"
Mười Hai Người Lập Ra Nước Nhật PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mười Hai Người Lập Ra Nước Nhật PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Mười hai người lập ra nước Nhật
Chia sẽ ebook : http://downloadsachmienphi.com/
Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree
Cộng đồng Google :http://bit.ly/downloadsach ế ắ
Khi nói đến Nhật Bản thì không cứ gì ở Việt Nam, mà ở khắp nơi trên thế giới, người ta đều coi đó là một hiện tượng thần kỳ.
Vâng, với diện tích đất đai chỉ lớn hơn Việt Nam khoảng mười phần trăm[1], và dân số
khoảng gấp rưỡi Việt Nam[2], Nhật Bản đang có sức mạnh kinh tế thứ nhì trên thế giới, bằng một nửa Mỹ[3], bằng hơn năm lần Trung Quốc[4]. Sản phẩm công nghiệp của Nhật, từ nặng tới nhẹ, từ lớn tới nhỏ, từ tinh vi tới siêu kỹ thuật, luôn luôn đứng hàng đầu thế giới.
Ấy thế mà, mới chỉ 150 năm trước đây thôi, khi Nhật Bản sắp sửa mở cuộc canh tân Minh Trị[5] thì nói chung xã hội Nhật Bản, nền kinh tế Nhật Bản cũng không hơn gì Việt Nam thời đó. Ðừng nói gì chuyện 150 năm trước cho dông dài, hãy nhìn lại khoảng năm chục năm qua, tức là từ sau trận chiến tranh thế giới lần thứ hai, tới nay thôi, ai ai cũng phải nhìn nhận rằng Nhật Bản lại làm một phép lạ, một kỳ tích lần thứ hai, tức là phục hưng lại xứ sở của một nước thua trận, đã bị phá hủy tan hoang, để rồi trở lại sân khấu thế giới một cách hãnh diện là cường quốc kinh tế thứ hai thế giới.
Khi tôi bắt đầu sang du học Nhật Bản tháng 4 năm 1957, tức là chưa đầy 12 năm kể từ sau khi Nhật Bản thua trận chiến tranh thế giới lần thứ hai[6], thì lúc đó Nhật Bản đã đứng đầu thế
giới về nền công nghiệp đóng tàu. Lúc đó, mức thu nhập của một người trí thức tốt nghiệp đại học của Nhật so với người Mỹ, chỉ tương tự như mức thu nhập của người Việt Nam ngày nay so với người Mỹ, mà thôi. Thật vậy, khoảng những năm đầu của thập kỷ 1960, mức lương tháng của một người Nhật mới tốt nghiệp đại học là khoảng 50 đôla Mỹ. Trong khi đó, một người Mỹ
có trình độ tương tự, lĩnh lương tháng trung bình là 600 đô-la nghĩa là hơn gấp 12 lần. Thế mà chỉ 20 năm sau thôi, thu nhập của người Nhật đã đuổi kịp người Mỹ rồi, và Nhật Bản nghiễm nhiên trở thành cường quốc kinh tế thứ nhì trên thế giới như vừa nói.
Ở ồ
Ở địa vị một nước thua trận, bị quân đội Mỹ (quân đội đồng minh) chiếm đóng, với diện tích đất đai nhỏ hẹp, dân số đông đúc, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn, Nhật Bản đã vươn lên được để chỉ trong chưa đầy 20 năm sau, đã đường đường đứng ra tổ chức Thế Vận Hội đầu tiên ở châu Á năm 1964. Việc đăng cai tổ chức Thế Vận Hội chứng tỏ quốc lực của Nhật Bản đã hồi phục hoàn toàn.
Giới thiệu một tác phẩm nói về sự thành lập nước Nhật Bản, bằng cách chọn 12 nhân vật đã đóng góp nhiều nhất cho sự nghiệp đó, bởi một tác giả được coi là một chuyên gia hàng đầu về
kinh tế, người đã được thủ tướng Obuchi mời vào làm bộ trưởng kế hoạch kinh tế để giải quyết những khúc mắc kinh tế, tài chính do tình trạng kinh tế bong bóng bị nổ xẹp gây ra, chúng tôi hi vọng cống hiến một số tư liệu lịch sử của một trường hợp dựng nước thường được
coi là thành công, và đã được nhiều nước, nhất là những nước đang mở mang ở Ðông nam Á, lấy làm mẫu mực, để tham khảo và so sánh.
Trong số 12 người nói đến ở đây, không ai là vị vua khai thiên lập địa, cũng không ai là vị
tướng tài đánh dẹp ngoại xâm. Mà họ là 12 người đã để lại ảnh hưởng sâu đậm đối với nước Nhật và người Nhật ngày nay. Họ là những người đã đưa ra quan niệm tôn giáo, tiêu chuẩn luân lý, phong cách xử thế, tức là những giá trị tinh thần của người Nhật, tới những cơ chế
chính trị, kinh tế, xã hội còn tồn tại, hoặc vẫn còn ảnh hưởng lớn tới ngày nay.
Về cách diễn đạt, chúng tôi đã cố gắng "dịch từng chữ" của nguyên văn tiếng Nhật, cực lực tránh "dịch thoát," để không đưa cái chủ quan của người dịch vào nội dung. Ngoài ra, có rất nhiều từ, nhất là những từ có tính cách lịch sử, và nhiều sự kiện lịch sử trong nguyên văn vừa khó đọc lại vừa khó hiểu đối với độc giả Việt Nam. Trong những trường hợp này, chúng tôi đã cố gắng chú thích thêm cho đầy đủ. Chú thích xuất hiện dưới hai dạng: cước chú và lời chú đóng trong ngoặc đơn. Phần chú thích như vậy vốn không có trong bản gốc tiếng Nhật. Người dịch chịu trách nhiệm hoàn toàn về những chú thích như vậy.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, Xuân Quý Mùi (năm 2003) Người dịch Ðặng Lương Mô
[1] Diện tích Việt Nam là khoảng 334 ngàn kilômét vuông, trong khi đó diện tích Nhật Bản là khoảng 369 ngàn kilômét vuông.
[2] Dân số Việt Nam là khoảng 80 triệu người, so với khoảng 120 triệu người của Nhật Bản.
[3] Mỹ có diện tích đất đai gấp khoảng 25,4 lần và dân số khoảng 2,5 lần Nhật Bản.
ố ấ ấ ầ ố ấ
[4] Trung Quốc có diện tích đất đai gấp 26,5 lần và dân số gấp hơn 9 lần Nhật Bản.
[5] Vua Minh Trị của Nhật Bản chính thức thâu hồi được quyền chính trị là tháng 11 năm 1867.
[6] Nhật Bản chính thức đầu hàng phe đồng minh là ngày 15 tháng 8 năm 1945.
Lời mở đầu
Bây giờ chính là lúc học lịch sử
Nhật Bản hiện đang ở thời kỳ đổi mới lớn.
Trong thời kỳ đổi mới này, cái gì sẽ thay đổi và cái gì sẽ không thay đổi? Nếu thay đổi thì
thay đổi như thế nào, yếu tố cũ nào nên giữ lại, yếu tố mới nào nên tiếp thu thêm?
Nghĩ như trên, trước hết phải hiểu thấu cái dòng lịch sử đã biến thành xương, thành thịt, thành con tim, thành “lòng” người Nhật.
Trong những cái coi là "có tính Nhật Bản," có cái đã hình thành sau cuộc chiến tranh Thái Bình Dương[1], cũng có cái mới chỉ lan truyền rộng ra từ những năm chót của thập niên 1980, tức là khi "cơn thịnh vượng kinh tế bong bóng" hay là khi "xã hội ít con" đã xuất hiện, song cũng có cái đã được vun trồng trong sự kế thừa liên miên của lịch sử. Phần lớn những cái đó đã trở thành "tính dân tộc," "tính quốc dân" khó có thể thay đổi được.
Xưa nay, Nhật Bản có đủ loại hình văn hóa du nhập vào. Tổ tiên người Nhật đã tiếp xúc bằng con mắt kinh hoàng những văn hóa về hình thức sinh hoạt, từ quần áo, thức ăn, nhà ở tới kỹ
thuật, học vấn, nghệ thuật, đạo đức, tôn giáo, chính trị, v.v., rồi đã chọn lọc kỹ càng, cái thì bỏ
đi, cái thì tiêu hóa đi rồi cải tạo và vun đắp thành "tính Nhật," "kiểu Nhật." Ðây chính là một đặc trưng lớn của Nhật Bản và của người Nhật.
Hiện nay, Nhật Bản đang ở thời kỳ biến chuyển mạnh. "Chiến tranh lạnh" kết thúc đã làm cho thế giới đổi mới, đồng thời cái "thể chế hậu
ế ễ ồ
chiến[2]" dễ thở ở Nhật Bản cũng đã băng hoại luôn rồi. Chính lúc này mới là lúc cần phải nhìn lại lịch sử, đi tìm cái lai lịch của Nhật Bản, tìm hiểu và nắm cho vững cái đặc sắc của xã hội và nền văn hóa mà người Nhật đã vun đắp lên.
Những vấn đề thời sự như cục diện chính trị, biến động thị trường từng ngày từng giờ thì đều dễ hiểu, dễ kể lại. Ai ai cũng ngóng nghe, và báo chí cũng loan truyền rộng rãi. Tuy nhiên, nếu nghĩ tới tương lai nước Nhật và người Nhật, tới cái mối quan hệ của nước Nhật và người Nhật với thế giới, thì cần phải nhìn thấu suốt lịch sử cùng bản chất của nước Nhật và người Nhật.
Trong những căn nguyên đã làm thành cái đặc trưng của nước Nhật Bản và người Nhật Bản, cái đặc sắc của xã hội Nhật Bản, thì có "vật" và "người," tức là "phong thổ" và "nhân vật."
Nói về phong thổ, Nhật Bản quả có một địa thế đặc biệt trên thế giới.
Thứ nhất, Nhật Bản nằm trong vùng gió mùa châu Á, có khí hậu tương đối ấm áp và ẩm ướt.
Trạng thái này rất thích hợp cho việc trồng lúa. Vì thế, nền nông nghiệp trồng lúa đã phát triển rộng lớn. Lật lại những trang sử của Nhật Bản, người ta thấy rằng ngay sau thời đại bắt cá, gọi là thời "hoa văn dây thừng[3]," thời đại canh tác thóc lúa đã xuất hiện rồi. Thời đại "du mục, chăn nuôi" vốn chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử thế giới, thì lại không thấy có ở Nhật Bản.
Núi non hiểm trở và bình nguyên nhỏ hẹp của lãnh thổ Nhật Bản không thích hợp cho việc xua đuổi chăn nuôi những đàn súc vật đông đảo. Vì vậy, người Nhật chỉ có những quan hệ rất mỏng manh với gia súc, và như vậy so với những nước khác vốn đã có kinh nghiệm của thời chăn nuôi gia súc, thì người Nhật tỏ ra yếu kém về thuật chế ngự những con vật có trí khôn.
Ðặc điểm thứ hai là lãnh thổ Nhật Bản do bốn hòn đảo lớn hình thành và ngăn cách với những nước khác bằng một "vùng biển không ề ể ằ ố
hẹp." Ðiều này có nghĩa là việc vượt biển vào Nhật Bản bằng số đông có tổ chức tập thể, có mục đích quân sự hoặc mục đích chính trị, thì rất khó. Tuy nhiên, vùng biển này lại không rộng đến nỗi không thể vượt qua được, dù chỉ bằng kỹ
thuật thô sơ của thời cổ xưa. Vì vậy, sự ghi chép về người Nhật xuất hiện trong triều đình
Trung Hoa đã có từ thế kỷ thứ nhất sau công nguyên.
Nói cách khác, quần đảo Nhật Bản vừa có tính cách cô lập về mặt quân sự và chính trị, song mặt khác lại có tính giao lưu văn hóa từ cổ xưa. May mắn thay, ở bờ bên kia vùng biển không quá hẹp cũng không quá rộng này, có bán đảo Triều Tiên và đại lục Trung Hoa, tức là một trong những vùng mở mang tiên tiến nhất trong lịch sử văn minh nhân loại.
Ở xa đại lục một quãng cách tương tự như Nhật Bản còn có Cuba và Madagasca. Song trong trường hợp những nước này, thì châu lục Mỹ hoặc châu lục Phi ở bờ bên kia, lại chỉ có nền văn minh cổ đại không lấy gì làm phát triển cho lắm. Bởi vậy, những đảo quốc này đã không được sự du nhập liên tục của những văn hóa cao độ từ đại lục vào. Ở điểm này, có thể nói cái vị trí địa lý của Nhật Bản, vừa cách xa không để cho các thế lực quân sự vượt qua được, nhưng lại vừa đủ gần để cho văn hóa vãng lai được, thì quả là độc đáo trên thế giới.
Ðặc điểm thứ ba là bốn hòn đảo chính của Nhật Bản làm thành một nhóm rất gọn. Hokkaido phát triển muộn hơn, chứ Kyushu, Shikoku và Honshu thì đã hợp lại thành một nước và có điều kiện thiên nhiên để phát triển. Vì vậy, khi có cùng một nền văn hóa đã phát triển, nên nếu có một thế lực chính trị nòng cốt ra đời, thì toàn thể dễ trở thành một quốc gia.
Chính vì vậy mà kể từ khi lịch sử viết thành chữ ra đời, tức là từ tiền bán thế kỷ thứ VII, cho tới nay, một quãng thời gian khoảng chừng 1400 năm, ở Nhật Bản đã có nhiều cuộc tranh chấp chính trị, nhiều vụ nội loạn, song trong tất cả những bè phái tranh giành nhau như vậy, ấ ố ằ
không thấy có ai tự mình tuyên bố rằng "ta đây là một nước khác không phải là Nhật Bản." Phần lãnh thổ chủ yếu thì chưa bao giờ bị nước ngoài cai trị lâu năm cả, quốc gia cũng chưa bao giờ bị
phân cắt.
Ba điều kiện kể trên, tức là "địa thế và khí hậu," "vị trí quốc tế" và "sự tóm gọn của lãnh thổ," quả thật đã có ảnh hưởng quan trọng và lớn lao tới lịch sử Nhật Bản. Có lẽ cũng vì vậy mà người Nhật ưa luận về "phong thổ," bất cứ sự việc gì cũng thuyết giải từ phong thổ. Tuy nhiên, nếu chỉ chú trọng vào phong thổ không thôi, thì đó cũng có khi nguy hiểm.
Thí dụ võ tướng Oda Nobunaga là người có tính tình rất phóng đạt, thì thường được giải thích rằng đó là bởi vì ông sinh trưởng ở vùng bình nguyên Mino-Owari rộng lớn. Song le, thời đại Nobunaga sinh ra, thì bình nguyên đó toàn là đồng lầy, có sông ngòi chi chít và rất ít
quãng rộng cho ngựa chạy vòng quanh. Nghĩa là khó có thể nói rằng nhờ sinh trưởng ở vùng đồng bằng mà Nobunaga đã có tính tình phóng đạt như vậy được.
Nói cách khác, từ luận về phong thổ, rồi đi đến giải thích tính tình con người, hay có khi cả
tình trạng của một chính quyền, là việc làm gò bó. Phong thổ Nhật Bản quả có ảnh hưởng rất lớn tới nước Nhật và người Nhật, song cái gì cũng chứng minh bằng sự xuất phát từ đó, thì e dễ
sinh ra nhầm lẫn.
Ngược lại, ảnh hưởng của một "nhân vật" đặc thù nào đó, hoặc của một giai tầng hay tập thể
mà nhân vật đó là tượng trưng, thì không nhỏ. Có không ít những cái mà nay ta coi là đương nhiên, thì một lúc nào đó trước đây đã do một người nào đó làm và từ đó đẻ ra tính độc đáo, tạo ra tính dân tộc riêng biệt của Nhật Bản.
Dĩ nhiên cái đó không phải chỉ do năng lực của cá nhân đó hay sự ngẫu nhiên mà xẩy ra
được. Có lẽ nên nói rằng người đó, giai tầng người đó đã làm công việc tất yếu lịch sử, thì đúng hơn. Thế nhưng để cho dễ hiểu, nếu coi sự việc như vậy chẳng qua là đã được tượng trưng hóa bởi một nhân vật đặc thù nào đó, thì đây không phải là phương pháp dở.
Sách này chọn 12 "nhân vật" tượng trưng đã để lại ảnh hưởng sâu đậm đối với nước Nhật cho tới ngày nay.
Những người này đã hành động như thế nào trong giai đoạn nào của lịch sử? Ðiều mà họ đã làm còn tồn tại trong người Nhật ngày nay như thế nào? Nó đã kìm hãm ý nghĩ của người Nhật, của xã hội Nhật như thế nào? Thế rồi từ nay về sau, trong sự giao tế với thế giới, nó sẽ ảnh hưởng ra sao?
Cuốn sách này chính là muốn luận về những "nhân vật" này từ quan điểm như vậy.
Trong luận cứ như vậy, cả những "sự thật" đã được thần thoại hóa trong lịch sử cũng sẽ
được đề cập, chứ không riêng gì sự nghiệp lịch sử của người đó, lai lịch xác đáng của người đó, hình ảnh đúng của người đó trong thời đại người đó thực sự sống. Tuy nhiên, cái tổng thể, kể
cả những điều như vậy, đang có ảnh hưởng như thế nào tới nước Nhật và người Nhật ngày nay, sẽ để lại cái gì cho Nhật Bản sau này, và sẽ tiếp tục có ảnh hưởng như thế nào, chính là điều chúng tôi có chủ ý tìm hiểu ở đây.
[1] Chiến tranh Thái Bình Dương là nói mảng Thái Bình Dương của trận Chiến tranh thế
giới lần thứ hai.
ể ế ế ể ế
[2] “Thể chế hậu chiến” cũng gọi là “thể chế năm 55.” Xem chú 104 (Chương VII).
[3] Jomon Jidai.
Chương I : Thái tử Shotoku
Người khởi xướng tư tưởng gộp đạo Thần-Phật-Nho Thủy tổ của khái niệm tôn giáo của người Nhật
Thái tử Shotoku là một trong những "nhân vật" quen biết nhất trong lịch sử Nhật Bản.
Sau khi qua đời ông được đặt tên thụy là Shotoku Taishi, tức là Thái tử Shotoku, chứ sinh thời ông tên là Umayado no Miko hoặc Kamitsu Umayado no Toyotomimi no Oji.
Những ai sinh trước thập niên 1960, thì hẳn còn nhớ hình bán thân Thái tử Shotoku in trên tờ giấy bạc 5 ngàn Yen hay tờ 10 ngàn Yen cũ. Ðây chỉ là một phần của hình vẽ thái tử đứng chung với hai người con. Hơn nữa, hình vẽ này có miêu tả đúng thái tử hay không, là vấn đề
còn cần phải bàn luận thêm. Nhưng dù sao, hình vẽ này cũng đã trở thành quen thuộc như là
"bộ mặt Thái tử Shotoku" vậy.
Truyền thuyết về Thái tử Shotoku trên phương diện tôn giáo và văn hóa có rất nhiều. Ðến
nỗi ở hậu bán thập niên 1980, người ta đã thấy xuất hiện một tập sách hoạt họa vẽ Thái tử
Shotoku, bán rất chạy trong giới trẻ. Một nhân vật lịch sử hoạt động về tôn giáo và ngoại giao, thường ra khó trở thành đề tài kể chuyện
ề ổ ế
Kodan[1] hay đề tài truyện cổ, thế mà đã thành kịch hí họa bán chạy, thì cũng lạ.
Thái tử Shotoku được chọn làm người thứ nhất trong "Mười hai người dựng nên nước Nhật," chính vì ông là người khởi xướng đồng thời là người thực hành "tư tưởng gộp đạo Thần-Phật-Nho," tư tưởng đã được cụ thể hóa thành quan niệm tôn giáo chi phối tâm thức người Nhật trong suốt một nghìn bốn trăm năm qua.
Ðây là tư tưởng tôn sùng cùng một lúc ba giáo lý: đó là Thần đạo hay tôn giáo dân gian của Nhật Bản, Phật giáo hay tôn giáo phát sinh ra ở Ấn Ðộ rồi truyền qua Trung Hoa và bán đảo Triều Tiên vào Nhật Bản,
và Nho giáo phát sinh ra ở Trung Hoa, tức là những quy phạm đạo đức làm khuôn mẫu cho cách xử thế.
Từ đó tới nay, cái tư tưởng này không những đã quyết định hẳn quan niệm tôn giáo và quan niệm văn hóa của người Nhật, mà còn có ảnh hưởng lớn tới cung cách đối xử khi Nhật Bản tiếp thu văn hóa hay kỹ thuật từ nước ngoài vào. Ðồng thời, từ sau khi tư tưởng gộp đạo đã bén rễ
rồi, thì tôn giáo không còn là một trục đối lập đáng kể ở Nhật Bản nữa. Thậm chí nếu một tôn giáo mới (ví dụ đạo Cơ Ðốc) du nhập vào, thì đó chẳng qua là lại có thêm một đối tượng nữa để
tôn sùng. Sự khác biệt tôn giáo chỉ là ở chỗ đặt trọng điểm tín ngưỡng vào đâu mà thôi.
