" Mười Câu Chuyện Văn Chương - Nguyễn Hiến Lê PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mười Câu Chuyện Văn Chương - Nguyễn Hiến Lê PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Mười Câu Chuyện Văn Chương Nguyễn Hiến Lê vietmessenger.com BỐN LỐI KẾT TRONG TIỂU THUYẾT BỐN NHÂN SINH QUAN Ngày nay tiểu thuyết đã nhiều, đủ các loại, đủ trình độ, thoả mãn đủ các thị hiếu, mà lại quá rẻ, cho nên trong giới đọc sách, nhà nào cũng có một tủ tiểu thuyết, hoặc ít nhất cũng vài ba ngăn đầy tiểu thuyết: tiểu thuyết cho chồng, cho vợ, cho con trai, con gái, đứa lớn đứa nhỏ; nếu chương trình Tivi không có gì hấp dẫn, thì ông bà, cô cậu, mỗi người nằm ngồi một nơi với mỗi tiểu thuyết: ông thì với kiếm hiệp của Kim dung, bà thì tiểu thuyết của Tùng Long, cô cậu đã lớn thì đọc Francoise Sagan, còn nhỏ thì đọc Tuổi Xanh, Tuổi Hồng… Món ăn tinh thần ê hề, không hiếm như thịt cá. Nữa thế kỉ trước, chúng tôi đâu được sướng như vậy. Ngoài mấy cuốn Kiều, Nhị Độ Mai, Lục Vân Tiên, Thạch Sanh, Phạm Công Cúc Hoa… chỉ còn một loại là truyện Tàu. Thuê được một cuốn truyện Tàu (hai xu ở hiệu Cát Thành, đầu phố Hàng Gai – Hà Nội) thì phải đọc xong (100 trang khổ lớn chữ Romain 10) trong hai ba ngày và cả nhà đủ ba thế hệ, xúm lại nghe một một người đọc dưới ngọn đèn ba dây. Người đọc đó luôn luôn là tôi. Sướng mê đi. Được cả nhà cưng: chỗ ngồi sáng nhất, dĩ nhiên, được quấn chiếc mền nữa, nếu là mùa đông, có bình nước bên cạnh để nhấp giọng và đĩa lạc rang, đôi khi cam quít, bánh tai voi của chú Khách 1 đầu phố nữa. Đọc lớn tiếng luôn hai giờ, hết bốn chục trang thì phải tẩm bổ chứ. Chỉ đọc vào lúc tối vì lúc đó mọi người mới rảnh việc, tụ họp nhau được. Càng đông người nghe lại càng vui. Những khi sắp hết truyện thì mặt người nào người nấy cũng nửa hân hoan, nửa tiếc rẻ. Tôi ngừng lại, cố tình làm cho rềnh ràng một chút mà cũng không ai thúc: "Đọc tiếp đi". Tới cái lúc bao nhiêu gút mắc trong truyện được cởi rồi đây, điệu nhạc sắp đưa vút lên tưng bừng rồi êm đềm hạ xuống đây, nhưng không ai vội vã. Mọi người đều biết chắc sắp được hưởng khúc vĩ thanh tuyệt thú ấy nên muốn kéo dài phút vui, cũng như cuối một bửa tiệc thịnh soạn, sắp tới món tráng miệng, người ta ngừng lại, hút một điếu thuốc thơm đã. Và tôi cũng ngừng lại, hớp một ngụm trà, ăn mấy hột lạc rang, đợi cho gần hết cái vị ngọt, béo, thơm trên lưỡi rồi mới đọc tiếp. Vội vã làm gì? Vì biết trước thế nào rồi cũng ban sư hồi trào, thế nào cũng thưởng công phạt tội cho văn võ bá quan, thế nào rồi Tiết Đinh San cũng đẹp duyên với Phàn Lê Huê, con cháu đầy đàn, nối nghiệp ông cha trong cảnh non sông thịnh trị, ngôi báu vững vàng… Cái lối kết đắc thắng khải hoàn, gia đình đoàn tụ, hể công tử mà lâm nàn thì nhất định sẽ đổ trạng nguyên, còn tiểu thư mà tiết nghĩa thì thế nào cũng được phong nhất phẩm phu nhân, phu quí, tử vinh…, cái lối kết có hậu đó, ngày nay chúng ta chê là sơ đẳng và tới chương kết chúng ta không thèm đọc nữa. Nhưng hồi xưa người ta lại rất thích. Chẳng thắc mắc gì cả. Đọc tới chữ "Chung", gắp truyện lại, mọi người hân hoan, đi ngủ ngon lành để đón một giấc mộng đẹp toàn những cảnh vinh qui bái tổ, giai nhân tài tử dạo gót huê viên. Đời thật sung sướng. Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân, có nhảy xuống sông Tiền Đường thì đã có Giác Duyên chờ sẳn để vớt, có đui mắt thì đã có thuốc tiên cứu lành, và có bị cọp tha thì cũng chẳng bị cọp ăn thịt mà chính là được cọp cứu sống; và nếu có chí học hành, bắt đom đóm bỏ vào cái vỏ trứng gà để đêm đêm đọc sách thì trong sách thế nào cũng hiện rõ một nàng "kì nhan như ngọc". Đời như vậy, thật tuyệt! Người ta chê là ngây thơ? Nhưng tin tưởng nào mà chẳng ngây thơ? Và tin tưởng thời nào chẳng là một nhu cầu của con người? Trong một xã hội, một thế giới biến động bất thường như mặt biển, phẳng lặng đó mà phong ba nổi lên lúc nào không biết, thì lòng tin tưởng như một cái phao, mặc dầu có khi nó chỉ là đám bọt. Lúc này đây, chúng ta tin tưởng Nga Mỹ không mở nắp hồ lô nguyên tử ra mà đấu phép với nhau, thì có chắc là không ngây thơ không? - Nhưng phải nhận rằng kỉ thuật ấy thấp kém chớ? - Một kỉ thuật tạo được lòng tin tưởng của bao nhiêu người trong bao nhiêu thế hệ, làm cho người ta mơ mộng những cảnh tuyệt đẹp như trăm hoa trong vườn thượng uyển, kề vai dưới ánh trăng thu... mà chê là kỉ thuật thắp kém? - Không thấp kém thì là dễ dàng? Trăm truyện như một, bị vây khổn rồi thì đắc thắng khải hoàn, li biệt kẻ Ngô người Sở rồi thì đoàn viên một nhà... - Vậy kết theo lối bị vây rồi đầu hàng, li biệt rồi kẻ sống người chết lại khó khăn hơn chăng? Tôi nghĩ chính cái kết có hậu mới là khó viết. Còn thành công hay không là do tài của mỗi người. Tài thì có hơn có kém. Lối kết chỉ là nhân sinh quan. Lối kết có hậu hợp với với nhân sinh quan của những người tinh thần quân bình, già giặn, thời xưa cũng như thời nay, phương Tây cũng như phương Đông. Ít nhất nó cũng an ủi được chúng ta. Có đến ba chục năm nay tôi không đi coi phim nổ súng đoành đoành, nhưng thỉnh thoảng đi qua những rạp hát bình dân ở Tân Định, Đa Kao, gặp giờ vãn tuồng mà nghe bọn thiếu niên hò hét ầm ầm trong rạp, tôi mĩm cười nhớ lại những tuồng Tạc Dăng (Tarzan) coi hồi nhỏ ở phố hàng Buồm, cũng trung với nịnh ("trung" là Tạc Dăng là đồng bọn, "nịnh" là bọn mọi Phi Châu); trung cũng gặp đủ cảnh gian truân, cũng gan dạ cùng mình, mưu mô tuyệt diệu, rồi cũng bị bắt, bị trói ké, suýt bị thiêu sống thì bọn đàn em tới kịp, nổ mấy phát súng (hồi đó súng câm) rồi nịnh hoảng hốt chạy như chuột, còn các vị hảo hán được cởi trói, ôm nhau mừng mừng tủi tủi, trong tiếng vổ tay vang lên muốn rung rinh cả rạp. Người ra về khoan khoái kiếm một tiệm phở, kêu một bát tái năm xu, thấy đời đẹp vô cùng. Tây cũng như Đông, chỉ khác Tây ồn hơn thế thôi. Những tuồng có hậu đó xuất hiện từ thời loài người biết kể chuyện và loài người còn kể chuyện thì nó vẫn còn. Lúc này ở trên một phần ba thế giới, nó