chúng ta đều có khuynh hướng nghĩ rằng, “Ồ, thật là ý tưởng tuyệt vời: Xe mới, máy tính mới, hay thứ gì đó mới.” Nhưng nếu chờ 30 ngày trước khi ra quyết định, anh sẽ phải ngạc nhiên khi quyết định của mình tốt đến mức nào, và hiếm khi quyết định mua ra sao. Tôi thường định mua thứ nọ thứ kia, và dành 30 ngày trước khi thực hiện. Đến lúc ấy, tôi còn không nhớ nổi tại sao tôi lại thích mua thứ đó đến thế. Vì vậy, hãy dành thời gian trì hoãn mua sắm càng lâu càng tốt. Thứ ba, hãy tìm lời khuyên từ những người có kinh nghiệm hoặc những người thực sự cẩn trọng trong vấn đề tiền bạc. Tôi có vài người bạn cực kỳ thận trọng trong vấn đề tiền bạc. Khi tôi hỏi họ về khoản chi tiêu nào đó, họ đưa ra đủ loại ý tưởng tuyệt vời. Đừng mua cái này. Đừng mua ở chỗ này. Mua ở chỗ kia sẽ rẻ hơn. Anh không thực sự cần nó đâu. Anh có thể mượn ở đây. Anh có thể làm việc khác ở đó. Đó là tất cả những cách có thể trì hoãn chi tiêu cho đến khi anh buộc phải chi tiêu. Sẽ đến lúc, anh trở nên giàu có và số tiền tiết kiệm từ các khoản chi tiêu này sẽ lớn hơn chính khoản chi đó rất nhiều. 4QUẢN LÝ NỢ NẦN Một lĩnh vực khác của khoa học về tiền bạc mà đại đa số mọi người đã trải qua là nợ. Nợ nần xảy ra phổ biến đối với mọi mức thu nhập và mọi độ tuổi. Nhưng bạn có biết rằng không phải tất cả các khoản nợ đều như nhau không? Bạn có biết giới giàu có mắc nhiều loại nợ hơn rất nhiều so với đa số những tầng lớp trung lưu và tầng lớp thấp hơn không? Cách tốt nhất để thoát khỏi vòng xoáy nợ nần là gì? DAN: Brian ơi, hãy bắt đầu bằng những trải nghiệm của anh về nợ nần khi còn là thanh niên trẻ và khi đã trở thành chủ doanh nghiệp giàu có. Anh đã từng phải vật lộn với nó chưa? Nếu có, anh đã thoát ra khỏi vòng xoáy nợ nần đó như thế nào; và nếu không, anh áp dụng những nguyên tắc sống nào để không bị vướng bận nợ nần? BRIAN: Khi rời trung học, tôi không được tốt nghiệp, nên chỉ có thể làm công việc chân tay. Vì thế, tôi không gặp vấn đề gì với nợ nần, bởi chẳng có ai cho tôi vay mượn. Tôi còn không có thẻ tín dụng. Tôi chỉ có đủ tiền gửi trong ngân hàng để chi trả phí tổn sinh hoạt của mình, và tôi phải thanh toán mọi thứ bằng tiền mặt. Tôi đã làm việc trong nhiều năm. Tôi du lịch bụi ở nước ngoài, ghé thăm 80 quốc gia bằng cách đi nhờ xe, bắt xe buýt và xe tải, dừng lại làm việc để kiếm đủ tiền đi tiếp. Ngay cả khi bắt đầu kiếm nhiều hơn nhờ bán hàng, tôi vẫn hầu như chi trả bằng tiền mặt, bởi tôi làm việc ở nước ngoài vào thời điểm đó. Tôi có tiền trong ngân hàng, nhưng không hề vướng bận nợ nần. Thời gian qua đi, và tôi bắt đầu mở doanh nghiệp. Tôi đùa rằng khi bắt đầu mở doanh nghiệp, anh sẽ phải học cách bán hàng một lần nữa. Tôi bán nhà, bán xe, bán đồ đạc, bán mọi thứ tôi sở hữu, cộng thêm toàn bộ khoản tiết kiệm mà tôi đã tích lũy được. Tôi thuê một văn phòng nhỏ để làm việc, vì khi mới bắt đầu khởi nghiệp, trừ khi anh có rất nhiều tiền, anh luôn có nguy cơ thất bại. Có một quy luật là mọi thứ đều tốn gấp đôi và lâu gấp ba so với anh tưởng; vì vậy, nếu anh nghĩ mình sẽ hòa vốn