"
Nam Cao Nhà Văn Hiện Thực Xuất Sắc PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nam Cao Nhà Văn Hiện Thực Xuất Sắc PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
NAM CAO NHÀ VĂN HIỆN THỰC XUẤT SẮC PHƯƠNG NGÂN (Tuyển chọn và biên soạn)
MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU
NAM CAO
TIỂU SỬ VÀ TÁC PHẨM
Phần I. NAM CAO CHÂN DUNG PHÁC THẢO
NAM CAO (NGUYỄN ĐÌNH THI)
NGƯỜI VÀ TÁC PHẨM NAM CAO (TÔ HOÀI)
NAM CAO (HÀ MINH ĐỨC)
NHỚ NAM CAO VÀ NHỮNG BÀI HỌC CỦA ÔNG (NGUYỄN ĐĂNG MẠNH)
NAM CAO - NHÌN TỪ CUỐI THẾ KỶ (PHONG LÊ)
NAM CAO - NHÀ VĂN KHÔNG BIẾT KHÓC (VŨ BẰNG) NAM CAO (NGUYỄN MINH CHÂU)
Phần II. ĐẾN VỚI THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT ĐỘC ĐÁO CỦA NAM CAO ĐỌC NHỮNG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO (NGUYÊN HỒNG) NAM CAO CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI CŨ (LÊ ĐÌNH KỴ)
NAM CAO VÀ KHÁT VỌNG VỀ MỘT CUỘC SỐNG LƯƠNG THIỆN, XỨNG ĐÁNG (NGUYỄN VĂN HẠNH)
BI KỊCH TỰ Ý THỨC - NÉT ĐỘC ĐÁO TRONG CẢM HỨNG NHÂN ĐẠO CỦA NAM CAO (ĐINH TRÍ DŨNG)
NHỮNG NHÂN VẬT, NHỮNG CUỘC ĐỜI VÀ NẺO ĐƯỜNG ĐI TÌM NHÂN CÁCH - Cảm nghĩ về chùm truyện ngắn của Nam Cao (VŨ DƯƠNG QUỸ)
NAM CAO, NHÀ VĂN HIỆN THỰC CỦA CÁCH MẠNG VÀ KHÁNG CHIẾN (SÔNG THAI)
NAM CAO VÀ CUỘC CÁCH TÂN VĂN HỌC ĐẦU THẾ KỶ XX (LẠI NGUYÊN ÂN)
ĐẶC TRƯNG BÚT PHÁP HIỆN THỰC NAM CAO (PHONG LÊ)
PHONG CÁCH TRUYỆN NGẮN NAM CAO TRƯỚC CÁCH MẠNG (BÙI CÔNG THUẤN)
MỘT ĐẶC ĐIỂM CỦA THI PHÁP TRUYỆN NAM CAO (PHẠM QUANG LONG)
THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN TRONG THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT CỦA NAM CAO (TRẦN ĐĂNG XUYỀN)
NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÂM LÝ CỦA NAM CAO (HÀ VĂN ĐỨC) CHẤT HÀI TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO (LÊ THỊ ĐỨC HẠNH)
NHỮNG BIẾN HÓA CỦA CHẤT NGHỊCH DỊ TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO TRƯỚC 1945 (VƯƠNG TRÍ NHÀN)
Phần III. TÁC PHẨM CỦA NAM CAO TIẾP NHẬN VÀ ĐÁNH GIÁ TỰA “ĐÔI LỨA XỨNG ĐÔI” (LÊ VĂN TRƯƠNG)
“ĐÔI LỨA XỨNG ĐÔI” - TẬP TRUYỆN SỚM XÁC ĐỊNH PHONG CÁCH ĐỘC ĐÁO CỦA NAM CAO (HÀ MINH ĐỨC)
QUA TRUYỆN NGẮN CHÍ PHÈO BÀN THÊM VỀ CÁI NHÌN HIỆN THỰC CỦA NAM CAO (TRẦN TUẤN LỘ)
CON NGƯỜI BỊ TỪ CHỐI LÀM NGƯỜI TRONG TRUYỆN CHÍ PHÈO CỦA NAM CAO (NGUYỄN VĂN TRUNG)
TÍNH CHẤT LƯỠNG HÓA TRONG NHÂN VẬT CHÍ PHÈO (NGUYỄN QUANG TRUNG)
CHẤT GIỌNG NAM CAO TRONG “CHÍ PHÈO” (NGUYỄN THÁI HOÀ)
CÁI “TỨ” TRONG NHỮNG TRUYỆN NGẮN XUẤT SẮC CỦA NAM CAO (PHẠM VĂN PHÚC)
LÃO HẠC (TRƯƠNG VĂN QUANG)
VẺ ĐẸP CON NGƯỜI (HOÀNG THỊ HƯƠNG - QUẾ HƯƠNG)
NGHỆ THUẬT VĂN XUÔI CỦA TRUYỆN NGẮN LÃO HẠC (CHU VĂN SƠN)
TRUYỆN NGẮN NỬA ĐÊM CỦA NAM CAO HIỆN THỰC CHỦ NGHĨA HAY TỰ NHIÊN CHỦ NGHĨA (HÀ BÌNH TRỊ)
“ĐỜI THỪA” (NGUYỄN HOÀNH KHUNG)
MỘT TÁC PHẨM ĐẶC SẮC CỦA NAM CAO CHƯA ĐƯỢC CHÚ Ý: “TRUYỆN NGƯỜI HÀNG XÓM” (HÀ BÌNH TRỊ)
“MỘT ĐÁM CƯỚI” (NGUYỄN ĐĂNG MẠNH)
ĐỌC LẠI TRUYỆN NGẮN “ĐÔI MẮT” CỦA NAM CAO (NGUYỄN ĐĂNG MẠNH)
ĐÔI MẮT CỦA NAM CAO (ĐỖ KIM HỒI)
ĐỌC LẠI VÀ LẠI ĐỌC “SỐNG MÒN” (PHONG LÊ)
HAI KHÔNG GIAN SỐNG TRONG SỐNG MÒN CỦA NAM CAO (ĐỖ ĐỨC HIẾU)
TÁC PHẨM CỦA NAM CAO Ở LIÊN XÔ (N.I.NICULIN)
Phần IV. NHỚ VỀ NAM CAO
NHỮNG DÒNG KỶ NIỆM (TRẦN THỊ SEN - Vợ nhà văn Nam Cao) TƯỞNG NHỚ NAM CAO (NGUYỄN HUY TƯỞNG)
CHÚNG TA MẤT NAM CAO (TÔ HOÀI)
MỘT LẦN GẶP NAM CAO (HOÀNG TRUNG THÔNG)
CHỈ MỘT LẦN GẶP NAM CAO (CHU VĂN)
VÀI KỶ NIỆM VỀ ANH TRI (PHẠM LÊ VĂN - tức Thợ Rèn) TÔI LÀ NHÂN VẬT CỦA ANH (KIM LÂN)
CÙNG VỚI NAM CAO LÀM HỌC TRÒ TRƯỜNG ĐẢNG (PHONG NHÃ)
THIÊN DUYÊN CỦA NAM CAO VỚI LÀNG VŨ ĐẠI (ĐỖ ĐÌNH THỌ)
LÀNG ĐẠI HOÀNG VÀ SÁNG TÁC CỦA NAM CAO (THANG NGỌC PHO - TRẦN QUANG VINH)
NHỮNG MẨU TRUYỆN XOAY QUANH CÁC NHÂN VẬT TRONG “ĐÔI LỨA XỨNG ĐÔI” (HOÀNG CAO)
LỜI GIỚI THIỆU
Nam Cao (1917-1951) là một tài năng lớn, một cây bút hiện thực xuất sắc đã góp phần đáng quý vào quá trình cách tân và hiện đại hóa nền văn xuôi quốc ngữ. Ông là m ột trong số những nhà văn có vị trí vững vàng, ổn định và có tầm quan trọng trong nền văn học sử dân tộc. Chỉ với mười lăm năm cầm bút (1936-1951), nhà văn
liệt sĩ Nam Cao đã để lại một sự nghiệp văn chương tuy không thật đồ sộ về khối lượng nhưng lại luôn ẩn chứa một sức sống khỏe khoắn, bền lâu của một giá trị văn chương đích thực, có sức vượt lên trên “các bờ cõi và giới hạn”, tìm đến được sự tri kỷ tri âm và tạo được sự ám ảnh kỳ lạ đối với nhiều thế hệ công chúng. Đối với văn chương bằng một quan niệm nghệ thuật nghiêm túc, sâu sắc và tiến bộ “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”; “Một tác phẩm thật có giá trị… phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó là cho người gần người hơn” (Đời thừa). Suốt đời văn của ông, Nam Cao đã gắn ngòi bút mình, sự nghiệp văn chương của mình với cuộc đời. Khơi từ những tầng vỉa sâu sa của đời sống “những nguồn chưa ai khơi”, bằng tài năng, tâm huyết và sự say mê đầy trách nhiệm của một trái tim lớn, một người nghệ sĩ lớn luôn thức đập với những buồn vui, đau khổ của con người, của cuộc đời, Nam Cao đã tạo dựng được một văn nghiệp lớn, với những tác phẩm nổi tiếng: Chí Phèo, Lão Hạc, Đời thừa rồi Đôi mắt, Sống Mòn… và những điển hình bất hủ từ những người nông dân bị đày đọa, bị tha hóa ở chốn nhà quê xơ xác: Chí Phèo, Thị Nở, lão Hạc… đến những trí thức như Điền, như Hộ, như thứ… đang “chết mòn” ở chốn thị thành. “Không nói những cái người ta đã nói, không tả theo lối người ta đã tả, ông đã dám bước vào làng văn với những cạnh sắc riêng của mình” (Lê Văn Trương). Nhờ thế Nam Cao đã để lại được dấu ấn sâu đậm riêng trong văn học dân tộc.
Để giúp bạn đọc có điều kiện tiếp cận và hiểu sâu kỹ về tài năng, phong cách nghệ thuật độc đáo của người nghệ sĩ lớn Nam Cao, nhà xuất bản Văn hóa Thông tin trân trọng giới thiệu cuốn sách: NAM CAO - NHÀ VĂN HIỆN THỰC XUẤT SẮC.
Rất mong được sự hưởng ứng và đóng góp ý kiến của bạn đọc xa gần.
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN
NAM CAO
TIỂU SỬ VÀ TÁC PHẨM
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri sinh ngàv 29-10- 1917 tại làng Đại Hoàng, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Nam Cao con một gia đình trung nông nghèo. Trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao sống bằng ngòi bút và nghề dạy học. Tác giả sử dụng nhiều bút danh trong thời kỳ đầu vào nghề như Thuý Rư, Nhiêu Kha, Xuân Du và ổn định hẳn với bút danh Nam Cao qua tác phẩm “Đôi lứa xứng đôi” (1941). Năm 1943 Nam Cao tham gia tổ chức Văn hóa Cứu quốc. Thời kỳ Cách mạng tháng Tám, ông tham gia phong trào cách mạng ở địa phương, cướp chính quyền ở phủ Lý nhân và làm Chủ tịch xã một thời gian ngắn. Sau đó Nam Cao lên công tác ở Hội Văn hóa Cứu quốc Trung ương là thư ký tòa soạn tạp chí “Tiên phong” của Hội, có mặt trong đoàn quân Nam tiến. Những năm đầu kháng chiến chống Pháp, Nam Cao làm báo Cứu quốc trung ương và ông được kết nạp vào Đảng năm 1947. Từ năm 1940 Nam Cao công tác ở hội Văn nghệ. Là ủy viên Tiểu ban văn nghệ Trung ương. Ông tham gia chiến dịch biên giới (1950) và năm sau đi công tác vào vùng sâu địch hậu (Khu III) ở vùng Ninh Bình và hy sinh ở đây (30- 11-1951).
TÁC PHẨM:
- Đôi lứa xứng đôi (1941) - tập truyện.
- Nửa đêm (1944)
- Sống mòn (tiểu thuyết, viết 1944 và in năm 1956).
- Nhiều truyện ngắn in đều kỳ trên báo Tiểu thuyết thứ bảy, Truyện người hàng xóm đăng ở nhiều kỳ trên Trung Bắc chủ nhật năm
1944, tập truyện Cười (1946), Truyện biên giới (1951), tập truyện Đôi mắt (1954).
- Các tuyển tập Nam Cao qua nhiều lần tuyển chọn Nam Cao tác phẩm tập I (1976), Nam Cao tác phẩm tập II (1977), Tuyển tập Nam Cao tập I (1987), Tuyển tập Nam Cao tập II (1993) và Nam Cao toàn tập, 1999.
Nam Cao được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt I) 1996.
Phần I. NAM CAO CHÂN DUNG PHÁC THẢO NAM CAO (NGUYỄN ĐÌNH THI)
Đầu tháng 11 năm 1951, nhà văn Nam Cao, đảng viên Đảng Lao động Việt Nam đã hy sinh ở Liên khu Ba trong khi vượt vòng đai trắng, vào vùng địch làm thuế nông nghiệp. Anh chết mới ba mươi sáu tuổi.
Nam Cao là con một gia đình trung nông ở Hà Nam giữa đồng bằng Bắc Bộ. Trong các truyện ngắn và tiểu thuyết của anh luôn luôn hiện lên cái làng lam lũ ở ven sông, quanh năm gần như không có tiếng hát, nhà nọ cách xa nhà kia, rải rác trong những khu vườn “hẻo lánh tựa bãi tha ma”. Bắt đầu biết suy nghĩ, Nam Cao hiểu một cách sâu xa sự hà hiếp của bọn cường hào. Anh đã thấy những “ông Bá Kiến sai trói một lúc mười bảy người và đánh một người lòi một mắt”, những cảnh thuế má bóp hầu bóp cổ mỗi năm lại diễn ra, và những người dân cùng khổ càng ngày càng khổ mãi. Đang đi học, bị bệnh phù và đau tim, Nam Cao bỏ học, vào miền Nam. Ở Sài Gòn, Nam Cao tham dự những cuộc biểu tình rầm rộ của phong trào bình dân, và như lời anh tự thuật trong cuốn “Sống Mòn”:
“Y kiếm ăn bằng rất nhiều nghề, kể cả những nghề mà những người tự xưng là trí thức không làm. Y trà trộn với phu phen, với
thợ thuyền. Y mặc đồ bà ba đi trích thuốc thí ở nhà thương. Còn chút thì giờ thừa nào, y học rất chăm. Tạng người y không cho y cầm súng, cầm gươm. Y sẽ cầm bút mà chiến đấu…”
Mấy năm sau trở về quê, gia đình anh đã khánh kiệt, sống vất vả túng đói. Làng anh “vẫn như xưa, khổ hơn xưa. Vải Tây rẻ như bèo, nghề dệt cơ sở của làng chết hẳn rồi”. Nam Cao ra Hà Nội làm nghề dạy học tư và cứ luôn luôn, cuộc đời túng thiếu, tù hãm, quấn chặt lấy anh, không buông tha lúc nào.
Nam Cao bắt đầu bước thẳng vào nghề văn khoảng 1940, giữa lúc phát xít Nhật đã đặt chân lên Đông Dương, phát xít Pháp Pêtanh càng bóp nghẹt đất nước Việt Nam. Ty kiểm duyệt Pháp, sở hiến binh Nhật nuôi những tờ báo tống tiền, ca tụng Pêtanh, Đờcu, “Cách mạng quốc gia”, Thiên hoàng, phi công Nhật, rượu xa-kê và gái điếm Phù Tang. Trong văn chương công khai, bọn thống trị phát xít chỉ còn cho tồn tại những tiểu thuyết lãng mạn cuối mùa. đưa ra những “chàng, nàng” trưởng giả chen với những “người hùng” trắng trợn côn đồ, hay những kẻ chán đời than vãn, ca tụng quan lại, ước ao “trật tự, đạo lý, cái đẹp” phong kiến trở lại.
◦ Nam Cao đã không chịu khuất với cái chế độ ngạt thở ấy. Nhà văn mảnh khảnh thư sinh ăn nói ôn tồn nhiều khi đến rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt, mà kỳ thực mang trong lòng một sự phản kháng mãnh liệt. Anh thù ghét những sách phù phiếm, nói những truyện rắc rối của những kẻ ăn no ngồi rồi, không biết làm gì cả. Anh nhìn rõ cái chế độ nó đầy đọa và làm trụy lạc con người. Anh muốn phá tung ra, vạch cho mọi người thấy cái khổ đang vây kín chung quanh, nó len lỏi cả vào đến những chỗ sâu nhất, tốt đẹp nhất của tâm hồn. Anh nguyền rủa cái văn chương thi vị hóa cái khổ của bọn nhà văn tư sản “cúi mình xuống dân chúng”.
Trong nền văn học hiện thực đang tìm đường và đang chiến đấu với các xu hướng phản động bấy giờ, thiên truyện Chí Phèo của Nam Cao nổi bật lên, thật xuất sắc. Chí Phèo đã nói những cái khổ cùng cực của thôn quê dưới ách cường hào ở trước mắt, với quan
lại và thực dân ở phía sau. Anh cùng đinh liều mạng Chí Phèo giãy giụa giữa những người nông dân bị bóc lột đến cái khố không còn, càng dễ bảo càng bị dúi cổ xuống, dúi cho đến không còn thở được
cũng chưa thôi, suốt đời sống không ra con người, chưa biết đến đời thuở nào mới thoát được nanh vuốt của sự nghèo đói, ngu tối, nó hành hạ bóp rúm người ta lại, hoặc đẩy người ta đến Sở mộ phu, đồn điền cao su và những tội ác cùng đường.
Cuối 1944, Nam Cao viết xong “Sống mòn”. Tập tiểu thuyết ấy quăng đi, ném lại, không lọt qua được lưới kiểm duyệt để xuất bản tuy rằng soi từng chữ không có chỗ nào bắt bẻ được. “Sống mòn” tả cuộc sống thiểu não, quẩn quanh, nhỏ nhen của mấy người trí thức tiểu tư sản nghèo, một cuộc sống mù xám cứ “mốc lên, rỉ đi, mòn ra, mục ra”, không có lối thoát. Rộng hơn là vận mệnh mấy con người ấy, ta thấy đặt ra một cách ám ảnh vấn đề vận mệnh chung của cả một xã hội chua xót, đau đớn, buồn thảm tủi nhục, trong đó đời sống không còn ý nghĩa, quay về phía nào cũng thấy dựng lên những bức tường bế tắc.
Văn Nam Cao. ngay trong những tác phẩm đầu, đã thực sắc sảo. Anh nhìn sâu vào sự thật một cách sắc cạnh, nhiều khi mỉa mai. Không ve vuốt ngay bản thân mình và giai cấp mình như một vài nhà văn tiểu tư sản tìm an ủi trong một triết lý hàng phục chế độ đương thời, anh tạo được những điển hình giai cấp thật sống và cảm động. Trong lúc văn lãng mạn tư sản đã xa rời lời ăn tiếng nói của nhân dân, viết lai Tây như văn dịch, càng ngày càng trống rỗng, hình thức, anh đã tạo cho mình một lối văn mới, đậm đà bản sắc bình dân, nhưng không rơi vào chỗ thô tục. Và qua những lời phẫn uất, cũng đồng thời thấy biết bao thương yêu. Nam Cao yêu trìu mến cái làng khổ sở của anh, anh yêu những bến đò hiền lành, những buổi sáng, buổi trưa của thôn quê Việt Nam. Mỗi khi nói đến những cái ngốc dại quanh quẩn của những người đau khổ quằn quại, biết bao nhiêu xót xa độ lượng trong câu văn của anh.
Trong những tâm hồn chất phác, bị nghèo khổ làm cho mụ mị cằn cỗi, ngay trong một con người u mê cục súc như Chí Phèo, Nam Cao tìm ra những rung động trong sáng của tình yêu, của niềm khát khao được sống cho ra người, những rung động ấy đột ngột hé lên từng lúc rồi lại bị đời sống vùi dập. Đó là chất thơ quý báu nhất, cảm động nhất trong các truyện tả thực của anh. Đó cũng là cái làm chúng ta càng cảm thấy thấm thía sự tàn bạo của chế độ cũ. Nam Cao chưa hiểu sức mạnh bị cùm trói của những con người cùng khổ, nhưng chính những ánh ý thức đó làm cho truyện của anh không đen tối, tuyệt vọng và vượt qua cả ý định của người viết mà hứa hẹn một sự thay đổi tương lai, như một ánh bình minh còn xa mờ. Nhờ biết quý trọng đời sống làm lụng vất vả, nên Nam Cao biết nhìn rõ những truyện nhỏ mọn hàng ngày trong cuộc đời đầu tắt mặt tối của bao nhiêu người chung quanh, và làm nổi rõ lên cho ta thấy tất cả những sự vô lý của một chế độ thối nát, trong những truyện tầm thường lặng lẽ nhất.
*
Nhưng cái xã hội ngột ngạt ấy đi tới đâu, ai sẽ phá tan nó, phá thế nào và phá rồi thì làm gì, những câu hỏi ấy Nam Cao chưa đặt được rõ và chưa trả lời được. Nam Cao nhìn thấy người nhà quê nghèo khổ, ngu muội, bị đè nén muôn đời, anh chưa nhìn thấy người nông dân có thể vùng dậy đạp đổ bọn thống trị. Anh nhìn sự thật phũ phàng bằng con mắt của một người đang bị giày xéo, anh chưa nhìn được vào sự thật ấy bằng con mắt một người lãnh đạo nó, thay đổi được nó. Những khát khao trong các truyện ngắn và tiểu thuyết của Nam Cao hồi đó như những tiếng kêu gào xé ruột, nhưng hy vọng còn leo lắt làm sao! Mấy trăm trang uất ức và đau xót của Sống mòn, cuối cùng mới hé ra một tia sáng nhỏ bé. Bom nổ trong phố Hà Nội, thành phố tản cư. Thứ, vai chính trong truyện, cũng rời cái trường tư của anh để về quê. Trên tầu hỏa chật chội, một người nhà quê đọc báo, nhiều tin chiến tranh.
“Bao nhiêu người chết! Bao nhiêu thành phố tan nát! Cái thảm sông máu núi thây thật là rùng rợn. Nhân loại lên cơn sốt rét, đang quần quại nhăn nhó, rên la, tự mình lại cắn mình, tự mình lại xé mình, để đổi thay. Cái gì sẽ trồi ra ?… Lòng Thứ đột nhiên hé ra một tia sáng mong manh. Thứ lại thấy hy vọng một cách vu vơ. Sau cuộc chiến tranh này, có lẽ cuộc sống sẽ dễ dàng hơn, công bình hơn, đẹp đẽ hơn… Nhưng y lại đỏ mặt ngay. Người ta chỉ hưởng được cái gì mình đáng hưởng mà thôi. Y đã làm gì chưa?”
Cách mạng đã chìa tay đón lấy tia hy vọng thắc mắc ấy của Nam Cao, và chỉ rõ cho anh thấy tương lai. Chiến tranh trở nên ác liệt, xã hội Việt Nam lay chuyển. Đời sống càng cùng khốn đến kinh khủng. Những người chết đói nằm la liệt ngoài hè phố. “Người chưa chết hẳn bị đẩy xuống hố cùng với những xác chết cho tiện chuyến chôn”. Nạn đói lan tới bè bạn Nam Cao, đe dọa bản thân anh. Vợ anh viết thư cho anh: “Con Hường, thằng Thiên ăn cháo hơn một tháng nay rồi. Ba hôm nữa, cháo cũng không có mà ăn. Trông thấy chúng nó cứ lả dần, em đứt ruột”.
Nhưng giữa cảnh tượng như tuyệt vọng ấy, Nam Cao đã đọc “Đề cương văn hoá” của Đảng cộng sản Đông Dương và vào hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc, học chương trình huấn luyện Việt Minh. Giữa cảnh chết chóc ghê gớm chưa từng thấy, anh trông rõ sự sống đang đào lên vũ bão. Và không phải một mình anh trông thấy. Cả nhân dân Việt Nam đã trông thấy ánh sáng. Cờ đỏ sao vàng mọc ra khắp nơi. Những con người khốn khổ, xưa nay ngậm hột thị, “hèn quá là hèn, ngu quá là ngu”, mà bây giờ làm những truyện Nam Cao không thể tưởng tượng được. Nam Cao đã bừng thấy sức mạnh của nhân dân, và trong đường sống của dân tộc đã tìm thấy đường sống của mình. Cuộc đấu tranh gay gắt và rộng lốn đẩy anh đi lên mở đường cho anh. Lần đầu tiên, Nam Cao thấy đời sống có ý nghĩa và hiểu rõ mình phải làm gì. Nhật - Pháp bắn nhau, anh về quê, không kịp khóc đứa con chết đói, anh mê mải tổ chức Việt Minh rồi cướp chính quyền ở huyện và làm chủ tịch xã.
*
Khỏi nghĩa tháng Tám như một lưỡi cày khổng lồ đào xới mảnh đất Việt Nam đau thương, để gieo sự sống trở lại lên những luống đất đẫm máu và nước mắt. Bao nhiêu vấn đề đều phải đặt lại tất cả cùng một lúc. Nam Bộ vừa đứng lên đã phải kháng chiến, chống thực dân Pháp trở lại xâm lược. Nhưng niềm vui đã tràn ngập trong lòng mấy chục triệu con người tái sinh.
Nam Cao cũng như mọi anh chị em viết văn, sống những ngày ào ạt, sôi nổi, nhiều lúc quên cả công việc viết của mình. Không làm gì có thì giờ viết tiểu thuyết dài lúc này, người ta say sưa làm việc túi bụi. Đi theo Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp vào mặt trận miền Nam, lúc trở về, Nam Cao viết bài cho báo Tiên phong, câu đầu tiên của anh là một câu hớn hở: “Con đường vô Nam là con đường vui”. Sau những năm đau xót tủi nhục, niềm vui sướng lớn của dân tộc được giải phóng đã chiếu sáng tâm hồn anh.