thịnh hơn bao giờ hết. Ông dư biết rồi chứ: tiểu thuyết và kịch các nước cộng sản kết rất có hậu. Còn các nước tư bản thì trẻ em và các ông già vẫn yêu những tuồng có hậu. Tôi còn nghĩ rằng ngày nào mà thiếu niên không ham tuồng, truyện có hậu nữa thì thực đáng ngại cho loài người. Lối kết ấy có tên đàng hoàng: ta gọi là có hậu thì Mĩ gọi là happy end… Lối trái ngược với nó cũng phổ biến, cũng xuất hiện từ hồi loài người biết kể chuyện, thì lại không có tên. Các nhà phê bình bảo Hoàng Ngọc Phách đã chịu ảnh hưởng của phương Tây mà cho Tố Tâm có cái kết bi thảm như vậy: nàng thổ huyết mà chết đúng cái ngày lên xe hoa hay trước một ngày gì đó. Có thể họ Hoàng nghiền ngẫm Atala hay Werther, Graziella, Paul et Virginie, Roméo et Juliette, Manon Lescaut, La Dame aux Camélias, vân vân...; nhưng bảo lối kết đó là của phương Tây là sai. Từ hồi xửa hồi xưa, Trung Hoa đã có chuyện Ngưu Lang, Chức Nữ, và ở Việt Nam ta đã có chuyện Trương Chi. Thuật sử dụng lối kết đó mà tôi gọi là lối kết không hậu, phương Đông tỏ ra còn có tài hơn phương Tây nữa. Nổi tiếng nhất phương Tây là Tristan et Iseult và Roméo et Juliette, cả hai đều xuất hiện sau Dương Thái Chân ngoại truyện đời Tống của Trung Hoa; và đọc truyện sau tôi thấy hay hơn hai truyện trước nhiều. Truyện diễm tình đời Đường đó bi đát cùng cực: một ông vua mà phải để quí phi của mình tự ải trước mặt mình, do lệnh của mình nữa, mới chua xót chớ, cổ kim không có được một bi kịch thứ hai như vậy. Đọc loại truyện không có hậu cứ tức anh ách lên, đâm giận, chán, muốn xé toạc sách đi. Đời gì mà khốn nạn: toàn những chia li, những huyết lệ, sầu tủi, những "yêu nhau chẳng lấy được nhau", những "bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia", kẻ quốc sắc, hiếu nghĩa đủ điều thì phải vào thanh lâu, kẻ tài hoa thì lận đận, kẻ trung quân ái quốc thì bị giam, bị chém, còn kẻ đầu trâu mặt ngựa, gian hùng phản quốc thì lại sống phây phây, ngựa xe võng lộng… - Ấy, chính đời là như vậy đấy. Không thấy bọn sâu bọ lên làm người thời này ôm cả tỉ bạc đi du lịch thế giới đấy ư? Phải khen cái lối kết mà ông gọi là không hậu ấy. Nó ghi đúng chân tướng thế giới. - Nếu đời mà chỉ có như vậy thì anh em Ngô Đình Diệm sao bây giờ lại nằm ở nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi ? Nếu đời mà chỉ toàn như vậy thì làm gì còn quốc gia, dân tộc, nhân loại nữa. Cũng chỉ là một khía cạnh của cuộc đời thì tại sao khen cái lối kết ấy mà chê lối trên? - Nhưng ông mới nói rằng nó làm cho ông tức anh ách, nghĩa là ông phải thắc mắc, suy tư. Truyện có hậu, đọc xong ai cũng hoan hỉ, rồi hết; truyện không có hậu mới để lại cho ta một dư vị. Đọc Tố Tâm, ai mà không thương tiếc; phần hay nhất trong truyện Kiều đâu phải là phần tái hợp; mà bi kịch Đường Minh Hoàng Dương Quí Phi là đề tài cho biết bao tuồng bất hủ đời Nguyên, đời Minh. - Khổ qua có nhiều dư vị thật. Mỗi lần tôi nể lời ai, ăn một miếng thì tôi vội ăn tiếp ngay một món khác để dằn cái vị của nó xuống. Không thể bảo loại truyện đó là tả chân hơn, có nghệ thuật hơn. Cũng chỉ là một nhân sinh quan hợp với một số người mà số người này tôi tin chắc không đông bằng số người ưa truyện có hậu. - Nhưng nhân sinh quan đó sâu sắc hơn. Tài mệnh tương đố. La douleur est notre maître … - Tài mệnh tương đố để rồi thuận thiên an mệnh: "Trời kia đã bắt làm người có thân..."; "La douleur est notre maître" để rồi "Con xin theo ý Chúa, Chúa bắt sao con chịu vậy"; nhân sinh quan ấy với nhân sinh quan thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, chung qui cũng là tin ở Thượng Đế hết, một đằng tin được báo ngay ở cỏi trần này hoặc trong đời con cháu mình, một đằng tin sẽ được báo khi lên Thiên Đường, ở kiếp vị lai. Thế thì lối nào tốt hơn? ° ° ° Nếu lấy sự tự nhiên, đúng với đời thực làm tiêu chuẩn thì phải nhận lối kết thứ ba, lối của Tolstoi trong Chiến tranh và hoà bình là hơn cả. Một bộ truyện dài hai ngàn trang tả xã hội Nga trong một giai đoạn nhiều biến cố lịch sử vĩ đại nhất – từ 1805 đến 1812 – mấy lần nữa triệu quân Tây Âu tiến tới rồi lại lùi về như những làn sóng ngất trời dâng lên rồi hạ xuống, lần cuối cùng tràn ngập Moscou, lôi cuốn biết bao nhân mạng, gây biết bao tàn phá – trọn thành Moscou ngùn ngụt khói lửa – rồi kết thúc một cách tầm thường, bằng một cuộc hội hợp gia đình gần như vô vị. Pierre và Natacha đã gặp bao nhiêu cảnh đứt ruột: Chàng bị bạn và vợ phản, bị bắt làm tù binh, rồi vợ chết; nàng có lần gần như mất hồn vì một lỗi lầm nặng, rồi phải thấy người yêu chết trong tay mình, gia đình phá sản; tới đoạn kết Pierre và Natacha sống chung với nhau, có hai con, chàng thì bao nhiêu hoài bảo tày trời – như ám sát Napoléon để giải thoát Châu Âu – giờ đã tiêu tan hết; nàng thì không còn một chút duyên dáng thời trẻ đã làm xiêu lòng bao kẻ, bây giờ ăn mặc lôi thôi, nói năng cục cằn, ghen tuông, quạo quọ. Họ yêu mến nhau đấy nhưng trời! Sao mà tệ thế! Cặp Nicolas và Marie thì cũng vậy: anh chàng Nicolas hào hoa phong nhã, vũ rất giỏi, phi ngựa rất tài, nay thành một chủ điền chỉ lo đong lúa, tậu ruộng để cho "bầy con sau này khỏi khổ"; còn vợ chàng, Marie, đã chịu bao nỗi chua xót bên cạnh người cha già lẩm cẩm, khắc nghiệt, rồi cha chết, anh chết, có lần muốn nhập bọn khất sĩ hi sinh cho Chúa, cho người nghèo, mà bây giờ cũng lo những cái lặt vặt: mình có mang, xấu xí, anh Nicolas có chán mình không, sao hôm nay anh ấy có giọng không âu yếm với mình… Chúng ta có cảm tưởng mấy lớp sóng ồ ạt của chiến tranh không để lại một dấu vết gì trong tâm hồn họ cả, bao nhiêu cảnh tàn phá, phân li, chết chóc, phản phúc họ đã mục kích, đã sống trong bảy năm đó không giúp họ rút kinh nghiệm mà thay đổi nhân sinh quan được một chút gì cả. Thật là tầm thường tới mức bi đát! Bản anh hùng ca ầm ầm tiếng đại bác, tiếng kèn, tiếng trống, tiếng ngựa hí người reo, mà khúc vĩ thanh chỉ là một điệu ru con "à ơi…" xen với tiếng bà già ho xù xụ, tiếng trẻ khóc, tiếng vợ chồng ngầy ngà