Ðối với người Nhật, thì chiến tranh tôn giáo là cái gì thật sự không hiểu nổi. Khi xét vấn đề
Trung Ðông hay cuộc phân tranh Bosnia Helzegovina[2], người Nhật hoàn toàn thấy mù tịt khi đi vào vấn đề tôn giáo! Chỉ vì khác tôn giáo mà đánh nhau đến bỏ mạng, là chuyện chưa bao giờ thấy có ở Nhật Bản, kể từ trận phân tranh giữa hai họ Soga và Mononobe thời Thái
tử
Shotoku cho tới ngày nay. Người dân nước này đã thành như vậy là do Thái tử Shotoku, hay ít nhất cũng là do cái tinh thần thời đại tượng trưng bởi thái tử.
Chương này sẽ kể lại "nhân vật" Thái tử Shotoku từ quan điểm nói trên. Song, trước hết, chúng ta thử nhìn lại xem thái tử đã sống trong thời đại như thế nào.
Thời chuyển tiếp từ "thời sơ cổ" sang "thời cổ"
Thời kỳ đáng coi là văn hóa đã thực sự bén rễ ở đảo quốc Nhật Bản này, là từ bao giờ? Thật ra, những nghiên cứu khảo cổ học càng đi sâu hơn thì thời kỳ như vậy càng thấy trở lui thêm về
quá khứ. Song tựu trung, nhận thức chung là coi thời kỳ này ở vào khoảng thế kỷ thứ II.
Thời đó có nữ chúa Himiko, làm chúa một số thôn ấp và quy phục được một số thôn ấp xung quanh nữa. Người ta mặc loại y phục chỉ gồm có một mảnh vải đay đục lỗ ở giữa rồi chui cổ qua đó. Ðây là lời tường thuật trong sách "Ngụy chí Oải nhân truyện[3]" . Ngụy nói ở đây là nước Ngụy trong ba nước Ngụy, Ngô, Thục của truyện Tam Quốc Chí, nước đã được con của Tào Tháo[4] dựng nên. Khi Trung Hoa đã ở thời kỳ Tam Quốc, thì Nhật Bản hãy còn ở tình trạng như kể trên vậy.
Tuy nhiên, có một sự thật được biết rất rõ là, trước thời đại Himiko cả hơn 150 năm, nghĩa
là vào khoảng năm 57 sau công nguyên, đã có sứ giả của vua nước Nu người Oải tới kinh đô Lạc Dương của nhà Hậu Hán, Trung Hoa, trình cống vật và nhận "ấn vàng" (con dấu bằng vàng) của Hán Vũ đế. Truyện này chép trong sách Hậu Hán Thư. Vật được coi là "ấn vàng" đó, người ta đã đào thấy ở tỉnh Fukuoka vào thời chúa Tokugawa, nay vẫn có thể tới xem ở Viện bảo tàng Fukuoka.
ề ầ ầ
Lại nữa, qua những điều tra gần đây, người ta đã lần lượt phát hiện ra nhiều ngôi mộ cổ xưa chứng tỏ rằng ngay thời Himiko, đã có ở vùng Kinki, tức là vùng quanh kinh đô Kyoto ngày nay, một triều vua với thế lực đáng kể. Xét những sự thật như vậy, không chừng ta có thể coi nền văn minh Nhật Bản đã có từ lâu trước thời đại Himiko.
Cũng có thể là một thời gian trước hoặc sau đầu công nguyên, nền canh nông đã phát triển và do đó đã có một triều vua. Tuy nhiên, dù cho thời đó đã có một triều vua đi chăng nữa, thì tôi cũng chỉ định nghĩa đó là một quốc gia "thời sơ cổ," chứ chưa phải là "thời cổ" tức là thời kỳ
người ta đã biết coi trọng sự gia tăng số lượng vật chất.
Trong lịch sử Tây Âu, thì từ thời Kim tự tháp tới thời đế quốc La Mã tan rã, và trong lịch sử
Trung Hoa, thì thời thái cổ kể từ nhà Ân, tức triều đại Hạ, cho tới đời Ðường, nghĩa là suốt khoảng thời gian trước thời "trung cổ" đều gọi là "thời cổ." Nhưng ngay trong khoảng thời gian dài này thì nửa trước và nửa sau đã có sự khác nhau lớn lao. Nên gọi thời đại mà con người chỉ
biết gieo hạt rồi chờ thu hoạch trên những thửa đất có điều kiện thiên nhiên tốt, nghĩa là thời đại coi sự cầu đảo thần linh làm trọng hơn là trông cậy vào tri thức và sự cần cù, là "thời sơ cổ."
Còn thời đại sau cách mạng nông nghiệp, tức là biết dùng thủy lợi và thâm canh để cải thiện đất đai, rồi do đó coi trọng kỹ thuật và sự cần mẫn, là "thời cổ." Theo tôi, thì chia ra như vậy mới đúng.
Thời Himiko rõ ràng chỉ là "thời sơ cổ," vì chưa thấy có kỹ thuật dẫn thủy nhập điền hay kỹ
thuật đê điều. Nói khác đi, diện tích có thể canh tác được ở mỗi nơi đều nhỏ hẹp, và như thế, ở
ỗ ề ể ề ố
mỗi địa vực đều không thể sinh ra một quyền lực quốc gia mạnh lớn được.
Nhưng dần dần kỹ thuật cải thiện đất trồng trọt ngày một tiến bộ, kỹ thuật dẫn thủy nhập điền được phổ cập, thì diện tích canh tác rộng lớn ra. Kết quả là sự hình thành của quốc gia địa vực bao gồm cả vùng xung quanh mà đất đai không canh tác được nếu để nguyên trạng như
thiên nhiên. Tiến bộ kỹ thuật đã làm cho luân lý thay đổi, hình thái quốc gia cũng từ dạng quốc gia đô thị biến thành quốc gia địa vực. Ðây chính là thời chuyển tiếp từ "thời sơ cổ" sang "thời cổ" vậy.
Không những diện tích canh tác đã được mở rộng sang vùng phụ cận, mà sức sản xuất cũng tăng lên. Vì thế, dân số gia tăng và sinh ra sản phẩm thặng dư. Do đó mới phát sinh ra quyền lực bắt người khác làm việc để mình thu lợi. Rồi, tổ chức và chế độ mới thành hình.
Những ngọn kim tự tháp hùng vĩ đã được dựng lên ở quốc gia đô thị thời thái cổ Ai Cập. Việc nặng nhọc khuân vác những tảng đá xây kim tự tháp đó, hẳn đã phải do bọn người nô lệ bị
đánh đập, thôi thúc bằng roi vọt, khuân vác. Như vậy, có nhiều người tưởng rằng thời Kim tự
tháp đó hẳn đã phải có nhiều nô lệ lắm. Nhưng thật ra, người ta đã biết rằng ở thời thái cổ Ai Cập, tức là lúc những kim tự tháp đó đã được xây dựng, thì hầu như không có người nô lệ. Ðây là vì, bắt một người khác làm việc cho mình, mà sức sản xuất của người đó không nuôi được
hơn một miệng người, thì đó là việc làm vô nghĩa. Chế độ nô lệ chỉ trở thành đại quy mô kể từ
"thời cổ" khi đã phát sinh ra hiện tượng sản phẩm thặng dư mà thôi. ấ ồ
Kỹ thuật cải thiện đất trồng trọt đã từ bình nguyên Kawachi lan sang thung lũng Yamato.
Do đó, người ta cho rằng một vương quyền kiểu "thời cổ" đã phát sinh ra ở vùng Kinki vào thời bách niên kỷ 500 sau công nguyên (tức là thế kỷ thứ VI). Thế lực này sau đó đã lớn mạnh thành triều vua Yamato vậy.
Thái tử Shotoku đã sinh ra vào thời kỳ mà quốc gia "thời cổ" này đã đứng vững, tức là hậu bán của thế kỷ thứ VI.
Sự đối lập xung quanh vấn đề công nhận Phật giáo
Sức sản xuất đã cao vọt lên từ thời sơ cổ sang thời cổ, là nhờ kỹ thuật du nhập từ đại lục sang. Ðương nhiên, cùng với kỹ thuật đó, cả tư tưởng mới lẫn tôn giáo mới cũng lan vào.
Sự việc trên, không những đã nhờ tiến bộ về thuật hàng hải khiến cho sự đi lại giữa bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản trở nên dễ dàng hơn, mà cũng nhờ có những diễn biến quân sự, chính trị ở bán đảo Triều Tiên nữa. Thời đó, Triều Tiên đang có loạn "tam quốc[5]" . Những người có kỹ thuật và văn hóa ưu tú đã vượt biển sang Nhật Bản. Trong những người gọi là "dân vào làng (dân nhập tịch)" như vậy, có nhiều người đã kéo tất cả bà con thân thích vượt sang Nhật Bản.
Những người này đã mang vào Nhật Bản văn hóa và kỹ thuật phát đạt ở Trung Hoa, trong đó có cả Ðạo Phật.
Sử chép năm 538 lần đầu tiên Phật giáo đã được "công truyền" vào Nhật Bản. Ðây là nói sự
"công nhận của triều đình," chứ thật ra, Ðạo Phật hẳn đã được truyền bá trong dân gian từ
trước đó. Phật giáo đã lưu hành rộng rãi trong dân gian, đến nỗi triều đình không thể làm ngơ
ề
được, đã truyền cho họ Soga "phải thờ Phật đi." Nói theo ngôn ngữ ngày nay, thì đó chính là sự
công nhận tự do tín ngưỡng đối với Ðạo Phật vậy.
Là một tôn giáo đã hoàn chỉnh, Phật giáo vào Nhật Bản mang theo không những chỉ có yếu tố tôn giáo và triết học, mà còn cả một nền "văn hóa" có hệ thống nữa. Từ kỹ thuật kiến trúc và các công nghệ, kỹ thuật cải thiện đất trồng trọt, nghề thuốc và dinh dưỡng học, v.v., đã cùng với Ðạo Phật được mang vào Nhật Bản.
Vốn thèm khát "văn hóa," số người Nhật quy y theo Phật giáo đã tăng vọt lên. Một hiện tượng tương tự song với quy mô và sự ưu đãi gấp nhiều lần của hiện tượng lúc ban đầu thời Meiji[6] (Minh Trị), tức là khi nền văn minh Tây Âu hiện đại cùng với đạo Cơ Ðốc truyền vào Nhật Bản, đã thực sự diễn ra. Vì thế, hơn cả chính Ðạo Phật, số người mộ cái lợi ích đời nay, như sự học tập kỹ thuật, cái vẻ bảnh bao, v.v., hẳn đã quy y vô cùng đông đảo. Tôn giáo hoặc tư
tưởng từ những nước tiên tiến lan truyền tới thì bao giờ cũng như vậy.
Tuy nhiên, mười mấy năm sau khi Phật giáo được "công nhận," nghĩa là khoảng từ năm 552
trở đi, phe "sùng Phật" tức là dòng họ Soga đã gặp phải lúc vận xui. Hễ cứ xây chùa thì bệnh dịch lại lưu hành, khiến đã nẩy ra cuộc tranh luận về vấn đề công nhận Phật giáo. Ðại biểu của phái "bài Phật" là dòng họ Mononobe.
Mononobe là một dòng họ được nâng đỡ bởi chế độ thị tộc của triều đình Yamato, và cùng với họ Otomo, đời đời được giữ quyền lực tối cao với chức Omuraji[7]. Nói cách khác, với địa vị quan chức thống lãnh ba quân của triều đình Yamato, với thói quen thờ "thần bảo hộ"
của những nhà quân sự thời đó, dòng họ này đã cố chấp sự duy trì tôn giáo cổ truyền của Nhật Bản.
Một mặt thì phái sùng Phật, với dòng họ Soga làm trung tâm, đã không chịu mãn nguyện với nền tự do tín ngưỡng cho dân gian, mà lại muốn cả bậc nguyên thủ, tức là "thiên hoàng" (vua Nhật Bản), cũng phải sùng bái Ðạo Phật nữa.
Từ đời vua Bidatsu, rồi đến vua Yomei lên ngôi, cuộc tranh luận vẫn còn sôi nổi. Vị này là em trai vua Bidatsu và là cha Thái tử Shotoku.
Theo sử chép, vua Yomei là ông vua đầu tiên ở Nhật Bản đã lễ Phật (năm 585). Tuy nhiên, hình như đó chỉ là một lễ không chính thức của cá nhân nhà vua mà thôi. Ở thời đó, đây là giới hạn tối đa mà nhà vua có thể làm được[8].
Vua Yomei ở ngôi được một năm tám tháng, thì băng hà. Thế là cuộc tranh chấp liên quan đến việc chọn vị vua kế, đã bùng nổ ra giữa đại nguyên soái Mononobe Moriya và thượng thư
Soga no Umako. Nghĩa là đã có một cuộc nội loạn giữa một bên gồm có họ Mononobe và họ
Nakatomi, tức là phe tôn thờ thần thánh cổ truyền của Nhật Bản, và một bên muốn nâng Ðạo Phật lên thành quốc giáo, tức là phe gồm có dòng họ Soga làm nòng cốt, xung quanh có nhóm người mới "vào làng" cùng với đám hào trưởng muốn học hỏi văn hóa, kỹ thuật của nhóm người mới "vào làng" này.
Thời ấy, đại đa số các hào trưởng đã ủng hộ phe sùng Phật của họ Soga là vì người Nhật lúc đó, với tinh thần "thời cổ," đã mong có một chế độ xã hội mới với tiến bộ văn minh có thể tạo ra nhiều của cải, hơn là cái nền chính trị Thần quyền. Nói cách khác, Nhật Bản rõ ràng đã bước từ "thời sơ cổ" sang "thời cổ" vậy.
Trong cuộc nội loạn này, Thái tử Shotoku đã đứng về phe họ Soga và đã đích thân ra chiến trường. Thái tử cho tạc tượng tứ thiên vương để cầu thắng và đã phát thệ rằng nếu thắng trận sẽ dựng chùa thờ phụng tứ thiên vương. Kết quả là thái tử thắng trận và đây
ố
là cơ hội cho chùa Tứ Thiên Vương được dựng lên thành quốc tự ở Naniwa.
"Chính quyền liên hiệp" giữa hoàng gia và họ Soga
Thắng trận, diệt xong họ Mononobe thì họ Soga đã tôn Thái tử Hatsusebe lên ngôi, tức là vua Sushun.
Thế nhưng khi lên trị vì, nhà vua gặp phải một mâu thuẫn chính trị sâu sắc. Số là vua Nhật, hay "thiên hoàng", vốn được kể là dòng dõi Amaterasu Omikami[9], hậu duệ vua Jinmu, theo một truyền thuyết Thần đạo. Nay đã phủ nhận Thần đạo rồi, nên cái tính tất yếu của việc phải để cho con cháu dòng họ "thiên hoàng" lên làm vua, cũng đã mất đi rồi.
Thời đó, văn hóa Trung Hoa lan vào Nhật Bản không phải chỉ có Ðạo Phật mà cả Nho giáo và Ðạo giáo cũng truyền vào. Phép tu luyện thần tiên, đại diện bởi pháp sư Enno Gyoja, cũng truyền bá vào. Ðương nhiên, cái tư tưởng "cách mạng đổi họ[10], " một tư tưởng chính trị quan
trọng của Trung Hoa, cũng du nhập vào.
"Dịch tính cách mạng (cách mạng đổi họ)" là nói trời chọn người có đức cho làm thiên tử.
Do đó gọi là thiên mệnh. Con cháu nhờ đức của tổ tiên mà trị thiên hạ. Nhưng sau nhiều đời, đức ấy hết đi, trong hàng con cháu có kẻ thất đức xuất hiện, thì kể như thiên mệnh hết. Lúc đó, trời chọn người họ khác có đức, trao cho thiên mệnh và khiến lập ra triều đại mới. Chẳng qua,
"đổi họ để thay mệnh" chính là "mệnh lệnh" của "trời" vậy. Tư tưởng này đã được Mạnh Tử lý thuyết hóa, cũng đã được nói đến trong sách Sử Ký Tư Mã Thiên, là tư tưởng khẳng định cách mạng quá khích độc đáo của Trung Hoa.
Thời Thái tử Shotoku thì ở Trung Hoa nhà Tùy mới thành lập chưa được bao lâu. Ðó là thời đại toàn quốc mới thống nhất sau một thời tao loạn gọi là "thời đại lục triều" hay thời "nam bắc triều," thì đương nhiên phải có sự thay đời đổi vua. Vì vậy, cái tư tưởng "cách mạng
đổi họ, đổi đời" hẳn phải được cổ súy hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh như vậy, Ðạo Phật đã phát đạt và được truyền bá vào Nhật Bản.
Như vậy, tư tưởng "cách mạng đổi họ, đổi đời" không thể không du nhập vào Nhật Bản được. Nói cách khác, cái quan niệm lúc đó coi ai có đức thì đáng làm vua, chứ không câu nệ
truyền thống "vạn thế nhất hệ (một họ vạn đời)," quả là cái nguy cơ chồng trứng đối với dòng họ "thiên hoàng."
Hơn thế nữa, lại có cả dòng họ Soga có thế lực đáng đứng ra thay thế nữa. Thế mà, cái tiền đề cho dòng họ "thiên hoàng" được làm "thiên hoàng," tức là Thần đạo, đã bị phủ nhận mất rồi, thì cái nguy cơ quả là "nước đã đến chân." Vua Sushun đã nhận thức được cái nguy cơ này. Vì thế, mặc dầu được dòng họ Soga, tức là phe "sùng Phật" tôn lên làm vua, song nhà vua đã ngả
sang phe "bài Phật" vậy.
Kết quả là năm năm sau, vua Sushun đã bị Soga no Umako ám sát. Trong lịch sử Nhật Bản, chỉ có hai vị vua được sử chép là "bị giết," đó là vua Anko ở thế kỷ thứ V và vua Sushun này. Nói cách khác, họ Soga đã có đủ uy thế đến nỗi có thể ám sát được cả vua.
Sau đó, dòng họ vua đã khổ tâm không biết nên tôn ai lên làm vua. Kết cục, bà cô của Thái tử
Shotoku đã lên ngôi năm 592, tức là nữ hoàng Suiko. Ðây là vị nữ đế vương đầu tiên ở Ðông Á.
Vị nữ đế vương đầu tiên và duy nhất trong lịch sử Trung Hoa, tức là bà Tắc Thiên Võ Hậu (Võ Tắc Thiên) đã xuất hiện vào nửa trước của
ế
đời nhà Ðường (bà lên ngôi năm 690), nghĩa là sau bà nữ đế vương Nhật Bản khoảng 100 năm. Ở bán đảo Triều Tiên thì cũng khoảng 40 năm sau Nhật Bản mới có nữ vương, tức nữ vương Thiện Ðức của nước Tân La lên ngôi năm 632.
Lúc đó không phải là dòng họ vua không có người đàn ông nào xứng đáng. Chính Thái tử
Shotoku lúc đó đã được 19 tuổi, và ở thời đại đó thì như vậy là trưởng thành rồi, vì so với ngày nay thì tuổi đó tương đương với tuổi trên 30. Ấy thế mà người ta đã để cho một người đàn bà thuộc ba thế hệ trước lên làm vua!
Việc tôn lên ngôi vị nữ hoàng đầu tiên này ở Ðông Á đã để lại dấu tích của cái khổ tâm trong vấn đề nhân sự này. Lợi dụng sự sùng bái phụ nữ từ Amaterasu Omikami để chọn nữ hoàng Suiko, đã cho thấy sự thỏa hiệp phức tạp giữa dòng họ Soga và dòng họ thiên hoàng. Với dòng họ Soga thì việc chọn nữ hoàng tức là làm cho nhà vua khó cựa quậy, mặt khác việc lựa chọn nữ
hoàng tỏ rõ cái ý của dòng họ thiên hoàng, hay đúng ra là của Thái tử Shotoku, không muốn đối lập ra mặt với dòng họ Soga.
Với việc đưa thiên hoàng Suiko lên ngôi, vấn đề nhân sự như thế là xong. Nhưng "chính quyền liên hiệp" này giữa dòng họ thiên hoàng và dòng họ Soga liệu có tốt hay không. Trước hết là vấn đề tôn giáo,
vấn đề trọng đại nhất, thì chưa giải quyết được. Giữa lúc đó, thì từ dòng họ thiên hoàng đã thấy xuất hiện một thiên tài. Ðó là Thái tử Shotoku, người đã nắm quyền nhiếp chính năm sau đó, tức là năm 593.
Khởi xướng "tư tưởng gộp đạo" duy nhất trên thế giới
Thái tử là một Phật tử rất ngoan đạo. Như đã nói ở trên, thái tử mộ đạo đến nỗi trong cuộc phân tranh Soga - Mononobe, ông đã cho tạc tượng tứ thiên vương để cầu thắng, và sau khi thắng trận, ông đã dựng chùa Tứ Thiên Vương làm quốc tự. Thêm nữa, thái tử đã theo ề
một cao tăng tên là HuệTừ từ Cao Ly trên bán đảo Triều Tiên qua, học Phật giáo và viết chú giải kinh Pháp Hoa cùng nhiều kinh điển khác. Hơn thế nữa, thái tử còn tạc tượng và hiểu biết tinh tường về kiến trúc Phật giáo. Có thể coi thái tử là nhân vật uyên bác nhất về Ðạo Phật thời đó.
Trên thực tế, thái tử cũng đã đích thân truyền bá Ðạo Phật, đã cho xây chùa Horyuji làm ngôi chùa của chính mình. Mặt khác, năm 15 đời nữ hoàng Suiko, chính thái tử đã viết "Kính Thần Chiếu," hay là tờ chiếu tôn kính Thần đạo.