trong 6 tháng, thì có thể sẽ mất tới 12 tháng. Mọi thứ sẽ tốn kém hơn, vì nhiều thứ anh không tưởng tượng tới. Ngay cả khi anh lập ngân sách tốt vô cùng, dự phòng từ 50-100%, anh vẫn có thể sẽ bị sốc. Cuối cùng, tôi chìm sâu vào nợ nần. Tôi đã mượn một ít tiền. Tôi đã đặt mua sắm dịch vụ: In ấn, thư từ, nội thất văn phòng, dịch vụ công và dịch vụ từ nhiều công ty khác nhau; tôi còn nghĩ mọi thứ sẽ tốt đẹp thôi. Tôi dùng sạch số tiền, nên tiền một đi không trở lại. Khi đó, các nhà cung ứng bắt đầu gõ cửa văn phòng tôi đòi thanh toán, gọi điện cho tôi, quấy rầy tôi, đủ thứ chuyện. Những cuộc gọi, những tệp hóa đơn, những lời quấy rầy liên tục diễn ra khiến tôi hoảng loạn. Chúng tôi chẳng có xu nào mà mua gì cả. Chúng tôi sống trong căn hộ thuê ngắn hạn, và tôi lúc nào cũng hoảng hốt, vì thế tôi phải cắt giảm chi tiêu. Khi khởi nghiệp, rất nhiều người vay bạn bè, người thân, tận dụng tối đa mọi thẻ tín dụng. Trong trường hợp của tôi, tôi phải mượn tiền bằng cách thế chấp xe cùng với tất cả những thứ khác. Tôi ngồi xuống và nhận ra mình sẽ phải tìm cách thoát khỏi nợ nần hoặc chấp nhận phá sản. Tôi nghĩ nếu tôi làm việc thật chăm chỉ, tôi có thể vượt qua. Việc đầu tiên là phải đến ngân hàng. Nợ của tôi khi đó giống khoản vay quay vòng một năm, tôi phải thanh toán hết. Tôi vay ngân hàng khi còn nhà để ở. Bấy giờ, tôi chẳng còn nhà, nhưng vẫn nợ ngân hàng. Sau đó, tôi đọc được rằng, nếu anh trả lãi vay đúng hạn, thì khoản vay của anh sẽ không bị ngân hàng tính là nợ xấu. Họ sẽ không báo cáo nợ xấu, nên sẽ không tịch thu bất động sản hoặc tài sản của anh. Tôi đến gặp người quản lý tài khoản vay của tôi, và nói, “Này, tôi không thể thanh toán được nợ gốc, nhưng có thể trả lãi cho đến khi công ty của tôi phục hồi, mà chắc chỉ khoảng 3-6 tháng tới thôi.” Anh ấy đáp, “Chỉ cần anh trả được lãi, Brian, thì không hề gì, vì nó là một khoản vay tốt.” Rồi tôi đến gặp các chủ nợ và thương lượng, “Này, tôi nợ anh số tiền này mà giờ không trả hết cho anh được, nhưng tôi sẽ trả anh một khoản nhỏ mỗi tháng để thể hiện thiện chí của tôi, và tôi cam kết sẽ trả anh toàn bộ trong 6-12 tháng tới, nếu anh chấp nhận đồng hành cùng tôi.” Tất cả bọn họ đều đáp, “OK, nếu anh trả chúng tôi một khoản thiện chí hằng tháng, chúng tôi sẽ đồng hành cùng anh trong một thời gian dài.” Tôi nợ tới hàng ngàn đô la, nhưng tôi được cho phép trả 50 đô la mỗi tháng. Tôi quay trở lại làm việc, và trong vòng 6 tháng tiếp theo, tình hình kinh doanh được cải thiện. Tôi đã có thể trả hết nợ nần và đưa mọi thứ vào guồng quay ổn định. Đó là một năm rưỡi khủng khiếp với tôi, nên tôi không bao giờ để mình nợ nần nữa. Đó là lý do tại sao tôi nói nhận định này thật vô nghĩa, “Đừng tiêu tiền của mình khi khởi nghiệp”, bởi vì khi bắt đầu, bạn sẽ phải tiêu đến từng xu mà bạn có thể xin, vay, mượn, cùng mọi thứ mà bạn sở hữu hoặc tích lũy được. Theo tạp chí Forbes, 80% số doanh nghiệp mới bị phá sản trong vòng hai năm. Họ kết luận, mọi doanh nghiệp mới đều phải chạy đua với thời gian: Anh có thể thu được lợi nhuận