" Mưu Lược Gia Tinh Tuyển - Sài Vũ Cầu PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mưu Lược Gia Tinh Tuyển - Sài Vũ Cầu PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Mục lục 1. HOÀNG ĐẾ 2. ĐƯỜNG NGHIÊU 3. NGU THUẤN 4. HẠ VŨ 5. THIẾU KHANG 6. THƯƠNG THANG 7. Y DOÃN 8. Y TRẮC 9. CHU VĂN VƯƠNG 10. CHU VŨ VƯƠNG 11. CHU CÔNG 12. TÁN NGHI SINH 13. TRỊNH TRANG CÔNG 14. QUẢN TRỌNG 15. TỀ HOÀN CÔNG 16. TẤN VĂN CÔNG 17. TẦN MỤC CÔNG 18. SỞ TRANG VƯƠNG 19. TỬ SẢN 20. LÃO TỬ 21. KHỔNG TỬ 22. HẠP LƯ 23. CÂU TIỄN 24. MẶC TỬ 25. TRÂU KỴ 26. THƯƠNG ƯỞNG 27. TẦN HIẾU CÔNG 28. MẠNH TỬ 29. HUỆ THI 30. TRANG TỬ 31. TUÂN TỬ 32. HÀN PHI 33. TẦN THỦY HOÀNG 34. LÝ TƯ 35. MẠO ĐỐN 36. TRẦN THẮNG 37. LƯU BANG 38. TIÊU HÀ 39. TRẦN BÌNH 40. LÂU KÍNH 41. TRIỀU THỐ 42. CHỦ PHỤ YỂN 43. LƯU TRIỆT 44. TIÊU VỌNG CHI 45. KHUÔNG HOÀNH 46. CHÂU BÁC 47. LƯU TÚ 48. TÀO THÁO 49. LƯU BỊ 50. TÔN QUYỀN 51. DƯƠNG HỘ 52. TƯ MÃ VIÊM 53. VƯƠNG ĐẠO 54. MỘ DUNG KHÁC 55. TẠ AN 56. VƯƠNG MÃNH 57. PHÙ KIÊN 58. THÔI HẠO 59. TIÊU ĐẠO THÀNH 60. CAO HOAN 61. VŨ VĂN THÁI 62. DƯƠNG KIÊN 63. VŨ VĂN UNG 64. CAO CẢNH 65. LÝ UYÊN 66. PHÒNG HUYỀN LINH 67. NGỤY TRƯNG 68. ĐỖ NHƯ HỐI 69. TRƯỞNG TÔN VÔ KỴ 70. LÝ THẾ DÂN 71. HOÀNG HẬU TRƯỞNG TÔN 72. MÃ CHU 73. VŨ TẮC THIÊN 74. ĐỊCH NHÂN KIỆT 75. TỐNG CẢNH 76. LÝ TIẾT 77. ĐỖ HỰU 78. LỤC CHÍ 79. BÙI ĐỘ 80. SÀI VINH 81. TRIỆU KHUÔNG DẬN 82. TRIỆU TẤN 83. HƯỚNG MẪN TRUNG 84. TIÊU XƯỚC 85. KHẤU CHUẨN 86. PHẠM TRỌNG YÊM 87. BAO CHỬNG 88. TƯ MÃ QUANG 89. VƯƠNG AN THẠCH 90. VĂN THIÊN TƯỜNG 91. DA LUẬT SỞ TÀI 92. HỐT TẤT LIỆT 93. CHU NGUYÊN CHƯƠNG 94. CHU ĐỆ 95. DƯƠNG SỸ KỲ 96. GIẢI TẤN 97. HẢI THỤY 98. TRƯƠNG CƯ CHÍNH 99. HOÀNG THÁI CỰC 100. PHẠM VĂN TRÌNH 101. DIÊU KHỞI THÁNH 102. HUYỀN DIỆP 103. NGẠC NHĨ THÁI 104. DỊCH HÂN 105. HỒNG TÚ TOÀN CHÍNH TRỊ MƯU LƯỢC GIA Những nhà mưu lược chính trị, tuy thường thường không giống những nhà quân sự, dũng cảm đứng đầu ba quân, uy vang bốn biển, cũng không luôn luôn giống các nhà ngoại giao thạo nói năng tài biện bạch. Thế nhưng các nhà mưu lược chính trị thực sự đã là những nhà mưu lược đứng ở trên tầng cao nhất, vượt lên trên các nhà mưu lược, át hết những nhà mưu lược về quân sự, kinh tế, ngoại giao v.v... Tuy vậy rất nhiều các nhà mưu lược chính trị tập trung tất cả vào trong thân mình hết thảy mọi mưu lược về chính trị, quân sự, ngoại giao, thống lĩnh, chế ngự, nhưng điều kiện quan trọng nhất trong sự thành công của họ, trước tiên là đạt lợi ích từ những mưu lược chính trị cao siêu sáng suốt của họ. Những nhà mưu lược chính trị được thu thập trong cuốn sách này hoặc có lý luận tư tưởng hệ thống, hoặc có chủ trương chính trị độc đáo, hoặc có kỳ mưu diệu sách lập quốc an bang, hoặc có những phương thuốc tài tình thiên cổ, cứu khốn phù nguy, trong lịch sử phát triển xã hội đã có những tác dụng nhất định, đã có những cống hiến lớn lao cho sự phát triển tiến bộ của xã hội. Lịch sử mấy ngàn năm của xã hội đã trải qua biết bao nhiêu triều đại thay thế nhau, sự hưng suy của đất nước, sự phân hợp của dân tộc, sự tiêu diệt trưởng thành của các loại thế lực chính trị, đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị, đấu tranh quyền lực, đan chéo chằng chịt, biểu hiện nhiều vẻ, sâu sắc lạ kỳ, phức tạp và kịch liệt không sao kể siết. Mỗi bước tiến lên của lịch sử, đều có vô vàn mâu thuẫn xã hội đặc biệt độc đáo, đòi hỏi con người phải suy nghĩ, thăm dò và giải quyết. Chính là do những chính trị mưu lược gia dùng tài hoa trí tuệ mẫn cảm siêu quần về chính trị xuất chúng của họ, đứng ở hàng đầu trong sự phát triển lịch sử, nhìn xa thấy rộng, trong những hoàn cảnh lịch sử lúc đó đã đề xuất hoặc sử dụng những tuyển chọn tối ưu. Đại Vũ đúc chín đỉnh, trở thành tượng trưng cho quyền uy của Thiên Tử, đã phát huy được tác dụng cực kỳ to lớn cho sự ngưng tụ của dân tộc Hoa Hạ, trong biết bao nhiêu đời người. Quản Trọng đặt ra chiến lược tổng thể, khiến cho Tề Hoàn Công có thể “Cửu hợp chư hầu, nhất khuông thiên hạ”, hơn thế đã gây nên những ảnh hưởng sâu sắc đối với đời sau. Thương Ưởng thực hành cải cách biến pháp, đã khiến cho Tần Thủy Hoàng bắt đầu cường thịnh cũng đã mở ra bước ban đầu cho những con người đề xướng đổi mới cho các triều đại. Hùng thao đại lược của Tần Thủy Hoàng càn quét lục hợp, kiêm tính liệt quốc, thích ứng được yêu cầu phát triển kinh tế và văn hóa phong kiến đã sáng lập ra đại nhất thống của Trung Quốc. Học thuyết nhân nghĩa vi chính của Mạnh Tử, tư tưởng vô vi nhi trị của Lão Trang, lý luận kiêm dùng thế pháp thuật của Hàn Phi, trong những thời kỳ khác nhau của xã hội Trung Quốc, đều đã từng trở thành vũ khí tinh thần của những người làm chính trị. Những nhà chính trị của các thời kỳ đều đã từng đạo diễn những màn kịch sống có thanh có sắc ở trên võ đài của mình. Ngày nay xem lại những bài viết thuật lại những hành vi mưu lược của họ vẫn khiến cho loài người không ngớt lời ca tụng. Mỗi một nhà mưu lược chính trị được kể trong sách này đều là một ngôi sao sáng ngời về mặt chính trị, lấp lánh chói ngời ánh hào quang trí tuệ, từ trong những ví dụ mưu lược điển hình qua sự từng trải và sáng tạo của họ đều có thể thu được những bài học gợi ý về nhiều mặt. Vô luận là những nhà lãnh đạo cấp cao an bang trị quốc hay là những nhà công tác chính trị nghề nghiệp; vô luận là những người già am tường sâu sắc mưu lược chính trị, hay là những thanh niên trải đời chưa sâu, tìm hiểu được những thực tiễn chói sáng của các nhà mưu lược chính trị qua các thời đại, mổ xẻ phân tích những ví dụ mưu lược chính trị điển hình của họ, đều sẽ đem lại những lợi ích lớn lao vô cùng đối với việc thích ứng với xã hội hiện đại ngày càng nhiều biến hóa phức tạp, trong việc dũng cảm đứng ở đầu sóng ngọn gió, trong chính trường bão tố đương thời. 1. HOÀNG ĐẾ THỦY TỔ HOA HẠ, DÒNG HỌ TRÍ MƯU Hoàng Đế trong truyền thuyết là một thủ lĩnh bộ lạc thời viễn cổ Trung Quốc, là tổ tiên của dân tộc Trung Hoa. Người có năng lực thống soái quân sự cao siêu và phương lược thống nhất ngự trị phi phàm, có thể nói là trí dũng song toàn, văn võ kiêm bị, thậm chí có thể gọi là vị tổ đầu tiên khai núi mở đường của các nhà mưu lược. Hoàng Đế vốn mang dòng họ Công Tôn, bởi cư trú ở đồi Hiên Viên nên đặt hiệu là Hiên Viên Thị. Lại bởi thuộc bộ tộc Hữu Hùng [1] cho nên còn có hiệu là Hữu Hùng Thị. Về sau người đã trở thành lãnh tụ chung của liên minh các bộ tộc Trung Nguyên. Truyền thuyết nói rằng khi người tại vị có rồng vàng như giun đất xuất hiện, cho nên có “phẩm đức tốt lành như đất” (“Sử ký - Ngũ Đế bản kỷ”), mà sắc của đất vốn màu vàng, cho nên “Đế Vương Thế Kỷ” nói: “Hoàng Đế sinh ở Thọ Khưu, lớn lên ở Cơ Thủy, nên lấy đó làm họ. Sống ở Đồi Hiên Viên, nên lấy đó làm tên, lại lấy đó làm hiệu”. Rất nhiều điển tịch đều cho rằng Hoàng Đế họ Cơ. “Quốc Ngữ Tấn Ngũ Tú” nói: “Ngày xưa Thiếu Điển lấy Hữu Kiều Thị sinh ra Hoàng Đế và Viêm Đế”. Truyền thuyết thần thoại nói phi tử Phụ Bảo của quốc quân Thiếu Điển cầu nguyện ở dã ngoại, nhìn thấy sấm chớp bao vòng quanh sao Bắc Đẩu, có linh cảm rồi mang thai, hai mươi bốn tháng sau mới sinh ra Hoàng Đế ở Thọ Khưu (nay là vùng Đông Bắc huyện Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông). Hoàng Đế vừa sinh ra đã có tướng mạo xuất chúng, đầu trán như thái dương, trên hai hàng lông mày như xương rồng. Chỉ mấy tháng sau đã biết nói chuyện. Thời thơ ấu rất thông minh trí tuệ, sau khi lớn lên hiểu biết rất rộng rãi, phân biệt phải trái rất tài tình. Ở thời đại Hoàng Đế giữa các bộ tộc thường xảy ra đánh nhau hỗn loạn, tộc Thần Nông Thị đã suy bại, Hoàng Đế liền thao luyện quân sĩ, đánh dẹp các thị tộc không triều cống. Trong việc cai trị nội bộ, Hoàng Đế thi hành đức chính, chỉnh đốn quân sự, phát triển sản xuất, vỗ về dân chúng. Quân đội của Hoàng Đế ba lần đại chiến ở Bản Tuyền (nay là phía Đông huyện Trác Lộc, Hà Bắc), cuối cùng đã giành được thắng lợi. Đại để vào khoảng 4600 năm trước, Suy Vưu đã phát động cuộc loạn chiến (tức là quốc quân Cửu Lê trong truyền thuyết), Hoàng Đế đã điều động trưng tập quân đội của các bộ lạc, triển khai cuộc chiến tranh chống lại Suy Vưu. Hoàng Đế biết sâu sắc rằng binh khí của bộ tộc Suy Vưu tinh lương hơn so với các bộ tộc phương Bắc, không dễ gì đánh phá được chúng. Thế nhưng chúng từ phương Nam tới không quen thuộc với khí hậu địa hình phương Bắc, cho nên đã quyết định trước tiên lùi về một bước, tìm cơ hội rồi sẽ quyết chiến với chúng sau. Trước hết dẫn dắt chúng tới một khu vực xa lạ đế tăng thêm khó khăn trong sinh hoạt và hành động của chúng, sau đó lợi dụng lúc sức chiến đấu của chúng đã bị suy yếu, sẽ nhân cơ hội đó tiêu diệt chúng. Căn cứ vào sự suy nghĩ như vậy. Trước tiên Hoàng Đế dùng chiến lược rút lui, sau khi hai bên giao chiến ban đầu đã chủ động rút lui về phương Bắc. Suy Vưu và quân đội của chúng cứ theo dấu vết mà đánh đuổi. Sau khi tiến sâu vào bình nguyên Hà Bắc với đồng rậm rừng sâu, quân đội Suy Vưu do những nguyên nhân hoàn cảnh mới lạ, khí hậu không hợp, ngôn ngữ ngăn cách, địch tình không rõ, lương thực thiếu thốn v.v... hành động ngày một khó khăn, sĩ khí ngày càng giảm sút. Tới khu vực phía Bắc Hà Bắc, trải qua chặng đường dài gian truân vất vả, quân đội đã mệt mỏi vô cùng, sức chiến đấu đã giảm sút to lớn. Trái ngược lại về phía Hoàng Đế đã chiếm được ưu thế thiên thời địa lợi, thực lực tăng trưởng tương đối mạnh. Hoàng Đế đã dẫn quân đội tới khu rừng rậm Trác Lộc (nay là phía Đông Nam Trác Lộc tỉnh Hà Bắc, còn gọi là núi Trác Lộc), mượn sự hỗ trợ của thời tiết cuồng phong cuộn nổi, bụi cát mù trời, nhân lúc quân đội Suy Vưu bàng hoàng hốt hoảng như gặp phải đại quân địch, dùng phương hướng chỉ thị của xe chỉ nam, dẫn quân phản kích vào bọn Suy Vưu, chỉ một trận là đánh tan quân Suy Vưu. Cuộc chiến tranh này, bộ tộc Lê Miêu mà Suy Vưu soái lĩnh, binh lực vũ khí đều chiếm ưu thế hơn các bộ tộc mà Hoàng Đế soái lĩnh, nhưng kết quả chúng đã đại bại, nguyên nhân quan trọng chính là sự chỉ đạo chính xác về mặt chiến lược, đã biểu hiện trình độ mưu lược rất cao. Hoàng Đế bên trong tu luyện văn đức, gặp núi mở đường, đã huấn luyện được một đội quân có sức chiến đấu rất mạnh. Mỗi khi tới một nơi nào ngài đều dẫn quân lính xây đắp doanh luỹ, phòng ngừa sự tấn công của kẻ địch. Hoàng Đế đã nghiên cứu khí tượng địa lý, dạy dỗ dân chúng trồng trọt ngũ cốc, vỗ về an ủi nhân dân các nơi, quy hoạch đất đai. Ngài lại biết cách sắp đặt các quan chức, cai trị các bộ lạc, thuận ứng theo các quy luật tự nhiên. Bản thân Hoàng Đế tự mình luôn luôn không ngừng quan sát suy nghĩ, lắng nghe các loại kiến giải, hơn thế đã đích thân vận dụng thi hành. Bộ lạc ở các bộ đều nhất trí tôn thờ Hoàng Đế lên làm Thiên Tử, thay thế cho Thần Nông Thị. Về sau Hoàng Đế lại dẫn quân lính đi đánh dẹp các bộ lạc không chịu quy thuận, khiến cho thiên hạ đều quy phục. Hoàng Đế là tổ tiên của dân tộc Trung Hoa, về phương diện cai trị các bộ lạc người đều biểu hiện ra tài hoa và trí tuệ rất cao siêu. Lẽ dĩ nhiên, thời đại của Hoàng Đế, cuối cùng vẫn là thời kỳ tuổi thơ của dân tộc Trung Hoa, quần thể tổ thành nhân loại, cũng vẫn chỉ là đơn vị của các bộ lạc thị tộc, nội dung đời sống xã hội cũng không phức tạp như sau này. Do đó, cho dù các vị thủ lĩnh bộ lạc giống như Hoàng Đế, tư duy mưu lược của ngài cũng không được hoàn thiện như các nhà mưu lược chính trị, quân sự sau này. Đây là điều không thể đòi hỏi quá khắt khe ở tổ tiên của chúng ta được. 2. ĐƯỜNG NGHIÊU NHÂN NHƯ TRỜI, TRÍ NHƯ THẦN Nghiêu, truyền thuyết nói là do Sở Nữ Khánh Đô Trần Phong Thị phi tử thứ ba của Đế Khốc Cao Tân sinh ra, tên gọi là Phóng Huân, hiệu Đào Đường Thị, còn gọi là Y Kỳ Thị. Ngài là một vị đế vương hiền minh thời đại viễn cổ trong truyền thuyết. “Sử ký” nói ngài nhân ái như trời, trí tuệ như thần. Ngài có phẩm đức cao thượng, đoàn kết được cửu tộc, thiên hạ hòa thuận yên vui. Những biểu hiện trên phương diện mưu lược của Đế Nghiêu có mấy mặt dưới đây: Về mặt dùng người giao việc căn cứ vào hiền tài. Vào thời kỳ cuối công xã thị tộc phụ hệ trong xã hội nguyên thủy, dựa theo truyền thống chế độ dân chủ quân sự, thủ lĩnh quân sự tối cao của bộ lạc liên minh, cần phải thông qua những nghi thức nhất định, do thủ lĩnh của đông đảo bộ lạc cùng đề cử và thừa nhận, mới có thể được xác định. Đây chính là chế độ nhường ngôi trong truyền thuyết cổ đại. Nghiêu đã có thể nhường vị trí của mình cho người hiền tài kế nhiệm, đã nhiều lần trưng cầu ý kiến của lãnh tụ các bộ lạc và các đại thần. Có một lần ngài hỏi ai có thể kế thừa ngài cai trị thiên hạ. Các quan đại thần đều nói con cả của ngài là Đan Châu thông minh hiểu rộng. Nghiêu nói: - Tư tưởng đạo đức không tốt, thích cãi lộn với người! - Ngài tỏ ra không đồng ý. Nghiêu lại hỏi: - Còn có người nào có thể? Hoan Đâu nói: - Cộng Công tập hợp được đông đảo quần chúng rộng rãi, mở rộng được các ngành nghề, có thể dùng được. Nghiêu nói: - Cộng Công ư, con người này nói giỏi, nhưng làm việc lại không có tài năng. Bề ngoài tỏ vẻ cung kính, nội tâm kiêu ngạo phóng túng, đối với bề trên bất kính, không thể dùng được. Về sau Hoan Đâu còn kiên trì để cho Cộng Công quản lý các công trình kiến trúc. Quả nhiên Cộng Công đã kiêu ngạo phóng túng tàn ác. Nghiêu lại hỏi ai có thể trị nạn hồng thủy. Mọi người đều nói Cổn có thể làm được. Cổn là cha đẻ của Đại Vũ. Nghiêu nói: - Cổn vi phạm, chống lại sự giáo hóa, huỷ diệt dòng họ, không thể dùng được. Cả bốn vị thần của Nghiêu đều nói Cổn có tài năng xuất chúng, cứ để ông thử làm xem, không đạt sẽ nói sau. Trong tình huống như vậy, Nghiêu mới đồng ý để cho Cổn đi trị thủy. Trị thủy trong chín năm trời, Cổn cũng không trị được cái hại của nước. Có thể nhìn thấy về mặt dùng người Nghiêu rất công tâm và rất có tầm nhìn xa. Về mặt cai trị, Nghiêu có thể phát huy tài năng của mỗi vị thần, khiến cho mỗi người mang hết trách nhiệm của mình, tín nhiệm sử dụng các quan, các ngành nghề nghiệp đều hưng thịnh phát đạt. Hi Trọng, Hi Thúc, Hòa Trọng, Hòa Thúc được phân chia quản lý thời tiết mùa màng ở bốn phương. Việc cấy cày thu hoạch của dân chúng đều được sắp xếp thận trọng theo thời tiết khí hậu bốn mùa. Khi Nghiêu ở ngôi mười bảy năm, đã mời bốn vị đại thần thảo luận thương lượng tuyển chọn người thay thế cho mình. Các quan đại thần đã tiến cử người đàn ông độc thân là Ngu Thuấn. Sự tín nhiệm sử dụng của Nghiêu đối với Thuấn đã phản ánh thái độ thận trọng trên mặt dùng người cai trị đất nước của Nghiêu. Tuy các đại thần đã nói với ngài, phẩm đức của con người này rất cao thượng, thế nhưng đối với việc Thuấn có thể cai trị quản lý được thiên hạ hay không, Nghiêu cảm thấy chưa có gì chắc chắn, cho nên đã quyết định đích thân tiến hành khảo sát đối với Thuấn. Ngài nói với mọi người rằng: - Để ta tới khảo nghiệm ông ta thử xem! - Nghiêu đã đem hai người con gái của mình là Nga Hoàng và Nữ Anh gả cho Thuấn. Thông qua hai người con gái này để khảo sát hành vi của Thuấn ở trong gia đình. Thuấn đã đặt các nàng xuống dưới đàn, dùng lễ tiết làm con dâu để trói buộc mình. Đồng thời Nghiêu còn cử chín người đàn ông tiếp xúc với Thuấn, để quan sát biểu hiện của Thuấn ở bên ngoài. Hơn thế, còn để cho Thuấn đảm nhiệm chức vụ của Tư Đồ thực sự phổ biến rộng rãi những luân lý đạo đức phụ nghĩa, mẫu tử, huynh hữu, đệ cung, tử hiếu v.v... để duy trì nền thống trị của bộ tộc, khiến cho đông đảo nhân dân được giáo hóa, tuân thủ nền giáo dục này. Nghiêu còn để cho Thuấn tổng lĩnh chức sự của trăm quan, mọi công việc Thuấn đều làm rất chu đáo tốt đẹp. Còn để cho Thuấn đảm nhiệm chức vụ nghênh tống tân khách, phụ trách công việc tiếp đãi tân khách. Những nhân viên giúp việc đều biết thực sự mang hết trách nhiệm, trang trọng và vui vẻ với khách, các chư hầu vào triều và các khách từ phương xa tới đều rất mãn ý. Lại để cho Thuấn quản lý các công việc rừng núi sông ngòi, Thuấn đều đích thân tới thực địa, tuy gặp phải gió mưa sấm sét, Thuấn vẫn trấn tĩnh thản nhiên, chưa hề làm hỏng việc. Trải qua ba năm thử thách, Nghiêu mới có kết luận nói Thuấn đức hạnh vĩ đại. Tức thì Nghiêu triệu kiến Thuấn, nói: - Ngài khảo sát sự việc chu đáo, nói được làm được. Bây giờ xin mời ngài hãy thay ta quản lý lấy thiên hạ. Thuấn chối từ nói rằng đạo đức và tài năng của mình còn chưa thể đạt tới trình độ khiến cho mọi người khâm phục tự đáy lòng. Thế nhưng được mọi người nhất trí tiến cử, Thuấn vẫn phải tiếp nhận sự uỷ nhiệm của Nghiêu. Đây chính là sự tích “Nghiêu Thuấn nhường ngôi” trong truyền thuyết cổ đại. Căn cứ vào ghi chép của “Sử ký”, Nghiêu không truyền vương vị cho con trai của mình là Đan Châu. Nguyên nhân là vì Nghiêu biết rằng con trai của mình không thành người có ích, không có năng lực quản lý thiên hạ. Truyền ngôi cho Thuấn thì thiên hạ được lợi, lẽ dĩ nhiên Đan Châu chẳng mấy vui gì. Vậy mà Nghiêu lại nói: - Không thể vì một người mà để cho thiên hạ bị hại! Do vậy khi lâm chung Nghiêu đã trao chính quyền cho Thuấn. Trên mặt ngoại giao cùng thi hành ân uy. Trong thời kỳ Nghiêu thống trị, cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn bộ lạc chủ yếu có cuộc chiến Tam Miêu nam chinh. Tập đoàn Lê Miêu ở phương Nam bị tốn thương nặng nề hơn so với cuộc chiến ở Trác Lộc của Hoàng Đế, thủ lĩnh Suy Vưu bị giết chết, các bộ tộc của nó tẩu tán ở khắp nơi. Thế nhưng bộ tộc Miêu không vì vậy mà không gượng dậy được. Chúng đã sinh sôi nảy nở ở vùng Giang Hoài, hơn thế đã dần dần khôi phục lớn mạnh. Chúng luôn luôn phát sinh ra rắc rối xích mích với thế lực tộc Hạ ở vùng Giang Hoài. Từ Nghiêu đế bắt đầu cho đến các đế Thuấn Vũ đều không ngừng phát động cuộc chinh phạt với chúng. Căn cứ vào truyền thuyết, bắt đầu từ Nghiêu, cuộc chiến tranh chinh phạt bộ tộc Miêu đều sử dụng mưu lược ân uy cùng thi hành một lúc, tiến hành kết hợp tiến công quân sự với việc vỗ về phủ dụ chính trị. Mỗi lần sau khi chinh phạt, hoặc phân ra để cai trị, hoặc vỗ về phủ dụ để giáo hóa dạy dỗ. Do vua Nghiêu đã sử dụng mưu lược này, Thuấn Vũ lại kế thừa nó, cho nên đã khiến cho một phần của bộ tộc Miêu bị bức phải rời xuống phía Nam, số còn lại thì không ngừng bị đồng hóa. Là thủ lĩnh của bộ lạc cổ đại Trung Quốc, nhưng tài hoa lãnh đạo, tinh thần dân chủ, mưu lược thống ngự v.v... của Nghiêu rất đáng để cho người sau bái phục. Đặc biệt là việc dùng người có tài đức, nhường ngôi thoái vị, càng rất được các nhà sử học ca tụng. Theo truyền thuyết, Nghiêu nhường ngôi đế sau khi qua đời, nhân dân thương tiếc, như chết cha chết mẹ, ba năm không nghe tiếng nhạc để tưởng niệm tài đức của Nghiêu Đế. 3. NGU THUẤN CAI TRỊ THEO TỰ NHIÊN, PHONG CHỨC CHO QUAN LẠI Khổng Tử nói: “Vô vi nhi trị giả, kỳ Thuấn dã dư”. [2] Xem thế thì đủ biết, trên thuật thống trị - chính trị, người thực hành “Vô vi nhi trị” sớm nhất, đương nhiên phải là Ngu Thuấn. Các Đạo gia, Nho gia thời cổ vốn thuộc những học phái khác nhau. Mỗi người có những chủ trương chính trị riêng của mình. Giữa học thuyết của Lão Trang với học thuyết Khổng Mạnh phân ranh giới rõ ràng, vậy mà trên vấn đề cai trị thiên hạ như thế nào, đều tôn sùng “vô vi nhi trị”. Có thể nhìn thấy rõ thuật thống trị trên lịch sử mấy ngàn năm của Trung Quốc đã có ảnh hưởng lớn lao biết bao nhiêu! Thuấn tên là Trùng Hoa. Truyền thuyết kể rằng đôi mắt của Thuấn có hai con ngươi – đồng tử - nên có tên là Trùng Hoa, thuộc bộ lạc Hữu Ngu Thị, chính là con cháu đời sau của Hoàng Đế. Chính phi của Hoàng Đế sinh được hai người con. Con thứ tên là Xương Ý. Xương Ý lấy con gái Thục Sơn Thị sinh ra Chuyên Húc Cao Dương, Chuyên Húc có con tên là Cùng Thiền, Cùng Thiền có con tên là Kính Khang, Kính Khang có con tên là Cú Vọng, Cú Vọng có con tên là Kiều Ngưu, Kiều Ngưu có con là Hạt Tử. Vị Hạt Tử lại sinh ra Thuấn có hai đồng tử. Bắt đầu từ đời Cùng Thiền đến đời Thuấn đều là những người dân bình thường có địa vị thấp hèn. Người mẹ của Thuấn tên gọi là Ốc Đăng, sinh ra Thuấn ở Diêu Khư, do vậy Thuấn mang họ Diêu. Truyền thuyết nói rằng Thuấn rất không may mắn, Thuấn sống ở Ký Châu (tức vùng Sơn Tây, Bắc Hà Nam, phần lớn Hà Bắc và Liêu Tây ngày nay) đã từng cày cấy trồng trọt ở Lịch Sơn (đại để là vùng phía Đông Nam, huyện Vĩnh Tế tỉnh Sơn Tây ngày nay). Vì vậy Mạnh Tử nói: “Thuấn phát ra từ trong việc săn thú ngoài đồng”, từng bắt cá, làm đồ gốm, làm đồ dùng gia đình, làm cả nghề buôn bán. Sau khi mẹ đẻ chết, người cha mù của Thuấn lại lấy vợ sinh ra Tượng. Người vợ sau này của cha là con người không có giáo dưỡng, tính cách thô lỗ. Người cha mù và người mẹ kế cùng ức hiếp Thuấn, đều muốn giết chết Thuấn đi. Mỗi lần như vậy Thuấn đều phải chạy trốn. Thế nhưng Thuấn là con người có thể chịu lép một bề, dốc lòng thờ phụng cha và mẹ kế, đối với Tượng thì trọn đạo làm anh. Họ đối với Thuấn càng hung ác, Thuấn càng tỏ ra cung thuận hiền lành hiếu thảo. Căn cứ vào những tư liệu ghi chép có liên quan, lúc Thuấn hai mươi tuổi đã nổi tiếng là người hiếu thảo nhân đức. Mở đầu việc phò chính Thuấn đã có biểu hiện ra tài năng thống trị túc trí đa mưu cùng với phẩm đức khiêm tốn, cung kính, nhẫn nhượng của mình. Thời kỳ làm ruộng ở Lịch Sơn, Thuấn đối với người Lịch Sơn đều tỏ ra khiêm tốn nhường nhịn, chưa hề có sự tranh chấp biên giới đất đai, mọi người đều giúp đỡ Thuấn, nhường chỗ ở cho Thuấn. Những đồ gốm mà Thuấn sản xuất ra đều rất bền đẹp, không làm xấu dễ vỡ. Những nơi mà Thuấn từng cư trú qua, nhân dân quý mến tụ tập lại, một năm thành thôn, hai năm thành trấn, ba năm thành đô thị. Nghiêu rất tín nhiệm đối với Thuấn, đã tặng vải vóc bò dê cho Thuấn, lại xây dựng nhà kho cho Thuấn. Thế nhưng người cha mù của Thuấn vẫn muốn giết chết Thuấn. Người cha để cho Thuấn lên nhà kho trát bùn, thế nhưng ông đã đốt lửa bốc cháy ở dưới kho. Thuấn đã nhanh nhẹn mưu trí cầm hai chiếc nón nhảy từ trên xuống, không bị ngã chết, rồi chạy trốn. Về sau, lại bắt Thuấn đào giếng, Thuấn biết cha độc ác, liền đào một cái hang ở trên tường giếng vừa có thể ẩn thân được lại vừa có thể từ đó chạy ra ngoài được. Thuấn đào giếng đã sâu rồi, ông già mù này và đứa em tên là Tượng của bà mẹ kế đã từ bên trên lấp đất xuống, san bằng mặt giếng. Thuấn đã từ trong hang bên cạnh chạy ra ngoài. Tượng và người cha mù rất sung sướng, họ cho rằng lần này thì Thuấn sẽ hết đời. Vậy mà Tượng lòng lang dạ sói còn tranh công trạng nói: - Nêu ra mẹo này chính là con đó! - Tượng và bố mẹ chia nhau tài sản của Thuấn. Tên Tượng đã nói với bố mẹ: - Hai người vợ của Thuấn, tức là hai con gái của Nghiêu cùng với chiếc đàn mà Thuấn vẫn gẩy sẽ thuộc về con. Trâu bò, dê cừu, kho thóc thì cho bố mẹ! Tượng đã đuổi bố mẹ đi, hắn liền chiếm đoạt vợ của Thuấn làm của mình, đánh đàn ở trong nhà của Thuấn. Vậy mà, Thuấn đột nhiên xuất hiện trước mặt Tượng. Tượng kinh sợ thất sắc vội vàng quỳ gục xuống đất nói: - Em đang đau buồn khổ sở tưởng nhớ đến anh đây! Thuấn rất bình tĩnh nói như chưa hề xảy ra chuyện gì: - Thế à, em khá lắm! Từ sau đó, Thuấn càng chú ý thận trọng đối xử tốt với người cha mù và người em tên là Tượng đó - Những sự việc này đều phát sinh ra trong thời gian khảo sát của Nghiêu đối với Thuấn. Do đó Nghiêu đã thử dùng Thuấn để dạy dỗ giáo dục muôn dân, quản lý bách quan và cai trị thiên hạ. Về sau Thuấn chính thức lên ngôi Đế, vẫn chẳng kể tới lỗi lầm xưa, vẫn theo lễ tiết nghi thức trọn hết đạo làm con, tới thăm viếng người cha mù của mình. Trên xe cắm lá cờ Thiên Tử, thái độ của Thuấn vẫn cung kính, khiêm nhường, hòa nhã. Những sự thực này đã chứng minh, Thuấn là một con người có mưu trí rất sâu sắc. Như lời Khổng Tử nói, Thuấn cai trị thiên hạ “vô vi nhi trị”. Tư tưởng mưu lược “vô vi nhi trị” của Thuấn biểu hiện chủ yếu trên mặt ông tín nhiệm sử dụng người hiền đức. Sau khi Nghiêu chết, Thuấn tự động thoái lui trốn tránh, nhường chức vị Thiên Tử cho con trai của Nghiêu là Đan Châu. Thế nhưng các vị chư hầu vẫn không tới chỗ Đan Châu, mà vẫn tới chỗ Thuấn để triều bái. Các công việc quan tư vẫn tìm đến Thuấn, muôn dân vẫn ca ngợi Thuấn. Thuấn nói đây là thiên ý, lại trở về đô thành đảm nhận chức Thiên Tử. Trước hết Thuấn mở rộng con đường ngôn luận, tranh thủ ý kiến của các vị đại thần, để cho quan chức các địa phương thảo luận những đức hạnh mà đế vương cần phải có. Tất cả đều cho rằng chỉ cần chính lệnh khoan hậu nhân đức, tránh xa bọn gian nhân tặc tử, thì thiên hạ sẽ thành tâm tín phục, ngoại tộc sẽ có thể quy thuận. Khi Nghiêu tại vị có rất nhiều đại thần có năng lực, thế nhưng lúc đó chưa được trao chức vụ chuyên môn. Thuấn liền trưng cầu ý kiến của các đại thần, tín nhiệm sử dụng những người có khả năng phát huy được ánh áng của Đại Nghiêu hiệp lực giúp đỡ mình cai trị thiên hạ, tức thì liền ra lệnh cho Vũ đảm nhận chức Tư Không phụ trách các công việc chính trị thủy thổ, Thuấn khích lệ động viên Vũ, nói: - Mong rằng ông cố gắng làm tốt công việc này. Thuấn lại ra lệnh phong cho Hậu Nghệ phụ trách nông nghiệp giải quyết vấn đề cơm ăn cho dân chúng; Hợp Khế phụ trách Tư đồ, chủ quản công việc giáo dục, đẩy mạnh giáo hóa, đoàn kết bách quan; Lệnh cho Cao Đào làm đại lý chủ quản hình pháp mong muốn pháp luật nghiêm chính công bằng, thực sự cầu thị, để cho dân tín phục; Lệnh cho Thùy quản lý các loại thợ thủ công; Lệnh cho Ích phụ trách quản lý rừng núi sông ngòi; Lệnh cho Bá Di phụ trách việc trật tự tông tộc, chủ quản việc cúng bái tế lễ, mong mỏi ông ngay thẳng, nghiêm túc, thanh khiết; Lệnh cho Quỳ phụ trách việc âm nhạc; Lệnh cho Long phụ trách việc tuyên truyền, kịp thời truyền đạt những chỉ thị của Thuấn, kịp thời thu thập những ý kiến của dân chúng, hơn thế còn yêu cầu nhất định phải chân thực. Thuấn đã căn cứ vào năng lực của mỗi người mà tiến hành bổ nhiệm chính thức, phân công rõ ràng chính xác. Cứ ba năm một lần Thuấn khảo sát thành tích công tác của họ một lần. Căn cứ vào tình hình ba lần khảo sát để bình luận đánh giá, ai đáng phê bình thì phê bình, ai đáng khen thưởng thì khen thưởng, ai nên thăng thì thăng, ai phải giáng thì giáng. Nhờ đó thiên hạ được thịnh trị. Có thể nhìn thấy, mưu lược “vô vi nhi trị” của Thuấn, quả thực là không phải điều gì cũng làm, mà là nắm chắc những việc lớn, nắm chắc việc dùng người, nắm chắc các chính sách. Đây là một loại mưu lược thống trị cao minh nhất. Bản thân Thuấn cũng nói: - Hiền thần là chân tay tai mắt của ta, phò trợ ta giúp đỡ dân chúng, giúp ta xác minh các loại điển chương, khảo sát các sự vụ chính trị, ta có những lời lẽ hoặc hành động sai lầm, các ngươi sẽ giúp ta sửa chữa. Còn các quan chức các ngành nghề, đương nhiên không cần đến đế vương đích thân phải động tay tới. Trong “Tân tự tạp sự” nói: “Thuấn cử các người hiền tài tại vị, buông xoã quần áo, cung kính vô vi mà thiên hạ thịnh trị”. Thuật thống trị này sẽ đạt được thành tích lớn nhất. Truyền thuyết nói rằng Thuấn trao chính quyền cho Vũ, ước khoảng năm 96 tuổi đi phương Nam thị sát rồi qua đời ở trong biên cảnh Thương Ngô (một vùng đất thuộc phía Nam tỉnh Hồ Nam, phía Đông Bắc tỉnh Quảng Tây và phía Tây tỉnh Quảng Đông hiện nay), mộ chôn ở trên núi Cửu Nghi (phía Nam huyện Ninh Viễn tỉnh Hồ Nam), gọi là Linh Lăng (Xem “Sử ký - Hạ bản kỷ”). Trong thời gian ở ngôi của Thuấn, đối với cuộc chiến tranh của tộc Miêu ở phương Nam vẫn thi hành chính sách vừa ra uy vừa vỗ về. Căn cứ vào lời nói của “Hàn Phi Tử - Ngũ Đố”: Sau khi Vũ trị thủy, Tam Miêu vì không nhận được ban thưởng mà làm phản, Vũ muốn kéo quân tới đánh, lúc đầu Thuấn nói, ân đức của bản thân ta không dày, nếu dùng vũ lực tới đánh Tam Miêu thì mất đạo đức. Thuấn đã dùng thời gian suốt ba năm để thực hành dạy dỗ giáo hóa Tam Miêu; Đồng thời tăng cường xây dựng vũ trang, huấn luyện binh lính. Lại căn cứ vào “Thượng Thư”, Khổng Dĩnh đạt sớ nó i: Sau khi Thuấn chiến thắng Tam Miêu đã đem người Tam Miêu chia ra để trị, có người lưu lại ở nguyên chỗ cũ, có người cho đi đầy, có người tăng cường giáo hóa dạy dỗ. Những sách lược đối đãi với dân tộc thiểu số này, ở thời đại Hán Đường đều đã từng được coi là thượng sách, đã có tác dụng rất quan trọng trong việc ổn định các dân tộc thiểu số. 4. HẠ VŨ TRỊ HỒNG THỦY ĐÚC CỬU ĐỈNH Trong truyền thuyết cổ đại Trung Quốc, “Đại Vũ trị thủy” là một câu chuyện cảm động lòng người mà đàn bà và trẻ con cũng đều biết đến. Vũ tên là Văn Mệnh, là tù trưởng bộ lạc Hạ trên một ngàn năm trước Công nguyên. Theo truyền thuyết thì Vũ sinh ra ở quê hương tộc Khương làng Vũ - huyện Bắc Xuyên, phía Tây Bắc tỉnh Tứ Xuyên ngày nay. “Đế Vương thế kỷ” nói “Vũ thụ phong làm Hạ Bá, ở phương Nam ngoài Dự Châu, nay chính là vùng Dương Địch”. Dương Địch chính là huyện Vũ tỉnh Hà Nam ngày nay. “Hán Thư - Luật Lịch Quang” nói: “Đời thứ năm của Chuyên Húc thì sinh ra Cổn”. Vũ chính là con trai của Cổn. TRỊ HỒNG THỦY, HƯNG LỢI QUỐC, VƯỢNG THIÊN HẠ Sự thông minh tài trí của Vũ, thể hiện một cách tập trung nhất ở chỗ ông trị thủy hại giành được thành tựu cực kỳ to lớn. Sự kiện này phải truy ngược lại thời gian của Nghiêu Đế và Thuấn Đế. Lúc Nghiêu tại vị, hỏi ai có thể trị hồng thủy, giải trừ nỗi lo buồn cho nhân dân? Quần thần đều nói Cổn có thể làm được. Nghiêu nói Cổn là con người vi phạm sự giáo hóa, làm bại hoại đồng tộc, không thể dùng được. Thế nhưng các quan đại thần đều nói không ai có thể tốt hơn Cổn được. Cứ thử dùng xem, không được sẽ nói lại sau. Nghiêu đã nghe theo kiến nghị của các bậc đại thần, dùng Cổn vào việc trị thủy. Cổn nhận việc trị thủy trong chín năm chẳng có hiệu quả gì. Lúc này Nghiêu đang tìm mời người kế thừa đại nghiệp của thiên hạ. Ông đã chọn Thuấn. Sau này Thuấn đã kiến nghị với Nghiêu giáng chức Cổn đến một nơi rất xa là Vũ Sơn (chính là phía Đông Nam huyện Bồng Lai tỉnh Sơn Đông ngày nay) để cho ông ta tới cai trị các dân tộc thiểu số ở phương Đông. Sau khi Thuấn giành được ngôi Đế, hồng thủy [3] vẫn là tai họa lớn của muôn dân, Thuấn lại dùng Vũ là con trai của Cổn đi chữa trị nạn hồng thủy. Vũ quỳ xuống đất dập đầu tạ ơn, vui sướng nhận lệnh. Vũ xin Thuấn cho phép ba thủ lĩnh thị tộc là Khiết, Hậu Nghệ, Cao Đào giúp đỡ mình trị thủy. Việc chữa trị nạn lụt, cần phải dùng phương pháp khơi thông, thuận theo thế nước đào sông cho nước chảy thoát. Đối với thời hiện đại mà nói đó là kiến thức rất thông thường. Thế nhưng ở thời kỳ tuổi thơ ấu của các dân tộc Trung Quốc, nhân dân đã đâu có nhiều kinh nghiệm đấu tranh với thiên nhiên. Cha của Vũ là Cổn trị thủy trong suốt chín năm trường, năm nào cũng đắp đập quai mương, năm nào cũng bị nước lụt cuốn trôi đi mất hết. Sau khi Vũ nhậm chức rất đớn đau cho những thất bại của cha. Ông đã tiếp thu được bài học trị thủy của Cộng Công thời Chuyên Húc Đế và của cha mình là Cổn, phát hiện thấy rằng các bậc tiền bối sở dĩ không giành được thành công, nguyên nhân chủ yếu không biết căn cứ vào quy luật của dòng nước chảy dựa theo chiều hướng khách quan mà làm, mà chỉ sử dụng phương pháp đắp đập be bờ “làm nghẽn tắc từ trên thế cao” (“Quốc ngữ - Chu ngữ hạ”). Tức thì Vũ đã cải biến phương pháp trị thủy chỉ làm nghẹn tắc không cho lưu thông của các bậc tiền bối, mà chỉ sử dụng biện pháp mới: khơi thông dòng chảy đại quy mô, khiến cho dòng nước chảy thông thoáng. Đúng như “Quốc ngữ Chu ngữ” đã nói, chính là thuận theo lẽ tự nhiên, nước chảy vào chỗ trũng, từ trên cao xuống thấp, tạo thành dòng, trừ bỏ mọi ách tắc, làm cho dòng chảy thông. “Mạnh Tử - Ly Lâu hạ” nói: “Công việc trị thủy của Vũ tiến hành thuận lợi chẳng xảy ra sự gì! Ông đã cho đào sâu khoét rộng dòng chảy chính, khiến cho dòng nước lưu thông, lưu thông rồi có chỗ quay trở về, đương nhiên là không có tai họa gì xảy ra nữa. Những chi lưu chảy đổ vào dòng chính. Nước chảy theo dòng, lại có thể canh tác được. Vũ là nhà lãnh đạo trị thủy ở quy mô lớn, một nguyên nhân khác để ông giành được thành công là ông đi trước quân sĩ. Suốt đời ông không sợ gian nan nguy hiểm, chịu đựng gian khổ cần cù lao động một lòng vì việc công. “Tay cầm mai thuổng, đi trước dân chúng” (Hàn Phi Tử - Ngũ Đố”). Tức là nói Vũ tay cầm công cụ trị thủy, đích thân tham gia lao động, làm tấm gương tốt cho những người tham gia trị thủy. Vũ đảm nhận công việc trị thủy, mười mấy năm như một ngày, người gày tọp đi, lông trên đôi chân rụng hết, ngay đến dây buộc búi tóc và mũ đội đầu cũng không kịp thu nhặt mỗi khi rơi mất. Để hoàn thành nhiệm vụ trị thủy nặng nề, Vũ lấy vợ, một cô gái sinh ra ở Đồ Sơn, chỉ sau bốn ngày đã rời nhà ra đi, ở bên ngoài mười ba năm trời không về qua nhà một lần. Đại Vũ trị thủy “Ba lần qua cửa mà không về thăm nhà” đã trở thành một giai thoại lưu truyền thiên cổ. Công việc trị thủy của ông Vũ được tiến hành tổng hợp với việc làm giàu mạnh đất nước. Đây là phương châm chiến lược lớn trong đường lối trị nước dưỡng dân làm cho đất nước cường thịnh của Vũ. Đồng thời với công việc trị thủy hại, Vũ đã phát triển, hưng thịnh việc thủy lợi, ví dụ nghề nuôi cá, trồng cây, phát triển mạnh việc vận tải trên đường thủy. Mỗi khi trị thủy ở vùng nào ông đều chủ động đoàn kết tù trưởng của các bộ lạc thị tộc, hoàn thiện việc xây dựng chính quyền, ổn định xã hội, khiến cho nhân dân an cư lạc nghiệp. Các bộ lạc tham gia trị thủy càng ngày càng đông, tiếng tăm của Vũ đã lừng lẫy, rất nhiều bộ lạc đã tuyên bố là phụng mệnh của Vũ mà trị thủy, công lao của Vũ đã lẫy lừng khắp thiên hạ. Thuấn Đế đã triệu tập các thị tộc các tù trưởng bộ lạc họp hội nghị mừng công, tuyên bố Vũ trị thủy đã thành công, tặng thưởng huyền khuê màu đen cho Vũ. Huyền Khuê là viên ngọc màu đen mài thành, dưới vuông trên nhọn, tượng trưng cho công lao to lớn. Khổng Tử đã từng ca tụng công tích trị thủy của Vũ, nói, tôi quả thực không tìm thấy một chút khuyết điểm nào của ông Vũ, cung thất của ông giản đơn sơ sài nhưng ông không nghĩ tới chuyện cải thiện mà chỉ dốc toàn bộ sức lực vào công việc trị thủy, khai thông mương lạch, phát triển canh tác nông nghiệp, động viên nhân dân theo đuổi lao động (Tham khảo thêm “Luận ngữ - Thiên Thái Bá”). Vũ trị thủy thành công, thế lực của bộ lạc Hạ cùng theo đó mà phát triển lớn mạnh. Căn cứ vào truyền thuyết lúc này Thuấn đã là ông lão già trên tám mươi tuổi. Thuấn “Tiến cử Vũ với trời, làm người kế tục cho mình” (Sử ký - Hạ bản kỷ”). Hơn thế dựa theo truyền thống nhường ngôi, Thuấn nhường ngôi cho Vũ, bản thân mình ra ngoài săn bắn, không tham gia chính sự nữa. ĐÁNH TAM MIÊU, HỘI CHƯ HẦU, ĐÚC CỬU ĐỈNH Đây là sự thể hiện tư tưởng mưu lược củng cố vương quyền của Vũ. Khi Vũ tiếp nhận ngôi Thiên tử, các bộ lạc ở Trung Nguyên đã hình thành tập đoàn lãnh đạo, lấy tộc Hạ làm trung tâm. Địa vị của Vũ ở trong tập đoàn này đã bước đầu có tính chất vương quyền. Ông đã để cho Cao Đào, chuyên trông coi hình phạt trong thời trị thủy đặt ra một số quy định. Các bộ lạc thị tộc nếu có kẻ nào không tuân theo hiệu lệnh của Vũ thì sẽ theo các hình phạt mà trừng trị. Khi Vũ chinh phạt tộc Miêu đã hiểu được việc “động viên chính trị”. Trước khi xuất quân đã cử hành nghi thức cúng tế rất long trọng ở trước “Huyền” (tức là Miếu tổ), sau đó cho quân đội tuyên thệ. Trong buổi lễ Vũ tay cầm Huyền khuê tuyên bố: Tam Miêu nổi loạn, chúng không nghe theo sự giáo hóa, nhiều lần phản loạn, Thượng Đế muốn trừng phạt chúng. Tất cả mọi người cần phải đồng tâm hợp lực để tiêu diệt bọn nghiệt súc tội lỗi này. Cuộc chinh chiến có tổ chức nghiêm trang chặt chẽ này, tính mục đích rất rõ ràng, có sức chiến đấu tương đối mạnh. Hai bên vừa tiếp xúc đánh nhau, tù trưởng Tam Miêu liền bị quân đội của Vũ giết chết, quân Miêu tan rã. Thế lực của Vũ mở rộng tới lưu vực Giang Hoài. Cuộc chinh chiến với Tam Miêu của Vũ, có quy mô so với thời đại của Nghiêu to lớn hơn nhiều, tính tổ chức mạnh hơn nhiều. Sau đó “Bốn phương quy thuận rồi lên ngôi vua” (“Thái bình ngự lãm” quyển 882 dẫn “Tuỳ Sào Tử”). Vương triều Hạ đã bước đầu hình thành một quốc gia theo chế độ nô lệ. Sau khi Thuấn chết, Vũ để tang ba năm, vẫn dựa theo chế độ nhường ngôi truyền thống đem ngôi Đế nhường cho con trai của Thuấn là Thương Quân, thế nhưng “các chư hầu trong thiên hạ đều bỏ Thương Quân mà vái triều về với Vũ” (“Sử ký - Hạ bản kỷ”). Tức thì Vũ lại lên ngôi Thiên tử, mặt hướng về phía Nam làm vua thiên hạ, đặt tên nước là Hạ Hậu, họ là Tự Thị. (“Sử ký - Hạ bản kỷ”). Vũ đã xây dựng lên vương triều đầu tiên ở Trung Quốc. Để củng cố vương triều nhà Hạ “Vũ đã kiểm tra các vùng phương Nam, cứu tế dân ở vùng sông nước” (“Hoài nam tử - Tinh thần huấn”). Vũ tới tuần sát ở phương Nam, mời các nước chư hầu tới hội họp ở Đồ Sơn (bờ phía Đông Hoài Hà phía Tây thị trấn Bạng Phụ tỉnh An Huy ngày nay). Đây có lẽ là một hội nghị có quy mô lớn nhất mang tính chất toàn quốc đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, lịch sử gọi là “Đại hội Đồ Sơn”. Để kỷ niệm đại hội lớn lần này, Vũ đã đem số đồng đen mà các tù trưởng bộ lạc chư hầu các phương đưa tới đúc lại thành chín cái đỉnh, tượng trưng cho sự thống nhất chín châu trong thiên hạ, trở thành tượng trưng cho vương triều nhà Hạ. Điển cố Cửu Châu của Trung Quốc chính là xuất phát từ đây mà ra. THI ÂN UY, CƯỜNG GIÁO HOÁ, PHỤC DI TỘC Cùng một lúc thi hành ân lực và uy lực, đó là mưu lược thống trị chủ yếu nhất mà Vũ thực hành đối với bộ lạc Di tộc [4] và Thị tộc [5] Truyền thuyết nói rằng ở phía Tây có một bộ tộc gọi là Hữu Hỗ Thị đã hiếu chiến lại không phục tùng nhà Hạ một cách tự nguyện. Trước hết Vũ đem quân tới chinh phục. Liên tục phát động ba lần chiến dịch. Hữu Hỗ Thị vẫn không quy thuận. Vũ liền thay đổi sách lược, sử dụng hai tay văn võ đối phó với Hữu