Sự nghiệp của thái tử đáng được ghi vào sử sách gồm có, thứ nhất, nghiên cứu và phổ cập Ðạo Phật. Sự nghiệp này gồm có việc dựng chùa, tạc tượng Phật, chế tạo Phật cụ và phát triển biết bao nhiêu kỹ thuật liên quan.
Sự nghiệp thứ hai là chế định những chế độ quốc gia như "Hiến pháp 17 điều," "quan chế 12
bậc," v.v., làm nền tảng biến Nhật Bản từ một nước cai trị bởi hào trưởng, thành nước có chế
độ quan lại, có tổ chức hành chính hẳn hoi. Ðiều thứ nhất của "Hiến pháp 17 điều" có câu nổi tiếng là "lấy hòa làm quý, không đối nghịch nhau làm gốc. Người ta ai nấy hãy nên có bè phái."
Nước Nhật ngày nay là nước do quan lại cầm quyền. Thời Thái tử Shotoku chính là lúc chế
độ quan lại bắt đầu. Cho đến bấy giờ, chế độ quan lại cũng như chế độ quốc gia đều không có gì rõ rệt cả. Vì thế, việc chế định "quan chế 12 bậc" là biểu hiện của nỗ lực xếp đặt chế độ quan lại vậy.
Vì thế, một mặt thì nói "lấy hòa làm quý," song ngay sau đó lại dạy người ta rằng "ai nấy nên có bè phái!" tức là từng nhóm hãy lập ra tổ chức của mình đi, rồi cùng nhau làm việc trong sự
hòa hợp.
Sự nghiệp hiển hách thứ ba của Thái tử Shotoku là vấn đề ngoại giao mà tiêu biểu là việc gửi sứ sang nhà Tùy, Trung Hoa. Sứ giả đầu tiên được Nhật Bản chính thức phái tới Trung Hoa, đã mang
quốc thư với câu mở đầu nổi tiếng là "thiên tử nước mặt trời mọc gửi thư này tới thiên tử nước mặt trời lặn." Thật là minh bạch, để tỏ rõ lập trường coi Nhật Bản cũng như
Trung Hoa hay bán đảo Triều Tiên, đều là một nước riêng biệt, độc lập.
Ngoài ra, hình như thái tử còn toan gửi quân sang chinh thảo nước Tân La (ở bán đảo Triều
Tiên). Kế hoạch này bái hoàng tử Kume no Miko, bào đệ thái tử, làm đại tướng tổng tư lệnh, nói là sang yểm hộ nước Bách Tề (cũng ở bán đảo Triều Tiên). Trên thực tế, hoàng tử đã mắc bệnh, mất đi, nên kế hoạch có lẽ đã chỉ mới là "câu chuyện đầu lưỡi." Dù sao, dù chỉ là "câu chuyện đầu lưỡi," nó cũng đã chứng tỏ cái ý nghĩ cơ bản về một quốc gia Nhật Bản thực tại.
Sự nghiệp thứ tư là kế hoạch phát triển khu vực Ikaruga để xây dựng kinh đô văn hóa thay cho kinh đô Asuka. Việc thiên đô tới Ikaruga là muốn tránh sự chi phối của bọn hào trưởng ở
vùng Asuka, nhất là của dòng họ Soga. Từ vùng này, thái tử đã cho mở con đường qua bến Naniwa tới Ozaka[11] để trực tiếp thông thương với nhà Tùy, chứ không qua con đường xuyên bán đảo Triều Tiên mà dòng họ Soga có quan hệ mật thiết.
Sự nghiệp này đã không nhất thiết thành công về mặt chính trị và kinh tế, vì nó đã làm cho dòng họ Soga phẫn nộ. Song ngược lại, chính vì vậy, nó càng làm cho thái tử thêm miệt mài vào sự nghiệp văn hóa học thuật, khiến đã để lại những di sản văn hóa tuyệt diệu.
ấ ể ể
Xem như trên thì thấy Thái tử Shotoku đã để lại sự nghiệp hiển hách trên nhiều lãnh vực.
Song, cái ảnh hưởng của thái tử đối với nước Nhật ngày nay đáng nhấn mạnh nhất là sự nghiệp truyền bá Ðạo Phật, bởi chính thái tử cũng vừa là một tín đồ vừa là một nhà nghiên cứu nhiệt tâm, đồng
thời, đã thảo ra bài "chiếu kính Thần." Sự thật này đã được ghi chép trong sách Kojiki (Cổ Sự Ký) và sách Nihon Shoki (Nhật Bản Thư Kỷ). Nhưng, sự xuất hiện trong những sách này xem có vẻ đường đột. Có người nghi rằng sự việc này đã được lồng vào đó một cách vội vã khi người đời sau biên soạn sách đó. Sở dĩ nghi ngờ như vậy là vì nếu xét sự kiện thái tử
là một Phật tử nhiệt thành, thì sự việc đó đáng lấy làm kỳ lạ.
Nhưng thật ra, chính đây mới là chỗ bao gồm một quan điểm vô cùng trọng yếu. Ðó là, một mặt thì truyền bá và nghiên cứu Ðạo Phật, mặt khác lại không phủ nhận đạo thờ thần cổ lai của Nhật Bản. Chẳng những thái tử đã soạn ra bài "chiếu kính Thần," ông cũng không đón bà chị
làm Itsuki no Miya tức là "bà từ", ở đền Ise về. Tập tục từ đời vua Suinin, theo đó mỗi đời vua đều để một công chúa còn trinh lên làm "bà từ" tối cao ở đền Ise, đã được kế tục cho tới đời vua Daigo. Từ vua Minh Trị trở về sau thì chức "chủ tế" đền Ise đều là người hoàng tộc cả.
Nói cách khác, Thái tử Shotoku một mặt nhiệt tâm thờ phụng và phổ cập Ðạo Phật, mặt khác đã không hề có cử chỉ nào đàn áp Thần đạo cả. Trái lại, ông tỏ ra thông cảm Thần đạo, thậm chí lại giúp đỡ nữa. Ðiểm này là yếu tố quyết định quan niệm tôn giáo của người Nhật vậy.
Về mặt cá nhân, Thái tử Shotoku là một Phật tử, song đứng ở địa vị một chính trị gia, và vốn là một người trong hoàng tộc, ông không thể không bênh vực truyền thuyết Thần đạo được. Ðể
ế ẫ ằ
giải quyết mâu thuẫn này bằng lý luận và luân lý, ông đã nghĩ ra sự kết hợp ba giáo lý Thần, Phật và Nho vậy.
Thái tử Shotoku cũng là một "đứa con của thời đại". Như đã nói, ông sinh vào thời đại mà Phật giáo du nhập vào, rồi đám "người vào làng" đã cùng với Ðạo Phật đem một nền văn hóa cao độ vào. Làm thế nào
hòa hợp những yếu tố mới này với đạo thờ Thần cổ truyền của Nhật Bản? Ðây là vấn đề trọng đại mỗi người Nhật phải đối phó. Thái tử Shotoku đã đối xử và vượt qua được bằng cách khẳng định Thần đạo trong khi vẫn cư xử như một Phật tử trong cương vị
cá nhân.
Ðiều này không phải là dễ. Khi một tôn giáo mới, cùng với một nền văn minh tiên tiến, du nhập vào, thì vấn đề làm sao dung hòa được với tôn giáo cổ truyền và với chế độ xã hội sẵn có, là chuyện có thể
xẩy ra ở bất cứ nước nào. Chẳng hạn, Hy Lạp thời cổ cũng đã có một kinh nghiệm tương tự khi đạo Thiên chúa du nhập vào. Họ đã phải đương đầu với vấn đề đối xử thế
nào với các thánh của đền Olympos, hoặc tín ngưỡng tôn thờ thần Jupiter. Hay là dân German ở địa phương nay là nước Ðức, cũng đã phải giải quyết vấn đề tôn giáo cổ truyền như thế nào khi đạo Cơ đốc đã từ vùng Ðịa Trung Hải truyền bá tới. Ấn Ðộ cũng gặp phải vấn đề tương tự
khi đạo Islam loan truyền tới.
Tuy nhiên, ở những nước này, tư tưởng gộp đạo đã không xuất hiện. Do đó mà chiến tranh tôn giáo đã diễn ra không dứt, nhằm giải quyết vấn đề chọn một giữa hai. Nói cách khác, chính vì họ cố tình đi tìm cái thuần túy trong tôn giáo, nên mới phát sinh ra chiến tranh tôn giáo và sự thù ghét lẫn nhau.
Ngoại lệ duy nhất trên thế giới là Nhật Bản. Ở đây cũng đã có cuộc chiến tranh tôn giáo giữa hai dòng họ Soga và Mononobe. Song, sau đó thì sự đối lập tôn giáo hết hẳn.
ố ồ
Sứ quân Oda Nobunaga đã đốt chùa Hieizan, rồi dẹp loạn Ikko (cũng gọi là Jodo Shinshu).
Song đây chỉ là một cuộc tranh chấp nhằm hủy duyệt cái võ lực và sự chiếm đoạt đất đai của nhà chùa, tức là những biểu hiệu của quyền lực trần tục mà môn phái này có trong tay. Không hề thấy dấu vết nào tỏ ra Nobunaga đã đàn áp môn phái Ikko bởi đó là một tôn giáo.
Xung quanh Nobunaga, người ta thấy có nhiều tín đồ môn phái Tendai cũng như môn phái Ikko. Là quân nhân hay là quan lại trần tục, hoặc là tăng lữ mà tỏ ra trung thành với Nobunaga, thì ông không đòi họ phải từ bỏ tín ngưỡng hay đổi đạo bao giờ cả.
Chúa Toyotomi Hideyoshi và dòng chúa Tokugawa sở dĩ cấm đạo thiên chúa là bởi vì họ sợ
tôn giáo này thông đồng với nước ngoài làm nguy hại tới chính quyền Nhật Bản.
Ở Nhật, chiến tranh tôn giáo đã mất hẳn, chính là nhờ có bậc thiên tài Shotoku xuất hiện, truyền bá tư tưởng gộp đạo bằng lý luận và tài thuyết phục khéo léo vậy.
Thái tử Shotoku, với việc tiếp nhận Ðạo Phật và nền văn minh tiên tiến do đạo này mang tới, đồng thời khởi xướng tư tưởng gộp đạo làm cho lập trường tôn trọng Thần đạo và truyền thuyết về hoàng gia Nhật cũng đứng vững, hẳn đã làm cho người Nhật thời đó thấy thoải mái.
Nhờ đó, tư tưởng này tức khắc được khẳng định và phổ cập, được gọt giũa thêm cả về mặt tôn giáo lẫn lý luận, để cho tới thời Nara, đã được xác lập thành một hệ tư tưởng hẳn hoi.
Phong cách "hay đâu âu đấy "
ấ ế
Thái tử Shotoku là nhà tư tưởng lớn duy nhất trên thế giới đã khởi xướng tư tưởng gộp đạo.
Tư tưởng này đã ăn sâu vào xương tủy người Nhật cho tới ngày nay.
Người Nhật thời đó muốn tiếp nhận Phật giáo như là một nền văn hóa mới mang từ những nước tiên tiến tới. Họ muốn học hỏi kỹ thuật mới, thời trang mới. Song, phải chối bỏ cái tôn giáo của tổ tiên truyền lại thì họ cảm thấy khó chấp nhận được. Tình trạng này đã có trong lịch
sử thế giới biết bao nhiêu lần rồi.
Chẳng hạn, trong lịch sử châu Âu, khi đạo Thiên chúa mới truyền tới, đã có mấy biến cố lớn xảy ra.
Một linh mục nói: "Nếu không tin chúa Giêxu thì sẽ phải xuống địa ngục!" Một bậc vương hầu German tin lời thuyết giáo này nên có ý định theo đạo thiên chúa. Trước khi quyết định, ông hỏi: "Cha ta không hề biết đạo thiên chúa thì nay ra sao?" Linh mục trả lời: "Hẳn là ở dưới địa ngục!" Nhà vua bèn nói: "Cho dù địa ngục của đạo thiên chúa có đáng sợ đến mấy đi chăng nữa, ta cũng muốn tới nơi cha ta ở!" và bắt đầu đàn áp đạo thiên chúa. Ðã có không thiếu gì những thí dụ tương tự.
Ðạo Phật tuy không nghiêm khắc đến như vậy, song người Nhật thời đó hẳn đã nghĩ tương tự. Do đó, thái tử mới nói rằng dẫu theo Phật giáo cũng không phải bỏ Thần đạo. Người Nhật thời đó một mặt thì thèm khát văn hóa mới, mặt khác lại không muốn phải chối bỏ tổ tiên ông bà, nên đã ồ ạt chấp nhận tư tưởng này. Thần đạo, tôn giáo cổ truyền của Nhật Bản, lại có thể
đứng song lập với Phật giáo, một tôn giáo mới, mới từ nước ngoài truyền vào. Ðây là một ngụy biện ghê gớm. Ấy thế mà, Thái tử Shotoku đã cộng thêm cả Nho giáo, coi đây là quy phạm của phép xử
ế ắ ầ ể ằ ề ể
thế, và bắt đầu triển khai lý luận giảng giải rằng cả ba đều có thể đứng song hàng với nhau được.
Ở Trung Hoa, tôn giáo bản xứ đúng nghĩa thì không có, mà chỉ có Nho giáo coi như quy phạm xử thế và tư tưởng Lão Trang đối nghịch lại. Sau đó, nghi lễ Phật giáo thêm vào, rồi cả ba hợp lại thành một "tổng thể tôn giáo kiểu Trung Hoa."
Vì vậy, người Trung Hoa, tuy nói là vừa theo Ðạo Phật vừa theo đạo Nho lại vừa theo cả đạo Lão nữa, song không phải là họ tôn thờ một lúc ba tôn giáo. Ðúng ra, họ tôn thờ một "tổng thể
tôn giáo kiểu Trung Hoa", một hỗn hợp của ba yếu tố tôn giáo đó.
Thói thường khi tin một tôn giáo nào rồi, người ta hay bài xích tôn giáo khác. Nói cách khác, không có cái gì đọa lạc bằng tôn thờ một lúc nhiều tôn giáo. Sự khởi xướng và thực hành của Thái tử Shotoku đúng ra là hành vi sa đọa về mặt tôn giáo. Song ngược lại, đó là bước nhảy vọt về mặt chính trị. Nghĩ ra điều ấy thì dù trong cả thế giới rộng rãi này cũng chỉ thấy có một mình Thái tử Shotoku mà thôi. Không thể có một nhà tôn giáo nào lại dạy người ta tin một lúc nhiều tôn giáo cả.
Do đó, dù Ðạo Phật đã du nhập vào, mà đền Ise vẫn không bị mất tín đồ đi. Hơn thế nữa, nghi lễ "thiên cung[12]" vẫn diễn ra liên miên trong lịch sử, người đi lễ đền Ise vẫn không hề
bớt đi.
Khi Ðạo Phật tới, thì chọn lấy chỗ nào hay, còn chỗ nào không thích thì cứ việc bỏ đi. Sau này, đạo Thiên chúa truyền vào, thì những chỗ "vui nhộn", "bảnh bao" cũng đều được gạn lọc lấy. Chẳng hạn, chỉ có tiệc liên hoan Nôen, lễ cưới ở nhà thờ đã được chọn lấy. Chứ ma chay thì vẫn làm ở chùa, lễ Vu lan thì múa Bon Odori[13], tết nhất thì đi lễ đền. Vừa ngồi "tham thiền nhập định" lại cũng đi "rước kiệu". Tất cả những cái này người Nhật đều thực hành thoải mái không hề cảm thấy một mảy may mâu thuẫn nào hết.
ế ấ ỗ ỗ ố
Ðến tôn giáo mà còn "hay đâu âu đấy," "chọn chỗ hay, chỗ tốt" thôi, thì bất cứ cái văn hóa
nào khác cũng vậy, người Nhật cũng có thể chỉ gạn lấy chỗ hay, chổ tốt mà tiếp nhận. Do đó, thời Minh Trị, khi nền văn minh Tây Âu lan truyền vào, thì tức khắc kỹ thuật cơ khí ưu tú đã được gạn lọc lấy, hệ thống đường sắt, mạng lưới truyền thông đã được thiết trí. Tổ chức nghị
viện cũng được áp dụng và chế độ trưng binh cũng được lập ra. Từ kỹ thuật tới chế độ học đường đều theo kiểu Tây Âu.
Thế nhưng, cái tư tưởng tự do, cái chế độ gia đình của Tây Âu thì không được chấp nhận. Cái cách gạn lọc này gọi là "hồn Nhật Bản, tài Tây Âu" rất được ưa chuộng. Chính vì có cái truyền thống tư tưởng như thế, nên người Nhật đã không ngừng tiếp nhận được văn hóa, kỹ thuật mới mẻ của nước ngoài.
Văn minh Tây Âu đã lan tràn ra khắp thế giới từ thế kỷ thứ XVIII tới thế kỷ thứ XIX. Ấn Ðộ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư đều đã tiếp xúc với văn minh Tây Âu trước Nhật Bản từ lâu.
Tuy nhiên, những nước này vốn sẵn có những nền văn minh nguyên bản của họ. Do đó, họ
không nghĩ tới "chọn lấy chỗ tốt, chỗ hay" mà lại nhìn vào văn minh Tây Âu bằng con mắt hệ
thống hóa. Vì vậy, khi kỹ thuật Tây Âu lan truyền tới, họ đã bắt đầu thảo luận xem nếu tiếp nhận chế độ và kỹ thuật của Tây Âu, thì có làm thay đổi chế độ xã hội, chế độ gia đình, nền chính trị quốc gia của chính họ, hay không. Họ nghĩ rằng "khi chấp nhận đạo Thiên chúa thì phải phủ nhận thần Jupiter," thành ra họ cho rằng từ vẻ mặt của thành phố tới dạng thức sinh hoạt đều phải đổi hết.
Ðiển hình là Trung Hoa. Trước cuộc Duy tân Minh Trị của Nhật Bản, Trung Hoa đã nếm mùi sức mạnh quân sự hiện đại ghê gớm của đế
ố ế ế ế ố
quốc Anh qua trận chiến tranh nha phiến. Ðương nhiên, nếu muốn trở thành một nước hùng cường thì phải tiếp nhận chế độ quân đội, kỹ thuật quân đội của Tây Âu. Ðã có phái tiến bộ chủ trương phải học hỏi kỹ thuật mới, và phổ cập chế
độ mới của Tây Âu. Thế nhưng, lập tức một cuộc tranh luận nóng bỏng bùng lên. Họ đặt câu hỏi
"nếu tiếp nhận những kỹ thuật mới đó, thì thôn xóm ta, gia đình ta, nền giáo dục của ta sẽ ra sao?" Kết quả là Trung Hoa đã không dễ dàng tiếp nhận kỹ thuật, chế độ hiện đại của Tây Âu vậy.
Ngược lại, Nhật Bản thì coi việc tiếp nhận văn hóa mới không nhất thiết có nghĩa là phải vứt bỏ nền văn hóa cũ đi. Người Nhật không hề nghĩ rằng, bởi vì đã theo Ðạo Phật nên không được đi lễ đền Thần đạo. Ðó chẳng qua là tiếp nhận thêm một cái hay, thế thôi.
Vi vậy, họ coi "cái đó lý thú," "cái kia cũng hay" và tiếp tục tiếp nhận thoải mái. Trong tất cả
các nước châu Á và châu Phi, Nhật Bản trở thành nước duy nhất đã mau mắn tiếp nhận kỹ
thuật hiện đại, chế độ hiện đại, chính là nhờ ở đặc tính này.
Nhìn qua lịch sử Nhật Bản, người ta thấy rằng, nói chung, tuy Nhật Bản học nước ngoài, nhưng chỉ 40 năm sau thôi, người Nhật thường đã làm tốt hơn rồi. Bởi vì người Nhật có lối học rất có hiệu quả. Họ bắt đầu bằng cách mô phỏng nguyên xi, "thầy làm sao, trò làm y hệt như
vậy." Thời Minh Trị, người Nhật học Tây Âu kỹ thuật quân sự, kỹ thuật công nghiệp, rồi trải đường sắt, mắc hệ thống điện tín, nhưng tuyệt nhiên không có ai bàn tán dông dài về vấn đề xã hội, gia đình Nhật Bản sẽ biến đổi ra làm sao. Chẳng có ai coi điều này là nghiêm trọng cả.
ồ
Cội nguồn của "xã hội chức lộc"
Cái sáng kiến "chọn lấy chỗ tốt" như vậy, đã có cội nguồn từ tư tưởng gộp đạo của Thái tử
Shotoku. Thật ra, thời kỳ cải cách sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai cũng giống như vậy.
Tư tưởng gốc của xã hội Nhật Bản thì không đổi đi, song việc dân chủ hóa cái bề ngoài thì xúc tiến, kỹ thuật và mánh lới kinh doanh của Mỹ thì thâu nhận. Do đó, mặc dầu có kỹ thuật, có phương pháp quảng cáo tiên tiến kiểu Mỹ hơn ai hết, song ở Nhật Bản đã sinh ra mộ t "xã hội chức lộc (chức tước và bổng lộc)" độc đáo theo chủ nghĩa tập thể do "quan liêu" (công chức) chỉ đạo.