trước khi cạn tiền không? Trong kinh doanh có một quy tắc: Mất tới hai năm mới hòa vốn, hai năm nữa để hoàn trả được số tiền anh vay mượn trong hai năm đầu tiên. Không doanh nghiệp nào, theo Peter Drucker, tạo ra lợi nhuận trong bốn năm đầu tiên. Nếu anh dự tính làm gì khác, anh hẳn là điên rồi. Còn có cả quy tắc 2-2-3: Hai năm để hòa vốn, hai năm nữa để trả hết nợ, và ba năm nữa để vươn cao rồi tạo nên lợi nhuận. Vì vậy, sẽ rất tốt nếu anh có đủ tiền mặt để trang trải trong hai năm đầu, nếu không anh sẽ bị phá sản. Khi nghe được điều đó, tôi còn bảo, “Thật vô lý, chuyện đó không xảy ra với tôi đâu. Tôi thì khác, tôi vượt trội hơn.” Nhưng tôi thật sự đã mất đến bảy năm. Tất cả những người mà tôi kể đều nói về quy tắc bảy năm đó. Tốn gấp đôi và lâu gấp ba so với anh tưởng; mất hai năm mới hòa vốn, hai năm để hoàn trả nợ, cả thảy bảy năm mới tạo ra lợi nhuận. Khi ai đó trở thành doanh nhân thành đạt, họ chắc chắn đã trải qua tất cả những giai đoạn đó. DAN: Brian ơi, chúng ta vừa nhắc đến thực tế là có nhiều loại nợ khác nhau, bao gồm nợ tốt và nợ xấu. Hãy phân biệt hai loại nợ này, và đưa ví dụ cụ thể nhé. BRIAN: Chúng ta đã thảo luận rằng, nợ tốt là khoản nợ có thể tự chi trả cho chính nó. Chẳng hạn như, nếu anh mua sản phẩm rồi bán lại, nếu anh đầu tư vào quảng cáo để lôi kéo khách hàng mua sản phẩm của anh, nếu anh đào tạo nhân viên để họ bán được nhiều sản phẩm hơn, nếu anh bỏ công giao lưu gặp gỡ đối tác để thu hút đầu tư, tất cả số đó đều có mức lợi tức dự kiến theo đầu tư. Anh kỳ vọng thu về nhiều hơn số tiền bỏ ra. Còn nợ xấu là khoản chi một đi không trở lại, giống khoản nợ chi ra để mua đồ đạc. Chúng tôi đã phải đóng cửa văn phòng chính, vì phải tái cấu trúc doanh nghiệp. Chúng tôi mở một văn phòng to gấp đôi và thiết kế phù hợp hơn với doanh nghiệp tiếp thị kỹ thuật số như chúng tôi. Nhân viên của tôi muốn không gian mở, nội thất hiện đại. Trước đây, tôi từng mở văn phòng kiểu truyền thống, đồ nội thất truyền thống. Tôi đã đổ hàng chục ngàn đô la cho đồ nội thất đẹp và sang trọng. Đến lúc không cần tới nữa, chúng tôi đi hỏi xem có ai muốn mua không. Không ai muốn, cho dù miễn phí. Đây chính là nợ xấu. Có lúc, chúng tôi còn phải trả phí vận chuyển để người ta nhận nó miễn phí. Cuối cùng, toàn bộ văn phòng về cơ bản là bị cho đi hết, và chúng tôi chẳng thu lại được xu nào trên giá trị hàng chục ngàn đô la của đống đồ ấy. Đó là nợ xấu, chẳng đem lại chút lợi tức nào. Chúng tôi đều mắc lỗi, cũng như nhiều công ty khác, khi đặt mua quá nhiều, vì anh nghĩ mình sẽ bán lại được rất nhiều, nhưng không, thế mà anh vẫn phải trả tiền cho nó. Anh phải thanh toán trong 30-60 ngày, nhà kho thì chất đầy sản phẩm không bán nổi. Nhiều công ty phá sản vì quá nhiều hàng tồn. Đó là ví dụ khác về nợ xấu. Tại sao anh lại mắc sai lầm như vậy? Vì anh nhận được mức giá rẻ hơn nếu mua nhiều hơn. Nhưng sẽ là tốt hơn nhiều nếu ban đầu anh mua ít hơn, dù phải trả giá cao hơn và có lợi nhuận thấp hơn. Chí ít, như thế anh sẽ không phải chịu nhiều rủi ro, tiền mặt không một đi