Hỗ, một mặt chiêu binh chuẩn bị tái chiến, một mặt dùng đức chính giáo hóa bộ lạc Hữu Hỗ. Quả nhiên đã thu được hiệu quả tốt đẹp. Cuối cùng, Hữu Hỗ Thị đã xin được thần phục nhà Hạ. Vùng đất phía Đông Nam lưu vực Giang Hoài, thời cổ gọi là “Cửu Di”, tức là chín bộ lạc tương đối lớn. Để tăng cường sự thống trị đối với khu vực này, Vũ đã lại một lần nữa xuất chinh tuần thú Đông Nam, truyền bá nền văn hóa và lễ giáo Trung Nguyên, đã nhận được sự kính trọng và đối xử lễ độ của nhân dân nơi đó. Trên đường đi Vũ đã thăm hỏi phong tục, tập quán của nhân dân địa phương, động viên họ làm nghề nông, khuyên bảo họ cấy trồng ngũ cốc đúng thời vụ, giáo dục các tù trưởng bộ lạc chú ý đến lễ nghi, hiểu biết pháp luật, không được lấy mạnh đánh yếu, mà phải chung sống yên ả. Vũ lại tuyên bố, nếu có kẻ nào không nghe theo sự giáo hóa, thì sẽ dùng binh tới chinh phạt. Số thị tộc, bộ lạc này đều bằng lòng tuân theo lời Vũ. Đối với các tù trưởng bộ lạc dám chống đối lại sự thống trị của Vũ, muốn đi theo con đường độc lập, Vũ đã không hề có chút khách khí. Tù trưởng bộ lạc Cổ Việt Phòng Phong Thị những muốn độc bá một phương, tự xưng là trưởng của các bộ lạc người Việt, không nghe theo mệnh lệnh của Vũ. Để cảnh cáo chư hầu, phương bá các nơi, trên đại hội ở Miêu Sơn, Vũ đã ra lệnh đem hắn ra xử tử ngay trước mặt mọi người, hơn thế còn phơi thây suốt ba ngày. Chư hầu, phương bá các nơi đều hiểu biết sâu sắc uy lực của vương triều nhà Hạ và sự thần thánh của vua Vũ, từ đó không ai dám mạo phạm vua Vũ nữa. Số thị tộc, bộ lạc chưa tham gia triều kiến vua Vũ nghe nói tới sự việc này đều xôn xao hăng hái tới tiến công, xưng thân với vương triều nhà Hạ. 5. THIẾU KHANG BẮT ĐẦU DÙNG LY GIÁN, KHÔI PHỤC TÔNG NHÀ HẠ Khi Hàn Trạc âm mưu giết chết Hạ Vương Tương, phi tử Hậu Mân của Tương đã có thai, từ trong hang tường thành đã chạy trốn ra ngoài. Hậu Mân là con gái của chư hầu vương triều nhà Hạ là Hữu Nhưng Thị, bà chạy thoát ra khỏi Hữu Nhưng (nay là Tế Ninh, Sơn Đông), không lâu bà đã sinh ra một người con trai, đây chính là Thiếu Khang mồ côi cha từ trong bụng mẹ của Tương. Bởi Thiếu Khang là đứa con mồ côi còn sót lại của Hạ Hậu thị, do vậy Hữu Nhưng thị đã đặc biệt chăm sóc, nuôi dưỡng. Sau khi Thiếu Khang lớn lên đã biết rõ thân thế của mình, liền mang nặng mối thù rất sâu sắc đối với Hàn Trạc và con của Trạc là Kiêu. Thiếu Khang quyết tâm khôi phục vương triều nhà Hạ. Đề phòng Hàn Trạc và Kiêu tàn hại Thiếu Khang, Hữu Nhưng Thị đã để cho Thiếu Khang làm mục chính, quản lý việc chăn nuôi súc vật. Thế nhưng Hữu Nhưng là một chư hầu tương đối nhỏ bé, chẳng bao lâu công việc của Thiếu Khang đã bị Kiêu biết. Kiêu đã sai Tiêu dẫn người tới bắt Thiếu Khang. Lúc này Thiếu Khang ước khoảng 15 tuổi. Được biết tin này, Thiếu Khang liền từ Hữu Nhưng chạy trốn tới Ngu (nay là thành Ngu tỉnh Hà Nam). Có một chư hầu Ngu tên là Ngu Tư, là con cháu đời sau của Ngu Thị đời đời thân thiện với “vương triều nhà Hạ”. Được biết Thiếu Khang là con của Hạ Tương, đã nhiệt tình tiếp nhận. Để che giấu thân phận, trốn tránh tai mắt của mọi người, liền giao cho Thiếu Khang làm chức bào chính ở nước Ngu, phụ trách công việc nấu ăn. Sau năm năm ẩn cư ở đây, Thiếu Khang đã hai mươi tuổi, Ngu Tư đã đem hai người con gái là Đại Diêu và Nhị Diêu gả cho Thiếu Khang. Lại đem đất Luân (nay là phía Đông Ngu Thành tỉnh Hà Nam) phân cho Thiếu Khang quy vuông rộng mười dặm, lại trao cho Thiếu Khang năm trăm nô lệ để sử dụng (Tham khảo “Tả truyện - Ai Công nguyên niên”). Tại đây Thiếu Khang đã bắt đầu quy hoạch tiêu diệt Hàn Trạc, khôi phục đại nghiệp của triều Hạ. Thiếu Khang đã thi ân bố đức rộng rãi, giao thiệp rộng rãi với mọi người, kín đáo lôi kéo, thu phục những người cũ của vương triều nhà Hạ, an ủi vỗ về những người đã từng làm quan cho vương triều nhà Hạ. Lúc này, hai người con trai của Hàn Trạc, con cả là Kiêu được phong ở Quá (phía Bắc huyện Dịch tỉnh Sơn Đông ngày nay), con thứ là Ý được phong ở Qua (vùng huyện Kỷ và Thái Khanh tỉnh Hà Nam ngày nay). Kiêu có sức khỏe vượt người, để nắm vững được hư thực của Kiêu, Thiếu Khang đã phái một người tên là Nữ Ngải ở bên cạnh mình trà trộn vào trong Thành Quá để do thám tình báo. (Sự việc này đã cách đây hơn bốn ngàn năm, có lẽ là một ví dụ vận dụng kế gián điệp đầu tiên trong lịch sử loài người)?. Lại đem con trai của chính mình là Lý Trữ cử tới Thành Qua trà trộn vào trong cung bổ sung làm gián điệp. Chính giữa lúc Thiếu Khang chuẩn bị diệt Kiêu và Ý, Bá Mi dựa vào Hữu Cách cũng đang tích cực, chuẩn bị diệt Hàn Trạc. Bá Mi vốn là thần tử ở trong vương triều nhà Hạ. Hậu Nghệ đánh đuổi Thiếu Khang, trong triều có rất nhiều thân liêu lưu lại ở nước Hữu Cùng phụng sự Hậu Nghệ, Bá Mi chính là một trong số đó. Về sau Hàn Trạc đã mưu sát Hậu Nghệ, cướp lấy ngôi vua của nước Hữu Cùng; hắn liền bỏ quan chạy tới một nước chư hầu có tên gọi là Hữu Cách (phía Bắc Đức Châu tỉnh Sơn Đông ngày nay). Khi Đế Tương bị bức phải rời ngôi đế, được sự giúp đỡ của Hữu Cách Thị, Bá Mi đã tích luỹ lực lượng, chuẩn bị diệt Hàn Trạc. Bá Mi biết được Thiếu Khang ở Hữu Ngu là con mồ côi từ trong bụng mẹ của Tương liền dùng công đức anh minh của Vũ cổ động mọi người tham gia vào đội ngũ diệt Hàn. Sức chiến đấu của đội ngũ này rất mạnh, ông đã dẫn đội ngũ này đánh vào thủ đô nước Hữu Cùng, Hàn Trạc chưa kịp đề phòng đã bị chúng quân giết chết. Sau đó dẫn quân xông tới Hữu Ngu nghênh đón Thiếu Khang về Hạ Ấp. Thiếu Khang lại để cho Bá Mi đi giúp đỡ Nữ Ngải, đã giết chết Kiêu ở Quá Thành, rồi tiêu diệt nước Quá. Kiêu vừa chết Quá bị cô lập. Lý Trữ nhìn thấy thời cơ đã tới, xông lên giết chết Ý; tiêu diệt nước Quá. Tiếp theo đó nước Hữu Cùng đã bị diệt vong. Bá Mi cùng các di tộc Hạ Hậu thị, ủng hộ lập Thiếu Khang kế vị ngôi vua nhà Hạ. Chư hầu, phương bá các nơi nghe nói Thiếu Khang đã về tới Hạ Đô, khôi phục được nghiệp tích triều Hạ đều hăng hái tới triều chúc tụng. Sau khi Thiếu Khang xây dựng vương triều nhà Hạ, đã chứng tỏ một cách đầy đủ tài năng chính trị của mình trên mặt thống lĩnh, chế ngự và cai trị đất nước. Về mặt này, chính do từ nhỏ ông đã sống cuộc sống phiêu bạt, làm qua việc chăn nuôi, nấu bếp, được dịp tiếp xúc với bình dân và nô lệ, hiểu biết được nỗi khổ sở của họ. Ông trở lại làm vua nhà Hạ, cũng giành được sự giúp đỡ và ủng hộ đắc lực của nhân dân. Về mặt khác, từ trong bài học của Thái Khang, Trọng Khang, ông biết sâu sắc rằng, muốn củng cố địa vị thống trị thì cần phải có sự ủng hộ của nhân dân, muốn được nhân dân ủng hộ vương triều nhà Hạ thì cần phải quan tâm tới sản xuất và đời sống của nhân dân, không thể “du chơi vô độ” như Thái Khang được. Sau khi khôi phục ngôi vua, ông lại bắt đầu dùng Tắc quan quản lý nông nghiệp, ủy nhiệm cho Thương Hậu Minh là Thủy chính chuyên trị thủy hại. Nền sản xuất xã hội đã có sự phát triển tương đối nhanh, nền thống trị của vương triều đã được củng cố. Căn cứ vào truyền thuyết, Thiếu Khang ở ngôi được hai mươi mốt năm, sau khi mất, con trai là Lý Trữ kế vị. Lịch sử truyền lại rằng Trữ tuy còn trẻ nhưng Trữ có thể kế thừa sự nghiệp của nhà Hạ, không những củng cố được nền thống trị của vương triều nhà Hạ mà còn chinh phục lại từ đầu các bộ lạc ở Đông Di. Đoạn lịch sử này chính là thời kỳ “Thiếu Khang trung hưng” nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. 6. THƯƠNG THANG NHÌN NƯỚC THẤY HÌNH, NHÌN DÂN BIẾT TRỊ Thương Thang là một vị đế vương vừa thực hành võ công vừa thực hành văn trị ở trong xã hội nô lệ Trung Quốc. Về phương diện mưu lược chính trị và quân sự ông đã có những biểu hiện rất đột xuất. Thương là một bộ lạc cổ lão ở hạ du Hoàng Hà Trung Quốc. Truyền thuyết nói rằng khi Đại Vũ trị thủy, Khiết phò tá Vũ trị thủy có công được phong làm Thương, phong đất ở một vùng huyện Đằng ở Sơn Đông ngày nay. Đến Thang đã truyền được mười bốn đời, đất cư trú của Ngài cũng di chuyển tới tám lần. Khi Thang kế vị làm chư hầu, chính là lúc Hạ Kiệt bạo ngược vô đạo, tàn hại nhân dân, xâm đoạt chư hầu, trời giận người oán. Để chuẩn bị tiêu diệt Hạ, đầu tiên Thang đến cư trú ở đất Thương Ngưu rồi tới đất Hào mà tiên đế tông tộc Thương là Khốc đã từng ở qua (phía Đông Nam Thương Khưu tỉnh Hà Nam ngày nay). Từ gần đến xa, diệt trừ vây cánh, cuối cùng phạt Kiệt, đó là mưu lược tổng thể của Thang diệt Hạ. Sự chuẩn bị của Thang diệt Hạ kéo dài thời gian mười tám năm. Thương đã từng được vương triều nhà Hạ trao cho đại quyền “Đắc chuyên chinh phạt” - Được quyền đi chinh phạt, Thương đi chinh phạt chư hầu nào, phương sách mưu lược như thế nào không cần phải thông qua sự phê chuẩn của Hạ vương cũng có thể xuất binh được. Để làm suy yếu thế lực của vương triều nhà Hạ, căn cứ vào tình hình Hạ cường Thương nhược lúc đó, trước tiên cần phải chinh phục Cát, một thuộc quốc của Hạ ở gần nước Thương (phía Bắc Ninh Lăng, Hà Nam ngày nay). Bởi vì Cát Bá là một chúa nô lệ trung thực với Hạ Kiệt, là một tai mắt trong các chư hầu ở phương Đông của Kiệt, cho nên diệt Hạ cần trước hết diệt Cát, như vậy thì đã có thể bảo đảm được an toàn cho đô Hào của Thương, lại có thể tiêu trừ được các vây cánh khác của Hạ, giải trừ được mối lo về sau này. Để đạt được mục đích có thể diệt Cát mà không xảy ra chuyện lật đổ Hạ Kiệt, Thang đã sử dụng hai mũi tranh thủ chính trị và tấn công quân sự. Cát Bá là một con người thích ngồi mát ăn bát vàng mà lại điêu ngoa, giảo quyệt, trong một thời gian rất lâu không cúng tế thiên địa quỷ thần. Điều này ở vào thời đại đó là đại nghịch vô đạo. Thang đã dựa vào cớ này đế trách quở Cát Bá, dùng điều này để bức hiếp Cát Bá phải nghe theo Thang. Thế nhưng Cát Bá lại nói: - Chúng tôi biết sự quan trọng của việc cúng tế. Thế nhưng hiện tại chúng tôi không có bò dê, thì lấy gì để mà cúng tế? Thang liền sai người đưa bò, dê tới cho Cát Bá. Cát Bá thấy Thang tin tưởng vào những lời ba hoa của mình, liền giết bò dê, nhưng vẫn không cúng tế. Thang nghe nói vậy, lại một lần nữa quở trách. Cát Bá nói: - Chúng tôi không có cơm rượu làm đồ cúng phẩm thì biết lấy gì để cúng tế? Thang được biết Cát không quan tâm tới sản xuất của nhân dân, chỉ biết hưởng lạc, liền phái thần dân của mình tới vùng đất của Cát giúp đỡ trồng lúa và hoa màu, đã giành được cảm tình tốt của nhân dân ở vùng đất của Cát. Thế nhưng Cát Bá không cung cấp thức ăn cho nhân dân. Thương Thang phái cử người già và trẻ con tới đưa cơm. Cát Bá liền sai người cướp hết cơm rượu, còn giết chết một em bé chống lại sự cướp bóc đó. Hành động của Thương Thang đã tranh thủ được lòng dân ở đất Cát, lại nhìn được thấy rõ Cát Bá là kẻ thù không đội trời chung với Thang được, liền dẫn quân tới giết chết Cát Bá. Nhân dân nước Cát oán hận Cát Bá, lại được biết nhân đức của Thang đều biểu thị lòng quy thuận về với Thang. Về sau Hạ Kiệt hỏi Thang hầu vì sao lại tiêu diệt nước Cát. Đại thần của Thang là Y Doãn nói: - Cát Bá là chư hầu của Đại vương, bất nhân như vậy có tổn hại tới thần uy của Đại 'vương, mới phải giết chết hắn - Kiệt tuy không vui cũng không trách tội Thương Thang được. Thang diệt Cát, trong các chư hầu chẳng những không có người phản đối mà còn quở trách Cát bất nhân, trị tội thế là đáng kiếp. Có những chư hầu oán hận sự tàn bạo của Hạ Kiệt, cũng mong muốn Thương Thang tới trừng phạt, bằng lòng quy thuận Thương Thang. Thương Thang nhìn thấy thời cơ đã chín muồi, tức thì đã sử dụng mưu lược tiễu trừ vây cánh của triều Hạ, tập trung binh lực tiêu diệt dần dần ba nước phụ thuộc của triều Hạ là Vĩ, Cố và Côn Ngô, đã chiếm lĩnh được đại bình nguyên Duyên và Dự. Hạ Kiệt từ đây đã thế cô lực mỏng. “Mạnh Tử - Đằng văn Công hạ” nói, lúc đó Thương Thang “Đã mười một lần đi đánh mà thiên hạ không ai địch nổi”. “Nhân thị thủy kiến hình, thị dân tri trị” (“Sử ký - Ân bản kỷ”), câu này có nghĩa là con người soi mình vào trong nước có thể nhìn thấy rõ được hình tượng của mình, nhìn thấy thái độ của nhân dân thì biết ngay được sự tốt xấu trong việc cai trị đất nước của mình. Để lật đổ chính quyền nhà Hạ, trước hết Thương Thang đã cai trị tốt nội bộ, động viên nông dân canh tác, chăn nuôi gia súc, đoàn kết với các chư hầu phương bá thân thiện với Thương. Một số chư hầu lần lượt chống lại nhà Hạ rồi quy thuận Thương Thang. Có một câu chuyện “lưới kéo ba mặt”, chuyện đó chính là nói Thương Thang đã thi hành nhân đức rộng rãi mà khiến cho các chư hầu quy phục. Có một lần Thang bước vào trong rừng núi ở ngoại ô nhìn thấy một người nông dân đang giăng lưới bắt chim ở trong rừng cây. Khắp cả bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc anh ta đều giăng lưới. Sau khi giăng lưới xong, người nông dân cầu nguyện rằng: - Cầu trời phù hộ, lưới đã giăng xong, nguyện cho chim bay trên trời, thú chạy dưới đất, chim từ bốn phương tới đều vào trong lưới của ta! Thang nghe xong, vô cùng thương cảm nói: - Chỉ có Hạ Kiệt mới có thể tàn nhẫn như vậy mà đi giăng lưới bắt chim săn thú mà thôi! - Thang cảm thấy giăng lưới như vậy thì tất cả đều bị bắt hết, quá ư tàn nhẫn. Liền sai người phá bỏ ba mặt lưới, chỉ lưu lại một mặt rồi quỳ xuống cầu nguyện với lưới rằng: - Hỡi chim bay trên trời, hỡi thú chạy dưới đất muốn bay sang trái thì sang trái, muốn chạy sang phải thì sang phải, muốn bay cao thì bay cao, muốn xuống thấp thì chui vào trong lưới đó! Rồi Thang nói với người nông dân, đối với loài cầm thú cũng cần phải có trái tim nhân đức không thể bắt hết tróc tiệt. Những loài cần phải bắt, đó là loài chim, loài thú không chịu vâng theo thiên mệnh. Người nông dân nghe lời nói của Thang rất lấy làm cảm động. Câu chuyện này rất nhanh chóng được truyền khắp các nước chư hầu. Các nước chư hầu nghe thấy vậy, nói “Đức của vua Thang chí lý, thấu tới cả cầm thú chim muông!” (“Sử ký - Ân bản kỷ”). Các nước chư hầu cho rằng Thang là một vị vua có đức, có thể tín nhiệm được, đã có tới hơn bốn chục nước chư hầu rất nhanh chóng quy thuận với Thang. Từ sự hoang dâm bạo ngược, quốc chính hỗn loạn, dân chúng chống lại, người thân xa rời, “bách tính hết chịu nổi” của Hạ Kiệt, Thang đã nhìn thấy xu thế diệt vong của triều nhà Hạ. Từ chỗ “Kiệt không trọng đức, dùng võ lực giết hại dân chúng” (“Sử ký - Ân bản kỷ”), từ trong bài học, Kiệt làm mất lòng dân, đã rút ra được kinh nghiệm thống trị, thực hành chính sách “lấy sự khoan hồng cai trị dân chúng” (“Quốc ngữ - Lỗ ngữ thượng”), thi hành nhân đức rộng rãi, động viên sản xuất, giảm hình phạt, nhẹ thuế khoá, đoàn kết với các chư hầu ở bên ngoài, thu phục nhân tâm. Điều này vào lúc đó có thể nói là một loại mưu lược cao siêu. Phân tích từ góc độ phát triển xã hội cũng là một sự tiến bộ lớn trong lịch sử tư tưởng. Thu thập nhân tài, không câu nệ một cách thức nào. Các triều vua trong lịch sử đã qua, việc cướp thiên hạ hoặc giữ thiên hạ, đại phàm là những người đã giành được thành công, không ai là không coi trọng nhân tài. Thương Thang là chúa nô lệ của xã hội nô lệ, thế mà vì để lật đổ Hạ Kiệt tàn bạo, ông cũng đã như vậy, không câu nệ một cách nào trong việc sử dụng nhân tài. Tả tướng Trọng Huỷ của ông là một chúa nô lệ, kể từ tổ tiên đã bắt đầu làm quan cho triều Hạ. Trọng Huỷ nhìn thấy Kiệt bạo ngược, nhân dân oán hận, liền dẫn người trong tộc đến theo Thương. Thang cũng nghe nói Trọng Huỷ là một người có tài cán, liền thỉnh giáo Trọng Huỷ về đạo trị quốc. Trọng Huỷ đã đề xuất chiến lược tích luỹ lực lượng, trước hết tiêu diệt các nước chư hầu thù địch với Thương, sau đó sẽ diệt Kiệt. Hữu tướng của Thang tên gọi là Y Doãn, xuất thân từ nô lệ, từ nhỏ đã lưu lạc, đã từng làm đầu bếp, thế nhưng rất có tài cán. Y Doãn dùng kế tới gần Thương Thang, Thang phát hiện Y Doãn quả thật là một hiền tài, bèn phong cho làm hữu tướng. Cả hai người này cùng phò tá Thang, cuối cùng đã diệt được vương triều Hạ. Sau khi đoạt được chính quyền, Y Doãn đã dốc toàn sức lực củng cố vương triều Thương, đã đề xuất được rất nhiều chủ trương tốt. Vận dụng gián điệp, do thám nghe ngóng hư thực của Hạ Kiệt. Trong cuộc chiến tranh tiêu diệt nhà Hạ, Y Doãn đã từng có hai lần bổ sung gián điệp, hai dịp tới triều Hạ tiến hành hoạt động gián điệp. Một mặt tuyên dương nhân đức của Thang, tiêu trừ sự hiềm nghi của Hạ Kiệt, một mặt khác đi sâu vào thăm dò những điều cơ mật của nhà Hạ, điều tra địa hình Trung Nguyên, mua chuộc các trọng thần của nhà Hạ, ly gián mối quan hệ giữa nhà Hạ với các nước chư hầu. Đây là nhân tố quan trọng để cho Thương Thang diệt Hạ. Nắm chắc thời cơ chiến đấu, chỉ một hành động là tiêu diệt được nhà Hạ. Trên mặt chính trị, Thang tuyên dương “điếu dân phạt tội”, trên mặt quân sự, Thang đã thay thế được sự so sánh tương quan lực lượng Hạ Kiệt, đã triệu tập hội nghị liên minh các thuộc quốc. Mân Thị (Đông Bắc Kim Hương, Sơn Đông ngày nay) bất mãn với triều Hạ, đã chống lại Hạ Kiệt. Hạ Kiệt đã ra lệnh cho các nước chư hầu cất quân chinh phạt, quân đội của Cửu Di không dấy binh. Y Doãn nói: - Được lắm! - Thang mới cất quân (“Thuyết Uyển – Quyền mưu thiên”). Các nước chư hầu không nghe sự điều khiển của Hạ Kiệt. Thang nhìn thấy thời cơ diệt nhà Hạ đã chín muồi, liền kêu gọi các nước liên minh cất quân phạt Kiệt. Trước khi xảy ra cuộc chiến, Thang đã phát biểu lời tuyên thệ khảng khái xúc động, rồi đi quanh đường phương Tây xuất kỳ bất ý tiến công vào Hạ đô. Kiệt xuất quân vội vã ra ứng chiến, thất bại chạy về Ô Điêu (phía Đông Phong Khâu, Hà Nam ngày nay). Quân Thương tiến đến Ô Điêu quyết chiến với quân Hạ. Quân Thương đại thắng, rồi lại thừa thắng tiêu diệt Tam Soả là thuộc quốc của nhà Hạ (nay là phía Đông Định Đào, Sơn Đông). Cuộc chiến tranh tiêu diệt nhà Hạ của Thương Thang đều đã thể hiện ra những mưu lược tâm lý chiến, tuyên truyền chiến, gián điệp chiến cùng với mưu lược vu hồi triệt đường rút lui của quân địch với quy mô lớn. Thương Thang lập quốc, kiên trì tư tưởng “Thị thủy kiến hình, thị dân kiến trị”, tăng cường sự liên hệ với các thị tộc bốn phương, xúc tiến sự dung hợp càng nhiều với các thị tộc. Suốt cả cuộc đời của Thương Thang, về các phương diện thống trị chính trị, chiến tranh quân sự v.v... đều vận dụng đầy đủ tài năng mưu lược của mình. Thương Thang chính là nhà mưu lược chính trị quân sự kiệt xuất trong xã hội nô lệ ở Trung Quốc. 7. Y DOÃN ĐỔI THAY CƯỜNG NHƯỢC, MƯU ĐỊNH HƯNG SUY Đối với việc ghi chép về cuộc đời và sự tích của Y Doãn có thể nhìn thấy tản mạn ở trong các sử tịch như “Trúc Thư kỷ niên”, “Thư kinh”, “Trang Tử”, “Mặc Tử”, “Tôn Tử”, “Lã Thị Xuân Thu”, “Sử ký” và “Thuyết Uyển” v.v... Chỉ đáng tiếc là số lượng rất ít, nội dung sơ sài đơn giản, hơn nữa cách nói không giống nhau. Căn cứ vào những tư liệu lịch sử hiện có, chúng ta được biết, Y Doãn vốn có tên gọi là Y Chấp, trong vương triều Thương, lần lượt đảm nhiệm các chức quan Doãn, A