Ngày nay, xã hội Nhật Bản đã thành một "xã hội chức lộc" trong đó "sở" (nơi làm việc) làm thành một "kết hợp thể," tức là một vật kết tinh chắc nịch. Có nhiều lý do cho sự việc này. Thứ
nhất, Nhật Bản hầu như không có những đoàn thể tôn giáo đóng vai "kết hợp thể" thay cho
"sở" được. Với tư tưởng gộp đạo do Thái tử Shotoku khởi xướng, người ta có thể dễ dàng tránh được những luật lệ, nghi lễ tôn giáo phiền toái có phương hại cho hoạt động của "sở." Cũng chính cái sáng kiến "chọn lấy chỗ tốt" này đã đẻ ra cái bản năng "súc vật kinh tế[14]."
Trong thế giới của những tôn giáo độc thần như Ðạo Do Thái, Ðạo Thiên Chúa, Ðạo Islam, thì mỗi cá nhân trực tiếp đối đầu với vị thần đó. Quan hệ với cá nhân khác, phải là qua trung gian của vị thần đó. Ðiều này thật là khó hiểu đối với người Nhật.
Chẳng hạn, trong hôn lễ, khi linh mục hỏi "Ngươi có nhận người này làm vợ hay không?
ồ ề
Ngươi có nhận người này làm chồng hay không? Có chịu thề sẽ vĩnh viễn yêu nhau cho tới chết, hay không?" và khi người bị hỏi trả lời "Xin thề!" thì nhiều người Nhật vẫn hiểu lầm rằng đây là thề giữa hai người trai gái với nhau. Thật ra, đây là thề với Chúa, chứ không phải là thề lấy Chúa làm nhân chứng. Ngược lại, đạo Thiên Chúa có lời răn "ngươi chớ thề thốt" tức là cấm không cho thề thốt lấy Chúa làm chứng cho mình.
Bởi vậy, Công giáo mới không nhìn nhận ly hôn mặc dầu hai đương sự đã thỏa thuận ly dị
với nhau rồi. Ðó là vì sự thỏa thuận của hai cá nhân thì không thể xóa bỏ được lời giao ước với Chúa. Ðây chính là cái suy nghĩ cơ bản của đạo Thiên Chúa vậy.
Trong các tôn giáo độc thần thì mọi việc đều là do sự đối đầu giữa Chúa và người. Khi chết, thì chẳng có cha mẹ, vợ con bạn bè nào, cũng chẳng có "công ty," "cấp trên" nào cả, mà chỉ có một mình duy nhất đứng ra chịu sự phán xét của Chúa. Chính vì vậy mới sinh ra cái suy nghĩ
rằng nếu mình không thấy hổ thẹn trước Chúa, thì cho dù có bị bạn bè ghét bỏ cũng chẳng sao.
Hơn nữa, dù bạn bè có khuyên nên làm đến mấy đi nữa, song nếu là việc đáng sợ trước Chúa, thì cũng không làm. Bởi vậy mà cái quan hệ người với người bị nhạt nhẽo đi, và thay vào đó, cá tính cùng tính sáng tạo đơn độc mới nẩy nở ra.
Song, người Nhật thì "hay đâu, lấy đó" cho nên hôm nay thề với Phật, mai thề với Chúa, mốt thề với Thần, mà không hề thấy hổ thẹn gì cả. Ngược lại, cái quan trọng là mối quan hệ người với người đang có lúc này. Ðây chính là cái cơ sở tinh thần mà từ đó hình thành cái gọi là "cộng đồng sở," nghĩa là cái tập thể vĩ đại gồm những "con người xí nghiệp."
ế ấ
"Con người xí nghiệp" đã hoàn thành trong thời kỳ hậu chiến, nhất là trong khoảng năm 1955 (năm thứ 30 niên hiệu Chiêu Hòa). Trước đó, Nhật Bản là "xã hội máu mủ ruột thịt, dây mơ rễ má." Thời đó hãy còn
có đại gia đình, đại gia tộc. Người ta coi trọng cộng đồng hương thôn, bà con lối xóm. Nếu có kẻ gây tội lỗi thì trước nhất người ta bảo đó là "làm bêu rếu họ
hàng," "làm xấu mặt lối xóm." Không ai nghĩ rằng kẻ đó đã vi phạm giao ước với Chúa cả.
Nhưng trong thời kỳ phục hưng và tăng trưởng cao độ hậu chiến, thì dân địa phương ồ ạt kéo nhau ra các đô thị lớn. Kết quả là cha mẹ và con cái ở xa nhau ra, người ra ở các đô thị lớn sống rải rác lẻ loi không còn "máu mủ ruột thịt, dây mơ rễ má" nữa. Cái xã hội "bà con họ
hàng" của đại gia đình, đại gia tộc bị tan rã. Cái "xã hội địa phương, bà con lối xóm" cũng bị
tiêu diệt. Kết quả là người Nhật chỉ còn một nơi duy nhất để có ý thức quy thuộc: Ðó là "sở," đó là "công ty."
Ý thức quy thuộc vào tập thể của người Nhật, đã có từ trước thời Thái tử Shotoku. Ðó chính là truyền thống đã làm phát sinh ra Thần đạo từ "xã hội thị tộc" ("xã hội họ hàng") nguyên thủy. Thái tử Shotoku đã không hủy diệt cái xã hội đó mà lại duy trì nó, bảo tồn nó trong quá trình truyền bá Ðạo Phật. Do đó, người Nhật đã trở nên trung thành với tập thể, đã tạo ra cái gọi là cấu tạo "xã hội bề dọc."
Ý thức quy thuộc hướng tới đại gia đình, đại gia tộc, cộng đồng thôn xóm trong thời tiền chiến, thì tới thời hậu chiến đã biến thành ý thức quy thuộc đối với cộng đồng "sở." Ðối tượng có thể đã khác đi hoàn toàn, nhưng tựu trung cái căn bản của sự suy nghĩ vẫn là "coi trọng con người ở ngay tại đó."
Cái cộng đồng "xóm làng, dây mơ rễ má" của Nhật Bản thời cổ, là tập thể có tính cách sản xuất kinh tế. Cộng đồng xóm làng của Nhật Bản ấ Ở
là một xã hội địa vực cùng nhau sản xuất thóc lúa. Ở những nước mà sự phân tranh giữa các sắc dân khác nhau đã xẩy ra kịch liệt, thì xã hội địa vực của họ mang tính cách cộng đồng phòng vệ hơn là cộng đồng "sở." Xã hội địa vực của Nhật Bản, cơ bản là tập thể của những người cùng cày cấy, cùng sản xuất thóc lúa dọc theo cùng một dòng nước với nhau. Ngày nay, cái xã hội đó trở thành tập thể ở một "xí nghiệp," một
"doanh nghiệp," một "công sở." Thế thôi.
Xét như trên, ta thấy trong suy nghĩ của người Nhật ngày nay, trong cấu tạo của xã hội Nhật ngày nay, cũng có mối quan hệ sâu sắc của phong cách "chọn lấy chỗ hay" vốn phát xuất từ "tư
tưởng gộp đạo" của Thái tử Shotoku vậy.
Thái tử Shotoku còn là một đối tượng thờ cúng của người Nhật đã từ lâu rồi. Sự thờ cúng thái tử chiếm một vị trí thoải mái trong tư tưởng gộp đạo mà chính thái tử đã sáng tạo ra. Thái tử một mặt cống hiến tố đa cho việc phổ cập Ðạo Phật từ ngoài truyền vào, mặt khác đã có sự
nghiệp to lớn là tạo ra cội nguồn của nền văn hóa Nhật Bản. Ngày nay, cái phong cách "gạn lọc lấy chỗ hay," tức là phương pháp áp dụng văn hóa một cách chọn lọc, chính là ảnh hưởng lớn nhất mà người Nhật tiếp nhận được từ thái tử vậy.
[1] Kodan là một nghệ thuật kể truyện truyền thống của Nhật Bản. [2] Một nước trong Liên bang Nam Tư.
[3] Gishi Wajinden. Chí là sách chép lịch sử, Ngụy là nước Ngụy, Oải nhân là người Nhật. Vậy
Ngụy Chí Oải Nhân Truyện là Truyện Người Nhật trong sách Ngụy Chí.
[4] Tức Tào Phi.
[5] Không liên can gì tới thời Tam quốc bên Trung Hoa.
[6] Thời Meiji, tức là thời Duy tân Minh Trị, hay thời Canh tân Minh Trị, là nói từ khi Nhật hoàng đổi niên hiệu từ Khánh ứng (Keio) thành Minh Trị (Meiji, từ 8/9/1968 tới 30/7/1912), sau khi được chúa Tokugawa trả lại quyền chính trị năm 1967, bắt đầu cho thời kỳ canh tân biến nước Nhật thành một quốc gia công nghiệp hiện đại.
[7] Omuraji, tương đương với hàng đại nguyên soái.
[8] Vua Nhật, tức Thiên Hoàng, vốn được coi là con cháu Thái Dương Thần Nữ (xem lời chú tiếp), không những chỉ là vị nguyên thủ của Nhật Bản về mặt chính trị, mà đồng thời còn là Giáo chủ của Thần đạo Nhật Bản nữa. Giáo chủ Thần đạo mà tới chùa làm lễ Phật giáo là chuyện khó vậy.
[9] Amaterasu Omikami, quen gọi ở Việt Nam là Thái Dương Thần Nữ.
[10] Dịch tính cách mạng (cách mạng đổi họ) hay Dịch thế cách mạng (cách mạng đổi đời).
[11] Ozaka, nay là thành phố Osaka.
[12] Ðền Ise là đền chính của Thần đạo, mỗi 21 năm lại đổi đền một lần gọi là "thiên cung,"
bằng cách khi đền mới xây xong thì các thần tượng, thánh thể được di sang đền mới này, và đền cũ bị phá đi để xây lại trong 20 năm rồi năm thứ 21 lại thành đền mới.
[13] Bon Odori, đây là hình thức múa dân gian vào dịp lễ Vu Lan, rằm tháng bảy.
ố ổ ố
[14] "economic animal", do một cố tổng thống Philippines gọi Nhật Bản, có ý chê người Nhật chỉ miệt mài làm kinh tế để làm giàu.
Chương II : Hikaru Genji
Người mẫu chính khách thanh nhã
Hikaru Genji có thật không?
Không cần nói, ai cũng biết Hikaru Genji là nhân vật tưởng tượng, vai chính của Truyện Genji (Genji Monogatari)[1].
Tại sao một nhân vật tưởng tượng lại có thể là một người đã lập ra nước Nhật được? Người như vậy có ảnh hưởng gì tới thời nay? Hẳn có nhiều độc giả cảm thấy lạ lùng, ngờ vực, cho nên chúng tôi xin trình bày điểm này trước hết.
Thời Taisho[2] và Showa[3] có một sử gia tên tuổi, là tiến sĩ Tsuda Soukichi, nổi tiếng với lối nghiên cứu thực chứng. Triệt để gạt bỏ những tình cảm lãng mạn, ông đã thẳng thắn tuyên bố trong tác phẩm của ông rằng những gì viết trong Kojiki (Cổ Sự Ký) và Nihon Shoki (Nhật Bản Thư Kỷ) đều không là sự thật, mà chỉ là huyền thoại. Nói cách khác, trong tác phẩm của
ông nhan đề "Nghiên cứu lịch sử đời thần thánh," ông đã chỉ trích thuyết "thiên tôn giáng lâm[4]" bằng cách nói rằng hai sách Ký Kỷ vừa kể, chẳng qua đã được soạn ra căn cứ vào những tư liệu cổ, "Ðế Kỷ" và "Cựu Từ," tức là những tư liệu ghi chép lại những truyện
cổ lưu truyền trong cung đình nhằm chính đáng hóa chế độ "thiên hoàng," mà thôi.
Ðến thập kỷ Showa thứ X (1926-1935), ông bị nhóm tôn thờ chủ nghĩa "Nhật Bản quốc túy"
phê bình là ông đã "phạm thượng," đã xâm phạm tới sự "tôn nghiêm của hoàng tộc." Họ nói
ế
"Tsuda viết nhảm, dám nghi ngờ sự hình thành của hoàng tộc." Họ đã thưa kiện ông về tội vi phạm luật xuất bản.
Rút cục, vì lý do "thời hiệu" nên ông đã được "miễn tố," song trước tòa án, ông đã có lời biện minh tuyệt diệu như sau: "Truyện thần thoại Nhật Bản không phải là đã kể lại những sự thật lịch sử, nhưng đáng được lưu ý về cấu trúc tư tưởng!"
Nói cách khác, "Mọi người tin là như vậy cho nên về mặt tư tưởng, đó là một cấu trúc không phủ nhận được. Bản thân ông cũng không phủ nhận. Tuy nhiên, đó không phải là những sự thật đã diễn ra trong lịch sử. Chẳng hạn, trên trời làm gì có đất đai, vì thế làm gì có người từ trên trời rơi xuống! Do đó, đây chỉ là truyện thần thoại, và có là thần thoại thì những lời thuật của Cổ Sự Ký mới đứng vững được."
Ở vào thời đó thì việc làm của ông như vậy là chuyện không thể tránh được, song đó là một cách nói chạy, nói lẩn tránh khá gò bó. Ðể lấy một thí dụ điển hình chứng tỏ rằng một cấu trúc trong tư tưởng tuy không phải là một sự thật lịch sử, vẫn có thể tồn tại được, tiến sĩ Tsuda đã viện dẫn vai Hikaru Genji.
Nghĩa là, Hikaru Genji là nhân vật tưởng tượng được bịa ra trong Truyện Genji, cho nên Truyện Genji không phải là sự thực lịch sử. Thế nhưng, một chính khách quý tộc "hao hao" như
vậy đã có tồn tại ở thời Heian, thì rõ ràng lại là một sự thực.
Trên thực tế, ngày nay không còn thấy có "nhân vật" nào đủ truyền lại được cái mẫu người quý tộc hoặc chính trị gia quý tộc thời Heian như Hikaru Genji nữa.
Với ý nghĩa trên, thì Hikaru Genji là một nhân vật tưởng tượng và sự tồn tại của một nhân vật như vậy không phải là một sự kiện lịch sử. Song có thể nói rằng cái cấu trúc lịch sử có ảnh hưởng tới người Nhật như vậy, thì đã thực sự tồn tại. Ðây là lời thuyết minh của tiến sĩ Tsuda.
Ðúng như vậy, khi chúng ta hình dung con người quý tộc thời Heian, tưởng tượng lối sinh hoạt hay thế giới tinh thần của họ, thì Truyện Genji là đại biểu dễ hiểu nhất. Vì thế, nó đã có ảnh hưởng lớn tới lối suy tư hay tiêu chuẩn giá trị của người Nhật ngày nay.
Bởi thế, nhân vật tưởng tượng do Murasaki Shikibu sáng tạo ra, đã được chọn làm một trong số "Mười hai người lập ra nước Nhật" vậy.
Ðại biểu cho lớp người quý tộc thời đại Heian
Vậy nhân vật chính Hikaru Genji mô tả trong Truyện Genji quá quen biết này, là con người có lai lịch ra sao? So với sự kiện tên Hikaru Genji đã trở nên rất quen thuộc, thì lai lịch, sự tích
của người ấy lại ít được biết tới.
Người ta cho rằng Hikaru Genji đã sống vào thời đại cũ hơn thời đại tác giả Murasaki Shikibu chừng vài chục năm. Nói kiểu ngày nay, sự kiện này tựa hồ như việc một tác giả thời hậu chiến viết lại cảnh tượng diễn ra ở thời kỳ đầu của đời vua Showa (niên hiệu Showa: 1925-1989) vậy. Có khác chăng là thời ấy không có sự tăng trưởng kinh tế cao độ, không có những biến đổi kỹ thuật, nên dạng thức sinh hoạt không thay đổi mấy. Nói về niên hiệu thì đó là lúc niên hiệu Engi (đọc là ên-ghi, 901-923) đổi sang niên hiệu Tenryaku (947-957), nghĩa là khoảng từ năm 901 tới năm 957. Truyện Genji lấy thời đại đó làm sân khấu, đã có vài nhân vật tưởng tượng chủ yếu như sau xuất hiện.
Trước hết là vua Kiritsubo. Người con trai thứ hai được nưng như trứng hứng như hoa của nhà vua, chính là hoàng tử Hikaru. Thân mẫu của cậu tuy là cung nữ của vua Kiritsubo, song vốn xuất thân
hèn hạ, nên cậu bị giáng xuống hàng thần hạ mang họ Genji. Rồi vì đẹp trai, cậu được gọi là Hikaru Genji[5]. Cậu yêu hết cô gái nọ tới cô gái kia, rồi sau cùng rơi vào mối tình đau khổ với một người đàn bà giống địa vị mẹ cậu là cung nữ Fujitsubo. Mà Fujitsubo lại là ái phi của vua cha. Cuộc tình ngang trái đã sinh ra một hoàng tử "hoang."
ồ
Người con hoang này lại được nuôi làm con vua Kiritsubo rồi sau này lên ngôi thành vua Reizei.
Về sau, người anh khác mẹ của Genji lên ngôi, tức là vua Suzaku, thì sau khi vua Kiritsubo mất đi, Genji bị ngược đãi và bị lưu đầy hai năm ở vùng Suma, Akashi. Ðây là "đoạn Suma -
Akashi" mô tả hoàng tử trong cảnh bất hạnh.
Thế rồi vua Suzaku và mẫu hậu, tức là bà thái hậu Hoằng Huy Ðiện[6] lâm bệnh, nên thế lực yếu đi và nhờ đó, Genji mới về kinh được và lại nắm được quyền hành ở trung ương.
Sau đó, ở địa vị người săn sóc ấu chúa Reizei, Genji đã lần lượt thăng chức tới Naidaijin[7], rồi Dajodaijin[8]. Ngày một có thêm vây cánh, Genji mới xây dinh thự riêng cho mình đặt tên là Rokujo-in. Rồi Genji cho người mình sủng ái nhất tức là Murasaki no Ue, cùng những người đàn bà khác đã có quan hệ với mình, ở đó. Ðịa vị của Genji lên tới bậc tương tự như thái thượng hoàng. Ðến đây là hết phần Một của truyện.
Trong phần Hai, Hikaru Genji ở tuổi sơ lão đã tái hôn với công chúa thứ ba, con gái cưng nhất của Suzakuin[9], rồi dần dần về già. Ở đoạn này, Genji trở thành một nhà chính trị có quyền lực lớn.
Trong phần Ba thì con trai của Genji là công tử Kaoru xuất hiện, song ở đây chỉ có Hikaru Genji được chọn, coi đó là người mẫu của lớp nhà chính trị quý tộc thời đại Heian.
Vậy thì, lớp người quý phái thời đại Heian kể từ niên hiệu Engi tới niên hiệu Tenryaku sinh hoạt trong trạng thái như thế nào.
Trước thời này là thời Nara, thời đại mà các hào trưởng lấy hoàng tộc làm trọng tâm cho cuộc tranh giành quyền lực với nhau trong quá trình thành lập của chế độ tập quyền trung ương.
Nhưng sang tới thời Heian, thì nhà vua được đôn lên trên "mây" và ở dưới thì dòng họ
Fujiwara trở thành trung tâm quyền lực của cái gọi là thời đại quý tộc. Giới quý tộc này có
trang ấp, đồn điền, nông trại ở khắp nước. Quyền quản lý các trang ấp như vậy được trao cho đám quản gia mà sau này trở thành võ sĩ[10]. Các địa chủ không sống ở trang ấp mà chỉ ngồi mát thâu hoa lợi hàng năm.
Ðám quản gia này được các quý tộc ủy thác cho quyền hành, đã dùng bạo lực bóc lột chiếm đoạt quá nửa hoa lợi, coi đó là phí tổn quản lý.
Quý tộc và quản gia như vậy là có quan hệ nương tựa lẫn nhau. Sự kiện này tương tự như
quan hệ ngày nay giữa những bà quả phụ thừa hưởng tài sản chứng khoán lớn với đám người kinh doanh đắc lực vậy.
Nói như vậy không phải là giới quý tộc thời Heian chỉ ngồi chơi xơi nước. Ngược lại, tuy ở
kinh đô, họ có nhiệm vụ "chính trị" trọng yếu là đảm đương việc quốc chính, dẹp loạn. Vấn đề
là nội dung công tác "chính trị" đó của họ.
Việc làm của một chính khách quý tộc
Thời đó, Nhật Bản có tổ chức triều đình rập khuôn theo kiểu nhà Ðường bên Trung Hoa nên có thể chế luật lệnh đàng hoàng. Ở dưới chức Dajodaijin thì có Sadaijin[11], Udaijin[12], Dainagon[13], Shonagon[14], v.v. Những quan chức lớn này thì chỉ có dòng dõi nhà vua, hoặc con cháu bốn họ Gen Pei Tô Kitsu[15], đảm đương mà thôi.
ề ắ ế
Vậy thì, nền chính trị do những người này nắm giữ là như thế nào? Từ tướng quốc trở
xuống, các nhà chính trị quý tộc này làm gì? Những điều này được thấy rất rõ ở nhân vật Hikaru Genji.