nhau hoặc nói chuyện nhà cửa ruộng nương với nhau. Có tài như Tolstoi mà sao lựa lối kết buồn nản, quá tầm thường ấy? Vậy mà Somerset Maugham, sau năm chục năm luyện kĩ thuật viết tiểu thuyết lại khen lối kết của Tolstoi là một phát minh kì tài. Chính ông cũng dùng lối kết ấy trong cuốn Kiếp người: anh chàng Philip có hoài bảo, có tâm hồn nghệ sĩ, đã gặp nhiều nỗi gian truân; bị nhân tình và bạn phản một cách nhơ nhuốc, có lần đói, ngủ bờ ngủ bụi, sau nhờ kiên nhẫn, đậu được bằng bác sĩ y khoa, hí hửng tưởng sắp thực hiện được cái mộng ấp ủ từ lâu: du lịch Y-Pha-Nho, Đông Á, Thái Bình Dương, mà rốt cuộc bỏ hết dự định, cưới một cô gái may thuê, tầm thường – nàng Sally – và an phận một đời y sĩ vườn. - Maugham đã quá ca tụng Tolstoi chứ sự thực đoạn kết Chiến tranh và Hoà Bình chỉ làm cho tôi thất vọng. - Nhiều người thất vọng. Người ta chờ đợi một khúc khải hoàn xứng đáng với bản anh hùng ca vĩ đại ấy. Nhưng sau chín năm chống quân xâm lăng Pháp, sau một cuộc xáo trộn cực điểm trong lịch sử, làn sóng tạm hạ xuống, chúng ta về thành và đời sống chúng ta cũng y như đời cặp Pierre-Natacha và cặp Nicolas-Marie, chứ khác gì. Trong những năm 1955-1960, chúng ta quên hết những hoài bảo, nhiệt tâm hồi 1945, quên hết những gian lao ở Bắc Việt, ở Cao nguyên, Đồng Tháp… và cũng chỉ nghĩ tới chuyện lặt vặt, nhỏ nhen trong gia đình, như chưa hề trải qua một biến cố lớn nhất của dân tộc. Cũng chỉ lo mua được lon sữa cho con, kí đường cho vợ, lấn được vài tấc đất qua bên ông hàng xóm. Thì ra lòng người đâu đâu cũng vậy. Tolstoi thấu được tâm lý đó mà lại có sáng kiến tả cái tâm trạng tầm thường đến bi đát đó trong đoạn kết mà nghệ sĩ nào cũng muốn cho thật đặc sắc, phi thường, đập mạnh vào đầu óc độc giả, vì vậy mà Maugham cho là kì tài. Ở Trung Hoa, ít nhất là ở đời Đường, trước Tolstoi khoảng ngàn năm, đã có một thi sĩ là Nguyễn Chấn, bạn thân của Bạch Cư Dị, cũng đã dùng lối kết tự nhiên, bình thường của Tolstoi. Ông viết chuyện ngắn Hội chân kí, sau làm đề tài cho tuồng Tây sương kí của Vương Thực Phủ đời Nguyên. Trương Quân Thuỵ cứu Thôi Oanh Oanh, bà mẹ Oanh Oanh hứa gã nàng cho Quân Thụy rồi nuốt lời. Quân Thụy buồn rầu, uất ức, ốm tương tư, Oanh Oanh đêm lén qua thăm, ái ân với nhau, lúc đó tưởng trăm năm sống chết có nhau. Nhưng rồi chàng lên kinh thi. Cái buổi biệt li sao mà thảm: "Lệ tràn chín khúc Hoàng Hà, hận đè ba ngọn Hoa Nhạc". Tưởng như vậy rồi họ sẽ chung thủy với nhau, chàng đậu trạng vui chữ vinh qui, nếu không vậy, nếu phải chia rẽ, kẻ Ngô người Sở, thì phải có một kẻ chết vì sầu tủi mới là đúng phép. Không, Nguyên Chẩn bỏ cả phép tắc, cho Quân Thụy đổ đạt rồi quên Oanh Oanh mà Oanh Oanh cũng vui vẻ sống với người khác, khiến nàng Kiều mỉa mai cặp đó: "Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương…!" Nhưng người sau khen Nguyên Chẩn là "quét một nhát sạch cái tác phong đại đoàn viên trong trong tiểu thuyết cũ". Vương Thục Phủ khi viết thành tuồng, cho kết thúc ở sau lúc hai người chia tay nhau; đêm đó trong quán trọ, Trương nằm mê thấy Thôi, thế là bỏ lửng. Quan Hán Khanh viết tiếp, cho Trương đậu thám hoa cưới Thôi, làm sai hẳn ý của Nguyên Chẩn. - Nhưng ông đã nói nhân sinh quan. Hai lối trên, có hậu và không có hậu, có chứa một nhân sinh quan thật, còn lối thứ ba này chỉ ghi chép chuyện thường tình trong xã hội thì nhân sinh quan ở đâu? - Nhiều nhà phê bình khen Chiến tranh và hòa bình là một khúc âu ca, mà cũng có người khen Kiếp người là một bản Chúc phúc. Nhân sinh quan trong hai truyện đó, André Maurois khen là chân chính trong Thư ngõ gởi tuổi đôi mươi. Ông viết: "Đời sống chân chính (…) ở trong những em bé âu yếm nhìn mẹ, trong những tình nhân ghì chặt lấy nhau, trong tất cả những căn nhà nho nhỏ kia tại đó vợ chồng con cái ráng kiếm ăn, yêu nhau và du hí". Không có gì quan trọng bằng những kiếp sống tầm thường đó. Ai nấy đều đủ ăn, đủ mặc, có thuốc uống khi đau, trong nhà có già có trẻ, trong sân có con gà què, có dàn mướp, luống rau, thực là tầm thường, vậy mà từ trước tới nay, bao nhiêu triết gia, chính trị gia vẫn chưa thực hiện được cho nhân loại. Người ta thích cái rực rỡ của sự cao cả, nhưng anh hùng hoài thì cũng lố bịch, mà đạo đức hoài thì không ai chịu nổi. Cặp Pierre-Natacha, cặp Nicolas-Marie, cặp Philip-Sally đều tìm thấy ý nghĩa chân chính của nhân sinh trong cuộc đời tầm thường đấy. - Thế còn cặp Thôi-Trương ông cũng cho là chân chính? - Thưa, tôi đâu dám nghĩ vậy. Nhưng tôi tưởng hạng thường nhân chúng ta, ít ai đủ tư cách để ném cục đá đầu tiên vào họ. Họ yêu nhau say mê và rất thành thực, tới khi quên nhau thì cũng rất hồn nhiên, thành thực, không ai oán ai, gây lụy cho ai, mà cũng lưu được những kĩ niệm tuyệt đẹp cho nhau, như vậy tôi tưởng cũng được chứ. Mà thái độ của người viết, của Nguyên Chẩn cũng đạt quan chứ, không trách họ, thấy sự đời như vậy thì nhận như vậy rồi trung thực chép lại, ai nghĩ sao thì nghĩ. - Còn lối kết thứ tư, xin ông cho nghe nốt. ° ° ° - Lối này là lối lưng chừng. Đúng ra là lối không kết. Mỗi năm tôi chỉ được đọc vài tiểu thuyết hiện đại của ta và của ngoại quốc. Nhận xét của tôi e phiếm diện, không đúng. Tôi có cảm tưởng rằng ngày nay người ta có xu hướng viết truyện không có kết. Chẳng hạn một ông lớn vì chán phè phởn mà buồn tình, đi yêu một cô gái đã thô kệch lại câm, mướn một chỗ lén lút gặp nhau rồi cô ả có mang thì ông lớn đổi lên thủ đô, lãnh nhiệm vụ lớn hơn nữa. Thế là hết. Mối tình đó hậu quả ra sao, không ai biết. Hoặc một bọn trẻ nghịch ngợm như bầy tiểu yêu, đến khi thôi học, kẻ đăng lính, kẻ ở nhà lang thang, vẫn giao du thân mật với nhau, có tiền thì rũ nhau đi "nhót", rồi một kẻ chết, để lại bà mẹ, họ xúm lại lo đám tang rất tươm tất. Tới đó cũng hết. Chẳng biết tương lai họ ra sao, họ có ý hướng gì không. Chắc họ cũng lại hợp nhau nữa, lâu lâu đi nhót, tối tối lại quán cà phê ngó người qua đường, đấu láo với nhau cho hết buổi để đến lúc lại có một kẻ chết nữa vì