Hoành, Bảo Hoành v.v... Bởi làm quan mà được tên, lại còn có tên là A Hoành, Bảo Hoành. Ông xuất thân từ thị tộc Hữu Tân (hiện tại cư trú tại vùng Trần Lưu, Hà Nam, huyện Tào Sơn Đông), truyền thuyết nói rằng ông là con cháu đời sau của đại tướng Lực Mục trong thời đại Hoàng Đế, là một con người ôm ấp hoài bão lớn lao, lại là người học rộng đa tài. Y Doãn đã coi việc “tự nhận công việc nặng nề trong thiên hạ” để “phạt Hạ cứu dân” là nhiệm vụ của mình, cho rằng muôn dân bách tính trong thiên hạ nếu không được hưởng hạnh phúc của trời Nghiêu ngày Thuấn, thì coi như bản thân mình đã đẩy họ vào rãnh sâu đầm lầy (Xem “Mạnh Tử - Vạn chương thượng”). Tài năng của Y Doãn đã nhìn thấy từ trước Thương Thang, tên tuổi của ông đã vượt ra khỏi bang ngoại. Thương Thang cho rằng “Y Doãn đối với nước ta cũng ví như một thầy thuốc tài giỏi bốc thuốc” (Xem “Mặc Tử - Quý Nghĩa”). Đối với việc gặp gỡ giữa Y Doãn với Thương Thang, có hai thuyết nói mang tính chất đại biểu. Một thuyết nói Y Doãn chủ động cầu dụng ở Thang. Y Doãn muốn gặp Thang nhưng không có cơ hội, liền tự nguyện làm người hầu dẫn đồ cưới cho con gái vua Hữu Tân Thị, cõng nồi và đồ đạc tới Thương Đô “để làm vui lòng vua Thang”, thừa cơ tiến kiến những phương kế mưu lược cai trị đất nước. Thang đã cử Y Doãn vào “làm việc trong nhà bếp”, “học hỏi rồi trở thành thần tử”. Còn một thuyết nữa nói Y Doãn bị động được mời đến gặp Thương. Thương Thang nghe nói Y Doãn cày ruộng ở trên đồng Hữu Tân là một người rất có tài năng, liền cử người tới mời ông. Trước sau đã mời tới ba lần (một thuyết nói là mời năm lần), Y Doãn mới chịu ra phò tá Thương Thang. Y Doãn trình bày về “Vương Đạo” với Thang, bao gồm những bài học kinh nghiệm cai trị thiên hạ của các vị vua qua các triều đại và sách lược giành thiên hạ, rất được Thang tín nhiệm, liền được trọng dụng một cách phá lệ, “cử Y Doãn làm tướng cho mình, tiếp giữ chính quyền trong thiên hạ, cai trị dân chúng trong thiên hạ”. Trong giai đoạn mở đầu của đất nước, Y Doãn đã tham gia quyết sách quân sự chính trị và chỉ đạo chiến tranh giúp Thương Thang, phụng mệnh hoàn thành trinh sát chiến lược và nhiệm vụ “dùng gián điệp”, đã biểu hiện ra tư tưởng mưu lược lỗi lạc và tài năng chính trị, quân sự tuyệt vời. Trong giai đoạn xây dựng đất nước, Y Doãn đã giúp đỡ mấy đời vua Thương cai trị đất nước, thống nhất thiên hạ, hơn thế đã nhiếp chính ba năm, giúp đỡ vua Thương xây dựng lên một quốc gia theo chế độ nô lệ thống nhất thứ hai trên lịch sử Trung Quốc. Trong những phụ thần quan trọng của Thương Thang như Trọng Huỷ, Nhữ Cưu, Nhữ Phương v.v... Y Doãn đứng ở hàng đầu, có cống hiến rất to lớn. Những tư tưởng mưu lược và tài năng chính trị, quân sự của Y Doãn được biểu hiện tập trung ở ba mặt dưới đây: DÙNG GIÁN ĐIỆP Y Doãn được Thương Thang cử tới Hạ Đô chấp hành nhiệm vụ trinh sát chiến lược hai lần, đã tiến hành hoạt động phân hóa làm tan rã nội bộ tập đoàn thống trị của vương triều nhà Hạ. Thương Thang sợ Hạ Kiệt hoài nghi, còn đạo diễn ra một loại khổ nhục kế “Đích thân bắt Y Doãn, Y Doãn bỏ chạy sang nhà Hạ”. Trong vòng thời gian ba năm, Y Doãn trước sau đã năm lần tiến vào Hạ Đô, nắm vững tình hình chính trị, quân sự cùng với kinh tế, địa lý của vương triều nhà Hạ, trở về Thương Đô báo cáo với Thang nói rằng Hạ Kiệt Vương hoang dâm vô đạo, “không thương dân chúng, ý chí bất hòa, trên dưới tranh giành, lòng dân oán hận”. Muôn người đều mong muốn vương triều nhà Hạ sớm có ngày bị diệt vong, “đều nói trời không dung nhà Hạ, bắt Hạ phải chết”. Đối với điều này, Thương Thang rất mãn ý, khen ngợi Y Doãn đã hoàn thành trọn vẹn nhiệm vụ rồi cử Y Doãn làm ra quyết sách chiến lược tiêu diệt nhà Hạ, lại một lần nữa cử Y Doãn tới Hạ Đô (Đoạn thực sử này đã được ghi chép trong “Thuyết Uyển”). Y Doãn tiến vào Hạ Đô kết giao với nguyên phi Mạt Hi đã bị Hạ Kiệt ruồng bỏ, “dần dần ly gián nhà Hạ”, tiến hành hoạt động chống phá trong tập đoàn thống trị nhà Hạ. Những hoạt động này đã đặt ra quyết sách chiến lược đối với nhà Hạ của Thương Thang, đã có tác dụng rất quan trọng. Tôn Vũ đã tổng kết kinh nghiệm lịch sử này, trong thiên 13 binh pháp của ông, Tôn Vũ nói: “Biết mình, biết người trăm trận đánh đều không nguy hiểm”. “Sự hưng thịnh của nhà Thương ngày trước là do Y Chấp ở nước Hạ; sự hưng thịnh của nhà Chu là do Lữ Nha ở nước Ân. Đều là do các vị minh quân hiền tướng biết dùng mưu trí ly gián kẻ thù, tất thành công lớn. Sự quan trọng của đội quân này chính là chỗ dựa của ba quân hành động vậy!” (“Tôn Tử binh pháp - Mưu công thiên - Dụng gián thiên”). TIẾN ĐÁNH Thương là thuộc quốc của Hạ, vốn dĩ chỉ chiếm một vùng đất lớn nhỏ bảy mươi dặm, trên mặt chính trị và quân sự đều ở vào địa vị bất lợi. Làm thế nào để biến thế bất lợi trở thành thế có lợi, chuyển yếu thành mạnh? Để thực hiện mục tiêu chiến lược diệt Hạ giành tự lập của mình, Thương Thang đã cấp thiết giải quyết đầu tiên vấn đề này. Y Doãn đã hiệp sức giúp đỡ Thương Thang làm ra quyết sách thích đáng, sử dụng những biện pháp có sức mạnh. Nhằm thẳng vào tình hình không coi trọng đạo đức mà chỉ dùng vũ lực tàn hại dân chúng, dân chúng không sao chịu đựng nổi. Họ đã giương cao ngọn cờ “điếu dân phạt tội”, “nội tu đức chính, ngoại kết chư hầu”, vạch rõ tội trạng của Hạ Kiệt, tuyên dương đức chính của Thương Thang, tạo thành cục diện chính trị “dân chúng mong đợi trông chờ như đại hạn gặp mưa rào”, các nước chư hầu đều quy theo Thang. Đồng thời lại lợi dụng ông làm địa vị đặc thù được quyền đi chinh phạt các phương bá nhà Hạ, sử dụng sách lược đả kích quân sự kết hợp với tranh thủ chính trị, kết giao và kiêm tính các thuộc quốc của triều Hạ, xóa bỏ các vây cánh của Hạ Kiệt, mở rộng thực lực của mình. Các nước Cát, Vĩ, Cố, Côn Ngô nằm ở giữa Hạ Thương đều là thuộc quốc của nhà Hạ, là lực lượng dựa dẫm thân cận của Hạ Kiệt. Lực lượng nước Cát ở gần Hào, thủ đô của Thương tương đối yếu, việc thống trị không ổn định. Thương Thang lấy việc đánh Cát làm đột phá khẩu để bắt đầu hoạt động kiêm tính. Ban đầu Thương Thang mượn cớ là Cát không cúng tế tổ tiên để phát động thế tấn công chính trị. Lại lấy việc trợ giúp tế lễ làm chiêu bài cử, cử người vào trợ giúp việc canh tác, cung cấp rượu thịt cho những người già cả để tranh thủ lòng dân. Cát Bá không những không thay đổi hành vi “không tế lễ tổ tiên” mà còn cướp đoạt hết rượu thịt mà Thương Thang chuyển tới, giết chết những nhi đồng không giao nộp rượu thịt. Thương Thang nắm vững cơ hội này, cất quân tới hỏi tội, tiêu diệt nước Cát. Sau đó, lại liên tục tiêu diệt ba nước Vĩ, Cố, Côn Ngô, chiếm lấy bình nguyên Duyên Dự, tạo thành sự uy hiếp chiến lược đối với thủ đô nước Hạ, đã thay đổi hẳn hình thế Hạ cường Thương nhược trên mặt quân sự. ĐÁNH BẰNG MƯU Trận đánh ở Ô Điêu là trận quyết chiến chiến lược của Thương Thang lật đổ vương triều nhà Hạ. Trên các mặt tuyển chọn thời cơ quyết chiến, quyết định phương hướng quyết chiến, Y Doãn đã phát huy được tác dụng quan trọng. Căn cứ vào ghi chép trong “Thuyết Uyển”: Thang muốn đánh Kiệt, Y Doãn nói: Xin hãy cản trở việc cống chức hắn, để xem động tĩnh của hắn ra sao. Kiệt tức giận, cất quân đội của Cửu Di tới đánh. Y Doãn nói: Chưa thể được. Bọn chúng cất quân Cửu Di tới đánh ấy là do lỗi ở tại ta. Thang lại tạ tội xin lỗi rồi cống chức trở lại. Sang năm sau lại không cung cấp cống chức. Kiệt tức giận, lại cất quân Cửu Di. Quân Cửu Di không tuân theo. Y Doãn nói: “Có thể đánh được! Thang mới cất quân đi đánh”. Đoạn ghi chép trên đây nói rõ, trên mặt tuyển chọn thời cơ quyết chiến, Thương Thang và Y Doãn chẳng những đã suy nghĩ tới thực lực quân sự của hai bên mà còn suy xét tới xu hướng của lòng người, dùng biện pháp trinh sát gần như sức lửa, đình chỉ việc tiến cống để quan sát phản ứng của đối phương. Nhìn thấy Hạ Kiệt vẫn có thể điều động được quân đội của Cửu Di, liền khôi phục việc tiến cống. Đợi tới khi quân đội Cửu Di không phục tùng theo sự điều động nữa, mới cất quân đánh Kiệt. Cuộc chiến biết sẽ thắng rồi mới cất quân đến đánh, đó là một quyết sách vừa thận trọng lại vừa kiên quyết, dứt khoát. Trên việc xác định phương hướng quyết chiến, căn cứ vào ghi chép của “Lã Thị Xuân Thu” và “Sử Ký” thì Thương Thang không phải là dựa theo vị trí địa lý thiên nhiên mà Thương Hạ ở, phát động cuộc tiến công chính diện từ Đông sang Tây đối với Hạ Đô, mà là “dẫn quân đội từ phương Đông kéo sang phía Tây đất nước đế tiến đánh”, thực hành chiến lược vu hồi, vòng quanh phía Tây Hạ, phát động cuộc tiến công bất ngờ. Kết quả là quân nhà Hạ phải vội vã ứng chiến và “chưa đụng kiếm mà Kiệt đã phải chạy”, “tháo ra khỏi Ô Điêu”. Thương Thang đã huy động quân đội đuổi theo, đại chiến với Hạ Kiệt ở Đô Điều, đánh bại quân Hạ, chỉ một trận đã lật đổ vương triều nhà Hạ. Quyết sách này đã có quan hệ tương đối lớn đối với việc Thương Thang, Y Doãn thông thuộc cách bố trí quân sự và hoàn cảnh địa lý của vương triều nhà Hạ. Những hoạt động thực tiễn về quân sự của Y Doãn đã chứng tỏ, ông đã tham dự vào quyết sách quân sự của Thương Thang, giúp đỡ Thương Thang chỉ huy tác chiến, thậm chí còn đích thân tiến hành trinh sát chiến lược, trên thực tế đã có chức năng và tác dụng làm quân sư cho hậu thế và tổng tham mưu trưởng cho cận đại. Có thể nói được rằng Y Doãn là nhân tài mưu lược ở tầng lớp cao xuất hiện sớm nhất thời cổ đại Trung Quốc. 8. Y TRẮC MƯỢN TANG CỐC CỘNG SINH, CHÊ THÁI MẬU THIỆN CHÍNH Y Trắc là con trai của Y Doãn. Khi vua Thái Mậu nhà Thương kế vị đã phong cho Y Trắc làm tướng. Y Trắc cũng giống cha, là một vị tướng nổi tiếng hiền tài trong đời nhà Thương. Triều Thương tới thời kỳ của Thái Mậu, những thế lực đã có trong các nước chư hầu phương quốc, đều đã lớn mạnh. Giai cấp thống trị quý tộc chúa nô lệ đứng đầu là vua Thương, đã có sự bóc lột và áp bức đối với bình dân và nô lệ càng thêm tàn khốc, dẫn tới sự bất mãn của chư hầu, phương quốc và nhân dân, có những chư hầu và phương quốc đã đình chỉ việc tiến cống và chúc tụng lên vương triều. Tài năng mưu lược của Y Trắc đã nhanh chóng khiến cho vua Thái Mậu thiện chính tu đức, đã mở ra thời kỳ hưng vượng phát đạt nhất từ sau vua Thái Giáp vương triều nhà Thương. Thái Mậu sau khi kế tục người anh là Ung Chính lên làm vua Thương đối với cục diện “Ân đại suy, các chư hầu không tới” (“Sử ký - Ân bản kỷ”), cương lĩnh triều chính không hưng thịnh, các chư hầu không tôn trọng vương triều nhà Thương phải đối mặt, vẫn không phấn đấu vươn lên, tăng cường cai trị khẩn trương, vẫn cứ xem thường coi nhẹ việc triều chính. Đúng vào năm thứ bảy Thái Mậu, trong sân đình của vương cung, một cây dâu và một cây cốc (tức cây chử) [6] đồng thời cũng sinh ra. Hai cây cùng mọc chung nhau, hơn thế lại mọc rất nhanh, chỉ trong một đêm đã to bằng nắm tay. Đây vốn là một hiện tượng ngẫu nhiên trong sự sinh trưởng của loài thực vật. Thế nhưng ở vào thời đại đó, con người còn chưa có loại tri thức thực vật học này. Vào thời đó con người thường coi sự sinh trưởng của các loài thực vật và sự sinh trưởng của sinh mệnh con người là do mối liên hệ tin tức thần bí nào đó gắn liền lại, họ đã coi hiện tượng này như sự xuất hiện của loài yêu nghiệt. Thái Mậu rất mê tín vào quỷ thần, do đó đã vô cùng hoảng sợ. Y Trắc muốn khuyên can Thái Mậu chớ có chỉ ăn chơi hưởng lạc mà phải chăm chỉ với công việc triều chính, liền thuận theo dòng suy nghĩ mê tín quỷ thần của vua Thương, đẩy thuyền theo dòng nước chảy nói: - Thần nghe nói yêu nghiệt không thắng nổi người có đức độ. Hiện tại có yêu quái xuất hiện, chứng tỏ rằng trên mặt cai trị triều chính của đại vương có những điểm không hợp với chính đức. Nếu biết thiện chính tu đức, lấy đức trị dân, lẽ dĩ nhiên có thể miễn trì được họa hại! Thái Mậu mê tín quỷ thần, nghe theo lời giải thích như vậy của Y Trắc, bàng hoàng lo sợ, quả nhiên đã cải bỏ lỗi trước, bắt đầu cần mẫn việc vương chính, nỗ lực cai trị quốc gia, dựa hẳn vào Y Trắc, Thân Hộ và Vu Hàm cùng các lão thần khác, các công việc triều chính đều triển khai một cách thuận lợi. Cây tang cốc cùng mọc ở trong vương cung, đâu có phải là được mọc ở dưới nắng trời trong đất và nước màu mỡ, căn bản không có đầy đủ điều kiện đế sống được lâu dài, do vậy chỉ sau một thời gian, tự nhiên nó đã khô héo rồi chết. Và như vậy, Y Trắc cùng các vị đại thần khác lại căn cứ vào đó tuyên dương khuếch đại trước đây Thái Mậu buông lỏng chính sự nên ma quỷ đã sinh ra. Hiện tại Thái Mậu đã được Thượng đế ban phúc, cần cù chăm chỉ, ngay cả cây cối cộng sinh yêu ma tà nghiệt cũng phải hoảng sợ thịnh đức của Thái Mậu mà chết. Đối với điều này, Thái Mậu càng tin tưởng sâu sắc, chẳng chút nghi ngờ. Thái Mậu đã trịnh trọng hạ lệnh cho các quan đại thần tiến hành đại lễ cúng bái long trọng ở ngoại ô Vương Đô, để cảm tạ sự phù hộ của đất trời sông núi. Y Trắc đã dùng việc đức độ có thể chiến thắng yêu nghiệt đó khuyên can vua Thái Mậu. Vào thời đại ngày nay, con người xem tới có thể bật cười, thế nhưng trong điều kiện lịch sử lúc đó, khi con người còn chưa có khả năng nhận thức một cách khoa học mối quan hệ giữa mình và tự nhiên, thì loại phương pháp này vẫn thích ứng được tư tưởng của Thái Mậu. Y Trắc đã dùng hiện tượng “Tang cốc cộng sinh” trịnh trọng cảnh giới Thái Mậu, Thái Mậu quả nhiên đã cải đổi, sửa lỗi để trở thành con người mới. Y Trắc lại phóng đại tuyên dương thịnh đức mà Thái Mậu sau khi đã sửa lỗi, trên mặt khách quan đích thực đã có tác dụng vỗ về làm yên lòng dân, thu phục được các nước chư hầu, khiến cho “Ân đạo phục hưng, chư hầu quy thuận” (“Sử ký - Ân bản kỷ”). Y Trắc dùng “Tang cốc cộng sinh” khuyên can Thái Mậu, khiến cho sự phát triển của vương triều nhà Thương bước sang một giai đoạn mới. Y Trắc dốc sức phò tá Thái Mậu dẫn tới sự cường thịnh của một quốc gia theo chế độ nô lệ, đến cuối đời Thái Mậu, ngay cả tộc Cửu Di ở phương Đông đối với vương triều nhà Thương không thật thân phụ, như gần mà lại như xa, cũng hăng hái tới cống nạp triều kiến. Thời kỳ Thái Mậu là thời kỳ hưng thịnh phát đạt nhất sau vương triều Thái Giáp nhà Thương. Điều đó đã không thể tách rời việc dốc toàn lực ra phò trợ của Y Trắc. 9. CHU VĂN VƯƠNG ĐẶT NỀN MÓNG CHO TÂY CHU, MƯU CƯỚP CHÍNH QUYỀN ÂN THƯƠNG Chu Văn Vương do có tài năng chính trị lỗi lạc cùng với những công tích tuyệt vời mà ông sáng tạo ra, trong lịch sử nhà Chu ông đã chiếm địa vị đặc thù, cao cả, do đó đã được người đời sau tôn sùng ca ngợi. Ông chẳng những đã khiến cho nhà Chu có đủ sức mạnh tiêu diệt nhà Ân, hơn thế còn giúp cho con trai của ông là Chu Vũ Vương nhanh chóng tiến thẳng vào con đường tiêu diệt Trụ sau này. Ông đã là người đặt nền móng cho Chu diệt Ân, cướp lấy chính quyền trong cả nước, xây dựng lên vương triều Tây Chu. THI HÀNH “NHÂN CHÍNH”, LUNG LẠC NHÂN TÂM Chu Văn Vương, họ Cơ tên Xương, từ nhỏ đã thông minh lanh lợi, có chí hướng khác thường. Truyền thuyết nói rằng, lúc nhỏ Cơ Xương đã từng có con Sẻ tía miệng ngậm đan thư đậu ở trước cửa nhà, cho nên đã có “điềm thánh”, hễ vừa nắm giữ chính quyền là người Chu tất đã có thể hưng vượng phát đạt. Cho nên người ông rất quý mến Cơ Xương. Người ông qua đời, truyền ngôi cho cha là Lý Lịch. Lý Lịch qua đời truyền ngôi cho Cơ Xương. Đây chính là Chu Văn Vương nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Lịch sử còn gọi là Tây Bá Văn Vương. Chu là một bộ lạc cổ lão hoạt động lúc đó ở một vùng cao nguyên Hoàng Thổ phía Tây Bắc Trung Quốc. Chu là một thuộc quốc ở phía Tây nước Thương. Chu thừa nhận địa vị chúa chung thiên hạ của Thương, hơn thế còn giao nộp cống phẩm định kỳ cho Thương. Sau khi Cơ Xương kế vị, kế thừa sự nghiệp mà tổ tiên khai sáng, thực hiện các pháp chế mà lớp cha ông đã đặt ra, thực hành nhân chính, kính già yêu trẻ, trọng người tài học kẻ sĩ. Ông bắt đầu thực hành trước tiên từ trong đại gia đình của mình, trên là hiếu với cha mẹ, săn sóc chăm hỏi sớm tối, dưới là có yêu cầu nghiêm khắc đối với vợ con anh em, làm một tấm gương sáng mẫu mực cho toàn thể gia tộc. Lấy đại gia đình mình làm trung tâm, hình thành sức ngưng tụ lớn mạnh, lấy đó đoàn kết mọi người trong tộc, củng cố nội bộ. Ông giỏi việc quan sát thể nghiệm dân tình, tìm hiểu sâu sắc những nỗi gian nan trong việc làm ruộng của dân chúng bình thường. Ông còn chú ý chăm sóc chiếu cố tới những tiểu dân goá bụa côi cút, không nơi nương tựa, nghĩ mọi cách giải quyết khó khăn cho họ. Những điều “nhân chính” mà Chu Văn Vương thực hành quả thực đã thu được hiệu quả. Căn cứ vào điều nói trong “Thi-Đại Nhã - Linh Đài”, ông đã xây dựng Linh Đài, thu thập những xương khô cốt lạnh vứt bừa bãi trên gò đống đem chôn cất vào trong Linh Đài. Sau khi dân chúng biết tin, họ đã tranh giành hăng hái chỉ sợ bị rớt ở đằng sau, như những người con giúp đỡ công việc cho cha mẹ. Kết quả là Linh Đài đã xây dựng hoàn thành rất mau chóng. PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT, LẤY ĐẠO TRỊ QUỐC Chu là một quốc gia mới hưng thịnh, đang ở vào thời kỳ thăng tiến, Cơ Xương lại là con người có đầu óc chính trị, ông đã sử dụng một loạt các biện pháp tích cực, không ngừng có những điều chỉnh tương ứng đối với chính trị, ra sức phát triển sản xuất, hòa dịu các mâu thuẫn giai cấp, khiến cho đất nước xuất hiện những cục diện tốt đẹp, chính thông nhân hòa, thượng hạ yên vui. Ví dụ, trên mặt kinh tế ông đã thi hành một loạt chính sách tương đối sáng suốt rộng mở, về lao dịch địa tô, gọi là “Canh giả cửu nhất”. Tức là một người nông dân cấy trồng một trăm mẫu ruộng thì phải trao nộp cho Nhà nước một số lượng trợ canh nhất định, lượng phải bỏ ra là một phần mười, nhẹ hơn so với chế độ Nhà nước nô lệ triều nhà Thương. Lại ví dụ như việc ông cho khai thông quan ải, động viên khích lệ tự do kinh doanh thương nghiệp. Quan thị chỉ kiểm tra những người khác tiếng nói, khác y phục mà không đánh thuế. Do vậy đã xúc tiến được việc phát triển thương nghiệp. Ông còn cho phép dân chúng có thể tuỳ tiện vào núi rừng đầm trạch, tuỳ ý săn bắt thú vật. Ngoài ra còn quy định kẻ phạm tội chỉ đề cập tới bản thân họ, không cho phép dây dưa liên luỵ, khiến cho gia đình họ hàng không bị tội lây, như vậy đã ngăn ngừa được sự phân hóa của dân tự do, đảm bảo được đầy đủ sức lao động cho việc theo đuổi nghề nông, hơn thế, vì việc đó đã thu hút được sự ủng hộ của đông đảo dân chúng đối với ông trên mặt chính trị. Là một nhân vật đại biểu cho chính quyền của chế độ nô lệ, để ổn định trật tự thống trị của chế độ nô lệ, Cơ Xương đã đặt ra pháp luật “Hữu vong hoang duyệt”, tức là thanh tra đại quy mô theo định kỳ những nô lệ bỏ trốn. Phàm những kẻ chạy trốn đều phải bắt trở lại. Sự quay lại của ai thì người đó được sở hữu. Ông còn cho phép “Sĩ giả thế lộc”, tức là những người làm quan ở triều đình