Nam Cao đón lấy những đường lối chính trị của đoàn thể, của chính phủ như một kẻ bị giam mãi trong ngục tối, phồng ngực thở hít khí trời, khi được ra ngoài tự do. Qua bao nhiêu bước quằn quại, mò mẫm, nên anh biết rõ giá trị của ý thức, của tư tưởng chính trị, nó mở mắt cho ta hiểu được sự việc hằng ngày, và giúp ta nắm lấy đời sống mà hướng về tiến bộ. Anh lại viết truyện làng anh, tìm cách nhìn rõ sự thể hiện của đường lối đại đoàn kết ngay trong những con người trước đây dân làng thù ghét, ngày nay đang được cách mạng cảm hoá. Những truyện mới của anh còn khổ, có khi bị gò ép. Có bạn trách anh bắt những nhân vật mới của anh diễn thuyết quá nhiều. Mặc, anh nắm cổ nghệ thuật của anh, bắt nó phục vụ cho cuộc chiến đấu sống chết của dân tộc. Nhân vật nói nhiều cũng chưa sao miễn nói cho đúng đường lốì.
Những ngày đầu kháng chiến toàn quốc, Nam Cao giúp việc tuyên truyền ở Hà Nam, phụ trách một tờ tin tức địa phương, làm ca dao tuyên truyền, phổ biến nhiệm vụ kháng chiến. Anh trực tiếp tham gia tổ chức kháng chiến ở làng anh, một trong những làng đầu tiên
bị quân giặc uy hiếp, rồi tràn ra đốt phá, càn quét. Mùa thu năm 47, anh lại từ biệt một lần nữa người vợ hiền và ba con để lên Việt Bắc, theo sự điều động của đoàn thể. Trong trận giặc tấn công Việt Bắc, anh chịu trách nhiệm cùng điều khiển báo Cứu quốc Việt Bắc ở trong lòng địch, giữa Bắc Cạn bị chiếm đóng. Và ngay giữa những tiếng súng giặc, anh được vinh dự vào Đảng tiền phong, đứng cùng hàng ngũ với các người con yêu của Cách mạng, của nhân dân. Trong tập nhật ký Ở rừng anh viết hồi đó, người cán bộ quần chúng đã xuất hiện bên cạnh nhà văn.
Anh gần gũi và thương yêu những con người chất phác “Đã ăn củ hàng tháng để nhường gạo cho những người cách mạng, những người Mán đói rách và ngu dốt cũng biết yêu cách mạng, làm cách mạng chân thành”. Giữa những người ấy, anh thấy an toàn, chắc chắn lạ lùng, mặc dầu vẫn nghe thấy tiếng súng rất gần. Hằng ngày viết báo, anh đọc cho một đồng chí giao thông người Thổ nghe, và sửa từng câu, từng chữ, để ai xem cũng có thể hiểu mà tiến lên giết giặc. Anh phụ trách lớp huấn luyện chính trị cho huyện, cho xã địa phương. Một đôi lúc sống hẻo lánh trong rừng thẳm, những kỷ niệm đau xót của quãng đời cũ thoáng trở lại, ngậm ngùi. Nhưng sự phấn khởi, tin tưởng lôi cuốn anh mạnh mẽ. Anh viết:
“… Càng thấy phải khuân vác, phải vất vả, càng vui. Cách mạng đã đổi hẳn óc mình. Kháng chiến chẳng những làm già dặn thêm khối óc đã đổi mới kia, còn thay đổi ngay chính thân thể mình… Lúc này mình mới biết được sức mình. Thì ra mình khỏe chẳng kém gì ai. Thường thường người ta chưa bao giờ dùng đến tất cả sức lực của mình. Một phần khả năng của ta vẫn bị bỏ phí hoài, đến nỗi ta không biết rằng ta có nó”.
Mấy năm kháng chiến, Nam Cao đã viết khá nhiều trên các báo, nhất là trên báo và tạp chí Cứu quốc. Trong những sách anh viết, phải kể cả những cuốn địa dư phổ thông. Lâu lâu, anh đưa in một truyện ngắn hoặc một bài bút ký. Đôi mắt, Bốn cây số cách một căn cứ địch, Nụ cười v. v…, mỗi năm anh viết càng sát chính trị hơn,
càng cố gắng thể hiện bằng sáng tác những chính sách lớn của kháng chiến. Ý thức trách nhiệm ngày càng rõ rệt trong những trang anh viết. Anh muốn sáng tác của anh phải có ích. Và dai dẳng trong mấy năm, anh viết đi viết lại cuốn tiểu thuyết mới về quê hương anh, mỗi lần viết lại bỏ dở vì thấy chưa đủ tài liệu, mỗi lần bỏ dở lại tìm thu thập tài liệu thêm, tài liệu ghi chép, học tập, và tài liệu sống, lượm trong những dịp anh về qua vùng địch, hoặc được gặp những người làng, nhân vật tiểu thuyết cũ của anh nay đã trở thành những phần tử cốt cán của cuộc chiến đấu ở quê anh.
Đầu năm 50, trở về chuyên công tác văn nghệ, anh làm việc một cách yên tâm, với thái độ dứt khoát và cương quyết thực hiện những đường lối văn nghệ của đoàn thể. Anh nhận mọi phần việc của anh vô luận to nhỏ. Soạn một bản tin, hay phụ trách một lớp huấn luyện cho các đồng chí giao thông trong cơ quan, hay viết một truyện ngắn, anh đều đem vào đấy hết khả năng và cố gắng của mình. Anh qua đoàn nhạc, thúc giục nhạc sĩ, gợi đề tài, tỏ ý kiến về những bản nhạc gửi đến Hội. Anh tới trường Mỹ thuật nói truyện với anh chị em học sinh về chính sách tạm vay và thuế nông nghiệp, để anh chị em vẽ và dặn dò kỹ lưỡng, hẹn đi công tác rồi cùng về kiểm điểm. Anh đi chiến dịch Cao Lạng, làm báo tay cho đơn vị, phục vụ công tác chính trị trong cuộc chiến đấu. Ít khi anh phàn nàn về công tác. Không bao giờ anh nhận công tác mà không thủy chung làm.
Tập “Truyện biên giới” về chiến dịch Cao Lạng, anh sửa đi sửa lại, bỏ hàng chục trang không tiếc để được mỏng, dễ in, dễ phổ biến. Ngành kịch cần đề cao, anh soạn kịch. Đi công tác thuế nông nghiệp nhận thấy ca dao có tác dụng lớn, anh làm ca dao. Hình thức nào tới được nhân dân đối với anh đều tốt cả. Bất cứ dùng hình thức nào, sáng tác đối với anh trước hết cũng phải nhằm động viên, giáo dục được nhân dân. Trong tập “Truyện biên giới” nói trên, anh chỉ chọn lấy những sự việc, những điển hình tích cực, có lợi cho người đọc sách của anh. Ban tuyên huấn Bộ Tư lệnh Liên khu Việt Bắc đã
trích truyện “Nói thẳng” trong tập ấy làm tài liệu học tập và kiểm thảo trong quân đội.
Khi nhận đi công tác thuế nông nghiệp Liên khu Ba, anh giản dị lên đường. Liên khu Ba, giặc đang lập vòng đai trắng. Nhưng anh nhận nhiệm vụ, cũng như trong mọi công tác anh vẫn nhận lấy cái phần khó khăn. Báo cáo gửi lên đều: anh học tập thuế nông nghiệp - anh trình bày những khó khăn của văn nghệ Liên khu Ba - anh đề nghị phương châm chống văn hóa đầu độc của giặc. Trước ngày vào vùng địch làm thuế nông nghiệp, anh viết thư về:
“… Tới một vùng chiến tranh nhân dân trước đây rất khá. Hiện nay bị giặc quấy đảo dữ dội, địch phục kích chặn đường luôn, nhưng cũng có hy vọng vào nhanh chóng được… Đi với anh em cán bộ, tôi không bỡ ngỡ lắm… Vì công việc của họ với tôi là một, không lúc nào phải đứng ngoài xem những việc mình không thể nào dự nên không bỡ ngỡ… Sau thời gian làm việc, nếu giời còn chứng sống và không bị bắt, tôi sẽ dự hội nghị tổng kết. Viết được gì sẽ viết…”
Những lời lo lắng trách nhiệm và đùa cợt với nguy hiểm ấy, là những lời cuối cùng của anh. Nam Cao đem lòng yêu cuộc sống đằm thắm mà đi vào một nơi cuộc sống treo trên sợi tóc, giặc đang ra sức giết chóc, đốt phá. Quân giặc giết Nam Cao nhưng không thể giết được tác phẩm của anh và lòng yêu nước, yêu nhân dân của anh. Anh chết giản dị, dũng cảm, làm vẻ vang cho truyền thống đấu tranh và phục vụ của những người văn nghệ Việt Nam.
Tháng 2 -1952
Trích sách: Mấy vấn đề văn học, Nxb Văn nghệ, H., 1956 NGƯỜI VÀ TÁC PHẨM NAM CAO (TÔ HOÀI)
Những người bạn mới gặp Nam Cao thường nói: anh ta lạnh lùng quá. Kéo mép lên mới nở được một nụ cười khó nhọc. Chính Nam Cao cũng đã tả mặt mình trong một truyện ngắn Cái mặt không chơi được. Và tự diễu một cách mỉa mai là “chẳng may trời chỉ phú
cho mình Cái mặt không chơi được ấy thì mình phải chịu”. Thật ra thì, mặt anh ta lạnh lùng, nhưng lòng anh rất sôi nổi. Sự trái ngược trong con người Nam Cao, thể hiện ở cả những việc nhỏ bé như vậy. Vốn là một người yếu đuổi (cả người lẫn tâm tính), sợ thay đổi, sợ cái gì khỏe quá, nhưng chống những cái sợ đó, bao giờ Nam Cao cũng tìm cách tạo cho mình một tính nết ngược lại, một thói quen mới. Trong nền nếp cải tạo tư tưởng, nhân tố cưỡng lại ấy, tôi cho là một điểm đặc biệt, đáng chú ý nhất ở cuộc sống tư tưởng và nghệ thuật của Nam Cao.
Tôi còn nhớ những năm sóng gió nhất ở tình hình Đông Dương sau khi Mặt trận Bình dân tan vỡ, tiếp đến thời kỳ đen tối, đẩy theo bao nhiêu thanh niên sa ngã, trụy lạc, bấy giờ thanh niên Nam Cao, người thì gầy yếu, tiền thì không có, nhưng có rất nhiều mộng, anh cũng liêu biêu trong cái tác phẩm ngập ngụa, sặc thuốc súng và hố rác, anh cũng lởn vởn như những thiêu thân cứ nối nhau lao vào trụy lạc đến cháy cánh. Có những đêm bi đát, rượu chán rồi đánh nhau, rạch máu tay ra viết lên tường, rồi nắm tóc nhau cùng khóc, có những đêm tối thăm thẳm, họ muốn không bao giờ hết, để bọn người chán đời tiện rúc vào bóng tối mà sống thoi thóp, có những đường phố cứ dài tưởng không bao giờ tận cùng, người chán đời lùi lũi đi vào bóng tối, tưởng như cứ thế thì tới Âm ty. Lòng người thanh niên cùng quẫn, đau khổ, không một chút muốn trông thấy ngày mai. Trải qua những trống rỗng tuyệt vọng ấy, tầm thường mà nói, vô số bạn bè nghệ sĩ của anh đem phấn sáp trát lên sự thật ê chề, để, trước nhất tự đánh lừa mình - như bọn người chán đời chỉ muốn rúc đầu vào bóng tối - và quăng ra đầu độc người đọc bằng những tiếu thuyết bịa tạc, nhảm nhí, trống rỗng. Nam Cao không làm thế. Noi gương những đàn anh và bạn tốt của mình như Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, vục vào những cay đắng, và cả những xấu xa, của xung quanh và bản thân, Nam Cao không che giấu, không màu mè gì hết, nói toạc cái cuộc sống cùng đường tận lối và nhơ nhớp của những người như anh. Anh đã viết nhiều truyện ngắn đặc sắc đăng trong “Tiểu thuyết
thứ bảy” bấy giờ và tự truyện “Sống mòn” năm 1944. Hoặc như anh đã viết Chí Phèo. Bọn cường hào làng anh, mà anh thù hằn chúng. Ta chẳng lạ cái thế lực bạo ngược của địa chủ cường hào ở những nơi đầu tỉnh cuối huyện như làng ấy. Nhà anh là một nhà trung nông lép vế. Truyện Chí Phèo in ở Hà Nội, chính là cái truyện anh cu Chí Phèo thật đã giết một tên tổng lý cường hào thật đã xảy ra mười mấy năm về trước ở làng anh; vì truyện ấy mà cường hào dọa đánh và kiện anh, triệt đường anh về làng.
Mỗi sáng tác của anh đều là tiếng nói một thái độ của ngòi bút. Không ngủ gật hoặc ừ hữ che màn với cuộc sống bấy giờ, mà anh đã quăng vấn đề ra cho bạn đọc suy nghĩ. Những cái bất công bạo ngược mà anh cảm, anh đã viết nó lên. Những cái bạo ngược, hèn yếu, vẩn vơ, bệnh thời đại, bệnh của chính Nam Cao, mà anh đã viết, nghĩa là vạch trần, chống lại nó, trước nhất ở ngay trong con người mình.
Sau này, vào cuộc kháng chiến, cũng nhiều dịp cho tôi thấy được cái dũng cảm ấy của Nam Cao. Hiển nhiên là nếp suy nghĩ này, nhờ đời sống cách mạng rèn giũa, đã trở nên một thói quen, một nền nếp tư tưởng, một bản chất của con người mới. Còn nhớ những khi gian nan nhất mà chúng tôi có hoàn cảnh cùng ở làm việc với nhau, bao giờ tôi cũng thấy bản lĩnh cần thiết ấy ở Nam Cao. Cho đến cuối cùng, khi bị hy sinh, Nam Cao đã ngã xuống trong tinh thần trách nhiệm rất cao. Những người sống sót ở trận giặc phục kích chập tối ngày 30 tháng 11 năm 1951 trên cánh đồng Chiêm ở Hoàng Đan (Ninh Bình) kể lại: Nam Cao đi trong một chiếc thuyền đầu của đoàn thuyền vượt khu trắng đêm ấy vào địch hậu Ninh Bình. Tôi nghĩ lại và nghĩ về tất cả những cố gắng, những trường hợp đương đầu với tình thế sống mái, bao giờ Nam Cao cũng có được bản lĩnh chống với thói xấu bạc nhược của mình - kể cả nhiều mặt của một người cán bộ cách mạng, một nhà văn.
Bất cứ một cuộc đi thực tế nào, làm công tác gì, Nam Cao cũng chỉ thấy Đảng đã mở đường cho mình. Tôi chưa thấy Nam Cao ngần
ngừ một công tác nào trong kháng chiến. Anh là người viết giỏi, anh cũng thừa khách quan và chủ động được cái giỏi đó của mình, nhưng đồng thời, anh cũng rất biết là công tác nào Đảng giao cũng giúp cho mình thực tế hiểu biết và cho nghệ thuật của mình. Thực tế nào cũng có ích, làm công tác nào cũng cần thiết. Bởi vì Nam Cao biết rằng cái giỏi của mình, không viển vông, không mộng mị gì hết, nhất định nó phải trải qua vô vàn thực tế mới phát triển được. Cũng như anh biết rằng anh cần phải là một người nông dân tốt, trước khi là một nhà văn. Không phải tự dưng mà Nam Cao kết luận được đầy đủ thế đâu. Thiếu gì những lúc bồi hồi mà con ma “thiên tài” đến tưng nịnh, xui giục anh, công kênh anh ngồi lên đầu cuộc sống của mọi người. Những bạn gần Nam Cao bây giờ nhắc lại còn cười với nhau vì đã lắm lần vui truyện hoặc quá chén, cái anh chàng gầy gò leo khoeo ấy đỏ mặt đỏ tai lên vừa rung đùi vừa nói băm băm bàn tay, chửi bới rất hùng hổ, coi giời bằng vung, coi ai cũng bằng cứt. Nào Gorki viết cũng xoàng. Lỗ Tấn thì khá một tý. Mình sâu tý nữa, có thể kịp Tsêkhôp, Trần Đăng lạnh như đá. Tao ấy à, tiểu thuyết của tao sẽ… Và rung đùi, hoa chân múa tay… Nhưng khi cái “bốc” ấy qua rồi, thì Nam Cao cả ngày ngồi lừ rừ suy nghĩ. Ấy là anh đương chửi anh và xem mình đáng xấu hổ quá. Rồi anh lại cặm cụi làm việc. Không phải như thế nghĩa là chỉ có lại vào lúc bốc thì Nam Cao mới dám đưa mình lên giời. Không, Nam Cao rất hiểu khả năng nghệ thuật của mình. Nhưng, bình tĩnh và tỉnh táo đấu tranh với những tàn tích rất thầm kín và sang trọng thường đến phỉnh phờ nịnh hót mình, Nam Cao lại biết được bất cứ một việc, một dịp nào tiếp xúc với mọi mặt của thực tế, người ta đều được tôi luyện và chỉ có lợi cho nghệ thuật. Với quan điểm trên, chẳng bao giờ anh ta cho mình làm như thế là đã hy sinh cái gì đâu.
Không bao giờ, trong công tác thực tế, Nam Cao đặt cái anh nhà văn ra trước công việc mà đầu tiên, chúng ta chỉ trông thấy anh cán bộ Nam Cao. Do đó, Nam Cao cảm thông được với thực tế, qua cảm nghĩ và công việc của một người bình thường, vì vậy mà sự sống đã
đến với anh trăm màu nghìn vẻ vui buồn, mừng giận, phấn khởi của con người. Ở đây tôi không nói đến phương thức và bố trí lực lượng văn nghệ của Hội Văn nghệ trong kháng chiến. Đó là một vấn đề khác. Ở đây chỉ muốn nói: lối sống của con người và vấn đề sáng tác của Nam Cao biểu hiện một cách sâu sắc sự nhất trí của thực tế cuộc sống và tác phẩm, sự thống nhất của tư tưởng Đảng và nghệ thuật. Một lúc nào chệch ra ngoài khuôn thước đó, nhất định ngã.
Có người nói rằng tác phẩm Nam Cao viết trước Cách mạng hay hơn tác phẩm Nam Cao viết trong kháng chiến. Cái đó là một sự thực. Nhưng hiểu sự thực ấy như thế nào thì mỗi người nghĩ một cách. Có người cho là tại người ta đã phân công không hợp lý cho Nam Cao nhiều năm làm công tác linh tinh cho nên sáng tác Nam Cao bị thui chột đi. Có người cho là tại đường lối lãnh đạo sáng tác hẹp hòi, cho nên Nam Cao đã đâm ra viết khô khan, công thức. Có người lại đoán già: Nam Cao viết truyện Đôi mắt mà hay được như thế là vì anh viết trước chỉnh huấn. Rồi nhân đấy mà tưởng tượng miên man ra những điều bi đát khác.
Tôi nghĩ đó chỉ là đoán già đoán non, hoặc những điều dẫn chứng trên chỉ là những nguyên nhân khác mà thôi. Rất nhiều khi suy nghĩ về nhân vật và tác phẩm, Nam Cao thường bị quanh quẩn một lo lắng: xã hội đã biến đổi, con người đã biến đổi. Ngay cả những người cũ trong sách mình, bây giờ họ vào xã hội mới, họ cũng đương có những hoạt động mới, ý nghĩ mới. Khác trước lắm, những nào hội họp, tập thể, nào đoàn thể. Đảng, những tiếng và việc mới lạ: những đoàn kết, lừng khừng, tích cực… toàn cái mới. Lại như tình yêu là lẽ sống muôn thuở kia bây giờ cái quan niệm phổ biến về nó cũng khác rồi.
Cuộc sống mới khó nhọc và thú vị biết bao. Có lý nào người viết sách lại ngủ gà trước những điều ấy? Có lý nào người viết sách lại nhát gan đến nỗi đóng cửa, không dám cho nhân vật mình ra tiếp xúc với xã hội mới? Nếu thế thì cái anh ấy nhất định xuống dốc rồi.
Truyện ngắn Đôi mắt là một cái tuyên ngôn về thái độ mới của Nam Cao nhà văn. Truyện ngắn ấy viết dựa vào truyện thật. Cuối năm 1947, Nam Cao qua vùng Cống Thần gặp Vũ Bằng tản cư ở đấy. Bằng chính là cái anh văn sĩ Hoàng nọ. Hoàng kể cho Nam Cao nghe những truyện giễu cợt khinh bỉ của mình về những người nông dân, trong khi những người nông dân đang lăn lưng ra gánh vác cuộc kháng chiến, trong khi anh và một số người nhàn rỗi khác vẫn tiếp tục cuộc sống ăn chơi giả dối, lộn mửa: đánh bài, đánh chén, chim vợ chim chồng nhau, chào nhau vờn vỡ nhưng sau lưng lại nhem nhẻm nói xấu nhau. Nam Cao nói cho người bạn văn lâu ngày gặp lại của mình biết là giờ đây mình nghĩ khác rồi, không còn chán đời, mà lại yêu cuộc sống, sống có suy nghĩ hơn. Rồi Nam Cao đi, bạn ở lại. Mỗi người theo một con đường. Bằng cả truyện ngắn ấy, Nam Cao muốn nói với xung quanh và chính cả với mình rằng cách nhìn cũ của chúng ta nó xanh xám quá thôi, đừng tìm cách che đậy nó bằng một thói quen mòn mỏi nào nhé, hãy can đảm đổi mới, chưa quen thì tập, có cộm mắt, đau người, khó chịu chi đó thì cứ gắng lên, nhất định sẽ thích hợp và có được tấm lòng tha thiết.
Từ đấy Nam Cao lăn mình vào thực tế. Anh làm bất kỳ việc gì - như trên tôi đã kể - cốt sao để mình bắt kịp thời đại, có được những cảm giác mới nhất, nhạy nhất về các sự việc nóng hổi mà cuộc kháng chiến hàng ngày đưa tới. Nói như chúng ta thường nói bây giờ “để tư tưởng lúc nào cũng đứng ở mũi nhọn của cuộc sống”. Anh thường lý luận về một số vấn đề sáng tác: Xưa nay, chúng ta thường nói nhiều về những việc mới như hội họp, công tác, tình cảm chiến đấu, hãy nên viết những cái ấy nhiều và say như đã viết về tình yêu. Nói và Nam Cao đã làm như thế. Điển hình như kịch “Đóng góp” là cả một cuộc đối đáp giải thích thuế. Kể ra nghĩ và làm cực đoan như vậy, nó cũng khá giản đơn và “quá tả”. Nhưng mặt khác, nó bộc lộ một thiết tha sôi nổi của một người muốn “luôn luôn đứng ở mũi nhọn cuộc sống”. Chính là anh muốn biết, quen thuộc, tạo thành sự suy nghĩ, thành tính nết thấm thía tận gốc gác những vấn đề mới, sự việc mới và tư tưởng mới.
Có phải Nam Cao theo đuổi hòa mình vào cách sống khó khăn và sâu sắc như thế, cốt chỉ để biểu hiện thời sự, theo sát thời sự? Nam Cao không đến nỗi nghĩ thô sơ như vậy. Một nhà văn nào dựng truyện muốn nhân vật mình có chiều sâu của cá tính, không thể chỉ đơn giản như vậy. Cái điều anh hằng ôm ấp, và đã có làm, trong kháng chiến, là viết một tiểu thuyết lớn về làng anh, qua ba thời kỳ: làng trước cách mạng, làng khởi nghĩa, làng kháng chiến. Cuốn tiểu thuyết hàng nghìn trang ấy sẽ thể hiện được tất cả những thương yêu say đắm của anh đối với đất quê hương. Cái làng quê hàng trăm năm cũ sẽ sống lại. Muốn nó sống lại được thật thì trước nhất người viết phải có sự thấu đáo đầy đủ, kịp thời và nhất định xúc cảm của anh phải chan hòa với sự sống hôm nay. Bởi vì, chỉ nói đơn giản thôi, thì những Chí Phèo cùng khổ, ngỗ ngược, cảm tính ngày trước, cuối cùng họ đã vùng lên. Có lý nào mà người viết không nắm được trước nhất đời sống mới ấy của “Chí Phèo”?
Hai lần, Nam Cao đã bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết này. Một lần, anh tự ý bỏ. Một lần, anh em phê bình, bảo là “gượng” quá, thì anh xé bản thảo đi.
Mỗi lần viết là một lần đo sức. Sức còn đuối thì luyện tập lại. Cái đó, tôi tưởng, hơn ai hết, Nam Cao đã tự nâng trách nhiệm của mình trước cuộc đời.
Cuốn tiểu thuyết lớn vẫn ám ảnh anh, cho tới khi anh chết. Đó là một sự thật. Tôi không được biết ý nghĩ cuối cùng khi Nam Cao vào địch hậu đồng bằng tuyên truyền thuế nông nghiệp, nhưng trước đấy, đã nhiều lần, Nam Cao thường nói: “Chỉ về làng một tua, bắt tay nhìn mặt chúng nó một cái, thì phần cuối cùng cuốn truyện mình nhất định viết xong”. Cuốn tiểu thuyết đã nằm sẵn trong óc.
Nhưng mà, chưa tới nơi, anh đã chết. Cuốn tiểu thuyết bỏ dở trang đầu. Cái gì làm cho Nam Cao chưa viết xong? về nghệ thuật mà nói, chính cái thực tế cuộc sống kháng chiến mà anh lúc nào cũng hâm hở đòi hỏi, cái ấy chịu trách nhiệm trước nhất.
Tôi trở lại kết luận. Cuộc đồi tư tưởng và nghệ thuật Nam Cao luôn luôn chống trọi trước nhất với những yếu đuối, bạc nhược trong mình. Soi qua đấy Nam Cao đã sáng tác. Để mình trở nên hiện đại, nắm vững thực tế, càng về sau Nam Cao càng hiểu thực tế và lãnh đạo đời sống nghệ thuật, là hai mặt của một vấn đề nghệ thuật và chính trị. Nam Cao chỉ nghĩ và sáng tác trên cơ sở đó, bởi vậy, mặc dầu Nam Cao viết ít, nhưng trước sau đã để lại cho chúng ta một mẫu mực nhà văn, cho văn học một số tác phẩm giá trị.