chẳng trở lại, và anh sẽ không lâm vào tình trạng hàng tồn chết dí trong kho. Hàng tồn sẽ hủy diệt doanh nghiệp, nó chính là nợ xấu. Nếu anh gặp tình trạng này, và không nhanh chóng chuyển nó thành doanh số bán hàng, nó có thể kéo doanh nghiệp của anh đi xuống. Loại nợ xấu này là lý do chính khiến nhiều công ty phá sản. DAN: Hãy nói qua một chút về một số hình thức nợ xấu tiêu dùng. Chúng ta đã bàn về thẻ tín dụng với mức lãi suất cao. Vì thế, để tiện cho mạch anh chia sẻ, chúng ta hãy bắt đầu với hình thức thẻ tín dụng nhé. Các khoản vay mua xe có điều khoản mở rộng cho phép mọi người vay số tiền rất lớn, với thời gian trả nợ trong 72 tháng hoặc hơn. Anh có thể nói rõ hơn về những hình thức cấp tín dụng này, và chúng có thể gây ra nợ xấu như thế nào nếu không được sử dụng đúng cách không? BRIAN: Ngành công nghiệp tín dụng sinh lời từ các khoản lãi vay, và các khoản lãi này có thể chiếm từ 18-23% hoặc cao hơn: Có đủ loại thanh toán ẩn, phí thanh toán chậm, v.v... Vì vậy, cách duy nhất để sử dụng thẻ tín dụng hợp lý là thanh toán hằng tháng. Bởi vì, thẻ tín dụng là khoản nợ có mức phí cao nhất mà anh có thể có. Đó là một trong những loại nợ cá nhân tồi tệ nhất. Khoản vay mua ô tô có điều khoản mở rộng cũng là một loại nợ xấu. Về cơ bản, anh đang chi quá nhiều để mua xe. Anh phải trả khoản vay mua xe trong vòng 36 tháng, vì nếu lâu hơn, anh sẽ phải chi quá nhiều tiền cho chiếc xe. Hãy mua xe với giá thấp thôi. Đừng để cái tôi ngự trị. Bất cứ khi nào chuẩn bị ký kết tài chính, hãy dành thời gian mang những tài liệu đó về nhà nghiền ngẫm và rà soát từng chút một. Nếu anh không hiểu điều gì, hãy yêu cầu giải thích đầy đủ, bởi vì một số tài liệu kiểu này được viết nhằm mục đích gây bối rối cho mọi người, vì vậy có thể anh sẽ không hiểu nổi những điều khoản phụ. Ví dụ, với thẻ tín dụng, tài liệu có thể viết là mức lãi suất 0% trong 6 tháng đầu tiên, nhưng điều này chỉ xảy ra khi anh hoàn trả 100% mỗi tháng hoặc nếu có số dư tài khoản 2.000 đô la. Hãy đọc những phần in nhỏ, vì anh có thể bị mắc bẫy ở đó. Nó có thể ghi là lãi suất 0% hoặc 1% mỗi tháng, hoặc 12% mỗi năm, và tương tự như vậy. Thêm nữa, hãy cẩn thận khi họ gọi điện cho anh và mời chào chương trình ưu đãi đặc biệt trên thẻ tín dụng, thuê bao điện thoại hay những chương trình khác. Những chương trình ưu đãi đặc biệt qua điện thoại kiểu này thường có mức chi phí không chấp nhận nổi với khoản hoa hồng 50-80% cho tư vấn viên. Họ sẽ cố kéo anh vào những thứ anh không cần như chương trình bảo hiểm mở rộng, gói bảo hành xe hơi mở rộng, thiết bị kỹ thuật như máy tính và điện thoại di động. Những thứ này cực kỳ đắt đỏ và không có giá trị gì với anh cả. DAN: Brian ơi, theo anh, từng hình thức nợ có thể được xử lý như thế nào cho hợp lý? BRIAN: Điều này phụ thuộc rất nhiều vào mức xếp hạng tín dụng cũng như vốn hiểu biết của anh, nhưng có ba gợi ý thế này. Một là gom nợ. Gom nợ tức là tất cả các khoản nợ của anh sẽ được gom thành một khoản nợ duy nhất đối với công ty gom nợ; rồi anh chỉ nợ tiền và thanh toán