thì con cháu của họ đời đời được hưởng bổng lộc của quốc gia. Điều này đã khiến ông được sự nhất trí ủng hộ của các quý tộc chủ nô lệ. Chu Văn Vương nắm giữ chính quyền suốt năm mươi năm. Suốt một thời gian dài ở ngôi đã khiến cho ông có cơ hội ung dung, kiên trì bền bỉ đẩy mạnh sự nghiệp của nhà Chu. Một số nước nhỏ thuộc hạ của Vương triều nhà Thương, có nước bị Chu dùng vũ lực chinh phục, có nước bởi hoảng sợ thế lực của nhà Chu, đồng thời cũng vì để chạy thoát khỏi sự khống chế của quốc gia nô lệ nhà Thương mà chủ động quy thuộc vào Chu. Thậm chí một số nô lệ, bình dân cùng với chủ nô lệ cỡ trung, cỡ nhỏ cũng không chịu đựng nổi sự áp bức chính trị và bóc lột kinh tế tàn khốc mà chạy trốn về phía nhà Chu. Do vì Cơ Xương cai trị đất nước có đường lối, thành tích nổi bật đã khiến cho Chu từ một thân thuộc của Thương, cuối cùng đã biến thành lực lượng tranh giành chống đối với Ân. MÌNH NGHIÊM GIỮ LUẬT, TU ĐỨC VỮNG VÀNG Vua Trụ nhà Thương cực kỳ xa hoa, đắm chìm trong tửu sắc, tô cao thuế nặng, vơ vét của cải của dân chúng, đam mê quá hóa tiêu tan chí hướng, không cố gắng với việc chính sự, hình pháp nghiêm khắc, lạm dụng thi hành luật tàn khốc, tin kẻ nịnh, ghét người hiền, trọng dụng kẻ gian tà, làm cho lòng dân ly tán, dân oán sục sôi. Cơ Xương đã lấy đó làm người thầy phản diện, cực lực ức chế dục vọng hưởng thụ vật chất, không dám có một chút tơ hào kiêu sa dâm dật và phóng túng quá mức. Ông giữ luật nghiêm khắc với mình, khoan dung đối với người, trước sau gìn giữ được phẩm đức tốt đẹp cần lao chất phác của người Chu, sống cuộc sống cần kiệm, giản dị không xa hoa. Ông cai trị đất nước của mình thận trọng từng ly từng tí một, không dám có chút buông lỏng. Do đó đã khiến cho nhà Chu nước giàu dân mạnh, chư hầu tín phục. Có được sự kiện như vậy rất có khả năng nói rõ được một điều: Hai nước Ngu (vùng Đông Bắc huyện Bình Lục, tỉnh Sơn Tây ngày nay), Nhuế (vùng Tây Bắc Đồng Quan, tỉnh Thiểm Tây ngày nay) đều là thuộc quốc ở phía Tây của Thương, hai bên sông núi gần kề nhau vì một nguyên nhân nào đó đã phát sinh ra sự tranh chấp về lãnh thổ vốn có sự tranh chấp nên tìm cộng chủ của họ là Thương để đàm phán giải quyết. Thế nhưng vua của hai nước này vì sùng mộ uy danh của Chu Văn Vương, không những không tới triều Ân, trái lại hai bên đã tới triều Chu mời Chu Văn Vương phán xử. Sau khi họ bước vào trong đất nhà Chu, những điều họ nhìn thấy, nghe thấy đã khiến họ vô cùng cảm động, họ đã nhìn thấy “người đi cày nhường bờ, người đi đường nhường lối”, “nam nữ có đường đi riêng, người già không có nỗi khổ phải gánh nặng”, “trong triều không tranh chấp địa vị, khiêm tốn nhường nhịn nhau”, nơi nơi đều tràn đầy phong cách quân tử. Sự thực đó đã giáo dục vua hai nước Ngu và Nhuế. Họ đã cảm thấy vô cùng xấu hổ, sau khi trở về nước họ đã tự động đem những đất tranh chấp đều xử lý thành “đất nhàn”. Chu Văn Vương chẳng tốn hơi sức, đã dùng những sự thực sinh động giáo dục họ. Những tin tức về việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ nhẹ nhàng và dễ dàng không có cánh mà đã bay xa, đã nâng cao mạnh mẽ uy vọng của ông trong tầm mắt các nước chư hầu. Đã có trên bốn chục nước, tự động tới quy thuộc khiến cho nhà Chu đạt được ích lợi cực kỳ to lớn trên mặt chính trị và ngoại giao. DÁM ĂN THỊT CON, ẨN TÀNG THAO LƯỢC Vua Trụ nhà Thương bạo ngược vô đạo, cả thiên hạ đều biết. Cửu Hầu, Ngạc Hầu và Trụ Vương Xương (tức Chu Văn Vương) đều là Tam Công của vua Trụ nhà Thương. Cửu Hầu có người con gái đoan trang xinh đẹp được tuyển chọn tiến cung, chỉ vì giữ tấm thân trinh tiết trong sạch, không thích dâm loạn, đã khiến cho Trụ Vương đại nộ, không những đã giết nàng, mà còn giết cả Cửu Hầu, dùng loạn đao băm nát thành tương. Ngạc Hầu nghe tin đã hô hoán kêu oan thay cho Cửu Hầu, cũng bị băm nát thành tương. Người anh thuộc chi thứ của Trụ Vương là Vi Tử nhìn thấy cảnh tượng đó đã phải chạy tới phương xa để trốn tránh. Kỳ Tử thì giả vờ điên thành nô tỳ. Ông chú là Tỷ Can đã bước vào khuyên can liền ba ngày không ra khỏi nhà, cuối cùng đã bị Trụ Vương mổ ngực rạch bụng. Chu Văn Vương nghe được tin này, lo lắng sợ có ngày nào đó sẽ có họa từ trên trời giáng xuống. Thân tín của Thương Trụ Vương là Sùng Hầu Hổ đã phát giác thấy sự uy hiếp của nhà Chu đối với vương triều nhà Thương, đã cảnh tỉnh Thương Trụ Vương, nói: - Trụ Vương Văn Vương hành thiện tích đức, các nước chư hầu đều tranh giành nhau quy thuộc vào hắn. Điều này đối với đế vương ngài sẽ là điều bất lợi cực kỳ to lớn đó! Thương Trụ Vương nghe lời nói có lý liền hạ lệnh bắt Chu Văn Vương tới, giam giữ ở Dữu Lý (nay là huyện Thang Âm tỉnh Hà Nam), cho rằng từ nay trở đi có thể gối cao đầu chẳng còn lo nghĩ gì, vạn sự sẽ tốt lành đại cát. Để trừ bỏ hậu họa, Thương Trụ Vương còn bắt con cả của Chu Văn Vương là Bá Ấp Khảo tới Thương đô Triều Ca để làm con tin, bắt Bá Ấp Khảo làm người đánh xe cho Trụ Vương. Để thử thách Chu Văn Vương có phải thực sự là “Thánh nhân” hay không, Trụ Vương đã hạ lệnh giết chết Bá Ấp Khảo, dùng thịt của Bá Ấp Khảo nấu lên thành canh, bắt Văn Vương phải ăn, còn nói với mọi người: - Ta muốn xem hắn có phải là thánh nhân hay không. Nếu là thánh lẽ dĩ nhiên hắn sẽ biết đó là thịt của con trai mình. Thế nhưng Văn Vương đã hết sức nén nhịn nỗi bi phẫn, giả vờ như không biết, ăn hết ngay bát canh đó. Tới lúc này Trụ Vương mới yên lòng. Sau khi Văn Vương bị bắt giữ, bốn vị thần của ông là Thái Điên, Hồng Yêu, Tán Nghi Sinh và Nam Cung Thích tới Dữu Lý thăm ông. Văn Vương dùng sắc mắt, ám hiệu tay ra lệnh cho bốn thần đó phải tiến hành hối lộ Trụ Vương. Họ đã đi khắp nơi tìm gái đẹp, ngựa tốt, của hiếm vật lạ, thông qua tên sủng thần của Trụ Vương là Phí Trọng để dâng hiến lên Thương Trụ Vương. Trụ Vương nhìn thấy, không kìm nổi vui mừng, nói: - Chỉ một vật này (trỏ vào mỹ nữ) đã là đủ rồi. Làm gì phải cần đến nhiều ngọc báu vật hiếm như thế? Trụ Vương chẳng những đã tha thứ sá miễn cho Chu Văn Vương một cách dễ dàng, mà còn thưởng cho ông nào cung, tên, búa, kích, trao quyền cho ông được chinh phạt các nước chư hầu không nghe lời, được làm trưởng các nước chư hầu ở phương Tây. Chu Văn Vương vừa được thả ra đã lập tức hiến dâng vùng đất phía Tây Lạc Thủy (một chi lưu của Vị Thủy, nay là phía Tây Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây) để làm tê liệt mất cảnh giác thêm một bước của Trụ Vương, còn mượn dịp này thỉnh cầu Trụ Vương huỷ bỏ hình phạt pháo lạc (Pháo lạc là một cách tra tấn cực kỳ tàn khốc, đó là bôi mỡ lên trên cột đồng, ở dưới đốt than đỏ rực, bắt tội phạm phải trèo lên cột đồng. Tội phạm không chịu đựng nổi độ nóng, liền rơi xuống đống than rực lửa ở dưới cột đồng, chết tươi ngay, cách xử tội này vô cùng thê thảm). Trụ Vương nhất nhất đều bằng lòng hết. Những cách làm tích đức hành thiện này của Chu Văn Vương đã thu được lòng dân, khiến cho rất nhiều nước chư hầu đã hăng hái chống lại, xa rời Trụ Vương, ngả về theo ông, khiến cho thế lực của ông ngày càng có xu hướng lớn mạnh. CẦU HIỀN NHƯ KHÁT NƯỚC, THU THẬP RỘNG RÃI NHÂN TÀI Chu Văn Vương cầu mong người hiền như khát nước cần uống, thu thập rộng rãi các nhân tài về mọi mặt. Có một lần trước khi ông ra ngoài đồng săn thú ra lệnh cho Sử Biển gieo quẻ xem bói. Sử Biển nói: - Đi săn thú về phía Bắc sông Nhị Thủy sẽ có thu hoạch rất lớn. Đã không phải là bắt được rồng, cũng chẳng phải là săn được ly [7] , cũng không phải bắt được gấu, cũng không phải là bắt được bi [8] mà là sẽ được một sư phụ. Có được ông ta phò tá có thể gọi là giàu có thịnh vượng được. Văn Vương vừa nghe đã vô cùng sung sướng, nói: - Điềm quẻ bói có lẽ nào lại tốt đẹp như thế hay sao? Sử Biển trả lời: - Ngày xưa tổ tiên của thần là: Sử Trù đã bốc quẻ cho Đại Vũ được Cao Đào. Lần bốc quẻ này cũng giống như lần bốc quẻ trước. Tức thì Chu Văn Vương cung kính trai giới ba ngày, sau đó tới săn bắn ở phía Bắc Vị Thủy, quả nhiên đã gặp được Khương Thái Công. Sau khi trò chuyện với Khương Thái Công, Văn Vương rất vui mừng đã để cho Khương Thái Công cùng ngồi xe với mình để trở về, còn gọi Khương Thái Công là thầy, gọi là “Sư Thượng phụ”. Cuối cùng được sự giúp đỡ của Khương Thái Công đã hoàn thành được sự nghiệp lớn. Chu Văn Vương có hai người em trai, một gọi là Quắc Trọng và một gọi là Quắc Thúc đều thông minh hiền tuệ và rất có tài ba. Văn Vương chọn người tài không vị nể thân tình, dùng họ làm khanh sĩ. Về sau hai người em này đã lập được rất nhiều công lao cho sự hưng vượng của vương thất nhà Chu. Vua Cô Trúc (phía Nam Lư Long Hà Bắc ngày nay) có hai người con trai, một người gọi là Bá Di, một người gọi là Thúc Tề. Khi cha lâm chung muốn lập con thứ là Thúc Tề làm người kế thừa. Sau khi vua Cô Trúc mất, Thúc Tề đã nhường ngôi cho Bá Di, Bá Di không nhận, còn Thúc Tề cũng không muốn lên ngôi, hai người cứ nhường nhịn nhau mãi. Họ nghe nói Tây Bá Văn Vương dưỡng lão kính hiền, rồi lần lượt chạy trốn sang nước Chu. Tân Giáp vốn là thần tử của Thương Trụ Vương, bởi Trụ Vương dâm loạn tàn bạo, đã nhiều lần khuyên can mà vẫn không nghe, nên đã rời Ân tới Chu. Chu Văn Vương đích thân tiếp kiến. Biết ông có tài năng đã dùng làm công khanh, phong cho làm quan ở Trường Tử (nay là Thượng Đảng tỉnh Sơn Tây). Do vì Trụ Vương thi hành tràn lan cực hình tàn khốc, tàn sát giết chóc những người vô tội, làm cho các quan đại thần ai ai cũng cảm thấy nguy nan, dân chúng chống lại, người thân xa rời. Thậm chí ngay cả quan Thái sư, Thiếu sư nắm giữ các điển tịch văn hiến và âm nhạc cũng mang cả điển tịch, nhạc khí đi sang nước Chu. Đến nỗi các bậc hiền đạt trong xã hội như Thái Điên, Hồng Yêu, Tán Nghi Sinh v.v... đều hăng hái mộ danh mà đến. Một thời gian những người tài ở bên cạnh Chu Văn Vương đông đúc, người người đều ngóng vọng uy danh mà đến. Đây là một sự đối chiếu tương phản rất rõ rệt với Thương Trụ Vương, xa người hiền, gần kẻ nịnh, dân chúng chống lại, người thân bỏ đi. CHO NGỰA ĂN NO, MÀI SẮC KHÍ GIỚI, CHUẨN BỊ DIỆT ÂN Công việc chuẩn bị thực tế của người nhà Chu lật đổ ách thống trị của triều Thương, cướp lấy chính quyền trong toàn quốc là thời gian bảy năm, sau khi Chu Văn Vương xưng Vương, cũng chính là công việc được hoàn thành trong bảy năm cuối cùng khi ông còn sống. Trong 43 năm trước đây, do vì hùng tài đại lược của Chu Văn Vương và sự bạo ngược vô đạo của Thương Trụ Vương, trong sự tranh giành lực lượng giữa Chu và Thương, trên thực tế đã hình thành cục diện “Trong ba phần thiên hạ đã có hai của họ”. Sau khi Cơ Xương xưng vương đã đem lại một bước ngoặt mới trong sự phát triển lịch sử. Căn cứ vào ghi chép trong “Thượng Thư đại truyện”, trong bảy năm xưng vương của Chu Văn Vương, tổng cộng đã làm được sáu việc lớn: Năm đầu tiên đã điều giải được mâu thuẫn tranh chấp giữa hai nước Ngu và Nhuế. Năm thứ hai xuất binh trừng phạt Khuyên Nhung. Năm thứ ba tiến đánh Mật Tu. Khuyên Nhung ở phía Bắc nước Chu. Mật Tu ở phía Tây nước Chu. Chu Văn Vương dùng vũ lực đã chinh phục được hai thuộc quốc của Thương, giải trừ được mối lo về sau, liền có thể yên tâm mạnh dạn tiến quân về phương Đông. Năm thứ tư đánh nước Kỳ. Năm thứ năm phạt nước Hàn. Hai nước này đều là thuộc quốc của Thương, đều ở phía Đông nước Chu, cự ly cách kinh đô Ân Vương tương đối gần. Việc chinh phạt đối với hai nước này trên thực tế là đã bắt đầu tiến công chính diện đối với Ân, đã cấu thành sự uy hiếp trực tiếp đối với thủ đô Triều Ca của nước Ân. Chẳng trách khi Kỳ và Hàn bị nhà Chu tiêu diệt, bọn thống trị nước Ân vô cùng kinh hoảng. Quan đại thần Tổ Y khi báo cáo tin này với Trụ Vương đã hốt hoảng kêu thất thanh: “Trời xanh đã sắp sửa kết thúc vận mệnh của Triều Ân ta!”. Năm thứ sáu đánh Sùng. Điều này coi như đã đẩy cuộc chiến tranh tới vùng tâm phúc [9] của nước Ân. Nước Sùng ở gần Tung Sơn là một nước lớn thuộc hạ Ân, cũng là một chướng ngại to lớn sau cùng của Chu Văn Vương tiến công vào nước Ân. Tường thành của nước Sùng cao lớn kiên cố, phòng thủ nghiêm mật. Chu động binh dùng khí giới đánh thành, tiền du hậu đẩy, tả xung hữu đột, đánh mãi mà vẫn khó phân thắng bại. Đánh nhau suốt một tháng trời, tướng giữ thành của nước Ân là Sùng Hầu Hổ vẫn ngoan cường chống đánh, quyết không chịu đầu hàng. Chu Văn Vương soái dẫn quân lính tiến lên, cuối cùng đã tiêu diệt được Sùng Hầu Hổ. Trước khi Chu Văn Vương chinh phạt sang phía Đông, khi đô thành ở Kỳ, đất ở biên giới phía Tây, cự ly đều xa xôi, roi dài nhưng không với tới được. Mãi tới khi Chu tiêu diệt được các nước nhỏ ở Tây Bắc, sau khi ổn định được hậu phương, mới đem trọng tâm rời về phía Đông. Trước tiên, Chu Văn Vương đã xây dựng lên Hoa Ấp ở giữa Kinh Thủy và Vị Thủy (nay là Bắc Bản Hàm Dương Thiểm Tây) để làm trận địa tiền duyên khuếch trương sang phía Đông. Đợi sau khi ba nước Kỳ, Hàn, Sùng diệt vong rồi, hoàn thành việc bao vây Ân Đô Triều Ca, Chu Văn Vương mới đem quốc đô từ Kỳ rời tới Phong (nay là vùng Đông Bắc huyện Lư Tỉnh Thiểm Tây), hoàn thành nốt hạng mục công tác chuẩn bị sau cùng. Thế nhưng giữa lúc công lớn sắp sửa hoàn thành thì chẳng may Chu Văn Vương đã qua đời. 10. CHU VŨ VƯƠNG THUẬN TRỜI DÂN THEO, DIỆT ÂN DỰNG CHU Người Chu diệt Ân cướp đoạt chính quyền trong toàn quốc, Chu Văn Vương đã làm xong công việc đặt nền móng. Chu Vũ Vương kế thừa ý chí của cha, đã sử dụng chính sách và mưu lược chính xác, đánh chắc thắng chắc, cuối cùng đã hoàn thành được đại nghiệp diệt Ân, khai sáng ra giang sơn của đời nhà Chu trong suốt một trăm năm. Từ đó đã đưa lịch sử Trung Quốc vào một giai đoạn mới. Chu Vũ Vương đã dùng tài năng chính trị, quân sự lỗi lạc của mình, chứng minh ông đích thực là một nhà mưu lược thận trọng, vững vàng, giàu tài hoa. Ông là người con kế tục Văn Vương, trong lịch sử nhà Chu ông là một nhân vật có địa vị đặc thù được người đời sau tán dương ca tụng. QUYẾT ĐỊNH SÁCH LƯỢC TÁC CHIẾN Ở HẬU PHƯƠNG, NẮM CHẮC THỜI CƠ Chu Vũ Vương, họ Cơ tên Phát, cha đẻ là Chu Văn Vương. Chu Văn Vương có mười người con trai. Con cả là Bá Ấp Khảo bị Thương Trụ Vương giết hại. Cơ Phát là con thứ hai. Trong các anh em, Vũ Vương và Chu Công Đán có tài cán nhất, do đó đã được cha yêu quý nhất, thường xuyên giúp đỡ cha xử lý các công việc chính sự. Sau khi Chu Văn Vương mất, Vũ Vương lên ngôi. Lúc đó Thương Trụ Vương hoang dâm tàn bạo, ngày càng thậm tệ, mâu thuẫn giai cấp ngày càng có xu hướng gay gắt, đã tới mức độ không thể có thứ thuốc gì cứu chữa được. Vậy mà nhà Chu trải qua sự lao tâm khổ tứ của Văn Vương, trên thực tế đã khống chế được quá nửa thiên hạ rồi, việc tiêu diệt nhà Ân chỉ còn là vấn đề thời gian nữa thôi. Đối mặt với tình hình thực tế trước mắt, Chu Vũ Vương đã tiến hành phân tích lực lượng của hai bên khách quan và tỉnh táo. Ông cho rằng Thương Trụ Vương bạo ngược vô đạo, nỗi oán hận của dân chúng trong nước sôi sục, dân hết đường sống, toàn bộ xã hội giống như một nồi nước đang đun sôi, rối ren hỗn loạn, triều đình nhà Ân sắp sửa bị tiêu diệt, đó là một sự thực. Thế nhưng triều đình nhà Ân là một vương triều đã xây dựng được mấy trăm năm, “một con sâu có đủ trăm chết dù chết vẫn chưa đông cứng”, đối với thực lực của nó, ngàn vạn lần chớ có đánh giá thấp. Còn nhà Chu vốn là một nước nhỏ bé ở biên thuỳ hẻo lánh về phía Tây. Thực lực chính trị, quân sự, kinh tế của nó còn xa lắc xa lơ so với Ân Thương. Nếu không xem xét tới thực lực mà cứ liều lĩnh thì thực chẳng khác gì đem trứng chọi với đá. Do vậy, mặc dù các nước chư hầu đã tham gia liên minh hội, đều dốc sức chủ trương ủng hộ Vũ Vương phạt Thương, Vũ Vương vẫn chưa dám hành động, ông nói: “Chư vị không biết được mệnh trời, hiện tại đánh Thương còn chưa phải là đúng lúc!”, ông đã dứt khoát quyết định quân lính tạm thời trở về Tây Thổ, tiếp tục tích luỹ lực lượng, bình tĩnh quan sát sự biến hóa, chờ đợi thời cơ, sẽ tiến đánh sau. Để nhanh chóng tăng cường sức mạnh của mình, làm yếu lực lượng địch, đối nội, Chu Vũ Vương ra sức sử dụng những người hiền tài, giao cho Chu Công là em cùng mẹ làm Thái Tể, Khang Thúc làm Tư Khấu, Đan Quý làm Tư Không. Những người khác như Chiêu Công, Thái Công, Hoa Công v.v... là những người có tài ba, mỗi người một chức. Nhất thời các nhân tài tụ tập đông đúc, chính trị sôi nổi dâng cao. Đối ngoại, Chu Vũ Vương ra sức tranh thủ các lộ chư hầu, liên hiệp các lực lượng chống Ân, để cô lập kẻ địch, làm lớn mạnh sức mình. Để rời trung tâm chỉ huy tiêu diệt nhà Ân về phía Đông, Chu Vũ Vương đã rời đô thành từ đất Phong tới đất Cảo (nay là bờ Đông Phong Thủy, Tây Nam Tây An Thiểm Tây), tích cực chuẩn bị diệt Ân. Ông còn lợi dụng uy tín và danh vọng của Chu Văn Vương để hiệu triệu các nước chư hầu, đích thân tới Hoa Ấp tế mộ Văn Vương, đem quan tài của Văn Vương chở ở trong xe, ý của ông là phụng mệnh của Văn Vương đi đánh Trụ, chứ bản thân mình không dám tự tiện chuyên quyền, rồi tự xưng là Thái Tử Phát. Để tỏ rõ vũ lực cho Thương triều biết, Chu Vũ Vương còn đích thân soái lĩnh đại đội binh mã tiến hành một cuộc diễn tập quân sự với quy mô lớn ở Mạnh Tân (nay là phía Nam huyện Mạnh, tỉnh Hà Nam) để kiểm duyệt đội ngũ, dùng vũ lực thị uy với kẻ thù, tạo thành áp lực cực kỳ lớn trên mặt tâm lý với đối phương, rồi mượn cơ hội đó rèn luyện binh sĩ, để giành lấy kinh nghiệm tác chiến thực tế. Chu Vũ Vương lợi dụng lần diễn tập quân sự này đã giành được thắng lợi trọng đại trên mặt trận ngoại giao, tranh thủ được hơn tám trăm lộ chư hầu tham gia hội liên minh, cùng ủng hộ sự nghiệp của ông. Chu Vũ Vương vẫn chờ đợi cơ hội tốt nhất để tiêu diệt nhà Ân, bất giác đã hai năm trôi qua. Thương Trụ Vương lúc này lại càng hôn mê bạo ngược, mất hết lòng dân. Lúc đó, một số nhân sĩ có chức của Thương, xuất phát từ lập trường duy trì ủng hộ nền thống trị của triều Thương, đã nhiều lần dùng lời nói thẳng, thậm chí liều chết để khuyên can, chỉ mong mỏi Trụ Vương thay dây sửa phím, khiến cho chính quyền nhà Thương được tiếp tục duy trì. Thế nhưng Trụ Vương vẫn cố chấp, mê muội không tỉnh ngộ, vẫn làm theo ý mình, khiến cho một số hiền thần lương tướng của nhà Thương, vì hoàn toàn tuyệt vọng đối với Trụ Vương mà đã đua nhau rời bỏ ra đi. Cơ cấu thống trị của Thương hầu như bị tan rã tê liệt. Chư hầu các phương cũng một dạ hai lòng, càng rời xa Trụ Vương. Thương Trụ Vương đã trở thành người cô độc côi cút, danh phù hợp với thực. Lúc này, Chu Vũ Vương cho rằng thời cơ tiêu diệt nhà Ân đã chín muồi, liền kêu gọi các nước chư hầu: - Tội ác của nghiệt Ân quả thực đã quá trầm trọng, thuận theo ý trời, dựa vào lòng người, không thể không phạt Trụ! Tức thì Chu Vũ Vương danh chính ngôn thuận dứt khoát quyết định xuất binh, vén lên bức màn quyết chiến diệt Ân. KHÔNG SỢ GIAN NAN NGUY HIỂM, PHÁT BINH DIỆT ÂN Chu Vũ Vương so với cha là Văn Vương