Như đã kể ở trên, Hikaru là con vua, và nhờ đẹp trai nên chàng đã yêu hết người này tới người khác. Trong khi đó, địa vị của chàng cũng tăng dần lên. Song lúc vua cha mất đi thì chàng bị lôi cuốn vào cuộc tranh giành quyền lực giữa các nhà quý tộc, rồi bị lưu đày ra xứ Suma, xứ
Akashi.
Ở trong tình huống này, ai chẳng chán ngán cho cái không may của mình và oán hận những kẻ địch chính trị của mình? Hoặc, để trở lại chính trường, ai chẳng sẽ triển khai cuộc vận động chính trị, trình bầy đường lối chính trị của mình và kết nạp đồng chí? Nhưng Hikaru hầu như
chẳng làm gì cả! Trong cả tập truyện dài như vậy, người ta không hề thấy gì viết về chính kiến của Hikaru, về chính sách mà Hikaru muốn thực hiện, mặc dầu Hikaru đã làm quan đại thần lâu năm và đã leo lên tới địa vị tướng quốc.
Ngay cả sự kiện Hikaru được gọi từ vùng lưu đày Suma - Akashi về kinh rồi lại làm quan to nữa, cũng chẳng phải là kết quả của một cuộc vận động chính trị nào cả, mà chỉ do một sự thay đổi bè phái ở kinh đô mà thôi.
Tuy nhiên, "đoạn Suma - Akashi" kể lại cuộc sống trong thời kỳ bị lưu đầy, thì lại có rất nhiều điểm đáng tham khảo. Một điểm là ngay trong trạng huống bất hạnh như vậy mà Hikaru vẫn không hề bị trụy lạc, không hề làm phản!
Xa kinh đô, buồn về đời sống nhà quê tẻ nhạt, Hikaru đã than khóc nỗi niềm nhớ kinh đô và
ề
cảnh ngộ phải kéo dài cuộc sinh hoạt chán nản này, nhưng không hề có ý định làm phản, cũng không hề oán hận gì cả. Quý tộc thời đó sống biệt lập với những thành phần khác, và chỉ đắm chìm trong thế giới của ý thức thiện mỹ để khắc phục cái bất mãn của mình. Ðây mới chính là lối sống quý tộc thời đó, mới là nguyên gốc của cái "thanh nhã Nhật Bản" cho tới ngày nay.
Hikaru sau hai năm lưu đày ở vùng Suma - Akashi trở về kinh thì lại càng nắm được địa vị
trọng yếu hơn trước. Ðến nỗi, chàng đã leo lên tới bậc tướng quốc, tức là tương đương với chức thủ tướng ngày nay. Hơn thế nữa, là tướng quốc, chàng còn làm Chuẩn Thái thượng hoàng kia.
Là một nhà chính trị ở địa vị cao sang như vậy mà đọc suốt "Truyện Genji" ta không thấy Hikaru làm gì "có vẻ chính trị" cả. Trong cả tập truyện dài của Murasaki Shikibu người ta không thấy nói gì tới vấn đề ngoại giao, quốc phòng hay trị an nào cả. Cũng chẳng thấy có cục diện nào thảo luận về vấn đề tài chính hay chế độ thuế khóa. Thế mà, người đọc vẫn không lấy thế làm lạ lùng, kỳ cục. Ngược lại, người ta gật đầu nhìn nhận rằng, với quý tộc thời Heian thì có khi như vậy là phải.
Nhật Bản ở thời kỳ này về mặt "công," thì đường lối "bế môn tỏa cảng" được áp dụng, sau khi bỏ lệ gửi sứ sang nhà Ðường, do đề nghị của Sugawara Michizane.
Kể từ khi Thái tử Shotoku bắt đầu gửi sứ sang nhà Tùy, rồi khi nhà Ðường thay thế nhà Tùy, thì thông lệ gửi sứ sang Trung Hoa đã kéo dài trong suốt thời đại Nara cho tới đầu thời đại Heian. Song từ năm 857, nhà Ðường có nội loạn và không thấy có tiến bộ nữa về mặt kỹ thuật cũng như văn hóa trước con mắt người Nhật thời đó, nên việc gửi sứ sang đó đã bị gián đoạn lâu năm. Cho tới năm 894, Sugawara Michizane mới đề nghị rằng "dẫu có sang nhà Ðường, thì cũng chẳng mang được gì về đáng cho ta học hỏi," nên lệ gửi sứ sang Trung Hoa đã bị bãi bỏ
ẳ
hẳn.
Trên thực tế, từ loạn Vương Tiên Chi - Hoàng Sào năm 875 trở đi, thì Ðường triều bị suy thoái dần và rơi vào tình trạng nội loạn liên miên, khiến mất cả năng lực thống suất. Cho nên dẫu cho có tới kinh đô Trường An đi chăng nữa thì cũng chẳng mang về được văn vật nào đáng kể cả! Ít nhất đây cũng là cái nhìn của người Nhật thời đó. Thực ra, thời kỳ gọi là "Ðường mạt ngũ đại" này mới chính là lúc sắp thoát thai của đời Tống, thời kỳ "cận hiện đại" với những kỹ
thuật mới như "than đá," "kim nam châm," "thuốc nổ," v.v. Thế mà người Nhật quý tộc thời Heian đã hoàn toàn không quan tâm tới những kỹ thuật công nghiệp như vậy.
Ở trong nội bộ nước Nhật thì thời đại đó chẳng phải là thời đại thong dong gì cả. Quyền thế
và võ lực của giới quý tộc Heian đã yếu đi, khiến miền đông thì có loạn Taira no Masakado (935-940), miền tây có loạn Fujiwara Sumitomo (938-941). Hikaru Genji đã lên làm tướng quốc trước đó, song vẫn sống bình thản chứ không thấy lo lắng gì về vấn đề trị an hoặc tài chính cả.
Ấy thế mà, cả người đọc cũng như người bình luận "Truyện Genji" đều hiếm có ai phê bình Hikaru là nhà chính trị vô vi vô tài. Ngược lại, sự kiện những vấn đề hiện thực như trị an hay tài chính thì không phải do giới quý tộc trực tiếp nắm giữ, mà đã được giao phó cho các quản gia ở trang ấp, tức là những người sau này trở thành giai cấp võ sĩ samurai, là điều coi là đương nhiên vậy.
Ðiểm gốc của khái niệm "thanh nhã"
Vậy thì, công việc của người quý tộc thời đó trong chính phủ trung ương do họ chi phối, là gì? Công việc lớn nhất của họ là tiêu dùng tiền thuế do những người quản lý nông trại đã trưng thu, vào những phí tổn ở kinh đô cho việc cử hành những nghi thức Phật giáo hay
ầ ằ ề
Thần đạo nhằm truyền bá cái phong thái, cái dạng thức của nhà nước ra toàn quốc, với mục đích giữ
được cái phong cách Nhật Bản, duy trì được sự thống nhất nhân tâm và văn hóa trong toàn quốc. Vấn đề trị an hay duy trì sản vật và ngành nghề của địa phương nào thì ủy thác cho quyền tự trị của địa phương ấy.
Thời Nara, họ cho mở nhiều đường quốc lộ, cho dựng chùa Quốc Phân Tự[16] ở mỗi địa phương để hoàn thành chế độ tập quyền trung ương. Ðến thời Heian thì quyền hành trung ương bị yếu dần đi, làm cho nền tự trị địa phương biến thành nền "phân lập" (độc lập) địa phương.
Chẳng hạn, ngày nay khi người ta làm một đường cao tốc và nếu người ta quy hoạch một cách hợp lý thì hầu như con đường đó luôn luôn trùng với quốc lộ ngày xưa. Nói cách khác, thời xưa người ta đã lập ra một quốc gia cổ đại với những con đường đáng được gọi là "đường viên đạn" chạy từ kinh đô Nara ra khắp nơi trong nước.
Nhưng đến thời Heian thì những con đường này mất khí thế, rất hiếm người đi lại nữa vì sự
di chuyển trên những con đường này trở nên mất thời gian và nguy hiểm. Nói cách khác, Nhật Bản dần dần bước sang thời trung cổ.
Do đó, quyền hạn và quyền lực của chính phủ trung ương bị giảm đi, "giá trị" của chính phủ
cũng không lấy gì làm "đắt" cho lắm nữa. Mỗi địa phương đều được phân quyền và lập ra một chính phủ nhỏ bé của mình. Việc làm của các chính trị gia quý tộc chủ yếu là duy trì những nghi thức tôn giáo có tính cách quốc gia để làm mô phạm cho ý thức thiện mỹ của toàn quốc. Có thể
nói một cách cực đoan rằng nước Nhật thời đó đã được bảo tồn nhờ một ý thức thiện mỹ
chung vậy. Chính ở thời kỳ như vậy mà Hikaru Genji, ở địa vị một chính trị gia, đã làm một "cấu trúc trên mặt tư tưởng."
Chính phủ trung ương thời đại Heian là một "chính phủ nhỏ," song việc thu thuế để duy trì một chính phủ nhỏ như vậy cũng không dễ dàng gì. Truyện Genji có những đoạn mô tả cảnh biệt thự hoang tàn của những bậc công khanh nghèo nàn hoặc những nhân vật quý tộc đã suy đồi. Hikaru Genji làm tướng quốc mà không thấy nghiêm chỉnh thảo luận vấn đề cứu tế những nhà quý tộc suy đồi đó. Ngược lại, thái độ của ông là xa lánh, hoặc dẫu có nhìn thấy cũng làm ngơ trước những nhân vật quý tộc đáng thương đó. Ðương nhiên là với thứ dân, ông cũng làm như vậy. Cá nhân ông thì có coi những cảnh tượng đó là tội nghiệp thật, song với tư cách chính trị gia, ông đã không hề nghĩ đến một chính sách phúc lợi nào cho họ.
Tướng quốc Hikaru Genji đã chỉ miệt mài vào thế giới của ý thức đẹp, ý thức thẩm mỹ. Thơ
ca hoặc trang phục, cử chỉ hoặc sự xếp đặt chỗ ngồi trên dưới trong nghi lễ, thì thấy thảo luận rất nhiều. Rồi yêu đương và tranh giành trong quan hệ với nữ giới cũng thế. Thật ra, nếu nghĩ
rằng chính trị chẳng qua là vấn đề bè phái, vấn đề máu mủ ruột thịt, thì yêu đương nhau cũng
là vấn đề chính trị trọng yếu chăng.
Ngày nay, nếu các nhà chính trị không màng gì đến ngoại giao, tài chính, mà chỉ miệt mài với thẩm mỹ, thì sẽ ra sao? Không chừng, bọn quan liêu (công chức), tức là những người tương đương với đám quản gia thời Heian xưa, lại làm cho mọi việc chạy trơn chu hơn cũng nên.
Trước đây đã có một thủ tướng Nhật Bản chỉ bận tâm tới cách quàng khăn cổ trong buổi hội kiến với tổng thống Mỹ. Biết đâu ông thủ tướng ấy chẳng là "hậu duệ" của các nhà quý tộc thời Heian? Và nếu nghĩ như vậy, người ta có thể sẽ gật đầu nghĩ thầm: "chí lý!" ề ẳ
Có điều lạ lùng là riêng với nhân vật Hikaru Genji này, thì dù chẳng làm chính trị gì cả, mà không thấy có gì đáng ghét, không bị nghĩ là ngu. Gần đây, từ lập trường nhân quyền của phái nữ, hình như có
nhiều người cảm thấy ghê tởm Truyện Hikaru Genji bởi vì có quá nhiều phụ
nữ xuất hiện trong truyện. Song ngay với những người như vậy, thì vai chính trị gia Hikaru Genji cũng không đến nỗi bị người ta ghét bỏ. Ðây âu cũng là bởi chàng vốn có "đức" chăng?
Truyện kể Hikaru Genji làm nhân vật điển hình của lớp người quý tộc Heian và được mọi người Nhật biết cho đến ngày nay. Nếu trong lịch sử không có Hikaru Genji, nghĩa là nếu bà Murasaki Shikibu không viết ra Truyện Genji, thì ngày nay chúng ta làm sao biết được chi tiết như vậy về địa vị, về lối sống của lớp người quý tộc Heian.
Thế rồi cái đó đã trở thành hình ảnh của giới quý tộc, hay hơn thế nữa, thành điểm gốc của khái niệm "thanh nhã" của Nhật Bản. Người Nhật thì ngay ngày nay cũng vậy, vẫn chấp nhận những người như Hikaru Genji, dù chỉ là chấp nhận với điều kiện nào đó. Sự kiện Hikaru Genji vẫn có ảnh hưởng lớn tới cách sống hoặc cách đánh giá trong xã hội của người Nhật ngày nay, đủ chứng tỏ Hikaru Genji đáng được đếm là một trong số "Mười hai người lập ra nước Nhật"
vậy.
Sự xuất hiện của chính trị gia kiểu "Hikaru Genji"
Ảnh hưởng của "chính trị gia chằng làm gì cả" kiểu Hikaru Genji, đã hiện ra ở đâu và như thế
nào trong nước Nhật ngày nay?
Trước nhất là sự phát sinh ra mô hình "chính khách quý tộc kiểu Nhật Bản," hay là loại
"người thanh lịch."
ấ ấ
Ðúng vậy, ở nước Nhật này, thỉnh thoảng người ta lại thấy xuất hiện những chính trị gia kiểu Hikaru Genji. Nghĩa là loại chính trị gia trông tốt mã, tốt người, song chẳng làm gì đáng gọi là làm chính trị, thậm chí chẳng muốn làm gì, chẳng quan tâm gì, chẳng hiểu gì về thực chất của việc chính trị, tài chính phải làm cả.
Ðiển hình là Konoe Fumimaro, người đã lập nội các năm 1937.
Konoe Fumimaro cao 1m 80, ở thời đó như vậy là cao vượt bực, với vóc người hết sức bảnh bao. Ông để râu mép, mặt mũi thanh tú. Hơn tất cả nữa, ông lại là con dòng chính thống của họ
Fujiwara, đồng thời lại là công tước. Thật quả là một chính khách quý tộc chính hiệu.
Lúc đó Nhật Bản đang ở vào thời kỳ vô cùng khó khăn: Từ vụ Mãn Châu qua diễn biến 26
tháng 2[17], Nhật Bản đang bị cô lập hóa trên trường quốc tế và tình hình quốc nội thì rối beng. Ðúng lúc đó thì từ mọi giới nổi lên như cồn lời kỳ vọng: "Ngoài Konoe ra, chắc không còn ai có thể trị nổi nước Nhật hiện nay!" Ðúng là người ta đang muốn tìm ở Konoe hình bóng một Hikaru Genji vậy.
Nhiều chính sách được đề ra, nào phong trào Thể chế mới, nào luật Tổng động viên toàn dân, v.v. Tất cả đều chỉ là những khẩu hiệu, những phiêu ngữ rộng tuếch, không ra ngoài phạm vi ý thức về vẻ đẹp. Dưới quyền một thủ tướng vô vi vô tài như vậy, nền chính trị thực tế là do quân nhân và quan liêu (công chức) thực thi. Thật đúng là phó mặc cho quản gia. Ấy thế mà dân chúng chẳng ai phê phán, chẳng ai chê bai gì cả, đến nỗi Konoe được làm thủ tướng đến ba lần.
Tiếng tăm của Konoe không hề bị suy giảm mặc dầu ông không hề thực sự làm chính trị, chỉ
ẩ ấ
lạm phát khẩu hiệu và làm điệu bộ thôi. Nội các Konoe thứ nhất đã làm cho chiến tranh Nhật-Hoa sa vào bùn lầy, rồi ông buông bỏ chính quyền mà cũng chẳng bị ai chỉ trích gì cả. Ðến năm 1940, ông lại đứng ra lập nội các thứ hai. Với chiêu bài thúc đẩy phong trào Thể chế mới, ông đã lập ra Hội Ðại chính Dực tán, theo đó mọi chính đảng đều giải tán, và tất cả nghị viên đều vui lòng đặt mình dướI quyền chỉ huy của chính trị gia vô vi vô tài Konoe này!
Vì Konoe không có tài chỉ huy, nên thực tế vấn đề chính trị đã phó mặc cho quân nhân Bộ
Lục quân, quan chức Bộ Nội vụ và Bộ Kho bạc thao túng. Kết quả là Nhật Bản đã bị lôi cuốn vào trận chiến tranh Thái Bình Dương.
Thực ra, tội của Konoe đối với việc đưa Nhật Bản mạo hiểm vào trận chiến tranh thế giới trước, là vô cùng nặng.
Thứ nhất, trong đợt nội các thứ nhất (lập ra năm 1937), Nhật Bản đã khởi đầu cuộc chiến tranh Nhật-Hoa. Hơn thế nữa, năm 1938, nội các này đã tuyên bố: "Không thèm bắt tay với Tưởng Giới Thạch," khiến làm mất cơ hội đình chiến. Dĩ nhiên, đây là vì Bộ Nội vụ, tức là nhà đương cục công an lúc đó, chứ không phải quân đội, đã phản đối với lý do rằng "Nếu thỏa hiệp với Tưởng Giới Thạch thì không thể kiềm chế được bạo động của những nhóm hữu khuynh,"
song Konoe làm thủ tướng đã không thuyết phục nổi đám quan liêu Bộ Nội vụ, cũng không cất chức họ đi.
Trong thời kỳ nội các Konoe thứ hai, thì Nhật Bản đã kết bè với Ðức, Italia thành phe trục Nhật - Ðức - Italia. Thế rồi năm 1941, tức là thời nội các Konoe thứ ba, thì một mặt Nhật Bản tuyên bố "Phản đối việc khai chiến Nhật-Mỹ," nhưng mặt khác mỗi ngày lại có những hành vi gây hấn như chiếm đóng Ðông Dương thuộc Pháp chẳng hạn. Thế
rồi đến lúc không còn làm gì khác hơn được là phải nhảy vào vòng chiến, tức là tháng 10 năm 1941, thì nội các Konoe tổng từ chức, nhường bước cho nội các của Ðại tướng lục quân Tojo Hideki.
ế ằ ắ ầ ế
Ai cũng biết rằng chính nội các Tojo đã bắt đầu cuộc chiến tranh. Lại nữa, ai ai cũng biết rằng Tojo Hideki, Bộ trưởng Lục quân trong nội các Konoe thứ ba, chính là phe chủ chiến. Thế
nhưng, làm cho quan hệ với Mỹ bị hỏng một cách tuyệt vọng khiến không còn con đường nào khác hơn là chiến tranh, chính là trách nhiệm của nội các của Konoe Fumimaro vậy.
Mặc dầu có trách nhiệm là đã gây nên sự kiện lớn lao như vậy, song sự ngưỡng mộ của dân
chúng Nhật đối với Konoe vẫn không hề suy giảm. Năm 1945, Konoe tâu vua Nhật cho mình sang Liên-Xô cầu hòa, làm như chính mình không hề có trách nhiệm gì về cuộc chiến tranh cả.
Ðây chính là thái độ thường có của các chính trị gia quý tộc Nhật Bản như được đại biểu bởi Hikaru Genji vậy.
Thời nay cũng thế, ở Nhật Bản người ta vẫn quan niệm rằng, người đứng trên chóp bu thì không nên để tâm đến những tiểu tiết, nên có thái độ phó mặc cho bề dưới muốn làm sao cho tốt thì làm. Ðây chính là hiện tượng đã khởi nguồn từ từng lớp quý tộc thời Heian, được Hikaru Genji đại diện vậy.
Tính cách vô lãnh đạo của "Chủ nghĩa tập thể"
Cùng thời với Konoe, người ta thấy có các nhà lãnh đạo ngoại quốc như Hitler, Churchill, Stalin, người nào cũng quan niệm trách nhiệm và quyền hạn của mình một cách rất tỉ mỉ.
Tổng thống Mỹ Roosevelt cũng vậy, khi bắt đầu vào cuộc chiến, ông đã tham khảo ý kiến của các chuyên gia để biết cần bao nhiêu chiến hạm, cần chế tạo loại xe tăng nào, v.v., và chính ông tự mình quyết định. Churchill cũng vậy, Mao Trạch Ðông cũng vậy.
Thời Ðại chiến thứ nhất, thủ tướng Anh Lloyd George, thủ tướng kiêm bộ trưởng Lục quân Pháp George Clémenceau nổi tiếng độc
ế ế
tài, đã chính mình đứng ra chỉ huy chiến trận. Hơn thế
nữa, Lloyd George còn bất chấp sự phản đối của hải quân thời đó, đã cho thành lập đoàn tầu có hộ tống. Kết quả là phương án này đã thành công lớn lao, đã ém được sự tấn công bằng tàu ngầm của Ðức. Chịu nghe ý kiến của các chuyên gia, song chính mình hạ quyết định cuối cùng.
Ðó là thái độ của các chính khách ngoại quốc.
Dù là chủ nghĩa quân phiệt, hay là chủ nghĩa dân chủ, thì người đứng ở chóp bu cũng phải nhận trách nhiệm ra quyết định. Ðó là bổn phận của kẻ lĩnh lương cao nhất vậy.
Nếu là một tập thể nhỏ của một xí nghiệp, thì điều này càng thấy quyết liệt hơn. Xí nghiệp ở
Mỹ hay ở châu Âu thì nguyên tắc là kinh doanh độc tài bởi một cá nhân. Mọi việc đều phó mặc cho người có trách nhiệm kinh doanh tối cao. Kinh doanh có kết quả tốt, thì tổng giám đốc, mặc dầu cũng chỉ là người lĩnh lương, sẽ nhận được thù lao to lớn. Song, ngược lại, nếu kinh doanh không suôn sẻ, thì tức khắc bị giải nhiệm. Nói cách khác, chính mình nhận tất cả trách nhiệm mà hạ quyết định. Ðó là bổn phận của kẻ ngồi trên chóp bu vậy.