Báo Văn nghệ, số 145, 1956
NAM CAO (HÀ MINH ĐỨC)
Từ những năm 1937-1938 Nam Cao đã cho in những sáng tác đầu tiên của mình
Năm 1941, bút danh Nam Cao mới chính thức được giới thiệu trong làng văn qua tập truyện “Đôi lứa xứng đôi”. Không dễ qua một tập truyện đầu tay đã có thể gây được tiếng vang sâu rộng giữa lúc văn đàn đang chìm ngập trong sự đua chen lẫn lộn giữa các khuynh hướng văn chương phức tạp; nhưng rõ ràng Nam Cao đã mang tới một phong cách mới mẻ. Một cây bút đương thời nhận xét: “Giữa lúc người ta đang đắm chìm trong những truyện tình thơ mộng và hùa nhau phụng sự cái thị hiếu tầm thường của độc giả, ông Nam Cao đã mạnh dạn đi theo một lối riêng, nghĩa là ông không thèm đếm xỉa đến cái sở thích của độc giả. Những cạnh của tài ông đã đem đến cho văn chương một lối văn mới, sâu xa, chua chát và tàn nhẫn, thứ tàn nhẫn của con người biết tin ở tài mình, ở thiên chức của mình”.
Nói cho rõ ra, đó là cái thiên chức của một ngòi bút có trách nhiệm, một nhà văn hiện thực. Nam Cao sinh năm 1917 trong một gia đình trung nông ở làng quê nghèo thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ. Gia đình Nam Cao sống cũng chật vật.
Trong số anh em, chỉ mình Nam Cao được ăn học. Học hết bậc Trung học nhưng vì ốm nặng, Nam Cao lại trở về làng. Ôn tập lại vốn học và thi đậu, nhưng vì sức khỏe yếu nên không có việc làm. Sau có người làng mở trường tư ở Hà Nội cần một chân dạy có bằng Trung học, Nam Cao được mời dạy. Được ít lâu trường phải đóng cửa vì Nhật chiếm chỗ làm chỗ nuôi ngựa. Xam Cao sống vất vả, khi viết văn, khi làm gia sư nhưng cũng không đủ kiếm sống. Thời kỳ này Nam Cao được giác ngộ cách mạng và tham gia sinh hoạt tổ Văn hóa Cứu quốc (1943). Khi cơ sở Văn hóa Cứu quốc ở Hà Nội bị khủng bố, Nam Cao về làng tham gia phong trào cách mạng ở địa phương. Tổng khởi nghĩa, Nam Cao tham gia cuộc đánh chiếm phủ Lý Nhân và làm chủ tịch xã một thời gian trước khi được điều lên công tác văn hoá, văn nghệ ở các báo trung ương.
Trong những ngày sôi nổi của tuổi trẻ lớn lên, cũng như buổi đầu đến với văn học. Nam Cao làm một số thơ lãng mạn và viết những truyện tình thơ mộng. Ở thời kỳ này, ngòi bút Nam Cao đang dò dẫm để tìm một lối đi, tâm hồn Nam Cao đang dần đổi thay để có được một cách nhìn đúng đắn cuộc sống. Những áng mây xốp bồng bềnh trôi nổi, ánh trăng xanh huyền ảo, ngọn gió mát lành thơm tho thoảng ra từ những mái tóc và tà áo thiếu nữ, những cuộc tình duyên với những lá thư màu nhiều hẹn hò, trang sức… tất cả những chất liệu ấy đã có lần đến với ngòi bút của tác giả. Mang theo nhiều mơ ước xa xôi và những nỗi buồn vẩn vơ của lứa tuổi học sinh chịu ảnh hưởng của sách báo lãng mạn, Nam Cao trong tuổi trẻ không khỏi có lúc:
Tâm hồn tan tác làm trăm mảnh
Vương vấn theo ai bốn góc trời.
hoặc “buồn như một con chim lạc vào cái buổi chiều thẫm cho
đất trời trở thành mênh mông”. Nhưng Nam Cao đã chóng trở về với cuộc đời thực “ở những người trẻ tuổi nhà nghèo, những cái buồn đến sớm thường nhường chỗ cho những cái lo”… nỗi lo cơm
áo, bệnh tật, công ăn việc làm. Nam Cao không thích sự mơn trớn, vuốt ve. “Nghệ thuật không thể là ánh trăng lừa dối”. Nam Cao muốn tìm đến sự thật. Với tấm lòng yêu thương cực độ những lớp người và những cảnh đời đau khổ, với sự căm giận xót xa đến cháy lòng trước bao ngang trái, bất công của chế độ cũ, Nam Cao muốn phơi bày sự thật của cuộc đời và của lòng người, Cũng theo những trang sách hò hẹn, trong tuổi trẻ của mình, Nam Cao đã tiến hành những chuyến phiêu du. Tác giả vào Sài Gòn để mong tìm một sự giải thoát, “hy vọng được nhìn rộng biết xa”, kiếm được một nghề dễ chịu, nhưng thực tế phũ phàng của cuộc đời đã ném Nam Cao về lại mảnh đất làng sau trận đau ốm. Mở ra nhiều phương nhưng cuộc đời thu lại gần gũi và quen thuộc nhất vẫn là chốn làng quê với những cảnh đời lầm than, đau khổ và rồi đây cái làng quê ấy đã đi vào trang viết rất chân thực, rất sinh động. Tiếp xúc và cọ xát với nhiều kiểu người, nhiều số phận khác nhau, Nam Cao đã từ cái bao quát chung mà càng thấm thía để suy nghĩ và chiêm nghiệm cho thân phận của tầng lớp và của riêng mình. Con người trí thức tiểu tư sản nghèo, thầy giáo tiểu học, nhà văn quanh năm túng thiếu, con người chứa chất nhiều mâu thuẫn vừa yêu đời vừa chán đời, thất vọng và hy vọng, cao thượng và yếu hèn ấy là tấm lăng kính nhiều màu sắc hút về từ nhiều phía chất liệu của cuộc đời để tự phân tích và biểu hiện một cách sâu sắc. Qua những trang viết Nam Cao không lấy mình làm mục đích để tự huyễn hoặc mình. Cái tôi của nhà văn như một số phận lênh đênh bị dập vùi lên xuống trong chiều sóng xô đẩy của cuộc đời. Qua những tâm trạng chân thực của mình luôn mở rộng về phía cuộc đời, anh đã có thể nói về hiện thực cuộc sống theo một cách riêng. Dấu ấn chủ quan trên chất liệu bề bộn của cuộc sống không làm cho sự sống bị bóp méo, hoặc bị cắt xén nghèo nàn đi mà luôn tạo nên những suy nghĩ, triết lý sắc sảo và những tình cảm nén sâu đầm ấm tỏa trong văn mạch. Có khi ngòi bút của Nam Cao như một con dao trích lạnh lùng lách sâu vào cơ thể bệnh tật của xã hội, phơi bày ra không tiếc thương trên trang giấy những ung nhọt tấy đau đang hủy hoại hoặc thầm lặng, hoặc gấp rút cuộc sống con người. Ngòi bút Nam Cao tỉ mỉ đi vào
mọi ngõ ngách của cuộc đời ghi lấy từng chi tiết, từng hơi thở của cuộc sống, bắt sự sống hiện hình như nó đang bị hủy hoại, giãy giụa quằn quại ngoài kia. Biết giữ lại lòng mình để cho trang giấy nổi lên những nét vẽ sắc sảo và cho sự thực phô bày đến như lạnh lùng, tàn nhẫn, nhưng rồi tác giả cũng không kìm được những tiếng nấc đau thương, nghẹn ngào khi thấy những con người lương thiện bị xô đẩy vào vòng tội lỗi, và những cuộc đời đầy hứa hẹn đã khép vội vã, non yểu. Nam Cao có một tâm hồn biết lắng nghe, một tiếng nói tha thiết biết an ủi và vỗ về từ bên trong để chia sẻ lòng mình đến mọi cuộc đời nghèo khổ. Nam Cao đến thẳng với nhân vật và người đọc bằng một tấm lòng. Tấm lòng ấy được nuôi dưỡng và lớn lên từ những cảnh đời nghèo khổ. Hình ảnh bà mẹ gia ngồi tróm trém nhai cơm nguội mỗi buổi chiều, những đứa em thiếu ăn, thiếu mặc quây quần trong cảnh đời vất vả, những người hàng xóm giàu tình thương mà lại nhiều bất hạnh, một mái rạ, một mảnh vườn xơ xác sau những trận bão, khuôn mặt xanh xao của những người phụ nữ chịu đựng và thương chồng… tất cả những hình ảnh đó luôn gắn bó, ám ảnh day dứt và theo suốt cuộc đời tác giả cho dù có những tháng năm xa cách sống giữa đời nhộn nhịp đua chen. Một nhà văn nghèo và ham viết sự thực, một thầy giáo tiểu học… những nghề nghiệp ấy trong xã hội cũ phải chăng cũng tạo nên phần mực thước trong nhân cách sống, giữ lại cho con người khỏi ném mình chạy theo dục vọng hoặc buông xuôi tuyệt vọng trước nhiều thử thách đắng cay. Nam Cao vẫn là mình, tấm lòng ấy trước sau vẫn thủy chung, trọn vẹn trước sức xô đẩy từ nhiều phía cuộc đời. Trên trang sách đó là lòng tin cậy và yêu thương con người nghèo khổ, bất hạnh, là những ước mong da diết một cuộc sống tốt đẹp hơn và công bằng hơn. Chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao phát triển ra từ nguồn mạch đó nên nó mang những đặc điểm và phẩm chất riêng đáng quý. Nam Cao là người “đến muộn”, Nam Cao có mặt khi trên văn đàn đã xuất hiện nhiều tác phẩm hiện thực xuất sắc của một thời kỳ lịch sử. Nguyễn Công Hoan đã gây ấn tượng về nhiều mặt qua những truyện dài và đặc biệt là những truyện ngắn với sức châm biếm sắc sảo và nụ cười
thâm thuý. Nguyên Hồng với tâm hồn thiết tha sôi nổi, luôn biết vượt lên mọi khó khăn để vươn tới qũy đạo đấu tranh cách mạng. Ngô Tất Tố mực thước, nhân hậu trong tình người và sắc sảo trong quan sát, tường thuật của ngòi bút báo chí. Làng quê đã phơi bày ra nhiều cảnh tượng bi kịch qua những trang viết của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan. Đời sống lớp dân nghèo thành phố đọng lại chân thực và sinh động qua tác phẩm của Nguyên Hồng. Vũ Trọng Phụng cũng góp phần lật bộ mặt trái xấu xa nhơ nhớp của bọn tư bản giàu có. Nam Cao cũng khai thác lại những đề tài trên, những cơn xoáy lốc mới của một thời kỳ lịch sử đen tối nặng nề, kiếp sống con người đau đớn phũ phàng hơn.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Giặc Nhật ùn ùn kéo vào Đông dương gieo rắc bao thảm hoạ. Kinh tê khủng hoảng trầm trọng, thiếu gạo, thiếu dầu, thiếu vải, thiếu giấy… Cả xã hội bị xáo trộn
trong cơn điên đảo như con tàu tròng trành trước khi đắm. Như một định mệnh, không một ai thoát khỏi guồng máy ác nghiệt trên. “Đôi lứa xứng đôi” ra đời trong không khí bế tắc đó. Nam Cao đã tả được sự ngột ngạt tù hãm đến không chịu đựng nổi của giờ lột xác. “Buổi chiều rất nặng nề. Trời oi bức lạ. Một cơn gió cũng không. Vũ trụ như chín nẫu, âm ỉ tan ra thành một thứ nước đặc hâm hấp nóng. Người ta chìm trong cái nồng nực ẩm ướt như con sâu uể oải bơi trong quả thối”. Thân thể rã rời muốn rữa ra cùng mọi vật. Trái tim rụng giữa cảnh tàn phá ấy đập khẽ và hấp tấp như một kẻ thất vọng gần kiệt sức. Gân óc chùng ra. Ý nghĩ mất sáng suốt, hỗn loạn như trong cơn sốt. Những đau đớn phẫn uất, oán hờn, bứt rứt quằn quại trong một trái tim cũng bắt đầu thối luỗng”.
Hoàn cảnh ấy sẽ làm nảy sinh bao tấn bi kịch và những kiểu người mới lạ. Chí Phèo - nhân vật kỳ lạ này đã đến trong văn học giữa lúc ngoài đời loại người ấy đã xuất hiện đây đó trong thôn xóm. Nông
thôn Việt Nam ở thời kỳ này lại chịu đựng những chuỗi ngày đen tối hãi hùng của bao cảnh hà hiếp bất công, bao cảnh tan cửa nát nhà; guồng máy thống trị xiết chặt tàn bạo, bọn lý dịch hoành hành, tệ nạn xã hội tràn lan, quy luật bần cùng hóa diễn ra với nhịp
độ gấp rút. Số phận đau khổ của một anh Pha hoặc tiền đồ như đen tối của chị Dậu phải chăng đã là “bước đường cùng”! Một bộ phận nông dân còn bị đẩy sâu hơn nữa vượt khỏi ranh giới cuối cùng để rơi vào vòng tội lỗi, thành những kẻ phẫn chí đến liều lĩnh. Họ là nạn nhân nhưng rồi cũng trở thành kẻ mù quáng gây tội lỗi. Nam Cao không chỉ chụp lại hình bóng một vài cá nhân điển hình riêng biệt. Chí Phèo là một vấn đề xã hội, vấn đề có tính quy luật phổ biến của đời sống nông thôn. Nông thôn đang ở vào tình trạng kêu cứu, đang lao nhanh xuống vực thẳm để dẫn đến thảm họa hàng triệu người chết đói năm 1945. Cùng loại với Chí Phèo không chỉ có Binh Chức, Năm Thọ, Binh Tư… Cái vòng “Luân hồi” luẩn quẩn của kiểu người Chí Phèo cũng không chỉ do cái mầm mống gieo rắc của Chí Phèo để lại mọc lên những Chí Phèo con ở một nơi lò gạch cũ xa xôi nào. Thực ra trong toàn bộ sáng tác của Nam Cao có nhiều kiểu người nông dân đang trở thành Chí Phèo với những mức độ khác nhau. Đó là những kẻ ăn mất phần vợ con (Trẻ con không được ăn thịt chó), những tên chơi bời, cò bạc như kiểu Binh Hựu, Cả Tuynh, Mao Khiểng, tham lam lầy là như anh cu Lộ “Tư cách mõ” hoặc bắt đầu mon men vào truyện cờ bạc rượu chè như anh cu Thiêm “Thôi, đi về”, anh Tẻ “Rình trộm”… Chí Phèo là cái cột mốc cuối cùng đi tới của những số phận đó, Họ vốn là những người nông dân lương thiện sống bằng sức lao động của mình. Trong gia đình, họ là những người chồng thương vợ, người cha thương con, lại biết cư xử tốt bụng với hàng xóm. Chí Phèo vốn hiền như đất và đã có thời mơ ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn làm thuê, vợ dệt vải… Thai cao kều (Làm tổ) đã có những ngày sống êm ấm trong đời sống gia đình với “cái ổ rơm ấm nóng, mẻ ngô rang thơm ngọt, tiếng trẻ con cười giòn…”. Nhưng rồi tai họa gieo đến bất ngờ đẩy họ tới chỗ cùng đường, hoặc cảnh sống thay đổi làm biến chất con người. Họ bắt đầu trở thành những người khác đi hẳn với chính mình, sau những năm tù tội, phiêu bạt ở đất người. Tiên chỉ làng Vũ Đại nhận xét rằng “đè nén con em đến nỗi nó không chịu được phải bỏ làng đi là dại. Mười thằng đã đi ra thì chín thằng trở về với cái vẻ hung đồ, cái tính ương ngạnh học được
từ phương xa”. Nhưng rồi phải chăng cứ phải ra đi đến nơi “trai tứ chiến gái giang hồ” mới trở thành những tay anh chị? Môi trường làm biến chất con người chẳng phải chỉ ở nơi phương xa mà ngay chính từng thôn xóm, nơi đang diễn ra khốc liệt cuộc đấu tranh giai cấp với bộ máy bóc lột tàn bạo của kẻ thù. Bằng ngòi bút sắc sảo, Nam Cao đã vạch mặt bọn lý dịch cường hào, những kẻ tay sai hà hiếp, nhũng nhiễu dân nghèo. Từ tên Bá Kiến, con mọt già đục khoét dân làng đến tên “chánh hội làng Vũ Đại là một thằng ăn cướp, nó cướp của cướp người chưa thỏa chí, nó muốn cướp cả quyền hành của dân”. Mụ phó Thụ độc ác, cay nghiệt. Tên Lý Nhưng tham lam ăn bẩn đến mức có trần ngôn: “Ai về tôi gửi cái mo, Lý Nhưng có thiếu thì cho mà dùng. Lý Nhưng ơi hỡi Lý Nhưng. Tưởng là ông hóa ra thằng ăn dơ” “Rửa hờn”. Bọn chúng xâu xé bóc lột dân làng, đẩy hàng loạt gia đình nông dân vào cảnh tan cửa nát nhà, sống hôm nay không biết có ngày mai. Chiến tranh, kinh tế khủng hoảng, gạo thóc đắt đỏ với giá cắt cổ, tệ nạn xã hội tràn lan, tất cả… xô vào vây hãm người nông dân, dẫn họ vào ngõ cụt và đẩy một bộ phận nông dân vào con đường tội lỗi. Cái cảnh đi trương tuần là truyện có thực. Đói kém rồi sinh liều, tìm cách giải thoát ở canh bạc, một quán rượu. Từ chỗ là những nạn nhân của xã hội, họ dần trở thành những kẻ gây tội tình cho mọi người, cho dân làng và trước hết cho gia đình mình. Miêu tả loại nhân vật này, Nam Cao muốn thật khách quan để lột tả cho hết, cho chân xác những mâu thuẫn đang tha hoá, đang dần dà biến chất. Ngòi bút chuyển dần từ chỗ thân quen đến lạnh lùng quan sát và nhiều lúc có hàm ý phê phán qua một cách miêu tả, một lối châm biếm. Đó là những kẻ say từ cơn này tràn sang cơn khác, những kẻ thâu đêm chầu bên canh bạc để rồi tan cửa nát nhà… Chưa bao giờ trong nông thôn lại nhiều tệ nạn xã hội lan tràn đến thế. Nam Cao có những truyện ngắn nói về nạn cờ bạc “Thôi, đi về”, Từ ngày mẹ chết, “Mua nhà”. Những người nông dân ở đây không phải là tay chuyên cờ bạc. Họ ít vốn, không biết mánh khoé bịp bợm. Họ đến đám bạc với thái độ liều lĩnh của kẻ cùng đường, cầu mong một vận may để hòng đổi thay số phận qua một canh bạc. Không được thì thôi đi về. Nhưng
phổ biến hơn là đuổi theo canh bạc như kẻ khát nước để rồi trắng tay. Những cảnh bán nhà, dỡ nhà với những tiếng vồ, tiếng đục gõ vang chát chúa cũng giống như tiếng gõ, tiếng đục quan tài qua tâm hồn liên tưởng đau xót của trẻ thơ trong ngày mẹ mất (Từ ngày mẹ chết). Cờ bạc rồi rượu chè… Những cơn say kéo dài qua nhiều trang sách. Có kẻ say tưởng như không bao giờ tỉnh như Chí Phèo. Phải có sự gặp gỡ và mối tình lạ kỳ với Thị Nở, phải qua cơn ốm làm dịu hẳn đi cái tính hung hăng như cố hữu ở hắn, Chí Phèo mới có điều kiện trở lại với trạng thái bình thường để nghe ra tiếng chim, nhận ra một tiếng người cười nói. Từ chỗ bình thường để đi đến một cơn say và từ một cơn say trở lại bình thường, ở cả hai trạng thái đó kẻ say đều có những cách để hành hạ những người thân thuộc. Chí Phèo, Trương Rự, Tự Lãng,
Trạch Văn Đoành đều là những tên bợm rượu. Cơn say càng dễ làm cho biến chất và méo mó con người. Họ bắt đầu sống một cách bản năng, thô bạo. Có kẻ trong đầu óc lúc nào cũng chỉ nghĩ đến “màu xanh của một chai rượu Văn Điển và màu vàng của một đùi thịt chó nước (Trẻ con không được ăn thịt chó). Có kẻ ăn tham mất phần con và suy luận một cách tệ hại: “Có lẽ trẻ con nó không biết đói. Không biết đói thì không đói. Không đói thì không cần phải ăn” “Trẻ con không biết đói”. Tai hại hơn có lúc chúng là những tên hung thần tham gia vào việc đốt nhà, đánh người. Cơn say rượu còn có giới hạn, còn chúng thì dường như không bao giờ tỉnh, càng ngày càng bị đẩy xa khỏi cuộc sống bình thường của con người.
Nam Cao dựng lên hàng loạt kiểu người này từ lúc chúng bắt đầu trượt dốc cho đến khi hoàn toàn hư hỏng. Trừ một vài trường hợp cách giải thích còn chịu ảnh hưởng của một quan niệm di truyền theo huyết thống, theo nòi giống tự nhiên “Nửa đêm”, còn trong hầu hết trường hợp khác, tác phẩm Nam Cao đều góp phần chứng minh cho một quy luật khá phổ biến: chế độ thực dân phong kiến đang xô đẩy hàng loạt những người nông dân đến chỗ kiệt quệ để rơi vào cảnh cùng đường liều lĩnh. Trong xã hội ấy, con đường dẫn đến tội lỗi luôn được mở rộng và thuận chiều. Và ngược lại, chế độ
thống trị luôn chặn đứng mọi con đường trở lại lương thiện của con người.
Nam Cao chỉ rõ những mặt tốt đẹp thuộc về bản chất giai cấp của người nông dân ngay ở những lúc họ bị xô đẩy vào vòng tội lỗi. Khởi điểm của cuộc đời Chí Phèo là lương thiện. Tình yêu của Thị Nở đánh thức dậy ở Chí Phèo tình cảm và lương tri tỉnh táo của con người để Chí Phèo lại có thể trở lại với mơ ước bình thường và quen thuộc của người nông dân. Nam Cao đã hư cấu nên hình ảnh Thị Nở và mối tình giữa Thị Nở và Chí Phèo để tạo điều kiện cho Chí Phèo từ cơn say trở về với con người thật của mình. Trong bản chất của nó, người nông dân ở Chí Phèo luôn muốn cưỡng lại số phận, muốn trở về với cuộc đời lương thiện. Cái kết thúc của thiên truyện này thật tích cực và hợp lý. Chí Phèo chưa có ý thức giai cấp rõ rệt nhưng đây không phải là hành động trả thù có tính chất hoàn toàn bản năng và mù quáng. Đau đớn đến phẫn uất khi mơ ước chính đáng để được trở lại làm người và có được hanh phúc giản dị của con người bị khước từ, Chí Phèo đã truy tìm nguyên nhân. Phù hợp với trạng thái như chập chờn say tỉnh của Chí Phèo, Nam Cao chưa để cho Chí Phèo có ý thức trả thù Bá Kiến ngay tự ban đầu. Chí Phèo trước tiên nghĩ đến bà cô Thị Nở, kẻ gây trở ngại trực tiếp chuyện tình duyên của mình. Nhưng phải chăng rồi chỉ vì quen chân y đã đến thẳng nhà Bá Kiến? Không phải chỉ vì chuyện quen chân mà sâu xa hơn là một nhân tố mới đã xuất hiện trong ý thức của người nông dân nghèo khổ này. Theo lệ thường thì Chí Phèo đòi tiền, nhưng lần này lại đòi lương thiện. Hai chữ “lương thiện” thốt lên ở cửa miệng con người khốn khổ vừa là một lời cầu mong, một niềm phẫn uất mà cũng đồng thời là một điều tuyệt vọng. Chí Phèo trong trạng thái tỉnh của một cơn say đã lần ra đầu mối của mọi vấn đề. Lương thiện, Chí Phèo hiểu rõ bọn giàu có độc ác đã tước của anh cái quyền được là người lương thiện và khả năng trở lại làm một người lương thiện. Tiếng gọi đòi trả lương thiện mang nội dung xã hội và có ý nghĩa giai cấp. Nó như một tia sáng vụt dậy qua suốt cả cuộc đời cực nhọc tăm tối và đó cũng là
giây phút tỉnh táo, có ý thức nhất, vượt lên khỏi trạng thái bản năng tự nhiên. Chí Phèo muốn được trở lại với chính mình, trở về với bản chất vốn có của người nông dân sau những năm tháng dài bị tha hóa đi.
Nam Cao đã nâng cao tính tư tưởng và ý nghĩa xã hội của nhân vật hơn hẳn nguyên mẫu vốn có của loại người này. Sự thực thì cái chết của Chí Phèo và những người cùng loại thường xảy ra do tuổi già, bệnh tật, hoặc do một cơn say ở một chốn bụi bờ nào. Tác giả đã hư cấu nên tình huống kết thúc có tính bi kịch và tình huống này đã góp phần nâng cao tư tưởng của câu truyện.