chỉ nhỏ hơn mười bốn tuổi. Khi Vũ Vương phát binh diệt Ân thì tuổi tác đã cao. Thế nhưng ý chí của ngài rất hăng hái, càng già sức càng dẻo dai, soái lĩnh đại quân rầm rầm rộ rộ xuất phát tiến vào Thương Đô Triều Ca. Căn cứ vào “Tuân Tử - Nho hiệu” nói, họ xuất phát vào ngày “binh kỵ”, lúc hành quân lại gặp phải sao Thái Tuế, gặp nước lụt mênh mông dâng tràn sông Vị Thủy, tới Hoài Thành thì gặp phải thành đổ, tới Cộng Đâu Sơn thì gặp phải núi băng, đều là những sự việc mà con nhà binh cho là điềm chẳng lành. Thế nhưng Chu Vũ Vương rất có đảm lược, ông không mê tín vào quỷ thần. Khi Vũ Vương vừa mới xuất quân, tiết trời đang nắng sáng bỗng nhiên mưa to tràn ngập, nước lớn dâng cao làm ngập hết mọi cống rãnh. Quan đại thần là Tán Nghi Sinh khuyên can nói: - Đây chẳng phải là yêu nghiệt hay sao? Chẳng phải là ông trời không cho chúng ta phạt Trụ đó hay sao? Trái lại, Vũ Vương đã trả lời: - Không đúng, đây là ông trời đã rửa sạch binh khí cho chúng ta đó! Chu Vũ Vương là con người như vậy, ôm ấp một niềm tin tất thắng, dắt dẫn đại quân gội gió uống sương, ngày đi đêm nghỉ, tiến nhanh tiến thẳng, một mạch chẳng dừng. Vào lúc đó, chỉ có Quốc đô mới xây dựng phòng bị, các thành ấp nói chung rất ít bố trí quân lính. Từ Tây Thổ Cảo Kinh tới Thương Đô Triều Ca hơn chín trăm dặm, hành quân suốt cả tháng trời, trên đường đi không gặp bất kỳ sự chống đối nào. Ba trăm chiếc xe quân trang do Chu Vũ Vương đích thân soái lĩnh; ba ngàn võ sĩ dũng mãnh, bốn vạn năm ngàn quân giáp sĩ lại cộng thêm rất nhiều quân đội của các bộ lạc Dung, Thục, Khương, Cổ và quân lính các chư hầu từ các nơi kéo tới. Từ Mãnh Tân họ vượt qua Hoàng Hà, sau đó men theo bờ sông tiến thẳng về phía Đông. Đúng vào lúc sáng sớm ngày Giáp Tý tháng giêng năm thứ mười một, khi đó trời chưa sáng rõ, quân đội Chu Vũ Vương đã kéo tới Mục Dã, cách ngoại ô Thương Đô bảy mươi dặm (nay là phía Nam huyện Cấp tỉnh Hà Nam), bày thế trận lớn, quyết chiến với Ân Thương. ĐỘNG VIÊN BINH LÍNH TRƯỚC KHI VÀO TRẬN, KHÍCH LỆ SĨ KHÍ Để khích lệ sĩ khí nâng cao sức chiến đấu của quân sĩ tại mặt trận Mục Dã, Chu Vũ Vương đã tiến hành động viên trước khi xung trận. Tay trái ông cầm phù việt màu vàng, tay phải cầm cờ mao màu trắng, múa sang bên trái, múa sang bên phải, uy nghiêm bất khả xâm phạm. Ông phát biểu lời tuyên thệ trước toàn thể các quân lính, động viên họ phấn dũng giết địch, vì việc nghĩa chỉ tiến không lùi, vì nhân dân quyết tâm trừ hại. Tiếp liền sau đó ông nêu ra sáu tội trạng chủ yếu của Thương Trụ Vương: đam mê tửu sắc, sủng hạnh Đát Kỷ; Thuế cao sưu nặng, vơ vét của dân; chơi bời ngông cuồng, bỏ bê triều chính, hình nghiêm phép độc, tàn sát nhân dân, xem nhẹ quỷ thần, không cúng tiên tổ; tin nịnh ghét hiền, trọng dụng kẻ gian. Tiếp đó, Chu Vũ Vương tuyên bố: - Ngày nay ta là Cơ Phát trừng phạt Thương Trụ Vương là thay trời hành đạo, ta đại diện cho người nhà trời tới trừng phạt hắn! Việc động viên trước khi vào trận của Chu Vũ Vương, quả nhiên đã thu được hiệu quả có kỳ hạn. Sĩ khí của quân nhà Chu vốn đã dâng cao nay lại được cổ vũ mạnh mẽ, đã khiến cho các binh sĩ càng thêm căm hận tội ác của Ân Trụ. Do đó vạn quân đồng lòng, cùng chung uất hận, dũng cảm lao vào cuộc chiến đấu tiêu diệt nhà Ân. Quân nhà Chu lính mạnh ngựa khỏe, ý chí chiến đấu của binh sĩ bừng bừng sôi sục, tình cảm kích nộ phẫn hận. Chu Vũ Vương chỉ huy kiên định, điều khiển tài tình. “Ba ngàn người vũ sĩ, ba trăm chiếc nhung xa” làm quân tiên phong như mưa tràn bão giật xông vào chém giết quân Trụ. Thương Trụ Vương đã điều động mười bảy vạn binh mã, đối mặt với thế tấn công như vũ bão của quân Chu, không chịu đựng nổi một trận, số nô lệ bị cưỡng bức tòng quân kia, căn bản không muốn bán mạng cho Trụ Vương. Khi hai quân đối trận, chúng nhốn nháo bỏ chạy hoặc hạ vũ khí đầu hàng, coi Chu Vũ Vương là vị cứu tinh có thể cứu vớt chúng ra khỏi biển lửa, chúng đã dẫn quân Chu đánh vào Triều Ca. Trụ Vương nhìn thấy tình thế nguy cấp, đã quay mình chạy về Vương Cung, tuyệt vọng trèo lên Lộc Đài, nhảy vào lửa tự thiêu rồi chết. Dân chúng trong Thương Đô Triều Ca hân hoan sung sướng nghênh đón Chu Vũ Vương vào thành. Vũ Vương chạy tới dưới chân Lộc Đài, bắn ba mũi tên vào thi thể Trụ Vương, lại dùng hoàng phủ chặt đứt đầu lâu của Trụ Vương, treo cao trên đỉnh cờ Thái Bạch để biểu thị tội ác nhiều bề của Thương Trụ Vương, hiện tại đã bị trừng trị để báo cho thiên hạ được rõ. DÙNG ÂN TRỊ ÂN, CHIA RA ĐỂ TRỊ Chu Vũ Vương giành được thắng lợi trong cuộc chiến tranh, giang sơn đã được đổi họ, chính quyền về tay. Thế nhưng cuối cùng liệu có thể được sự thừa nhận và ủng hộ của bàn dân thiên hạ hay không thì lại là một việc khác. Vũ Vương đã nhận thức được rất rõ ràng về điểm này. Cho nên bước sang ngày thứ hai sau khi diệt Ân, Vũ Vương liền ra lệnh cho mọi người quét dọn đường phố, tu sửa xã tắc, lập tức cử hành nghi thức lên ngôi rất long trọng. Nhà Chu từ đây đã là chúa chung của thiên hạ. Hành động này của Chu Vũ Vương đã có tác dụng không thể đánh giá thấp đối với việc tăng sâu ảnh hưởng đối với nhà Chu trong tâm mắt mọi người trên mặt tâm lý. Chu Vũ Vương nhận thức được việc sáng nghiệp khó khăn, giữ được thành quả càng khó khăn hơn. Bởi vì Chu vốn là một nước nhỏ ở phía Tây là thuộc hạ của nhà Ân, muốn thực hiện được nền thống trị có hiệu quả đối với vùng đất rộng lớn vừa chiếm lĩnh được, với điều kiện lịch sử nước đó là điều khó có thể làm được. Đặc biệt là ở hang ổ cũ của nhà Ân - thành trì của vua Ân xây dựng lên chính quyền mới, vỗ về phủ dụ được dân chúng sống sót của Ân càng là điều khó khăn lắm. Để giải quyết khó khăn này, Chu Vũ Vương đã thương lượng với Chu Công, tiếp thu ý kiến của các di lão [10] nhà Ân, dùng người Ân trị người Ân, chia để trị, đem đất đai trong vương kỳ nhà Ân chia ra làm ba khu vực, trong đó một khoảnh đất ở phương Bắc trao cho Vũ Canh, con trai của Trụ Vương, do Vũ Canh thực thi việc thống trị. Cách làm này của Chu Vũ Vương đã không những không giết Vũ Canh, mà còn phong địa bàn cho Vũ Canh, để cho Vũ nối dõi hương hỏa tổ tông, thống trị dân sống sót của nhà Ân ở trong địa phận. Cho dù chỉ là kế tạm thời bất đắc dĩ phải thi hành, thế nhưng đây lại chính là điểm cao minh sáng suốt trên mặt chính trị của Chu Vũ Vương. Bởi vì Vũ Canh ra mặt cai trị người Ân, dễ dàng được dân chúng tiếp nhận hơn là người Chu trực tiếp thi hành việc thống trị. Để phủ dụ vỗ về lòng dân, Chu Vũ Vương lại sử dụng một loạt biện pháp như thả tù phạm, cứu tế dân nghèo. Căn cứ vào ghi chép trong “Sử ký - Chu bản kỷ” nói: Chu Vũ Vương hạ lệnh cho Chiêu Công vào nhà giam nới lỏng dây trói cho Kỳ Tử là thứ huynh của Trụ Vương; ra lệnh cho Hoa Công thả dân chúng từ trong đại lao ra, rồi lại tới những khu nhà cũ Thương chứa chấp những hiền thần nhà Ân tiến hành khen ngợi; ra lệnh cho Nam Cung Thích phân phát tiền bạc của Lộc Đài và lương thực của Cự Kiêu cứu tế cho số dân không có cơm ăn áo mặc. Những cách làm trên đây của Chu Vũ Vương, rõ ràng thực sự đã khiến cho người Ân từng sống dưới ách thống trị của Trụ Vương đã được giải phóng ở một trình độ nào đó; đem ra so sánh, sống dưới chính quyền mới so đọ với sự cấm cố của chính quyền cũ còn tốt đẹp hơn nhiều. Lẽ dĩ nhiên dân chúng vui vẻ tiếp thụ hơn. Trong đại nghiệp tiêu diệt nhà Ân, Chu Vũ Vương còn bình công ban thưởng cho những thân tộc họ Cơ đã có cống hiến và những vị thần có công, trên mặt chính trị và kinh tế đã đem lại lợi ích cho các quý tộc, đã đổi lấy sự ủng hộ của họ đối với chính quyền mới. Xuất phát từ sự củng cố chính quyền, để tiện cho việc thực hành nền thống trị có hiệu quả đối với vùng đất rộng lớn miền Đông mới chiếm hữu được, Chu Vũ Vương đã cùng Chu Công thảo luận vấn đề xây dựng kinh đô ở Lạc ấp (nay là thành Nội Vương thị trấn Lạc Dương, tỉnh Hà Nam) để đến nỗi tâm sự nặng nề nhiều đêm mất ngủ. Đáng tiếc là, Chu Vũ Vương còn chưa kịp làm thì không may đã quy tiên. 11. CHU CÔNG DỐC LÒNG PHÒ VƯƠNG THẤT, CÔNG TÍCH PHỦ CHÁU CON Khổng Tử coi Chu Công là một trong những vị thánh hiền thời cổ đại được kính phục nhất, người nói: “Chu Công chi tài chi mỹ...” (Luận ngữ - Thái Bá”) “Đáng tiếc ta đã yếu rồi! Đã lâu rồi ta không mộng được gặp Chu Công nữa”. Sau một đoạn thời gian không mộng thấy Chu Công đã cảm thấy cảm khái như vậy, có thể thấy được “Khổng Tử tưởng nhớ tới ngài đến mức nào”. Chu Công là con trai của Chu Văn Vương, là em cùng mẹ của Chu Vũ Vương. Suốt cuộc đời ông đã kinh lịch qua đoạn lịch sử vương triều thay đổi từ cuối Thương sang đầu Chu, phò tá Vũ Vương diệt Thương, sau khi Vũ Vương chết đã bình định bọn phản loạn “Tam Giám”, phân phong chư hầu, chế tác ra lễ nhạc, khôi phục chính quyền, lên làm vua. Ông là nhà mưu lược chính trị, quân sự kiệt xuất của giai cấp chủ nô lệ trong lịch sử Trung Quốc, hơn thế ông lại là người đa tài đa nghệ. Ông là người có cống hiến cực kỳ to lớn, có tác dụng thúc đẩy đối với sự phát triển lịch sử Trung Quốc, đã sản sinh ra ảnh hưởng rất lớn lao đối với rất nhiều nhân vật đại biểu của giai cấp thống trị và nền văn hóa truyền thống của Trung Quốc. PHÒ TRỢ CHU VŨ VƯƠNG DIỆT THƯƠNG Ở thời Văn Vương, Chu Công và Chu Vũ Vương đã tận tâm phò trợ Văn Vương trở thành chúa chung ở phương Tây, đặt cơ sở cho việc diệt Thương. Sau Chu Văn Vương, Chu Công lại là trợ thủ chủ yếu nhất, năm thứ hai sau khi Vũ Vương quan sát binh lính ở Mạnh Tân, dẫn quân tới tập kết ở Mục Dã, tiến hành đại hội quân đội tuyên thệ, chuẩn bị phạt Thương, lời tuyên thệ trong đại hội chính là do Chu Công làm ra. Toàn văn chia làm hai phần: Phần thứ nhất là vạch trần tội ác của Thương Trụ. Phần thứ hai là thanh minh rõ tính chất chính nghĩa của việc phạt Thương, tuyên bố kỷ luật chiến trường, động viên binh lính dũng cảm chiến đấu. Sau khi Trụ Vương bước lên Lộc Đài tự thiêu, Chu Công lại chủ trì nghi thức long trọng, tuyên bố trước trời đất và Ân dân những tội trạng của Trụ Vương, chính thức bố cáo sự diệt vong của Ân Thương, xây dựng lên triều đình nhà Chu, Vũ Vương làm Thiên tử. DẠY DÂN KÍNH ĐỨC, CAI TRỊ QUỐC GIA Chu Công từng nhận thức một cách nhanh nhạy và sâu sắc những nguyên nhân căn bản khiến Thương Trụ diệt vong và nhà Chu hưng khởi là ở lòng dân hướng về. Trong cuộc chiến tranh ở Mục Dã, người Ân đi đầu trong việc hạ vũ khí, mười bảy vạn quân đội của Thương Vương đã lập tức tan rã trước sự tiến công của bảy vạn quân Chu Vũ Vương, đã khiến cho Chu Công nhận thức được uy lực lớn lao của sức mạnh dân chúng, ông đã từng dùng lời của cổ nhân nói: “Nhân vô vu thủy giám, đương vu dân giám. Kim duy Ân trụy quyết mệnh. Ngã khởi khả bất đại giám phủ vu thời!” (“Thượng Thư - Tào Cửu”), ý nghĩa là: Con người không những cần phải quan sát hình tượng của mình ở trong nước. Kẻ thống trị càng cần phải quan sát hình tượng của mình ở trong chỗ dân chúng. Sự diệt vong của quốc gia Ân Thương sao chúng ta lại không thể thực sự tổng kết bài học lịch sử này? Ông chủ trương tổng kết kinh nghiệm lịch sử, dùng nhân dân làm tấm gương soi. Điều này trong lịch sử của ba ngàn năm trước là một thuật thống trị chính trị rất cao minh. PHÂN HOÁ TAN RÃ DÙNG ÂN TRỊ ÂN Sau khi diệt Thương, việc xử trí chủ nô lệ Ân Thương và lớp quý tộc thượng tầng như thế nào, đó là một vấn đề bức thiết khẩn cấp trước mắt của nhà Chu. Nếu làm không tốt chúng sẽ có thể tập hợp lại bất kỳ lúc nào để tiến hành những hoạt động khôi phục ngôi vua, đó là một sự uy hiếp đối với chính quyền nhà Chu mới được xây dựng. Ý tứ của Khương Thượng là hoàn toàn phải giết hết, ý kiến của Chiêu Công là kẻ có tội thì giết, người vô tội thì để lại. Cả hai loại sách lược này Vũ Vương đều không nhất trí, liền tới tìm Chu Công. Đối với lịch sử cua triều nhà Thương, Chu Công rất thông thuộc, từ trong đó đã rút ra được rất nhiều kinh nghiệm thống trị. Chu Công nói, hãy cứ để cho người Ân ở yên tại nơi họ vốn đang cư trú, cấy trồng những ruộng đất vốn có của họ, đế tranh thủ lấy những người có nhân đức, có ảnh hưởng trong số người Ân. Những sách lược đem lại con đường sống sắp đặt tại chỗ, phân hóa tan rã như thế này đã được Vũ Vương rất tán thưởng. Sau khi cướp được chính quyền, để thống trị những dân Ân ngang bướng, Chu Công trước sau đã phát bố các loại thông báo. Ví dụ như “khang cáo” mục đích là ổn định dân Ân, nêu gương sáng, thận trọng khi xử phạt, chỉ rõ tiên vương của nhà Ân cùng yêu dân, bảo vệ dân. Đòi hỏi người Ân thông qua việc cải tạo thi hành pháp luật nhà Chu để trở thành người “dân mới”. “Tử Tài” cũng là đề xướng đức sáng, phản đối “vua sau giết dân”, cho rằng phải chuyên cần với đức sáng, bảo vệ dân mới có thể “làm vua vạn niên”. Những thông báo này đã ổn định được dân Ân, không để cho dân Ân lưu lại hình tượng nghiệt sát, xử phạt phải thận trọng. Đây là những mưu lược mà Chu Công tiến hành thống trị đối với kẻ bị chinh phục. Đối với tù binh, sử dụng đòn tâm lý chiến kết hợp ân uy. Đồng thời với việc thực hành những chính sách này, Chu Công còn vận dụng biện pháp khống chế và giám đốc, không để cho những dân Ân ngang bướng có cơ hội mưu phản, khiến cho chúng phải dần dần thần phục sự thống trị của vương triều nhà Chu, không có kẻ nào dám chống lại, từ đó vương triều nhà Chu đã được củng cố. Sau khi Vũ Vương chết, Thái tử Tụng kế vị, gọi là Thành Vương. Thành Vương còn nhỏ tuổi, Chu Công suy nghĩ tới quốc gia mới thành lập, trong buồn lo, ngoài sợ sệt, tình thế phức tạp. Chu Công đã xuất phát từ đại cục quốc gia, đã chấp chính xưng vương. Để cho sự cai trị của nhà Chu được lâu dài, Chu Công đã bình định “loạn Tam Giám”, xây dựng lên nhà Chu, lại chế lễ làm nhạc để cai trị đất nước. Trong mưu lược thống trị Tây Chu, điểm đột xuất nhất là một loạt hệ thống “Lễ” và “Hình” do Chu Công chế định ra. “Lễ” dùng trong nội bộ những người thống trị, “Hình” dùng để cai trị nô lệ. Tác dụng của Lễ ở chỗ duy trì bảo vệ đẳng cấp trong nội bộ quý tộc, quan hệ quân thần, quan hệ gia đình, tế lễ thần linh trên trời. Tất thảy mọi hoạt động đều phải dựa theo lễ nghi cố định mà tiến hành. “Định thân sơ, quyết hiềm nghi, biệt đồng dị, minh thị phi” (“Lễ ký – Điển lễ thượng”). “Hình” dùng để đối phó với sự phản kháng của nô lệ, như mặc hình (tức là hình phạt thích chữ bôi mực lên mặt), tí hình (cắt mũi), cung hình (phá hoại cơ năng sinh dục), phì hình (chặt đứt cả hai chân) và đại tích (chặt đầu) v.v... Hình không áp dụng đối với quý tộc, chỉ dùng đối với nhân dân lao động lớp dưới. Hệ thống tư tưởng thống trị “Lễ” và “Hình” này bắt đầu ở Tây Chu đã trở thành quy định chuẩn tắc mà giai cấp thống trị áp dụng trong xã hội phong kiến suốt mấy ngàn năm sau này. Năm thứ bảy Thành Vương, Chu Công thoái vị, đem vương quyền triệt để trao trả cho Thành Vương. Suốt cuộc đời Chu Công vì sự xây dựng và củng cố triều đình nhà Chu đã có những cống hiến kiệt xuất. Thuật thống trị chính trị của ông, tài năng mưu lược quân sự của ông, các phương lược cai trị đất nước của ông đều có ảnh hưởng rất sâu sắc đối với hậu thế. 12. TÁN NGHI SINH TRIỀU CA DÂNG MỸ NỮ, DIỆU KẾ CỨU VĂN VƯƠNG Tán Nghi Sinh là công thần khai quốc của Tây Chu. Ông đã dùng mỹ nhân kế cứu được Tây Bá thoát cơn nguy hiểm, phò tá Vũ Vương diệt Thương, là một hiền thần rất có tài năng mưu lược. Thương Trụ là một bạo quân khét tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Trụ “bỏ ruộng để làm vườn hoa khiến cho dân chúng không có cơm ăn áo mặc” (“Mạnh Tử - Đằng văn Công hạ”). Tốn thời gian suốt bảy năm trời xây dựng Lộc Đài ở Triều Ca, chu vi ba dặm, cao tới ngàn thước. Trèo lên Lộc Đài như ngắm cảnh tiên, phóng tầm mắt ra xa tận thu phong cảnh Triều Ca vào trong đáy mắt. Ra lệnh cho chư hầu khắp bốn phương tuyển chọn nhiều mỹ nữ chất chứa đầy trong hoàng cung để sai khiến sử dụng. Lại học theo bạo quân Hạ Kiệt, đào các hồ ở trong cung, trong hồ đổ đầy rượu ngọt, gọi là hồ rượu. Trên những cây cối ven hồ treo những miếng thịt, rồi gọi là rừng thịt. Trụ Vương lại ra lệnh cho trai gái ở trong cung cởi hết quần áo ra nhảy xuống hồ, hòa theo tiếng nhạc dâm đãng, đeo đuổi bỡn cợt nhảm nhí, hành lạc suốt đêm dài (Xem “Sử ký - Ân bản kỷ”). Do vì Cơ Xương Tây Bá bất mãn với hành vi bạo ngược của Trụ Vương, Trụ Vương liền hạ lệnh đem Tây Bá nhốt vào nhà tù ở Dữu Lý (tức là Dũ Lý, ở phía Bắc Thang Âm ngày nay). Người con trai cả của Cơ Xương Tây Bá là Bá Ấp Khảo đã đem công việc trong triều phó thác cho người, rồi tới Ân đô Triều Ca lo việc cứu Cơ Xương. Lúc đó Tán Nghi Sinh biết Trụ Vương tàn bạo vô cùng, lần đi này của Bá Ấp Khảo lành ít dữ nhiều, khuyên Bá Ấp Khảo đừng đi để rước lấy cái chết uổng mạng. Thế nhưng Bá Ấp Khảo một lòng muốn cứu phụ vương, đã quyết chí lên đường. Quả nhiên, Trụ Vương đã hạ độc thủ đối với Bá Ấp Khảo, đem róc thịt Bá Ấp Khảo, nấu thành canh đem cho Cơ Xương ăn, lấy đó để thử thách Cơ Xương có tâm dạ chống lại hay không. Bá Ấp Khảo bị giết, các quan văn võ trong triều đều kinh hoàng thất sắc. Đại tướng Nam Cung Thích kiến nghị dẫn quân đánh vào Triều Ca. Lúc này, Tán Nghi Sinh khuyên can nói: - Quốc quân đang bị tù phải nhẫn nhục để mưu đồ việc lớn. Trưởng Công tử bị giết hại chết thảm, đã là chuyện nằm trong dự liệu, không nghe lời khuyên can, kết quả là đã đem lại khó khăn mới cho quốc quân. Nếu bây giờ lại cất quân tiến đánh, khẳng định là Trụ Vương sẽ giết hại Quân vương. Các quan đại thần trong triều mới bàng hoàng tỉnh ngộ. Tức thì Tán Nghi Sinh liền dựa vào những người là cận thần trong Thương triều gần gũi với Trụ Vương đề xuất ra mưu kế để cứu Tây Bá. Trụ Vương hoang dâm vô đạo, đặc biệt hám nữ sắc, sùng tín nịnh thần, liền dùng trọng lễ hối lộ sủng thần của Trụ Vương là Phí Trọng, Vưu Hồn, cầu mong họ nói cho lời tốt ở trước mặt Trụ Vương để cứu Tây Bá ra. Các quan đại thần cho là có lý đã lấy vàng ngọc châu báu ở trong kho ra, sai người đóng làm thương nhân, đem lễ vật tới tặng cho Phí Trọng và Vưu Hồn. Sau năm ngày Tán Nghi Sinh lại đem lễ vật càng phong phú và mỹ nữ xinh đẹp tới Triều Ca. Trụ Vương nhìn thấy mỹ nữ họ Hữu Tuỵ đến, hắn vô cùng sung sướng nói: - Có người con gái đẹp như thế này đã đủ để ta tha cho Tây Bá rồi, làm gì cần phải có nhiều mỹ nữ và báu vật đến như thế? (Xem “Sử ký - Chu bản kỷ”), tức thì liền hạ lệnh thả Tây Bá ra. vẫn để cho làm Tây Bá, còn thưởng cho một lá cờ trắng, một phủ việt màu vàng, để cho Tây Bá trấn thủ biên thuỳ phía Tây, trừng phạt những kẻ phản nghịch. Về sau này, trong công cuộc diệt Thương của Chu Vũ Vương, Tán Nghi Sinh cũng là một trong những mưu thần quan trọng. 