bom đạn. Một truyện nữa: nhân vật chính gồm hai cặp. Cặp thứ nhất: chàng và nàng quen nhau từ lâu, có hồi ở chung nhà, mến nhau; người chung quanh đều tưởng chàng sẽ cưới nàng trước khi đi quân dịch, nhưng không, chàng cứ lừng khừng, và ngày sắp vô trại, nàng đãi chàng một bữa cơm có chả giò hay bì bún gì đó. Chàng ăn xong ra về, chẳng hứa hẹn gì cả mà cũng chẳng từ biệt nhau nữa. Cặp thứ nhì cũng mến nhau. Chàng bị Việt cộng bắt, nàng buồn rầu rồi vô Vũng Tàu theo học một khóa tu nghiệp, khi hay chàng được quân đội Mĩ giải thoát, nàng mừng, viết thư hẹn Tết sẽ về thăm chàng. Nhưng gần tới Tết thì chàng vô Sàigòn ăn Tết với cha mẹ, không đợi được gặp nàng. Hết. Chẳng biết mối tình của hai cặp đó ra sao, cũng chẳng biết họ có yêu nhau không nữa. Thượng đế đã chết, hi vọng ái tình cũng chết nốt. Đương tuổi dạt dào nhựa sống mà thanh niên ngày nay chẳng hề vui ồ ạt, cũng chẳng hề khổ thấm thía, chẳng dự tính việc gì, cơ hồ chỉ thích ăn phở, uống "ba ba" và hút Salem. Chán nản kinh khủng. Một cặp nữa trong truyện dưới đây cũng vậy: chàng mới ở trường ra, độc thân, tới nhận chức ở một tỉnh nhỏ, ở trọ một nhà có một thiếu nữ nghèo, xinh, ngoan, thông minh, dí dỏm. Họ chẳng ra mặt yêu nhau (nàng săn sóc cho chàng khi ốm, chàng tận tình giúp đỡ gia đình nàng), rồi nàng chán đời sống ở nhà, thôi học, vô Sàigòn, trước khi đi đưa chàng một bức thư dặn nàng lên phi cơ rồi mới mở ra đọc. Nàng đi, chàng không hỏi han, dặn dò gì cả, cũng không ra phi trường tiển đưa, tới giờ phi cơ cất cánh, chàng nhớ tới nàng, nhưng cũng chẳng mở bức thư ra đọc. Bức thư đó nói gì, chẳng ai biết, và chính mối tình của họ với nhau ra sao, độc giả cũng không đoán được. Họ như anh em với nhau mà gọi nhau bằng chú cháu, có vẻ quí mến nhau lắm mà chẳng bao giờ tỏ tình với nhau. Cứ lơ lơ, lững lững, phất phơ, tà tà vậy thôi. Chẳng có gì dứt khoát, chẳng ham muốn mạnh mẽ mà cũng chẳng bao giờ rầu rĩ đến thở dài, mất ngủ. Nghĩ cho cùng, biết kết làm sao bây giờ? Kết có hậu ư? Nhưng chàng là một công chức nhỏ, sống độc thân vừa đủ ăn, nàng còn tuổi đi học, cưới rồi mà chàng phải vô Thủ Đức, ra trận thì cầm bằng như thành quả phụ. Kết có hậu như vậy sẽ như không hậu mất. Cũng không thể kết tự nhiên như Nguyên Chẩn được. Chiến tranh không bao giờ chấm dứt, tương lai họ mù mù mịt mịt thì kết thế nào cho tự nhiên được? Chẳng những việc cá nhân, việc nhà việc nước, đến việc thế giới lúc này cũng đều kẹt, không sao giải quyết nỗi. Bi kịch Đức, Đại Hàn, Israel-Ả rập, Ấn-Hồi, tạm yên được đấy thôi, chưa biết lúc nào lại bùng lên nữa. Đông Á, Phi châu, bán đảo Ả rập, Nam Mĩ, Bắc Mĩ (vấn đề da đen). Tây Âu với Đông Âu đâu đâu cũng còn những vụ tranh chấp lúc lạnh lúc nóng, liên miên bất tuyệt, êm được đâu. Mà cái số võ khí hạch tâm kinh khủng ở Mĩ, Nga kia, cứ chất hoài như vậy sao? Thế giới bất ổn, nhìn về phía nào cũng thấy ngõ cụt, ngay những kẻ lãnh đạo các cường quốc cũng không biết giải quyết cách nào, đi tới đâu. Vì vậy mà người ta hoang mang, bất bình, thấy đời là phi lí và những tiểu thuyết mới nhất ngày nay có đầu mà không có đuôi, có khi không đuôi mà cũng không đầu, như chuyện một người điên nói bậy nói bạ. Tôi có cảm tưởng người ta dọn cho tôi một bửa thịnh soạn - vì truyện nào cũng phong phú, kĩ thuật rất khá – nhưng mới cho nếm sauce mayonnaise thì đưa ra món mắm ruột để nhắm với whisky soda rồi bổng ngưng lại và chúng ta đành ngó nhau, đứng dậy ra về. Đúng như Malraux nói, tiểu thuyết ngày nay chỉ phô diễn cái bi thảm của lịch sử chứ không giảng cho người ta hiểu con người. - Vậy ông cho là tại xã hội, thời đại mà tiểu thuyết ngày nay có lối kết không kết như vậy? Nhưng tổ tiên ta ở thế kĩ XVIII cũng đã biết một thời đại như thời đại chúng ta như bây giờ. Hồi đó các cụ cũng chịu cảnh phân tranh Nam Bắc như chúng ta ngày nay (các cụ không biết tình hình thế giới hồi đó, giá biết thì cũng lắc đầu, cho nó là phi lí vì cả Châu Âu như một nồi súp-de muốn nổ), vậy mà tiểu thuyết các cụ vẫn "nghiêng bình phấn mốc mà nhồi má nheo", để "phòng khi động đến cữu trùng" thì "giữ sao cho cho được má hồng như xưa", còn chinh phụ thì bặt tin chồng đã mấy thu mà vẫn còn mong khi về, "xin vì chàng xếp bào cởi giáp, xin vì chàng rũ lớp phong sương". Tâm trạng con người, chứ đâu tại xã hội, thời đại? - Chính vậy, tại nhân sinh quan đã thay đổi. Ngày xưa các cụ còn vững lòng tin tưởng. Ngày nay trái lại, người ta tuyên bố "Chúa đã chết". Nhìn xung quanh còn cái gì? Chỉ có hạch tâm là quyền năng mạnh nhất. Chỉ có hưởng thụ là khôn nhất. Nhưng tiếng nói của tiểu thuyết gia đâu phải là tiếng nói của cả một xã hội. Cho nên thời xưa có những nhà tin tưởng như tác giả Cung Oán và Chinh phụ thì cũng có người chán nản buông xuôi như tác giả Sơ kính tân trang và ngày nay có một số nhà kết theo lối mới thì cũng còn nhiều nhà kết theo lối cũ. Nhân sinh quan trong tiểu thuyết chỉ là nhân sinh quan của cá nhân, hợp với một số độc giả độ năm mười ngàn. Đại đa số quần chúng vẫn mong rồi sẽ có hòa bình, sẽ có trật tự nào đó để được sống một cuộc sống tầm thường mà chân chính như André Maurois đã nói, một cuộc sống gồm những thú vui giản dị, chẳng hạn như ăn lạc rang mà đọc tiểu thuyết. - Nhưng ông đã nói rằng tin như vậy là rất đổi ngây thơ? - Ngây thơ nhất là các em bé, mà sung sướng nhất cũng là các em bé. Vả lại đã phải sống thì cần có một tin tưởng, thiếu tin tưởng thì sống làm quái gì nữa? - Ông kết có hậu lắm. - Vâng. Tôi mê truyện Tàu từ hồi chín mười tuổi mà. Saigon 15-6-1965 -------------------------------- 1 Huê kiều NỬA THẾ KỈ CHÁNH TẢ VIỆT NGỮ Cách đây non nửa thế kỉ, giữa một niên khoá, ba tôi xin cho tôi vào vào lớp năm (lớp Dự bị: Cours préparatoire) trường tiểu học Pháp Việt Yên Phụ (Hà Nội). Mấy buổi đầu tôi còn bỡ ngỡ thì một hôm thầy học chúng tôi hỏi một anh bạn tôi: - Pourquoi étiez vous absent hier? Anh bạn đó đáp: - Parce que je suis malade. Thầy chúng tôi cau mày la: - Non, vous n’êtes plus malade. Tôi