"
Nàng Betty Đen - Walter Mosley PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nàng Betty Đen - Walter Mosley PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
NÀNG BETTY ĐEN
Nguyên tác: Black Betty
Tác giả: Walter Mosley
Người dịch: Đào Đăng Trạch Thiên Nhà xuất bản Văn Học 2004 —★—
ebook©vctvegroup
Sơ lược cốt truyện
Với những người Mỹ da đen, thời điểm lúc này là trông chờ một tín hiệu lạc quan. Thế nhưng chàng cựu thám tử Easy Rawlins lại nhìn thấy hiện tại đen tối, tương lai mù mịt. Bình thường gã phải ném quăng trả lại hai tờ trăm đô la vô mặt tên cớm nhếch nhác này, hắn là một tên cớm da trắng đang cần gã truy tìm tung tích nàng Betty đen kiều diễm nước da ngăm đen, quyến rũ như một phụ nữ đa tình mơ ước được giàu sang và chiếm đoạt bọn đàn ông. Nàng giã từ khu phố Fifth Ward ở Huston để đến đô thị sang trọng của giới thượng lưu ở Beverly Hills. Còn nhiều bí ẩn Easy chưa nghe kể, thế mà gã không thể từ bỏ ý định gặp lại nàng Betty cho dù phải liều mạng.
Bọn chúng đang đứng chờ dưới ánh đèn vàng trong ngõ hẻm phía sau quán rượu John. Gã Bruno Ingram, biệt danh Bàn Tay Lớn,
thân hình vạm vỡ đang đứng im với vẻ mặt vênh váo. Gã mặc bộ đồ vét may bằng hàng mohair, phía trong không có áo sơ mi, đầu để trần. Tay đứng gần bên dáng người nhỏ con, trông bộ đồ bó sát người sáng như bạc, tôi đoán loại hàng nhập của Ý. Tôi đứng núp sau lối của ra vào lắng nghe bọn chúng trao đổi một lúc.
“…Dodge thua cuộc” - Mouse - tên nhỏ con vừa nói. Trông hắn có vẻ hài lòng. - Cậu còn nợ mình hai lăm cent.
“Đến đây, Sooky” - một giọng nói vô hình vẳng lên từ giữa đường phố. Giọng nói một chàng thanh niên.
“Đâu có, Alfred” - một giọng nói của phụ nữ trả lời nghe rõ từng tiếng. Nhưng đoạn sau, tôi không nghe được nàng nói gì. Gã Bruno đổi giọng: - “Cút đi ngay, đồ âm binh”.
Tôi quay lại, một cảm giác sợ hãi trỗi dậy trong người - Mẹ kiếp! Mi bú con… đen thui của tao đây nè.
Tôi muốn la lên một tiếng, nhưng cổ họng như nghẹn lại. Mouse xô đẩy Bruno, hắn chỉ muốn giữ một khoảng cách vừa đủ để rút khẩu súng ngắn nòng 41 ra.
Bruno nhếch mép cười chợt vẻ mặt gã biến sắc như đứa trẻ lên tám có tội. Phát súng vừa vang lên gã đã lùi lại phía sau cả thước, hai bàn tay chìa ra phía trước y như gã mộng du trong truyện tranh.
Người gã muốn ngã nhào xuống đất, khẩu súng trên tay Mouse, tiếp tục nhả đạn đẩy lùi Bruno dạt về phía cửa sau nhà hàng. Chợt nghe một tiếng thét vang lên, tôi bước đi loạng choạng giật lùi về phía cửa ra vào.
1
T
ôi giật mình choàng dậy giữa đêm khuya. Tôi ngỡ ngàng không rõ mình đang ở đâu. Tôi đang nằm trên tấm nệm thật êm, giương tay tìm chiếc đồng hồ nhưng bàn để đầu giường đâu mất. Tôi té ngã từ trên chiếc ghế ở bên ngoài bãi cỏ xuống thềm nhà. Rồi tôi nhớ lại không khí bên trong nhà nóng nực. Bọn trẻ Jesus và Feather phải cho chạy chiếc quạt gió từ ngoài cửa sổ thổi vào buồng ngủ của Jesus. Tôi hay thức giấc lúc hai giờ sáng, và lúc nào người tôi cũng ướt nhem mồ hôi.
Tôi ngồi ngay dậy cố xua đi cơn ác mộng. Chuyện đó đã qua năm năm, cứ mỗi tháng tôi nằm mơ thấy cái chết của Bruno một lần, nhưng dạo sau này lại thường hơn. Tôi không thể quên được hình ảnh thằng bạn thân nhất, không thể quên được giây phút khi súng dồn Bruno vào chân tường.
Tôi muốn nghĩ đến những chuyện tốt đẹp hơn. Đó là hình ảnh ngài Tổng thống người Ai- len, chuyện ngài Mục sư Martin Luther King, tình hình thế giới đang đổi thay và chuyện một anh chàng da đen sống ở đất Mỹ được công nhận là một người công dân chân chính trải qua mấy trăm năm nay. Trong cái thế giới đó, đang rung chuyển mỗi ngày vì các vụ thử hạt nhân ngầm dưới đất và chiến
tranh chực chờ bùng nổ.
Tôi đi ra phố, chợt thấy thằng bạn cũ Martin Smith nằm chết phơi thấy trên đường. Hắn là đứa học trò được thầy giáo quan tâm nhất. Tôi định đến thăm hắn từ lâu nhưng không hiểu vì sao tôi cứ tránh mãi.
Tôi đang đứng giữa trời. Gió tháng chín càng thổi gắt. Gió mỗi lúc một nóng bức như đang thiêu đốt tâm hồn tôi.
Tôi tưởng chừng như nghẹt thở hơn nhưng chẳng ai ngó ngàng tới - tất cả đều bỏ mặc tôi với cái xác chết vô tội kia nằm ngoài đường phố tối om.
Nhìn về phía trên kia đường, vệt nắng sớm mai trải dài lấp lánh trên nóc, dãy nhà. Thật là một ngày tươi đẹp lại đến, nhưng không phải ai cũng được diễm phúc đón nhận. Gã Bruno đã yên phần dưới nấm mồ năm năm rồi, còn Mouse thì đang rên siết trong nhà tù ở Chino vì can tội ngộ sát. Tôi cũng là một tù nhân đây. Tù nhân của tội lỗi, tù nhân của vô thức.
“Có phải ông Rawlins?” - giọng nói lạ vừa cất lên.
Tôi lại giương tay tìm khẩu súng ngắn để trên bàn tại đầu giường. Nhìn lại tôi không còn ở trong phòng ngủ. Tôi đang trần truồng, không có chăn đắp, nằm một mình trong bóng đêm ngoài trời. Tay tôi nắm lấy cái gạt tàn bằng đất sét Jesus nắn nót làm ra trong những ngày đi trại hè.
“Ai vậy kìa?” - tôi cố giữ vẻ bình thản. Tôi nhìn rõ bóng hình in trên tấm màn cửa là một gã đàn ông. Tôi giật lấy tấm drap dưới sàn quấn vào thắt lưng mình.
“Saul Lynx đây! Thưa ông Rawlins” - Tôi biết hắn là một tên da
trắng. - “Ông có thể nói chuyện một chút được chứ?”. “Hở? Sao?” - Tay tôi nắm chặt cái gạt tàn đất sét đến nỗi bể vụn nghe răng rắc.
“Tôi biết giờ này còn sớm” - tên da trắng vừa nói “Nhưng tôi cần phải gặp ông. Tối qua mới biết được tên ông. Tôi đứng chờ bên ngoài lần theo địa chỉ từng nhà, lúc tìm ra được thì ông đã lên giường ngủ. Ông biết đó, cho đến bây giờ tôi mới nói cho ông nghe được”.
“Vậy sao ông không cút đi sáng mai trở lại đây có được không?”. Tôi dồn tất cả sức mạnh vào cánh tay để ném cái gạt tàn qua tới chỗ màn cửa. Nếu thò tay đẩy then cửa thì chỉ có nước chết.
Gã không tỏ vẻ giận dữ, gã lại nói “Tôi đến đây giới thiệu cho ông một chỗ làm. Nội bữa nay - sáng hôm nay. Ông có thể mở đèn cho sáng sủa được chứ?”.
Tôi không muốn ai nhìn thấy mình đang trần truồng. Tôi rất dị ứng nếu có ai nhìn thấy được da thịt tôi. Tôi muốn nằm im một chỗ trong bóng tối tôi chợt hiểu ra tôi không thể im lặng một khi có ai đó đã biết mình đang ở đâu.
Tôi quân tấm drap quanh người như chiếc áo choàng dân châu Phi rồi bước tới sau cánh cửa và bật đèn. Tôi nhìn thấy Lynx đứng núp dưới ánh đèn mờ nhạt phía ngoài tấm màn che.
“Cho phép tôi vô nhà được chứ?” - Gã vừa cất tiếng. “Ông vô đây”. - Tôi gắt giọng
Người gã nhỏ thó mặc bộ đồ vét màu nâu nhạt, thắt cà vạt nâu để hờ. Chiếc mũi to nổi bật trên khuôn mặt xấu xí, nhô lên một
đống. Hắn đội mũ màu nâu, mặc bên trong chiếc áo sơ mi trắng tiệp với nước da nhợt nhạt. Đôi mắt hắn xanh sáng rỡ.
Thấy tôi, Saul Lynx cười gật đầu, tôi không thèm bắt tay hắn. “Ông không cần phải bắt tay”. - Gã đứng nhìn theo chiếc gạt tàn. - “Tôi không ngạc nhiên khi ông ngủ ngoài trời. Hồi còn nhỏ, những ngày hè nóng bức tôi ngủ ngoài cầu thang thoát hiểm thích hơn là ở trong nhà”.
“Ông cần việc gì đây?”. - Tôi gắt giọng vì tôi không còn kiên nhẫn để nói chuyện vớ vẫn.
“Như tôi đã nói” - gã nhắc lại, giọng lạnh tanh. “Tôi đến đây giới thiệu ông một việc làm. Tôi có một thân chủ đang cần gấp người đi tìm một phụ nữ mất tích”.
Ngoài đường phố Genesee, trời đã sáng tỏ. Tôi nhìn thấy rõ bóng cây minh quyết bên kia đường và bãi cỏ cắt xén gọn của nhà hàng xóm.
“Ta ngồi xuống nói chuyện được không?” - Saul Lynx gợi ý với tôi.
“Có việc gì quan trọng, ông nói cho hết rồi ra về. Tôi có con nhỏ nên không thích người lạ vào nhà như thế này”.
Nhìn Saul Lynx cười tôi ngỡ đâu hắn là nhân viên mai táng thành tâm cười tiễn đưa người chết.
“Ông có nghe nói tên một người phụ nữ là Elizabeth Eady bao giờ chưa?” - gã hỏi.
Nghe qua, tôi chợt nhớ lại từ cõi vô thức. Nó trùng hợp với thời điểm tháng Chín mùa ẩm thấp cùng với những giấc mơ hàng đêm.
“Bà sống ở L.A. hai mươi lăm năm nay, quê quán thì ở Houston”, gã kể lại. - “Hình như là hàng xóm với ông. Tôi còn giữ một tấm ảnh đây”. - Gã chìa ra một tấm ảnh cũ mèm. Tấm ảnh sẫm màu nâu nhạt thay vì ảnh đen trắng. Ảnh chụp theo kiểu lấy liền. Người phụ nữ trẻ đứng trước thềm cửa ngôi nhà nhỏ hẹp. Nàng cười đứng tựa lưng một bên cửa có vẻ ngượng nghịu. Thân hình nàng cao ráo, nước da ngăm ngăm, cho dù có tô một lớp phấn hồng cũng không che được màu da sạm của nàng Betty. Môi miệng nàng hé mở như muốn trêu ghẹo anh chàng phó nhòm.
Black Betty không phải là mẫu người phụ nữ đảm đang, mà là mẫu người thích chơi bạo. Nhiều tay đã gục ngã dưới chân nàng. Nếu ai có một người bạn theo tán tỉnh nàng Betty thì hãy khóc giùm cho hắn, bởi nếu không chết thì cũng bị thương. Nàng có ma lực dìm đắm đàn ông và nàng không che giấu cái ma lực đó. Nếu gặp một tay chơi mời nàng đi ăn uống, nàng ít khi từ chối. Bất kỳ ngày nào, thứ Hai, Ba, Tư, Năm - chơi suốt đêm. Betty không thích ngồi lì một chỗ, nếu qua ngày thứ Sáu túi tiền hắn rỗng tuếch - y như rằng Betty bỏ đi ngay.
Từ trước đến giờ ít có tay chơi người da màu nào dám bao nàng ăn chơi xả láng. Tại nhà nàng ong bướm dập dìu hàng đêm. Nàng có thể làm tình với bọn da đen một tuần ba đêm là chuyện thường.
Tôi đã từng nhìn thấy nàng lê bước chệnh choạng trên hè phố lát gỗ ở khu Houston Fifth Ward. Thuở đó tôi là một thằng nhóc mười hai tuổi ăn mặc lôi thôi, còn nàng đã là một phụ nữ chững chạc. Nàng mặc áo viền đăng ten màu đen, mang găng tay áo choàng lông thú. Đứng gần bên nàng, ngửi thấy mùi hương thơm
nồng nàn tôi quên mất mình là ai. Hôm đó tôi đang đứng bên ngoài quán bar Corcheran ở phố Blanford Street. Lúc đó tôi cảm thấy thật khó chịu, lỗ mũi nóng ran.
“Mày nhìn gì đó, nhóc kia?” - nàng quay hỏi tôi.
“Nhìn bà đó”.
“Mày thích nhìn cái gì?”
Tôi phải lấy giọng mới nói ra được “Ờ… ờ… phải. Có lẽ bà đẹp nhất trên đời này”.
“Có lẽ?”.
Tôi chới với. Đáng lý tôi phải khen nàng là người đẹp nhất trần gian. Chỉ có nàng đẹp nhất thôi. Tôi đã bỏ lỡ dịp may được nói chuyện với nàng một lần nữa.
“Lại đây, cưng” - người tình nàng vừa cất tiếng.
Thay vì nghe theo, nàng bước lại hôn tôi - quanh môi. Nàng thè lưỡi ra khi tôi chưa kịp há miệng. Nàng buông ra lùi lại, tôi té nhào xuống đất.
Bọn chúng đứng cười nhìn theo tôi, chỉ riêng Betty không thèm cười. Nàng đắm đuối vì đã áp đảo được tôi. Có một lúc nào đó tôi sẽ té nhào vì nàng một phen nữa, hoặc có khi lọt ra ngoài cửa sổ vì được nàng hôn.
“Ông biết nàng chứ, ông Rawlins” - Saul Lynx hỏi.
Tôi đang ngắm bức ảnh thì Dawn vừa tới. Tôi nhìn thấy chiếc xe chạy ngang qua bỏ báo ngoài sân và nhà bên cạnh. Vừa lúc đó một người đàn bà da trắng nhanh chân bước ra nhặt tờ báo. Đó là bà Horn, bà thường mất ngủ nên tính hay bồn chồn nôn nóng. Có lẽ bà
ngồi chờ xe đưa báo chạy ngang qua từ nãy giờ.
“Tôi không nhớ ra nàng”, - tôi đáp.
“Được rồi…” - Gã nói giọng dề dà như thể không tin. - “Thôi được, chẳng sao cả. Ông chỉ cần tìm quanh trong khu phố người da màu thôi. Chúng tôi chỉ cần có vậy”.
“Chúng tôi là ai vậy?”
“Ông chỉ cần biết tôi là đủ rồi”.
“Nàng làm nghề gì?”
“Chả có nghề gì cả. Theo tôi biết, nàng giúp việc cho một bà suốt thời gian còn ở đây. Nhưng rồi câu chuyện bắt đầu từ đấy. Nàng Eady xin nghỉ việc, nay người chủ cũ gọi về lại”. - Saul Lynx nhếch mép cười đưa tay sờ mũi theo thói quen. - “Nàng không để lại địa chỉ liên lạc và trong danh bạ điện thoại không có tên Elizabeth Eady”.
“Nàng làm việc cho ai?”
“Tôi không cho phép tự nói ra được”.
“Ơ… ơ… Ông tính trả công tìm được nàng là bao nhiêu?” “Hai trăm đô la đưa trước, tìm được nàng lãnh thêm hai trăm nữa”. Gã chỉ tay về phía tôi “Ông phải tiến hành ngay”. Theo tôi biết, người phụ nữ đứng ra trả tiền đang nôn nóng tìm cho được nàng Eady”.
“Lấy gì làm bằng chứng ông biết rõ chuyện đó?”