13. TRỊNH TRANG CÔNG TƯƠNG KẾ TỰU KẾ, DIỆT EM GIAM MẸ Trịnh Trang Công là vua nước Trịnh trong thời Xuân Thu, ở ngôi từ năm 743 đến năm 701 trước Công nguyên. Cha của Trang Công là Trịnh Vũ Công (tức Quật Đột). Mẹ của Trang Công là Vũ Khương, con gái của Thân hầu (Thân là vùng Đông Bắc thị trấn Nam Dương tỉnh Hà Nam ngày nay). Lúc Trang Công ra đời, vì đẻ khó đã làm cho bà Vũ Khương kinh sợ, cho nên đặt tên là “Ngộ Sinh”, từ đó bà mẹ không thích Trang Công. Thế nhưng Trang Công có nhiều tâm kế, giỏi mưu lược, sau kế vị ngôi vua, nước Trịnh đã trở thành một trong những nước chư hầu cường thịnh nhất ở đầu thời Xuân Thu. TƯƠNG KẾ TỰU KẾ, ĐÁNH ĐOẠN Ở YÊN Trịnh Trang Công và người em là Công Thúc Đoạn cùng một mẹ sinh ra. Bởi vì bà mẹ không yêu quý Trang Công, nhiều lần nói trước mặt Vũ Công rằng con thứ Công Thúc Đoạn là người hiền tài, nên lập làm người kế thừa. Vũ Công không bằng lòng, vẫn lập Ngộ Sinh làm thế tử. Mưu kế của Khương Thị không thành, vẫn không cam tâm. Sau khi Trang Công kế vị, bà mẹ lại bức ép Trang Công đem Kinh Thành (ấp của nước Trịnh, ở phía Đông Nam huyện Vinh Dương, tỉnh Hà Nam ngày nay) phong cho Thúc Đoạn. Ở Kinh Thành, Thúc Đoạn tăng cường phát triển mở rộng thế lực của mình, bàn mưu với Khương Thị chuẩn bị trong ứng ngoài hợp, đánh Trịnh cướp lấy chính quyền. Trịnh Trang Công thừa biết việc kế vị của mình là điều làm cho quốc mẫu rất không vui, đối với âm mưu trong ứng ngoài hợp cướp đoạt chính quyền mà Khương Thị và Thúc Đoạn mưu đồ cũng nhìn thấy rất rõ ràng. Thế nhưng Trịnh vẫn không hề biểu lộ thái độ, đã sử dụng mưu kế “tri giả bất ngôn” - Người hiểu biết không cần nói (“Trang Tử - Chương ngũ thập lục”) “Tương dục phế chi, tất cố cửu chi”, “Tương dục đoạt chi, tất cố dữ chi” - Sắp phế bỏ hắn, tất phải tấn cử hắn, sắp cướp đoạt hắn, tất phải giữ chắc hắn - (“Lão Tử - Tam thập lục chương”), trước hết thi hành mưu lược kín đáo, đợi thời cơ phá hắn. Quan đại phu nước Trịnh là Tế Trọng nói với Trịnh Trang Công báo cáo: - Thúc Đoạn chiêu binh mãi mã, mở rộng thành trì, sẽ có thể đem lại phiền phức cho nước Trịnh. Ngược lại, Trang Công đã trả lời: - Đây là ý của quốc mẫu ta. Tế Trọng kiến nghị Trang Công phải hạ thủ trước để trừ bỏ mầm họa ẩn tàng. Trái lại, Trang Công nói: - Ngươi hãy cứ chờ đợi xem. Thúc Đoạn lại chiếm lĩnh hai thành nhỏ ở gần kinh thành. Công tử Lữ là quan đại phu nước Trịnh nói: - Một nước không thể có hai vua, bệ hạ muốn làm như thế nào? Nếu bệ hạ muốn trao đại quyền cho Thúc Đoạn thì lũ chúng tôi sẽ tới làm đại thần cho ông ta. Nếu không dự định trao quyền, thì phải trừ bỏ ngay. Không thể để cho dân chúng có nhị tâm được. Trang Công giả vờ bực tức nói: - Việc này ngươi không cần quan tâm tới. Trịnh Trang Công biết, nếu hành động quá sớm, tất sẽ vấp phải lời dị nghị của người ngoài, rằng ông ta là người bất hiếu bất nghĩa. Do đó, Trang Công cố ý để cho âm mưu của Thúc Đoạn tiếp tục bộc lộ. Mãi cho tới khi Thúc Đoạn và Khương Thị mật mưu trong ứng ngoài hợp, mới ra lệnh cho công tử Lữ kéo quân tới đánh kinh thành. Thúc Đoạn chạy trốn tới Yên (địa danh của nước Trịnh, nay là huyện Yên Lãng tỉnh Hà Nam). Trịnh Trang Công đánh Yên, Thúc Đoạn lại chạy trốn tới Cộng (tên nước, đô thành ở huyện Huy tỉnh Hà Nam ngày nay). Trịnh Trang Công lại đem bà mẹ Khương Thị xúi bẩy Thúc Đoạn làm loạn giam ở Thành Dĩnh (ấp của nước Trịnh, nay ở Tây Bắc, Lâm Dĩnh tỉnh Hà Nam) còn phát ra lời thề “Không xuống suối vàng, sẽ không gặp mặt!”. MAI PHỤC DỤ ĐỊCH, ĐÁNH BẠI BẮC NHUNG Năm 714 trước Công nguyên, bộ lạc Bắc Nhung thừa cơ các nước chư hầu Trung nguyên chiến tranh hỗn loạn nhiều năm đã xâm phạm vào phía Nam nước Trịnh. Trịnh Trang Công đích thân dẫn quân chống cự. Lúc đó binh lính Bắc Nhung ngoan cường kiêu dũng, mà địa hình lại không lợi cho việc quân đội nước Trịnh đánh lên phía Bắc. Trịnh Trang Công biết rõ sự lợi hại hơn thiệt giữa ta và địch, rất lấy làm lo lắng. Công tử Đột đã phân tích tường tận những nhược điểm của quân Nhung, rồi hiến kế với Trịnh Trang Công, cho rằng phải đặt quân mai phục để dụ địch, phân chúng ra để tiêu diệt chúng. Trịnh Trang Công cũng cho rằng kế này rất hay, tức thì đã đặt quân mai phục ở ba nơi, cử quan đại phu Chúc Đan dẫn một cánh quân xuất trận đòi đánh, rồi giả vờ thua để dẫn dụ quân Nhung. Quả nhiên, quân Nhung không biết đó là kế, bị dụ vào khu vực có quân Trịnh mai phục. Phục binh của quân Trịnh ở ba nơi chia quân Bắc Nhung ra thành mấy đoạn để đánh, khiến cho đầu cuối của chúng không cứu được nhau. Chúc Đan lại dẫn quân đánh quật trở lại tạo thành thế đánh khép gọng kìm vào trước sau của quân Bắc Nhung. VIỄN GIAO CẬN CÔNG, TRANH HÙNG THIÊN HẠ “Viễn giao Cận Công” được đăng tải trong “Chiến quốc sách – Tần sách”, là một loại mưu lược ngoại giao do Phạm Thư hiến kế cho Tần Vương đề xuất ra. Thế nhưng vận dụng cụ thể mưu lược này đã được bắt đầu ở thời Trịnh Trang Công cách hai trăm năm về trước. Chu Bình Vương rời đô sang phía Đông tới Lạc Ấp, nhà Chu suy yếu, các nước tranh hùng. Nước Trịnh Đông giáp nước Tống, Bắc giáp nước Vệ, nước Trịnh với hai nước Tống, Vệ đều có mâu thuẫn, luôn luôn có nguy hiểm bị Tống, Vệ đánh khép gọng kìm. Trịnh Trang Công nắm chắc thời cơ thân thiện với nước Lỗ, chủ động cử quan đại phu là Uyên tới nước Lỗ, biểu thị bằng lòng đem Bành Thành (Thành cũ, ở phía Đông Nam huyện Phí tỉnh Sơn Đông ngày nay, cách nước Lỗ tương đối gần) giao cho nước Lỗ, nên đã cải thiện được mối quan hệ với nước Lỗ. Nước Tề ra mặt nói hòa với Trịnh, Tống. Mối mâu thuẫn giữa Trịnh Trang Công với Tống vốn là không thể hòa giải được, thế nhưng ông đã linh hoạt biểu thị tôn trọng ý nguyện của nước Tề bằng lòng kết liên minh với Tống và Vệ, tiến thêm một bước là đã giành được cảm tình tốt với Tề. Trịnh Trang Công đã đạt được mục đích viễn giao với hai nước Tề, Lỗ, đã khiến cho Tống, Vệ mất hết đồng minh, sa vào thế cô lập, liền bắt đầu thực thi kế hoạch cận công (đánh gần) Tống, Vệ, cuối cùng đã khiến cho hai nước Tống, Vệ phải khuất phục. ĐÁNH ĐỊCH YẾU TRƯỚC, ĐẠI THẮNG QUÂN CHU Thế lực của Trịnh Trang Công càng ngày càng lớn mạnh, không coi Chu Bình Vương ra gì. Sau khi Chu Hoàn Vương chấp chính, Trịnh Trang Công dứt khoát không tới triều kiến. Năm 707 trước Công nguyên, Chu Hoàn Vương đích thân thống lĩnh quân Chu cùng quân đội bốn nước Trần, Tháo, Quắc, Vệ tiến đánh nước Trịnh. Trịnh Trang Công bày thế trận ở Nhu Cát (nay là phía Bắc huyện Trường Cát tỉnh Hà Nam). Lúc đó quân Chu chia làm ba cánh, Chu Hoàn Vương thân dẫn tả quân và quân đội nước Trần, cố hết sức chinh phục Trịnh Trang Công. Tử Kháng hiến kế với Trịnh Trang Công, nói rằng nước Trần cục thế bất ổn, binh lính không muốn đánh trận. Cho nên phải trước hết đánh quân đội nước Trần, có thực lực yếu nhất, quân Trân tất sẽ bỏ chạy tán loạn. Quân Trần vừa tan vỡ, thế trận quân Chu tất sẽ loạn. Lực lượng Sái, Vệ mỏng và yếu nhất định sẽ rút lui trước. Lúc đó sẽ tập trung lực lượng tiến đánh quân Chu thì có thể thắng được. Trang Công đã làm theo kế đó. Quả nhiên, quân Trần vừa đụng vào đã tan, quân Sái, Vệ cũng hoảng hốt rút khỏi chiến trường. Ba cánh Tả quân, Trung quân và Hữu quân của Trịnh lập tức tập trung công kích quân Chu, càng đánh càng mạnh, quân Chu đại bại. Chu Hoàn Vương bị một mũi tên của quân Trịnh bắn trúng bả vai, phải nhịn nhục đau đớn, chỉ huy quân đội tháo chạy ra khỏi vòng vây. Chúc Đan muốn bắt sống Chu Hoàn Vương. Lúc này Trang Công lại giả nhân giả nghĩa nói: “Chúng ta là tự vệ, không thể làm Thiên tử nhục nhã”. Sau cuộc chiến, để biểu thị tôn trọng nhà vua, Trịnh Trang Công còn cử đặc sứ tới hỏi thăm uý lạo Chu Hoàn bị thương. Từ đó Chu Hoàn Vương mất hết uy tín. Nước Trịnh đã trở thành nước chư hầu cường thịnh nhất ở Trung nguyên lúc đó. 14. QUẢN TRỌNG LẬP CHIẾN LƯỢC TỔNG THỂ, ĐỊNH BÁ TỀ XUÂN THU “Tối nan Bào Thúc năng chi Quản, Thảng dụng Di Ngô định bá Tề”. Hai câu thơ này là của Liễu Á Tử, nhà thơ nổi tiếng, kể về một sự thực lịch sử khiến cho người ta tỉnh ngộ sâu sắc vào thời đầu Xuân Thu. Chữ “Quản” và chữ “Di Ngô” trong câu thơ đều chỉ về danh tướng Quản Trọng của nước Tề. Ông đã phò tá Tề Hoàn Công chấn hưng nước Tề, xưng bá Trung nguyên, là một nhà chính trị tiến bộ dẫn đầu việc đề xướng và đẩy mạnh cải cách xã hội ở thời đại Xuân Thu, cũng là một nhà mưu lược có những cống hiến mang tính chất khai thác đối với học thuyết quân sự, đặc biệt là những lý luận chiến lược quốc gia. Quản Trọng tên gọi là Di Ngô, tự là Kính Trọng. Do vì Tề Hoàn Công tôn là “Trọng Phụ”, vì thế nên người đời mới gọi ông là Quản Trọng, ông là người Dĩnh Thượng nước Tề (nay là phía Nam huyện Dĩnh Thượng tỉnh An Huy). Đại để là ông sinh vào năm 730 trước Công nguyên, mất vào năm 645 trước Công nguyên, sống vào thời đại xã hội biến loạn, chiến tranh liên miên. Những năm tuổi trẻ của Quản Trọng, gia cảnh bần hàn, đường quan trắc trở, ba lần ra làm quan thì ba lần bị bãi miễn. Thế nhưng sau khi bước vào tuổi trung niên, thời lai vận chuyển, rộng mở tiền đồ, dựng lên nghiệp lớn. Nguyên nhân, ngoài việc lý luận và thực tiễn của ông phù hợp với yêu cầu khách quan của sự phát triển lịch sử ra, còn bởi vì ông đã kết giao với một người bạn tên gọi là Bào Thúc Nha có phẩm đức cao thượng lại có tài năng hiểu biết sáng suốt, lại gặp được nhà vua Tề Hoàn Công có hùng tài đại lược, biết rộng lượng thu dụng người hiền tài. Căn cứ vào ghi chép của “Sử ký”, khi Quản Trọng nghèo khó luôn luôn chiếm phần lợi của Bào Thúc Nha. Còn Bào Thúc Nha thì nhận định rằng Quản Trọng là con người có hoài bão to lớn và tài năng trị nước, nên đã luôn luôn nhiệt tình giúp đỡ Quản Trọng. Hai người đã hợp tác làm ăn buôn bán, Quản Trọng luôn luôn lấy nhiều lợi nhuận cho mình, những người giúp việc cho Bào Thúc Nha trong lòng bất bình. Bào Thúc Nha đã phải giải thích giúp cho Quản Trọng rằng: Quản Trọng sở dĩ phải làm như vậy bởi vì gia cảnh nghèo túng, chứ không phải là loại người tham lam. Quản Trọng giúp đỡ Bào Thúc Nha làm việc, đã làm hư hỏng các việc. Bào Thúc Nha cho rằng đó không phải là Quản Trọng ngu đần, mà là chưa gặp được thời cơ thuận lợi. Quản Trọng ba lần bị bãi quan, Bào Thúc Nha cho rằng không phải là Quản Trọng không có bản lĩnh, mà là cảnh ngộ chẳng may. Đối với phẩm đức và tài năng hiểu biết của Bào Thúc Nha, Quản Trọng vô cùng bái phục, nói: “Người sinh ra ta là cha mẹ ta, người hiểu được ta, chính là Bào tử vậy” (Xem “Sử ký - Quản Trọng liệt truyện”). Khi Tề Tương Công Khương Chư Nhi tại vị (năm 697 đến 686 trước Công nguyên), Quản Trọng và Bào Thúc Nha phân biệt làm sư phụ cho công tử Củ và công tử Tiểu Bạch. Tề Tương công hoang dâm bạo ngược, thậm chí vì việc thông dâm với em gái ruột là Văn Khương mà đã giết chết chồng em là Lỗ Hoàn Công, dẫn tới triều đình và dân chúng ly tâm, thất hòa với các nước láng giềng, nước Tề ở vào thời kỳ đặc biệt họa ở nước ngoài và rối ren ở bên trong. Công tử Tiểu Bạch có hùng tài đại lược “không có sự thận trọng thông minh nhỏ mà chỉ có nỗi lo lắng lớn”, do vì can gián mà bị Tề Tương Công đuổi ra khỏi triều đình. Bào Thúc Nha cho rằng “sắp làm loạn rồi đó”, liền sắp đặt kế hoạch cho công tử Tiểu Bạch chạy trốn sang nước cử đợi thời cơ ứng biến. Quả đúng như dự liệu, không lâu cục diện chính trị ở nước Tề đã phát sinh ra những biến động kịch liệt. Năm 686 trước Công nguyên, tướng quân nước Tề là Liên Xưng, Quản chí Phụ đã giết chết Tề Tương Công, lập công tử Vô Tri lên làm vua. Quản Trọng với Triệu Hốt bảo vệ Công tử Củ chạy sang nước Lỗ tị nạn. Chỉ qua hơn một tháng, công tử Vô Tri lại bị bọn đại thần Ung Lẫm v.v... giết chết, mưu lập vua mới. Nghe thấy tin này, Công tử Củ và công tử Tiểu Bạch đều muốn kế thừa ngôi vua, lập tức động thân trở về nước. Quản Trọng và công tử Củ ngoài việc thỉnh cầu nước Lỗ cử quân hộ tống ra còn suy nghĩ tới việc nước Cử so với nước Lỗ gần nước Tề hơn, nếu Tiểu Bạch về tới nước Tề sớm hơn, thế chủ khách đã định, thì sẽ bị hãm vào thế bị động. Vì vậy đã thỉnh cầu Lỗ Trang Công cử binh, chặn đánh Tiểu Bạch ở giữa đường. Quản Trọng dẫn binh tới biên giới Tề Cử thì gặp Tiểu Bạch, đột nhiên một phát nỏ bắn trúng Tiểu Bạch. Theo tiếng nỏ Tiểu Bạch liền ngã lăn xuống ở trong xe. Kỳ thực, phát nỏ này chỉ bắn trúng vào cái móc của dây lưng. Tiểu Bạch trong nguy sinh trí, giả bộ trúng nỏ bị chết, đêm ngày vội vã trở về nước Tề, được các quan đại thần nước Tề lập nên làm vua, gọi là Hoàn Công. Quản Trọng và công tử Củ, Lỗ Trang Công cho rằng Tiểu Bạch đã chết, ngôi vua buông tay cũng giành được, nên đã dẫn quân bước đi rất chậm chạp. Chờ tới lúc quân Lỗ tiến vào biên giới nước Tề thì Tiểu Bạch đã lên ngôi được sáu ngày rồi, hơn thế đã bố trí đầy đủ cuộc tác chiến nghênh đánh quân Lỗ. Khi quân Lỗ tới Cán (nay là phía Bắc thị trấn Trung Bách tỉnh Sơn Đông), đã trúng phải mai phục của quân Tề, tiếp đó lại bị quân Tề cắt đứt mất đường về, hầu như toàn quân bị tiêu diệt. Lỗ Trang Công và công tử Củ, Quản Trọng, Triệu Hốt v.v... đều phải chạy trốn về nước Lỗ. Tề Hoàn Công đóng quân ở biên giới nước Lỗ, ra lệnh cưỡng bức Lỗ Trang Công giết chết công tử Củ, giao nộp Quản Trọng, Triệu Hốt. Lỗ Trang Công bị bức phải làm theo mọi điều. Sau khi công tử Củ bị giết ngay lập tức Triệu Hốt đã tự sát; Quản Trọng thì kiên trì quan điểm phải sống vì xã tắc nước Tề, không chết vì cá nhân, đã tự động bước vào trong xe tù. Tề Hoàn Công vốn muốn tự tay xử tử Quản Trọng để báo thù cho một mũi tên. Thế nhưng Bào Thúc Nha lại có tính toán khác. Xe tù của Quản Trọng tiến vào biên giới nước Tề, Bào Thúc Nha đã sớm chờ đón sẵn ở đó, lập tức sai người mở xe tù, cởi trói, rồi nói với Quản Trọng ý đồ muốn đem Quản Trọng tiến hiến cho Tề Hoàn Công. Sự việc này phát sinh ở Đường Phụ nước Tề. Trong biên giới huyện Mông Âm tỉnh Sơn Đông đến nay vẫn còn có Đình Di Ngô, truyền thuyết nói rằng đó chính là nơi năm xưa Bào Thúc Nha giải phóng cho Quản Di Ngô. Tề Hoàn Công muốn dùng Bào Thúc Nha làm tướng, để cho Bào nắm giữ quyền chính. Bào Thúc Nha nhiều lần tạ từ, đồng thời hết sức tiến cử Quản Trọng. Bào nói Quản Trọng có tài năng trị quốc trị quân rất phi phàm, bản thân mình có năm mặt không bằng Quản Trọng. Đó là: “Ban ân huệ rộng rãi, thương yêu dân chúng”, “Cai trị đất nước không để mất chính quyền”, “Trung tín giữ phép tắc với các nước chư hầu”, “đặt ra lễ nghĩa giữ phép tắc với bốn phương”, “khí giới trống chiêng đặt trước cửa quân, khiến cho trăm họ càng thêm dũng cảm”. Bào Thúc Nha nói với Tề Hoàn Công: - Nếu bệ hạ muốn cai trị nước Tề, có Cao Hê và thần thì đã đủ. Nếu muốn thành tựu nghiệp bá vương thì việc đó không thể không dùng tới Quản Trọng (Xem “Sử ký - Tề Thái Công thế gia”). Tề Hoàn Công nói: - Quản Trọng đích thân dùng nỏ bắn ta, hầu như muốn bắn chết ta. Con người như vậy có lẽ nào lại đáng dùng hay sao? Bào Thúc Nha nhiều lần giải thích, nói rằng ý chí của Quản Trọng đặt ở “yên định xã tắc nước Tề”, “Thờ vua không thể hai lòng”, thế nhưng không phải là giữ lễ tiết của kẻ thất phu, ông ta không chết vì công tử Củ, điều đó đích thực đã nói rõ ràng ông ta bằng lòng phò tá Tề Hoàn Công chấn hưng nước Tề. Mũi tên bắn vào Tiểu Bạch chính là kẻ thần dân ai thờ chủ nấy. Nếu không tính đến thù riêng, trọng dụng Quản Trọng, chẳng những nước Tề được một vị tướng tài mà hiền sĩ bốn phương sẽ đều dốc tâm quy phục, việc thành tựu nghiệp bá vương sẽ có nhiều hy vọng. Cuối cùng Tề Hoàn Công đã tiếp nhận kiến nghị của Bào Thúc Nha, bổ nhiệm Quản Trọng làm tướng. Tề Hoàn Công hỏi Quản Trọng: - Xã tắc có thể định được không? Quản Trọng nói: - Nếu bệ hạ có hùng tâm tráng khí sáng lập nghiệp bá vương, thì quốc gia có thể yên định được. Nếu không có loại hùng tâm tráng khí này, thì quốc gia không thể yên định được. Tề Hoàn Công nói: - Ta không dám có dã tâm lớn như vậy được, mà chỉ mong muốn làm cho quốc gia yên định mà thôi. Quản Trọng lại một lần nữa trình bày đạo bá vương. Tề Hoàn Công có phản ứng lạnh nhạt, Quản Trọng liền nói với Tề Hoàn Công: - Bệ hạ đã tha tội chết cho thần, đó là vận may của thần. Thế nhưng sở dĩ thần không chết vì công tử Củ, chính là vì muốn khiến cho nước Tề được cường thịnh hơn lên. Nếu không thể đạt được mục đích này, ăn không lộc của nước Tề, thì lại còn khó hơn là không chết với công tử Củ. Việc như vậy thì thần không dám làm đâu. Nói xong liền phẩy áo bỏ đi. Tề Hoàn Công vội vã gọi Quản Trọng quay lại, mô hôi toát ra đầy mặt, nói: - Thôi, đừng đi nữa, ta sẽ dựa theo chủ trương của thần, cố gắng thành tựu nghiệp bá. Quản Trọng vội vã dập đầu vái lạy nói: - Ngày nay bệ hạ đã quyết tâm sáng lập nghiệp bá vương thì thần xin tiếp nhận mệnh lệnh của bệ hạ. Nói xong liền đứng dậy bước lên vị trí của tướng quốc. Hành vi phản ứng khác nhau này của Quản Trọng, những kẻ chuyên mưu cầu lợi lộc đích thực không thể so sánh được, nó đã biểu hiện phong độ của một nhà mưu lược lớn với tâm hồn lỗi lạc. Tề Hoàn Công tuy trọng dụng Quản Trọng làm tướng, thế nhưng không phải là đã tin mà không nghi ngờ, đã phải trải qua một quá trình từ chỗ nửa tin nửa ngờ, rồi đến chỗ tin mà không nghi ngờ nữa. Tề Hoàn Công nóng lòng muốn được thành đạt, chủ trương trước hết “dùng binh lính và vũ khí”, chinh phục các nước chư hầu. Quản Trọng cho rằng, xã tắc nước Tề chưa yên định, dân chúng nghèo nàn khốn khổ, phải nên “trước hết hãy cùng dân chúng cùng tàng trữ lực lượng”, “nội chính không tu sửa, thì ngoại sự không thể chắc chắn được”, “hậu với lính không bằng hậu với dân”. Bào Thúc Nha cũng khuyên Tề Hoàn Công thu nhận ý kiến của Quản Trọng. Ngoài miệng Tề Hoàn Công bằng lòng, trên thực tế vẫn kiên trì theo ý kiến của mình, liên tục cất quân đánh Tống, đánh Lỗ, kết quả là đều bị bại trận. Đối mặt với cục diện này, Bào Thúc Nha lo lắng thay cho Quản Trọng, nói: - Trước đây Hoàn Công bằng lòng để cho ông sáng lập nghiệp bá, ngày nay làm cho đất nước loạn lạc như thế này, ông dự định sẽ làm như thế nào? Như mọi việc đã sắp đặt sẵn sàng, Quản Trọng không hề can gián mạnh mẽ, Quản Trọng nói với Bào Thúc Nha: - Hoàn Công là một con người cẩn thận, sáng suốt, lại có thể dạy dỗ được, chớ ngại chờ đợi một đoạn thời gian nữa để cho ông ta sẽ tự giác ngộ được! Quản Trọng đã lợi dụng chức quyền của tướng quốc, tập trung sức lực theo đuổi công việc cải cách và xây dựng ở trong nước. Sau năm năm, nước Tề đại thịnh, nước giàu binh mạnh. Trải qua sự kiểm nghiệm về thất bại và thành công, cuối cùng Tề Hoàn Công đã nhận thức được mưu lược siêu quần của Quản Trọng, do đó đã lời theo kế thuận. Qua bảy năm cố gắng, nước Tề đã “Cửu hợp chư hầu, nhất khuông thiên hạ”, bắt đầu sáng tạo nên nghiệp bá Xuân Thu (Xem “Quản Tử” tập bảy). Từ năm 686 đến năm 645 trước Công nguyên, Quản Trọng với chức vụ tướng quốc đã chấp chính nước Tề hơn bốn mươi năm, trong điều kiện lịch sử phi thường sáng tạo ra nghiệp tích phi phàm. Lúc đó đặc điểm chủ yếu của điều kiện lịch sử xã hội là: Sự phát minh của đồ sắt đã được ứng dụng rộng rãi vào sản xuất, đã thúc đẩy