Tuy nhiên, ở Nhật thì người ta quan niệm rằng người ở địa vị cao không nên câu nệ chuyện nhỏ nhặt. "Chỗ đó, tụi bay liệu mà làm cho tốt!" hoặc "Khi nào phương án của văn phòng thảo xong, thì cho tao biết!". . Ðó mới đáng mặt kẻ làm lớn, kẻ "sang," kẻ "ăn trên ngồi trốc."
Sở dĩ có sự khác biệt như trên là vì, quý tộc Âu Mỹ vốn là võ tướng, lúc nào cũng sống trong tình trạng chiến tranh cướp giựt lãnh địa, trang ấp của nhau. Chứ quý tộc Heian của Nhật phải chăng chỉ là những "văn nhân" trong triều đình, kiểu Hikaru Genji?
Cái phong cách "người sang," "người làm to" ngồi trên chóp bu thì không nên chi li, đã có ảnh hưởng trọng đại đối với sự hình thành xã
ồ
hội ngày nay của Nhật Bản. Người ngồi trên không lãnh đạo gì cả, cho nên mới sinh ra hình thức quyết định tập thể của đông đảo người ở
cấp dưới. "Chủ nghĩa tập thể" mới nghe thì hay lắm, song thật ra đó là hình thức thiếu lãnh đạo, mạnh nhóm nào nhóm ấy quyết định theo ý riêng, khiến dễ sinh ra tình trạng không còn biết trách nhiệm ở đâu nữa.
Thời kỳ tao loạn, chẳng hạn thời kỳ "chiến quốc," thời kỳ "Duy tân," thì cần có những người lãnh đạo mạnh. Nhưng thời bình thì tức khắc xuất hiện hiện tượng chối bỏ quyền lãnh đạo, khiến phát sinh ra cơ cấu "làm quyết định (decision making) theo chủ nghĩa tập thể." Kể từ
Hikaru Genji trở đi, đã sinh ra truyền thống theo đó nhân sĩ thượng lưu không nhúng tay vào thực vụ, người "thanh nhã" thì "không giám sát, không chỉ huy" người khác.
Ở thế kỷ XX, sau trận chiến tranh thế giới thứ hai, người ta cũng thấy xuất hiện nhiều nhà lãnh đạo có cá tính mãnh liệt trong giới chính trị cũng như trong giới kinh doanh. Họ nghĩ ra những chính sách mới, khởi đầu những doanh nghiệp mới, và có nhiều trường hợp đã thâu được thành công lớn.
Thế nhưng, ba chục năm sau chiến tranh, tức là từ khoảng giữa những năm 1970 trở đi, thì cả ở trong giới chính trị lẫn trong giới kinh doanh, không còn những người có tinh thần khởi nghiệp nữa, mà chỉ còn những người vô lãnh đạo thường được gọi là kiểu "người điều hợp"
(coordinator). Cái gì cũng chủ trương "thôi thì mọi người cùng quyết định" là tốt.
Mọi người tụ tập nhau lại, "quyết định" phiên phiến theo bầu không khí, hay nói đúng ra là có "cảm giác" đã quyết định. Chẳng phải là có ai đã nói thế này, đã nói thế khác, cũng chẳng phải đã có quyết định đó từ đâu rồi, mà thật ra chỉ là "vì không có ai phản đối cả" hoặc
"trong phiên họp đó, không có ai bàn ra tán vào gì cả, nên phương án do văn phòng đề ra đã được thông qua."
"Lãnh đạo tập thể" và "quyết định theo tinh thần tập thể," là hai việc khác nhau hoàn toàn.
Lãnh đạo tập thể là một tổ chức rõ rệt gồm mấy người hoặc mấy chục người (chẳng hạn hội đồng nội các, hội đồng quản trị công ty) làm quyết định, rồi chỉ thị xuống cho cấp dưới thi hành. Còn quyết định theo tinh thần tập thể, chẳng qua là sự thiếu sót hẳn một cơ cấu có quyền làm quyết định, cho nên việc quyết định đã phải dựa vào bầu không khí của toàn thể tổ chức hoặc vào cảm tính của toàn thể thành viên của tổ chức. Do đó, những người làm công tác "tạo bầu không khí" phải họp thường xuyên, "mặt đối mặt" để trao đổi "Tình huống lúc này là thế
nào?" "Bầu không khí lúc này là thế nào?"
"Phòng xalông" của Hikaru Genji mô tả trong "Truyện Genji" chính là để tạo ra cái bầu không khí như vậy. Ðủ hạng người ra vào đó, ngâm thơ, ngắm trăng,. .và từ đó đã tạo ra cái bầu không khí chính trị của Nhật Bản vậy.
Hình thức "phòng xalông" như trên, ngày nay cũng được giới chính trị và giới kinh doanh bắt chước. Xí nghiệp bỏ ra kinh phí rất lớn cho việc giao tế, du lịch giao thông, cơ sở phúc lợi.
Theo thống kê thuế vụ năm 1994, thì giao tế phí tổng cộng của toàn thể xí nghiệp tư doanh Nhật Bản là 5.487 tỷ đồng Yen. Sau khi "bong bóng kinh tế" bị xẹp, người ta đã thắt lưng buộc bụng nên đã giảm bớt kinh phí như vậy được 870 tỷ đồng Yen so với năm 1992. Song, so với Mỹ, kinh phí như vậy vẫn nhiều hơn gấp 3 lần, và so với Ðức thì nhiều hơn gấp gần 16 lần. Tính trên cơ sở GNP[18], thì giao tế phí của Nhật Bản nhiều gấp 5 lần Mỹ, 6 lần Ðức. Ðây mới chỉ là
giao tế phí "dân thết đãi dân," chứ những hình thức giao tế phí khác, như giao tế phí "quan tiếp đãi quan" cũng nhiều vô kể. ằ ế ầ ế
Bảo rằng "giao tế phí" thì cần thiết cho kinh doanh, nhưng thật ra đây chỉ là tiêu dùng cho mục đích gặp mặt nhau để trao đổi thông tin hoặc ở trong cùng một xí nghiệp hoặc ở trong cùng một gia đình xí nghiệp. Nghĩa là, muốn cho bầu không khí được hình thành mà chẳng phải vì ai đã muốn như vậy, thì người ta phải thường xuyên gặp mặt nhau, dò dẫm tìm hiểu lẫn nhau bằng cách trao đổi thông tin, sao cho đến một lúc nào đó thì cái ý chí của chính mình cũng hướng theo cùng chiều. Cái đó mới quan trọng.
Kinh phí giao thông, du lịch, để cho mọi người có dịp gặp gỡ nhau trao đổi thông tin như
thế này, cũng vô cùng lớn. Cũng năm 1994, kinh phí cho du lịch, giao thông như vậy của Nhật Bản, là 14 ngàn tỷ đồng Yen. Kinh phí này đem so với Mỹ hay Liên bang Âu (EU) thì lớn hơn rất nhiều. Hơn thế nữa, các xí nghiệp tư Nhật Bản còn bỏ ra rất nhiều tiền để xây dựng cơ sở, thiết bị phúc lợi, nhằm cộng đồng hóa tập thể nhân viên.
Chẳng riêng gì ở các xí nghiệp tư nhân. Ngay cả trong giới chính trị gia ở "xóm" Nagata[19], thậm chí trong văn đàn, họa đàn, thi đàn, ca đàn,. .người ta cũng thấy hình thành "làng," nghĩa là sự xây dựng quan hệ người với người trong khuôn khổ xóm làng.
Kết quả là, chẳng phải những người vốn dĩ có năng lực làm việc, mà chính những người khéo xã giao, hay săn sóc bạn bè, không nói phật lòng người khác, nghĩa là những người kiểu Hikaru Genji, là những người sẽ được xung quanh đôn đẩy lên địa vị cao. Hiện tượng như vậy càng thấy nhiều khi thế gian bước vào giai đoạn ổn định.
Cái truyền thống về loại người không quyết định gì cả lại được ở địa vị cao sang, nghĩa là loại người tuy không có năng lực nhưng "thanh nhã" này, đã có từ thời quý tộc Heian, tức là từ
thế kỷ thứ X, thời Hikaru Genji sinh sống. Hơn thế nữa, trong lúc quan tể tướng Hikaru Genji chỉ miệt mài với yêu đương và thơ phú, thì thế gian đã xoay vần đổi thay.
ề ấ ồ
Miền đất phương đông thì Taira no Masakado làm phản rồi tự diệt, mặt biển phía tây thì Fujiwara Sumitomo nổi loạn rồi bị Taira diệt. Ấy thế mà bọn võ sĩ samurai chẳng lấy thế làm kiêu ngạo. Rồi xuất hiện thời đại thái bình thịnh trị, thời đại hoàng kim của giới quý tộc Heian, tức là thời đại mà Murasaki Shikibu, tác giả "Truyện Genji," sinh sống.
Cái ký ức như trên còn có ảnh hưởng lớn tới tính tình người Nhật, tới sự khẳng định kiểu mẫu chính trị gia Hikaru Genji.
Chẳng hạn, ở thời đại mạc phủ Tokugawa thì vua Nhật chỉ coi vấn đề văn hóa, tế lễ thần đạo, còn mạc chúa Tokugawa thì nắm thực quyền chính trị. Song, chính mạc chúa Tokugawa như
vậy cũng không được nói xen vào những chuyện tỉ mỉ. Thí dụ, vị chúa Tokugawa đời thứ tư, tên là Ietsuna thường được gọi với hỗn danh "ngài làm thế đi." Ông này chỉ nói "làm thế đi" mỗi khi được quần thần trình tấu việc nước. Các vị chúa sau ông, trừ vị chúa thứ năm Tsunayoshi và chúa thứ tám Yoshimune, đều là chúa "làm thế đi" như vậy cả. Thậm chí, các phiên chúa (lãnh chúa) cũng thuộc loại này. Nghĩa là, khi thiên hạ được thái bình thì cái "tính di truyền cách đời" từ thời Heian đã lại xuất hiện ra vậy.
Nhìn qua các ví dụ ngoại quốc, ta thấy vua chúa, hoàng đế nói chung đều thuộc loại độc tài
cả.
Ngay ở Trung Hoa bên cạnh đây, cũng thấy xuất hiện đủ loại hoàng đế. Nếu có người "kỳ
cục" trật đường ray, thì cũng có người "ngu," "người bệnh," "con nít," v.v. Song, tất cả các hoàng đế Trung Hoa đều là người có quyền hành tuyệt đối cả. Nếu còn nhỏ hoặc bị bệnh, thì có nhiếp chính phụ giúp. Trường hợp ấu đế thì nhiều khi bà mẫu hậu đứng làm nhiếp chính, nhưng cũng có khi quyền bính bị các ông cậu hay anh em họ chiếm đoạt.
ế ế ầ
Tuy nhiên, cho dù là chính vị hoàng đế, hay vị nhiếp chính đứng cầm quyền, thì người ở địa vị quyền lực tối cao đó, cũng phát huy quyền chỉ huy, quyền lãnh đạo ghê gớm. Quan đại thần có thực lực mấy đi nữa, cũng không bì được với hoàng đế hoặc nhiếp chính. Khi hoàng đế
trưởng thành, nắm lấy thực quyền, thì lập tức nền chính trị của quan nhiếp chính bị thay đổi, các quan đại thần có thực quyền lớn cũng dễ dàng bị bay cổ như chơi.
Sự khác nhau lớn giữa "quý phái" và "thanh nhã"
Ðiều kể trên còn có nghĩa rằng quan niệm "thanh nhã" của người Nhật và của ngoại quốc khác nhau xa. Ðây là cái ảnh hưởng thứ hai do Hikaru Genji, tức là tầng lớp quý tộc thời đại Heian, để lại.
Ở Nhật Bản, khi nói "người thanh nhã" chính là chỉ Hikaru Genji. Ðây tức là nói người không phát huy quyền lãnh đạo, đánh nhau yếu và thể lực cũng yếu, không có sức chịu đựng dẻo dai để sống còn trong cảnh hoang dã, lúc nào cũng chỉ miệt mài trong thế giới thẩm mỹ, thi ca, hiểu rõ phép xã giao, không làm phật lòng người khác. Nói cách khác, đây là loại người "không đủ mặn" đồng thời cũng "không đủ mỡ màng."
Nói chung, trong phim truyện hay trong tiểu thuyết, "người thanh nhã" như công khanh hoặc công tử đài các, thường được mô tả là người ít hoạt bát, chẳng có gì hấp dẫn cả. Người quý tộc thanh nhã mà lại có võ nghệ siêu quần, như vị chúa thứ 13 của dòng chúa Ashikaga, tên là Yoshiteru, thì không phải là không có, nhưng người ta coi như vậy là không thích hợp! Thà ông ta miệt mài với thơ phú, đá cầu[20], . thì phù hợp hơn. Cái khái niệm "thanh nhã" này là nét độc đáo của Nhật Bản.
Ở xã hội quý tộc châu Âu, thì "thanh nhã," nghĩa là "quý phái," phải hội đủ điều kiện tiền đề
ẩ
là có "sức chịu đựng và tính cẩn thận." Trong hai đức tình này thì "sức chịu đựng" quan trọng.
Thí dụ, bộ đội bị lạc trong rừng sâu. Lương thực đã hết mà mãnh thú lại xuất hiện. Lúc đó, thử hỏi ai sẽ là người sống sót? Ở Nhật thì trước hết người ta nghĩ rằng binh sĩ xuất thân từ
nông dân hay giới lao động, sẽ sống sót. Chứ người quý phái "thanh nhã" thì làm sao sống sót được trong rừng sâu một năm, hai năm? Ðó là thường thức ở Nhật Bản.
Thế nhưng, ở Anh quốc, người ta hẳn sẽ nói: "Hắn ta sẽ sống sót. Vì hắn là quý tộc. Cái gì chứ sống trong rừng là chuyện bình thường! " Ở Pháp cũng vậy, ở Ðức cũng vậy, câu trả lời cũng sẽ là như vậy.
Quý tộc châu Âu không những là con cháu những chiến sĩ đã thắng trận, chính bản thân họ
cũng đang chiến đấu để bảo tồn lãnh địa của mình.
Vì thế, quý tộc không những đánh nhau khỏe, thể hình cũng to lớn. Tự mình quyết định mọi việc, tự ý chí của mình thích ứng với hoàn cảnh. Nóng, lạnh cũng chịu đựng được. Người quý tộc mùa hạ cũng ăn mặc chỉnh tề, mùa đông không mặc dầy xù mất vẻ thẩm mỹ. Ðó chính là vì họ có sức chịu đựng, chịu đựng được nóng cũng như lạnh. Bị bệnh cũng không rên rỉ đau đớn.
Khi có chiến tranh, thì tiên phong tự nguyện đầu quân ra chiến trường. Có can đảm không sợ
chết. Ðó mới là điều kiện phải có của người "quý phái," tức là người "thanh nhã" châu Âu.
Ðiều kiện thứ hai của quý tộc châu Âu là "tính cẩn thận." Quý tộc muốn giữ được gia thế và tài sản của mình, thì không thể không "cẩn thận" được. Cách ăn mặc chỉnh tề, không xuề xòa, cách ăn nói khéo léo chính là biểu hiện của "tính cẩn thận" này vậy.
Một mặt thì mạnh dạn, dũng cảm, có sức chịu đựng, mặt khác lại phải có tính cẩn thận, mới nghe tưởng như mâu thuẫn, song đó chính là điều kiện để làm "quý tộc" châu Âu vậy.
Tóm lại, các kỵ sĩ mặc giáp trụ cưỡi ngựa chiến đấu thời xưa, thời nay sống sót làm thành những con người quý tộc điển hình của châu Âu. Có sức chịu đựng, có tính cẩn thận chính là những điều kiện tất yếu của khái niệm người "quý phái" vậy.
Còn một từ nữa để chỉ "thanh nhã." Ðó là "gentle" của tiếng Anh (hoặc "gentil" của tiếng Pháp) mà tiếng Nhật dịch là "có vẻ, có dáng thân sĩ." "Thân sĩ" là từ dùng để chỉ người tiểu tư
sản. Vậy nếu coi "noble" là "thanh nhã quý phái" thì "gentle" là "thanh nhã thứ dân," "thanh nhã tiểu tư sản."
Gentleman (gentilhomme) là từ chỉ những người từ tốn, ít khi biểu lộ tình cảm, bị nói sao cũng bình tĩnh đối đáp, thế mà lại không a dua theo ý kiến người khác, biết tâm đắc cái trung dung. Quý tộc Heian của Nhật Bản thì khác hẳn loại người gentleman này. Ðối với gentleman thì quan trọng nhất là thường thức và trung dung, rồi đến ý chí cứng cỏi.
"Thanh nhã kiểu Nhật" không còn đắc dụng nữa
Xem như trên, ta thấy cái "thanh nhã" Nhật Bản khác hẳn cái "thanh nhã" Âu Mỹ. Còn cái
"thanh nhã" của châu Á, thí dụ cái "thanh nhã" của Trung Hoa thì ra sao? Cái "thanh nhã"
Trung Hoa thì hoàn toàn chú trọng vào sự hiểu biết (chủ tri chủ nghĩa), lấy hiểu biết làm điều kiện lớn nhất.
Bên Trung Hoa, sau khi nhà Ðường suy, trải qua thời kỳ hỗn loạn gọi là thời Ngũ đại, rồi nhà Tống bắt đầu chỉ một thời gian ngắn sau thời Hikaru Genji hoạt động chính trị. Ở thời này, bên Trung Hoa, hình
ể ể ấ ổ
thức khoa cử để tuyển chọn quan lại cao cấp đã được tổ chức nghiêm minh và đã trở thành trọng yếu. Chế độ khoa cử thật ra đã bắt đầu từ thời Tùy sơ, song cho tới hết thời Ðường, thì nhiều người đỗ đạt là nhờ con ông cháu cha. Nhưng kể từ đời Tống trở đi, khoa cử
đã được tổ chức nghiêm minh, và đỗ đạt khoa bảng đã thành điều kiện thứ nhất để được coi là
"thanh nhã," để gia nhập giới thượng lưu.
Nghĩa là, muốn trở thành con người "thượng lưu" thì điều kiện thứ nhất là phải có đủ hiểu biết để đỗ đạt khoa bảng.
Ở Trung Hoa thì từ xưa, thi sĩ, hoạ sĩ cũng nhiều người xuất thân từ quan trường khoa bảng.
Những người sáng tạo ra học vấn hoặc kỹ thuật mới, cũng phần lớn xuất thân từ quan trường.
Như vậy, quả thật quan trường là nơi tụ tập đủ loại nhân tài. Thậm chí, "không thả rong nhân tài nơi dã ngoại" được coi là lý tưởng của quốc gia, nghĩa là quốc gia dùng tất cả người tài làm quan, không để ai chơi không. Ðó là lý tưởng của chính trị.
Do đó, có tri thức đủ để đỗ đạt đã là điều kiện tất yếu để trở thành "thanh nhã." Nhất là từ
thời Minh trở đi, "Chu Tử học" coi trọng tri thức làm cho "chủ nghĩa chủ tri (chủ nghĩa lấy biết làm chủ)" trở thành phổ biến, thì Trung Hoa đã trở thành quốc gia mà những trí thức hiểu biết nhiều được tôn trọng lắm lắm.
Ở Nhật, cứ xem câu nói "trí thức mặt trắng bệch" đủ thấy là người ta có phần nào khinh miệt người trí thức, người đọc sách. Quan niệm tương tự như vậy cũng thấy có ở Mỹ, Anh. Ở
ề
Mỹ thì đàn ông võ biền được ưa chung, trong khi đó những người "đầu trứng," tức là đầu nhét đầy tri thức như quả trứng, thì lại không được tôn trọng. Tập quán tôn trọng người trí thức thì trước nhất là Trung Hoa, thứ đến là Pháp[21].
Ở Trung Hoa, nơi mà những môn học khoa cử như lịch sử, văn sách, được coi trọng, thì dù không muốn làm quan nhưng để chứng tỏ mình cũng là thành phần "thanh nhã" thượng lưu, người ta phải làm sao đậu được khoa thi hương. Do đó, có nhiều người đậu hương thí, lấy được mảnh bằng để chứng tỏ đã có cái hiểu biết của người thượng lưu rồi, nhưng không ra làm quan, chỉ ở nhà làm địa chủ hay nối nghiệp ông cha, vẫn được tôn kính gọi là ngài "cử nhân." Trí thức Trung Hoa có học vấn, thường khinh bỉ việc lao động chân tay và nghề võ biền[22], song phát huy năng lực lãnh đạo. Cái trật tự trên dưới duy trì được cũng là nhờ vậy.
Quý tộc Heian của Nhật Bản cũng biết làm thơ, cũng thông văn sách chữ Hán, song với họ, có tri thức, có học vấn hay không, không phải là tiêu chuẩn ấn định sự "thanh nhã." Với họ, ngâm vịnh thơ phú chỉ
là một phần trong ý thức thẩm mỹ. Hikaru Genji là người đàn ông đẹp trai, "thanh nhã," được nữ giới hâm mộ và làm tể tướng. Chàng được người ta vô cùng vì nể, song chẳng phải vì chàng biết làm thơ hay, cũng chằng phải vì chàng có học thức đủ viết sách chú giải Luận ngữ.