ngơ ngác chẳng hiểu gì cả, mà các bạn tôi cũng vậy. Cả lớp tái mặt, im phăng phắc. Đau thì đáp "Je suis malade", đúng như vậy mà sao thầy còn rầy? Hay thầy ngờ anh ấy không đau mà nói dối. Thầy chúng tôi phải giảng mấy phút chúng tôi mới hiểu rằng phải dùng một "thì" đã qua, "thì imparfait": Parce que j’étaits malade. Rõ rắc rối! Ai ngờ đâu được chuyện ấy. Việt ngữ làm gì có "thì". Buổi đó tôi sợ quá, chỉ lo theo không nổi, về nhà phải đòn chết. Tôi kể lại chuyện ấy chỉ để cho các bạn trẻ thấy hồi xưa chúng tôi bị nhồi Pháp ngữ ra sao, mới lớp năm đã như vậy thì dĩ nhiên không được luyện Việt ngữ rồi. Việt ngữ là một môn rất phụ. Ở ba lớp sơ học: đồng ấu, dự bị, và sơ đẳng, mỗi tuần chỉ được ba bốn giờ Việt ngữ mà hồi ấy gọi là "Annamite": một hai giờ tập đọc (lecture annamite), một giờ ám tả (dictée annamite), một giờ học thuộc lòng (récitation annamite). Giờ ám tả Pháp ngữ đáng sợ ra sao thì giờ ám tả Việt ngữ "khoẻ" bấy nhiêu. Thầy đọc một bài dăm sáu hàng cho chúng tôi viết, viết xong thì ngồi chơi trong khi thầy đi từng bàn sửa từng tập một, đánh lỗi, cho điểm rồi chúng tôi kêu điểm để thầy ghi vào sổ. Thường thường, dở tệ gì cũng được điểm trên trung bình. Lên lớp trên, bài dài, thầy sửa không kịp mới để chúng tôi đổi tập sửa cho nhau. Nhưng thầy không hề giảng giải gì cả. Có lẽ chính thầy cũng không hiểu tại sao tru là giết phải viết là tr, chu là khắp phải viết ch, xiên xẹo phải viết x, và siêng phải viết s, vân vân… Thầy cũng ít khi rầy chúng tôi khi viết sai, không dặn chúng tôi coi chừng những tiếng thường dùng và viết thường lầm… Vì cả thầy lẫn trò đều cho môn chánh tả Việt ngữ là không quan trọng (thi tiểu học không có bài Dictée annamite), ngay Việt ngữ cũng không quan trọng vì nó không được dùng làm chuyển ngữ (các môn Sử, Địa, Khoa học, Toán đều dạy bằng Pháp ngữ). Chương trình như vậy thì ai cũng dạy tắc trách như vậy hết. Tóm lại, chúng tôi chỉ có giờ ám tả Việt ngữ, chứ không được học chánh tả Việt ngữ, học một cách có hệ thống như học chánh tả Pháp ngữ. Hình như lên tới lớp nhì nhất, không có giờ ám tả Việt ngữ nữa, điều đó tôi không nhớ rõ, nhưng chắc chắn là lên Cao đẳng tiểu học và Trung học thì mỗi tuần chúng tôi chỉ còn hai giờ Việt ngữ: một giờ giảng văn và một giờ luận. Nửa tháng mới có một bài luận, viết được vài trang, giáo sư chỉ đọc qua ở tại lớp rồi cho điểm, thấy lỗi nào nặng thì gạch bỏ chứ ít khi giảng lỗi ở đâu. Vì vậy mà có tình trạng ngược đời này: Càng học lên cao, chúng tôi càng dốt chánh tả, càng cho chánh tả Việt ngữ là không quan trọng, tuyệt nhiên không chú ý tới vì có ai đâu mà bắt lỗi, vã lại viết sao thì người ta cũng hiểu được kia mà. Lên trường Cao đẳng Công chánh, trong chương trình không còn môn Việt ngữ, vì bọn "lục lộ" chúng tôi mà có dùng gì tới tiếng Việt: ở phòng giấy có làm "calcul" (tính) hay làm "rapport lên Ipal" (báo cáo lên Chánh kỉ sư: ingénieur principal) thì dùng tiếng Pháp; mà ra công trường, có sai bảo nhân viên thì dùng một thứ tiếng "Pháp Việt đề huề", chẳng hạn "ngày mai đi lơ-vê (lever: đo đất), nhớ mang theo cái "tắc kê" (tachéomètre, một loại máy nhắm) và bốn bó "gia lông" (jalon: cây tiêu) nhé." Nhưng năm đó, 1931, không hiểu sao ông Thalamas, viện trưởng Đại học Hà Nội (Recteur d’Académie hồi đó oai lắm, là nhân vật thứ ba ở Bắc Việt, chỉ dưới viên Toàn quyền và viên Thống sứ) lại cao hứng, thêm vô chương trình năm thứ nhất trường Công chánh, một giờ "Annamite", và chúng tôi được cái hân hạnh học cụ Bùi Kỷ vài chục giờ. Anh em chúng tôi quí cụ lắm, Cụ đậu Phó bảng, Cụ lại viết sách (cuốn Quốc văn cụ thể), hiệu đính các văn thơ cổ bằng chữ Nôm, và ở trong ban soạn bộ Việt Nam tự điển của hội Khai Trí Tiến Đức; nhất là Cụ có vẻ rất phong nhã, vui vẻ, xuề xoà, ôn hậu: chít khăn, bận áo the thâm, chưa bước vào lớp đã cười mà nụ cười của Cụ mới hồn nhiên làm sao! Tên tự của cụ là Ưu thiên 1, mà không bao giờ thấy Cụ có thoáng một nét buồn, lo hay giận, cho nên có lần tôi bảo một anh bạn: Cụ phải đổi tên tự là Lạc thiên mới đúng. Giờ của Cụ thật là giờ nghỉ ngơi. Không có bài vở cũng không dùng sách, không cho điểm, cuối năm khỏi thi. Cụ vô lớp, nói chuyện cho chúng tôi nghe hết giờ rồi về. Dĩ nhiên toàn là chuyện Việt văn, Việt ngữ. Chẳng có chương trình gì cả, Cụ cao hứng, gặp đâu nói đấy: tuần này về cách dùng mươi tiếng Hán Việt, tuần sau về truyện Kiều, hoặc về những bản tiếng Nôm Trê Cóc mà cụ mới sưu tầm được, tuần khác về báo chí trong nước… Bây giờ mà được nghe các bài giảng của Cụ thì chắc tôi thích thú lắm, nhưng hồi ấy chỉ lo học cách đo đường, đào kinh, xây cầu, đấp đập, đâu có chú ý tới Việt ngữ, thành thử suốt mấy chục giờ học Cụ, tôi chỉ nhớ mỗi một lời này của Cụ: - Báo chí bây giờ viết sai nhiều, các ông (Cụ gọi chúng tôi như vậy) nên đọc tờ Thực Nghiệp, tờ ấy ít sai. Những bài xã luận trên nhật báo Thực Nghiệp, chúng tôi cho là bảo thủ, đạo mạo, mà Cụ khuyên chúng tôi đọc. Chúng tôi không dám cãi, nhưng vẫn đọc những tờ mới hơn, chẳng hạn tờ Ngọ báo, nhất là tuần báo Phong Hoá. Nhưng tới nay tôi vẫn nhớ lời khuyên của Cụ, vì lần đó là lần đầu tiên một bậc thầy nhắc chúng tôi phải chú ý tới việc dùng tiếng Việt cho đúng chánh tả. Tuy nhớ vậy chớ hồi ấy tôi vẫn chưa cho bài học đó là quan trọng. Vì ba lẽ: thứ nhất, tôi đâu có ý viết Việt văn; thứ nhì, những tờ báo Cụ chê là viết sai, lại có nhiều cây bút nổi danh, vậy thì viết trúng chưa phải là viết hay, mà viết hay thì chẳng cần phải viết trúng (tôi nghĩ vậy); thứ ba, có một số tiếng mỗi nhà viết một khác, như dây lưng hay giây lưng, canh suông hay canh xuông, xuýt nữa hay suýt nữa, dòng nước hay giòng nước, vân vân, biết ai trúng ai trật, tự điển đâu mà tra? Và ngày nay nhớ lại, tôi thấy công lớn của Cụ đối với chúng tôi là cái không khí cổ, nếp sống cổ, thanh nhã, ung dung, khoan hoà Cụ đem vô lớp học: bọn anh em chúng tôi sở dĩ còn thấy được cái đẹp của truyền thống Nho gia, biết đâu chẳng phải là một phần là nhờ Cụ. Chắc môn đệ của thi sĩ Đông Hồ ở Văn khoa Saigon cũng có cảm tưởng ấy khi nhớ tới thầy cũ. Nhưng đó là chuyện khác, xin trở về vấn đề chánh tả. ° ° ° Ở trường Công chánh ra, tôi được bổ vô Nam. Lúc này mới có thì giờ đọc sách báo Việt ngữ và mới thấy ngứa ngáy muốn viết. Mới vô Saigon, đọc các nhật báo Tin Điễn, Thần Chung, Saigon, tôi thấy chướng mắt về những lỗi át, ác, an, ang, in, inh, hỏi ngả, v.v… Nhà báo gì mà sắt viết ra sắc, cuốn viết ra cuống, cây cau viết ra cây cao…; còn nhà giáo gì mà không phân biệt được hỏi ngã…! Nhưng sách báo của Tự lực văn đoàn, của nhà Tân Dân, in lầm s, x, ch, tr, d, gi, r thì tôi lại không thấy chướng; và chính tôi viết thư cho bà con, bạn bè cứ lầm hoài: trái soài, cái suồng, dảnh tay, giây điện…; người thân có nhắc nhở thì mới đầu lại cho là vẽ chuyện. Trò đời như vậy. Tuy nhiên, lần lần tôi cũng phục thiện, chịu nhận rằng người Nam có lỗi của người Nam thì người Bắc cũng có lỗi của người Bắc và xét kĩ một số trí thức Nam rất chú trọng tới chánh tả; bằng cớ là trong Nam có cuốn Đồng âm tự vị, ngoài Bắc không. Và khi tôi biết mong có một cuốn như vậy cho người Bắc, ghi những tiếng bắt đầu bằng ch, tr, s, x, d, gi, r cho dễ tra, thì may quá, cuốn Việt Nam tự điển của hội Khai Trí Tiến Đức ra đời. Tôi nhớ đâu vào khoảng 1938-1939: bìa cứng, bọc vải dày màu tím đậm, gần như đen. Từ đó tôi mới có từ điển Việt để tra (cuốn của Đào Duy Anh chỉ là Hán Việt từ điển) và mới bắt đầu rán viết cho trúng chánh tả. Hai bộ Việt Nam từ điển và Hán Việt từ điển (bộ Đại Nam Quốc âm tự vị của Hùinh Tịnh Của đã tuyệt bản từ lâu) đáng lẽ giúp cho sách báo Việt đỡ được nhiều lỗi chánh tả (mặc dầu có nhiều tiếng, các bộ ấy không nhất trí với nhau), nhưng sự thực, từ 1930 đến 1950, lỗi trên các sách báo vẫn không giảm. Nguyên do chính là tại Việt ngữ vẫn không có địa vị gì quan trọng ở các trường học, dân tộc mình vẫn phải học tiếng Pháp. Phải luyện từ lớp đồng ấu liên tiếp trong mười năm thì người ta mới biết trọng chánh tả, quen với chánh tả. Không được luyện như vậy mà hồi 25-30 tuối mới thấy viết trúng chánh tả là cần thì dù là người chịu khó tra tự điển, khi viết cũng vẫn thường sai. Vì đã thành nếp rồi, quen mắt nhìn sai, quen tay viết sai rồi. Khi nhìn cả trăm lần chữ Giông tố in rất lớn trên bìa một cuốn truyện, cả ngàn lần chữ xử dụng, sơ xuất trên mặt các tờ báo; khi đã cả chục năm quen viết sợi giây, giận giữ, vủ khí, đề khán… thì tới khi biết viết vậy là sai thì người ta vẫn cứ quen tay (mà quen tay một phần cũng do quen mắt) hạ bút viết như vậy mà không ngờ rằng sai. Vì tôi chắc không có người cầm bút nào viết mỗi năm viết cả ngàn trang mà chịu dò từng chữ xem có sai chánh tả không, nhất là khi ý đang đòi tuôn ra thật mau ra ngòi viết ; rồi khi đọc lại, cũng ít ai chú ý sửa chánh tả, mà thường chỉ sửa ý sửa lời, vì khó làm ba việc đó đồng thời được. Tóm lại, muốn viết cho trúng chánh tả thì phải có thói quen viết trúng đã, mà thói quen này chỉ có thể tập được từ hồi mới cấp sách đi học. Lớn lên rồi mới sửa, nghĩa là tạo một thói quen mới diệt một thói quen cũ, là việc rất lâu và rất khó. Hạng người cầm bút hiện nay trên dưới năm chục tuổi chắc ai cũng đã nhiều lần nhận thấy rằng thường vì quen tay mà viết sai, chứ ít khi vì không biết mà viết sai; sách in rồi, đọc lại cũng nhận thấy ngay những lỗi rất lớn; cho nên ai cũng trông mong ở sự khoan hồng của độc giả. Ở Pháp, ai cũng được học kĩ chánh tả từ hồi nhỏ mà các nhà xuất bản đều có những "lecteur" (người đọc bản thảo) và "correcteur" (thầy cò) sửa giùm lỗi chánh tả, có khi chấm câu lại cho tác giả nữa nên sách in ít lỗi. Ở nước ta còn lâu mới tới giai đoạn ấy. Vậy cho tới khoảng 1950, tình hình sách báo của mình chưa được cải thiện bao nhiêu về phương diện chánh tả. ° ° ° Nhưng ở Saigon, năm 1948-49 cũng bắt đầu có sự biến chuyển: một ít nhà xuất bản, nhà báo đã gắng sức in cho trúng chánh tả. Tôi được biết hai nhà: Yiễm Yiễm thư trang và P. Văn Tươi, có thể còn vài nhà khác. Ông Giám đốc nhà Yiễm Yiễm là thi sĩ Đông Hồ. Cũng như đa số các học giả trong nhóm Nam Phong, ông viết rất trúng chánh tả. Tính vốn cẩn thận lại yêu mĩ thuật, ông đích thân coi việc trình bày, sửa ấn cảo, nên sách và tờ Nhân loại của nhà Yiễm Yiễm in nhã mà rất ít lỗi. Sách của nhà P. Văn Tươi và cả tuần báo Mới nữa cũng tương đối ít lỗi, nhờ in ở nhà in Maurice. Ông Giám đốc nhà in này là học giả Lê Thọ Xuân. Ông đích thân sửa ấn cảo, làm việc rất chu đáo, thường sửa lỗi giùm cho tác giả. Tôi mang ơn ông đã chỉ bảo nhiều lỗi sơ sót. Tôi còn nhớ một lần ông khuyên tôi sửa chữ ngọc thỏ ra ngọc thố. Ông có lí: theo tự điển Trung Hoa thì phải đọc là thố, mà tự vị Hùinh Tịnh Của cũng ghi là thố. Nhưng tôi xin ông cứ để ngọc thỏ vì ngoài Bắc đã quen nói như vậy, mà Việt Nam tự điển của hội Khai Trí Tiến Đức, Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh cũng đều viết như vậy. Tôi chép lại hồi ký ấy để độc giả thấy lòng yêu tiếng Việt của ông và nhân tiện thỉnh giáo Uỷ ban điển chế Việt ngữ: chúng ta nên theo tự điển Trung Hoa hay nên theo thói quen của đa số? Mà thế nào là đa số? Nếu từ Bắc vào tới Huế chẳng hạn đọc là thỏ, từ Đà Nẳng vào Nam đọc là thố thì bên nào là đa số? Nếu ta điển chế theo Nam, ngoài Bắc cũng điển chế theo Bắc thì sau này khi thống nhất có cần điển chế lại không? Tôi không rõ thời đó độc giả có nhận thấy công phu của hai nhà xuất bản Yiễm Yiễm và P. Văn Tươi hay không, nhưng một số anh em cầm bút chúng tôi đã noi gương thi sĩ Đông Hồ và học giả Lê Thọ Xuân mà chú trọng tới sự in trúng chánh tả. Đồng thời lại xuất hiện nhiều bài khảo cứu trong đó học giả Lê Ngọc Trụ giảng cho ta một số tiếng Việt gốc Hán phải viết sao cho đúng. Chẳng hạn như cắc (bạc cắc) không thể viết là cắt vì gốc tiếng Hán Việt giác chuyển ra: gi chuyển thành c; ác thành ắc; tiếng vuông (vuông tròn) không thể viết là vuôn vì gốc tiếng Hán Việt phương: phương có g thì vuông cũng phải có g. Ông cho xuất