“Đấy, ông thấy chưa”, gã nói như muốn được thông cảm. “Tôi chưa hề gặp bà ấy. Bà ấy không quan hệ với các nhà thám tử. Luật sư riêng của bà ấy đứng ra nhờ tôi”. - Nói xong gã rút ra một xấp
bạc đưa qua tôi.
Tay tôi đang giữ cái gạt tàn còn tay kia cầm tấm ảnh. “Hai trăm đô la ứng trước”, gã vừa nói.
Số tiền lớn hơn cả tài khoản tôi gửi trong băng. Đã có lúc tôi mừng vì có được thu nhập từ việc cho thuê một căn hộ chung cư. Năm 1948 nhờ món tiền trời cho, tôi tậu được cơ ngơi. Nhưng do lao vào mua bán nhà đất nên bị phá sản. Tôi cho thuê căn nhà đang ở. Mỗi tuần lễ ăn uống kham khổ thắt lưng buộc bụng cũng vừa đủ sống.
Tôi buông cái gạt tàn xuống đỡ lấy xấp tiền. Tôi sờ thấy hơi ẩm vì gã vừa rút trong túi quần ra.
“Tôi sẽ lo cho”, - tôi nói cho có. - “Tôi phải đi gặp ông luật sư đó trước rồi sẽ báo cho ông hay sau. Tên ông ta là gì nhỉ?”. “Chờ khi nào ông làm được việc rồi mới nói chuyện đó sau. Tôi sẽ cho ông ta hay là ông cần gặp có chút việc”. - Gã chẳng cần quan tâm đến ý kiến tôi vừa nêu, gã nói tiếp - “Nếu luật sư đồng ý gặp thì liên lạc với ông bằng cách nào?”.
Tôi đọc số máy điện thoại gã nghe xong gật đầu.
“Làm sao ông tìm ra tôi, ông Lynx. Địa chỉ tôi không nằm trong sổ danh bạ?”
“Tên tuổi ông ai mà không biết, thưa ông Rawlins”. Gã móc ở túi sau chiếc ví cũ mèm ra. Gã lôi ra một tấm danh thiếp nhăn nheo cáu bẩn. Chỉ nhìn thấy số điện thoại, địa chỉ bờ biển ở Venise in nét chữ đen lấm tấm dấu mốc meo. Còn tên tuổi không thấy đâu.
“Tên chỉ có vậy L- Y- N- X”, gã nói. “Khi nào tìm được cho tôi
hay. Càng sớm càng tốt”.
“Ông sẽ nghĩ sao nếu tôi không nhận số tiền này? Và vì vậy nên ông còn nợ tôi một việc”.
Saul Lynx nhìn thẳng vào mắt tôi, nụ cười điềm nhiên trên gương mặt gã vụt biến. - “Biết đâu tôi nghĩ sai, nhưng tôi dám cuộc ông là mẫu người nói là làm. Dù sao còn có thêm hai trăm đô la nữa kia mà”.
“Thế được rồi, nhưng làm sao ông dám tin tôi có thể tìm ra được một người phụ nữ lẫn trong số hai triệu rưỡi người kia? Ông nên cho tôi biết đôi diều về đối tượng đang tìm kiếm chứ”. - Tuy nói vậy nhưng tôi đã biết mọi ngõ ngách tìm ra nàng Betty, tôi chỉ muốn dò la gã da trắng này đã biết được những gì.
Gã biết ý tôi định nói gì. Nụ cười thoáng hiện trên gương mặt gã. Chợt gã lắc đầu.
“Tiếc là, ông Rawlins, tôi chỉ biết nàng có bạn bè trong xóm dân Negro. Biết đâu có người sẽ nhận ra nàng qua tấm ảnh ông đưa ra”.
Tôi định trả tiền lại, chợt tôi nghĩ biết đâu gã sẽ đoán được ý đồ rằng tôi cũng đang khao khát nhìn lại nàng Betty, khi đã là một chàng trai chững chạc.
“Tôi sẽ nói chuyện đó sau” - tôi đáp.
Lynx đưa tay sờ trán giả vờ thân mật đáp chào.
“Nhờ đấy”, gã nói. - “Tôi mong được tin sớm”.
Gã nhếch mép cười rồi bước ra. Tôi dưng nhìn theo cho đến lúc gã ngồi vào trong chiếc xe ô tô nhỏ xíu sơn màu nâu. Gã vừa phóng
xe đi, bà Horn bước ra - mặt mũi có vẻ bàng hoàng. Lúc nhìn thấy tôi quàng tấm drap quanh mình đứng ngoài trời vẻ mặt bà chợt biến sắc. Tôi không biết bà nghĩ gì trong đầu. Tôi cười gọi với theo, bà không nghe vội vã chạy vào nhà.
Tôi cúi xuống nhặt từ báo lên liếc qua mấy hàng tin trên đầu. Nước Nga vừa cho nổ vụ thứ hạt nhân lần thứ ba trong một tháng.
M
2
ới sáng sớm không khí bên trong nhà đã nóng hầm, thải ra bớt mồ hôi, đầu tôi cảm thấy nhẹ. Tôi có cảm tưởng tay thám tử người nhỏ con ăn mặc xuềnh xoàng dường như đã tới đây. Nó cũng hư hư thực thực như trong giấc mơ tôi nằm thấy cái chết của Bruno.
Bọn trẻ còn ngủ bên trong phòng của Jesus, tôi thay áo ngồi dọc sách chờ trời sáng. Tôi chọn cuốn Huckleberry Finn mua được ở hiệu sách cũ Santa Monica. Một số nhà sách tiến bộ và trường học chống lại việc phổ biến tác phẩm vì nội dung phân biệt chủng tộc. Đa số dân da trắng tiến bộ kể cả người da đen đều muốn xóa nạn phân biệt chủng tộc khắp thế giới. Tôi thật sự hoan nghênh tư tưởng tiến bộ đó nhưng tôi không ủng hộ tác phẩm này. Tôi nhớ lại hình ảnh Jim và Huck là hai người bạn lênh đênh trên sông. Tôi có thể hóa thân làm một trong hai nhân vật đó.
Trước khi tìm được căn nhà ở Houston, tôi là một đứa trẻ lang thang, không cha, không mẹ. Quần áo chỉ đủ mặc che thân, trong túi chỉ còn mười cents xoay xở sống qua ngày.
Tôi ngồi bên cửa sổ đọc sách dưới ánh sáng nhợt nhạt buổi sớm mai. Tôi lại liên tướng đến những kẻ lừa gạt bọn tội phạm với cả sự ngu dốt. Ngài Clemen đã không ngần ngại nói con người ta
sinh ra đã dốt nát.
Đọc được trăm trang tôi vẫn chưa muốn bỏ cuốn sách, nhưng phải đi xuống bếp làm món ăn Sáng.
Các thứ bột xay với trứng, thịt bày sẳn ra để chuẩn bị. Tôi pha một ly cà phê nhưng chưa làm món ăn ngay vì sợ Jesus ngửi thấy mùi thơm nó sẽ lôi cổ con bé Feather dậy rửa mặt thay đồ rồi ùa nhau ra bàn ăn.
Nhìn thấy nhịp sống bọn trẻ, tôi nghĩ nó còn thú vị hơn là nghe nhạc. Tôi phải sống để được ngắm nhìn bọn trẻ lớn thành người. Không cùng một dòng máu nhưng tôi rất thương yêu bọn trẻ, dù có lúc tôi cảm thấy bị xúc phạm.
Nhiệm vụ của tôi là tập hợp bọn trẻ về một nơi như là “làm phước”. Tôi cứu sống thằng bé Jesus trong ổ điếm lúc nó chưa đủ ba tuổi. Tôi tìm được kẻ giết chết người mẹ da trắng của con bé Feather. Chính ông ngoại của Feather đã giết chết đứa con gái vì nó lỡ sinh ra đứa con da den.
“Kìa bố!” - Trông thấy tôi Feather la ầm lên. Con bé mừng quýnh chạy lại chúi mũi ngay vào đầu gối tôi, nó khóc ầm và tôi phải đỡ nó dậy. Thằng Jesus lặng lẽ bỏ đi vào trong buồng. Mười lăm tuổi trông nó nhỏ con và gầy. Nó là tay vô địch chạy đường trường lúc còn học trường Hamilton School. Nó đứng đó nhìn tôi cười không nói năng gì.
Suốt mười ba năm nuôi nấng Jesus, nó không nói cho tôi nghe bất kỳ việc gì. Có lúc nó viết ra giấy cho tôi đọc. Mỗi lần như vậy là nó muốn nhắc chuyện tiền nong và việc tôi phải đi họp phụ huynh
tại nhà trường.
Jesus lo ăn sáng, tôi ngồi dỗ dành ôm chặt con bé Feather vào lòng.
“Bố làm con đau”, con bé rên rỉ.
“Trưa nay con muốn ăn món bơ đậu phộng hay món salami” - tôi nói với nó.
Tôi cầm cánh tay chắc thịt phơn phớt nâu của nó. Bụng nó đang sôi ùng ục. Chẳng biết nó kêu la hay muốn chạy tới bàn ăn. Nó thét lên:
“Cho con đi! Cho con đi!” - vừa nói nó vừa buông tay ra tụt xuống chỗ ngồi. Nó lục lạo trong danh bạ điện thoại, Jesus làm một miếng bánh mì phết mứt dâu để trước mặt nó.
“Con đang mơ” - Feather vừa nói, mắt nó nhìn vào cõi xa xăm một hồi lâu. Đôi mắt màu hổ phách, mái tóc hoe vàng xoắn tít sáng rỡ dưới ánh nắng mai chiếu hắt qua cửa sổ. “Con đang mơ” - nó nhắc lại. “Đêm qua có một tên mặt mũi kỳ dị vô đây”.
“Người như thế nào?”
Nó giơ hai bàn tay ra, đôi mắt tròn xoe nói - “Con không nhìn thấy hắn, con chỉ nghe tiếng hắn nói”.
“Giọng nói hắn ra làm sao?”
“Như tiếng kêu con cá sấu trong vở kịch Peter Pan”. “Tiếng đồng hồ gõ chứ?”
Jesus gõ tay trên bàn giả tiếng kẻ dịch như thuyền trưởng Hook. Nghe thấy, Feather bật cười thành tiếng làm rớt miếng bánh mì xuống sàn.
“Con làm sao vậy hả!”. - Tôi la nó, chợt tôi thấy mình lỡ lời. Nét mặt Feather hoảng hốt, rơm rớm nước mắt.
Jesus cúi gập người xuống như thế muốn lấy tư thế vụt chạy. Hắn đang thủ thế như trong một cuộc đua - chạy trốn khỏi bọn xấu. Feather khóc nhỏ lại như thể tiếng còi báo động đang rên rỉ. Tôi chạy lại ẵm nó lên ghì chặt vào người.
“Bố xin lỗi con, trời nóng quá nên bố phát cáu”.
Nét mặt con bé còn vẻ run sợ. Jesus làm lại miếng bánh khác và lau dọn sạch sẽ, tôi để con bé ngồi lại xuống ghế.
“Bố bị nóng đầu”, - Feather nói, chợt nó cười rộ lên. Tôi lo sắp xếp túi đồ ăn trưa, còn bọn trẻ mang giày. “Sáng nay bố phải lo cho xong việc, Juice” - Juice là biệt danh
bọn trẻ ở trường học gọi đùa Jesus. Chỉ có mấy thằng dân Mễ mời dám gọi đúng tên cúng cơm của nó.
“Con lo đưa bé Feather đi học”.
“Kho… kho… không!” - Feather khóc thét. Nó chỉ thích ngồi xe tôi lái đưa đi.
Tôi vò đầu con bé rồi bước vào phòng thay đồ đi làm.
Căn hộ vẫn như xưa. Hai bên lối cửa ra vào là những khung kính cửa sổ. Con chó già nua uể oải ngồi bên thềm cửa. Lần cuối tôi ghé qua nhà Odell nó hãy còn bé xíu. Trước ngõ giàn hoa giấy bao quanh hàng rào. Ở đây chỉ thấy toàn là cây cảnh không có bồn cỏ. Odell Jones không thích công việc làm cỏ nên không trồng. Trong lùm cây xen kẻ nhưng cây cam bưởi nặng trìu quả, nhà xây
bằng khối đá cột gỗ dựng thẳng đứng.
Cửa mở. Bên trong Odell đang ngồi trên ghế xoay lưng lại, tôi chỉ có thể nhìn thấy phía sau ót.
Tôi đưa tay gõ cửa và lên tiếng “Chào ông! Odell đấy hả? Tôi - Easy đây”.
Odell ngồi lặng thinh một hồi. Rồi lật tờ báo coi tiếp. “Easy đấy há”, giọng nói vừa cất lên phía sau lưng.
Thì ra Maude, vợ Odell, đang lúi húi dọn dẹp ngoài vườn khuất tầm nhìn. Đầu đội chiếc nón vành mũ che nắng màu hồng, tay cầm cái bay xúc đất. Bà nhoẻn miệng cười nhưng đôi mắt hãy còn ngờ ngợ.
“Kìa, Maude. Tôi vữa mới gõ cửa”.
“Odell đang ở trong nhà, dạo này tai ông hơi lãng”. Có lẽ bà ta nói dối. Tôi biết chắc gã nghe hết chuyện ngoài này. Chính Odell đã cắt đứt quan hệ bạn bè với tôi bao năm nay kể từ lúc gã giúp tôi được một việc.
Lúc ấy, tôi đang cần nhờ một người trung gian giữa tôi với ngài Mục sư Towne, cai quản nhà thờ First African Baptist Church và Odell đã đứng ra giới thiệu. Trong khi ấy Mục sư Towne lại lăn ra chết, bên cạnh là xác chết tín đồ đang quỳ dưới đất. Odell đổ cho tôi còn tôi lại chẳng thèm. Cuộc sống lúc đó quá nhọc nhằn và tôi không thế chối bỏ nỗi đau vừa qua.
“Easy, cậu đến có việc gì không?”.
“Sao cậu chỉ tay đó tới đây làm gì?”, tôi hỏi.
“Tay nào?”
“Nghe này, Maude, cậu không đùa chứ?”
Vợ Odeil thân hình to lớn hai vai không cân đối. Mỗi khi nàng rụt cổ trông y như con ếch no mồi trợn mắt đỏ ngầu.
“Mình chẳng hiểu cậu nói gì, Easy?”. - Maude tỏ vẻ ngạc nhiên. “Bởi vậy tôi mới đến gõ cửa chờ được nghe Odell trả lời chuyện đó”. - Tôi định bỏ đi chợt thân hình to lớn của Maude xô ngả tôi vào cánh cửa.
“Để cho ông ta yên, Easy. Cậu biết là ông ta đã khổ tâm về cậu lắm không”. - Nàng nắm tay tôi lôi về phía thềm của. “Tôi đâu có cho là như vậy”.
“Tôi chẳng biết chuyện gì xảy ra giữa hai người. Không nghe Odell không nói gì cả. Tôi đã nói với ông ta dù sao cũng là chỗ bạn bè không nên làm vậy. Mới sáng nay tôi tính là không tới gặp lại người bạn cũ để bàn chuyện nữa”.
“Nếu không muốn bàn chuyện thì sao lại đưa người lạ kia tới nhà?”
“Mình đã nói với cậu rồi, Easy. Bọn mình có đưa ai tới đâu”. “Có mà”. - Tôi nói lớn.
Tôi chìa tấm ảnh Lynx giao cho tôi. Ảnh này chụp ngay trước cửa nhà Elba Thomas, nàng là bạn gái của Odell xưa kia. Bọn tôi biết là Betty có họ hàng với nhà Odell.
Maude chắp hai tay rồi lặng lẽ van xin.
“Maude”, - Odell đang đứng bên tấm màn. Hắn nhìn ngay về phía người vợ ra dấu tưởng đâu nàng chỉ một mình. “Bà vô nhà lo cho tôi ăn sáng”, gã nói. Gã mặc trên người chiếc áo thường ở nhà.
Có lẽ gã đã về hưu.
Gã quay lại đi vào trong. Maude định bước theo chợt tôi níu tay lại.
“Maude, nói ra đi, không thì tôi ở đây cả ngày”.
“Tôi chả biết gì mà nói” - bà đáp.
Tôi vẫn níu tay không cho bà đi và nói: “Mời ngày hôm qua ông Lynx có tới đây, ông đi tìm Elizabeth. Vậy nàng vẫn còn ở đây phải không?”.