Miêu tả loại nhân vật nông dân cùng đường liều lĩnh, Nam Cao đã tỏ ra rất sắc sảo, bộc lộ nhiều mặt mạnh của ngòi bút. Bám sát quá trình đổi thay và biến chất của các nhân vật, nắm bắt được nhiều chi tiết chân thực và sinh động, tạo không khí giỏi, khắc họa tài tình chân dung nhiều nhân vật, Nam Cao cố giữ tính khách quan để cho cuộc sống tự nó xô đẩy, nhân vật tự nó phát triển. Nhưng cũng chính ở loại người này, ngòi bút Nam Cao phạm nhiều hạn chế sai lầm khi miêu tả một bộ phận nông dân. Tuy có chạnh xót thương nhưng khi nhân vật đã bắt đầu biến chất, hư hỏng, Nam Cao tỏ ra lạnh lùng khách quan, thậm chí có khi đến “tàn nhẫn”. Nhân vật có khi trở thành một biếm họa được tạo nên bằng nhiều thậm xưng, ngoa dụ, đặc biệt là về ngoại hình và lối sống. Tuy nhiên, dù trong hoàn cảnh nào thì đằng sau những hành động của kẻ cùng đường liều lĩnh vẫn thấy hình bóng của bọn thực dân phong kiến. Thông qua loại hình tượng này, những mặt chính diện của người nông dân có thể bị hiểu lệch đi. Thực ra Nam Cao không có dụng ý làm nổi lên ở những tính cách trên những phẩm chất tốt đẹp ở người nông dân. Nam Cao chú ý đến sự biến chất của những tính cách để đề xuất những vấn đề của giai cấp và của xã hội. Chí Phèo là điển hình về tính cách và cũng là điển hình của vấn đề. Tuy nhiên điều tác giả chưa tránh khỏi là sự sa đà trong khi miêu tả, làm lộ rõ ở nhân vật những nét méo mó quái dị. Con người chất phác nhân hậu bị lấn át nhường chỗ cho con người thô bạo bản năng. Khát
vọng trở về cuộc sống lương thiện không thể hiện rõ rệt và đồng đều ở các nhân vật. Hình ảnh tiêu cực của nhân vật nhiều lúc che lấp chiều sâu và sự đúng đắn của vấn đề đặt ra. Lạm dụng những yếu tố ngoa dụ một cách sắc sảo và lạnh lùng làm cho nhiều trang
viết như thiếu đi sự thông cảm tiếc thương.
Đời sống nông thôn trong những tháng năm này cũng bị xáo trộn nhiều về mặt tinh thần. Guồng máy thống trị tàn ác và cuộc chiến tranh khốc liệt hàng ngày gây bao thảm họa cho con người. Trong tình cảnh đói rét, bệnh tật và các tệ nạn xã hội lan tràn thì lối suy
nghĩ mê tín, dị đoan cũng phát triển. Nhiều câu truyện hoang đường, quái dị lan truyền. Nông thôn có lúc nhiễm trong bầu không khí nặng nề, bí ẩn. Những tai nạn xã hội, những cái chết ngẫu nhiên, những truyện kỳ lạ thường được giải thích theo lối thần bí duy tâm. Nam Cao cũng đã có lần phê phán lối mê tín dị đoan đó (Mong mưa). Nhưng rồi tác giả cũng viết một số truyện hoang đường. Chắc chắn rằng người viết không hề tin một chút nào vào nội dung những sáng tác trên, nhưng rồi do tính chất ly kỳ và hấp dẫn theo cách riêng nào đó của từng câu truyện, Nam Cao cũng chăm chú kể lại nhằm gây hứng thú với một số độc giả nhất định. Truyện “Ma đưa” viết về hai em bé nông thôn giữa trưa bị ma đưa lối vào một gốc cây trong một khu vườn kín. Truyện “Chú Khì”, một người đã chết nhưng vẫn tham dự một chân vào các cuộc đánh tổ tôm nên còn gọi là người đánh tổ tôm vô hình. Những giai thoại đầy tính ca hát bí ẩn ma quái xung quanh truyện vợ chồng của đứa con trai Trương Rự “Nửa đêm” v. v… Những sáng tác loại này nằm chung trong hạn chế của Nam Cao về lối miêu tả cuộc sống có tính chất tự nhiên chủ nghĩa.
Một đóng góp quan trọng nữa của Nam Cao trên những sáng tác về nông thôn là hàng loạt những truyện ngắn chân thực và giàu cảm xúc yêu thương về người nông dân. Qua những sáng tác này chúng ta gặp một hệ thống chủ đề và một thế giới nhân vật hoàn toàn khác với những kiểu Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức. Những người nông dân nghèo khổ ở đây không phải là những kẻ cùng đường
liều lĩnh. Họ không hề gây tội lỗi mà là những nạn nhân về nhiều mặt của chế độ thực dân phong kiến. Họ mang nhiều phẩm chất quen thuộc của người nông dân và ít bị biến chất trước những đổi thay của cuộc đời. Họ đã phải chịu đựng đến tột cùng những đau thương và những nỗi thống khổ của kiếp người. Đó là vợ chồng anh đĩ Chuột (Nghèo), lão Hạc (Lão Hạc), bố con cái Dần (Một đám cưới), Dì Hảo (Dì Hảo), anh Phúc (Điếu văn) … Họ là những người dân chất phác, hiền lành, được dân làng mến chuộng. Chế độ cũ đẩy dần họ đến bên vực thẳm và cho dù đến hơi thở cuối cùng họ vẫn giữ được phẩm chất trong sạch. Viết về những nhân vật này, ngòi bút Nam Cao không lạnh lùng khách quan mà tha thiết gắn bó. Tác giả không châm biếm, mỉa mai, cười cợt, mà chân thành, xúc động. Tác giả xem mình cũng là một người trong cuộc. Và thật sự họ cũng không xa lạ, mà chính là hình bóng những người nông dân trong làng xóm gần gũi sớm hôm tắt lửa tối đèn đối với tác giả. Tuy cảnh ngộ có khác nhau nhưng qua những khổ đau của họ, tác giả cũng thấm thía nỗi đau riêng của chính mình. Cái tôi của tác giả có dịp bộc lộ, thông cảm và chia sẻ nỗi đau qua nhiều trang sách. Nam Cao hiểu rõ nỗi buồn của lão Hạc khi phải bán con chó vàng, con vật duy nhất sớm hôm gần gũi với ông lão trong cảnh sống đơn độc. Tình cảm ấy cũng giống như cảnh ngộ của tác giả phải bán đi những cuốn sách cuối cùng mà mình yêu quý và giữ gìn vì nghèo túng. Truyện ngắn Điếu văn cũng là lời ai điếu của tác giả với số phận của anh Phúc, người nông dân nghèo xấu số. Tác giả ghét mọi biểu hiện tình cảm giả dối bên ngoài. Tác giả cố ý “đóng cũi sắt tình cảm” và bộc lộ tình cảm một cách thầm kín, mà thiết tha sâu lắng. “Tôi cố làm thinh khi người ta khóc đưa anh. Nhưng bây giờ đây khi mọi người đã im rồi, tôi đóng kín cửa phòng ngồi một mình trước bàn viết của tôi, bùi ngùi đưa đám ma anh trong tâm tưởng. Cái đám ma cũng đường trường lắm. Tôi theo dõi anh từ lúc chúng ta mới quen nhau cho đến lỗ huyệt người ta vừa vùi anh xuống. Như vậy họa chăng mới là trọn nghĩa”. Và chính cái cơ sở tạo nên sự thông cảm yêu thương đó là hai người cùng cảnh ngộ “hai chúng ta cùng khổ”.
Đa số các nhân vật trên đều kết thúc số phận mình bằng cái chết bi thảm. Mở đầu là cái chết thảm thương của anh đĩ Chuột “Nghèo”. Mặc dù chị vợ và bầy con đã phải ăn cám trừ bữa nhưng vẫn hết lòng chăm sóc thuốc thang cho anh. Anh đĩ Chuột không muốn kéo dài những ngày sống bệnh tật của mình để khổ cực cho vợ con. Sợi dây thừng đã kết liễu đời anh. Tình cảnh ấy cũng đau đớn như cái chết vật vã của lão Hạc, cái chết ai oán của bà cái Tí, cái chết rất xót xa của Dì Hảo, của anh Phúc… Họ từ biệt cõi đời nhưng không ai chìm ngập trong tội lỗi hoặc chán nản đến tuyệt vọng. Mỗi người đều để lại trên đời những người thân yêu, những mầm sống và nguồn hy vọng khác nhau. Họ không muốn kéo dài những ngày tháng bệnh tật, già nua làm ảnh hưởng đến cuộc sống vốn quá vất vả khổ cực của những người thân. Cái chêt của các nhân vật là lời tố cáo đanh thép bản chất tàn bạo, vô nhân đạo của chế độ thực dân phong kiến. Trong những sáng tác về nông thôn. Nam Cao đặc biệt yêu thương và quan tâm đến số phận đau khổ của những người phụ nữ và các em nhỏ. Tuy tác giả chưa tạo được một nhân vật đậm nét như chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, nhưng qua nhiều truyện ngắn của Nam Cao, cũng đọng lại hình ảnh người phụ nữ nông dân cần cù chịu đựng, giàu đức hy sinh, yêu thương chồng con và luôn có tinh thần quật khởi và những phản ứng mạnh mẽ trước những hàng động tội lỗi của giai cấp thống trị, nhưng họ có sức mạnh bên trong để giữ được mình trước mọi xô đẩy và của cuộc đời. Trừ đi một vài trường hợp lẻ tẻ còn nhìn chung nhân vật phụ nữ của Nam Cao ít biến chất hư hỏng. Trong tổ ấm gia đình, họ là người cần cù xây dựng hạnh phúc. Họ luôn tìm cách níu giữ lại nếu người chồng lâm vào cảnh chơi bời, hư hỏng. Nhưng cũng thật là thảm thương khi sức chống đỡ của một tâm hồn lương thiện thường không ngăn chặn nổi căn bệnh lan nhanh như một quy luật phũ phàng của xã hội. Và rồi họ trở thành những nạn nhân trực tiếp của chính những tên đàn ông hung dữ vốn là những người thân thuộc của mình. Từ cuộc đời nhiều lo toan chịu đựng của chị đĩ Chuột, cái Dần, Dì Hảo, cho đến những người phụ nữ xấu số phải làm vợ của Trương Rự, của những “hắn” những “y” phũ phàng tàn
ác… tất cả đều nói lên số phận đau đớn của người phụ nữ nông dân trong xã hội cũ. Có những cuộc đời phải kéo dài nỗi chịu đựng từ tấm bé đến đời chồng, đời con, đời cháu - mà nỗi khổ cực vẫn không chịu buông tha như bà cái Tí (Một bữa no). Nam Cao ân cần chăm sóc những người phụ nữ nghèo khổ nhưng giàu có về tâm hồn. Tinh thần cần cù chịu đựng, tình cảm yêu thương chăm sóc chồng con, tấm lòng nhân hậu với cuộc đời là những phẩm chất gần gũi và quen thuộc của người phụ nữ lao động, vốn có trong truyền thống tốt đẹp của phụ nữ dân tộc. Những phẩm chất ấy không thể nào có ở bọn giàu có. Nam Cao chỉ ra những kẻ tàn ác, cay nghiệt như mụ Huyên “Nghèo” và mụ phó Thụ. Những kẻ “ăn lắm đứng nhiều” và chỉ “nồng nộng chơi không” như vợ Lý Kiến “Chí Phèo”, mụ Hựu, cô Đính “Ông Lang Rận” bọn người luôn bày ra những trò độc ác để mua vui. Nam Cao đã có thái độ phê phán mạnh mẽ những hạng người trên để bảo vệ những nạn nhân nghèo khổ.
Tấm lòng yêu thương nhân đạo của tác giả cũng luôn hướng về các em nhỏ. Bầy trẻ nhỏ ngây thơ không tội lỗi ấy đã phải chịu hắt hủi quá sớm. Thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu học hành và thiếu cả đến tình
thương. Ngoài những truyện viết trực tiếp cho các em, hình bóng các em được miêu tả qua nhiều trang sách, có lúc chỉ thấp thoáng mà gợi bao xót thương đau đớn. Trong cảnh ngộ từng gia đình, bầy trẻ nhỏ ngoài nỗi buồn chung lại dễ phải chịu đựng những mất mát riêng không bù đắp được. Chúng là nạn nhân thật sự của bất kỳ tai họa nào. Nạn cờ bạc và cảnh bán nhà đã đẩy bầy trẻ nhỏ vào chốn bơ vơ không nơi nương tựa. Những cặp mắt ngây thơ, ngơ ngác, rồi oán trách, giận hờn của những đứa trẻ vô tội nhìn cảnh dỡ nhà, cũng là ánh mắt trừng phạt, là câu hỏi xoáy sâu vào lương tâm của những kẻ gây nên tội lỗi. Các nhân vật trẻ em trong các tác phẩm của Nam Cao rất dễ thương và cũng thật đáng thương. Chúng thường ngoan ngoãn, biết nhường nhịn nhau, biết giúp việc gia đình trong cảnh nhà nghèo khổ. Chúng quây quần tíu tít trong tổ ấm như một bầy chim nhỏ, nhưng rồi cái tổ ấm ấy cũng bao phen
tan tác và bầy trẻ nhỏ sớm chịu cảnh chia lìa đau đớn. Đó là kể Từ ngày mẹ chết, những đứa trẻ trở thành mồ côi và thiếu tình thương đùm bọc. Và từ khi người cha bước vào chơi bời hư hỏng, thì cuộc đời chúng hoàn toàn mất chỗ dựa. Đó là những trẻ nhỏ đáng thương của gia đình anh Phúc (Điếu văn) khi người bố nhắm mắt lại và hắt ra hơi thở cuối cùng. Rồi đây chúng sẽ nương tựa vào đâu? Số phận của bầy trẻ nhỏ vô tội ấy chỉ có thể giải quyết được trong viễn cảnh tốt đẹp của ngày mai chung của dân tộc. Thế giới những nhân vật nông dân nhiều màu sắc đó của Nam Cao đang bị xô đẩy trong vòng quay tròn của cuộc đời cũ. Họ đoàn tụ lại trong một gia đình dưới một mái rạ nghèo, bên những mảnh vườn xơ xác. Những mái tranh nghèo lại nương tựa vào nhau trên mảnh đất thân quen và trong những quan hệ xóm thôn ràng buộc lâu đòi. Không khí của làng quê, của đồng ruộng in rất đậm trên nhiều trang sách. Nam Cao khá thông thuộc những cảnh đời và con người ở nông thôn. Không phải từ nơi xa tới để tìm viết về những cảnh đời “bùn lầy nước đọng” đang diễn ra “sau lũy tre xanh”, Nam Cao lớn lên trên mảnh đất quê hương ấy với nhiều yêu thương, nhiều kỷ niệm. Nam Cao đã đưa được vào trong sáng tác các làng quê rất điển hình của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Làng đất chật mà đông dân, có nghề vườn, nghề bãi, nghề dệt cửi, nghề tằm tang. Nhưng rồi trăm thứ nghề cũng không đủ nuôi miệng. Vẫn phải ly tán đi bốn phương để kiếm sống… Nam Cao đã tả đến xót xa và thấm thía cái nghèo của làng quê. Cái nghèo cứ lặng lẽ thấm sâu vào mọi niềm vui, nỗi buồn, vào con người cảnh vật, cho đến cả phong tục tập quán. Cái nghèo cứ nối tiếp từ đời này sang đời khác càng ngày càng xác xơ, thảm hại hơn. Cho đến Một đám cưới trong cảnh nghèo cũng không đón đưa, không may mặc, không cỗ bàn. Bạn nghèo thương nhau và “thể tất” cho đến giới hạn cuối cùng của cuộc sống. “Đến tối đám cưới mới ra đi. Vẻn vẹn có sáu người, cả nhà gái, nhà trai… Dần không chịu mặc cái áo dài của bà mẹ chồng đưa, thành thử lại chính bà khoác cái áo ấy trên vai. Dần mặc những cái áo vải ngày thường, nghĩa là một cái quần cộc xẫng và đụp những miếng vá thật to, một cái áo cánh nâu bạc phếch và
cũng vá nhiều chỗ lắm, một bên tay rách quá đã xé gần cụt đến nách. Nó sụt sịt khóc đi bên cạnh mẹ chồng. Chú rể dắt đứa em lớn của Dần. Còn thằng bé thì ông bố cõng. Cả bọn đi lủi thủi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ”.
Thật ít có những trang sách nói đến cảnh nghèo với nỗi xót xa thương cảm và chân thực đến thế. Nam Cao thiết tha yêu quý cái làng quê của mình, yêu quý những người dân nghèo cần cù chịu đựng bám chặt lấy mảnh đất quê hương và gắn bó với nhau bằng một tình thương yêu bền vững. Với ngòi bút sinh động, Nam Cao đã dựng lại nhiều bức tranh chân thực của cả làng quê đang vật vã trong cơn đau đớn của một thời kỳ lịch sử khốc liệt. Hãy giữ lấy những truyền thống tốt đẹp của quê hương và những phong tục tập quán lành mạnh tự lâu đời đang bị hủy hoại, tàn phá. Và xót xa hơn cả như một tiếng kêu cứu là hãy giữ lấy nhân phẩm cao đẹp của những người lao động đang bị đe dọa đổ vỡ.
Viết về người nông dân, Nam Cao cũng còn có hạn chế. Còn thiếu đi những nhân vật khỏe khoắn, nổi lên ý chí đấu tranh và tinh thần quật khởi, những hình ảnh khắc họa thật tập trung bộ mặt tàn ác của giai cấp thống trị, những cảnh đốc sưu đốc thuế, phá lúa trồng đay. Còn thiếu một cái nhìn sáng tỏ mở ra một lối đi, một hướng giải thoát. Nam Cao bênh vực và đứng về phía những người nông dân nghèo khổ, nhưng nhận thức của tác giả chưa tiếp nhận được chân lý cách mạng, chưa vượt lên khỏi những giới hạn của giai cấp mình. Nhưng phần đóng góp được của Nam Cao cũng thật đáng kể. Rồi đây những sáng tác có giá trị về đề tài nông dân của Nam Cao như “Chí Phèo”, Một đám cưới, “Lão Hạc”, Điếu văn, “Nghèo”… sẽ mãi mãi là những bức tranh gây xúc động và có giá trị nhận thức về đời sống nông thôn trong một thời kỳ lịch sử đặc biệt.
*
Từ tuổi trẻ của mình Nam Cao vẫn hằng mơ ước một cuộc sống tốt đẹp. Mơ ước ấy vượt lên trên thực tại bất công và nhiều lầm lỗi của
cuộc đời cũ. Làm sao cho cuộc sống được công bằng hơn và chấm dứt được những cảnh đời quá tủi cực? Về phía mình đó là mong ước được sống có ích, sống có lý tưởng. Nam Cao cũng như những nhân vật mang bóng dáng mình đều ra đi từ một dòng suối trong của tuổi trẻ khao khát lý tưởng. Sau này khi đã dấn sâu vào cuộc đời với tất cả tính chất phức tạp và gian truân của nó, nhiều nhân vật đều có dịp suy nghĩ lại hình ảnh ban đầu của mình “cái hình ảnh tuổi hai mươi trong trẻo biết yêu và biết ghét” với nhiều kỷ niệm rất đáng trân trọng “kỷ niệm một thời đầy những say mê đẹp và cao vọng” “Lão Hạc”. Hình ảnh ấy càng trở nên hấp dẫn biết bao khi nhân vật đang bị chìm sâu trong cái tầm thường của cuộc sống hiện tại và từ đó mà suy nghĩ về “tuổi trẻ trong quá khứ”. “Đói rét không nghĩa gì đối với một gã tuổi trẻ say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Đầu hắn mang một hoài bão lớn” (Đời thừa). Những nhân vật say mê tìm đến một con đường đi và một phương thức hiệu nghiệm nhất để đổi thay cuộc đời. Trong giới hạn của một tầm nhìn, người trí thức tiểu tư sản đã lấy sự học làm chìa khóa duy nhất để mở mọi cánh cửa và giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống. Một nhân vật trí thức của Nam Cao đã từng suy nghĩ: “Những kẻ còn nghĩ đến giống nòi đều nghĩ đến việc đào tạo óc. Vì chỉ có sự học thôi, chỉ có sự học là cải tạo được con người. Xã hội Việt Nam muốn tiến, quốc dân văn học phải học. Yêu nước, lo đến tương lai của giống nòi không gì bằng học”.
Cách nhìn nhận ấy là thiện chí, thiện tâm nhưng cũng không dễ dàng thực hiện. Cái gọi là sự học ấy hướng theo mục đích nào? Được tiến hành trong hoàn cảnh nào và bao gồm những tầng lớp xã hội nào? Trong lúc đất nước còn chìm đắm trong vòng nô lệ, trong lúc nhà trường của bọn thực dân luôn tìm cách nhồi sọ những kiến thức vô bổ và những tư tưởng nô dịch, trong khi đại đa số quần chúng còn thiếu cơm ăn áo mặc và mù chữ, thì sự học có thể xem là phương hướng duy nhất để yêu nước và lo đến tương lai của giống nòi không? Những suy nghĩ trên có phần thiện chí tốt đẹp nhưng không tránh khỏi ảo tưởng, thiếu một phương thức để
tiến tới, thiếu cơ sở để thực hiện. Người trí thức nghèo ít nhiều tự huyễn hoặc về học vấn của mình và chưa đánh giá đúng mức vai trò của quần chúng lao động. Sự học ấy có nhằm phục vụ cho sự nghiệp của quần chúng và xét cho cùng quan điểm trên vẫn nằm trong khuôn khổ của những tư tưởng cải cách tiểu tư sản mà chưa phải là tư tưởng đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản.
Trong thực tế, toàn bộ hoài bão, mơ ước của người trí thức tiểu tư sản ở Nam Cao đã thất bại. Nhà văn mong ước có những tác phẩm lớn làm kinh động đến dư luận lại trở thành con người đầy những
dằn vặt, uất ức, hối hận (Đời thừa). Người trí thức say sưa thiết lập những dự kiến quy mô về giáo dục, nào mở trường tư, tổ chức lớp theo phương pháp tối tân… Nhưng tất cả chỉ là dự kiến trong đầu óc còn trong thực tế gia đình họ đang lâm vào cảnh chạy ăn từng bữa. Thứ cũng là một nhân vật có nhiều hoài bão lớn. Thứ muốn nghĩ đến “những phương kế để xoay ngược lại, đồng thời xếp đặt cho sự giao tiếp giữa người và người ổn thỏa hơn”. Thứ muốn “dành sự uất hận cho những cơ hội lớn”, “những công việc lớn”. Trong tác phẩm, những phương kế ấy và cơ hội lớn ấy không đến, thậm chí cả công việc nhỏ để kiếm sống hàng ngày cũng bị tước đoạt. Nhân vật trí thức của Nam Cao đều rơi vào bi kịch vỡ mộng. Họ đau đớn vì hoài bão không chỉ đến với họ một lần trong tuổi trẻ nhiều ước mơ mà theo đuổi day dứt trong cuộc đời. Họ không dễ thỏa hiệp với cuộc sống tầm thường để chóng quên đi những ước vọng. Họ luôn nhức nhối về “những nguyện vọng bị đè nặng dưới những trở lực không bao giờ vượt nổi”, họ đau đớn về “số kiếp của tất cả những người có những chân ống sậy mà lại mang những nguyện vọng to tát quá?”. Nhiều lúc họ ở vào cảnh ngộ chán chường đến tuyệt vọng. “Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình? Còn gì đau đớn hơn một kẻ vẫn khao khát làm một cái gì đó nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?”
Bi kịch vỡ mộng đó chủ yếu là do những căn nguyên xã hội.Chế độ cũ đã chặt cánh những ước mơ, chà đạp nhân cách, hủy hoại vừa
thầm lặng, vừa dữ dội tất cả những gì tốt đẹp của con người. Nhân vật trí thức của Nam Cao đang trượt trên con đường dốc do một sức đẩy vô hình rất mạnh mẽ của cảnh ngộ xã hội. Họ luôn cưỡng lại với tất cả sức mạnh của mình. Tính cách của họ vừa có phần thay đổi, vừa có phần giữ lại ổn định. Nam Cao với tất cả tính chất sắc sảo của ngòi bút đã miêu tả trung thực, không tô điểm, không che đậy bộ mặt thực của người trí thức tiểu tư sản. Con người ấy được miêu tả trong sự va chạm đấu tranh với cảnh ngộ. Họ cũng được biểu hiện từ bên trong như một lời tự bộc lộ. Họ có ưu điểm. Mặt tích cực của người trí thức tiểu tư sản xen lẫn với những hạn chế tiêu cực. Bản chất dễ dao động của họ luôn bị xô đẩy bởi hoàn cảnh, chịu sự tác động rất trực tiếp của những mối liên hệ trong đời sống xã hội.
Cũng dễ nhận thấy là nhiều nhân vật tiểu tư sản của Nam Cao xuất thân từ những cuộc đời nghèo khổ và họ cũng phải chịu đựng suốt đời cảnh nghèo khổ. Trong ranh giới giữa kẻ giàu và người nghèo, họ luôn đứng về phía người nghèo. Nhiều lúc cũng ước mong một
cuộc sống phong lưu nhưng họ rất chán ghét lối sống trưởng giả của bọn giàu có mà dốt nát, ích kỷ, độc ác. Họ biết chia sẻ chân tình niềm vui, nỗi buồn với những người nghèo khổ và nhiều khi cũng đau đớn, uất hận như chính mình là người trong cuộc. Họ căm ghét sự bất công vì trong quan niệm họ tha thiết với lẽ sống công bằng và trong thực tế họ dễ xúc động, xót xa trước những hành động ngược đãi đày đọa con người. Trước cảnh làm ăn vất vả của những ngư dân vùng biển mà trong một lần nghỉ mát có dịp biết đến. Hùng, một nhân vật của Nam Cao xúc động nghĩ đến những lúc họ nhọc nhằn cực khổ để kiếm mỗi ngày mấy bữa cơm gạo xấu, nghĩ đến cái dã tâm của bọn chủ nước mắm dìm giá để mua rẻ đến nỗi họ quần quật quanh năm suốt tháng mà không được mảnh áo lành để che thân. Hùng thấy hậm hực như chính mình phải chịu những sự bất công vô lý ấy.