Nhật Bản kể từ khi gửi sứ sang nhà Tùy, đã học hỏi văn hóa Trung Hoa rất nhiều, đã mô phỏng chế độ chính trị Trung Hoa, song riêng về khái niệm "thanh nhã" thì Nhật Bản khác xa với Trung Hoa. Ðây có lẽ là bởi vì từ Ðường mạt sang Tống sơ, tức là vào thời kỳ biến chuyển của nền văn hóa Trung Hoa, thì Nhật Bản đã dẹp bỏ việc gửi sứ sang Trung Hoa, và thôi không du nhập văn hóa mới của Trung Hoa nữa chăng?
Ngày nay, 50 năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, chính phủ cũng như xí nghiệp tư nhân đều bước vào giai đoạn hướng tới ổn định. Vì
ế ấ ề
thế, càng ngày càng thấy nhiều người "thanh nhã," "tư cách mười điểm, tài năng zero điểm" kiểu Hikaru Genji, giữ địa vị chóp bu.
Ðiều này cũng thấy thể hiện cả trong giáo dục con em của Nhật Bản nữa. Giai cấp thượng lưu châu Âu thì trước nhất dạy con "tính chịu đựng" và "tính cẩn thận," tức là giáo dục con em thành người cương cường. Nhưng nhà giầu hoặc người có địa vị xã hội ở Nhật thì nuôi con sao cho thành người "thanh nhã." Vì vậy, họ thường nuông chiều con cái.
Ở Nhật Bản, "đời thứ hai" đang thịnh hành lúc này. Trong giới đại biểu quốc hội, thày thuốc
thì đã đành, ngay trong giới nhà kinh doanh, nghệ sĩ nghệ nhân, thậm chí người chơi thể thao cũng thấy xuất hiện nhiều người "đời thứ hai." Bầu không khí chung là nhìn nhận những người thuộc đời thứ hai này, bởi vì xã hội Nhật Bản đang bước vào thời kỳ ổn định chỉ cần những người ngồi ở chóp bu không làm gì cả song giữ được vẻ "thanh nhã" Nhật Bản là đủ.
Tuy nhiên, đời thứ hai có nhiều, chứ sự giầu sang kéo dài tới ba đời là chuyện hiếm có ở
Nhật Bản. Bởi vì, trong khoảng thời gian ba đời, sáu mươi năm, thế nào cũng có lúc biến động sôi nổi, khiến người "thanh nhã" kiểu Nhật Bản dễ bị đè bẹp. Ở điểm này, Nhật Bản là nước mà giai cấp thượng lưu luôn luôn thất bại trong vấn đề giáo dục con em.
Như trên, ngược dòng thời gian tìm đặc điểm ngày nay còn thông dụng của xã hội Nhật Bản, người ta tất sẽ đụng phải cái lối sống của quý tộc thời Heian, cái nội dung "thanh nhã" của giới quý tộc này. Truyện Genji miêu tả Hikaru Genji, phải chăng đã điển hình kể lại cái đó cho tới ngày nay?
Một mơ ước của người Nhật ngày nay vẫn là lối sống của Hikaru Genji, quý tộc thời Heian.
ố ế ế
Tuy nhiên, ở thời đại mà sự quốc tế hóa ngày càng tiến mạnh, đòi hỏi một sự lãnh đạo mạnh mẽ từ nay trở đi, thì liệu mẫu người Hikaru Genji có thể đáp ứng được chăng?
Nói cách khác, đã đến lúc phải xem lại cái "thanh nhã" kiểu Nhật Bản này.
[1] Truyện Genji, tức là Genji Monogatari, do tác giả Murasaki Shikibu viết vào khoảng gần giữa thời Heian của Nhật Bản (vào khoảng thế kỷ thứ X), là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trên thế
giới, đồng thời là tiểu thuyết dài nhất trên thế giới từ trước tới nay, dài hơn gấp hai lần truyện Tam Quốc Chí diễn nghĩa.
[2] Taisho, Ðại Chính. Niên hiệu thời vua Taisho, từ 30/7/1912 tới 25/12/1926.
[3] Showa, Chiêu Hòa. Niên hiệu thời vua Showa, từ 25/12/1926 tới 7/1/1989.
[4] Thuyết coi dòng họ vua Nhật Bản là con cháu thần thánh từ trên trời xuống!
[5] Gengi sáng lóng lánh.
[6] Hoằng Huy Ðiện là cung điện của các bà thái hậu, do đó cũng là danh xưng của các bà.
[7] Naidaijin: một chức quan kế bậc tam công.
[8] Dajodaijin: quan chức tối cao trong triều đình Nhật cho tới thời vua Minh Trị, tương đương với chức tướng quốc.
[9] Suzaku In, tên hiệu của vua Suzaku sau khi nhường ngôi cho vua Murakami để làm thái thượng hoàng.
[10] Bushi, thường nói nôm na là "samurai."
[11] Sadaijin: tương đương với tả thừa tướng.
[12] Udaijin: tương đương với hữu thừa tướng.
[13] Dainagon: tương đương với á tướng.
[14] Shonagon: tương đương với thượng thư lang.
[15] Gen Pei To Kitsu, tức là Minamoto, Taira, Fujiwara và Tachibana.
[16] Quốc Phân Tự: Kokubunji, một hình thức chùa "quốc doanh" làm nơi nương tựa tinh thần cho nhân dân.
[17] Ngày 26/2/1936, một nhóm sĩ quan lục quân trẻ, kéo khoảng 1.500 lính đánh chiếm phủ thủ tướng, giết vài bộ trường, làm đảo chính. Ba ngày sau thì vụ này dẹp xong không đổ
thêm máu nữa.
[18] GNP (Gross National Product): tổng sản phẩm (lượng) quốc dân.
[19] Xóm Nagata, Nagata-cho, là khu tụ tập các cơ quan chính phủ trung ương Nhật Bản.
Nói Nagata-cho là nói trung tâm chính trị của Nhật Bản.
[20] Bả n do NXB Chính Trị Quốc Gia ấn hành viết “đá cầu lông,” nay sửa lại là “đá cầ u.”
[21] Việt Nam ta chịu ảnh hưởng lớn của cả hai nước này, nên đáng đứng hàng thứ ba chăng.
[22] Ca dao Việt Nam có câu: "Quan văn tam phẩm đã sang, Quan võ nhất phẩm còn mang gươm hầu!" cũng là thuộc phạm trù này chăng
Chương III : Minamoto Yoritomo
ế ấ ề ầ
- Người sáng chế ra cấu trúc quyền lực hai tầng "Chính quyền kỳ lạ" chưa hề thấy
Minamoto Yoritomo sinh năm 1147 mất năm 1199, sau khi bị ngã ngựa nhân đi xem cầu dịp cuối năm trước đó, năm 1198. Tính tuổi đếm, ông thọ 53 tuổi. Thời ấy như vậy không phải là chết yểu vì đó là tuổi thọ trung bình.
Minamoto Yoritomo đã để lại trong lịch sử và dân tộc tính Nhật Bản một dấu ấn rất lớn.
Nhất là nếu xét ảnh hưởng đối với Nhật Bản ngày nay, thì dấu ấn đó càng sâu đậm.
Công lao lớn nhất của Minamoto Yoritomo là sáng lập ra "phủ chúa" ("mạc phủ[1]" ) làm nền tảng cho chính quyền "võ gia" (tức là "samurai"). Ðể đạt được mục đích này, ông đã phát minh ra một phương thức kỳ diệu. Nghĩa là, ông đã khéo léo sáng chế ra một "cấu trúc quyền lực hai tầng," triển khai ra toàn quốc nền chính trị "võ gia" trong khi đó vẫn duy trì chế độ luật lệnh cũ sẵn có từ thời Nara.
Nói Minamoto Yoritomo là nói người đã được phong Chinh Di Ðại Tướng Quân, đã lập ra
"mạc phủ" Kamakura, đã nắm quyền thống trị thực sự Nhật Bản. Ðiều này mọi người đều biết rõ.
Vậy, Chinh Di Ðại Tướng Quân mà Minamoto Yoritomo đã nhiệm chức là gì và "mạc phủ" do ông lập ra, là gì? Quyền lực bởi đó Yoritomo thống trị Nhật Bản có cơ sở pháp lý như thế nào?
Nói cách khác, ông đã được ai đứng trên lập trường nào trao cho quyền hạn gì? Nghi thức và lập pháp ra làm sao? Lạ lùng thay là những chi tiết này lại ít ai biết tới.
Nói Yoritomo làm Chinh Di Ðại Tướng Quân, mở ra mạc phủ, người ta thường nghĩ ngay tới mạc phủ gần ngày nay nhất, tức là mạc phủ Tokugawa thời Edo[2] (1603-1867). Do đó, người ta tưởng tượng ngay rằng mạc phủ do Yoritomo lập ra thời Kamakura là cơ cấu thống trị giống như mạc phủ Tokugawa vậy.
Tuy nhiên, cũng gọi là mạc phủ, song cơ cấu do Yoritomo lập ra ở Kamakura khác xa với mạc phủ Tokugawa cả về tổ chức lẫn chức năng. Từ nguồn gốc của quyền lực, từ cấu trúc thống trị tới con mắt nhìn vào đó của thế gian, tất cả đều khác nhau lắm. Mạc phủ do Yoritomo lập ra chưa từng có cho tới lúc đó, và như vậy với cảm giác của chúng ta ngày nay, thì đó quả là một
"chính quyền kỳ lạ." Song, chính đó là chỗ tiềm tàng tính sáng tạo đáng sợ của ông ta.
Trải qua trước đó là thời đại Heian khá dài. Vua Kanmu thiên đô từ kinh thành Nagaoka sang kinh thành Heian năm 794. Từ đó, nếu kể khi Minamoto Yoritomo nhậm chức Chinh Di Ðại Tướng Quân lập ra mạc phủ Kamakura năm 1192, cũng là lúc thời đại Heian chấm dứt và thời đại Kamakura bắt đầu, thì thời đại Heian đã kéo dài 398 năm.
Thành phố Tokyo đã trở thành trung tâm hành chính, tức là đã bắt đầu có chức năng của thủ đô, là kể từ khi mạc phủ Tokugawa được mở ra ở thành Edo năm 1603. Nếu tính liên tục thì năm 2002, Tokyo sẽ phá kỷ lục của kinh thành Heian để trở thành đô thị có chức năng thủ
đô lâu đời nhất trong lịch sử Nhật Bản. Với thời gian lâu như vậy, đô thị thường trở nên quá đông dân cư, hết nơi này đến nơi khác sinh ra tình trạng bất hợp lý. Vì vậy, cuộc thảo luận vấn đề dời đô đã diễn ra gần đây ở Nhật Bản, là chuyện đương nhiên. Trong cuộc thảo luận này, sự
kiện Kamakura của Yoritomo tuy có chức năng của thủ đô, song trung tâm văn hóa và kinh tế
ẫ
vẫn còn là Kyoto, đã được đem ra tham khảo.
Kinh thành Heian đóng vai trò kinh đô, và như thế đã tạo ra một thời đại có hệ thống hẳn hoi, tức là "thời đại Heian," một thời gian dài ngang với từ khi Tokugawa Ieyasu lập ra mạc phủ ở thành Edo cho tới Thành phố Tokyo ngày nay.
Dĩ nhiên, trong 398 năm này đã có biết bao lần quyền lực được luân chuyển, bao nhiêu đổi thay rồi. Thời kỳ đầu của thời đại Heian thì ít nhiều vẫn còn ảnh hưởng tàn dư của thể chế
quốc gia luật lệnh thời Nara. Cái thể chế lúc đó hãy còn là tập quyền trung ương với vua làm trung tâm. Nhưng dần dần thể chế này băng hoại, để đến khoảng giữa thời kỳ Heian, thì cả
nước thành những trang viên, trang ấp do các nhóm quý tộc chia nhau cai quản.
Thể chế quốc gia luật lệnh của thời đại Nara, là rập y theo khuôn mẫu của nhà Ðường bên Trung Hoa. Do đó, thể chế tập quyền trung ương được tổ chức nề nếp ngăn nắp, gọi là "nhị
quan bát tỉnh[3]. "
Nhị quan gồm có Thần Kỳ quan, tức là quan tôn giáo lo việc tế lễ, và Thái Chính quan tức là
quan lo việc chính trị, tương đương với thủ tướng ngày nay. Dưới quyền chỉ huy của Thái chính quan có tám bộ (gọi là "tỉnh"), với các chức quan đại thần như là Dajodaijin, Sadaijin, Udaijin, Naidaijin, v.v., và các chức phó đại thần như Dainagon, Chunagon, Shonagon, v.v. Chế độ quan chức thật là chỉnh tề. Chế độ địa phương cũng được chỉnh đốn, xếp đặt gọn gàng.
Ðồng thời, phép "ban điền thu thụ" được thực thi.Theo phép này thì tất cả đất trồng trọt đều thuộc sở hữu nhà nước. Mỗi người dân được cho mượn một khoảnh nhất định. Phép tắc như vậy trên thực
ế ấ ề
tế đã được thực thi bao lâu và trên quy mô bao lớn, còn là vấn đề nghi vấn.
Song, thực sự là chế độ như vậy đã được nỗ lực áp dụng một thời kỳ nhất định. Nghĩa là, thể chế
của triều đình nhà Ðường đã được du nhập y nguyên, được tổ chức quy củ để xác lập chế độ tập quyền trung ương.
Ðến thời đại Heian, thì thể chế trên dần dần băng hoại, chế độ trang viên, trang ấp sinh ra và quyền thống trị trang viên của bọn quý tộc trở nên mạnh mẽ. Ðến nỗi, quyền lực trung ương không còn có ảnh hưởng tới những trang viên này, tức là lãnh địa của bọn quý tộc nữa, khiến phát sinh ra cấu trúc phân quyền địa phương. Ngoài ra, đất đai của chùa chiền, của đền đài, do nhà vua hoặc quý tộc tặng cho, cũng chiếm diện tích khá lớn. Quản lý những lãnh địa của quý tộc hay đất đai của đền chùa này, là đám võ sĩ (samurai) ở địa phương. Ðó chính là những quản gia kiêm vệ sĩ.
Tóm lại, ở thời Heian thì giới quý tộc xem võ sĩ samurai là lớp người ti tiện. Quý tộc thường chỉ sinh hoạt ở kinh đô, như Hikaru Genji đã nói đến ở Chương II. Mà nếu họ có nhậm chức quan địa phương đi chăng nữa, họ cũng chẳng làm gì thật sự cả. Việc bắt nông dân hay
đám nô bộc lao động gia tăng hoa màu để thu thuế ("niên cống") là công việc của võ sĩ samurai. Công việc của võ sĩ là dùng bạo lực đàn áp nông dân, thay cho giới người quý tộc không muốn nhúng tay vào việc này. Vì vậy, trong thời kỳ giai cấp võ sĩ samurai mới hình thành như vậy, họ
thường bị gọi là "bọn thầy chùa sát sinh."
Tuy nhiên, ai đã được trao cho việc làm bạo lực như vậy, cũng dần dần mạnh lên rồi độc lập.
Giai cấp võ sĩ thời đại Heian không phải là ngoại lệ. Họ trở nên mạnh, qua việc đè nén nông dân ở hiện trường, trực tiếp quản lý sản xuất. Cùng với thời đại, họ mạnh lên, biết bớt xén niên cống đóng ể ề ế
cho quý tộc, và nhờ đó có thể tự lập được về mặt kinh tế. Võ sĩ samurai tự lập được như vậy quay ra đánh lẫn nhau để mở rộng thế lực. Trong một thời gian dài, giới quý tộc đã lợi dụng bọn võ sĩ samurai trong cuộc tranh giành này để duy trì quyền lực của mình trên thế cân bằng. Song, tới cuối thời đại Heian, người ta đã thấy xuất hiện những "cột trụ võ sĩ," tức là những người lôi kéo được đông đảo võ sĩ thần phục mình. Ðó là những võ tướng, những sứ
quân, như Genji, như Heike vậy.
Yoritomo xuất hiện
Quý tộc nước nào cũng dẻo dai, bền bỉ. Nhất là quý tộc thời đại Heian lại càng dai dẳng, không dễ gì tiêu diệt họ được. Họ khiến bọn võ sĩ đánh lẫn nhau để duy trì quyền uy của mình.
Vì vậy đã có loạn lớn. Năm 1147, tức là năm Minamoto Yoritomo ra đời chính là lúc bắt đầu của thời kỳ tao loạn này.
Cha và ông nội Yoritomo, tức là Yoshitomo và Tameyoshi đã chia thành hai phe bạn và thù, đối địch với nhau trong cơn loạn năm 1156. Ðám quý tộc thuộc dòng họ Fujiwara, tuy lúc đó chỉ là làm cảnh, song đã nghiễm nhiên ngồi trên hai phe. Với bọn quý tộc, nếu không có sự ủng hộ của giới võ sĩ samurai, họ không thể đánh nhau được. Mặt khác, đám võ sĩ thì không có đủ
uy quyền đứng làm thủ lãnh. Nói cách khác, võ sĩ samurai thì dùng quý tộc làm cảnh, quý tộc thì lợi dùng samurai làm bộ đội chiến đấu.
Minamoto Yoritomo thuộc dòng chính của họ Seiwa Genji. Họ này xuất phát từ con vua Seiwa, được phong tên họ là Minamoto. Trong hàng võ gia, họ này là danh giá nhất. Yoritomo sinh ra trong dòng chính của họ này, cho nên năm mới 12, 13 tuổi đã được phong quan tước là
"Tùng ngũ vị hạ nội tàng nhân[4]."
Tùng ngũ vị hạ là tước vị thấp nhất trong hàng quan được vào chầu vua. Nhưng, ngay sau đó, năm 1159 lại có loạn Heiji. Cha Yoritomo, tức là Yoshitomo, đã thua Taira no Kiyomori.
Yoritomo đã bị bắt giải về Kyoto và sắp bị chém thì được ni cô Ikenozenni, người vợ thứ của Taira no Kiyomori lúc đó đã xuất gia, xin cho khỏi chết. Sau đó Yoritomo bị đày ra đất Izu.
ổ
Sau đó khoảng 20 năm, tức là cho tới năm 33 tuổi, ông bị quản thúc dưới quyền quan địa phương. Trong khoảng thời gian này, hình như ông vẫn không ngừng thu thập tin tức, tìm hiểu tình thế. Sau này, từ một nơi chỉ đáng gọi là vùng quê hẻo lánh của nước Nhật, tức là Kamakura, ông đã trở thành một con người tinh tường tin tức, chính là vì đã có năng khiếu từ
thời bị lưu đày vậy.
Taira no Kiyomori nổi loạn Heiji, nắm được quyền bính, nên tầng lớp võ sĩ, cho đến lúc đó vẫn bị coi là giai cấp thấp hèn, thì nay trở nên mạnh, và ngay trong việc chính trị, cũng bày tỏ
được ý kiến mạnh bạo. Năm 1167, Kiyomori đã leo lên tới quan chức tối cao, tức là Dajodaijin.
Tuy nhiên, chỉ ba tháng sau, ông từ chức để đi tu, song trên thực tế vẫn nắm thực quyền.
Taira no Kiyomori là con người hào phóng lỗi lạc, giống như võ tướng Oda Nobunaga sau này, nên đã có tư tưởng cải cách. Vì thế, nên ông đã bị các thế lực cũ, đại biểu là pháp hoàng Go-Shirakawa, phản đối kịch liệt. Cái quan hệ giữa Taira no Kiyomori và pháp hoàng[5] Go-Shirakawa này cũng tương tự như quan hệ giữa Oda Nobunaga và mạc tướng (Shogun) Ashikaga Yoshiaki vậy.
Thế rồi, thời toàn thịnh của Heike kéo dài được 10 năm. Vào khoảng năm 1180 (niên hiệu Trị Thừa năm thứ tư) thì cả nước Nhật Bản bi nạn đói hoành hành. Trận đói này làm một yếu tố quan trọng trong cuộc phân tranh Genpei[6]. Nhân trận đói này, lòng dân phẫn uất trước quyền cai trị của Heike, và loạn lạc bùng ra tứ phương. Việc Minamoto Yoritomo đã khởi quân chống lại nhà Heike, không phải là duy nhất. Trong tình trạng đói kém đó, những đám phản loạn tương tự đã phát sinh ra ở khắp nơi.
Tháng 4 năm 1180, Yorimoto đã được mật chiếu chinh thảo họ Taira của vua Mochihito.
Tháng 8, ông dương cờ phản ở Izu. Trong trận đánh với các tướng của Heike như bọn Oba Kagechika ở Ishibashiyama, thuộc Sagami, nay là thị trấn Odawara, tỉnh Kanagawa, ông bị
thua, suýt bị bắt, song đã thoát nạn nhờ ẩn náu trong hang ở Sugiyama. Ngày hôm sau, quân Heike lùng soát hang động, ông sắp bị bắt thì may được tướng của Heike là Kajiwara Kagetoki vì tình mà tha cho chạy thoát[7]. Cảnh này đời sau thường được ca ngợi trong những màn kịch
cổ.