Maude gật đầu nói:
“Marlon bị lao phổi và đã về sống ở California. Họ về ở lại đây trước thời kỳ chiến tranh trước cả bọn tôi và cũng ít khi gặp nhau. Nàng giúp việc cho người phụ nữ da trắng này, không hề tiết lộ cho Odell biết bà là ai quê quán ở đâu. Nếu hai tuần trước Marlon không tới đây thì bọn tôi nghĩ bà ta đã chết rồi”.
“Marlon tới đây làm gì?”
“Gã chuẩn bị đi xa. Nếu Betty có hỏi thì nói giúp vì có việc nên gã phải đi gấp, gã vẫn bình yên và hẹn ngày gặp lại”. “Vậy sao gã không đích thân nói ra chuyện đó?”.
“Làm sao tôi biết được”. - Maude như cố né tránh.
“Marlon còn nhắn nhủ gì nữa không?”
“Chẳng nói gì cả. Tôi mời gã uống nước và nói chuyện với gã, mới hay gã đã xin nghỉ việc”.
“Nghỉ việc gì mới được chứ?”.
“Chuyện đó không nghe gã nói”.
“Vậy thì Lynx cần nhờ vả chuyện gì?”
“Tôi nghe gã kể Betty bỏ việc, ông chủ gọi nàng trở lại, nếu ai biết nàng ở đâu sẽ được thưởng năm mười đô la. Odell đưa tấm ảnh này cho ông ta xem nhưng ông ta không biết hiện nàng đang ở đâu”. - Ngập ngừng một lúc, bà ta nói tiếp:
“Lúc đó bọn tôi nhắc tới tên cậu, Easy. Vì từ nhỏ cậu đã biết mặt Betty, vả lại nghe nói cậu đã từng lao vô việc tìm kiếm người. Odell có cho gã dịa chỉ của cậu dựa trên tấm thiếp mừng Giáng Sinh cậu gửi”. - Maude hồi tưởng lại tấm thiệp đáng giá mười xu tôi đã mua gửi đi với vẻ mặt xúc động, bà nói tiếp: “Cậu có lòng nhờ đến bọn mình thật là quý, Easy. Odell mọi ngày vẫn nhìn vào tấm thiệp đó”.
Tôi lặng thinh không nói gì, nghĩ trong đầu một tình bạn đã phôi pha.
“Ông Lynx không nói do đâu ông có được địa chỉ của cậu, chỉ nói gởi lời cám ơn”. - Tôi cất tiếng, giọng trầm ngâm. Maude là một phụ nữ biết giữ ý giữ tứ, bà nói:
“Làm sao Lynx biết mà tìm tới cậu?”
“Betty cho người chủ thuê mướn biết địa chỉ bọn mình phòng khi hữu sự”. - Tôi giải thích, rồi hỏi tiếp:
“Rồi sau đó Marlon còn đi đâu nữa không?”
“Tôi chả biết” - bà nói - “Gã nghe được, quá hoảng sợ gã nhờ Odell cho mượn tiền nhưng bọn mình đã nghỉ việc”, - bà phân bua “Odell thì chẳng đau ốm nhưng có vẻ suy nhược. Nêu tôi không kiếm ra việc lau dọn nhà cửa ngoài giờ thì kiếm đâu ra để trả tiền thuê nhà”.
“Vậy bà cho rằng Marlon cũng đang đau ốm”.
“Đúng vậy, nhưng không đến nỗi như Martin”.
Vừa nhắc đến Marlon, tôi cảm thấy như chính mình bị xúc phạm. Tôi phải tránh mặt gã vì gã chơi thân với Odell. Tôi không thể nào tưởng tượng nỗi cùng một lúc tôi lại chứng kiến cảnh Odell thờ ơ với tôi và hay tin Martin đã chết.
“Tôi biết chuyện đó”, - tôi nói - “Martin sao vậy?”.
“Gã ho khan, đau lưng dữ dội và mất ngủ hên tục chín tuần lễ. Bác sĩ chẩn đoán bị ung thư, cậu biết bọn bác sĩ một nửa là đoán tầm bậy”.
“Tôi phải tới đó sau khi tìm được Betty”, tôi nói.
“Cậu biết làm sao để mình tìm được Marlon không?”. “Làm sao biết được?”. - Bà quay nhìn ra sau cửa.
“Hắn có biệt danh riêng, phải không?”. Tôi búng tay, cố nhớ cho ra.
Từ nãy giờ tôi mới nhìn thấy Maude nở một nụ cười thân thiện. - “Bluto. Mọi người từng gọi hắn là Bluto”.
“Dựa theo tranh biếm họa Popeye à?”.
“Ồ, không. Ờ mà phải, đúng cái tên đó. Marlon được gán cho cái tên đó bởi hắn thích mang giày da cá sấu do tay da trắng mà hắn phục vụ đem cho. Nhờ thắng cuộc cá độ đôi giày da cá sấu nhưng tay da trắng lại cay cú bởi gã lỡ nhuộm màu xanh nên phải đem cho Marlon”.
“Cậu biết đấy đôi giày trị giá bốn chục đô la, Marlon mang nó trong chân. Hắn được gán cho biệt danh Giày Xanh”. Cả hai chúng tôi đều cười. Maude nắm lấy tay tôi nói:
“Chớ có động đến Elizabeth lúc này, Easy. Odell không nhắc tới chuyện đó, nhưng tôi biết ông mong cậu tìm ra được nàng”. “Làm gì có chuyện đó”
Maude kinh ngạc nhìn tôi. Nhìn qua khỏi đầu nàng tôi thấy Odell lặng lẽ đứng sau cánh cửa.
3
M
arlon Eady có tật thích đánh bạc. Hắn thích đua ngựa, bốc số, bài tây, cỡ nào hắn cũng chơi được. Cứ chỗ nào có bọn thích trò đỏ đen là tìm ra hắn ngay.
Ở vùng ngoại ô Florence, bãi đậu xe siêu thị Safeway và cửa hiệu bách hóa Thrifty đâu mặt với nhau. Đã mười giờ sáng chỗ buôn bán còn thưa thớt người. Hai công nhân vệ sinh đẩy xe lo dọn dẹp vật thải quanh khu vực. Người lái xe ngồi bên hông cửa thò đầu ra nói.
“Thế đấy!” - gã nói cho người công nhân trẻ bốc vác nghe - “Căn hộ màu vàng số Sáu Hai năm thùng rác. Cũng may là ta đã báo cho ông Moul phải có quy định chặt chẽ, nếu không thì bà chủ nhà tuôn ra không biết bao nhiêu đống nữa”.
Lão công nhân mặc chiếc quần vải xám, áo thun ba lỗ cùng màu. Tôi chưa gặp lão lần nào, nhưng tôi đoán tuổi lão phải nghỉ việc từ lâu rồi.
“Ta nghĩ bọn bây phải có nhiều sáng kiến mới được làm chung với ta”, - tay cầm đầu nói ‘ “Mẹ kiếp! Bọn mình làm thêm mấy chuyến xe đây cho ông Moul để kiếm thêm tiền thưởng”. “Có tới ba chiếc xe Vons” - anh chàng kia nói. Hắn người cao
ráo, da nhợt nhạt hai vai nở to như cầu thủ bầu dục - “Ta cho tập trung lại về phía sau kia đi”.
“Sau kia à?”. - Lão công nhân lắc đầu. Hai bên má phúng phình râu bạc lởm chởm. “Mẹ kiếp! Không lui đâu cả. Để bọn chúng đẩy xe đi. Mẹ kiếp! Ta không thèm trả một đồng xu nếu bọn bây không đẩy xe”.
“Bỏ đó đi, DJ”, một công nhân khác nói. Tên hắn là Spider. Hắn cũng đen như lão kia. Nụ cười vụt biến trên gương mặt hắn. Cha hắn sẽ rất buồn nếu nhìn thấy hắn hút thuốc. Thật đấy, ông Hoag phải bám theo thằng con trai nếu cần mang theo súng để bảo vệ đứa con cho nên người.
Nhưng giờ đây ông Hoag đang ngồi tù vì phạm tội giết chết Sam Fixx - tình nhân của vợ. Nhưng Sam Fixx lại chính là cha ruột của Spider.
“Kìa Easy”, Spider cất tiếng chào. - “Ông mạnh khỏe luôn chứ?”. Anh chàng vẫy tay cười chào thân mật. Hắn nhào tới chỗ tôi đứng. Tài xế xe tải nhanh mắt quay lại rồ máy. Thì ra hắn là sếp. Mấy anh chàng kia đi vào bên trong siêu thị.
“Chào Spider”. - Tôi rút một điếu thuốc mời hắn, trong lúc ấy hắn đang phì phà điếu thuốc trên môi.
Hắn giơ tay ra đỡ lấy và hỏi - “Có việc gì không?”.
“Cậu có ghi số máy Willie chứ?”
Spider gắn điếu thuốc sau tai, rút cuốn sổ tay trong túi áo ra. “Đừng, đừng”, - tôi đưa mắt nhìn quanh. Spider mới mười bảy tuổi. Hắn có biết gì chuyện tù tội. - “Ta chỉ muốn hỏi cậu có quen
biết ai không?”
“Ai cơ?”.
“Một gã đàn ông tuổi độ khoảng năm mươi. Tên gã là Marlon Eady, người ta thường gọi là Bluto”.
Một nụ cười thoáng hiện trên gương mặt Spider, hắn nói: “Như nhân vật tranh châm biếm phải không?”.
“Cậu biết mặt hắn à?”.
“Không, Easy. Tôi không có được một số báo châm biếm nào hết. Không. Không có”.
Tôi nhìn thấy gã giống cầu thủ bóng bầu dục trong cửa hàng bước ra theo sau là một gã da trắng cao lớn mặc đồ xanh. Tôi đoán chừng, gã là chủ cửa hàng.
“Hẹn bữa khác đi, Spider” - tôi nói - “Cậu phải cảnh giác nhé!”. Hắn nghiêng người dang tay ra như một tay chơi đường phố. “Tôi biết lo mà”.
Nếu Spider là con tôi, tôi sẽ hất điếu thuốc khỏi miệng nó. Tôi sẽ dạy cho nó biết đứng thẳng người không qụy lụy như bọn găng tơ hay bọn ma cô. Dù sao hắn cũng tự trang bị cho mình mọt nhân cách riêng khiến tôi khâm phục.
Nơi ở của Jackson Blue là một căn hộ trên tầng hai của một khu chung cư. Cả khu chung cư chỉ có hai tầng. Một khu nhà xây tường vôi stuceo chỉ cần lấy muỗng rạch một đường là vỡ vụn. Tôi bước dọc theo chiếc cầu thang độc nhất men theo lối hành lang nhỏ hẹp dẫn đến cửa phòng hắn ở. Tôi gõ cửa mạnh mấy tiếng, tôi chẳng
hiểu sao phải làm như vậy.
Jackson Blue có trí nhớ thật tuyệt vòi, tôi phải phục hắn là thiên tài, tính hắn lại nhút nhát đến phát sợ. Nếu bắt bỏ nó vào trong chiếc lọ, Jackson có thể đem mạng sống của… đổi lấy một bữa cơm thậm chí đánh đổi mười lăm phút ngủ chung với một gái điếm. Người gầy nhom, thích nói dối, sợ cả tiếng bước chân mình đi, vậy mà Jackson là một thằng bạn không bao giờ bỏ tôi, ngoài tôi ra hắn không còn biết đi đâu.
Tôi đấm mạnh cánh cửa bật tung vào trong.
Mẹ kiếp! Làm gì xô cửa dữ vậy”. Trước mặt tôi là một gã mặt mũi bặm trợn. Da thịt hắn sần sùi nỗi gân guốc khắp vùng ngực. Hắn như một võ sĩ quyền anh, đang đứng thủ thế, gương mặt từng trải qua những năm tháng nhọc nhằn không làm sao xóa hết nỗi đắng cay trên khóe miệng.
“Có Jackson Blue ở đây không”, tôi giả vờ như ngây ngô. Tôi học được bài học của dân sống dường phố là nếu ta khúm núm thì sẽ bị ăn đòn.
“Ai hỏi gì đó?” - Một gã từ trong bước ra cất tiếng hỏi. Tôi nhìn đôi mắt gã đục ngầu, hơi thở hôi hám như dân sống ở hang dộng.
“Có phải Easy đây không?”.
Nhìn lại tôi nhận ra đó là Jackson, gã đang bước theo sau người lạ mặt, gã nói:
“Ông cần gặp Ortiz?”.
“Có lẽ vậy”.
“Thôi vô đây”. - Jackson bước lên phía trước chỗ người lạ mặt tên là Ortiz, tôi bước theo sau.
Bên trong gian phòng nồng nặc mùi thuốc lá, cà phê đồ ăn thiu với mùi hôi của hai người lạ mặt bị giam giữ trong xà lim cả tháng. Cả hai để mình trần chỉ mặc độc mỗi chiếc quần rộng thình. Chiếc đai võ sĩ thắt ngang lưng quần của Ortiz tụt xuống. Hắn đứng nhìn về phía tôi.
Thú thật, tôi cũng đang lo sợ cho chính mình. Từ lúc bước vào lãnh địa này coi như tôi thí mạng. Tay mới quen với Jackson này có sức khỏe. Hắn mà nổi giận thì mọi người phải chịu khuất phục hắn.
“Có việc gì không, Easy?”, Jackson nhìn tôi cười có vẻ dễ chịu hơn mọi khi. Hắn ngồi xuống không mời tôi ngồi. Ortiz đóng sầm cửa lại đứng tựa lưng vô tường.
Tôi biết Jackson mê trò chơi cá độ đua ngựa. Hắn đã có lần ngồi tù vì lấy trộm bình ác- quy đem bán. Mãn hạn tù hắn lại chứng nào tật nấy. Tôi chới với bởi vì có một số tay chơi không còn thích tranh đua với trò chơi đỏ đen nữa.
“Mình muốn được yên thân, Blue”, tôi nói.
“Cậu muốn cái quái gì vậy?”. - Đến lượt Ortiz lên tiếng. Hắn nhích ra khỏi tường, một tay đút vô túi.
“Nghỉ cái đã” - Jackson nói lằm bằm trong miệng. - “Easy là bạn của ta, yên chí đi” - Jackson nhếch mép cười nói.
“Tôi đoán cậu là một tay chơi cá độ” - tôi nói - “Có thể tôi đoán nhầm chăng?”.
“Cậu nói sao?”.
“Như thế này, có phải không?” - Tôi chỉ tay về phía hắn đang ngồi. - “Tôi không nghe chuông điện thoại reo”.
Ortiz ho lên một tiếng. Nhìn thấy hắn rút tay ra khỏi túi áo tôi gần như nín thở.
“Có tiếng chuông điện thoại reo mà, Easy”, Jackson nói gạt - “Có reo mà!”.
Tôi ngồi nhìn quanh gian phòng hôi hám. Chợt tôi nhìn thấy cái khay đựng TV ở giữa bàn cà phê. Một cái đĩa đựng đầy cần sa, một hộp hành lát đã hư thối. Khung cảnh bên trong không tương xứng với chiếc nhẫn kim cương đeo ở ngón tay Jackson, da thịt hồng hào cùng với chiếc áo choàng lông chồn bày trên chiếc ghế trường kỷ.
“Trông giống như chỗ xây thêm để ở, phải không Jackson?”. “Đừng cho ai biết cậu tới đây, Easy. Tôi mới nghe cậu nói. Vậy mà bọn mình biết hết”.
“Biết gì?”.
Jackson bước tới cửa phía trước mặt Ortiz, vừa cất bước đi thì tay kia chận lại.
“Cậu sao vậy?”, hắn hỏi.
Jackson rụt tay lại dõng dạc nói. “Không sao cả, Easy đây là chỗ quen biết”.
Jackson bỏ đi, lát sau quay lại trên tay cầm chiếc hộp gỗ màu nâu sẫm. Một chiếc hộp cao ba tấc, có khóa cài nắp. Bên trong đựng ống nghe điện thoại gắn dây điện có pin, mấy cuộn băng chạy transitor hàng của Nhật. Một món hàng trong ngành viễn thông thiết kế thật khéo. Cuộc sống Jackson thì vô tổ chức, nhưng khi hắn bắt
tay vào việc thì tuyệt vời.
“Món gì thế này?”
“Đừng có xía vô!”. - Ortiz lên tiếng. Giá như tôi với hắn ở chung một chỗ trước sau gì cũng có một đứa bỏ mạng.
Jackson không để ý chuyện đó, hắn nói: “Đây là chiếc hộp chơi cá độ đua ngựa, Easy. Ortiz trước kia là nhân viên hãng điện thoại. Khi hắn vô ngồi tù, hắn có cho tôi mấy số. Tôi ghi lại một số phone vô đây đem treo trên cột. Vậy là khách hàng gọi tới đúng số đó. Công việc của Ortiz là trèo lên cột gỡ lấy cuộn băng ra”.