Nhân vật đã ít nhiều thấy được chỗ đứng giai cấp của mình để từ đó xác định những mối quan hệ trong cuộc sống. Nhân vật Nam Cao
nói với người yêu: “Chúng ta yêu nhau lắm, nhưng chúng ta không cùng giai cấp với nhau: em giàu sang quá, giàu sang từ trong trứng giàu ra, còn anh nghèo khổ ngay từ khi còn trong bụng mẹ”. Và đó là cơ sở để chia rẽ hai người, sự chia rẽ giữa hai cảnh sống và “hai khối óc”. Trong một lúc nào đấy, học vấn đã tạo điều kiện cho nhân vật tiểu tư sản của Nam Cao tiếp xúc với cảnh đời giàu có. Nhưng rồi họ không dễ hòa vào những cảnh ngộ khác hẳn với điều kiện sống của bản thân và giai cấp mình. Và thực sự đó chỉ là mộng tưởng xa xôi, là truyện huyễn hoặc trớ trêu. Thoát khỏi cảnh đời nghèo khổ vẫn là mong muốn của nhiều nhân vật, vì thực sự cảnh nghèo đã dẫn bao số phận đến chỗ bi kịch, nhưng họ không thiết tha với sự giàu có do cạnh tranh tàn nhẫn như bọn người có của. Nhân vật Nam Cao đã có những mối liên hệ thường xuyên gần gũi với những người dân lao động nghèo khổ. Nhiều khi họ được xem như người láng giềng đáng tin cậy (“Lão Hạc”, Điếu văn, “Thôi đi về”…) Họ luôn biết yêu thương và tha thiết với những phẩm chất tốt đẹp của những người bạn nghèo và điều đáng quý là trong bản chất của người trí thức tiểu tư sản nghèo của Nam Cao có những nét gần gũi với người dân lao động. Đó là cơ sở để cho nhân vật bảo vệ được nhân phẩm trước những xô đẩy của cuộc đời cũ, giống như cây cọc cắm giữ lại được con thuyền trước cảnh nước chảy bèo trôi. Nhưng rồi để thoát được cảnh chìm đắm, thì con thuyền đã phải bao phen chao đảo ngả nghiêng. Nhân vật tiểu tư sản của Nam Cao cũng chìm nổi, vật vã trong cuộc đấu tranh với hoàn cảnh và trong bản thân họ cũng chứa chất biết bao mâu thuẫn. Họ là một nhưng cũng đồng thời là rất nhiều tính cách, họ cùng một bóng dáng nhưng lại mang nhiều khuôn mặt khác nhau qua nhiều sáng tác. Thứ (“Sống Mòn”) là kiểu nhân vật tổng hợp hơn cả cho các loại tính cách tiểu tư sản trí thức của Nam Cao. Con người trí thức tiểu tư sản ấy có lúc dễ xúc động đến mức mềm yếu như Du mà cái chết của con Mực cũng làm cho không cầm được nước mắt. Đó cũng là Hộ, từng trải hơn và là kiểu người dồn nén nhiều tâm trạng, nhiều mâu thuẫn nên luôn luôn đau đớn, hối hận. Nhân vật trí thức tiểu tư sản trong “Mua nhà” mực thước tỉnh táo, sống có
trách nhiệm và có chiều sâu suy nghĩ. Điền (“Trăng sáng”), Lộc (“Truyện người hàng xóm.”) đều sống có ý thức và biết tìm đến mục đích chân chính của ngòi bút. Một số nhân vật khác lại được khai thác thêm từ nhiều góc độ đa dạng hơn. Nhìn chung họ là một, tất cả đều có tâm trạng, cảnh ngộ khá quen thuộc. Nhưng đồng thời họ cũng rất khác nhau. Nam Cao không lặp lại mà triển khai dần như một tay quạt xòe rộng nan nhưng tất cả đều được đóng giữ lại ở cái nhài làm chốt của tính cách.
Nhân vật trí thức nghèo của Nam Cao còn có thêm những mặt mạnh đáng quý. Họ giàu tình cảm và giàu lòng thương người. Không có những biểu hiện của sự lạnh lùng tàn nhẫn. Với bản tính trung thực, tình nghĩa, họ dễ xúc động trước những bất hạnh, căm giận trước những bất công ngang trái trong cuộc sống. Đối với mình cũng như nhân vật, Nam Cao muốn đừng ai hiểu lầm điều đó. Con người ấy ghét biểu lộ một cách dễ dãi, hời hợt. Nhưng đằng sau “Cái mặt không chơi được” là cả một tấm lòng. Những tình cảm yêu thương, tha thiết ấy làm cho các nhân vật sống có chiều sâu nội tâm. Mối quan hệ tình cảm giữa tác giả và nhân vật, giữa các nhân vật với nhau tạo thành chất nhân đạo nhất quán trong tác phẩm. Tình cảm nhân đạo chủ nghĩa này có lúc như không khỏi mơ hồ về ranh giới: “Những kẻ hung bạo chết cũng đáng lòng thương hại. Những kẻ hung bạo chết cũng chỉ là người chết, nạn nhân một sức mạnh mù quáng và khốc liệt” (“Nửa đêm”) hoặc mở ra quá rộng, quá mong manh: “Lòng hắn thiết tha rướn lên, muốn vươn ra để ôm ấp lấy mọi người” (“Nước mắt”).
Tuy chưa phải là tình cảm cách mạng và nội dung tình cảm chưa được xác lập vững chắc về quan điểm giai cấp, nhưng ở mỗi nhân vật tình cảm yêu thương đó là ngọn lửa sưởi ấm nuôi dưỡng tấm lòng mình vượt qua những thử thách của cuộc đời sóng gió.
Nhân vật trí thức nghèo của Nam Cao cũng là con người luôn đấu tranh để vươn tới và giữ vững sự trung thực. Xã hội cũ có biết bao nhiêu điều lừa đảo, dối trá và dường như đó là một quy luật sống
và cạnh tranh. Lừa người là một hành động xảo trá, tội lỗi, nhưng dối mình ở những mức độ và hoàn cảnh khác nhau là một căn bệnh dễ mắc phải. Dối mình vì sĩ diện không dám chấp nhận một sự thất bại, hoặc vì mơ hồ trong cách tự đánh giá, hoặc là một hành động tự an ủi về những thất bại của mình. Thứ (”Sống mòn”) luôn thú thực với lòng mình tất cả những ham muốn và dục vọng tầm thường để rồi đau đớn mà đấu tranh khắc phục. Các nhân vật Hộ, Điền, Hài… bên cạnh phần đáng giận đều có phần đáng thương, đáng quý và tuy họ có biến hình, biến dạng nhưng cuối cùng lại đau đớn, hối hận để trở về với con người trung thực, nạn nhân trực tiếp của xã hội. Điền, sau cơn giận lại thương xót vợ con và đầm đìa những giọt nước mắt, hối hận. Hộ khi trở về với con người thực, khổ sở mà tự nhận với vợ: “Anh… anh… chỉ là… một thằng… khốn nạn!”. Họ biết thừa nhận cảnh đời, vị trí và con người thật với tinh thần tự phê phán chân thành, nghiêm khắc. Trong bản chất của mình con người tiểu tư sản dễ mắc phải những sai lầm, tự huyễn hoặc mình hoặc sĩ diện đến giả dối. Qua toàn bộ những sáng tác về đề tài tiểu tư sản, Nam Cao đã phê phán mạnh dạn, sắc sảo, chua chát những mặt tiêu cực của họ. Gần như bên cạnh mặt tích cực nào cũng biểu hiện khá đậm nét mặt tiêu cực. Gần gũi và yêu thương những người lao động nghèo khổ nhưng họ không đánh giá được mặt tích cực và sức mạnh quật khởi của những người lao động nghèo khổ. Nhấn quá mạnh đến học vấn và sự hiểu biết như điều kiện hàng đầu để cải tạo xã hội nên cách nhìn nhận của họ về những người lao động nghèo có phần bi quan tiêu cực. Trong suy nghĩ của họ dường như những điều kiện để giải phóng người lao động nghèo khổ là từ “bên ngoài đưa vào, từ bên trên đưa xuống”. Nam Cao cũng phê phán mặt ảo tưởng của nhiều nhân vật tiểu tư sản. Không chịu nhìn nhận hoặc lãng quên đi cái thực tại của mình với những điều kiện sống cụ thể để bắt vào những ước mơ xa xôi và lãng mạn. Nếu là những mộng ước trong văn chương thì rất cần phê phán những kiểu người mà đầu óc “đẫm chất nhờn ở phía ngoài và văn chương ở phía trong”, những “nhà tiểu thuyết khóc đầm đìa thuốc phiện và suốt đời ngắm trăng”, những kẻ xem văn
chương là đầu mối để dẫn đến những mối tình thơ mộng với những cô tiểu thư khuê các rất xa lạ với cảnh sống thực của mình. Phải trở về với thực tại và từ cuộc đời cụ thể mà tìm đến những phương hướng giải thoát. Nhân vật của Nam Cao dễ xúc động và hay suy nghĩ. Họ không dửng dưng lạnh lùng với sự đời. Nhưng họ cũng là con người thiếu hành động. Nhìn chung họ bị dồn vào bế tắc, không có hướng giải thoát, họ vật vã, đau đớn trong những dằn vặt, suy nghĩ, hối hận. Không có phương hướng để hành động. Và nếu có thì lại dễ hối hận với việc làm của mình. Đó chỉ là những phản ứng nông nổi, vội vàng, có khi gây nên những đổ vỡ, tổn thất cho những người thân thuộc.
Nam Cao muốn chỉ ra trong nhân vật tiểu tư sản con người thực của mình. Đừng tự huyễn hoặc hoặc che đậy, sĩ diện đến giả dối. Nhân vật của Nam Cao cũng rất vất vả để chống lại tình trạng tha
hóa với bản chất của mình. Họ cũng bị lôi cuốn vào nhiều ham muốn tầm thường, nhiều tính toán nhỏ nhen. Có nhiều lúc họ đã ở chỗ mấp mé với sự sa đọa, trụy lạc, và thậm chí có những hành động lầm lỗi. Nam Cao để cho nhân vật tự liên hệ, tự bộc lộ thẳng thắn những sai lầm của mình. Những sai lầm ấy nảy ra từ trong ý nghĩ, rồi hình thành ham muốn, dục vọng; những suy nghĩ ấy phát triển và chuẩn bị hành động. Toàn bộ sự diễn biến ấy được vẽ ra theo con đường lên xuống quanh co trong nội tâm nhân vật rất phức tạp mà cũng rất thành thục xót xa để cuối cùng lại trở về với sự hối hận.
Toàn bộ những đặc điểm đó đã tạo nên cho nhân vật tiểu tư sản trí thức của Nam Cao một bộ mặt riêng rất độc đáo, mới mẻ, rất khác với con người tiểu tư sản trong các sáng tác của Nguyên Hồng, Thạch Lam…
Qua những sáng tác về đề tài tiểu tư sản, Nam Cao cũng xây dựng được nhiều hoàn cảnh có giá trị hiện thực sâu sắc, đặc biệt là hoàn cảnh khá điển hình của “Sống mòn”. “Sống mòn” tuy chưa đi thẳng vào những nguyên nhân, chọc thẳng vào những đầu mối cơ bản,
những đường dây trung tâm của cuộc sống xã hội, nhưng “Sống mòn” là kết quả của tất cả tình trạng đó. Nam Cao phản ánh sâu sắc không khí ngột ngạt bế tắc chung của cả xã hội đang bị đẩy đến bên bờ vực thẳm. Những nhân vật tiểu tư sản bị hãm vào môi trường chật hẹp, tù túng, quẩn quanh, do một sức mạnh tưởng như vô hình nhưng tác động lại rất cụ thể. Không có trực tiếp những cảnh tra tấn, tù đày, áp bức, những cảnh tan cửa nát nhà, bán vợ đợ con, nhưng sự hủy hoại gấp rút - nhưng rõ ràng sự hủy hoại thầm lặng đang làm cho con người mỏi mòn dần cho đến kiệt sức. Chế độ tàn bạo đẩy con người vào những thảm kịch khác nhau, gây nên những tình cảnh vừa ai oán khốc liệt vừa xót xa thầm lặng. Mở rộng ra ngoài cuộc đời những thầy giáo nghèo, là những bức tranh xã hội hắt hiu, buồn chán. Cái đói, cái rét đang đe dọa trực tiếp cuộc sống ở nông thôn cũng như thành phố. Không có cuộc đời, một số phận nào khấm khá hơn qua năm tháng. Tất cả mòn mỏi, chết dần. “Sống mòn” là một hoàn cảnh gần như không vận động hay đúng hơn là chết lặng dần, một hoàn cảnh khá điển hình không chỉ được tạo nên bằng những tính cách tiêu biểu, những mối liên hệ cơ bản của nhiều tầng lớp giai cấp mà còn bằng không khí hấp hối và hơi thở tàn của toàn bộ xã hội toát lên từ cơn sốt nung bệnh lao phổi của Đích, từ tiếng cối xay vẹt mòn ọc ạch của lão Hạc, từ lớp học ẩm thấp và đầy bóng tối của vùng ngoại ô, từ những lối sống đầy toan tính lo âu và ghen tuông ích kỷ của những con người chán đời và chán mình. “Sống mòn” dừng lại và khai thác nhiều truyện bình thường, thậm chí tầm thường trong đời sống. Các nhân vật đi lại, ao ước, ăn uống, ghen tuông, chán nản… nhiều chi tiết cùng loại xuất hiện nhiều lần trên đường dây cốt truyện, nhiều cảnh ngộ trở đi, trở lại, vừa đẩy lên vừa gối vào nhau để tô đậm, thật đậm chủ đề. Sống Mòn không rơi vào miêu tả tự nhiên chủ nghĩa tuy cuộc đời ở đây không tự nhiên tô điểm, không che đậy. Xã hội phơi bày sự chán nản của xã hội, con người phơi bày sự chán nản của tâm trạng không hề e sợ ngượng ngùng.
Bên cạnh “Sống mòn”, Nam Cao đã xây dựng được một bức tranh chân thực và độc đáo về những người tiểu tư sản và lớp dân nghèo thành thị qua tiểu thuyết “Truyện người hàng xóm”.
Hoàn cảnh trong “Truyện người hàng xóm” không dừng lắng mà trôi chảy đổi thay. Không phải chỉ một số phận mà cả một xóm nghèo ngoại ô nương tựa gắn bó với nhau trước sức xô đẩy của cuộc đời. Xóm Bài thơ, cái tên đẹp ấy là một sự mỉa mai với chính cảnh ngộ của họ. Nam Cao không muốn tô điểm, thi vị hóa những cuộc đời nghèo khổ. Trong xóm Bài thơ mỗi gia đình đều có những nỗi khổ riêng của mình, nhưng bi kịch hơn cả là cảnh ngộ của gia đình Hiền. Mẹ con Hiền như đôi chim bị xua đuổi phiêu bạt từ nơi xa về trú ngụ tại xóm này. Đất lạ nhưng tấm lòng người nghèo ở đâu cũng dễ thân quen gần gũi. Hiền lớn lên trong tuổi thiếu niên ở xóm Bài thơ với bầy trẻ nhỏ vừa có học, vừa thất học. Kỷ niệm tuổi thơ mãi mãi trở thành những ấn tượng khó quên với những niềm vui và nỗi xót xa đau khổ. Xóm nghèo với cả những truyện cãi cọ nhau eo óc, lầy là. Xóm Bài thơ như hàn thử biểu của mức sống xã hội. Bao nhiêu tai hoạ, đổi thay ngoài đời đều dội lại và thu về đây trong những niềm vui buồn xen lẫn nhau. Vợ chồng ông Ngã, bà hai Mợn, mẹ Hiền, thằng câm, cô đồng…, họ tụ tập lại đây, mỗi người một cảnh ngộ và một nỗi đau khổ riêng, rồi để cuối cùng tan tác đi mọi ngả. Và cũng không phải chỉ một thế hệ chịu đựng những đau khổ mà cả bầy trẻ nhỏ lớn lên trong xóm Bài thơ cũng một lần nữa là nạn nhân của chế độ cũ. Hiền đã lớn lên trong xã hội như kẻ đi giữa cuộc đời xa lạ, luôn bị hắt hủi. Mồ côi bố rồi mất mẹ, thiếu hẳn tình thương của gia đình và xã hội, Hiền bế tắc, quẩn quanh, thiếu tự chủ để rồi gục ngã xuống khi tuổi đời còn non trẻ. Cuộc đời của Tiền cũng thật đáng thương. Từ một cô bé xinh tươi, trong sáng, hoàn cảnh đã đẩy Tiền đến chỗ bán thân nuôi miệng. Nam Cao đã có lần viết truyện dài “Một đời người” kể về số phận một người phụ nữ bất hạnh. Tiền cũng nằm chung trong số kiếp đau khổ đó. Trước sau Tiền vẫn muốn trở về cuộc đời lương thiện như cây mọc trong bóng tối luôn hưống về ánh sáng. Xóm Bài thơ dần
trở thành một thảm kịch, nhiều nhân vật kết thúc bằng cái chết. Họ luôn tìm cách chống đỡ lại cảnh ngộ. Họ yêu thương, giúp đỡ nhau khi gặp vận hạn. Lộc một nhân vật cùng cảnh ngộ đã nói lên quan điểm của mình: “Ba chúng mình cùng khổ như nhau. Những kẻ khổ sở trên đời nếu không biết thương nhau còn đợi ai thương nữa”. Lộc viết văn và biết tôn trọng sự thật cuộc sống. Lộc hiểu rõ những cảnh ngộ xô đẩy con người vào cảnh cùng quẫn. Mối quan hệ Tiền, Hiền, Lộc trong tuổi thơ khá đẹp. Nam Cao muốn giữ lại mối quan hệ ấy trước áp lực xô đẩy của cuộc đời. Họ vẫn là những người bạn thân với nhau khi đã trưởng thành. Cái kết thúc của câu truyện như muốn xoa dịu đi những nỗi đau khổ của những nạn nhân. Sau khi Hiền, người yêu của Tiền chết đi, Lộc đã yêu thương Tiền như tình yêu trong trắng ban đầu mặc dù những tủi nhục mà Tiền đã phải chịu đựng. Hình ảnh của Lộc và những suy nghĩ của nhân vật này cũng góp phần bộc lộ cách nhìn nhận của Nam Cao với những cuộc đời nghèo khổ, tủi cực. Chế độ cũ giết chết tất cả những gì thơ mộng, kể cả những năm tháng của tuổi thơ. Ngay đến quan hệ đẹp giữa những người bạn nghèo cũng không tránh khỏi mâu thuẫn do hiểu lầm, ghen tị và thói xấu của cuộc đời cũ gây nên. Nam Cao không muốn thi vị hóa mà muốn miêu tả chân thực bức tranh về xóm dân nghèo thành thị với những câu truyện, những cảnh đời và không khí vất vả lầm lụi riêng của nó. Về đời sống thành thị, ngoài nhân vật trí thức tiểu tư sản ra, Nam Cao am hiểu và gắn bó nhiều với lớp dân nghèo và những cảnh đòi nơi xóm nhỏ, ngoại ô. Nhân vật trí thức tiểu tư sản cũng có thể phát triển để giao lưu và hoạt động trên môi trường sinh hoạt của những người giàu có. Một đôi lần và phần nhiều là ở những sáng tác thời kỳ đầu, Nam Cao cũng đẩy cho nhân vật vào môi trường đó (“Truyện tình”, “Sao lại thế này”, “Hai khối óc”, “Đui mù”…), nhưng câu truyện thường giả tạo và nhân vật cũng thiếu sức sống vẫy vùng. Thực sự Nam Cao ít thông thuộc và cũng không hứng thú với môi trường tư sản thành thị. Ngoài hoàn cảnh trực tiếp của mình ra, nhân vật trí thức tiểu tư sản của Nam Cao có thể hoạt động tự nhiên, sinh động với những mối quan hệ chân thực trong môi trường của lớp dân
nghèo thành thị. “Truyện người hàng xóm” cũng góp phần chứng minh thực tế đó. Ngoài Lộc, người viết văn còn có thầy giáo Toản, nhân vật này với những cá tính lạ song vẫn tỏ ra thương yêu, gần gũi với những người nghèo khổ.
Ở nông thôn Nam Cao là người hàng xóm tin cậy và rất chân tình của những người nông dân lao động. Ở tác phẩm Nam Cao gắn bó và gửi tấm lòng mình đến những cảnh đời của lớp dân nghèo thành thị. Những trang viết vừa phản ánh chân thực, sâu sắc nhiều cảnh ngộ trong cuộc đời cũ đầy lầm lỗi bất công, vừa bộc lộ một tấm lòng nhân ái với nhiều xót xa thông cảm và nhiều thiện cảm chân thành với những người bạn nghèo khổ.
*
Trong các sáng tác của mình Nam Cao luôn kết hợp được sâu sắc giữa tính chân thực khách quan của một chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo, nghiêm ngặt, với một tấm lòng thiết tha chân thành. Hai mặt biểu hiện ấy không hạn chế, loại trừ nhau mà bổ sung hỗ trợ cho nhau dưới nhiều hình thức và tạo nên một trong những đặc điểm của tác phẩm Nam Cao. Tác giả luôn biết tôn trọng sự thực của đời sống. “Nghệ thuật không thể là ánh trăng lừa dối”, “Nhà văn phải viết về sự thực cuộc đời”, quan niệm ấy chi phối đến toàn bộ cảm hứng sáng tạo. Phần lớn những sáng tác của Nam Cao đều lấy chất liệu trực tiếp từ đời sống. Các nhân vật như Chí Phèo, lão Hạc, Dì Hảo, Bá Kiến v. v. đều được xây dựng theo những nguyên mẫu trực tiếp. Từ cốt truyện đến những tình tiết của nhiều tác phẩm có thể tìm lại ở nơi này nơi kia trong xóm thôn. Nam Cao không mô phỏng và sao chép máy móc hiện thực mà biết chọn lọc để tái tạo. Không khỏi có một số truyện rơi vào lối miêu tả tự nhiên chủ nghĩa, hoặc mang màu sắc lãng mạn và có tính chất giả tạo, còn lại trong phần lớn sáng tác của mình, Nam Cao đã xây dựng được những nhân vật khá tiêu biểu, trong những hoàn cảnh tập trung điển hình.
Mối quan hệ gắn bó giữa tính cách và hoàn cảnh luôn được xác lập trong quá trình sáng tạo. Nam Cao không lý giải sự hình thành và phát triển của những nhân vật từ những lý do chủ quan hoặc theo sự vận động có tính cách ngẫu nhiên mà luôn dựa vào những điều kiện và quy luật khách quan. Trong tác phẩm, có lần Nam Cao đã nhấn mạnh quy luật khách quan xem như những điều kiện phát triển bên ngoài không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. “Cuộc đời thì bất cứ cảnh nào cũng chảy trôi theo những định luật chưa bao giờ lay chuyển được” (“Ở hiền”). Quy luật ấy bộc lộ ra trong mỗi hoàn cảnh riêng của mỗi người, ở sức mạnh của hoàn cảnh chi phối trực tiếp đến cuộc sống. Miêu tả khá chân thực và đậm nét hoàn cảnh, nhân tố quy định sự phát triển của nhân vật, Nam Cao đã lý giải được sự đổi thay của những số phận. Nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao ở vào một thời kỳ con người dễ biến chất. Từ những nông dân lương thiện trở thành người cùng đường liều lĩnh, từ tốt hóa xấu, nhân tố nào đã tạo nên những đổi thay đó. Nam Cao khẳng định vai trò của hoàn cảnh. “Hoàn cảnh đổi rất có thể là người đổi, tâm tình đổi”. Có khi vì sự thay đổi quá lớn của tính cách nên tác giả phải tạo nên một hoàn cảnh gián tiếp ở phương xa như môi trường tạo nên kiểu Chí Phèo, Trương Rự. Nhưng đáng chú ý hơn là những môi trường cụ thể mà tác giả bám sát để miêu tả. Qua một truyện ngắn tài tình “Tư cách mõ”, Nam Cao đã khéo tả quá trình đổi thay tính cách của anh cu Lộ. Từ khi bắt đầu nhận công việc của mõ, anh cu Lộ phải chịu những sự đối xử hoàn toàn khác của mọi người về tinh thần cũng như vật chất. Hoàn cảnh mới đã làm đổi tính cách, nên từ chỗ hiền lành, biết điều, anh cu Lộ đã trở thành kẻ tham lam, lầy là. Có khi cuộc sống không đổi thay, cứ tù đọng lại và dẫm chân tại chỗ như hoàn cảnh “Sống mòn”. Mạch truyện của “Sống mòn” dẫn rất chậm, dừng lắng, và quẩn quanh, trỏ đi trở lại trên vệt mòn cũ ngày càng lún sâu hơn. Đó chính là môi trường làm cho sự sống chết mòn dần, hủy hoại một cách thầm lặng theo kiểu “sẽ mốc lên, sẽ rỉ đi, sẽ mòn ra, sẽ mục ra”. Những nhân vật bị ném vào môi trường đó cũng bế tắc, ngột ngạt, tù túng. Nam Cao đã dựng được một hoàn cảnh khá
điển hình. Nhân vật muốn đổi thay và thoát ra khỏi cảnh ngộ, song thực chất vẫn nằm trong sự vây hãm. Không khỏi có lúc Nam Cao tô đậm hoặc quá nhấn mạnh đến tác động của hoàn cảnh, vì không đánh giá đúng mức vai trò của tính cách. Khi ấy, hoàn cảnh trở thành nặng nề, ám ảnh như một định mệnh đè nặng lên đầu các nhân vật và cảm hứng tác giả không khỏi bi quan đau đớn khi thấy con người trở nên bất lực trước hoàn cảnh. Nhiều nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao là con người đớn đau chịu đựng. Ngòi bút tác giả không muốn trốn tránh sự thực của đời sống, cũng không muốn tìm lối giải thoát có tính chất chủ quan lãng mạn. Tác giả chưa dắt nhân vật vượt qua được những cảnh ngộ hiểm nghèo, tác giả để lại đấy tấm lòng của mình cùng với nỗi đau của nhân vật. Biết bao lần Nam Cao thảng thốt kêu lên Chao ôi, hỡi ôi, với nhân vật (“Lão Hạc”, Điếu văn, Một đám cưới…) và có khi những nhân vật cũng không phải ai xa lạ mà lại chính là mình, là bóng dáng mình. Một phần quan trọng trong sáng tác của Nam Cao về người trí thức tiểu tư sản được khai thác từ chính mình. Ở đây vấn đề đặt ra nghiêm chỉnh như một nguyên tắc sáng tạo là sự thống nhất giữa cái tôi và cái ta. Làm sao để cho những suy nghĩ, cảm xúc và toàn bộ những chất liệu riêng có ý nghĩa chung? Có giá trị hiện thực sâu sắc? Nam Cao đã chọn lọc một số mô-típ khá điển hình của người trí thức tiểu tư sản. Các mô-típ này vừa có phần giống nhau lại có phần khác nhau, vừa quen thuộc, vừa mới mẻ. Nam Cao đã dựa nhiều vào cảnh ngộ của riêng mình, gia đình mình để viết, nhưng một mặt tác giả phải luôn có ý thức khách quan hóa toàn bộ chất liệu có tính chất tự truyện. Người đọc có thể thấy rõ ở những sáng tác như “Mua nhà”, Những truyện không muốn viết, “Bài học quét nhà”, “Trăng sáng”, “Sống mòn”… những chất liệu rất trực tiếp, gần như là trùng hợp với cuộc đời riêng của tác giả. Nhưng rồi ở nhiều sáng tác khác, cái “tôi” và cảnh ngộ riêng phải được tô điểm thêm cho thích hợp với câu truyện. Những tính cách của những người phụ nữ trong các câu truyện “Trăng sáng”, Đời thừa. Những truyện không muốn viết, “Sống mòn”, “Sao lại thế này”? đều có ít nhiều những nét giống nhau về cảnh ngộ, nhưng đồng thời cũng dễ thấy
rằng họ không thể thoát thai ra từ một nguyên mẫu. Nam Cao nhấn mạnh và đặt chủ đề của câu truyện trực tiếp xuyên qua các nhân vật trí thức tiểu tư sản và người vợ trong gia đình họ đã phải biến hóa tính cách cho phù hợp với chủ đề sáng tác. Trong “Cười”, nhân vật trí thức tiểu tư sản thường hay sử dụng nụ cười làm liều thuốc duy nhất để giải khuây và giải tỏa những bực bội với gia đình vợ con. Vợ hắn do đó phải là một tính cách nhân vật lắm điều, hay thích chửi nhau. Với Điền (“Trăng sáng”), một nhà văn còn nhiễm ảnh hưởng văn chương lãng mạn hay mơ mộng theo gió trăng thì vợ Điền và những đứa trẻ phải trở thành một biểu tượng cho đời sống hiện thực để lôi cuốn cảm hứng của người viết về với cuộc đời thực. Hộ trong Đời thừa cũng là một kiểu người gần với Điền, nhưng Hộ là tính cách từng trải và dữ dội hơn. Hộ thường trút tất cả những giận dữ và đau đớn thất bại ngoài đời vào gia đình và xem vợ con như là những nguyên nhân trực tiếp gây nên. Do đó tính cách của Từ lại là hiền lành, chịu đựng, đáng thương. Nam Cao đã khéo chuyển hoá, hư cấu thêm cho những tính cách và chất liệu quen thuộc luôn biến hóa để có được những màu sắc mới. Cái tôi của tác giả trên đường dây tự truyện luôn phát triển vừa kết hợp giữa sự thực của cuộc đời tác giả với phần hư cấu tái tạo làm cho hiện thực được miêu tả vừa có màu sắc riêng vừa có tính chất chung tiêu biểu. Do đó tuy không thể xem toàn bộ sáng tác của Nam Cao về đề tài tiểu tư sản là hoàn toàn phù hợp với cuộc đời riêng của tác giả, nhưng rõ ràng là được xây dựng trên một đường dây tự truyện chân thực và giàu tính nghệ thuật. Nội dung đó quy định đến cách biểu hiện và giọng điệu riêng góp phần tạo thành phong cách độc đáo cho tác phẩm.
Trong các tác phẩm hiện thực của thời kỳ này, sáng tác của Nam Cao thuộc loại giàu chất sống thực tế và chi tiết chân thực. Biết bao nhiêu chi tiết nghệ thuật chân xác xung quanh cuộc đời lão Hạc, Chí Phèo… Ngòi bút của Nam Cao không dừng lại ở sự chung chung ước lệ. Bắt trúng vào mạch của sự sống ở những nét điển hình, tạo không khí câu truyện, tạo dáng dấp và diện mạo nhân vật bằng
những nét phác họa cụ thể, những chi tiết sống. Nam Cao gây được ấn tượng mạnh mẽ ở người đọc. Chí Phèo độc đáo ở cái lý lịch riêng của y, ở những cơn say, ở những ý nghĩ vừa hiền lành vừa kỳ quái, và ở cách trả thù và ở cái chết của y. Cũng như nói về nỗi đau khổ xót xa của những con người trong xã hội cũ. Nam Cao chú ý đến những nỗi đau riêng và cả đến những giọt nước mắt riêng của từng người trong từng cảnh ngộ cụ thể. Rất xót xa là những giọt nước mắt của người già, những người đã khóc nhiều hoặc không còn nước mắt để khóc nữa như bà mẹ Từ. “Bà chỉ còn một cách là còn được một ít nước mắt nào thì rỏ cả ra mà khóc với con” hay như lão Hạc “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc”. Những dòng nước mắt của những người phụ nữ đau khổ uất hận như Dì Hảo “Dì nghiến chặt răng để cho khỏi khóc nhưng mà dì cứ khóc… Dì khóc nức nở, khóc nấc lên - khóc như người ta thổ. Dì thổ ra nước mắt” hay đau khổ nén chịu nhiều như Từ “Từ khóc như mưa, khóc tưởng như chẳng còn bao giờ lặng được”…
Xu hướng đi vào miêu tả cuộc sống một cách cụ thể và giàu chi tiết vẫn là đặc điểm phổ biến của Nam Cao. Một mặt khác Nam Cao luôn có thiên hướng khái quát hóa, rút ra từ thực tế đời sống những nhận xét, suy nghĩ, triết lý. Trong các sáng tác, Nam Cao luôn ẩn sâu những triết lý, triết lý của tác giả, triết lý của các nhân vật. Nhân vật của Nam Cao đặc biệt là nhân vật tiểu tư sản trí thức thường hay suy tưởng, triết lý. Chất tâm lý và dòng cảm nghĩ của nhân vật phát triển xen với sự đổi thay của dòng sự kiện và các bức tranh miêu tả. Nam Cao thường rút ra những nhận xét có chiều sâu và ý nghĩa triết học khi đi vào miêu tả những hiện tượng của đời sống. Có những suy nghĩ có sức nặng về tư tưởng và có căn cứ thực tế phong phú. Qua cảnh ngộ riêng của gia đình Điền, một nhà văn còn những dao động giữa cái thực và cái hư ảo trong cuộc đời và nghệ thuật. Nam Cao phát biểu về quan điểm nghệ thuật và khẳng định: người viết phải nhìn thẳng vào cuộc sống thực, đón
lấy những vang động của cuộc đời làm nguồn cảm hứng sáng tạo (“Trăng sáng”). Truyện ngắn “Mua nhà” kể lại cảnh tác giả phải sống trong một căn nhà quá chật hẹp và rách nát. Căn nhà ấy đã đổ trong một cơn mưa bão. Sau những cố gắng vất vả và dành dụm được một số tiền, đã mua được một ngôi nhà gỗ mà chủ nhân là kẻ thua bạc. Rồi đây một gia đình có nơi ăn ở đàng hoàng thì một gia đình khác với những đứa trẻ vô tội lại bị ném vào cảnh bơ vơ. Kết thúc câu truyện, Nam Cao triết lý sâu sắc: “Ở cảnh chúng ta lúc này, hạnh phúc chỉ còn là một cái chăn quá hẹp. Người này co thì người kia bị hở”. Và nghĩ cho cùng thì sự no ấm của người này được tạo nên từ bất hạnh của người kia thì phải chăng đó là hạnh phúc chân chính? - không có hạnh phúc cá nhân nào lại đủ đầy khi tách biệt với đời sống xã hội. Qua những đổi thay của tính cách nhân vật trong “Tư cách mõ” Nam Cao rút ra kết luận về tấm lòng khinh trọng của người xung quanh tác động đến nhân phẩm con người như thế nào. “Hỡi ôi! Thì ra lòng khinh trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến cái nhân cách của người khác nhiều lắm, nhiều người không biết gì là tự trọng chỉ vì không được ai trọng cả: làm nhục người là một cách rất điệu để khiến người sinh đê tiện”. Truyện ngắn “Nhỏ nhen” cũng là một cách triết lý về sự nhỏ nhen qua câu truyện của mấy anh chàng tiểu tư sản. Những con người này thường tỏ vẻ xem thường sự nhỏ nhen, ai cũng có thể kể những câu truyện khôi hài về sự nhỏ nhen nhưng trong lòng mỗi người đều luôn có những toan tính nhỏ nhen. Chỉ tìm đến những nhỏ nhen của người khác mà che đậy hoặc không dám công nhiên công nhận sự nhỏ nhen của mình cũng là một thứ nhỏ nhen. Một số truyện ngắn như “Nước mắt”, Đời thừa… xoáy sâu chủ đề của sáng tác vào vấn đề: nguyên nhân của nỗi khổ. Cảnh sống tù túng và thiếu thốn đến khổ cực của một số gia đình tiểu tư sản đã gây nên những va chạm và những mâu thuẫn của những người trong gia đình đến mức oán trách hờn giận nhau. Người này xem người kia là nguyên nhân của mọi nỗi khổ và Nam Cao kết luận “chỉ vì người nào cũng khổ cả và người nọ cứ tưởng vì người kia mà khổ”. Và nguyên nhân phổ biến của nỗi khổ cực của mọi người. Nhân vật trí
thức tiểu tư sản của Nam Cao ít hành động và hay suy tưởng triết lý. Tiêu biểu nhất là nhân vật Thứ trong “Sống Mòn”. Thứ nghĩ về mình, về gia đình, về nỗi khổ, về cuộc sống xã hội hôm nay, ngày mai… Ấn tượng đọng lại sâu sắc nhất qua “Sống mòn” là một hoàn cảnh sống đen xám, tù túng đến không chịu đựng nổi và ý nghĩ tích cực nhất là quan niệm “sống tức là thay đổi”. Phải đổi thay hoàn cảnh hiện tại, tổ chức lại lối sống và quan hệ giữa người và người sao cho ổn thỏa và tốt đẹp hơn. Nam Cao ít triết lý một cách sách vở. Thường những suy nghĩ nảy lên từ cuộc sống. Khi tiếp xúc với cảnh ngộ này, số phận kia, Nam Cao đều muốn từ đó rút ra một điều gì có liên quan đến cuộc sống chung. Những suy nghĩ thường mang trong đó trực tiếp những chiêm nghiệm riêng của bản thân trước cuộc đời.
Những suy nghĩ và triết lý của Nam Cao thường có nội dung sâu xa và đôi khi gây hứng thú. Tuy nhiên cũng có khi xuất phát từ một quan niệm có sẵn rồi tác giả dùng nhân vật và cảnh ngộ của câu truyện chứng minh cho luận điểm của mình. Người ta thường nói “ở hiền gặp lành”, nhưng trong thực tế xã hội cũ Nam Cao lại thấy người hiền lành thường chịu đựng nhiều cảnh ngộ không may mắn và kẻ khôn ngoan tàn nhẫn lại thường thành công. Truyện ngắn “Ở hiền” mang màu sắc luận đề và minh họa cho quan niệm “ở hiền gặp lành”. Thường ở những sáng tác này nội dung câu truyện có tính cách gò bó, thậm chí có khi giả tạo. Trong truyện “Sao lại thế này” Nam Cao muốn nhấn mạnh đến vai trò của hoàn cảnh. Những nhận xét của tác giả có tính chất cực đoan khi xem hoàn cảnh là hoàn toàn quyết định và con người chỉ có tính chất thụ động. “Một cô gái giang hồ với một người đàn bà lương thiện không khác nhau là mấy, chỉ có những hoàn cảnh khác nhau”, quan niệm đó của tác giả tuy có căn cứ vào những cuộc đời cụ thể nhưng lại chưa đánh giá đúng mực sự chống đỡ đấu tranh của con người trước hoàn cảnh. Mặc dù có đôi lúc rơi vào một số quan niệm có tính chất cực đoan, nhưng nhìn chung chất suy nghĩ và triết lý
trong sáng tác của Nam Cao vẫn là một mặt mạnh của ngòi bút góp phần tạo nên đặc điểm riêng của tác phẩm.
Nam Cao luôn nhìn thẳng vào sự thực của đời sống. Sự thực có biết bao nhiêu điều chua chát, đau lòng. Bên cạnh những thảm kịch là những truyện lố lăng. Và ngay trong cùng một nhân vật, một sự việc, truyện vui, truyện buồn, cái đau xót xa và cái hài hước cứ xen lẫn vào nhau. Ngòi bút tác giả không khỏi có những lúc chua chát, giận hờn, mỉa mai, trào lộng. Nam Cao là nhà văn hiện thực mà chất châm biếm thâm nhập và chi phối đến chiều sâu của cảm hứng sáng tạo. Không có hoặc rất ít có những tiếng cười bông phèng thỏa chí. Chất liệu để tạo nên tiếng cười đó không thiếu gì trong xã hội cũ. Ngòi bút của Nam Cao không mua vui cho cuộc đời theo cách dễ dãi truyện ngắn. Nụ cười và lời châm biếm có nội dung sâu sắc và hàm ý rõ rệt về tư tưởng. Dễ thấy là bọn thống trị giàu có, những kẻ độc ác nhiều tội lỗi cũng là bọn người mang nhiều cái lố lăng hài hước. Chúng là những kẻ phè phỡn no ăn nhưng đói chữ, tham lam, nhiều dục vong, hay học đòi. Những Bá Kiến, Lý Kiến, Lý Nhưng, Hải Nam, tất cả đều nằm dưới đòn bút châm biếm sâu sắc của Nam Cao. Nhưng rồi Nam Cao cũng không giới hạn mục tiêu châm biếm trong một phạm vi nào mà mở rộng ra với nhiều dân tộc và mang sắc thái phong phú. Nam Cao bắt được tiếng cười bình dân hồn hậu lạc quan của người nông dân qua nhiều trang viết. Cái cách thương nhau giận nhau của vợ chồng trẻ (“Con mèo”, “Rình trộm”…) có nhiều nét vui thật hồn nhiên ngộ nghĩnh. Nam Cao cũng tỏ ý châm biếm mỉa mai những nhân vật nông dân thiếu sự tỉnh táo và mức độ để lộ ra trong cuộc sống những nét đáng chê trách. Hoàn cảnh túng thiếu nhưng lại sa vào truyện rượu chè, cờ bạc, ham danh vọng hão. Những người nông dân này vừa có những nét chất phác, tin cậy nhưng rồi cũng dễ bị lôi cuốn vào những thú vui, những trò xa lạ với cuộc sống của mình. Họ có những nét buồn cười nhưng rồi cũng đáng thương. Nụ cười của tác giả vừa nhẹ nhàng vừa độ lượng xót xa. Đẩy sâu hơn, ngòi bút châm biếm của Nam Cao trở nên sắc cạnh lạnh lùng khi
miêu tả những loại người biến chất đến cùng đường liều lĩnh. Nhiều lúc họ trở thành một biếm hoạ, được phác ra bằng những đường nét mô tả có nhiều chất ngoa dụ, thậm xưng. Thị Nở, ông làng Rận, mụ Lợi… có thể có chăng những con người dị dạng dị hình đó trong cuộc sống? Họ là những người ở dưới đáy sâu lầy lội của xã hội, tuy họ có biến dạng biến hình đi đến mức quá quắt làm chúng ta buồn cười đến không nhận ra về ngoại hình và cách sống của họ với người đời quen thuộc. Ở chỗ này tác giả đã quá tay như một điều lầm lỡ. Nhưng phần níu giữ lại được là những đớn đau mà chế độ cũ buộc phải chịu đựng lại gần gũi quen thuộc và gợi lên bao xót xa tủi cực. Châm biếm mỉa mai cuộc đời mà cuộc đời ấy cũng có phần của cả riêng mình, Nụ cười của Nam Cao cũng nhằm ngay vào chính mình và tầng lớp mình. Tự trào vẫn là một hình thức châm biếm thú vị. Nam Cao luôn tỉnh táo để có thể phân biệt một cách mẫn cảm rõ rệt ranh giới giữa cái nghiêm túc và khôi hài hay là dở, đúng và sai trong bản thân mình, điều mà có nhiều người dễ chủ quan không nhận ra. Nam Cao cũng lại mạnh dạn và thẳng thắn để có thể nói ra những nhược điểm, những ý nghĩ buồn cười của bản thân mà châm biếm, hoặc bộc lộ trực tiếp không dè dặt những cảm nghĩ của mình trước những cái lố lăng của cuộc đời. Từ Cái mặt không chơi được, Những truyện không muốn viết đến các sáng tác như “Quên điều độ”, “Cười”, “Trăng Sáng”, “Sống mòn”, ở tác phẩm nào cũng thấm sau vị hài hước châm biếm. Nam Cao tự chỉ trích cái bên ngoài của mình, khuôn mặt hơi lạnh lùng, dè dặt như luôn giấu kín những ý nghĩ bên trong. Nam Cao cũng tự trào về cái tôi của mình:
“Tôi đã hứa với tôi: chẳng bao giờ viết truyện mình. Tôi sẽ chẳng bao giờ thèm đả động đến cái tôi - cái tôi là đáng ghét. Vẫn biết nhiều bạn đồng nghiệp khả kính của tôi không nghĩ thế. Suốt đời họ, họ chỉ toàn nói về họ. Họ phân tích tâm hồn họ. Mà họ làm thế nhất định không phải là vô ích. Nhưng họ khác mà tôi khác. Cái nghế văn kỵ nhất là cái lối thấy người ăn khoai cũng vác mai đi đào. Khi người ta nói đến mình là nhận ra rằng mình có một cái gì
đáng nói. Còn tôi chẳng có gì. Tâm hồn tôi nó hơi nông. Mà đời tôi thì không có truyện. Cái tôi của tôi rất xoàng. Bởi tôi rất xoàng. Trọn đời tôi, tôi chỉ lo chết đói. Như thế bảo còn nghĩ đến những cái to tát làm sao được! Nguyện vọng của tôi? Ấy là làm thế nào cho vợ có tiền đong gạo, mua nước mắm và mua ba xu thuốc chốc đầu của bà lang lùn về cho con. Không có mộng. Nói vậy sợ hơi quá quắt. Thật ra tôi cũng có chút mộng văn chương. Nhưng cái mộng ấy cũng hơi… khi khỉ. Tôi vẫn muốn vừa có thể phụng sự nghệ thuật lại vừa có thể kiếm tiền về nuôi cả nhà. Nghĩa là tôi ham viết lắm nhưng giả thử viết mà không được một đồng xu nhỏ thì có lẽ tôi cũng làm vừa vừa thôi. Cái tôi của tôi sự thật thì nó bỉ ổi như thế đấy. Tôi còn nói đến tôi làm gì? Tôi tìm những cái khác để mà nói vậy” (Những truyện không muốn viết)
Nam Cao châm biếm mình một cách ý nhị mà cũng chính là mỉa mai châm biếm cuộc đời. Cũng không cần phải che đậy giả dối làm gì, thực trạng cuộc đời cũng là thế. Không hay gì những kẻ tự phỉnh nịnh cái tôi của mình trong văn chương. Nam Cao nói về cái tôi của mình vừa chân thật, vừa châm biếm mỉa mai, vừa xót xa đau đớn. Khi điều kiện tối thiểu cho sự sống luôn bị đe dọa cướp đoạt. Khi người cầm bút trong công việc làm của mình luôn phải nghĩ tới sao cho đủ miếng cơm ăn và luôn bị bọn chợ đen trong văn chương biến sáng tác mình thành một món hành thì người viết còn thực sự bị cầm tù về cả vật chất lẫn tinh thần.
Tính chất hoạt kê châm biếm trong sáng tác của Nam Cao không hạn chế hoặc giảm đi tính chân thực của hình tượng mà làm cho cuộc sống được phản ánh thêm màu sắc. Tác giả phát hiện ở đối tượng những nét hài hước tồn tại một cách khách quan và thêm vào phần bình luận dí dỏm hoặc mỉa mai sâu cay. Chất trào lộng
châm biếm của Nam Cao không dừng lại ở bản thân tiếng cười qua một hiện tượng nào đó mà luôn gắn liền với tính cách và số phận nhân vật. Trừ đi những tiếng cười nhằm vào: châm biếm đả kích bọn thống trị giàu có, trừ đi một vài biếm hoạ, còn lại tiếng cười
trong tác phẩm của Nam Cao bao giờ cũng xót xa và gần với sự đắng cay bi thảm.
Những người nông dân nghèo khổ, rồi cùng đường liều lĩnh, những người dân nghèo thành thị, những trí thức tiểu tư sản… nhiều tính cách, nhiều cuộc đời… không cảnh ngộ, nhân vật nào gây cười lại không làm cho chúng ta xót xa, đau đớn. Những nét hài hước trong nhiều tính cách nhân vật xét cho cùng không thuộc cá tính riêng của từng người, mà do hoàn cảnh xã hội với những điều kiện cụ thể tạo nên và chi phối. Sau cách mạng tháng Tám chất châm biếm hài hước chỉ được tác giả sử dụng một đôi lần như khi phê phán tính cách nhân vật Hoàng trong truyện ngắn Đôi mắt một kiểu trí thức tư sản lạc lõng. Ở những người nông dân đi theo cách mạng tuy còn ít nhiều nét gây cười nhưng Nam Cao miêu tả họ với tinh thần vươn tới thật đáng yêu.
Tuy nhiên, chất hài hước châm biếm của Nam Cao ở thời kỳ trước cách mạng không tránh khỏi hạn chế về chỗ đứng và tầm nhìn khi nhận thức và giải quyết các vấn đề của đời sống. Còn thiếu những mũi nhọn châm biếm sắc sảo, mạnh mẽ để vạch trần bản chất xấu xa của giai cấp thống trị. Còn thiếu cách nhìn sáng tỏ và triệt để với
từng hiện tượng trong đời sống nên không phải có lúc tính chất trào phúng như không có mục tiêu rõ rệt. Nụ cười trào phúng của Nam Cao hướng cả vào những cảnh ngộ và con người xét cho cùng là tội tình đáng thương.
Nam Cao sâu sắc phát hiện ra những mâu thuẫn và nhiều mặt trái ngược trong cuộc sống, nói thẳng những tâm trạng mà nhiều người e ấp, che đậy. Chất hài hước châm biếm do đó có chiều sâu và tránh được sự nhạt tẻ, nhưng lại thường chua chát và có lúc gây tình cảm hoài nghi, chán nản. Nội dung của tiếng cười tiểu tư sản này khác hẳn với tiếng cười trong trẻo, sảng khoái của người bình dân, hoặc tiếng cười lạc quan giàu tính chiến đấu của người chiến sĩ Cách mạng.
Tác phẩm của Nam Cao mang những đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực ở chặng đường cuối cùng. Không khí ngột ngạt bao trùm đời sống xã hội ùa tràn vào tác phẩm. Số phận các nhân vật ở thành thị cũng như nông thôn trong cảnh ngộ riêng của mình đều rơi vào bế tắc tột độ. Giữa cái sống và cái chết dường như không có sự ngăn cách lớn lao lắm. Tác phẩm “Sống mòn” vốn có tên là “Chết mòn”, ý nghĩa của những tiêu đề ấy tuy có khác nhau nhưng vẫn có những nét cơ bản giống nhau. Các nhân vật trong những hoàn cảnh khác nhau đều thảng thốt kêu lên nỗi đau vò xé. “Họ thấy đời “nó thế nào” trời thì bất công mà kiếp người thì khổ lắm”. Nếu chết mà dễ thì ai cũng chết. Trời đất này còn ai muốn sống. Chẳng qua không chết được thì phải sống”. Nhân vật Điền trong “Nước mắt” đớn đau nhận ra: “Hắn thấy mình khổ quá, khô như một con chó vậy”. Và cũng thật bùi ngùi xót xa cho cách liên tưởng so sánh của lão Hạc khi phải bán con chó vàng: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hóa kiếp cho nó để nó làm người may ra nó sung sướng hơn một chút… kiếp người như tôi chẳng hạn”. Và rồi nhiều nhân vật của Nam Cao đã kết thúc số phận mình một cách đau đớn. Lão Hạc, anh Phúc, và cái Tí, anh đĩ Chuột, Chí Phèo, phần lớn là đều rơi vào cảnh chết đói, chết rét, chết bệnh tật. Đời sống dân nghèo thành thị cũng biết bao thảm họa. Xóm Bài thơ cái tên xinh đẹp mỉa mai ấy đã trải bao đổi thay để từ một chốn mang nhiều kỷ niệm của tuổi thơ trở thành một nơi chứa đầy thảm kịch. Cuộc sống rồi sẽ đi đến đâu? Nam Cao một mặt đầy những trang viết đến độ tột cùng của sự bế tắc. Không khí ngột ngạt ấy thấm đầy và đọng lại trên các trang sách. Đó là một mặt chân thực của thời kỳ lịch sử này khi xã hội đang lên cơn sốt, đang quằn quại đau đớn trong giờ lột xác. Một mặt tác phẩm của Nam Cao cũng mang theo mầm mống của tương lai.
Điều đáng quý là từ trong đêm tàn tăm tối của cuộc đời cũ, từ trong hố sâu của sự tuyệt vọng, Nam Cao vẫn hy vọng, vẫn chờ đợi: “Mọi vật sống trong sự chờ đợi. Sự đợi chờ bứt rứt một nỗi đau phải đến. Của con nhộng đón ngày biến thành ngài. Của con ve sắp trút
làn da cứng để non trẻ lại và của cái mầm mống sắp xé lòng mẹ để ra đời…”
Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đang diễn ra khốc liệt, dữ dội, reo rắc đầy thảm hoạ. Nam Cao cũng như nhân vật, những nạn nhân của thời cuộc vẫn vượt lên những gian truân và thử thách, vượt lên khỏi sự tuyệt vọng và bi quan để có cách nhìn lạc quan hơn. Bước vào thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh, niềm hy vọng còn khá rõ rệt: “Bạn Thanh Tường… sao bạn lại bi quan? Nhân loại chẳng tự sát bằng chiến tranh đâu. Nhân loại đang quằn quại trong nỗi đau đớn của thời kỳ lột xác”.