định kỳ cho công ty đó. Mặc dù có rất nhiều công ty cung cấp dịch vụ này, nhưng anh phải hết sức thận trọng bởi họ kiếm được những khoản hoa hồng lớn nhờ gom nợ giúp anh. Các công ty này kiếm lời lớn nhờ thế. Hầu như tất cả những người sử dụng dịch vụ gom nợ đều đang gặp rắc rối. Họ có vẻ quá lạm dụng dịch vụ này, lại chi tiêu vượt quá khả năng. Điều này lại dẫn tới tình trạng vỡ nợ khác và dịch vụ gom nợ khác. Một cách khác, được đề xuất bởi tác giả dòng sách tài chính Dave Ramsey, là lập danh sách tất cả các khoản nợ và thanh toán những khoản nhỏ nhất trước. Đây là ý hay, vì tạo cho anh động lực tinh thần để trả những khoản nợ nhỏ và xóa bớt khỏi danh sách, rồi trả những khoản tiếp theo và lại xóa bớt khỏi danh sách. Một gợi ý nữa mà tôi đặc biệt thích là thanh toán khoản nợ có lãi suất cao nhất trước. Hãy xem xét thẻ tín dụng của anh: Một số đang tính cho anh mức phí 18%, 23%, và thậm chí 30%. Hãy thanh toán khoản nợ thẻ tín dụng có mức phí lãi vay cao nhất trước. Dành toàn bộ khoản tiết kiệm cho chúng trước. Mọi người thường khuyên trả mỗi thứ một ít. Tôi chỉ muốn nói, trả những khoản tối thiểu cho chúng nếu muốn duy trì tình trạng nợ tốt. Chúng sẽ không ám ảnh anh, miễn là anh vẫn trả các khoản thanh toán tối thiểu. Một khi anh đã quyết định thoát khỏi nợ nần, thì sẽ có một loạt chiến lược anh có thể sử dụng để đạt được mục đích đó. Một là bắt đầu tiết kiệm tiền. Nguyên tắc của George Clason1 nói rằng hãy trả tiền cho bản thân trước, bằng cách tiết kiệm ít nhất 10% tổng số thu nhập hằng tháng. Tuy nhiên, nếu anh đang ngập trong nợ nần, hãy bắt đầu với số tiền tiết kiệm nhỏ hơn, theo cách dưới đây. 1 George Clason (1874 – 1957) là doanh nhân, nhà văn người Mỹ. Giả sử anh đang nợ nần chồng chất và muốn tiết kiệm nhiều tiền hết sức có thể để thoát khỏi cảnh này, anh cũng không thể tiết kiệm 10% mỗi tháng. Hãy bắt đầu tiết kiệm 1% và sống dựa vào 99% còn lại. Vì con người là sinh vật sống theo thói quen, vì vậy nếu có thể, hãy trích giữ 1% thu nhập vào đầu tháng. Anh vẫn sẽ sống khá thoải mái với 99% số tiền còn lại. Tháng thứ hai, hãy tiết kiệm 2%; tháng thứ ba, tiết kiệm 3%. Cứ thế, sau một năm, anh có thể đẩy tỷ lệ tiết kiệm lên mức 12%, đồng thời thắt chặt mức chi tiêu sinh hoạt đến độ anh chẳng nhận ra. Hãy ghi chép mọi thứ mà anh chi tiêu, rất có thể anh sẽ thấy mình đang tốn tiền vô bổ vào một cốc latte. Ghi chép chi tiêu sẽ giúp anh không tốn tiền vào nó nữa. Thế là anh tiết kiệm được khoản tiền đó. Khi anh bắt đầu tiết kiệm tiền và bắt đầu gia tăng tài khoản Tự do Tài chính, thì một điều gì đó tốt đẹp sẽ xảy ra đối với các khoản nợ của anh. Tâm trí anh sẽ thay đổi, thái độ của anh đối với những khoản nợ cũng sẽ thay đổi, và anh ngừng việc tích lũy nợ. Người ta thường khuyên nên ngừng dùng thẻ tín dụng và thanh toán mọi thứ bằng tiền mặt. Tôi không khuyến khích anh làm vậy. Ngưng dùng thẻ tín dụng có thể khá tệ, vì lúc nào cũng mang theo tiền mặt khá là bất tiện. Tôi có tận ba thẻ tín dụng. Dù có đủ loại thẻ khác nhau, nhưng tôi chỉ dùng ba thẻ đó cộng thêm một thẻ ghi nợ, và thanh toán mọi khoản nợ mỗi tháng. Nếu anh không làm vậy, các khoản nợ sẽ tích lại rất nhanh. Tôi đã nhận được bài học từ điều đó, nên tôi tuyệt đối không để mình vướng nợ thẻ tín dụng nữa. Một lợi ích khác khi bắt đầu tiết kiệm 1% một tháng là anh sẽ thấy mình nợ nần ngày càng ít đi. Có thể sẽ mất 2-3 năm, nhưng sẽ đến lúc anh hoàn toàn thoát nợ và không bao giờ vướng vào rắc rối đó nữa. Cảnh nợ nần sẽ khiến anh thấy mình kém cỏi, lo lắng, bất an và tiêu cực. Hãy xem sự khác biệt giữa hai người đang nói chuyện, một có tiền gửi ngân hàng, một đang lâm vào vòng xoáy nợ nần. Người có tiền gửi ngân hàng sẽ trông tự tin hơn, tích cực hơn và thẳng thắn hơn. Còn người nợ nần sẽ có vẻ kém hơn một chút, thận trọng hơn và khúm núm hơn trước những người có tiền. Thoát khỏi nợ nần sẽ biến đổi con người của anh. Hầu hết những người thoát khỏi cảnh nợ nần sẽ không bao giờ rơi vào cảnh nợ nần nữa. Anh có thể làm điều đó, chỉ với 1% tiết kiệm mỗi tháng. Nếu anh thực hành thêm một số phương án giúp tăng thu nhập mà chúng ta sẽ bàn đến về sau, thì giá trị tài sản ròng của anh sẽ bắt đầu tăng lên. Khi thu nhập tăng lên, anh sẽ tiết kiệm được số tiền đó, thay vì chi tiêu nó, và sử dụng nó để thanh toán nợ nần. DAN: Brian ơi, anh có ủng hộ việc duy trì một khoản thế chấp, thay vì tất toán ngay lập tức không? Đó có phải ý hay để đẩy nhanh quá trình thanh toán không nhỉ? BRIAN: Có rất nhiều quan điểm khác nhau về việc này. Chúng ta có mức thế chấp 3% tính trên giá trị ngôi nhà của chúng ta, không ở đâu mà anh có thể đầu tư tiền với mức lãi suất 3% cả. Nếu anh được hưởng mức lãi suất thấp, tốt hơn hết là anh duy trì khoản vay thế chấp nhà, thay vì tất toán ngay lập tức, đặc biệt trong bối cảnh thị trường bất động sản hiện nay, giá nhà tăng nhanh hơn các khoản thanh toán mà anh phải trả. Vì thế, nó là một khoản đầu tư, bởi nó thực sự gia tăng giá trị. Một chiến lược khác là thanh toán hoàn toàn khoản vay thế chấp hoặc thanh toán bổ sung. Giả sử, anh nhận được tiền thưởng, hoa hồng bán hàng, hay các khoản tiền mặt khác, anh có thể dùng chúng để trả khoản vay thế chấp. Một số người nói rằng, nếu anh trả gấp đôi tiền gốc thỏa thuận, anh có thể trả khoản vay thế chấp trong một nửa thời gian dự kiến. Đó là một chiến lược tốt với nhiều người, vì nó sẽ thay đổi lối sống của họ, mặc dù nó đòi hỏi mọi người phải hy sinh một chút. Nhưng nó sẽ đưa khoản vay thế chấp 30 năm xuống còn 15 năm, và sau đó anh sẽ được sở hữu ngôi nhà miễn phí và hợp pháp. DAN: Một chủ đề lớn khác thu hút dư luận là các khoản vay học đại học. Hãy cùng thảo luận về khoản nợ đại học. Một số nhìn như nợ xấu, một số lại như nợ tốt, bởi anh đang đầu tư cho tương lai của chính mình. BRIAN: Tôi từng nghiên cứu sâu về lợi tức đầu tư đối với các chương trình học khác nhau. Các trường STEM – khoa học (Science), công nghệ (Technology), kỹ thuật (Engineering) và toán học (Math) – tốn kém nhất. Học phí khởi điểm ở mức khoảng 76.000 đô la mỗi năm, và lên tới khoảng 136.000 đô la một năm ở ngành