“Giả sử bọn xấu gỡ lấy mất hộp băng thì sao? Hoặc đập vỡ?”. “Dễ gì lấy ra được. Và cũng khó mà đập vỡ. Tôi thiết kế vững chắc gắn thêm một lớp đệm cao su giữa kẽ hở”. - Ngừng một lát, hắn nói tiếp:
“Ortiz lo thu hồi cuộn băng còn tôi ghi cá độ. Một nghìn hai trăm khách hàng với một món tiền tồn quỹ là đủ chơi. Và này, cậu phải nhìn thấy cả bọn gái tập trung về đây”. Jackson đưa hai tay lên vẻ mặt hớn hở - “Tôi vừa tậu một chiếc Caddy đỏ mới tinh để dưới nhà”.
“Bọn da trắng không thích kiểu xe đó, Jackson”.
“Làm sao bọn chúng nhìn ra tôi”.
“Nhờ đón được xe”.
Jackson nhìn chăm chăm Ortiz một hồi. Một nụ cười thoáng hiện trên nét mặt hắn, tôi hiểu là chuyện gì rồi. Jackson không bao giờ làm được trò trống gì. Hắn chỉ có thể nhận một việc tầm thường thôi. Rồi tình cờ hắn gặp và tìm được một việc làm ngàn đô la tuần.
Nếu bọn cớm hay bọn da trắng biết được thì tóm ngay Ortiz, có thể giết hắn luôn. Hắn mới biết Jackson lần đầu có điểm giống như hắn không ham của ai. Ham của à? Mẹ kiếp! Jackson kiếm ra nhiều tiền hơn cả hắn đếm sao cho hết. Thà hắn chết vì ông Blue mà không bỏ ông đi. Vậy là Jackson dời đi qua chỗ khác, không thèm quẳng lại hai đồng xu trước mắt thằng bạn.
Tôi muốn thoát ra khỏi nơi này. Tôi vội đứng ngay dậy Ortiz không kịp cảnh giác. Hắn lục tìm trong túi.
“Thôi về nhé, bạn mình”, tôi nói “Tôi phải về ngay. Tôi đến đây mong tìm bạn cùng sở thích chơi trò đỏ đen. Nói vậy chứ không biết tôi có giúp gì được cho Betty về cái anh chàng điên rồ đáng ghét này”.
“Ai kia?”, Jackson hỏi lại.
“Tên hắn là Marlon Eady, bọn sống ở đường phố vẫn gọi hắn là Bluto”. Tôi nhắc đến hai lần kẻo không rồi tưởng là mình nằm mơ. Jackson nhìn hắn, không cảm tình “Cậu cần gặp hắn có việc gì?”
“Thôi đừng có nói phét, Jackson”, tôi nói “Cậu phải biết hay là không. Hoặc là cậu muốn hay không muốn nói ra. Vậy thì ta tiến hành ngay đi bởi tôi đã tìm ra chỗ”.
Tôi chán ngấy Ortiz, nhìn hắn đút tay vô túi cứng đơ. Jackson sợ tái mặt. Hắn không chịu khi nhìn thấy tôi có vẻ khúm núm. Hắn bi quan về chuyện sống còn.
“Tôi chưa nghe nói tên hắn bao giờ”, hắn đáp, “Nhưng chờ xem thế nào đã”.
“Được rồi”, tôi nói “Mong cậu tìm cho ra”.
4
G
eorgette đang ngồi trước cửa, tươi cười nhìn lũ trẻ.
Bên cạnh là chiếc bàn đặt điện thoại nối từ trong nhà ra ngoài. Cả một chục đứa trẻ da đen trai lẫn gái, áo quần nhếch nhác chạy vòng quanh tay cầm bút. Một ao nước có tới sáu đứa nhào xuống làm nước tràn bờ. Bọn trẻ la hét vui chơi. Chúng thật hồn nhiên có lẽ cuộc sống còn dài mà bọn chúng thì chưa hiểu hết. Tôi bước vào phía trong sân, không khí thật lặng lẽ. Bọn trẻ dừng lại nhìn về phía tôi. Mấy đứa con trai mũi sưng vù, con gái mặc quần hất ngược phía trên. Có mấy đứa té nhào trầy đầu gối. Một chốc ngỡ ngàng chúng tiếp tục lại trò chơi. Nhìn bọn trẻ không có vẻ mệt mỏi hay đói khát. Tôi ước ao mình cũng được hồn nhiên như chúng.
“Kìa Easy”, - Georgette vừa gọi tôi.
Tôi đáp lại bằng một lời chào nhưng có lẽ nàng không nghe thấy. Bọn trẻ chạy lại chào tôi thay vì nàng.
Tôi bước tới chỗ cửa ngõ gật đầu. Nhìn quanh không còn ghế tôi đứng dựa vô hàng rào cửa.
“Cậu đến có việc gì không?”, nàng hỏi tôi.
Tôi không quen thân Georgette lắm. Đã có thời nàng ở cạnh nhà tôi gần khu phố Watts, về sau tôi cùng Jesus và Feather dời qua ở miền Tây Los Angeles.
Tôi dọn về chỗ ở mới từ lúc vợ tôi bỏ đi. Nhà cũ để lại cho người bạn thân Primo và gia đình hắn ở. Tôi đem mấy đứa con qua ở chỗ mới và giấu không cho ai biết. Ở đó chẳng còn ai quấy rầy tôi vì những câu hỏi nhức nhối về vợ và đứa con gái, cũng không có ai thắc mắc về tư cách pháp nhân chăm sóc bảo vệ hai đứa nhỏ Jesus và Feather. Giữa chúng với tôi có một sự đồng cảm sâu sắc về tình người, lúc hoạn nạn có nhau - chớ không phải là sự đồng tình cam kết giữa phiên tòa.
Từ đó tôi bỏ khu phố Watts ra đi. Ban đầu tôi mua được một căn nhà ở khu nhà hàng xóm người da đen trung lưu. Nhưng gặp lúc tiền bạc thiếu hụt tôi bán lại căn nhà và thuê một chỗ ở bên bờ sông Genesse.
Georgette ở phố Me Kinley giữa phố 80 và phố 81. Từ thuở bé, nàng đã ước mơ trở thành cô giáo nhà trẻ.
Muốn được làm cô giáo phải có trình độ cao mới có thể đậu. Thế nên nàng phải qua L.A. Nàng giữ trẻ cho một gia đình tôi quen biết, có khi tôi nhận một đứa về nhà chơi với con bé Feather.
Georgette cũng có ước mơ mà lắm khi không thành. Chuông điện thoại reo, Georgette nhanh tay nhấc lên. “Rõ khỉ”, - nàng nói. Nàng lấy tay đặt lên ống nói, quát “Leo, tránh ra chỗ bẩn đó, con!”.
“Chuyện gì vậy?”, - nàng nói vô máy. Nàng quay lại viết hí hoáy
lên trang giấy kê trên đùi xong rồi treo lên.
“Easy đấy hả?”
“Ờ”, - tôi nói lằm bằm trong miệng - “Cậu, ờ không, cậu vẫn thường chứ?”.
“Cậu nói sao?”, Georgette ngạc nhiên nghe tôi nói.
“Tôi, ờ, mà”, tôi nói lắp bắp, tôi cười rồi cúi xuống tìm chỗ ngồi trên bậc thềm. “Xin lỗi Georgette. Tôi dậy từ lúc năm giờ sáng và đi vòng quanh ngoài phố. Cho đến bây giờ nhưng tới đâu cũng thấy người ta cũng không thích mình vô nhà. Tôi đã từng gần gũi với bọn xấu, bọn cờ bạc và…”. - Chợt tôi nhớ ra một chuyện cần phải hỏi - “Mấy đứa trẻ xinh xắn thế này không nên đến ở đây”.
Georgette cười. Nghe nhắc mấy đứa nhỏ nàng cảm thấy sung sướng. California kể ra cũng được việc cho một số người. “Tôi đi tìm người có tên là Bluto”, tôi nói ngay.
Georgette lắc đầu, tôi không ngạc nhiên vì điều đó. Biết đâu Marlon lại chán cái trò ném tiền qua cửa sổ.
“Tên thật hắn là gì?” - nàng hỏi.
“Marlon”. - Tôi nói “Marlon Eady”.
“Ôi, cậu định nói là Ed Sullivan sao?”.
“Cậu biết hắn à?”.
“Ờ, có. Tôi biết Marlon. Bọn mình không gọi tên hắn là Bluto. Hắn bị tai nạn gãy xương cổ phải nối thêm một khúc. Tôi nghe hắn nói do một tên cớm đánh đập và đã gây thương tích cho hắn. Ban đầu bọn chúng gọi hắn là thằng Cổ Rụt, về sau do hắn được nhắc với một cái tên khác Ed Sullivan, bởi trông mặt mũi hắn như anh
chàng đó. Ờ, đây, hắn dám đánh cá với tôi từ năm 1946. Ái chà, Marlon chịu khó chi tiền hơn mấy tay kia”.
“Cậu biết người chị của hắn chứ?”
“Betty hả?”, Georgette nhìn vu vơ. “Tôi chỉ biết Marlon cả ngày ở bên nàng. Nếu ai muốn nghe kể về nàng hắn sẽ ngồi kể ngày này qua ngày kia”.
“Cậu biết mặt nàng mà?”
“Ôi không. Tôi nghe Marlon kể nàng sống với một gia đình giàu có trong vùng thung lũng. Nàng sống chỉ quanh quẩn một chỗ”. “Cậu biết chỗ hắn chỉ cho tớ đi”.
“Ô không dám đâu. Hắn làm công nhân cho một xưởng hải quân ở vùng San Diego một thời gian rồi được cho nghỉ bệnh. Hắn bị lao phổi vì lao động nặng nhọc. Hắn chuyển qua vùng sa mạc, không rõ là ở chỗ nào”.
Tôi đoán hình như nàng còn nghĩ ngợi trong đầu. Tôi đang cố chờ câu trả lời.
“Ờ phải”, nàng nói lãng qua chuyện. - “Phải, đúng rồi… Linda! Cậu gọi nó là Darleen đi! Nó sẽ nói là không thích đùa”. - Georgette vừa nói vừa nhìn theo con bé đứng giạng chân nhìn đứa kia đang nằm sấp.
Con bé vừa bỏ đi, Georgette vẫn còn chăm chăm nhìn, rồi nàng nói: “Marlon còn đánh cá với Terry Tyler mới đây mà. Lúc còn nhỏ Terry ở đây với tôi”.
“Có phải là tay võ sĩ quyền anh Terry?”.
“Ờ, ô. Chính hắn đó”.
“Cậu chỉ chỗ cho tôi tìm Terry đi”
“Ồ. Không được. Tôi không thích đến nơi hội hè. Cha mẹ hắn đã chết lâu rồi! Tính Marlon giống như ông bố dượng của Terry. Tôi thường đến rủ hắn đi chơi, lúc tôi còn ở nhà cũ”.
Tôi chưa muốn bỏ đi. Nếu Georgette mời tôi một miếng bánh và ly sữa tôi sẽ vào trong phòng khách nghỉ lại trưa.
Sực nhớ tôi đã là một người lớn. Đâu còn những lúc đòi ăn bánh ngọt, mơ mộng.
“Cậu nên cẩn thận đấy”. Tôi nói và đứng ngay dậy. Thằng bé mắc chiếc áo khoác lên, mình để trần và đứng nhìn tôi. Hắn nhìn tôi như thể nó đang đứng bên người khổng lồ, tôi thích thú nhìn gương mặt ngờ nghệch của nó. Tôi không phải là kẻ có sức mạnh cho mọi người trông chờ.
T
5
ôi lái xe về hướng Manchester, tới La Cienega, rồi rẽ qua phố Venice Boulevard. Lúc xe chạy tới phố Pobertson, tôi rẽ qua hướng bắc. Tôi phóng nhanh qua trường học của Jesus tới phi trường rồi tới chi nhánh thư viện L.A nằm ở đấy.
Thư viện L.A rất vắng vẻ chỉ mở cửa ngày thường. Tôi gặp nàng Eto, quản thủ thư viện. Nàng đã từng sống trong vùng sản xuất rượu ở miền bắc lúc gia đình được đưa vào khu trại tập trung trong thời chiến tranh thế giới lần thứ hai. Cha mẹ nàng đã chết trong trại. Sau chiến tranh, nàng Eto về và làm việc tại đây. Nàng rất vui tính, tôi thường giúp đỡ nàng trong công việc.
Một hôm lúc vừa đến trường đón Jesus, tôi thấy nàng có vẻ bối rối. Tôi hỏi nàng và biết rằng, có một tên lạ mặt đến quấy rầy nàng. Nàng hỏi:
“Emory thường lui tới mỗi khi thư viện vắng vẻ, hắn kể lể chuyện sàm sỡ với những phụ nữ Nhật và trẻ em trong thời chiến”. “Sao cậu không đi báo cho cảnh sát?”, tôi hỏi nàng. “Ôi, không”, nàng nói. - “Tôi không cần báo cho cảnh sát”. Có lẽ vì vậy mà tôi phải giúp nàng.
Tôi quanh quẩn chỗ thư viện được vài bữa thì thấy Emory trở lại. Hắn là người da trắng béo phệ, lùn tịt, mặc chiếc quần jean mới tinh, áo sơ mi trắng xăn tay. Gương mặt có vẻ yếu đuối.
Tôi bám theo Emory tới một căn nhà nhỏ ở phố Venice, cách hướng tây National không xa. Khi biết chắc là nhà của hắn tôi gọi cho một người thân là Alamo Weir. Lão Alamo người da trắng gầy nhom xơ xác, lão đã từng cứu giúp tôi lúc bị tù vì khép tội sai. Nhớ ơn lão thỉnh thoảng tôi tìm việc làm cho lão.
Khi đã hòa nhập vào cuộc sống tại L.A. tôi cảm thấy xa rời cộng đồng người da đen, một cộng đồng thiên di từ miền nam Texas và Louisiana, lúc tôi hòa nhập với cộng đồng người da trắng thì lão Alamo là một tay trợ thủ đắc lực. Lão là một tên tội phạm từ khi lọt lòng mẹ. Lão căm ghét bọn Negro nếu không phải là do thế chiến lần thứ nhất gây ra. Lão cứ nghĩ là bọn tướng lĩnh và những nhà hoạt động chính trị người da trắng đã tạo ra bọn người da trắng cùng khổ rập theo mô hình bọn da đen.
Lão nghĩ đúng.
Tôi cho lão Alamo hay là nên kiểm tra Emory còn tôi khi rảnh rỗi thường hay quanh quẩn chỗ thư viên.
Tôi nghĩ phải làm sao cho Emory lo sợ mới được. Tôi thì không thể làm chuyện đó, bởi rất dễ bị lộ. Emory đã từng phục vụ trong quân đội, lúc này hắn lo buôn bán vũ khí lấy trộm. Hắn chở về súng trường Ml, súng ngắn chất trong ga ra.
Alamo đãi Emory uống rượu trong quán bar bọn da trắng thường lui tới, trước đó Alamo đã mua một khẩu súng bảy mươi lăm đô la. Tôi gọi ngay cho một người tôi không thích hiện ở Washington D.C.
Hắn cho tôi hai mươi lăm đô la nhờ một người đại diện ở L.A. giao lại, tôi ghi lại địa chỉ của Emory đưa cho hắn.
Tin được đăng lên báo. Thám tử Craxton của cơ quan FBI tiến hành cuộc lục soát.
Một ngày trước cuộc bố ráp tôi đã báo cho Eto. Nàng không còn lo bị kẻ lạ mặt quấy rầy nữa. Sáng hôm sau tôi đưa cho nàng xem bài đăng trong bản báo Examiner của thư viện.
“Đây là đứa con của cậu”, tôi nói.
Từ đó tôi có thêm một người bạn ở thư viện. Tôi có thể sưu tầm các tư liệu thông tin cần thiết. Nàng Eto yêu tôi. Một tình yêu không như cách thông thường của người Mỹ. Nàng có thể nuôi tôi suốt cuộc đời mà không than trách.
“Nhà ông Eady có điện thoại không?”. Nàng Eto có lần hỏi tôi. “Chắc là có, nhưng có thể là không. Cô nên nhớ là Marlon có tính hay làm mếch lòng người khác”.
“Còn việc làm ăn thì thế nào? Hắn phục vụ cho ai?”
“Hắn đang làm công nhân cho một xưởng hải quân ở San Diego. Hắn thôi việc vì lao phổi”.
“Anh ngồi xuống đi. Có báo đây!”.