Thoát nạn, Yoritomo theo đường biển thoát sang đất Awa (nay là địa phận tỉnh Chiba). Ở
đây, nhờ được sự tiếp viện của các tướng như Kazusanosuke Hirotsuke hoặc Chibanosuke Tsunetane của dòng họ Miura, lãnh chúa[8] vùng Joso Kaso (nay cũng thuộc tỉnh Chiba), ông đánh ngược lên chiếm các vùng đất Kanto[9]. Trong khi đó, tình trạng xã hội trở nên vô cùng bất ổn vì trận đói hoành hành. Tập thể võ sĩ samurai hạ cấp do Heike thống suất đã tan rã.
Trong khi Yoritomo đánh lên phía bắc, thì tháng 10 cùng năm đó đã có trận đánh ở
Fujikawa. Viên đại tướng tổng chỉ huy quân chinh phạt Yoritomo, là Taira no Koremori, mặc dầu trong tay có đại quân, mà nửa đêm chỉ vì nghe thấy tiếng vỗ cánh bay của đàn vịt trời, bỗng kinh hồn bỏ chạy về mất. Theo sách Sơn Hoè Ký (Sankaiki) thì viên tướng này "nghe thấy tiếng vỗ cánh của bầy vịt trời, tưởng lầm là bị địch đánh úp ban đêm." Tuy nhiên, về mặt số
lượng thì quân Taira đông hơn nhiều, nên hẳn phải có nguyên nhân khác nữa làm cho viên tướng này khiếp sợ. Có lẽ đây là vì đám võ sĩ hạ cấp thuộc hạ thiếu ăn bất mãn nên dám làm loạn bất cứ lúc nào.
ấ ế
Thêm nữa cái bất hạnh cho phe Heike là năm 1181, Kiyomori đã chết vì bị cảm sốt.
Yoritomo thắng trận Fujikawa, nhưng sau đó hầu như không ra trận nữa. Những trận đánh chinh thảo Heike sau này là do Minamoto Yoshinaka ở Kiso. Từ Kiso khởi binh, Yoshinaka đã phá quân Heike ở đèo Gurikara, rồi men đường Hokuriku đánh tới kinh đô Kyoto. Ông quét sạch quân Heike sau khi đoàn quân này đã mất chủ soái Kiyomori, rồi lên làm Chinh Di Ðại Tướng Quân. Nắm được quyền bính ở kinh đô, thanh thế Yoshinaka lớn lắm, đến nỗi người đời đó đã gọi ông là "tướng quân mặt trời mọc." Thế nhưng, một mặt ông bị sự đối lập của phe muốn bảo tồn quyền lực của quý tộc ở kinh đô, một mặt quân đội của ông cũng gây nhiều nhũng nhiễu làm mất lòng dân, có lẽ vì lương thực không đủ để nuôi quân.
Tháng 10 năm 1183, Yoritomo được sắc phong tổng lĩnh binh quyền khu vực miền Ðông.
Yoshinaka không bằng lòng việc này, đã quản thúc pháp hoàng Go Shirakawa. Do đó, pháp hoàng đã cho Yoritomo mật chiếu chinh phạt Yoshinaka.
Ðược mật chiếu, Yoritomo phái hai em là Noritomo và Yoshitsune đi đánh Yoshinaka.
Yoshitsune đã phá Yoshinaka ở Ujikawa, kéo quân vào kinh thành Kyoto. Sau đó, ông đuổi quân Heike ở Ichinotani, nay là thành phố Kobe, thuộc tỉnh Hyogo, bao vây địch quân ở
Dannoura hơn một năm mới phá tan được. Như thế là cuộc phân tranh Gempei chấm dứt, và từ
đó quyền độc tài quân sự bởi họ Minamoto đã được thực hiện. "Chinh di đại tướng quân" chỉ là một chức tư lệnh quân đội
ễ
Trong khoảng thời gian cuộc chinh phạt diễn ra như trên, thì Yoritomo làm gì? Ông đóng quân ở Kamakura, giữ vững quyền cai quản miền Kanto. Chẳng hạn, ông đem quân quét sạch vùng đất của họ Satake, nay là tỉnh Ibaraki, vốn cũng thuộc dòng họ Genji, lúc đó mưu toan độc lập. Ấy đại để ông chỉ có chiến công như vậy thôi, chứ không có những chiến công hiển hách như Yoshitsune. Như vậy kể cũng lạ đối với một võ tướng đã bình định được thiên hạ như
Yoritomo.
Yoshitsune sau khi chinh phạt xong Yoshinaka, chiếm được kinh đô Kyoto rồi thì tiếp tục đánh tới bờ biển phía tây, quét sạch họ Heike. Song, như vậy sao tránh khỏi giữa Yoshitsune và Yoritomo, hoặc giữa Yoshitsune và pháp hoàng Go-shirakawa có sự bất hòa. Yoritomo chỉ chờ
như vậy để xua quân thảo phạt các em mình. Thêm nữa, Yoritomo lại chinh phạt luôn cả
Fujiwara Yasuhira, lãnh chúa đã được bốn đời của đất Hiraizumi, thuộc địa phương Oshu, vì đã che dấu Yoshitsune khi ông này bị lùng bắt đã chốn sang đất ấy. Tóm lại, Yoritomo đã dùng võ lực trong thế chờ đợi an nhàn, nên đã dễ dàng đắc thắng, chiếm được quyền chi phối toàn nước Nhật. Thật là khôn ngoan, song không được quần chúng hâm mộ.
Bây giờ, ta thử tìm hiểu xem Yoritomo lúc ấy chính thức giữ địa vị gì? Ta sẽ thấy vô cùng thú vị.
Như đã nói ở trên, lúc 12, 13 tuổi, Yoritomo đã được phong tước Tùng ngũ vị hạ, rồi lãnh chức Hyoe no Suke, tức là chỉ huy phó của một đội bảo vệ, ngày nay tương đương với vụ phó ở
cơ quan trung ương. Tuổi mới 12, 13 cho nên đây chỉ là chức vụ tượng trưng. Sau đó, vì loạn Heiji, Yoritomo đã bị cách khỏi chức vụ này và bị đày ra miền Ðông.
ề
Sau khi dẹp xong họ Heike, Yoritomo đã được đền đáp công lao như thế nào? Ông đã được pháp hoàng Go-Shirakawa ban cho "quyền sa thải" ở miền Ðông. Theo ngôn ngữ ngày nay, thì quyền này tương đương với quyền của một tỉnh trưởng. Nói cách khác, Yoritomo đã nắm được quyền nội chính của miền đông nước Nhật. Năm 1184 (niên hiệu Nguyên lịch nguyên niên), dẹp xong Yoshinaka, và năm sau (niên hiệu Văn trị nguyên niên) thì diệt xong họ Heike. Tháng 11 năm đó, Yoritomo được lãnh quyền chỉ định các quan trấn thủ, quan cảnh vệ các châu quận toàn quốc. Như thế ông đã tạo ra được một cơ chế khiến samurai trong cả nước đã mặc nhiên phải trở thành thuộc hạ của ông. Nghĩa là, ông mới chỉ nắm được quyền quân sự và quyền cảnh sát trên toàn quốc, chứ chưa hẳn đã được giao phó toàn quyền cai trị. Hơn thế nữa, người trao quyền như vậy cho Yoritomo lại chỉ là pháp hoàng Go-Shirakawa (một ông vua đã thoái vị đi tu), nên sự việc này không có cơ sở pháp lý nào cả.
Trong khoảng thời gian ngắn trước sau những diễn biến trên, Yoritomo đã đặt ra ở
Kamakura cái gọi là "sở công văn" và "sở vấn chú[10]." Hai sở này thật ra chỉ là "sở tư," "xí nghiệp tư" để quản lý tài sản riêng của Yoritomo mà thôi. Mặc dầu có quy mô lớn hơn, chúng không khác gì những cơ cấu tương tự đã được giới quý tộc lập ra để quản lý trang viên của họ.
Tuy nhiên, nhờ nắm được thực quyền trong tay, Yoritomo đã đưa được người quý tộc của phe phái mình vào địa vị trọng yếu. Chẳng hạn, ông đã đề nghị thành công cho Kujo Kanezane vào chức Nairan, quan chức tương đương với "chuẩn quan bạch[11]" có quyền duyệt xét mọi sắc sớ trước khi tâu vua, nghĩa là, ông đã đưa được vây cánh của mình vào địa vị quyết đoán chương trình nghị sự để thao túng triều đình.
Khoảng 5, 6 năm sau, tức là vào năm 1190, Yoritomo mới lần đầu tiên được yết kiến pháp hoàng Go-Shirakawa và được phong Gon Dainagon U-Konoe Taisho (Quyền Ðại Nạp Ngôn Hữu Cận Vệ Ðại
Tướng). Chức đó, sau này Oda Nobunaga cũng giữ lâu năm, chỉ là chỉ huy trưởng cảnh sát trấn giữ cung vua, tương đương với một bộ trưởng thường. So với Taira Kiyomori đã lên tới Dajodaijin (tướng quốc) thì chức vị của Yoritomo hãy còn khiêm nhượng lắm, song dù sao như vậy ông cũng đã lên tới địa vị đáng nể trong thể chế luật lệnh đương thời.
Thế nhưng, ngay năm sau, ông từ chức đó. Như vậy là trong thể chế luật lệnh ông đã trở
thành vô vị vô quan. Năm 1192, ông được phong Chinh Di Ðại Tường Quân và lập ra "mạc phủ"
ở Kamakura.
Vậy thì Chinh Di Ðại Tướng Quân là gì? Thói thường, nghe Chinh Di Ðại Tướng Quân, người ta nghĩ ngay rằng đó là quan chức tố cao của mạc phủ, đương nhiên có quyền cai trị thiên hạ.
Nhưng đó là kể từ sau nhà mạc phủ Tokugawa. Chứ thời Yoritomo nhậm chức đó thì không phải như vậy.
Không phải Yoritomo là người đầu tiên nhậm chức Chinh Di Ðại Tướng Quân. Ðầu tiên là Otomo Otomaro. Ông này được phong chức đó đúng năm kinh đô Heian được lập ra, tức là năm 794.
Thời đó, miền đông Nhật Bản, tức là từ vùng Kanto tới vùng Tohoku ngày nay, còn có người Ezo chưa chịu thần phục triều đình Yamato, cư ngụ. Theo nhân chủng học, thì trong đám người này có lẽ có người thuộc dân tộc Ainu. Tuy nhiên, thời ấy, tất cả những người ở miền đông không chịu tuân theo triều đình Yamato, đều bị gọi là Ezo. Cũng như vậy, những người ở miền nam Kyushu thời đó không chịu thần phục triều đình Yamato, thì gọi là Kumaso.
Chinh Di Ðại Tướng Quân là chức quan đánh dẹp người Ezo, đối lại với chức quan đánh dẹp miền nam là Trấn Tây Ðại Tướng Quân. Nói cách khác, Chinh Di Ðại Tướng Quân là tổng tư
ề ẳ
lệnh quân đội miền Ðông, chẳng qua là một chức võ quan lâm thời.
Người thứ hai nhậm chức Chinh Di Ðại Tướng Quân, tổng tư lệnh quân đội miền Ðông, là Sakanoue no Tamuramaro, người đã khai khẩn vùng Tohoku, biến vùng đất giá lạnh đó thành ruộng cấy lúa được.
Người thứ ba là Fun’yano Watamaro, không nổi tiếng lắm. Từ đó, vùng Tohoku đã đặt dưới quyền cai trị của triều đình Yamato, nên chức Chinh Di Ðại Tướng Quân bị bỏ đi.
Rồi một thời gian sau, Yoshinaka vào kinh đô, thành Chinh Di Ðại Tướng Quân như đã kể
trên. Ðúng ra, người ta cho rằng chính Yoshinaka đã tự phong cho mình chức đó. Thế rồi, sau khi Yoshinaka mất, chức này lại bị bỏ trống tám năm nữa. Ðến năm 1192 mới lại thấy Minamoto Yoritomo thụ phong chức này.
Xem như trên, ta thấy rằng chức võ quan lâm thời tổng tư lệnh quân đội miền Ðông, Chinh Di Ðại Tướng Quân, chỉ là một quan chức nhỏ, nhất thời trong thể chế luật lệnh. Thế nhưng, Minamoto Yoritomo đã lợi dùng quyền chỉ định và sa thải các tư lệnh địa phương mà trước kia pháp hoàng Go-Shirakawa đã ban cho ông bằng một bức thư riêng, khiến samurai toàn quốc phải nghe theo chỉ thị của mình sau khi được phong tổng tư lệnh quân đội miền Ðông.
Tóm lại, cái cơ sở pháp lý cho Yoritomo nắm quyền thống trị toàn quốc thật là kỳ lạ.
Bề ngoài là thể chế luật lệnh, thực chất là cơ chế "mạc phủ"
Thêm nữa, cái khôn ngoan đáng sợ của Minamoto Yoritomo là giữ nguyên thể chế quan lại
"nhị quan bát tỉnh," không đụng chạm gì đến các quan chức ở kinh đô từ Dajodaijin, Sa-Udaijin
ố
trở xuống.
Cấu trúc hai tầng về quyền hạn, quyền lực: Ðây mới là điểm sáng tạo độc đáo, đồng thời là điểm đáng ngại của Yoritomo.
Tổng tư lệnh quân đội miền Ðông (Chinh Di Ðại Tướng Quân) không những đã chỉ nắm quyền quân sự của quân đội miền Ðông, mà còn lần lượt đặt ra và phong thêm nhiều quan chức khác nữa. Ðây là những "quan chức ngoài luật lệnh," tức là những quan chức không có quy định trong luật lệnh. Người ta nói, người Nhật quen xử sự theo hai cách: "vỏ ngoài (hình thức)"
và "mặt trong (thực chất)." Yoritomo biết phân biệt thể chế luật lệnh (hình thức) và cơ chế
mạc phủ (thực chất), làm thành một cấu trúc quyền lực hai tầng, không phải đã không có liên quan mật thiết với điều đó.
Tư tưởng "dịch tính (hoặc dịch thế) cách mạng" phát sinh ra ở Trung Hoa thời cổ xưa, như
đã nói ở trên, coi thiên tử là người nhận thiên mệnh (mệnh trời) trị thiên hạ. Nhưng nếu đức cạn khiến sinh ra trong nhà một kẻ thất đức, thì họ này không còn tư cách làm thiên tử nữa, và một họ khác có đức hơn sẽ nhận thiên mệnh lập ra dòng vua khác, nghĩa là đổi đời, đổi họ vậy.
Ðây là tư tưởng chính trị nhìn nhận cách mạng. Tư tưởng này lan ra khắp vùng đông châu Á: Trung Hoa thì đương nhiên, cả Mông Cổ, Hàn Quốc (và Việt Nam nữa), đâu đâu cũng có nhiều lần thay đổi triều vua. Ở châu Âu hay Ấn Ðộ cũng vậy, hể có thay đổi người nắm quyền lực thì có thay đổi triều vua.
Thế nhưng, duy có Nhật Bản là nước "vạn thế nhất hệ (muôn đời một dòng họ)." Ở đây, kể
ấ ầ
từ Thái tử Shotoku, người Nhật đã thấm nhuần khái niệm một người có thể tin một lúc nhiều tôn giáo, cho nên sau khi Ðạo Phật đã truyền vào rồi mà Ðạo Thần (tức là Shinto, Thần đạo) vẫn sống còn. Lại thêm có Yoritomo nghĩ ra phương pháp thành lập chính quyền samurai trong lúc vẫn duy trì triều đình với thể chế luật lệnh giữ nguyên vẹn. Với hai việc như vậy, người ta thấy rằng cái tuyệt đối, cái duy nhất, cả về tinh thần lẫn về chính trị, đều không còn ở
xứ này nữa. Có chăng chỉ còn loại người biết thực tế, biết thỏa hiệp khéo léo, mà thôi.
Ðúng ra, "mạc phủ" thời Kamakura không phải đã cai trị được đất đai cả nước Nhật Bản.
Mạc phủ Kamakura với tư cách tổng tư lệnh quân đội miền Ðông, tuy đã thu hút được samurai trên toàn quốc vào dưới trướng của mình, song trên thực tế, đất đai do samurai cai quản mới chỉ được một nửa trên toàn quốc. Một nửa còn lại là trang viên của quý tộc hay của đền chùa.
Những nơi này vì không thuộc quyền quản lý của samurai, nên quyền hành của bộ tổng tư lệnh quân đội miền Ðông không ảnh hưởng tới được.
Thêm nữa, mạc phủ Kamakura cũng không có quyền chỉ định các quan chức của thể chế
luật lệnh, từ Dajodaijin trở xuống. Quyền này vẫn là thuộc triều đình ở Kyoto. Duy, các quan chức như vậy trên thực chất đều không có quyền hành gì tương xứng cả.
Triều đình có quyền cai trị đất đai và quyền phong quan cai trị, song mạc phủ Kamakura lại có võ lực, nên khi cần có thể bắt giữ lưu đày quý tộc hay hoàng tộc. Việc đó đã xẩy ra sau chính biến Thừa Cửu
năm 1221, khi quan phụ chính Hojo Yoshitoki và người con kế nghiệp là Hojo Yasutoki hành sử quyền đó.
ấ
Yoritomo còn học thêm được một bài học sau cái thất bại của Taira no Kiyomori. Ông đã
tách chức năng thủ đô đem ra Kamakura, một nơi xa hẳn kinh đô để tránh ảnh hưởng của bè phái và quyền lợi. Ông đã, bằng sự cách ly về địa lý và hình thái của hai đô thị, thực sự cho người ta cảm thấy rõ rệt cái cấu trúc hai tầng của quyền lực, một hình thức và một thực chất.
Từ đó cho tới thời Minh Trị, triều đình nước này luôn luôn đóng ở kinh đô, song trung tâm hành chính thì đổi chỗ từ nơi này sang nơi khác. Nhờ thế, thể chế chính trị có thể đổi khác, song văn hóa vẫn được kế thừa. Yoritomo, vì có tính đa nghi, nên đã cảm thấy cần cách ly công khanh với võ sĩ samurai phần vì sợ sức thẩm thấu văn hóa của triều đình và công khanh vào võ sĩ samurai, phần vì e ngại sức mạnh của lòng hâm mộ của võ sĩ samurai đối với văn hóa công khanh.
Minamoto Yoshitomo đã tránh không đối đầu toàn diện với thể chế cũ, và bằng một thủ
đoạn hiện thực khéo léo đã lập ra một chính quyền trong tình trạng mập mờ về mặt pháp lý. Có thể nói, ông đã đả phá cái quan niệm thường thức là "một nước chỉ có một chính phủ."
Tuy nhiên, thấy làm như vậy được thì hết người này tới người khác bắt chước làm theo. Có người sẽ nghĩ rằng: Nếu những quan chức như Dajodaijin hay Sa-Yudaijin mà chỉ có danh không có thực quyền cũng được, thì ngay Chinh Di Ðại Tướng Quân, tức là tổng tư lệnh quân đội miền Ðông, cũng có thể đôn lên làm vì để cho kẻ dưới nắm lấy thực quyền chứ gì?
Thực hành điều đó chính là vợ Yoritomo, tức là Hojo Masako và người cháu ruột tên là Hojo Yasutoki. Khi con cháu Yoritomo tranh giành sát hại lẫn nhau không còn ai nữa, thì hai người này bèn lựa trong hàng ngũ công khanh ở kinh đô một người xứng đáng để đôn
ề
lên làm tướng shogun, còn thực quyền thì giao cho nhân vật đứng ngay dưới shogun, gọi là Chấp quyền ("phụ
chính") do dòng họ Hojo nắm giữ. Nghĩa là một người chỉ tương đương với chức tham mưu hoặc chánh văn phòng của bộ tổng tư lệnh quân đội miền Ðông, đã nắm được thực quyền, thao túng bộ tổng tư lệnh này vậy.
Bắt đầu truyền thống "thực quyền thuộc kẻ dưới"
Sự việc trên vừa đúng là cái mặt trái của hình tượng quý phái kiểu Hikaru Genji đã nói ở
chương trước. Nó còn có ảnh hưởng tới hình dạng cơ cấu quyền lực của Nhật Bản ngày nay nữa. Trong xã hội Nhật Bản bây giờ, thì thủ tướng hay bộ trưởng các bộ không nắm thực quyền bằng một giám đốc trực thuộc, hay đúng hơn, có nhiều trường hợp không bằng một vụ trưởng.
Không phải chỉ có thế, cái suy nghĩ cơ bản là, người ngồi trên thì không nên "chi li" quá, không nên tỉ mỉ quá. Người có trách nhiệm tối cao chỉ nên ngồi làm tượng trưng, còn thực quyền thì trao cho các cấp thực thi ở dưới. Như thế mới là cách làm việc đúng.
Chính phủ Nhật Bản ngày nay đã kế thừa trung thực truyền thống ấy. Bộ trưởng chỉ đọc cái gì quan liêu (công chức) đã viết ra thôi. Nếu đọc sai thì bị chê là "bậy."
Chẳng hạn, thời nội các Kaifu[12] đã xẩy ra "vụ tê-ta" như sau. Ðảng đối lập đặt vấn đề "nên cải cách thuế tiêu thụ." Họ lý luận rằng những mặt hàng như thực phẩm thì nên áp dụng thuế
suất nhẹ.
Lúc ấy, Thủ tướng Kaifu, được đám quan liêu (công chức) Bộ Kho bạc đưa cho tờ ghi chép
ế ằ ế ế
"""