kỹ sư dầu mỏ. Nhiều khóa học khá vô bổ, và sinh viên hoàn thành khóa học lâm vào cảnh thất nghiệp. Năm ngoái, 54% sinh viên đại học ra trường được một năm vẫn còn thất nghiệp, vì chương trình học họ chọn đều vô dụng. Họ không tham gia các khóa học giúp gia tăng khả năng kiếm tiền hoặc cho phép họ đạt được những thành quả mà các công ty sẵn sàng chi trả. Vậy họ vay tiền đi học để làm gì? Cũng tương tự như đến Las Vegas, nếu anh mượn tiền để mua nhà ở đó – giá nhà ở Las Vegas tăng 7-8% sau cuộc suy thoái – thì đó là một khoản đầu tư tốt. Nếu anh mượn tiền để thử vận may tại sòng bạc, đó không phải là khoản đầu tư tốt đâu. Những người vay tiền để tham gia các khóa học vô bổ đang thực hiện một khoản đầu tư xấu, vì một nửa số họ sẽ phải làm những công việc với mức lương thấp nhất trong một vài năm tới. Có tới 80% sinh viên đại học không làm công việc đúng chuyên ngành. Họ chẳng bao giờ quay về ngành cũ, bởi chương trình học mà họ theo, về cơ bản, chỉ để giải trí. Chúng là lý do để cho họ ở lại trường đại học, chơi với bạn bè, tiệc tùng, nhậu nhẹt, và đủ chuyện. Đó là sự khác biệt giữa khoản nợ đại học tốt và khoản nợ đại học xấu. Một người vay tiền để đi học trường y dược hoặc để lấy tấm bằng kỹ sư là rất khôn ngoan, bởi vì họ sẽ có thể thanh toán toàn bộ món nợ đó trong 2-3 năm. Nếu anh không có mức thu nhập tốt vì công việc hiện giờ của anh chỉ đạt mức lương ít ỏi do anh đã theo chương trình học vô dụng, khoản vay đại học đó sẽ là món nợ rất xấu. Một số người đến tuổi 30 mà vẫn không mua nổi căn nhà, không được vay tín dụng để mua xe, không thể bắt đầu kinh doanh, và họ không thể có được khoản vay ngân hàng bình thường; tất cả chỉ vì khoản nợ đại học treo lơ lửng trên đầu họ như tuyết lở. DAN: Brian ơi, ngôi trường mà chúng ta đầu tư học hành có phải vấn đề không? Học ở trường thuộc khối Ivy League2 hay chương trình đại học chất lượng cao đã được công nhận thì tốt hơn? 2 Ivy League là khối 08 trường đại học và viện đại học (Harvard, Brown, Columbia, Cornell, Dartmouth, Pennsylvania, Princeton, Yale) có hệ thống triết lý giáo dục và chất lượng đào tạo hàng đầu nước Mỹ. BRIAN: May mắn là, Tổng thống Obama đã yêu cầu, lần đầu tiên trong lịch sử, các trường đại học phải công khai mức thu nhập của các sinh viên đã tốt nghiệp 1 năm, 2 năm, 5 năm và 10 năm theo từng ngành cụ thể. Các số liệu này hoàn toàn công khai. Các trường cao đẳng và đại học đã tranh đấu dữ dội vì họ không muốn công bố số liệu này. Lại thật may mắn, nếu anh tra Google, anh sẽ thấy một số đánh giá về xu hướng thu nhập của một cử nhân đến từ một trường cụ thể. Tôi có đọc một nghiên cứu về điều này, với 10 trường đại học tốt nhất và 10 trường đại học tệ nhất, xét về mặt lợi tức đầu tư. Ví dụ, nếu anh đến Harvard học luật, tài chính hoặc kinh tế, cơ hội kiếm được việc tốt lương cao của anh sẽ rất lớn. Harvard là một trong những trường tốt nhất. Còn Yale lại là một trong những trường tệ nhất về khía cạnh lợi tức đầu tư. Nếu anh có tấm bằng của một trường đại học danh giá, nhưng lại theo chương