Và ở vào những năm cuối cùng của cuộc chiến tranh, nhân vật của Nam Cao đã bị chiến tranh xô đẩy, dồn ép tới chân tường tuyệt vọng. Thứ, trên con tàu trở về quê buồn rầu nghĩ đến những chuỗi ngày sắp tới mà cuộc sống “sẽ mốc lên, sẽ rỉ đi, sẽ mòn, sẽ mục ra”. Nhưng rồi nhân vật vẫn muốn hy vọng: “Nhân loại lên cơn sốt rét đang quằn quại nhăn nhó, rên la, tự mình lại cắn mình, tự mình lại xé mình để đổi thay. Cái gì sẽ trồi ra? Lòng Thứ đột nhiên lại hé ra một tia sáng mong manh. Thứ lại thấy hy vọng một cách vu vơ. Sau cuộc chiến tranh này có lẽ cuộc sống sẽ dễ dàng hơn, công bằng hơn, đẹp đẽ hơn”.
Và cho dù nhân vật có gục ngã xuống thì sự hy vọng vẫn còn lại ở cuộc đời, ở những đứa con, ở những người thân thuộc và cả ở mọi người. Trong truyện ngắn Điếu văn, Nam Cao đã đem vòng hoa đỏ thắm phủ lên nấm mộ của người đã khuất. Đó là vòng hoa của niềm hy vọng vào một cuộc đời mới.
“Bây giờ thì sự im lặng bất tuyệt đã bịt chặt đôi tai, anh chán nghe những lời mỉa mai của đời rồi. Bóng tối đời trong đã phủ kín đôi mắt anh mở thao láo nhiều đêm để nhìn bóng tối, những cảnh nó làm anh gục ngã. Anh đã có thể dửng dưng với những truyện của loài người… Vậy thì anh Phúc ơi! Anh hãy nghỉ cho yên… Chúng tôi, những kẻ đã đau khổ, đã uất ức, đã ước ao, đã thèm khát, đã thất vọng và vẫn còn hy vọng mãi và phải hy vọng mãi. Sự đời không thế
cứ mù tịt mãi thế này đâu. Tương lai phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi. Một mặt trời mới sẽ mọc lên bên trên nấm mồ anh và bên trên đầu hai đứa con côi của anh để lại. Một bàn tay bè bạn sẽ nắm lấy tay chúng và dắt chúng cùng đi tới một cuộc đời đẹp hơn”.
Mặt trời mới ấy với những tia sáng ban mai đầu tiên đã đến từ trong đêm tàn tăm tối của cuộc đời cũ. Nam Cao đã tiếp nhận được ánh sáng đó từ phong trào cách mạnh do Đảng lãnh đạo và trực tiếp hơn trong tổ chức Văn hóa Cứu quốc mà anh là một chiến sĩ, một thành viên tích cực. Tuy nhiên nhược điểm của Nam Cao cũng như nhiều tác giả hiện thực phê phán ở thời kỳ này là chưa phản ánh được bản chất hết sức lớn lao của thời kỳ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt minh ra đời, phòng trào kháng Nhật nổi dậy khắp nơi. Các cuộc khởi nghĩa, các chiến khu và căn cứ du kích trên khắp ba miền, những phong trào vận động cách mạng rộng rãi từ thành thị đến thôn quê, các tổ chức của Đảng trên mặt trận đều khẩn trương hoạt động dưới nhiều hình thức chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Bên cạnh mặt đen tối và đầy thảm họa của đời sống trong những tháng năm này là mặt đấu tranh sôi động, mạnh mẽ của phong trào cách mạng và ảnh hưởng nhiều mặt của nó đến cuộc sống chung. Nam Cao cũng như nhiều thành viên trong tổ chức Văn hóa Cứu quốc đã nhận thức được thực tế đó. Nhưng tiếc rằng sự thể hiện mặt tích cực trong tác phẩm cụ thể lại còn nhiều hạn chế. Một vài hình ảnh báo hiệu tương lai, một số câu hỏi biểu thị hy vọng của nhân vật vào cuộc đời đổi mới, tất cả những chất liệu đó thực đáng quý, nhưng còn quá mong manh, yếu ớt. Phương pháp hiện thực phê phán không khỏi hạn chế sức khám phá đầy sáng tạo của người viết vào bản chất của đời sống đang phát triển vừa ngấm ngầm vừa mạnh mẽ theo quy luật vận động cách mạng để tiến lên cao trào Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Nội dung sáng tác của Nam Cao được thể hiện qua một hình thức nghệ thuật độc đáo. Hình tượng nghệ thuật không trải rộng theo
dòng cốt truyện mà xoáy theo những cảnh ngộ và lớp tâm lý khác nhau. Truyện của Nam Cao cô đúc, giàu chất liệu, hút vào chiều sâu và tạo nên nhiều nhận thức và khám phá mới lạ qua mỗi lần đọc. Nam Cao cũng khéo léo kết hợp khả năng miêu tả sinh động và giàu tính khắc họa bộ mặt, dáng dấp và hoạt động của các tính cách, khả năng tạo không khí chân thực sinh động cho các hoàn cảnh với sự phát triển của dòng tâm lý. Nam Cao sử dụng có hiệu quả nhiều biện pháp miêu tả tâm lý so với nhiều cây bút hiện thực khác. Khi thì dòng suy nghĩ của nhân vật phát triển dưới sắc thái tự truyện với những ý nghĩ những liên tưỏng truyện ngắn (Cái mặt không chơi được, “Những truyện không muốn viết”). Khi thì tác giả bám sát nhân vật kịp thời phát hiện, miêu tả những yếu tố tâm lý mới xuất hiện trong nhân vật (“Lão Hạc”, Một đám cưới). Khi thì chính nhân vật lại tự biểu hiện mình dưới nhiều sắc thái, kể cả dòng độc thoại nội tâm (“Sống Mòn”). Có những nhân vật và dòng tâm lý phát triển triền miên qua nhiều chặng. Những suy nghĩ vừa bắt điểm tựa vào những sự kiện trong đời sống vừa khuôn theo đặc điểm của tính cách mà phát triển. Các nhân vật nông dân cũng có những tâm trạng thích hợp với cảnh ngộ. Nam Cao tôn trọng và không can thiệp vào dòng suy nghĩ của các nhân vật nông dân.
Các nhân vật tiểu tư sản thường nặng về suy nghĩ hơn hành động. Chất tâm lý của họ thống nhất với trạng thái tâm hồn của tác giả nên dễ tạo nên sự nhất quán, ít có tình trạng chắp vá miễn cưỡng. Chất tâm lý phát triển nhiều khi quy định đến cấu tạo của tác phẩm như trong “Sống mòn”. Cấu tạo “Sống mòn” vừa đi sát vào sườn cốt truyện vừa gắn liền với dòng tâm lý nhân vật vận động chậm chạp trong vòng luẩn quẩn. Nam Cao rất sâu sắc và tinh tường về tâm lý và khả năng phản ánh hiện thực qua tâm trạng. Nhìn chung tâm lý nhân vật miêu tả gây được hứng thú với người đọc. Tác giả luôn tôn trọng tính khách quan của tâm lý từng loại người và tạo điều kiện cho tâm lý bộc lộ tính cách. Nam Cao thường đi thẳng vào ý nghĩ của nhân vật hoặc để nhân vật tự bộc lộ những ý nghĩ thật của lòng mình rồi tuỳ theo loại tính cách mà sử dụng chất châm biếm
pha lẫn dòng suy nghĩ một cách nghệ thuật. Do đó, dạng nhân vật tự bộc lộ mình qua suy nghĩ khá phổ biến. Hình thức độc thoại bên trong ấy kết hợp với đối thoại tạo nên nhiều màu vẻ phong phú để miêu tả tính cách.
Trong tác phẩm của mình, Nam Cao tránh được lối miêu tả ước lệ cầu kỳ. Anh không để cho chữ nghĩa, ngôn ngữ che lấp sự vật được miêu tả. Tác giả tôn trọng đến mức tối đa đặc điểm của tình huống, diện mạo tính cách với sự chính xác của các chi tiết. Nam Cao không tả cảnh, tả hình theo cách làm văn chương. Văn Nam Cao bật lên từ sự sống thực. Nó khỏe khoắn, mộc mạc, chính xác, gợi cảm, và nhiều xót xa, chua chát. Chúng ta hãy để ý đến một khía cạnh của sự miêu tả: Giấc ngủ của hai người phụ nữ đau khổ qua cái nhìn của hai người đàn ông. Chí Phèo nhìn Thị Nở ngủ gục bên gốc chuối cạnh bờ sông: “Hắn nhìn giữa hai lọ nước và tựa lưng vào gốc chuối, một người đàn bà ngồi tênh hênh. Chính là người đàn bà, hắn biết vậy là nhờ mớ tóc dài buông xoã xuống vai trần và ngực… hai tay trần của mụ buông xuôi, cái mồm của mụ há hốc lên trăng mà ngủ, hay là chết. Đôi chân thì duỗi thẳng ra trước mặt cái váy đen xộc xệch… Bên kia có lẽ vì mụ giãy, cái yếm xẹo xọ để trật ra cái sườn nây nây. Tất cả những cái ấy phơi ra dưới trăng, rười rượi những trăng. Trăng làm trắng những cái có lẽ ban ngày không trắng. Trăng làm đẹp lên”. Và Hộ nhìn Từ đau khổ đang thiếp đi mệt mỏi trong giấc ngủ:
“Hắn ngắm nghía mặt Từ lâu lắm. Da mặt Từ xanh nhợt; môi nhợt nhạt, mí mắt hơi tim tím và chung quanh mắt có quầng; đôi má đã hơi hóp lại, khiến mặt hơi có cạnh. Họ khẽ thở dài và lắc đầu ái ngại. Hắn nhẹ nhàng nắm lấy tay sà xuống của Từ. Cái bàn tay lủn củn rặt những xương. Trên mu bàn tay, những đường gân xanh bóng do làn da mỏng và xanh trong xanh lọc. Cái cổ tay mong manh. Tất cả lộ một cái gì mềm yếu, một cái gì ẻo lả, cần được hắn che chở và bênh vực… một vẻ bạc mệnh, một cái gì đau khổ và chật vật cần được hắn vỗ về an ủi. Thế mà Hộ đã làm gì cho đời Từ đỡ khổ hơn. Hắn đã làm gì cho đời Từ đỡ khổ? Nước mắt hắn bật ra
như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc… Ôi chao! Hắn khóc. Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc. Từ thức dậy, Từ hiểu ngay, không cần hỏi một câu nào cũng hiểu. Và Từ cảm động. Mắt Từ giàn giụa nước. Từ khẽ rút tay ra, vòng lên cổ chồng, nhẹ nhàng níu hắn vào để hắn gục đầu lên canh ngực Từ” (Đời thừa).
Văn Nam Cao thường có cấu trúc câu gọn, đanh và khoẻ. Nhiều lúc văn hơi gấp, dồn dập trong những tâm trạng mâu thuẫn của nhân vật. Nam Cao không ưa một sự trang sức nào làm mờ đi hiện thực đời sống. Anh cũng không chú ý tô điểm cả tên tuổi của nhân vật.
Nhiều nhân vật xuất hiện với cái tên mộc mạc hoặc thậm chí chỉ là những “y”, “hắn”, “thị”, “mụ”, “lão”… nhưng cũng không vì thế mà nhân vật dễ lẫn lộn và mờ nhạt cá tính. Cũng có thể có người thấy ở đây một chút gì như tàn nhẫn, khinh bạc. Nếu có thật chăng thì điều đó cũng dành cho cả chính mình và những nhân vật mang bóng dáng mình. Thật ra những vấn đề chính để bộc lộ thái độ là ở nội dung. Nam Cao muốn có một thái độ khách quan, muốn gây ấn tượng thật khách quan để miêu tả nhân vật và cảnh ngộ.
Văn Nam Cao mang nhiều tính chất hiện đại mới mẻ. Anh không tả theo ước lệ và công thức mòn sáo. Nam Cao sử dụng nhiều từ mới, nhiều liên tưởng so sánh khá độc đáo, để tả cho đúng trạng thái của đối tượng. Cùng một nụ cười khi thì “cười cục cục trong cổ như một con gà sống”, khi thì nhẹ nhàng với đôi mắt “hé ra lăn tăn cười” hoặc ồn ào “những tiếng cười nổ như xe phành phạch”. Loại nhân vật Chí Phèo khi đã cười thì thường “cưòi ngất”, cười “khanh khách”, cười “hô hố” hoặc “cười rú lên”. Nam Cao cũng sử dụng nhiều cách nói và từ mới mẻ như: dáng người tơ tuốt, nỗi buồn ươn ao, gương mặt chau chau, miệng phùng phìu, đôi môi chiệc chiệc, cái yếm xẹo xọ, cách nằm ềnh ệch…
Nam Cao cũng có nhiều đóng góp trong nghệ thuật truyện ngắn, truyện ngắn của Nam Cao mang nhiều màu, vẻ. Có những truyện xuất sắc chỉ qua một vài trang và dựng được một tính cách, một
cuộc đời với nhiều đổi thay như “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Tư cách mõ”, Điếu văn, Một đám cưới… có những sáng tác mà cốt truyện đơn sơ nhưng lại gây được xúc động, bằng cách đi sâu vào những trạng thái tình cảm như “Từ ngày mẹ mất”, “Bài học quét nhà”. Một số truyện khá độc đáo được tạo thành bằng sự liên kết những cảm nghĩ của tác giả rất tự nhiên mà thâm thúy, sâu xa như Những truyện không muốn viết, Cái mặt không chơi được…
Trên đề tài tiểu tư sản, Nam Cao viết một chùm truyện ngắn (“Cười”, “Trăng sáng”, “Nước mắt”, “Mua nhà”, Đời thừa, những sáng tác có thể ghép lại với nhau xoay quanh một trục của tính cách như một cảnh ngộ của một cuộc đời hoàn chỉnh, nhưng đồng thời lại khác nhau với những đặc điểm riêng của từng cảnh ngộ và tính cách.
Những sáng tạo của Nam Cao về nghệ thuật biểu hiện cũng nhằm mục đích duy nhất là làm sao biểu hiện được chân thực và sâu sắc sự phong phú và đa dạng của đời sống và nội tâm con người. Nó đã góp phần tạo nên khá hoàn chỉnh những đặc điểm riêng của những tác phẩm hiện thực của Nam Cao.
*
Cách mạng tháng Tám thành công, dưới ánh sáng của lý tưởng và đường lối văn nghệ của Đảng, Nam Cao đã sớm xác định cho mình trách nhiệm nhân văn chiến sĩ. Con người trí thức tiểu tư sản thụ
động và nặng nề suy tưởng thời kỳ trước cách mạng đã bật dậy sức sống mới và trở thành kiểu người hành động. Nam Cao hồ hởi tham gia các hoạt động cách mạng giành chính quyền ở địa phương, về làm báo, rồi viết văn phục vụ cho yêu cầu cách mạng. Trong tấm lòng của mình Nam Cao đã chờ đón và sớm tìm được đến với cách mạng. Cách mạng đã trả lại cho người nghệ sĩ nhân phẩm của con người và sứ mệnh chân chính của người cầm bút. Trong hoàn cảnh xã hội cũ, trước sức cám dỗ, xô đẩy của cuộc đời, làm sao để giữ mãi được cho cuộc đời và ngòi bút trong sạch. Nam Cao có lần tâm sự: “Lấy làm may rằng mình không trụy lạc trong
hoàn cảnh thối nát ghê gớm ấy. Cái gì đã bảo vệ mình? Hình ảnh bà ngoại tróm trém ăn cơm nguội nhạt những buổi chiều. Lý tưởng, sự say mê nghệ thuật - tâm hồn trong sạch và mơ những cảnh sống, những con người thật đẹp. Nhưng nếu hoàn cảnh không đổi hẳn do cách mạng?”.
Nam Cao đã thấy rõ những đổi thay lớn lao, kỳ diệu mà cách mạng đã đem lại cho đất nước, cho chốn làng quê nghèo khổ và cho những cuộc “đời thừa” buồn xám của những người trí thức tiểu tư sản nghèo.
Một lẽ sống, một trách nhiệm mới đã đến với những người cầm bút, Nhà văn cũng phải tham dự vào cuộc đấu tranh với tư cách của nhân vật chiến sĩ. Có biết bao nhiêu trận tuyến đang mở ra trong chiến đấu, sản xuất, xây dựng cuộc đời mới. Nhiều sự kiện thật hấp dẫn, lôi cuốn hàng triệu người. Cuộc sống mới cần được ca ngợi, khẳng định. Trong không khí sôi động của những ngày đầu cách mạng, cũng còn có người tự huyễn hoặc về sứ mệnh người cầm bút và nội dung sáng tác để rồi tự tách mình ra khỏi cuộc sống hoặc “nâng mình trên” mọi người. Nam Cao hiểu rõ văn nghệ cũng như nhiều hoạt động khác đều là trách nhiệm và là bộ phận của sự nghiệp đấu tranh của dân tộc. Giờ cứu quốc đã điểm, nhiệm vụ bức thiết nhất là cầm súng giết giặc. Nam Cao không khỏi lo lắng, băn khoăn trước hiệu quả của ngòi bút so với nhiều công việc cụ thể khác.
“Cây bút của tôi bất lực. Nó không khạc ra lửa và đạn như cây súng. Nó ỳ ạch chạy theo phong trào mãi mà không kịp… Lắm lúc chúng tôi muốn vứt cả bút đi để cầm lấy súng”. Vấn đề là ở chỗ người cầm bút cũng phải mang tinh thần tiến công của người cầm súng. Không thể nào cứ ngồi một chỗ để viết như đã viết trong cuộc đời cũ theo cách tự khai thác và tự biểu hiện. Muốn làm tròn được chức năng mới của người nghệ sĩ, người viết phải sống, phải rèn luyện và tắm mình trong thực tế đấu tranh cách mạng. Nam Cao hiểu rất rõ sự khác nhau rất xa giữa hoạt động văn nghệ ở hai thời
kỳ trước và sau cách mạng. Bước vào những năm đầu kháng chiến Nam Cao càng thấy cuộc sống và con người đã có những thay đổi lớn lao từ tình cảm, tư tưởng cho đến ngôn ngữ, y phục: “Ta không còn phải là ta khi trước nữa. Những người quanh ta không còn phải là những người chung quanh ta như trước nữa, thì tại sao có thể cứ viết, cứ vẽ như trước được”. Nam Cao nhận thấy điều kiện hết sức quyết định cho sự sáng tạo nghệ thuật là sự am hiểu sâu sắc cuộc sống. Quan niệm: “Sống đã rồi hãy viết”, và bàn tay “nếu chưa cầm súng một phen thì cầm bút cũng vụng về” là quan niệm rất có ý nghĩa về tư tưởng, góp phần xác định nhiệm vụ chiến sĩ của nhà văn trong hướng xây dựng một nền văn nghệ cách mạng.
Qua những sáng tác ở thời kỳ đầu cách mạng tháng Tám, Nam Cao vừa tiến hành phê phán xã hội cũ (“Mò săm banh”), vừa viết về cuộc sống mới (“Đời vô Nam”, “Cách mạng”…) nổi lên là nhiệt tình cách mạng sôi nổi của người cầm bút được giải phóng, được chắp cánh hân hoan trong cuộc đời mới. Nam Cao đã cảm thấy rõ rệt sức sống của dân tộc chúng ta đang độ lớn lên rất dồi dào. “Nay mai những xiềng xích tháo tung rồi chúng ta sẽ lớn rất mau và rất mạnh”. Anh hăng hái nhập vào đoàn quân Nam tiến; đường vô Nam là con đường cứu quốc, đường vô Nam là con đường vui”. Bước vào những năm đầu kháng chiến, Nam Cao làm báo, làm thông tin tuyên truyền, rồi làm văn nghệ. Ý thức quán triệt sâu sắc là làm sao đóng góp được nhiều nhất cho phong trào. Tinh thần phục vụ không nề hà thể hiện rõ rệt trong mọi công việc mà đoàn thể giao cho. Anh nhận làm cả những công việc không chuyên và xem đó là một dịp để rèn luyện thêm khả năng phục vụ của mình. Nam Cao nghĩ trước hết đến lợi ích chung của công việc hơn là xem công việc ấy có đem lại tên tuổi cho bản thân hay không. Nam Cao viết nhiều loại. Trên tạp chí Cứu quốc những năm 1947 - 1948 người đọc bắt gặp Nam Cao với những mẩu ghi chép trong mục “Những nét thời đại” với những bài ca dao ký tên Suối trong, những thiên ký, những truyện ngắn và bình luận văn nghệ, cần tuyên truyền cho chính sách thuế nông nghiệp, Nam Cao viết kịch “Đóng góp”, một
thể loại không thuộc sở trường tác giả; cần động viên nhiệm vụ bán thóc cho Nhà nước nuôi quân, Nam Cao viết truyện Định mức. Nam Cao đi chiến dịch viết “Truyện biên giới”. Ý thức phục vụ kịp thời và tinh thần sẵn sàng có mặt trở thành một phẩm chất quen thuộc của người chiến sĩ văn nghệ trong mọi tình huống. Trong một bức thư gửi Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao phấn khởi hứa hẹn thi đua.
“Chương trình thi đua hứa thực hiện rồi.
- Hai truyện ngắn, một gửi “Sự thật”, một đăng “Cứu quốc” tạp chí. - Một sách phổ thông chưa có điều kiện in, tôi đã viết những thứ sau này để thay vào:
+ Vài ý nghĩ về văn nghệ (“Cứu quốc” tạp chí số 7).
+ Những nét của thời đại, nửa tháng một bài “Cứu quốc” tạp chí. + Một bài cho “Lao động”
+ Một mẩu gửi sang “Văn nghệ”
+ Mấy trang đầu một truyện ngắn.
Nghĩa là thi đua ghê lắm. Ngồi bàn giấy suốt ngày trừ những ngày có việc phải đi. Lại còn làm cả báo hàng ngày nữa. Các anh liệu đấy!
Viết được nhiều, bất cứ bài báo, truyện dài, truyện ngắn gì cũng kể. Bởi vì lúc này mà cứ viết những tác phẩm đồ sộ là không thiết thực, khó in, khó bán, khó đọc”.
Trong những hoạt động của mình, có phần thành công và có những cái chỉ mới là thí nghiệm. Một số sáng tác của Nam Cao còn rơi vào sơ lược, đơn giản. Song điều đáng quý là nhiệt tình của người nghệ
sĩ phục vụ không nề hà trong mọi công việc được đoàn thể giao phó, tinh thần sẵn sàng lao vào mọi khó khăn thử thách. Nam Cao nhận thấy rõ tất cả những phấn đấu gian khổ để thực hiện nhiệm vụ cao đẹp của một nhà văn chiến sĩ. Làm sao để có thể đứng ở mũi
nhọn, ở tuyến đầu của cuộc đấu tranh do quảng đại quần chúng nhân dân đang tiến hành. Ý thức giác ngộ dân tộc và đại chúng phải được liên kết làm một từ bên trong, về phía người nghệ sĩ cũng phải tiến hành một cuộc đấu tranh gian khổ phức tạp với các tư tưởng cá nhân chủ nghĩa và các quan điểm nghệ thuật tư sản đã thâm nhập một cách tự giác và không tự giác trong nếp suy nghĩ và cảm xúc.
Nam Cao là một trong những nhà văn sớm đề cập đến những vấn đề trên và giải quyết với tinh thần nghiêm túc, triệt để. Qua “Ở rừng” và Đôi mắt, Nam Cao đã dành một phần nội dung sáng tác xoáy sâu vào chủ đề về người nghệ sĩ và sự sáng tạo nghệ thuật. “Ở rừng” là những dòng nhật ký rất chân tình của người cán bộ kháng chiến, người nghệ sĩ cách mạng. Xa gia đình đi theo cách mạng, cơ quan vào sâu trong rừng giữa vùng cao vắng vẻ và xa lạ. Những đêm trong lán nằm nghe mưa rơi, ngoài rừng con hươu kêu, những suy nghĩ về cuộc đời riêng, về nghệ thuật lại khơi dậy trong lòng. Nam Cao nghĩ đến những trang viết và những người đọc của ngày qua và cuộc đời hiện tại. Những đổi thay lớn lao của dân tộc và quần chúng cách mạng, những đổi thay trong sâu xa tâm hồn mỗi người đã quyết định những đổi thay trong cách suy nghĩ của tác giả. Anh hiểu rõ những nguyên nhân tạo nên sự xa cách giữa nhà văn và quần chúng chính là do sự thiếu hiểu biết về cuộc sống của quần chúng và do chủ nghĩa cá nhân ở mỗi người viết còn quá nặng nề. Nam Cao đã sớm thức tỉnh và nhận ra những lầm lẫn của mình:
“Hồi ấy tôi viết văn để cho người ta biết đến cái tên tôi. Tôi ao ước tạo một cái gì nó sẽ sống lại sau tôi. Tôi thèm lời khen của các bạn văn, của những kẻ sành văn, của những nhà phê bình có tiếng. Những người ấy là tất cả. Tôi không hề quan tâm đến sự được những người sơ học đọc. Họ đọc để làm gì? Họ hiểu thế nào được văn chương ?…
Tôi đã nghĩ đến tôi nhiều quá. Sau cuộc Cách mạng tháng Tám, càng ngày tôi càng cảm thấy rằng cái “tôi” của mình thật ra chẳng nghĩa lý gì. Nó có một chút giá trị nào là khi nó biết hòa hợp nó vào với những người xung quanh. Nhiều khi phải biết quên mình đi, quên cái tên tuổi mình nếu muốn thành người có ích. Có cần gì phải cầy cục tìm cách ghi tên mình lại trong lịch sử. Tạo ra lịch sử là một việc lớn lao. Nhưng tạo ra lịch sử lại là việc của số đông. Ta nên nghĩ tới số đông nhiều hơn ta. Ta đã cố gắng rất nhiều và vẫn còn đang cố gắng để có thể thích những công việc thầm lặng nhưng có ích”.