Tôi muốn tỏ ra là mình có thể giúp được nàng nhưng thấy coi bộ nàng không để ý chuyện đó. Tôi đến chỗ chiếc bàn ngồi xuống hai tay khoanh lại kê đầu lên.
Tôi ngồi lặng lẽ một hồi, nhắm mắt lại và ngủ thiếp đi. Tôi lại mơ màng nhìn thấy Bruno, nằm yên giấc bên trong chiếc hòm gỗ thông,
nét mặt vô tư không còn cái vẻ vênh váo, hai tay khoanh lại. Tôi đang đứng sau lưng những người chị em gái của hắn, tất cả đều mặc áo tang khóc thương cho một người con trai độc nhất trong gia đình. Mọi người đứng lắc lư xiêu vẹo như muốn té nhào xuống đất.
Tôi không chịu nổi trước hoàn cảnh đau thương. Tiếng khóc của những người phụ nữ theo tôi nhập vào giấc ngủ. Tôi cảm thấy đang chìm dần xuống huyệt mộ. Tối tăm thâm u. Tiếng khóc chuyển thành tiếng gào thét, tôi nhận ra chính mình đang gào thét.
“Đừng cho tôi xuống đó, kéo lên nhanh đi!”.
“Ông, Rawlins”.
Lúc choàng mở mắt tôi nhìn thấy nàng Eto đang chìa ra một mảnh giấy.
“Tôi ghi được”. - Nàng cười nhìn tôi. Tôi cười theo, có lẽ nhờ nàng tôi mới tỉnh giấc mộng.
“Hắn đang ở Mecca” - nàng nói.
“Ở đâu?”.
“Mecca. Đâu như gần chỗ Đài Tưởng Niệm Joshua Tree. Tôi không rõ hắn còn ở thành phố không. Địa chỉ mới của hắn ở RFD”. “Làm sao cô có được?”.
“Tôi hỏi thăm ở hãng patriot nơi làm việc của hắn.
“Chà”, - tôi nói như một tay trí thức đang ngồi uống rượu. “Cám ơn, Eto”. Chợt tôi định nhào tới ôm hôn nàng, nhưng kịp dừng lại. Tôi chìa tay ra bắt, gật đầu theo lối nhà binh rồi bước ra ngoài.
Thời đó ở miền nam California vẫn còn đất sống. Vùng sa mạc
là nơi dừng chân xa xưa nhất của thổ dân California. Ở đấy không có dấu vết nền văn minh. Lái xe chạy hàng giờ không nhìn thấy một bóng người. Không khí ngột ngạt, lượng nước chứa trong mấy bình thủy tinh để trong cabin xe đã cạn kiệt. Lúc dừng lại trạm xăng duy nhất ở Mecca tôi hứng thêm ba bình.
Đàn ông và phụ nữ theo xe tải nhẹ dừng lại chỗ quán cơm có cà phê giá chỉ năm cents một bữa hoặc có khi dừng lại chỗ có cây cối lấy nước từ đường ống tưới cây chà là và xương rồng đang trổ bóng rực rỡ. Dấu vết đường ray tàu hai bên mé đường quốc lộ, tàu lúc đi chạy nhanh đến mức không ai còn nhìn thấy.
Nhân viên bưu điện không biết nhà Marlon ở đâu, bà kể lại hắn thường ra cửa hàng bách hóa lấy thư cách đấy hơn năm chục câysố.
“Có lần ông ta kể cho tôi nghe” - bà nhân viên với nước da trắng, cái gò má xệ nói - “ông ta có dựng một căn lều lợp bằng tấm dầu. Ông hãy đi về hướng bắc, tới chỗ cửa hàng nằm ở ngã tư hỏi thăm. Ông ta thường ra đó nhận thư. Tôi cam đoan có người biết chô Eady đang ở. Còn nếu không, ông cắm trại ở đó vài bữa thể nào ông ta cũng phải tới đó”.
Quả thật bà không nói đùa.
Nhìn hai bên đường hoang vắng, xung quanh không thấy một bóng sinh vật. Tôi chạy dài tới những ngọn đồi trọc, tôi mở hai bên cửa xe, đi chưa hết nửa chặng đường nước uống đã vơi cạn. Đài báo lúc này nhiệt độ một tràm mười sáu độ F. Chiếc quần màu rêu đổi ra màu lục sẫm lẫn mồ hôi. Vùng sa mạc chẳng khác một phạm nhân trọng tội sống trong nhà tù San Quentin. Một tên sát thủ mất
hết nhân tính.
Có khi sa mạc là một vùng đất xinh đẹp. Khi mặt trời lặn, bầu trời một màu vùng xám xịt. Mọi sinh vật có hình thù nhỏ xíu khó tìm thấy. Những con bọ nhỏ xíu cẳng chân vươn dài để cách ly mặt đất nóng bỏng, được trang bị cặp càng đỏ rực chống chọi với một lũ sinh vật to xác hơn chúng. Lâu lâu mới được một trận mưa, lúc ấy nhiều vũng nước hiện ra giữa sa mạc. Dưới lớp bùn đất đã thấy loài tôm về sống, trải qua một đợt thiên di sau cùng trước khi loài khủng long xuất hiện. Sau một tuần sa mạc khoe sắc muôn ngàn cánh hoa nhỏ li ti nở rộ khắp nơi. Rực rỡ ẻo lả, khô cằn lởm chởm vì sa mạc đã hấp thu hết độ ẩm như một vị thần cướp lấy linh hồn của bầy con trước khi chúng được quyền sống.
Đi hết chặng đường hơn năm mươi cây số tôi đến nơi cửa hàng tổng hợp và trạm xăng. Vách ván gỗ đã bạc màu xiêu vẹo, tựa vô mái nhà lợp tôn láng nay đã cong vòng dợn sóng như sắp rơi xuống.
Tôi nhận thấy bảng hiệu quảng cáo Coca- Cola trước kia là màu đỏ nay đã phai màu hồng nhạt. Chiếc vòi bơm xăng để gần cửa trước trông như dụng cụ trong phim thời kỳ 1930.
Tôi dừng lại bước xuống xe, chờ người bán hàng bên trong bước ra.
Chờ mãi không thấy ai.
Tôi bước tới trước cửa. Biết đâu chỗ này không phải là cửa hàng. Bảng hiệu và ống bơm xăng cũ mèm. Nhìn bên ngoài không thấy ai lui tới mua bán. Có thể đây là nhà ở, còn số vật dụng ngoài kia là đồ dùng cửa hàng bỏ lại.
Tôi đứng nhìn về phía chân trời. Không thấy nhà cửa đâu. Tôi gõ cửa, cánh cửa đóng bằng nhiều lớp gỗ dày, gõ mấy cũng không nghe. Tiếng gõ cửa nghe thoảng qua như những người đang ôm hôn nhau ngoài hành lang đêm tối.
“Nghe rồi” - gã nói vọng ra. - “Cứ vào đi”.
Giọng nói nghe thật dễ chịu tôi không ngạc nhiên khi nhìn thấy gã nằm trên chiếc ghế trường kỷ ngay giữa phòng khách. Chiếc tủ lạnh chạy nghe vo ve ở góc phòng hình thù kỳ dị. Trên vách tường lởm chởm gắn mấy hàng kệ để đồ khô, chai lọ và bình nhựa. Có thể đây là một cửa hàng và cũng có thể là nhà ở của một người không chăm sóc dọn dẹp. Một chiếc quạt máy đang quay về phía người nằm trên ghế. Gã mặc chiếc quần sọt võ sĩ quyền anh, áo thun ba lỗ, đầu đội mũ người đi câu cá cũ mèm. Người gã gầy nhưng không cao lắm. Cuối góc phòng bày đồ đạc một cách bừa bãi trên chiếc bục gỗ. Vừa bước ra từ phía sau chiếc bục gỗ sơn trắng gã mới Jên tiếng:
“Cậu đến đây có việc gì?”.
Tôi chới với như người mất hồn. Tôi đoán hắn có súng giấu phía sau nên tôi không dám động tĩnh, nhỡ hắn nổ súng. “Chào ông”, - tôi nói ra vẻ như bằng lòng với không khí ngột ngạt ở đây.
“Cậu đến đây có việc gì?”. - Gã cười nhìn tôi. Nhìn thấy cặp mắt như con chim cổ đỏ của gã còn đáng sợ hơn là gã có súng trong tay.
“Tôi cần mua một chục chai coca”, - tôi nói mà cổ họng nghẹn lại.
“Mỗi người chỉ mua được ba chai”, - gã đáp. Gã gật đầu nhìn về phía chiếc tủ lạnh. Gã không thèm bước tới.
Tôi bước lại chỗ thùng hàng tự tay mở nắp. Tôi mừng đến phát ngất vì hơi lạnh trong thùng phả vào người. Tôi thong thả lấy mấy chai coca lẫn trong lớp thịt nguội đông lạnh có cả một chai rượu gin lâu năm còn nguyên nút khằng.
“Cậu muốn tìm đường đi đâu, hả?”.
Gã dân miền Nam, tôi đoán là gã cỡ bằng tuổi tôi. Tôi chợt nhớ - tôi đang bơ vơ giữa chỗ xa lạ, một chấm đen nổi bật trên nền phông trắng. Dù tôi có thể vụt chạy thoát khỏi tầm đạn bắn, thì có lợi ích gì khi phải giết chết một tên da trắng đang khinh thường tôi? Trước kia tôi đã từng giết chết bọn da trắng và rồi mọi chuyện vẫn đâu vào đẩy.
Dù sao tôi vẫn căm ghét hắn và cả không khí nồng nặc mùi mồ hôi hắn thải ra.
“Kìa Marlon Eady”, tôi nói môi miệng bặm lại.
“Thằng Nigger đấy hả?” - Nụ cười méo xệch biến đổi gương mặt hắn như hình lưỡi liềm ma quái.
Tôi đã từng sống ở miền Nam thời gian dài. Từ nhỏ, tôi căm ghét tên này đến tận xương tủy.
“Ôi”. - Chòm râu thưa với hàm ria mép của hắn dựng đứng quanh miệng như chồi rễ tua tủa cười một cách chế nhạo. - “Cậu đừng hiểu lầm tôi. Bọn tôi thường gọi tên hắn như vậy đấy - hắn thích cái tên đó. Bọn chúng gọi ta là ông Dickhead. Cậu thích được gọi là một tên Nigger hơn hay là Dickhead?”
Trời nóng nực, tôi muốn phát điên vì cái nóng.
Nếu tôi rục rịch bỏ chạy gã còn kịp bắn chết tôi. Tôi không muốn vậy. Tôi đi thẳng tới ngay trước mặt gã bất ngờ xô ngã bục gỗ giật lấy khẩu súng sàn hai nòng. Gã té giật lùi xuống phía sau đụng vào tấm bảng treo đồ nghề kềm búa rớt lổm ngổm.
“Đồ mắc dịch?” - Dickhead gượng đứng dậy, tôi nhanh chân đè xuống ngực gã cho đến lúc gã không còn cục cựa.
“Nằm yên đó, bạn mình”. - Tôi nói như nói với người quen ở quê tôi. - “Nói ra ngay, ông Marlon Eady đang ở đâu?”.
“Mày sẽ gặp rắc rối đấy”, - Dickhead nói như hăm dọa. Tôi chỉa nòng súng vô đầu hắn, bắn một loạt về phía cuối bục gỗ. Dickhead mất hết hồn vía, gã la hét gượng đứng dậy, tay áp sát vô tai. Tôi nhấc bổng súng, dộng báng súng xuống gò má hắn. Hắn nhanh tới ngã nhào xuống nằm một chỗ, nếu hắn cục cựa tôi sẽ cho hắn ăn đòn lần nữa.
“Nằm xuống”.
Dickhead co người lại. Máu me, nước dãi trào quanh miệng, nước mũi chảy lòng thòng rơm rớm nước mắt như muốn khóc. Tôi không thích nhìn thấy hắn đau đớn. Người dân bị áp bức gặp phải một vấn nạn họ không nỡ nào đem cho cái mình đang giữ. Tôi đánh đập tên da trắng thường này bởi tôi lo sợ hắn. Nếu hắn còn gọi tôi là thằng nhóc hoặc là một tên Nigger tôi chỉ tiết nói ấp úng.
“Mày chỉ cho tao biết Marlon Eady ở đâu, tao sẽ để cho mày yên”. - Tôi lại ấn nói theo lối dân miền Nam.
Lúc này hắn nằm một chỗ co giật dưới sàn. Tôi bước tới chỗ tủ
lạnh lấy chai rượu gin ra. Tôi khui nút chai đưa cho hắn. “Uống đi”.
Hắn kê chai rượu rót vô miệng, rượu lại tràn hết ra ngoài ướt cả mặt.
“Rót nữa đi”.
Lần này không tràn ra ngoài. Hắn nghĩ chỉ còn lần này nữa thôi. Hắn tĩnh lại và hít hết nước mũi vào trở lại.
“Marlon Eady ở đâu chỉ cho tao biết”.
“Ta không biết tên đường”, - hắn rên rỉ nói. “Rẽ qua trái cách đây ba con đường, ngược trở lại mười cây số từ chỗ cũ”. “Thôi kể sơ qua chỗ đó đi”, - tôi nói.
Vẻ sợ hãi hiện trên nét mặt hắn. “Tôi sẽ cố nhớ” - hắn nói. Tôi lôi hắn ra ngoài, túm cổ hắn đẩy tới trước xoay đầu qua để hắn không nhìn thấy bảng số xe. Tôi bắt hắn quỳ xuống, tay gỡ lấy bảng số hông xe. Phía sau cửa hàng có chiếc xe tải nhẹ Studebaker màu vàng cũ kỹ trông như chiếc xe taxi. Trong xe còn để chìa khóa. Tôi vơ lấy chìa khóa, nắp điện, bình ác quy, tay lái giao cho Dickhead đem bỏ vào phía sau cốp xe tôi đang đậu. Tôi quay trở vào nhà gỡ máy điện thoại trên tường xuống, đem ra ngoài xe.
“Mi đừng bỏ ta ngoài này một mình không xe, không phương tiện liên lạc”, - gã gào thét.
“Tôi đi theo đường ông chỉ tới nhà Marlon, nếu tìm được, tôi sẽ bỏ lại hết những món này ngay tại ngã ba ông vừa chỉ. Thôi, ngồi xuống và chờ khi nào tôi đi khỏi chỗ này”.
Tôi với gã không có việc gì đáng tiếc, bởi tôi không có ý muốn giết gã.
N
6
gồi bên trong xe, nhìn theo kính chiếu hậu cho đến khi khuất tầm cửa hàng tôi mới chợt nghĩ “Giả sử một thằng bạn hoặc một khách hàng chạy xe ngang qua gặp hắn đang đi tới ngã ba thì sao? Và nếu hắn còn giấu súng rồi phục kích chờ tôi đi ngang qua?”.
Tôi cố gạt chuyện sợ hãi đó qua một bên. Nhưng biết đâu lại có chuyện đó thì tôi cũng không biết cách nào để đối phó. Tôi còn cây súng săn mười ba viên đạn. Tôi sẽ liều chết nếu chẳng may xảy ra chuyện đó.
Bọn người cùng khổ thì lúc nào chẳng muốn chết trước. Bọn tôi sẵn sàng đón chờ kẻ lạ mặt ra tay hạ sát. Bởi vậy nên tôi chẳng thèm đặt vấn đề có một tên da trắng sẵn sàng rút súng khi hắn nhìn thấy một tên Neggro đang đi tới phía trước mặt. Chuyện đó diễn ra ở Mỹ như cơm bữa.
Đi hết cả chục cây số mới tới chặng rẽ lần thứ ba. Hai bên đường là những hàng cây xương rồng cao ngất như đang run sợ vì những nhát dao bổ vào thân cây. Cứ một chặng lại thấy một đống gạch đá bên đường. Đống nào đống nấy chất cao gần cả chục mét không tuân theo trật tự hoặc mô hình sa mạc. Có lẽ mỗi đống gạch
đá là nơi dừng chân lúc trời nắng gắt. Chẳng có ai xếp đặt chuyện đó.
Và cũng chẳng có ai đưa tôi tới đây.
Căn lều lợp bằng giấy dầu, quanh có lưới kẽm bao bọc nằm trên nền xi măng thấp lè tè.
Tôi bước tới gõ vào vách cửa nhưng không nghe thấy tiếng vang, thật chẳng khác nào gõ vào bọt biển. Tôi liền đấm mạnh tay vô vách tường gọi thật lớn “Marlon ơi! Marlon Eady!”.
Không nghe tiếng trả lời. Rõ ràng không nghe thấy động tĩnh gì hết. Buổi trưa ở sa mạc quá vắng vẻ đến nỗi tôi có thể nghe nhịp đập trong lỗ tai. Mồ hôi chạy dài xuống ngực và cả hai chân. Tôi thấy nhức đầu, trời nóng bức khiến tôi choáng váng. Tôi có linh tính tên da trắng điên rồ đang lần theo dấu vết sau lưng.
Tôi bước vào bên trong căn nhà, mồm lẩm bẩm tự trách mình điên rồ.
Mọi thứ ở đây đều gọn gàng tươm tất, không có vẻ gì cầu kỳ. Gỗ lót sàn không bào nhẵn nhưng được chủ nhà lau chùi sạch sẽ quả là một chuyện lạ vì sa mạc là nơi lúc nào cũng nhìn thấy cát và bụi đá.
Ghế ngồi đóng bằng vật liệu gỗ, giường nằm là tấm nệm trải dưới sàn. Bên cạnh giường là một chiếc hộp các tông trên đặt chiếc đồng hồ báo thức đã mười giờ mười lăm nhưng không biết là giới hạn ngày hay giờ tối. Bên cạnh đó là tấm ảnh nàng Betty. Tấm ảnh mới chụp gần đây, nàng mặc chiếc áo bông duyên dáng ngồi trên chiếc ghế mẫu ở phòng chụp ảnh. Tôi lấy đút vô túi đứng nhìn quanh một hồi.
Bồn rửa mặt là một cái thau bằng đồng, không thấy vòi nước đâu. Có lẽ mấy bữa nay không ai sử dụng nên có vài con bọ rầy, con dế chui vào nằm chết dưới nước.
Bên kia phòng là một món đồ dùng duy nhất còn lại. Đó là chiếc tủ gỗ có ngăn kéo, trên cùng là tấm gương soi cao hơn mét. Một cái giá đặt kế bên để treo quần áo. Dù gã gặp phải hoàn cảnh khó khăn nhưng quần áo còn tươm tất. Gã có tới mười hai bộ đủ màu và đủ các loại vải như ga bác-đin, len, vải lanh, vải siu. Gã sắm hai bộ hàng cô-tông chỉ mặc lúc trời nắng gắt ở sa mạc. Bảy chiếc mũ treo trên móc gắn vô tường lợp giấy dầu.
Trong ngăn tủ đựng nhiều khăn mù soa, áo lót vải siu có cả quần cụt cũng bằng vải siu. Bên trong có cả một ngăn tủ nhỏ đựng đồ nữ trang. Bộ nút măng sết nạm hạt rubi, chiếc nhẫn nạm kim cương tấm, cái kẹp tiền giấy bằng bạc với một xấp giấy hai đô la, một số bút nịt to bản, chỉ có dân Texas mới thích thứ này.
Ngoài ra còn có một xấp tạp chí trình bày người mẫu mặc đồ đen bó sát người, ảnh chụp mờ mờ theo kiểu trắng đen. Bên dưới là một chồng thư nhưng không có cái nào của Betty. Đứng ở bên trong căn nhà tôi như muốn xỉu. Marlon bỏ đi có lẽ vì không chịu nổi cái nóng. Mọi người đều không chịu nổi cái nóng ở đây.
Tôi không đến đây để ra về tay không.
Còn mấy chiếc quần dưới sàn kế bên chiếc hộp các tông. Đó là trang phục lao động chỉ mặc trong nhà. Có lẽ Marlon bỏ lại và ăn mặc đàng hoàng mới ra đi. Tôi dò trong túi sau còn cái bóp. Không còn bao nhiêu tiền, chỉ có tám đô la và mấy đồng tiền lẻ. Nhưng bù
lại một tấm séc gã đứng tên ghi năm ngàn đô la - tôi không thể bỏ.
Tôi trở ra ngoài dò tìm quanh phía sau.
Phía sau căn lều có một hố xí. Tôi bước tới mở cửa, cả bầy chuột nhắt phóng ra quanh chỗ tôi đứng, một mùi hôi thối xông ra. Chỗ ngồi bàn cầu là cái chậu bằng nhôm, quanh mép có viền cứng để dễ ngồi.
Có cho tiền tôi cũng không dám ngồi. Không phải vì mùi ô uế xông lên từ lỗ cầu nhưng mà vì cả bàn cầu lúc nhúc những vệt đen sì từ trong ra ngoài.
Nhìn khắp gian phòng chỗ nào cũng đầy những cục đất đen sì khô queo vì ánh nắng chiếu vào chỗ hố xí không mái che. Ở trong góc sau bàn cầu là một đống chát thải sền sệt trên mặt phủ một lớp mủ trắng.
Tôi quỳ xuống đất, để nhìn cho rõ cái đống nhầy nhụa trăng trắng này. Có một chiếc răng trong đống phân. Tôi lấy dao nhíp và chiếc khăn mù xoa lúc lấy chiếc răng khỏi đống phân khô. Một chiếc răng hàm còn đủ cả chân răng nguyên vẹn. Người nào nhìn không kỹ tưởng là răng giả. Nhưng ai lại đem quăng chiếc răng giả xuống đống phân trong hố xí?
•••
Đến chỗ ngã ba, nhìn quanh không thấy ai. Tôi dừng lại rất lâu để quăng mấy món đồ gỡ trong xe ô tô của Dickhead và chiếc điện thoại xuống đất. Tôi giữ lại khẩu súng săn với mấy món đồ dùng lặt
vặt của Marlon như: thư từ, cái ví tiền, đồ tạp chí in hình mấy nàng da đen khỏa thân mờ nhạt.
L
7
úc này thì không còn hy vọng gì nữa. Tôi phải lên đường trở về nhà. Đã bảy giờ tối ánh nắng chiều còn đọng lại, trải dài trên những nẻo dường thành phố. Tôi cho xe chạy vô đường dành riêng, chợt có người chạy ra trước đầu xe. Tôi đạp thắng miệng chửi thề.
Gã người da trắng cao ráo tóc đen để dài có điểm vài sợi bạc - Hàm ria mép đen rậm tương xứng với hai hàng chân mày. Gã Roger “Lucky” Horn là sĩ quan không quân về hưu. Gã giữ một chân quản lý hàng PX tại căn cứ Norton Air Force Base suốt mười bốn năm. Trước kia gã lái máy bay phi vụ tiếp tế cho hậu cứ lực lượng dân quân trong thời kỳ thế chiến lần thứ hai. Lucky quê quán ở California. Vợ gã, April là bạn học chung trường trung học Santa Barbara. Đám cưới hai bên tổ chức một tuần trước ngày khủng hoảng thứ sáu đen tối và cuộc khủng hoảng tài chính.
Lucky có đôi mắt sâu, tròng đen lờ đờ, bí hiểm như một tín đồ sùng đạo. Tôi chưa nghe gã nói xấu ai và cứ mỗi chủ nhật gã sốt sắng mời tôi và mấy đứa nhỏ đi lễ nhà thờ ngoài phố Olympic Boulevard. Và mỗi tuần, April thường làm bánh cho Feather và Jesus ăn, nếu bọn chúng chạy chơi bị trầy đầu gối là bà ta chăm
sóc chúng rất chu đáo.
Mỗi khi tôi có việc đi xa đều nhờ nhà Horn trông giùm mấy đứa nhỏ. Thật là một gia đình tốt bụng và tôi cũng không quan tâm vì sao họ là người da trắng.
“Đừng có đi lùi phía sau kia, Easy” - gã nói qua cửa xe. “Sao vậy?”
“Chạy vòng ra sau vườn tôi chỉ đường cho”.
Tôi nghe lời đi theo vòng ra phía sau vườn. Được một chặng gã quay lại nhìn tôi rồi đặt ngón tay lên miệng.
Nhà tôi và nhà Lucky ngăn cách bởi là một hàng cây cao và bụi cây rậm rạp. Những cây muồng, cây quất, cây mộc lan, hàng tre xanh xén bằng đầu ngọn làm đường ranh ngăn cách giữa hai nhà. Nhà tôi bên phía cây được tỉa gọn thẳng tắp để nhìn thấy ánh nắng ấm áp. Nhà Lucky thích để nhánh cây chằng chịu trên chặng đường xe đi vô nhà tạo một cảm giác được đi dưới tàn cây trong rừng, có lúc thấy tối tăm như đứng dưới đường hầm.
Bà Horn đang đứng gần bên hàng cây ở sân sau. Bà có vẻ bồn chồn, đứng ngồi không yên. Lucky lặng lẽ bước tới kéo người vợ gầy nhom qua một bên, gã rón rén lấy tay gạt bụi cây dương xỉ, quay qua nhìn tôi ra dấu nhìn vào chỗ lỗ hổng bụi cây.
Tôi cảm thấy hơi mệt gượng cười nhìn qua phía sân nhà mình. Cả một khoảnh đất cỏ mọc đầy, xung quanh là bụi rậm xen lẫn bụi cây hoa hồng vàng đỏ. Jesus và Feather đang đứng đó, chúng mặc đồ tắm, nằm trên tấm các tông phơi nắng. Bên cạnh là ống nước đang phun. Mỗi khi tôi đi đâu về trễ, con bé Feather rất lo sợ, Juice phải tìm cách cho nó đùa giỡn dưới nước.
Juice nằm hai tay gối sau ót mắt nhắm nghiền. Feather nhìn thấy bắt chước. Tôi không nhìn thấy đôi mắt nó ra sao bởi nó đeo kính đen mua trong khu giải trí Disneyland.
Tôi phải tỏ ra là một người cha gương mẫu. Vậy sao tôi lại đòi đấu súng với anh chàng da trắng xa lạ kia trong sa mạc? Tôi làm tất cả vì bọn chúng, và rồi lại bỏ phí thời gian mạo hiểm vô ích trong khi bọn trẻ đứa nào cũng dễ thương đang ở ngay trong nhà mình.
Tôi định quay lại. Tôi muốn trở về nhà ôm hôn mấy đứa con, gọi máy cho ông L- Y- N- X gởi tiền trả cho ông ta rồi đi tìm một việc làm bình thường sống đời lương thiện.
Tôi định quay bước trở lui chợt Lucky níu tay lại. Bất chợt giọng nói của bọn trẻ vang lên:
“Mặt trời trên kia cao bao nhiêu, Juice?” - Feather vừa hói. “Anh không biết. Mà cao lắm đấy. Anh không muốn nhìn thấy đứa em gái rơi từ trên đó xuống”.
“Không dám đâu!” - Feather lắc đầu quầy quậy, cặp kính mát nghiêng qua một bên. Con bé xinh đẹp quá khiến tôi quên mất câu nói của Jesus.
Jesus xích lại chọc léc nó. Con bé kêu ré lên:
“Thôi! Không đùa!”.
“Ta tóm được rồi”. - Nó cười với con bé - “Tóm được rồi!” Lần đầu tiên tôi mới được khóc vì sung sướng. Bước chân tôi loạng quạng, Lucky nhanh tay chộp lấy áo, sợ tôi té ngã. Mà có thể tôi té xuống đất thật đấy. Tôi có thể tự buông mình ngã nhào ngay lúc này, tôi không còn biết gì về quy luật của tự nhiên. Theo định
luật vạn vật hấp dẫn, tôi đang buông lỏng, bay vút lên cao về tới nhà.
“Ông ta nói gì kìa?”. April nói nhỏ vào tai tôi.
Tôi không nghĩ là bà ta ngớ ngẩn đến nỗi kể lại chuyện tôi đã biết. Bà có thể nói ra câu đó cả ngàn lần cũng chẳng sao.
•••
Tôi phải về nhà để lo cơm tối. Tôi định chạy ra ngoài sân nói chuyện với Jesus, nghĩ sao tôi lại thôi. Mười phút sau con bé Feather, chạy vào la lên. “Cha ơi! Juice, cha về kìa!”
Con bé chạy từ phía cửa sau tới, đến đứng bên chân tôi, ôm chầm lấy tôi và nhe răng cười một cách trìu mến, chỉ có bọn trẻ mới có được thứ tình cảm đó. Tôi xoa lên mái tóc màu hung hung chợt nhớ đến đứa con gái ruột của mình hiện đang sống ở Mississippi. Regina - vợ tôi bỏ qua Mississippi mang theo Edna và nó đã gọi Dupree Bouchard - người bạn một thời của tôi bằng bố. Mỗi khi nhớ tới chuyện đó tim tôi chợt nhói đau.
Con bé Feather chạy vào trước, một lát sau mới thấy thằng Jesus. Nó đứng nhìn tôi, tim tôi đập loạn xạ. Chợt nó nhào tới ôm chầm lấy tôi, nhìn vào mắt tôi rồi lặng lẽ nở một nụ cười như bao lần trước đây.
“Đứng đó!” - tôi quát rồi bước tới chỗ bếp nấu ăn để che giấu những giọt nước mắt vui sướng đang trào ra trong khóe mắt. Tôi làm bánh hamburger với món xà lách trộn cà chua, hành tây, tỏi xay. Bọn trẻ ăn sạch còn kêu tôi xuống bếp làm thêm.
Tôi nghe con bé Feather kể chuyện đi học ở trường. Nó nổi quạu vì bọn con trai không thích nó. Còn Jesus thì gật đầu, cười khom người trả lời mỗi khi nghe tôi hỏi. Nó thắng cuộc đua chạy bộ do trường tổ chức thi đấu với một trường khác.
Tôi bỏ ra mấy tiếng đồng hồ căng thẳng trao đổi với thầy giáo hiệu phó trước khi cuộc đua bắt đầu.
Một số đứa bạn học thì nhạo báng nó bởi nó là dân Mễ nhỏ con ít nói. Dẫu có vóc dáng thấp hơn bọn kia nó không hề tỏ ra nao núng. Nó đã chơi là chơi tới cùng không bỏ cuộc. Hắn không sợ chuyện đổ máu hoặc một mình chọi với số đông.
Tổ chức muốn đưa nó vào nhà trừng giới và tôi đã chống lại. Tôi đang lo cho nó học, ở nhà còn hơn là vào đó để mang tiếng trẻ phạm pháp.
Nó là con tôi. Tôi với nó không cùng chung máu mủ, nó muốn ở với tôi, tôi cần có nó sớm hôm - thử hỏi có tình cha con nào được hơn vậy.
Cho đến bây giờ nó vẫn chưa chịu nói cho tôi nghe về hoàn cảnh của nó. Và đây là điều làm tôi nhức nhối.
Khi Jesus đã vào giường ngủ, tôi với con bé Feather coi chương trình Dobie Gillis - Nó thương lão Maynard G. Krehs, còn tôi thích người cha tính dè sẻn với mọi thứ trong cửa hàng. Lão còn biết có rất nhiều người làm ra của cải vật chất thì lại có kẻ muốn cướp đi.
“Sao thằng Juice không chịu kể cho bố nghe?”, - tôi hỏi. “Anh ấy sẽ kể bố nghe mà. Hình như anh ấy không muốn nói điều gì đó”.
“Sao lại không muốn nói?”.
“Tại vì”, - con bé đáp. Vừa lúc đó Maynard trở lại trên màn hình. Có tiếng người nói “làm đi”, lão có vẻ bực mình. Tôi chờ đến lượt chương trình quảng cáo thương mại, tôi mới hỏi lại nó. “… Feather?”
“Dạ?”
“Tại sao thằng Juice không chịu nói ra?”.
“Tại anh ấy không thích bố nói chuyện”, - con bé nghĩ sao nói vậy. - “Nhưng mà không sao bởi anh ấy thương bố.
“Bố buồn vì nó không chịu nói năng gì hết”. - Nghĩ lại tôi thấy mình đi quá xa, vì đã hỏi những chuyện ngoài tầm hiểu biết của nó. Tôi thì lại muốn chính tai mình nghe Jesus kể lại. Nó đã tự xem thường như một đứa con nít, tôi không để cho cái xấu lấn lướt và không cho nó nói lại với tôi.
Con bé Feather đặt tay lên ngón cái để tôi nhìn nó.
“Thôi, bố ơi”, - con bé nói - “Anh ấy chưa nói ra bây giờ đâu”. Tôi tưởng như đó là tiếng nói của tôi từ miệng nó vừa phát ra. Nó đứng dậy vòng tay qua đầu tôi ghì chặt vô người như tôi đã từng ôm ấp nó lúc còn bé hoặc khóc và buồn tủi.
“Thôi con đi ngủ đi”, - tôi nói với nó, tôi muốn làm chủ được với chính mình.
Trên bàn cà phê trước mặt tôi là một tấm ảnh mới chụp và một cái đã cũ, một tờ lộ trình xe buýt, một chiếc răng hàm dính máu, một tấm séc năm ngàn đô la để tên Sarah Clarice Cain ở Beverly Hills.