trình học vô ích, thì cũng chẳng giúp được nhiều cho anh trong hành trình tìm một công việc lương cao. Tất cả các thông tin này đều công khai. Anh nên tìm hiểu thêm. Chúng sẽ cho anh thấy ngành nào đang được trả lương thấp nhất và ngành nào đang được trả lương cao nhất. Việc anh phải làm là nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi quyết định vay tiền học đại học. Cũng giống như nếu anh đang định đầu tư vào một công ty, anh phải chắc chắn rằng công ty đó sẽ có lợi nhuận và doanh thu cao, và thanh toán phần chia theo mức đầu tư sớm nhất. DAN: Brian, anh có tin tưởng vào mô hình mà chuyên gia Tự do Tài Chính và Giảm thiểu Nợ nần, Dave Ramsey, đề xuất rằng: Hãy dồn tiền trả nợ và tận dụng phương pháp Tuyết lở3 để hoàn toàn thoát khỏi nợ nần không? Anh có nghĩ lập mục tiêu để hoàn toàn thoát nợ là ý hay không? Hay cuộc sống tằn tiện như thế sẽ tước đi sự sáng tạo, và đôi khi là động lực, cần thiết để thành công trên quy mô lớn hơn? 3 Phương pháp Tuyết lở (Snowball method) là một chiến lược giảm nợ trong đó người nợ bắt đầu thanh toán khoản nợ nhỏ nhất trước, và trả khoản tiền tối thiểu ở khoản nợ lớn hơn. Khi khoản nợ nhỏ nhất được tất toán, tiếp tục tiến hành với khoản nợ nhỏ hơn thứ hai, và cứ thế dần dần tới khoản nợ lớn hơn. BRIAN: Yêu cầu tối quan trọng để thành công trong cuộc sống, đặc biệt trong kinh doanh, là tính kỷ luật: Làm việc chăm chỉ và thực hành kỷ luật bản thân. Phương pháp của Dave Ramsey đòi hỏi tính kỷ luật tự giác cao độ. Tính kỷ luật được thể hiện dưới hình thức sự thỏa mãn bị trì hoãn. Người thành công là những người có khả năng trì hoãn cảm giác thỏa mãn ngắn hạn để tận hưởng sự ổn định tài chính trong dài hạn. Phương pháp của Ramsey đòi hỏi anh phải rất kỷ luật về những thứ liên quan đến tài chính của anh. Vì thói quen của anh sẽ quyết định thành công của anh, nếu anh thắt chặt kỷ luật trong việc thanh toán và thoát khỏi vòng nợ nần, cực kỳ nghiêm khắc với bản thân, rất có thể anh sẽ trở thành một doanh nhân tốt hơn rất nhiều, ra quyết định tốt hơn, vay nợ và chi tiêu cẩn thận hơn. Tính kỷ luật tự giác đem lại lợi ích cho anh. Mọi thứ giúp con người phát triển tính kỷ luật tự giác và trì hoãn cảm giác thỏa mãn ngắn hạn sẽ xây dựng tính cách, sự bền bỉ, kiên trì, tỉ mỉ và những phẩm chất tốt nhất của họ. Sẽ là rất tốt nếu anh có thể làm được điều đó, dù rất khó thực hiện. Đó là lý do tại sao hầu hết mọi người không làm nổi. Dave Ramsey, tôi nghĩ, rất rõ ràng và rất nghiêm túc. Nếu anh nghiêm túc, hãy làm đến nơi đến chốn. Cũng như việc giảm cân vậy, anh định giảm lượng calo đưa vào cơ thể xuống mức 1.000 calo một ngày, và phải duy trì mức 1.000 calo mỗi ngày này suốt một năm, không thể có ngoại lệ. Theo thống kê, một người lớn tiêu thụ khoảng 3.000 calo mỗi ngày. Vì vậy, nếu anh hấp thụ 3.000 calo và đốt cháy 4.000, anh sẽ mất 1.000 calo mỗi ngày, và theo thời gian, trọng lượng dư thừa sẽ biến mất. Đó sẽ là điều đáng kinh ngạc nhất, nhưng anh sẽ phải thực sự nghiêm khắc với chính mình. Đó là những gì phương pháp của """