Vấn đề riêng chung trong nghệ thuật vẫn là vấn đề khá tinh vi và phức tạp mà nhà văn nào trong quá trình đi với cách mạng cũng phải quan tâm giải quyết. Trong văn học Việt Nam hiện đại, muốn quan hệ riêng chung đó cũng được đề cập đến khi bước vào thời kỳ kháng chiến chống Pháp và được giải quyết triệt để trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Có nhà văn nhấn mạnh đến vấn đề khoảng cách giữa mình và cuộc sống, có nhà văn đấu tranh để nhằm đoạn tuyệt với những tình cảm và kỷ niệm trong quá khứ. Nam Cao truy kích vào thành lũy của chủ nghĩa cá nhân, vương quốc cái tôi của người nghệ sĩ cũ trên vấn đề sự nghiệp và danh vọng cá nhân, những khía cạnh tư tưởng mà người nghệ sĩ phải thường xuyên đề phòng và đấu tranh. Nam Cao chân thành tự bộc lộ mình. Không có trạng thái lên gân hoặc tô điểm hình thức cho dòng suy nghĩ. Nam Cao cũng không đao to búa lớn đến ồn ào mà dễ không tạo được sự tin cậy. Nam Cao chân thành tâm sự. Tác giả không hề giấu giếm những ý nghĩ tiêu cực và con người thật của mình. Không khỏi có lúc nghĩ nhớ thương ủy mị, nhưng quán triệt trong dòng cảm nghĩ là những ý nghĩ đẹp của một tấm lòng trung thực, một tâm hồn chiến sĩ. Chúng ta bắt gặp lại trong nhật ký Ở rừng ít nhiều bóng dáng của con người trí thức tiểu tư sản thời kỳ trước cách mạng của Nam Cao đang tự vượt lên ở trình độ cao hơn. Vẫn những tâm trạng giày vò trong cuộc đấu tranh giữa hai con người tích cực và tiêu cực được bộc lộ ra một cách chân tình
nhưng khác đi là không xót xa, bế tắc. Con người cũ hiện ra thấp thoáng trong mạch cảm nghĩ như một liên hệ, một trăn trở để càng nổi lên những suy nghĩ khoẻ khoắn, tốt đẹp của con người mới. Cuộc đời mới với biết bao nhiêu sự kiện và hình tượng đẹp đẽ là điểm dựa tinh thần luôn thôi thúc nâng đỡ cho tình cảm vượt lên. Kết thúc tập nhật ký là một đêm mưa. Với Nam Cao, mưa vẫn thường gợi đến nỗi buồn nhưng cũng không vì thế mà trang nhật ký đượm buồm. “Đời mình như toàn mưa cả. Mưa vào những dịp quan trọng. Mưa vào những ngày bước ra đi. Mưa! Mưa! Trong cái đêm mưa tầm tã này súng vẫn nổ như thường. Súng không biết có trời mưa. Lòng súng không ỉu xịu bao giò. Ôi súng! Ôi những cây súng thép! Ôi những anh vệ quốc quân! Tôi biết các anh nhiều khi phải nhịn cơm ăn cháo, đứng dưới mưa suốt ngàv, suốt đêm mà đánh giặc. Lòng các anh cũng là lòng súng thép. Mưa có bao giờ làm ỉu xịu một tấm lòng bằng thép đã tôi già. Tôi xấu hổ cho tâm hồn ủy mị của tôi. Vẫn chưa mạnh hẳn ư? Các anh! Các anh chiến sĩ không tên! Các anh hãy dạy tôi biết hy sinh, biết chiến đấu, chiến đấu lặng lẽ, chiến đấu không nghĩ gì đến cái tên của mình, không nghĩ gì cả đến thân mình nữa. Các anh hãy rọi vào lòng tôi ánh nắng rực rỡ trong đôi mắt và cõi lòng của các anh. Lòng tôi vẫn còn u ám lắm. Những đám mây đen xưa cũ vẫn còn lởn vởn. Các anh hãy quét sạch nó hộ tôi. Quét sạch! Để cho tâm hồn quang quẻ và mới hẳn!”
Người trí thức trung thực và giàu nhiệt tình cách mạng ấy đã đến được với Đảng. Vào một buổi sáng mùa đông 1947, trên sườn núi cao Phia - boóc, trong một căn lều ướt đẫm sương, sau một đêm cơ quan di chuyển trước mũi súng tấn công ào ạt của quân giặc vào Việt Bắc, Nam Cao đã được kết nạp vào Đảng. Buổi lễ đơn sơ mà trang nghiêm của hình thức kết nạp tại trận địa. Nam Cao xúc động nghẹn lời, ánh mắt anh nhìn thẳng “Nước mắt anh tràn xuống hai gò má nhô cao nhợt nhạt đương bừng đỏ lên”. Từ đây cuộc đời cũng như tâm hồn nhà văn chiến sĩ ấy đã hoàn toàn thuộc về Đảng.
Luôn đi theo đúng đường lối văn nghệ của Đảng, nhiệt tình gắn bó với phong trào quần chúng và thực tiễn đấu tranh cách mạng,
thành tâm đấu tranh khắc phục những non yếu của bản thân, Nam Cao là một trong số nhà văn đã có những bước chuyển mình rất sớm và triệt để. Con người trí thức tiểu tư sản mềm yếu, ủy mị, thiếu thực tế và chủ quan đã bị đẩy lùi và được thay thế bằng người cán bộ cách mạng gần gũi quần chúng, sắc sảo và vững vàng ngoài cuộc đời cũng như trong tác phẩm.
Những sáng tác của Nam Cao ở thời kỳ đầu kháng chiến nổi bật lên ở sự kết hợp sâu sắc giữa tính hiện thực và tầm tư tưởng sắc sảo.
Truyện ngắn Đôi mắt đã khắc họa được một cách sinh động và tự nhiên hai tính cách, hai kiểu người với hai cách nhìn cuộc sống khác hẳn nhau. Nam Cao biểu dương người trí thức cách mạng với nhân sinh quan tiến bộ đang hòa mình với quần chúng tham gia kháng chiến và phê phán Hoàng, một kiểu trí thức tư sản lạc lõng giữa cuộc kháng chiến với đôi mắt nhìn đời lệch về một phía và đầy sự “chua chát chán nản”. Trên hàng loạt vấn đề từ cuộc kháng chiến, vai trò của lãnh tụ đến đời sống nông thôn và những người nông dân, tất cả đều bộc lộ hai cách suy nghĩ và nhìn nhận khác nhau. Nam Cao đã khéo sử dụng nhiều châm biếm sắc sảo và thú vị. Đôi mắt là sáng tác chân thực tự nhiên nhưng rất sắc bén về quan điểm chính trị. Chiều sâu tư tưởng của tác phẩm bộc lộ qua hàng loạt những chi tiết chân xác và giàu tính nghệ thuật. Nội dung tác phẩm không gò lại trên những đối thoại và những thuyết lý khô khan mà tỏa sâu trong nhiều hình ảnh hiện thực tiêu biểu.
Đôi mắt đánh dấu sự chuyển biến của một cách nhìn, đồng thời xác lập những tiêu chuẩn cách mạng trong việc đánh giá cuộc sống và con người. Đôi mắt đằm thắm tình yêu cuộc đời mới của người nghệ sĩ cho đến hôm nay vẫn còn ánh lên những ánh sáng mới mẻ khi tiếp nhận được chân lý cách mạng.
Cũng qua Đôi mắt và “Ở rừng”, Nam Cao đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa người nghệ sĩ và quần chúng cách mạng, một vấn đề lớn được đặt ra trong hướng xây dựng một nền văn nghệ của nông dân. Nam Cao đã nhận thức và miêu tả được nhiều phẩm chất mới
mẻ của người nông dân quật khởi phát triển trong thời kỳ cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp, trong công việc cứu nước giữ làng cũng như trong những hoạt động chiếm lĩnh văn hóa mới. Nam Cao thực sự thấy được “sức mạnh quần chúng”, điều mà trước kia anh vẫn nghi ngờ. Nam Cao cũng đã có những trang viết rất đẹp về đồng bào dân tộc ở vùng cao. Vừa thoát khỏi cảnh áp bức bóc lột của chế độ cũ, người dân vùng cao còn chịu đựng nhiều cảnh sống khó khăn thiếu thôn, thậm chí còn cả những phong tục tập quán lạc hậu, nhưng Nam Cao thấy họ là những người rất trung thực và tấm lòng với cách mạng thật đằm thắm. Nam Cao luôn thấy ở đồng bào vùng cao nhiều bài học và sức mạnh che chở trong những hoàn cảnh đấu tranh gay go: “Cuộc kháng chiến rồi đây có thể đẩy chúng tôi vào những hoàn cảnh khó khăn hơn hiện nay gấp nhiều lần. Nhưng chúng tôi không nản sợ một chút nào. Chúng tôi tin ở sức chịu đựng của chúng tôi và sự giúp đỡ của đồng bào. Khi mà ở chốn thâm sơn cùng cốc này vẫn còn những người Mán sống nghèo khổ và lẻ tẻ tha thiết với cách mạng và độc lập tự do thì chúng tôi có quyền vững lòng và tin tưởng” (“Ở rừng”).
Trong những năm kháng chiến chống Pháp, sống giữa rừng và tấm lòng của đồng bào vùng cao, Nam Cao yêu quý cuộc đời hiện tại và càng phấn chấn trong những cảm hứng đẹp với tương lai. Qua những bài ký trên những con đường Việt Bắc và từ ngược về xuôi Nam Cao nói về núi rừng và những vùng cao với tất cả tình cảm gắn bó, trân trọng. Ở những nơi rừng sâu núi cao còn vắng vẻ hôm nay, Nam Cao đã thấp thoáng nhìn thấy những cảnh tương lai: “những nhà máy sau này sẽ mọc lên rất nhiều ở trên này, bên cạnh những thác nước dùng làm động lực. Những đồn điền chăn nuôi lớn sẽ lập nên cùng với các nông trường. Đèn điện sẽ sáng trưng. Bệnh sốt rét sẽ hết chỗ nương thân. Hà Nội sẽ lên đây nghỉ hè. Những thanh niên nam nữ Thổ, Mán, Mèo về học trưòng đại học ở thủ đô không còn phân biệt miền ngược và miền xuôi, cũng như đã hết sự ngăn cách giữa thôn quê và thành thị. Những ngày kiến thiết sau này sẽ vui biết mấy”. Những mơ ước đẹp đẽ hôm nay đang trở thành sự
thực. Gần ba mươi năm trước, trên núi rừng ở Việt Bắc hẻo lánh, giữa lúc cuộc kháng chiến đang ở giai đoạn khó khăn của thời kỳ đầu chống Pháp, những suy nghĩ và ước mơ của Nam Cao thật đáng quý. Nó chứng tỏ sự thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa lạc quan cách mạng. Đó không phải là những ước đoán có tính chất ngẫu nhiên hoặc mơ ước xa xôi. Dòng suy nghĩ trên của Nam Cao nằm chung trong cách nhìn của tác giả về cuộc kháng chiến và nhiều vấn đề trong đời sống hiện thực. Nam Cao tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của cuộc kháng chiến. Nam Cao cảm thấy rõ rệt và tiếp nhận được sức mạnh của quần chúng trên nhiều trận tuyến đấu tranh. Anh bước đầu nhìn thấy hiện thực trong quá trình vận động và phát triển cách mạng. Anh biết phát hiện ra sức mạnh tiềm tàng bên trong mỗi hiện tượng giống như những mầm sống dư sức ở trong lòng cái vỏ chết chóc này, những mầm sống căng và cực mạnh như một tấm thân mười tám tuổi, nó đang lớn lên rất nhanh nó phù phù chống lại cái chết, cố bửa toang, nó cố trồi ra ánh sáng không khí và khoảng rộng để lớn mạnh, lớn nhanh gấp trăm nghìn lần. Không cái gì bóp ngạt được cái sức mạnh của tuổi trẻ đang lớn ấy”. Nam Cao đã tìm thấy sức mạnh ấy ở làng nghèo khổ trước đây của mình. Giờ đây, giáp mặt với kẻ thù, làng vẫn đứng vững trước bao tư tưởng khó khăn (“Bốn cây số cách một đồn địch”). Anh hứa hẹn với nhân vật cũng như người đọc một niềm vui ấm áp ngay khi phải nói đến những cảnh chia tay. Truyện ngắn “Đợi chờ” gợi nên nỗi buồn của tình cảnh vợ chồng xa cách. Nhưng họ rất yên tâm vì cùng thống nhất một suy nghĩ chung là “chưa đuổi được cổ thằng Tây ra khỏi đất này thì hãy khoan nói đến hạnh phúc”, họ cùng gắn bó ở một hẹn hò “Kháng chiến thành công, nếu còn sống về làng này tìm nhau nhé”. Chị Liễu sống trong cảnh đợi chờ nhưng không bi quan tuyệt vọng. Trong thắng lợi chung của phong trào, chị vẫn mong ngày đoàn tụ sớm đến; ý nghĩ và hình ảnh đẹp đẽ của người chồng trở về vẫn chập chờn mỗi đêm đi vào giấc ngủ.
Rõ ràng những trang viết của Nam Cao đã đem lại cho văn xuôi nhũng năm đầu kháng chiến nhiều phẩm chất và giá trị mới mẻ.
Nam Cao đã cố gắng dứt bỏ được con người cũ với nhiều dao động tiểu tư sản. Không có những cách nhìn ngắm của người đứng bên ngoài, hoặc rơi vào xu hướng hình thức chủ nghĩa. Nam Cao đã phấn đấu để có được nhận thức mới theo quan điểm của giai cấp vô sản. Sáng tác của anh bộc lộ quan điểm thẩm mỹ cách mạng trong khi miêu tả vẻ đẹp của cuộc sống và con người. Anh có ý thức tự răn mình “luôn luôn giữ giác quan mới mẻ và sắc bén”. Anh tha thiết khẳng định và ngợi ca cuộc đời mới. Anh tìm tòi phát hiện và trân trọng những nhân tố mới xuất hiện và có những cảm hứng nồng nàn, lạc quan với tương lai. Nam Cao không dừng lại ở sự sao chép hiện thực, mà miêu tả hiện thực trong sự vận động cách mạng. Những truyện ký của Nam Cao ở thời kỳ đầu kháng chiến có một vị trí quan trọng và có thể xem là những sáng tác đầu tiên trong văn xuôi cách mạng vận dụng khá thành công phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa. Mặc dù ở những sáng tác được chú ý, Nam Cao vẫn xem mình đang ở thời kỳ chuẩn bị. Nhiều dự kiến cho tương lai. Anh hăm hở nhiệt tình đi vào cuộc sống, tìm hiểu, ghi chép, tích lũy tư liệu. Anh vẫn luôn lặng lẽ chuẩn bị cho cuốn tiểu thuyết của mình về người trí thức đi theo cách mạng, về làng quê quật khởi và đồng bằng chiến đấu. Mùa đông 1951, Nam Cao đã ngã xuống trước mũi súng kẻ thù trong chuyến đi công tác vào vùng địch hậu. “Nam Cao đã chết trên cuốn tiểu thuyết lớn của đời mình. Người ấy, tài ấy đương căng đầy sức lực. Nếu anh còn sống, chắc chắn những mong muốn của anh sẽ thành sự thật rực rỡ trên một tầm xa, rất xa”.
Đòi văn Nam Cao không dài. Trên mười năm sáng tác ở cả hai thời kỳ trước và sau cách mạng, Nam Cao đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Nam Cao cũng nêu một tấm gương sáng về tâm hồn trung thực và tinh thần cách mạng tiến công của một nhà văn chiến sĩ.
3-1975
Trích sách Khảo luận văn chương, Nxb Khoa học xã hội, H.,1997
NHỚ NAM CAO VÀ NHỮNG BÀI HỌC CỦA ÔNG (NGUYỄN ĐĂNG MẠNH)
Tôi cho rằng muốn biết một nhà văn có vai trò như thế nào trong lịch sử văn học, nên trả lời câu hỏi này: Giả sử không có cây bút ấy, thì bức tranh rộng lớn của văn học phản ánh xã hội, đất nước và tâm hồn con người qua các thời đại, có bị khuyết đi một chỗ nào đáng kể không? Nghĩa là đối với nhiệm vụ của nền văn học dân tộc, đấy có phải là một cây bút cần thiết không?
Câu hỏi đó đặt ra cho Nam Cao quả có phần nghiệt ngã, bởi vì khi ông ra đời - với tư cách là nhà văn - thì trong xu hướng văn học hiện thực phê phán thời kỳ 1930-1945, đã có biết bao cây bút nổi danh. Viết về người nông dân ư? Thì đã có chị Dậu của Ngô Tất Tố, anh Pha của Nguyễn Công Hoan, Thị Mịch của Vũ Trọng Phụng đấy rồi. Viết về người trí thức tiểu tư sản ư? Thì văn học hợp pháp hồi ấy là gì, nếu không phải là văn học của người tiểu tư sản viết về những “chàng” và “nàng” tiểu tư sản? Nam Cao là người đến muộn. Nhưng có lẽ chính vì thế mà ông lại càng có dịp phát huy mạnh mẽ bản sắc độc đáo của mình chăng? Tôi nghĩ bài học đầu tiên của Nam Cao là bài học của một cây bút luôn luôn tìm tòi, khám phá và sáng tạo. Tuyên ngôn nghệ thuật của ông là: “Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có…” (Đời thừa). Sau cách mạng tháng Tám, Nam Cao viết truyện Đôi mắt. Ông muốn nói, nhà văn phải có đôi mắt như thế nào để nhìn đúng được bản chất cao cả của nông dân mình, đặc biệt là nông dân lao động. Thực tiễn cách mạng của nông dân đã dạy ông biết đặt vấn đề một cách chính xác và tự giác như thế. Nhưng đọc kỹ những tác phẩm của ông, ta thấy, vấn đề “đôi mắt”, vấn đề phải nhìn nhận và đánh giá đúng bản chất của người lao động, vốn là một điều ông băn khoăn day dứt từ lâu. Nước mắt là vấn đề “đôi mắt”. “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, cũng là vấn đề “đôi mắt”: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu
ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn là những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương…” Có thể nói vấn đề “đôi mắt” là đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao: trong xã hội cũ, ông đi tìm nhân phẩm và tình thương yêu chân thực ở những người lao động cùng khổ, bị giày xéo và khinh bỉ. Khi “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố và “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan ra đời, tôi chắc ít ai nghĩ rằng thân phận của người nông dân dưới ách đế quốc phong kiến lại có
thể có một nỗi khổ nào hơn những nỗi khổ của chị Dậu, anh Pha. Nhưng khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao thì người ta liền nhận ra rằng, đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cùng ở một nước thuộc địa: bị giày đạp, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán chó, bán con, bán sữa…, nhưng chị còn được gọi là người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình đi để trở thành con qủy dữ của làng Vũ Đại. Đi vào cái chủ đề phức tạp này, ngòi bút của Nam Cao quả có lúc ngả nghiêng, chao đảo, nhưng cuối cùng ông đã đứng trụ được một cách vẻ vang trên lập trường của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo: ông tin rằng trong huyết quản của Chí Phèo vẫn chưa cạn hết dòng máu của người nông dân lao động, nên đã cho y xách dao đến nhà Bá Kiến, không phải để đòi tiền, đòi rượu, mà để đòi lại bộ mặt và tâm hồn của mình đã bị phá phách. Thạch Sanh xưa kia từ dưới hang sâu đã trở lại cõi đời để lấy công chúa Quỳnh Nga, Chí Phèo chỉ ước ao trở lại làm anh dân cày bình thường với mối tình Thị Nở. Vậy mà không thể được! Một tính cách thật độc đáo, vừa là một gã mất trí, công cụ nguy hiểm trong tay bọn thống trị, vừa là người nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng sủa nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có ý nghĩa khái quát sâu sắc vượt ra ngoài tầm khôn ngoan lọc lõi của Bá Kiến: “Ai cho tao lương thiện! Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này?” Một nhân vật như thế, chỉ có thể là của Nam Cao.
Đã làm văn, viết truyện, ai chả muốn hấp dẫn người đọc? Không có công chúng, làm gì có văn chương? Nam Cao cũng tạo được một sự hấp dẫn riêng cho mình.
Trước hết đó là sự hấp dẫn của những tư tưởng, những ý nghĩ của ông. Đọc Nam Cao, thấy ông hay triết lý, thích khái quát, dĩ nhiên sức hấp dẫn không thể có được nếu ông chỉ lắp lại những nguyên lý chung, quen nhàm. Nói cho đúng, những lý lẽ ông nói ra không phải bao giờ cũng hay ho, chính xác cả, nhưng quả là những tìm tòi, những phát hiện của riêng ông về cuộc sống, nghĩa là nó mang đẫm mồ hôi của tâm não ông. Cho nên triết lý mà không khô khan, triết luận mà như mở ra những chân trời thơ bát ngát. Nhiều tác phẩm của ông vì thế thường có hai bình diện nội dung: Một là, nội dung xã hội trực tiếp gắn liền với những tình tiết, những nhân vật cụ thể. Hai là, những suy nghĩ có tầm khái quát rộng lớn vượt xa ra ngoài những điều ông thuật kể. Vì thế, ở Nam Cao có hiện tượng đề tài hẹp mà tư tưởng rộng, chủ đề lớn. Những mệnh đề triết lý mang đầy tâm huyết của ông nhiều khi đột ngột chuyển hướng thưởng thức của người đọc từ tầng ý nghĩa này sang lớp ý nghĩa khác, từ bút pháp nọ sang bút pháp kia, một cuộc nhảy vọt đầy thú vị từ môi trường của đời sống chật hẹp tầm thường sang thế giới bao la của những vấn đề trọng đại liên quan đến sự sống còn của nhân loại. Có người cho rằng, một trong những đặc sắc của ngòi bút Nam Cao là đã mạnh dạn đưa cái “hàng ngày” vào văn học, nghĩa là chẳng cần sự kiện gì quan trọng, chẳng cần kịch tính gì lớn lao, tác phẩm chỉ dệt toàn bằng những chi tiết vặt vãnh, những xung đột vô nghĩa giữa những con người bé nhỏ tội nghiệp nhưng tôi nghĩ, viết được như thế thực là khó, nếu như vẫn muốn trung thành với chủ nghĩa hiện thực. Phải là một bản lĩnh kiểu Sêkhôp, nghĩa là phải xuất phát từ những tư tưởng sâu, những tình cảm lớn, từ cõi thơ cao khiết mà quan sát và mô tả cái “văn xuôi” phàm tục của cuộc đời.
Sức hấp dẫn của Nam Cao còn ở những trang phân tích tâm lý sắc sảo của ông. Nam Cao chú ý nhiều đến nội tâm hơn là ngoại hình
nhân vật (trừ những trường hợp có dụng ý đặc biệt) dường như mọi đặc sắc nghệ thuật của ông đều gắn với sở trường ấy. Trong Chí Phèo, có những đoạn rất thú vị diễn tả ánh trăng, ánh trăng trên vườn chuối, ánh trăng in cái bóng xệch xạc, méo mó của Chí Phèo trên đường làng… Đó là nghệ thuật tả tâm lý chứ đâu phải là vẽ cảnh thiên nhiên. Ở truyện này, ông ghép nên những cặp nhân vật tâm sự (Chí Phèo - Thị Nở, Lang Rận - mụ Lợi…) ở truyện kia, ông tạo ra những cặp nhân vật gây sự (vợ chồng anh tiểu tư sản chẳng hạn). Xét về một phương diện nào đấy, đó cũng là cách xếp đặt tình huống độc đáo để bộc lộ những tâm tư sâu kín của các vai truyện chứ sao. Chính vì rất thông thuộc tâm lý con người nên Nam Cao có một lối kể truyện rất biến hoá, nhập thẳng vào đời sống bên trong của nhân vật mà dắt dẫn mạch tự sự theo dòng độc thoại nội tâm. Lối kể truyện theo quan điểm như thế tạo ra ở nhiều tác phẩm của Nam Cao, một thứ kết cấu bề ngoài có vẻ rất phóng túng, tuỳ tiện mà thực ra thì hết sức chặt chẽ như không thể nào phá vỡ nổi (“Một đám cười”, Từ ngày mẹ chết…). Tài hoa của Nam Cao càng được phát huy đầy đủ khi ông đi vào những quá trình tâm lý phức tạp, những tính cách lưỡng hoá, những trạng thái dở say, dở tỉnh, dở khóc, dở cười… Tiểu thuyết “Sống mòn” nếu không có cái sâu sắc, phong phú của ngòi bút phân tích tâm lý thì làm sao có thể thu hút được sự chăm chú của người đọc trên hàng trăm trang sách viết toàn về những truyện “chẳng có gì cả” chung quanh một bữa ăn, một căn nhà trọ, một truyện ghen tuông vớ vẩn… của mấy anh chị tiểu tư sản nghèo?
Nam Cao là người hay băn khoăn về vấn đề nhân phẩm, về thái độ khinh trọng đối với con người. Ông thường dễ bất bình trước tình trạng con người bị lăng nhục chỉ vì bị đày đọa vào cảnh nghèo đói
cùng đường. Nhiều tác phẩm xuất sắc của ông đã trực diện đặt ra vấn đề này và ông quyết đứng ra minh oan, chiêu thuyết cho những con người bị miệt thị một cách bất công (“Chí Phèo”, Một bữa no, Lang Rận…). Có thể coi đây là một nét hấp dẫn của phong cách Nam Cao. Nhưng để giải quyết chủ để này, tác giả thường phải đặt nhân
"""