Theo ngày tháng ghi trên tấm séc thì nàng ghi lại cách nay hơn hai tuần lễ.
Tôi không phải làm việc gì cả. Tôi không có hợp đồng với ai. Tôi không phạm một tội nào hết.
Đấy là lúc Martin Smith trở lại với tôi. Cái đầu hắn nhỏ xíu hai bàn tay to ngón nào ngón nấy mập ú. Nếu không nhờ có Martin và Odell thì tôi đã chết từ lúc nhỏ. Họ đưa tôi vào nhà cho ăn uống đầy đủ trong khi ngoài kia trời lạnh buốt không có một miếng ăn.
Tôi biết là phải đi thăm Martin trước lúc hắn chết. Tôi cần phải đi ngay.
Vậy là tôi quyết định ra đi gặp lại Martin - sau khi kiểm tra lại mọi thứ để trên bàn.
T
8
ôi thức giấc, mình mẩy toát mồ hôi lạnh, Bruno nằm dựa vô cửa nhà hàng thịt hai mắt mở trao tráo. Hắn cần tôi đến ngay, tôi thì không thể nào bước ra khỏi cửa. Tôi nghe hắn lầm bầm gọi tên tôi, hơi thở hắn hổn hển. Nếu chết thì tôi không thể gặp được Mouse. Không cách nào đi được.
Tôi bỏ con bé xuống trường học ở phố Burnside rồi cho xe chạy về hướng nam. Tôi đang còn chới với vì cơn ác mộng, lại phải lo giải quyết công việc sáng nay do dậy trễ, vậy là tôi phải giải quyết việc cần trước. Nếu trong túi tôi còn tiền thì chẳng cần phải đi tìm chủ nhân chiếc răng nhặt được.
Tới gần khu phố Crenshaw và Santa Barbara, trước mắt là một dãy nhà tiền chế nhỏ hẹp trên nóc dựng tấm bảng lớn, cao hơn sáu mét ngang hơn mười mét. Bảng sơn vàng với hàng chữ lớn CÔNG TY NHÀ ĐẤT.
Bên trong văn phòng bày biện như một căn phòng với bốn chiếc bàn sắt nền tráng xi măng. Bàn xếp theo hình thoi - mỗi bàn đặt ở giữa cách vách ngăn. Renee Stewart ngồi chỗ bàn nhìn ra cửa. Chị nàng, Clovis Mc Donald ngồi ở cuối dãy.
“Ông đến có việc gì ạ?”, - Renee vừa hỏi, vờ như nàng chưa gặp tôi lần nào.
Tóc nàng uốn quăn nước da đen đến nổi không còn có thể đen hơn nữa, vậy mà môi miệng và mũi nàng giống như dân ở vùng Caucase. Renee người gầy nhom, ngón tay sơn đỏ chưa kịp sửa lại, nàng mặc chiếc áo màu xanh sẫm, nếu đứng từ xa nhìn tới tưởng như nàng đang trần truồng.
“Tôi cần gặp Clovis”.
Clovis ngồi gần đó có thể nghe thấy, nhưng Renee đứng ngay dậy nói xen vào.
“Để coi có ở đây không”.
Renee mặc đồ không thấy mông đít, bước đi tự nhiên không ai để ý. Nàng bước đi uốn éo thân mình tới chỗ Clovis ngồi hai tay chống xuống bàn.
“Có khách cần gặp”, tôi nghe tiếng nàng vừa nói. Nàng chỉ tay về phía sau.
Nàng quay về chỗ cũ ngồi xuống ngước nhìn tôi.
“Mời ông vào”, vừa nói xong tay nàng nhác máy quay số. Clovis không muốn đứng dậy. Nàng cũng không thèm đưa tay ra bắt theo đúng phép lịch sự.
“Chào ông Rawlins”, - nàng vừa cất tiếng.
“Kìa, Clo”, - tôi đây. - “Cô định dựng bức tường ngăn cách hay sao?”.
“Hở?”.
“Đấy, cô để cho Renee giả vờ như không biết cậu ngồi ở đâu.
Tôi nghĩ cậu đang tính chuyện ngăn cách”.
Clovis không có óc khôi hài. Cuộc sống chật vật nàng không có dịp được cười. Người nàng thấp nhưng đẫy đà, nước da màu bánh mật. Khuôn mặt ngắn nhờ ra phía trước như một võ sĩ quyền anh đang ra đòn chờ xem đối thủ nhăn mặt. Chân mày rậm trông như đàn ông, vầng trán nhăn như đang có chuyện gì phải suy nghĩ.
“Ông đến có việc gì, ông Rawlins?”.
“Tôi đến để biết chừng nào công ty dời về Freedon’s Plaza. Cô biết là tôi chỉ có ít tiền”.
Clovis chăm chăm nhìn tôi như một kẻ cù bơ cù bất chứ không phải là một thành viên của công ty.
Nàng quê ở Dallas, nàng di cư qua L.A. sau cái chết đau đớn của một anh chàng tên “Jammer” Jerry Redd. Có lẽ Jerry đang để ý dòm ngó đứa em gái út của Clovis. Nhưng Clovis gạt hắn ra bằng một khúc ống nhựa nàng giấu trong chiếc áo dài. Ba hôm sau Jerry chết, tòa xử Clovis đã phòng vệ chính đáng và được trắng án. Băng nhóm của Redd đòi lầy đầu Clovis.
Hai mươi lăm phút sau khi phiên tòa xử xong, Clovis ngồi xe buýt đi Los Angeles.
Clovis đến L.A. năm 1955 trong túi chỉ còn vỏn vẹn sáu mươi lăm đô la. Nàng thuê phòng ở phố 103rd Street, tìm được một chân phục vụ nhà hàng nơi Mofass nhân viên sở nhà đất và tôi thường ghé ăn. Clovis rất lễ độ mỗi khi chúng tôi đến ăn, cô ấy cũng kính nể Mofass hơn bởi nàng cho hắn là ông chủ. Tôi thích đóng vai nhân viên dưới quyền hắn. Tôi được tiền không phàn nàn gì hết. Mọi người tử tế với tôi bởi họ mến tôi. Chẳng có ai lo lót cho tôi như
Clovis biết lo lót cho Mofass.
Thời kỳ đó Mofass đổ bệnh, sụt mất hai trăm ba chục Pounds, hơi thở nặng nhọc như một con chó con. Hắn bỏ hút xì gà vì căn bệnh tàn phá hai lá phổi. Lúc đó hơi thở hắn nghe như bầy cá heo đang réo gọi hắn dưới nước trong khu công viên Pacific Ocean Park.
Mofass rất thích những món ăn do Clovis nấu sẵn ở nhà hàng. Hắn thuê phòng trọ ở phố Spruce đối diện chỗ ở của Clovis. Vậy là nàng có cơ hội để phục vụ hắn những món ăn tươi ngon miệng.
“Người có địa vị cao như ông thì đâu phải ăn đồ hộp”, - nàng nói, rồi nghiêng người xuống nhìn thấy cả bên trong. “Em sẽ mang đến cho ông món ăn tươi nếu ông có yêu cầu”.
Họ thuê nhà ở chung chưa được ba tháng. Ngay cuối năm đó. Công ty nhà đất được thành lập, Clovis lo phần quảng cáo việc kinh doanh khắp vùng phía nam L.A.
Quả thật Clovis có biệt tài kinh doanh nhà đất. Nàng chọn ra một danh sách công nhân thuộc hạng trung lưu kêu gọi đầu tư xây dựng chung cư. Mofass với nàng quản lý tài sản, phân công Clovis giao dịch với chủ đất giàu có trong giới da trắng. Nàng cam đoan sẽ đặt quyền lợi dân da trắng lên trên bọn hàng xóm da đen bởi nàng biết rõ từng ngở ngách, được người thuê mướn tin cậy.
Trong vòng ba năm, tập đoàn Freedom’s Trust là một tổ hợp kinh doanh của dân Negro, sở hữu mười hai dãy nhà còn công ty Esquire Redly là người đại diện hợp pháp cùng với hai mươi dãy nhà do dân da trắng ngoài công ty quản lý.
Công ty Esquire do tôi đại diện trong phạm vi cho phép, vậy mà
Clovis không hài lòng. Trước đây nàng biết tôi nắm hết toàn bộ tài sản do Mofass đứng tên nhưng lại không chịu nhìn nhận tôi là một người tài ba.
“Ta không thể dời qua bên Freedom’s Plaza”, - nàng nói. “Cô nói sao?”.
“Chẳng ai thèm đếm xỉa đến bọn mình đâu”.
“Còn luật sư đâu?”, - tôi hỏi lại.
Clovis cong môi lên tỏ vẻ căm giận, nàng nói: “Chẳng giúp gì được. Cả khu đất đã quy hoạch. Chính quyền thành phố định xây dựng một nhà máy xử lý chất thải tại đó”. - Clovis nhìn lại hồ sơ để trên bàn. Nàng muốn báo cho tôi biết không thể nào bàn đến chuyện đã được dự báo trước.
“Nhưng ta đã được phép. Nếu được phép thì tổ chức phải tôn trọng lời hứa, đúng không?”
Tổ hợp Freedom’s Trust là một ý tưởng đáng đề cao nếu Clovis bắt tay vào việc. Dưới bàn tay mọi thứ đều sinh lợi nên khi tôi gợi ý nàng vui vẻ chấp nhận ngay và cả tôi cũng hài lòng.
Tôi còn sở hữu một số tài sản có giá trị ở thành phố Compton, tôi được quyền ưu tiên mua thêm nữa. Clovis tập trung toàn bộ tài sản của Freedom’s Trust mua một khu đất kế cận theo thỏa thuận xây dựng một trung tâm thương mại riêng biệt là Freedom’s Plaza, gồm có siêu thị, cửa hàng thiết bị gia dụng và một dãy cửa hiệu nhỏ do người da đen làm chủ và quản lý tài sản.
Tất cả đã lên kế hoạch và được phép xây dựng. Tôi phải vay
tiền để thực hiện kế hoạch và muốn thành công thì phải chi thật nhiều tiền. Mọi việc được bàn tính chu đáo ngay buổi sáng hôm nay. Phải nói là quá trình chuấn bị có chậm hơn. Tôi cảm thấy chưa hài lòng nhưng không nghĩ là giấy phép bị gác lại.
“Nếu lỡ chi phí hết mà chưa xong công trình thì sao?”. “Chính quyền thành phố cho ngưng thi công công trình, hoàn trả đúng giá trị sử dụng đất”.
“Nhưng chúng ta chưa thực hiện kế hoạch, còn nợ chi phí, tiền thuế”, - tôi nói - “Giá cũ chưa công khai đã chiếm hết một nửa số dư nợ”.
“Ta thử thời vận xem sao, thưa ông Rawlins. Dù sao ta phải lo trả chi phí cho kế hoạch và tiền thuê luật sư, kể cả chi phí quản lý”. “Phí quản lý là sao? Cô đòi tôi phải trả nợ sau khi chi hết tiền của tôi sao? Tôi không còn một xu dính túi”.
“Ông còn mấy dãy nhà đó, ông Rawlins. Bán đi hai dãy đủ tiền trả nợ, còn dư chút tiền bỏ túi”.
“Nói sao?”, - tôi bước tới đứng tựa sát mép bàn, vừa lúc đó cánh cửa mở ra. Tôi không cần phải quay lại nhìn bởi nghe tiếng bước chân nện thình thịch biết ngay là bọn Tyrone, Clavell, Crover and Fitts - mấy đứa em trai của Clovis. Trước đó Renee đã gọi máy cho bọn chúng. Hễ lúc nào Clovis cần là bọn chúng đến ngay.
“Ông nghe tôi nói chứ, ông Rawlins”.
“Tôi muốn nói chuyện với Mofass về chuyện này”. Tôi nghe có tiếng vo ve trong đầu. Cái nóng bên trong gian phòng khiến tôi căm ghét bọn chúng.
“Ông đang nói chuyện với tôi đây, ông Rawlins. Tôi đang có mặt tại văn phòng. Ông muốn nói chuyện riêng với tôi sao?”. Tôi đứng ngay dậy xô ngã chiếc ghế. Tôi bước đi ngang qua chỗ bọn trẻ đang đứng, ra thẳng ngoài cửa.
Mùa này ở Santa Ana thời tiết khô khốc, cơn gió nóng như chắn ngang trước mặt tôi, mồ hôi ướt đẫm xuống dưới chân, tôi vừa ra tới chỗ chiếc xe Pontiac đời 56 đang đậu. Khẩu súng săn của Dickhead còn đó. Tôi bẻ gập đôi nạp đạn vào. Chỉ cần bắn hai phát cũng đủ gây sát thương những ai đang ở trong phòng. Tôi với tay lấy túi đạn để nạp thêm nằm trong góc chỗ để lốp xe, và tôi nhìn thấy con búp bê của con bé Feather kẹt trong đó. Hai tuần trước nó chạy đi lục tìm mãi, mất con búp bê nó khóc suốt cả mấy đêm liền, nó lo sợ không ai cho búp bê ăn. Trong thoáng chốc tôi quên hết nỗi tức giận, hình dung vẻ mặt hớn hở của con bé lúc tôi đem về con búp bê dính lem dầu nhớt xe.
“Rawlins”, - Fitts vừa cất tiếng, giọng có vẻ như kiêu ngạo. Hắn đứng trước đầu xe.
“Gì hở?” - Ngồi trong thùng xe, liếc nhìn thấy hắn, tôi vui miệng đáp .
“Tôi muốn nói là ông bỏ xe đó.
Fitts còn trẻ, khỏe mạnh. Hắn cố làm ra vẻ nhăn nhó nhưng vẫn không che giấu được nét mặt non choẹt của hắn.
Tôi buông súng xuống đóng cốp xe lại.
“Cậu đừng bận tâm đến tôi”, - tôi nói - “Tôi đây mới đáng phải lo”.
Không để hắn kịp mở miệng, tôi đi ngang qua trước mặt mở cửa xe ngồi trước tay lái. Fitts đứng nhìn chăm chằm vào cửa hông xe, vẻ mặt hắn ngờ nghệch. Hắn nhìn theo xe tôi, bọn anh em nhà nó chạy tới xúm nhau lại bu quanh nó như đối với chó nhà.
Nghĩ tới thằng nhóc đó, tôi chới với. Hắn chẳng có được một khái niệm đơn giản nào về thế giới quanh nó. Hắn còn trẻ khỏe mạnh, còn có anh chị em lo lắng chăm sóc cho hắn.
Tôi có thể giết nó - vì một duyên cớ không đâu. Rồi có ngày hắn sẽ bị người ta giết chết. Như Mouse đã giết Bruno.
Tôi muốn giết luôn cả Clovis, nghĩ lại không có lý do gì phải giết nàng. Nàng có tội tình gì. Lỗi tại tôi mà ra. Tôi muốn giành phần thưởng của tên da trắng, và rồi bị tóm. Tôi đã quên đi bài học lúc nhỏ là phải biết thân phận mình. Tôi thật là điên rồ. Đến lúc này tôi phải tự mình trả giá cho cái tội đó.
Từ trong tiềm thức tôi nhận ra mình không thể là một người làm ăn lương thiện được. Bởi lẽ tôi hăng say vì công việc chung. Từ nhỏ tôi làm lụng đầu tắt mặt tối, quét dọn, làm vườn, giao hàng. Tôi không chê một việc nào, tôi muốn làm tới nơi tới chốn. Tôi muốn làm được việc.
Nhiệt tình không được bao lâu. Mỗi khi nó trỗi dậy tôi chợt nhớ Bruno và Mouse sao mà người ta dễ chết đến vậy.
Tôi nhớ lại ở quê nhà Texas và Louisiana, chuyện chém giết đánh đập như cơm bữa. Một người tay không cũng có thể giết chết ta nếu ta chưa tìm được hung khí, phụ nữ chết vì sinh khó, đàn ông chết sống vì kéo bè gỗ bởi không ai dám làm việc đó. Nhìn đâu cũng thấy người chết vì phong tình, sưng phổi, ho lao…
Thế rồi chiến tranh thế giới lần hai nổ ra. Người chết hàng triệu. Có người chết trong nhà, có người nầm chết chơ vơ giữa mùa đông tuyết giá. Ở châu Âu xây dựng những nhà xưởng khổng lồ để đưa con người vào chỗ chết, hoặc phải tự đào hố chôn mình trước khi lãnh một viên đạn ngay sau ót.
Có những ngày tôi nhìn thấy người chết nhiều hơn cả người đang sống. Ở một vùng thị trấn bên Ba Lan, tôi đã nhìn thấy một cái hố khoảng sáu mét vuông chất đầy những xác chết trẻ em. Thật là thương tâm khi chưa có đứa nào đủ tuổi biết nói.