được sự phát triển của sức sản xuất, dẫn tới sự thay đổi kịch liệt về chế độ xã hội. Khu vực Trung nguyên bắt đầu từ chế độ nô lệ quá độ sang chế độ phong kiến. Địa vị “Cộng chủ” của vương thất nhà Chu đã suy yếu, cuộc chiến tranh giành nghiệp bá giữa các nước chư hầu xảy ra liên miên. Hơn một ngàn hai trăm nước được phong trong thời kỳ đầu Tây Chu, tới thời kỳ đầu Xuân Thu bị kiêm tính chỉ còn hơn một trăm sáu mươi nước. Thời kỳ cuối Xuân Thu chỉ còn lại hơn mười nước. Các dân tộc Nhung Địch ở phương Bắc, Kinh Sở ở phương Nam v.v... thừa cơ tiến vào khu vực Trung nguyên. Các dân tộc Trung Hoa trong cuộc giao tiếp và đấu tranh lẫn nhau đã thực hiện cuộc đại giao hòa lần thứ nhất. Do đó, mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giữa các tập đoàn chính trị đã kết giao xen kẽ nhau rất phức tạp. Trong cuộc đấu tranh mâu thuẫn này, ngoài chiến tranh ra, họ còn sử dụng hình thức các loại đấu tranh kinh tế, chính trị, ngoại giao v.v... Yêu cầu đối với tư tưởng mưu lược và nhân tài mưu lược đã được nâng cao lên một mức độ mới. Đây là một thời đại sôi nổi chưa từng thấy của những tư tưởng mưu lược và những ngôi sao sán lạn của những nhân tài mưu lược. Quản Trọng chính là một nhân vật lịch sử được sinh ra đúng vào thời đại đó. Trong mọi lĩnh vực mà ông phò tá Tề Hoàn Công như chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao v.v... để chấn hưng nước Tề, xưng bá chư hầu đều biểu hiện tài năng phi phàm, và trong thực tiễn đã kế thừa và phát triển tư tưởng mưu lược của Y Doãn và Khương Thượng. Ông đã dốc sức phò trợ những phương lược trị quốc đồ bá do Tề Hoàn Công chế định, dùng việc đẩy mạnh cải cách xã hội làm thủ đoạn, lấy dân giàu binh mạnh làm quốc sách cơ bản, lấy việc xưng bá chư hầu làm mục tiêu chiến lược. Trong những bước thực thi, trước hết tu sửa nội chính để làm cho dân giàu binh mạnh, sau làm các việc ở bên ngoài để xưng bá chư hầu. Dùng lời nói hiện đại, đây chính là “chiến lược tổng thể”, “chiến lược quốc gia”, bao gồm các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao và các giai đoạn phát triển. Phương châm chiến lược trị quốc đồ bá của Quản Trọng, đối nội lấy việc dân giàu binh mạnh làm mục tiêu, trong các lĩnh vực xã hội đã thực hành cải cách toàn diện, trước hết bắt đầu từ việc làm cho dân giàu. Quản Trọng cho rằng: “Đạo trị quốc tất trước hết phải làm cho dân giàu” (“Quản Tử” quyển 15). “Dân giàu binh mạnh thì chư hầu mới kính phục nền chính trị của mình, kẻ địch ở xung quanh mới sợ uy của mình” (“Quản Tử” quyển 20). Về mặt kinh tế, trước tiên là cải cách chế độ kinh doanh và phân phối đất đai, chia ra thành “đất công”, thành “ruộng tư”, biến việc canh tác tập thể thôn xã thành nông hộ sản xuất cá thể, dùng thuế thực vật thay thuế lao dịch, tức là “chia đều ruộng cho sức lao động”, “thu thuế nhẹ theo từng loại đất”. Loại cải cách này đã thúc đẩy được tính tích cực sản xuất của nông dân, đã xúc tiến được sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp. Đồng thời, Quản Trọng là người đầu tiên trong lịch sử đem Sĩ Nông Công Thương xếp ngang nhau, thực hành chính sách “quan coi rừng, coi biển”, “lưu thông hàng hóa của cải”, ra sức đề xướng phát triển công thương nghiệp. Nhà nước thống nhất kinh doanh sản xuất các nghề có quan hệ tới quốc kế dân sinh như nghề nấu muối, luyện kim v.v... Phát triển mậu dịch ở trong nước với các nước chư hầu khác, “dùng thứ hàng mình có đổi lấy những thứ hàng mình không có, giúp đỡ làm phong phú thị trường”. Căn cứ vào ghi chép trong “Quản Tử - Thiên Khinh Trọng”, chỉ riêng nghề muối biển của nước Tề, mỗi năm thu hoạch được mười vạn tám nghìn chung, đem giao dịch với các nước chư hầu được hơn một vạn một ngàn cân vàng. Đây là một nguyên nhân quan trọng làm cho nền kinh tế nước Tề chấn hưng nhanh chóng. Về mặt chính trị, Quản Trọng là người đầu tiên đề xướng quyền lãnh đạo tập trung về trung ương và cai trị đất nước bằng pháp luật. Thay đổi chế độ pháp luật tôn giáo do quý tộc chia để trị thành thể chế chính trị quân chủ tập quyền. Chia toàn quốc thành hai mươi mốt hương (trong đó hương Công Thương có sáu hương, Sĩ Nông có mười lăm). Lại đem hương Sĩ Nông chia làm ba loại, mỗi loại đặt ra chức soái. Lần lượt do Tề Hoàn Công và Thượng Khanh nước Tề là Cao Tử, Quốc Tử đảm nhiệm chức Thống Soái (Tề Hoàn Công kiêm chức Soái của sáu hương Công Thương), tức là cái gọi là “Tam kỳ quốc”. Xây dựng lên hệ thống hành chính do từng cấp phụ trách từ cơ sở tới trung ương. Cứ năm nhà là một quỹ, mười quỹ là một lý, bốn lý là một liên, mười liên là một hương, năm hương là một sư, tức cái gọi là “Ngũ kỳ bỉ”. Đồng thời nhấn mạnh, lấy pháp trị quốc, “lập tam khí” rồi “Thắng lục công”. Cái gọi là “tam khí” tức là hiệu lệnh, phủ việt (tức là hình phạt), lộc thưởng. Cái gọi là “lục công” chính là “thân thiết, quý trọng, hàng hóa, sắc đẹp, khéo nịnh, chơi bời”. Quản Trọng nói: “Minh quân có thể thắng lục công mà lập ra tam khí, đất nước sẽ được thịnh trị. Vị vua tồi không thể thắng được lục công mà lập ra tam khí, thì đất nước không thể thịnh trị được”. Vì sao vậy? Bởi vì nếu có “lục công” quấy rối thì sẽ có người tuy không nghe hiệu lệnh mà vẫn có thể được tồn tại, tuy phạm pháp làm rối loạn kỷ cương mà vẫn có thể không bị trừng phạt, tuy chẳng có công tích mà vẫn thu được phú quý. Kết quả đó sẽ là “hiệu lệnh không đủ để sai khiến”, “phủ việt không đủ làm cho mọi người sợ”, “lộc thường không đủ để khuyên dân”. Như vậy, nhà vua sẽ hết cách thi hành quyền lực của mình, cần phải khiến cho “vua tôi, trên dưới, giàu nghèo đều phải tuân theo pháp luật”, không vì “lục công” mà “biến đổi hiệu lệnh”, “nhờn rẻ phủ việt”, “tốn phí lộc thưởng”, mới có thể khiến cho trên dưới đồng tâm, hễ đánh tất sẽ thắng, hễ giữ tất sẽ chắc, về mặt quân sự, thực hành chế độ “gửi binh lính ở chính quyền”, “làm việc nội chính thì phải gửi quân lệnh”, xây dựng tổ chức quân sự và thể chế chỉ huy binh nông hợp nhất, quân chính hợp nhất, trưởng quan hành chính các cấp cũng chính là thủ trưởng quân sự các cấp. Như vậy, quan và binh lính thường sống ở một chỗ, “họa phúc cùng lo, cư xử cùng vui, công việc cùng làm”. Lúc thường theo đuổi sản xuất kinh doanh công nông thương, mùa xuân, thu tiến hành huấn luyện quân sự. Thời chiến “Đánh trận ban đêm, nghe tiếng của nhau đủ để không rối loạn. Đánh trận ban ngày, mắt nhìn thấy nhau đủ để hiểu biết nhau. Sung sướng đủ để chết vì nhau. Những điều đó đủ để giữ tất chắc, đánh tất thắng! Chẳng những giảm nhẹ gánh nặng kinh tế cho đất nước mà còn đề cao xứng đáng sức chiến đấu của quân đội. Việc thực hành từng bước những biện pháp này đã khiến cho nước Tề từ loạn chuyển sang trị, từ nghèo biến thành giàu, từ yếu chuyển sang mạnh, cuối cùng đã đạt tới mục đích nước giàu binh mạnh. Phương hướng và sách lược trị quốc đồ bá của Quản Trọng, đối ngoại lấy “Tôn vương đánh Di” làm cương lĩnh hành động, lấy việc xưng bá chư hầu làm mục tiêu chiến lược. Vì vậy đã sử dụng biện pháp chủ yếu là “Giương cao ngọn cờ “Tôn vương đánh Di” để nắm chắc quyền chủ động trên mặt chính trị; thực hành sách lược kết hợp đánh và lôi kéo, đoàn kết với các chư hầu Trung nguyên; sử dụng thủ đoạn thi hành cả văn lẫn võ, chế ngự sự xâm nhập của Nhung Địch Kinh Man. Lúc đó “Thiên tử nhỏ yếu, chư hầu lớn mạnh”. Địa vị vương thất nhà Chu hạ thấp, thế nhưng trên mặt danh nghĩa vẫn là công chủ của thiên hạ. Các dân tộc Nhung Địch Man Di [11] quấy rối khu vực Trung Nguyên, một số chư hầu Trung Nguyên nhỏ yếu không đủ sức chống cự. Do đó, duy trì bảo vệ trật tự thống trị của vương triều nhà Chu, đánh lại sự quấy nhiễu đối với khu vực Trung Nguyên của ngoại tộc, đã phù hợp với lợi ích chung của vương thất nhà Chu và các nước chư hầu. Trong tình thế lúc đó, ai có thể giương cao ngọn cờ “Tôn Vương đánh Di” thì người đó sẽ được sự ủng hộ của các nước chư hầu và sự giúp đỡ của Vương thất, sẽ đứng ở địa vị chủ động trên mặt chính trị. Tề Hoàn Công đã tiếp nhận kiến nghị của Quản Trọng, trong quá trình xây dựng nghiệp bá, trước sau đã kiên trì ngọn cờ “Tôn Vương đánh Di”, coi đó là quân át chủ chính trị tiêu diệt bọn “vô đạo”, coi đó là cơ sở chính trị đoàn kết chư hầu. Năm 663 trước Công nguyên, theo yêu cầu của nước Yên, Tề Hoàn Công đem quân đánh lùi bọn Sơn Nhung xâm nhập nước Yên. Yên Trang Công cảm tạ không ngớt, khi Tề Hoàn Công trở về nước Tề, đã đưa tiễn tới tận biên giới nước Tề. Dựa theo chế độ lễ tiết thời đó, các chư hầu tiễn nhau không được đưa tiễn ra khỏi biên giới, chỉ có lễ tiễn Thiên tử mới được vượt qua quốc giới. Tề Hoàn Công nói: - Tôi không thể thất lễ! Liên đưa Yên Trang Công tới sâu vào nước Tề năm chục dặm đưa trả lại về nước Yên, còn dặn dò Yên Trang Công theo lệ phải tiến cống vương thất nhà Chu, duy trì quyền uy của vương thất nhà Chu. Năm 651 trước Công nguyên, Tề Hoàn Công chủ trì hội thề các nước chư hầu ở Quỳ Khâu (nay là phía Bắc thành Khảo ở Hà Nam), Chu Tương Vương cử Thái tể Khổng tham gia, đem thực phẩm và đồ tế lễ văn võ nhị Vương nhà Chu thưởng cho Tề Hoàn Công, hơn thế còn bắt Tề Hoàn Công khi tiếp nhận cống phẩm không phải hạ bái. Tề Hoàn Công hỏi Quản Trọng xử lý việc này như thế nào. Quản Trọng nói: - Làm vua mà chẳng ra vua, làm thần mà chẳng ra thần, đó là gốc của loạn! Cho rằng cần phải hạ bái, để kiên trì ngọn cờ “Tôn Vương đánh Di”, năm 649 trước Công nguyên, tộc Nhung cư trú ở giữa Y Lạc đánh vào Lạc Dương đất sở tại của vương thất nhà Chu, Tề Hoàn Công cử Quản Trọng với liên quân Tần Tấn bảo vệ vương thất nhà Chu. Chu Tương Vương muốn dùng lễ thượng khanh tiếp đãi Quản Trọng. Quản Trọng kiên trì giữ lễ hạ khanh triều kiến Chu Tương Vương. Những hành động này của nước Tề đã dẫn tới tiếng vang mạnh mẽ. Các nước chư hầu ca tụng Tề Hoàn Công là “nhân”, “thuận”. “Vua nước lớn hổ thẹn, vua nước nhỏ gượng gạo”, từ đó xác lập địa vị bá chủ của nước Tề ở trong các nước chư hầu (Xem “Quản Tử” quyển 7 “Quốc Ngữ - Tề Ngữ”). Thực hành sách lược kết hợp đánh và lôi kéo, đoàn kết với chư hầu Trung Nguyên. Sau khi Tề Hoàn Công lên ngôi, về phương diện hoạt động đối ngoại, biện pháp sử dụng đầu tiên chính là cử đại thần xuất xứ các nước lân cận, các nước mạnh như Lỗ, Tống, Vệ, Yên, Tấn, Sở; lại cử tám nghìn người Sĩ Thương trong dân gian đi chu du bốn phương, tuyên truyền chủ trương chính trị của nước Tề, kết giao với những nhân vật nắm quyền của các nước chư hầu, tiến hành trinh sát chiến lược và hoạt động gây chống đối. Dựa theo cách nói của “Quản Tử”, đó là để quan sát những điều quý báu tốt đẹp trên dưới của họ, chọn những kẻ trầm loạn của họ để chấn chỉnh cho họ, “để hiệu triệu thu nạp những hiền sĩ trong thiên hạ”. Sau đó, nhằm thẳng vào tình hình các nước chư hầu “lấy yêu thương để lôi kéo họ, lấy lợi để dắt dẫn họ, lấy chữ tín để kết giao với họ, lấy uy để chỉ dạy họ”. Trong việc giao tiếp với chư hầu, không tham lợi nhỏ, lấy nồng hậu đối xử với kẻ nhạt nhẽo, đem các đặc sản như cá, muối bán cho các nước chư hầu mà không thu thuế quan. Các nước chư hầu dùng chó, dê, vải vóc, da hươu làm lễ vật thì nước Tề dùng ngựa tốt, gấm vóc, da báo, da hổ tặng lại. Trong cuộc chiến Tề, Lỗ năm 681 trước Công nguyên, nước Lỗ thất bại, cắt đất cầu hòa, thế nhưng khi hội thề sau cuộc chiến họ lại dùng bạo lực bắt ép Tề Hoàn Công phải trao trả đất đã cắt. Sau sự việc Tề Hoàn Công quyết không lật lại, còn Quản Trọng lại kiên trì giữ lời hứa, để giữ chữ tín với thiên hạ. Từ năm 661 đến năm 660 trước Công nguyên, Bắc Địch trước sau đã xâm lược và tiêu diệt hai nước Hình, Vệ. Tề Hoàn Công đã dẫn liên quân chư hầu đánh bại Bắc Địch, xây dựng thành Di Nghi cho nước Hình, xây dựng thành Sở Khâu cho nước Vệ, giúp đỡ họ xây dựng lại hai nước Hình, Vệ. Các sự việc kể trên, đã khiến cho các nước chư hầu “yêu quý tình yêu của họ lại tham điều lợi của họ, tin theo điều nhân của họ lại sợ vũ lực của họ”, “dân chúng ở những nước gần theo họ như dòng nước chảy” (“Quản Tử” quyển 7). Đồng thời lại sử dụng thủ đoạn đả kích quân sự và khống chế kinh tế, kiêm tính các nước chư hầu nhỏ bé hoặc khiến chúng trở thành nước phụ thuộc. Trong thời gian hơn ba mươi năm (từ năm 679 đến năm 643 trước Công nguyên), các nước nhỏ trước sau bị nước Tề thôn tính đã có hơn ba mươi nước. Quản Trọng còn là người đầu tiên sáng lập ra sách lược tác chiến kinh tế, thông qua mậu dịch quốc tế thao túng kinh tế của các nước lân cận, khiến họ phải khuất phục nước Tề. Ví dụ hai nước Lỗ, Lương với nước Tề dựa vào nhau như răng với môi, lại thường gây hoạn nạn cho nước Tề. Tề Hoàn Công hỏi Quản Trọng kế sách chinh phục Lỗ, Lương. Quản Trọng kiến nghị: Nước Tề từ trên xuống dưới đều dùng lụa dày của hai nước Lỗ, Lương sản xuất ra để may quần áo. Ta nên dùng biện pháp bán một ngàn tấm lụa dày được thưởng ba trăm cân đồng, để động viên thương nhân mua về. Mối lợi đó đã khiến cho hai nước Lỗ, Lương vứt bỏ việc sản xuất lương thực để theo đuổi nghề dệt lụa dày. Sau đó đã kêu gọi nhân dân nước Tề thay đổi mặc vải sợi bông, hơn thế còn đóng cửa biên giới hai nước Lỗ, Lương. Kết quả, giá lương thực hai nước Lỗ, Lương đã tăng vọt, cao hơn nước Tề gấp một trăm lần. Chưa đầy ba năm, “dân chúng Lỗ, Lương đã quy theo Tề tới sáu phần mười”, “Vua nước Lỗ, Lương phải xin hàng phục”. “Dùng biện pháp tương tự như vậy, đã khiến cho các nước Lai, Củ, Đại, Hoành Sơn v.v... cùng lần lượt khuất phục Tề (Xem “Quản Tử” quyển 24). Trên cơ sở này lại sử dụng thủ đoạn triệu tập các nước chư hầu đến hội thề, tiến thêm một bước tăng cường sự khống chế đối với các nước chư hầu. Bắt đầu từ hội thề Bắc Hạnh (nay là phía Bắc Đông A Sơn Đông) năm 681 trước Công nguyên, đến hội thề năm 644 trước Công nguyên ở Hoài (nay là Thành Giá Hà Nam) là kết thúc, trong vòng ba mươi bảy năm, những hội thề lớn tổng cộng có chín lần. Tề Hoàn Công nhất hô bách ứng, chẳng những các nước chư hầu hễ triệu tập là lập tức đến ngay, có khi vương thất nhà Chu cũng phái quan đại thần tới tham gia, từ đó đã mở rộng ảnh hưởng chính trị của nước Tề, củng cố được địa vị bá chủ của nước Tề. Đây chính là “Cửu hợp chư hầu, nhất khuông thiên hạ” nổi tiếng trong lịch sử. Sử dụng thủ đoạn cùng thi hành văn võ, chế ngự ngoại tộc xâm nhập Trung Nguyên. Lúc đó điều tạo thành uy hiếp đối với khu vực Trung Nguyên chủ yếu là Nhung Địch ở phương Bắc và Kinh Sở ở phương Nam. Nhung Địch xâm nhập quấy nhiễu hai bờ Hoàng Hà, là mối họa trong tim trong bụng Trung Nguyên, thế nhưng lực lượng của chúng phân tán, hơn thế, mục đích chủ yếu là ở việc tước đoạt của cải, “sự việc cấp bách nhưng họa nhỏ”. Thực lực Kinh Sở lớn mạnh, tàng trữ dã tâm mưu cướp chính quyền Trung Nguyên từ lâu, sau khi thôn tính các nước nhỏ ở lưu vực Hán Thủy, mũi nhọn tấn công của chúng chỉ hướng vào khu vực phía Nam Trung Nguyên, “sự việc chậm chạp mà họa thì to lớn”. Căn cứ vào loại tình thế này, Quản Trọng đã đặt ra sách lược chinh phục Nhung Địch ở phía Bắc, chế ngự Kinh Sở ở phía Nam, giúp cho Tề Hoàn Công. Trước tiên tập trung lực lượng chinh phục Nhung Địch có mối nguy hại bức thiết, sau đó tích luỹ lực lượng, đối phó với Kinh Sở lớn mạnh và nguy hiểm. Đối với Nhung Địch dùng quân sự trực tiếp công kích là chính, trước sau đã đánh bại quân Nhung của Sơn Nhung, Lệ Nhung, Xích Nhung, Bạch Nhung và Y Lạc xâm nhập vào Hình, Vệ, Yên, Tấn, Đông Chu, sau đó thừa thắng tiêu diệt hai nước Cô Trúc và Lãnh Chi nằm ở vùng Lư Long Hà Bắc, đã yên định được thế cục ở phương Bắc. Đối với Kinh Sở thì sử dụng sách lược kết hợp giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao với đấu tranh kinh tế. Đến năm 30 Tề Hoàn Công (năm 656 trước Công nguyên), hai nước Tề Sở trải qua công việc xây dựng trên hai chục năm, sức lực ngang nhau, hai bên đều cố gắng dùng mưu lược để giành chiến thắng, không chiến tranh mà khuất phục được binh lính của nhau. Nước Sở có ý muốn thôn tính hai nước Tống, Trịnh ở phía Nam Trung Nguyên, thế nhưng lại sợ nước Tề can thiệp, cho rằng: “Nước có dân đông binh mạnh có thể hại được ta, tất chỉ có nước Tề mà thôi!”. Tức thì Sở Thành Vương đã tạo ra dư luận ngay ở trong nước mình, nói rằng Tề Hoàn Công và Quản Trọng là bậc minh quân hiền thần không ai sánh kịp, ông đồng ý làm thần phụng sự nước Tề. Hơn nữa còn cổ vũ các hiền thần ở nước Sở đem vàng bạc và châu báu kết giao với tả hữu của Tề Hoàn Công. Tề Hoàn Công nhất thời đã bị hiện tượng giả này mê hoặc, cho rằng Sở Thành Vương đối với mình rất tốt. Nếu mình không đối tốt với Sở thì sẽ tổn hại tới đạo lý, đòi Quản Trọng giao hảo tốt với nước Sở. Quản Trọng cho rằng như vậy không thỏa đáng. Ông chỉ ra, mục đích chân chính của nước Sở là “Muốn dùng văn đánh Tề, rồi dùng võ cướp Tống, Trịnh”. Do đó, cần phải chuẩn bị tốt hai mặt, một mặt mời nước Sở tới hội thề rồi lấy lý do nước Sở không tiến cống cỏ bao mao (một loại nguyên liệu dùng để lọc rượu) rồi cất quân hỏi tội. Tề Hoàn Công cứ theo kế mà làm, dẫn liên quân các nước chư hầu đến biên giới nước Sở, hội thề với Sở Thành Vương tại Triệu Lăng (nay là phía Đông Yển Thành Hà Nam). Nước Sở hoảng sợ thực lực của liên quân chư hầu lớn mạnh, không dám khinh thường cất quân đánh trả, bị bức phải thừa nhận “Không tiến cống cỏ bao mao là tội của nhà vua”. Quân Tề cũng bởi đi đánh trận đường xa, binh lính mệt mỏi, khó có thể giành được thắng lợi, nên dừng lại cũng là thích hợp. Từ đó trở đi, nước Sở không thể không tạm thời thu hồi lại chiến lược Bắc tiến Trung Nguyên, chuyển hướng sang tiến công các nước nhỏ bé ở lưu vực Hoài Tứ. Cuộc chiến mưu lược này đã kết thúc bằng sự thắng lợi của nước Tề và thất bại của nước Sở (Xem “Quản Tử” quyển 9 và “Xuân Thu tả truyện” Chu Huệ Vương năm 21). Những sự thực lịch sử kể trên đã chứng tỏ, Quản Trọng không những là người thiết kế phương châm chiến lược trị quốc đồ bá cho nước Tề, mà còn là người có tổ chức việc thực thi phương châm chiến lược này. Tề Hoàn Công sở dĩ để có thể chấn hưng nước Tề, thành tựu nghiệp bá, các nước chư hầu Đông Di, Tây Nhung, Nam Man, Bắc Địch, Trung Nguyên không đâu không hàng phục, trên một mức độ rộng lớn đều do những cống hiến đắc lực bởi tư tưởng mưu lược và tài năng tổ chức kiệt xuất của Quản Trọng. Cho nên, Tư Mã Thiên nói: “Quản Trọng đã được tín nhiệm và trọng dụng trong chính quyền nước Tề. Tề Hoàn Công đã dùng nghiệp bá, cửu hợp chư hầu, nhất khuông thiên hạ, đó là mưu của Quản Trọng vậy!” (Sử ký - Quản Yên liệt truyện). Những cống hiến đặc biệt độc đáo đối với việc phát triển tư tưởng mưu lược của Quản Trọng, bao gồm mưu lược chính trị và mưu lược quân sự ở trong đó, đã chiếm địa vị quan trọng đặc biệt trong lịch sử phát triển tư tưởng mưu lược Trung Quốc thời cổ đại. Ông không những đã kế thừa những tư tưởng ưu tú của các nhà mưu lược tiền bối do Y Doãn, """