bản cuốn Chánh tả Việt ngữ làm nền tảng cho cuốn Việt ngữ chánh tả tự vị của ông sau này. Tới năm 1951 hay 1952, Việt ngữ bắt đầu dùng làm chuyển ngữ ở bậc Trung học, sự viết đúng chánh tả càng hoá ra cần thiết, cấp bách. Năm 1954 và 1955, do cuộc di cư của đồng bào ngoài Bắc, sách báo ở Saigon in bớt lỗi nhiều, nhất là những lỗi riêng của miền Nam: lỗi an, ang, át, ác, in, inh, hỏi ngã, v.v… vì thợ sắp chữ và thầy cò Bắc đều tránh được các lỗi đó. Tóm lại, từ 1950 trở đi, tình hình cải thiện được nhiều. So sánh sách báo thời đó với sách báo thời trước thế chiến, chúng ta thấy có sự tấn bộ rõ rệt về phương diện chánh tả. Nhưng từ 1953, ông Lê Thọ Xuân phải điều khiển một trường tư, sau đó nhà P. Văn Tươi và nhà Yiễm Yiễm ngưng xuất bản, thực đáng tiếc. Mấy năm gần đây, do cái nạn thiếu thợ, nhân công đắt, điện thường bị cúp, nên việc ấn loát không được cẩn thận như trước và sách báo lại chứa nhiều lỗi chánh tả. Thợ tương đối lành nghề phải đi quân dịch, nhà in nào cũng phải dùng những em 13, 14 tuổi mới học tới lớp nhất, cho tập sắp chữ. Các em ấy dĩ nhiên không thuộc chánh tả, và cũng do cái tật quen mắt quen tay, có khi bản thảo viết đúng mà sắp chữ bậy. Chính tôi đã kinh nghiệm: tôi viết sử dụng, sơ suất, năng suất, có chí… thì trên bản vỗ thành ra xử dụng, sơ xuất, năng xuất, có trí… Vì không rành nghề, các em để lỗi nhiều quá; thầy cò sửa đặc cả ngoài lề mà cũng không hết; tới khi tác giả sửa lại lần nữa, cũng vẫn đặc cả ngoài lề. Nhà in đem ấn cảo về sửa lại qua loa rồi phải lên khuôn cho máy chạy vì "máy không thể chờ được", điện sắp cúp, hoặc thợ chạy máy không thể ngồi không…; và sách báo in ra còn không biết bao nhiêu lỗi, so với mười năm trước, quả là một bước thụt lùi lớn. Vài nhà phê bình đã phải phàn nàn về việc ấy, vị nào dễ dãi thì chỉ nhắc qua rằng sách in còn nhiều lỗi, vị nào gắt gao thì tỏ lời trách móc. Trách là phải lắm. Nếu tình trạng này không cải thiện sơm sớm thì các thế hệ sau này đọc sách của chúng ta sẽ chướng mắt, có khi bực mình không hiểu chúng ta nói gì nữa: có chí mà in có trí, tính dục mà in tình dục thì còn ai mà đoán được ý của tác giả. Chưa biết chừng vài trăm năm sau có người nào in lại một tác phẩm năm 1968 này hoặc trích một đoạn văn để dẫn chứng, sẽ phải làm cái việc chú thích, hiệu đính như người Trung Hoa chú thích, hiệu đính tác phẩm cổ của họ. Chẳng hạn sẽ chú thích: "Thời đó, thế kỉ XX: xử dụng dùng như sử dụng, xuất với suất, giành với dành có thể dùng thay nhau, chùm với trùm đồng nghĩa, trí đọc như chí, tình dục ở đây phải hiểu là tính dục, dấu hỏi và dấu ngã dùng thay nhau, vân vân…" Cho nên hoàn thuốc của nhà điểm sách có đắng thì cũng phải ráng mà nuốt. Đành rằng chúng ta có thể đính chính, nhưng một cuốn sách hai trăm trang mà đính chính cho lỗi thì có khi phải mười trang, coi cũng kì; độc giả chỉ thấy bảng đính chính tràng giang như vậy, cũng ngán không thèm đọc nữa, nói chi là "sửa giùm". Trong cái việc đính chính, phải hiểu tâm lí độc giả mà phiên phiến đi thì kết quả mới khỏi ngược lại ý muốn. Đó là nói về sách, còn bài báo mà đòi đính chính cho hết thì nhất định là chủ báo cau mày rồi: "Ông ấy khó tính quá!" ° ° ° Ai cũng biết phải cải thiện tình trạng ấy sơm sớm, nhưng có cách nào cải thiện sớm được không? Như trên đã nói, muốn viết trúng chánh tả thì phải tập có thói quen viết trúng từ hồi nhỏ, nghĩa là ở các trường tiểu học, trung học phải coi trọng môn Việt ngữ hơn hết thảy các môn khác, phải dạy Việt ngữ một cách có hệ thống. Điểm đó tôi đã trình bày tạm đủ trong bài Làm sao cho học sinh bớt dốt Việt văn đăng trong Tin Văn số 4 ngày 21-7-1996 và in lại trong Mấy vấn đề xây dựng văn hóa (nhà Tao Đàn – 1968). Ở đây tôi chỉ nói thêm rằng bộ Quốc gia Giáo dục cần soạn một bộ Quốc văn ban tiểu học, soạn cho đứng đắn, ít nhất cũng phải đủ tin cậy như những sách quốc văn của nha Học chánh thời Pháp thuộc, trong bộ đó phải làm sao cho có đủ những tiếng thường dùng để học sinh có bằng tiểu học không đến nỗi viết sai lắm. Mục tiêu cần đạt là học hết ban này, trẻ phải viết trúng chánh tả, gặp những chữ nào ngờ ngợ thì phải có thói quen tra tự điển. Điển chế văn tự là việc cấp thiết. Tôi nghe nói Ùy ban điển chế Việt ngữ của bộ Văn hóa có bốn chục vị và ngân sách là bốn chục triệu cho năm 1968. Nay đã non một năm, không rõ Ủy ban đã điển chế được bao nhiêu tiếng. Nếu bộ thấy công việc ấy không thể làm mau được, mười lăm hai chục năm nữa mới xong thì có thể ra một thông tư cho các trường công và tư hãy tạm dùng bộ tự vị, tự điển nào đó trong khi chờ đợi. Và một nhà xuất bản nào đó cũng nên in những cuốn tự vị chánh tả bỏ túi, tựa như Đồng âm tự vị hồi xưa cho học sinh gốc Nam, cuốn Việt ngữ chánh tả đối chiếu của nhà Thế giới 1950, nhưng đầy đủ hơn, cho học sinh gốc Bắc (cuốn này chỉ ghi và sắp với nhau những tiếng bắt đầu bằng phụ âm CH và TR; D Gi và R. S và X). Học sinh phải luôn luôn có những cuốn đó bên cạnh: trong khi làm bài, dù ở nhà hay ở lớp học, hễ gặp một từ ngờ ngợ là phải tra liền, tra trong những cuốn đó mau hơn các cuốn tự điển. Các nhà in, các nhà xuất bản, các nhà báo cũng phải góp công nữa mới được. Phải sớm đào tạo một hạng thợ sắp chữ có sức học kha khá, phải mướn người giỏi chánh tả, như một số nhà xuất bản ở đây đã làm. Chẳng hạn nhan đề cuốn Giông tố của Vũ Trọng Phụng nên sửa lại là Dông tố, nếu không học sinh và cả hạng người lớn như tôi nữa, cũng quen mắt, quen tay rồi viết là giông tố. Trong năm việc tôi mới đề nghị: dạy Việt ngữ cho có hệ thống, điển chế văn tự, in tự vị chánh tả bỏ túi, sửa chánh tả các tác phẩm tiền chiến, đào tạo thợ sắp chữ, thì bốn việc trên có thể bắt tay làm ngay được, duy có việc đào tạo thợ sắp chữ là phải đợi cho hết chiến tranh đã. Vì hiện nay, thợ từ 18 tuổi phải nhập ngũ hết, các em 14, 15 tuổi học nghề chỉ cốt kiếm tiền trong vài ba năm rồi lại lo phải nhập ngũ, không yên tâm mà trao giồi nghề của mình. Ai cũng chỉ nghĩ chuyện ăn xổi ở thì. Mà hết