Suốt quãng thời gian đó tôi vẫn nuôi hy vọng. Tôi hy vọng đến một nơi vào đúng thời điểm mà cái chết không còn là nỗi ám ảnh trong tâm trí tôi. Điều đó không có nghĩa là một ngày kia không còn ai phải chịu chết, bởi tôi biết cái chết luôn gần kề bên ta. Nhưng không phải là cái chết vô nghĩa giết nhau vì chán chường hoặc là bày trò chơi trẻ con.
Khi hay Bruno bị giết chết, tôi hiểu ra quanh tôi là một thế giới đầy bạo lực và những kẻ tâm thần. Tất cả nhan nhản khắp nơi, trên khuôn mặt non choẹt của thằng Fitts, từ cái nhìn hoảng hốt bệnh hoạn của Dickhead và thậm chí cả tôi cũng không tránh khỏi. Cái ấn tượng căm giận đó đã ăn sâu vào từng đường gân sớ thịt bên trong người tôi.
Cứ thế nó lớn dần mãi, sâu sắc thêm.
T
9
ôi lái xe về hướng bắc, nơi đây cảnh vật thật đơn điệu, những dãy nhà một tầng san sát, thỉnh thoảng mới gặp được một tòa nhà làm văn phòng với hàng cây cọ rợp bóng mát, sương mù dày đặc, bầu trời một màu xám xịt, xa xa cuối chân trời hiện lên một màu hổ phách thăm thẳm. Nếu hít một hơi thật sâu tôi sẽ cảm thấy đau nhói bên trong buồng phổi. Trước mắt tôi còn một việc phải lo, sau đó đến chỗ Saul Lynx nhận tiền.
L.A. trước sau vẫn là một nơi rất buồn. Nhìn đâu cũng thấy người. Nếu bạn muốn trốn tránh luật pháp thì nên ở lai L.A. Thành phố không tuân theo một trật tự logic nào. Dân số ngày mỗi đông hơn. Lực lượng tá điền, diễn viên mới vô nghề, di dân Mễ cùng với những tay chào hàng bán bảo hiểm rủ nhau đi kiếm tiền được một thời gian rồi trở về quê. Nhưng có thấy ai đòi trở về đâu. Đồng tiền kiếm được nhanh chóng tuột khỏi tầm tay, cuộc sống dễ dãi đã quật ngã tất cả.
Tôi cho xe chạy tới chỗ trạm chờ xe buýt đậu bên kia đường, rồi tắt máy. Ngồi bên trong xe rất nóng nực như thể là bị mặt trời thiêu đốt. Nhưng tôi lại thích, lại còn hút thuốc để chọc giận ruột gan trong người.
Rồi tôi ngồi ngả lưng ra sau chợp mắt được một phút.
Tôi thả hồn phiêu du trong giấc ngủ chập chờn, nhưng trái tim tôi thì hướng về nơi ngõ phố sau nhà thằng John.
Ngõ hẻm vắng tanh và Bruno vẫn còn ngồi gục đầu tựa lưng vô cửa nhà hàng thịt. Máu me lấm đầy trước ngực mồm cứ gầm gừ từng tiếng một. Mũi vẫn khò khè ra máu phập phồng. Máu thấm trên nền đất loang ra tới chỗ chân tôi đứng.
Rồi hình bóng Mouse lại hiện về. Hắn giẫm chân lên vũng máu mà bước đi cúi gập người xuống nhìn sát vào mặt Bruno. Hắn kề tai nghe từng hơi thở hổn hển rồi thò tay rút khẩu súng nòng dài giấu trong túi quần chĩa ngay mắt Bruno. Hắn đã từng hạ thủ Joppy Shag theo lối đó mấy năm trước kia.
Tiếng súng vừa vang lên, tôi choàng tỉnh dậy. Phía bên kia đường, khung cửa kính trạm chờ xe buýt bật tung, và từ bên trong, Raymond “Mouse” Alexander bước ra cũng bộ đồ sáng óng ánh bạc như hôm nào, đôi giày màu xám tro lúc hắn nổ súng giết chết Bruno Ingram.. Hắn mặc chiếc áo sơ mi màu khói nhang đậm, đội chiếc mũ vành hẹp. Những ai ngồi tù một thời gian, sau khi mãn hạn tù hầu hết đều như kẻ lạc đường. Mouse thì không phải vậy. Cho dù có ngồi tù năm chục năm hắn vẫn còn đủ phong độ.
Có một điểm khác với cái đêm từ bên kia đường nhìn qua lúc hắn đặt Bruno xuống đất, tôi nhớ là Mouse để hàm ria mép mỏng dính hoặc có khi cạo nhẵn.
“Kìa!”, - tôi vẫy tay qua cửa xe.
Tay hắn xách chiếc túi màu xanh lá cây cũ mèm đặt dưới chân.
Chiếc túi rỗng không. Lúc ngồi tù chẳng có mang theo vật kỷ niệm để làm gì, dù cho đó không phải những thứ có thể mang theo. Han mừng húm nhảy vào ngồi sau xe.
“Mày Easy, cho tớ mượn khẩu súng”.
“Sao?”
“Mấy thằng mắc dịch trên xe buýt đang dò la tin tức. Hắn dám cười tớ đó, Easy”.
Tôi đoán chừng có thể đó là một tay sát thủ điên cuồng và biết đâu có thể cả bọn cớm đang có mặt tại trạm xe buýt, sẽ tóm cổ hắn cho vô tù trở lại. Nhưng không thể là Mouse được. Hắn như thể một kẻ tà đạo muốn được ăn mừng làm phép xức dầu thánh ngày hắn được tự do bằng máu.
“Không dám đâu, bạn mình”, - tôi nói, chợt nhớ tới khẩu súng săn còn cất trong cốp xe, tôi nói dối hắn: “Tôi làm gì có súng”. “Cậu đi xa vậy mà không mang súng theo sao?”.
“Tôi đâu cần súng làm gì”.
“Giả sử cậu muốn bắn ai, vậy đó”.
Thừa cơ lúc chần chừ, tôi nổ máy cho xe chạy. Đi được một quãng bọn tôi lại kể chuyện.
“Cậu khỏe không Raymond?”, - tôi hỏi cho có.
“Cậu nghĩ sao? Bọn chúng bắt bỏ tù như bầy heo. Mặc đồ tù, ăn như tù. Mấy thằng mắc dịch ở đây tưởng có thể ăn hiếp được tôi bởi tôi là đồ bỏ”.
Tôi chợt nhớ lại bài học cay đắng từ lỗi lầm đó. Mouse không lớn con. Một tay tôi có thể nhấc bổng hắn lên ném qua bên kia
đường. Nhưng hắn là một tay sát thủ, hắn có thể móc mắt hay cắt gân đối thủ nếu cần thiết.
“Tớ phải giết một tên cho bằng được, Easy”, hắn vừa nói. “Giết ai?”.
“Chưa biết. Tớ biết chắc có kẻ giao nộp tớ cho bọn cớm, một tên có mặt tại quán bar của John ngay cái đêm tớ hạ gục Bruno. Phải có kẻ bị giết chết đàng sau cái bar đó”.
“Bọn cớm phục chờ Raymond trở về nhà sau khi ra tay hạ sát Bruno Infram. Bởi vậy hắn còn mặc nguyên bộ đồ cũ. Chính hắn là thủ phạm bọn cớm đang chờ mai phục, súng còn giắt lưng”.
“Quả thật nếu hắn biết tôi đang đứng chờ trước cửa hắn sẽ nghi cho tôi”.
“Làm sao cậu muốn giết người mà lại không biết ai là thủ phạm. Chắc không phải là cậu chứ?”.
“Không. Tớ còn nhớ một người ở đó. Có cả John cùng với ba người nữa, Malcolm Reeves, Clinton Davis và Melvin Quick”. - Hắn kể ra một loạt tên như xuất thần.
“Nhưng làm sao cậu biết cho được?”
“Tớ phải biết cho được còn không tớ sẽ giết chết cả ba tên đó. Dù sao tớ phải giết kẻ dựng ra chuyện đó”.
Etta Mae, vợ cũ của Mouse hiện sống trong ngôi nhà nhỏ sơn màu trắng quanh vườn trồng chanh ở thành phố Compton. Nhà một tầng xây cao, hàng rào mắt cáo dựng thành những cọc gỗ sơn xanh lục. Khoảng sân rộng thiếu người chăm sóc. Đám cỏ dày mọc um tùm che khuất đường trượt chơi bỏ hoang từ lâu nhắc Etta nhớ lại
lúc thằng bé La Marque hồi còn nhỏ. Cây táo chua ở giữa sân khô héo, thân cây phủ một lớp rêu mốc trắng xanh. Quanh đó là một bãi đất mọc đầy cây cà tím, đậu tây, cà chua sai trái. Etta vốn thích sống giữa khung cảnh sung túc, nhưng nàng không thể nào quay mặt làm ngơ trong cảnh ngặt nghèo. Nhớ lại lúc còn một cô bé mười sáu tuổi, nàng phải nuôi dưỡng bà nội đau ốm nằm liệt giường cho đến lúc bà quay ra căm ghét nàng.
Etta đang đứng ngoài sân, vừa lúc xe chúng tôi đến nơi căn nhà trơ trọi đó.
Tôi không nghĩ chuyện gặp lại Etta Mae Harris. Lẽ ra nàng làm người mẫu cho nhà Rodia, nếu ông ta là người da đen sống ở miền nam. Nàng có thân hình to lớn nhưng đầy nữ tính. Gương mặt nàng nhìn không xinh đẹp so với vẻ kiêu hãnh sẵn có. “Qúy phái”, không phải là chữ để gán cho dáng vẻ và phong cách của nàng.
Tôi cùng với Mouse bước tới chỗ hàng rào. Etta chỉ mặc mỗi chiếc áo vải bông đơn sơ, nàng đang lui cui làm việc nhà. “Kìa, Easy”, - nàng cất tiếng chào tôi nhưng mắt nàng để ý nhìn về phía hắn.
“Ô kìa Etta. Nhà của cô xinh quá. Cô tự tay sơn lấy à?”. “Tôi tính sẽ trả tiền nợ cho anh nếu sớm nhận được tiền vay thế chấp”, - nàng nói.
Tôi gật. Tôi chẳng màng chuyện đó. Sở dĩ tôi đang túng tiền vì tôi giúp cho bạn bè còn kém hơn mình. Đó là một cách bảo đảm cho hoàn cảnh nghèo túng. Cứ giúp đỡ bạn bè khi mình có điều kiện miễn là họ còn nhớ tới mình lúc túng thiếu để giúp lại.
“Kìa, Etta”, - Mouse ngỏ lời chào. Hắn cười với hàm răng khít lại.
“Gì thế?”
Tôi có thể hóa thân để làm bạn với cái cây chết khô. Mouse đứng thẳng người lại, hắn cười gằn. Tôi chợt nhận ra đây là lần đầu nhìn thấy Raymond già hẳn đi. Đuôi mắt nhăn nheo xếp lớp nhúc nhích theo mỗi khi hắn cười.
Etta không biểu lộ cảm xúc ra ngoài như hắn. Đàng sau cái vẻ trầm lặng trang nghiêm đó ẩn giấu một tình cảm sâu sắc. Hắn đã lọt vào trái tim nàng. Đã có lần tôi nghe Mouse kể hắn bị lôi cuốn theo nàng vì hắn nghĩ rằng: “Nàng là một phụ nữ đang thèm khát”. Và giờ đây tôi đã nhìn thấy nỗi thèm khát đó.
Tôi không hiểu rồi sẽ ra sao nếu cánh cửa nhà không mở ra được.
“La Marque”. - Etta vừa nói, mắt không rời gã. Mouse húng hắn ho rồi bật ra tiếng cười. “La Marque!”.
Tôi ngước nhìn thằng bé đang bước xuống cầu thang trong bộ đồ xanh nhà nông. Nó được thừa hưởng ở mẹ nó về vóc dáng, nước da bồ quân. Hắn bước về phía chúng tôi dáng đi lom khom ủ rũ. Raymond thì không để ý chuyện đó. Hắn chộp lấy La Marque ôm ghị vô người một cách vụng về rồi thốt lên: “Ta nhớ con, nhớ lắm”.
Raymond vòng tay qua cổ y như một võ sĩ đô vật thộp lấy đầu nó. Hắn xoay người thằng nhóc quay qua hướng tôi và nói: “Con tôi đây”, - hắn công khai tự nhận.
Tôi nhìn theo hai cha con ngồi sát bên nhau. Tôi nhìn ánh mắt thằng bé ẩn chứa một điều gì đó. La Marque có một cái nhìn trìu mến, thơ ngây ngay cả Mouse chưa hề biết tới.
Etta bước tới khều nhẹ tay tôi, “Ở lại dùng bữa cơm nhé!” “Không được, Etta”, - tôi nói - “Tôi đang có việc cần. Thôi hẹn bữa khác mình gặp lại”.
Nàng không bàn ra. Tôi chìa tay ra bắt tay La Marque. Nay nó đã mười hai tuổi và có lẽ rất muốn được đối xử như người lớn. Tôi vừa bước ra chỗ xe đậu chợt Mouse cất tiếng gọi “Easy!”, hắn vụt chạy lại, gương mặt rạng rỡ một nụ cười thân thiện. “Tớ cám ơn cậu”, - hắn nói. - “Cậu biết đấy, tớ gặp chuyện chẳng lành. Ở đây không có tình nghĩa anh em”.
Tôi nhìn hắn, cười nói “Có sao đâu, bọn mình là chỗ bạn bè với nhau cả, phải vậy không?”.
“Ờ… phải đây”. - Cặp mắt xám nhìn lờ đờ chợt biến sắc lạnh tanh dù hắn đang cười.
“Joan đây”.
“Cậu đấy hả”, - tôi nói.
“Easy”.
Tôi quen biết John hơn hai mươi lăm năm nay, chúng tôi đã từng sống ở Texas rồi qua L.A, từng làm chủ một quán bar trốn thuế đến một quán bar sống đàng hoàng.
“Mouse đi vắng rồi”.
“Vậy hả?”
“Hắn bỏ đi tìm tay nào đó vô bar tôi hôm nọ. Chắc có tên trong bọn chỉ điểm hắn. Bữa đó có ba tên cả thảy”, - ngẫm nghĩ một lát tôi nói - “Có lẽ Melvin Quick”.
“Tớ biết là ai ở đó rồi, Easy” - “Vậy là cậu báo cho bọn đó ẩn mặt
một thời gian”.
“Phải vậy thôi”.
“Trước mắt tôi sẽ lo dàn xếp đâu vào đó”.
“Mỗi người phải biết lo một chút bởi tớ không tính chuyện loại bỏ Mouse”.
Bọn tôi biết là Mouse sẽ không bổ qua bởi bọn chúng còn lẩn trốn.
S
10
áng hôm sau tôi đang lái xe qua Beverly Hills. Đường xe Loma Vista Drive sạch bóng và đẹp mắt. Ước gì tôi giàu có và được sống trong những ngôi nhà đồ sộ vừa mới chạy ngang qua. Ý tôi muốn nói nếu tôi là một công dân da trắng thì sẽ được vô đó ở. Tôi không biết họ lấy đâu ra lắm tiền thế. Những ngôi nhà dư thừa quá nhiều chỗ ở, bãi cỏ rộng mênh mông tha hồ thả gà vịt chăn. Càng tới gần nhà càng phình rộng ra hơn, tôi cứ tưởng mình đang lái xe lạc vô xứ sở thần tiên.
Tôi chạy xe tới trước ngôi nhà trên cổng đề “Lãnh địa Bervely”, vừa Lúc đó một người gác dan bước ra. Tôi dừng lại kéo cửa kiếng xuống.
“Ông cần việc gì ạ?”, - người đàn ông đầu hói đeo kính cất tiếng, tôi đoán gã hỏi cho có vậy thôi. Hắn có nhiệm vụ là ngăn chặn những kẻ không có phận sự được vô ra chỗ bọn nhà giàu ở. Hắn là một kẻ tôi mọi làm thuê cho bọn da trắng theo lệnh chủ ngăn chặn những kẻ hạ tiện dù là đen hay trắng không được xâm nhập tới đây.
“Ờ, ờ”, - tôi thong thả đáp - “Tôi cần gặp một bà tên là…” tôi ngần ngừ một lúc, thò tay vô hộc đựng đổ lấy ra một tờ giấy ghi tên tuổi. - “Để xem, ờ mà đây rồi. Sarah Clarice Cain. Hiện ở tại địa chỉ
"""