chiến tranh, tình trạng chánh tả cũng chỉ tiến chậm thôi. Đó là chứng bệnh chung của các nước theo chế độ dân chủ Tây phương. Chúng ta quen theo con đường dài, không dám dùng con đường tắt, cho nên bất kì ngành hoạt động nào, chúng ta cứ tiến được hai bước lại lùi mất một bước rưỡi. Nếu cuối thế kỉ này, tất cả các sách báo của ta gần sạch lỗi chánh tả như sách báo Pháp chẳng hạn thì tôi cho là cũng đáng mừng rồi đấy. Saigon ngày 27-8-1968. -------------------------------- 1 Sách Xuân Thu Tả truyên chép một người nước Kỷ lo trời sập (Ưu thiên – lo trời). TRÊN MƯỜI NĂM CẦM BÚT VÀ XUẤT BẢN Thời thế đã bắt tôi bỏ nghề công chánh rồi nghề dạy học để làm cái nghề cầm bút, một nghề tôi cho là mệt nhất ở nước mình, mệt gấp hai công chức bận việc. Khi tôi đã tính toán kĩ lưỡng và quyết định rồi, một bạn ở Long Xuyên muốn giữ tôi ở lại tỉnh nhỏ đó "cho vui bạn bà ở đây có được bao người?", bảo tôi: - Nhà văn làm nghề xuất bản thì nhất định thất bại. Anh không nhớ Balzac phải bán nhà in, nợ như Chúa Chỗm, rồi viết đêm, viết ngày đến khi chết mà vẫn chưa trả hết nợ đó sao? Tôi đáp: - Tôi làm sao dám ví với Balzac. Ông ta là một nghệ sĩ, tôi chẳng có chút máu nghệ sĩ nào trong người cả. Ông ta là một thiên tài và tự cho rằng một thiên tài thì đáng được sống cuộc đời lộng lẫy của bọn công tước, bá tước, tóm lại là ông ham cái chữ de, Honoré de Balzac, nên ông mắc nợ, phải viết như mọi để trả nợ. Tôi không cần gì nhiều, anh ơi, miễn kiếm được một số tiền đủ sống, chẳng hạn bằng số lương giáo sư hay kĩ sư, là mãn nguyện rồi; mà tôi đã tính toán cẩn thận, có thể kiếm được một số như vậy nếu chịu làm việc gấp đôi một giáo sư hay kĩ sư. Tuy mệt nhưng được tự do, chẳng phải tuỳ thuộc ai, chẳng phải đi đúng giờ, về đúng giờ. ° ° ° Lên tới Saigon, một ông bạn khác cũng khuyên trở về nghề dạy học, chứ "viết văn làm sao đủ sống". Tôi vâng vâng dạ dạ, nhưng vẫn không đổi ý. Rồi một buổi chiều, cũng vào tháng này trong năm, ông Thiên Giang dắt tôi lại thăm thi sĩ Đông Hồ ở Yiễm Yiễm thư trang. Tôi được biết danh ông Đông Hồ từ hồi còn học trường Bưởi, năm 1929, 1930. Mấy năm sau, mỗi khi đi dạo chơi bờ hồ Hoàn Kiếm, tôi thường ghé tiệm sách Nam Ký ở đường Francis Garnier và một lần tôi được thấy tập Thơ Đông Hồ bày trong tủ kính. Nhưng khi ở trường Công Chánh ra tôi mới được đọc văn của ông, và vô trong này được nghe một vài người anh. Tôi tự nghĩ: "Con người đó cũng lạ, ở một nơi hẻo lánh tại miền Nam mà sao viết văn như người Bắc, khác xa Hồ Biểu Chánh. Và sao mà nổi danh sớm thế; viết không nhiều, mà cái danh đó không hề tăng, không hề giảm, giữ được rất lâu". Một lần có việc ở sở, đi kinh lí Rạch giá, Hà tiên, Châu đốc, tôi định ghé thăm ông, nhưng tàu mắc cạn ở Hồ đông, tối mịt ghe mới ghe bến trong cơn mưa tầm tã, rồi sáng hôm sau đã phải đi Châu đốc sớm, nên lỡ cơ hội. Vì vậy, lần này tôi rất vui vẻ khi ông Thiên Giang dắt tôi lại đường Nguyễn Thái Học. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là phòng khách - hay phòng sách? Của chủ nhân tối quá, hẹp quá, ngổn ngang đồ đạt. Nhưng chỉ mộ lát sau tôi thấy phòng đó thân mật. Nó chỉ cách tiệm sách có một bước chân mà sao không khí ở đây khác hẳn: tôi quên hết ồn ào náo nhiệt ở bên kia bức vách, như vào một thế giới khác. Mấy cô coi cửa hàng ngoài kia khi bước vô đây cũng không còn vẻ giúp nhà buôn nữa mà lễ độ, khép nép như những danh gia tử đệ. Ngày nay nhớ lại không khí ấy, tôi cho phần lớn do tính tình và cách tiếp khách của chủ nhân. Nhiều người đã viết, nói về Đông Hồ, nhưng tôi chưa thấy ai nhắc tới điểm này: ông có lúc như trịnh trọng, nhưng thực ra rất tự nhiên, hồn nhiên nữa; dù là một kẻ đàn em vô danh như tôi mới gặp ông lần đầu tiên, cũng thấy rất thư thái, như đã biết nhau từ lâu. (Người thứ nhì cho tôi cảm giác đó là ông Vi Huyền Đắc, ông này thì thật xuề xoà, dễ thương). Và tôi nghĩ đó là cảm giác chung của mọi người, già trẻ, thân sơ, ai cũng niềm nở như ai. Lần ấy chúng tôi nói chuyện với nhau khá lâu – mà những lần sau cũng vậy, không lần nào dứt ra về sớm được. Tôi còn nhớ ông bảo tôi: - Ở Long Xuyên có thể viết nhiều được, chứ lên đây, mà nhất là làm việc xuất bản nữa thì bận rộn suốt ngày, không viết được đâu, chỉ vài ba năm sẽ cạn hứng. Tôi không tin nhưng cũng không cãi. Nếu lúc đó tôi thưa với ông rằng tôi phải viết trong một căn phòng ba thước rưỡi chiều rộng, bốn thước rưỡi chiều dài, vừa làm phòng ăn, phòng ngủ, phòng tiếp khách, phòng học của cháu, một bên là căn bếp khói mù, một bên là lớp học độ hai chục em bé thì chắc ông sẽ khuyên tôi nên mua vé xe về Long Xuyên gấp gấp đi cho rồi. ° ° ° Cũng thời gian ấy, tôi còn lại thăm một nhà văn nữa ở ngoại ô Saigon. Ông này mới nổi danh chút chút từ vài năm, nhờ viết được vài tập mỏng tôi nhớ đâu như về kinh tế. Tôi nghe nói các nhân viên phòng kiểm duyệt thời đó tôn ông là "đại ca", nên nhờ một người bạn giới thiệu để xem ông có thể nhắn bọn "tiểu đệ" của ông nới tay trong sự kiểm duyệt bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc của tôi được không, vì bộ này có trích một bài hịch, nhiều bài thơ chống chiến tranh, nhất là có nhắc tới một số cây bút Trung Hoa hiện đại không theo họ Tưởng ở Đài loan. Nhưng tôi thất vọng: từ đầu tới cuối ông chỉ hết khoe tủ rượu rồi đến khoe ông, khoe tác phẩm của ông, coi tôi như hàng em út ngờ nghệch – "làm văn mà không biết nhậu nhẹt thì làm sao giao thiệp?" – và đánh trống lảng về cái việc tôi muốn nhờ ông. Ra về tôi tiếc đã mất một buổi chiều vô ích. Nhưng tôi không trách ông: ở địa vị "đại ca" thì phải để cho "em út" làm ăn chứ! Và tôi nghĩ có thể rút ra được kinh nghiệm này: đừng nên nhờ cậy ai, rán xoay xở lấy; cứ tính toán thu xếp công việc cho kĩ, rồi giữ vững ý định của mình, đừng quá nghe lời khuyên của người khác. Chỉ có ta mới biết được ta làm nổi công việc ta dự định hay không, người khác không thể nào biết rõ khả năng, hoàn cảnh của ta bằng ta. Trước khi lao mình vào một con đường mới, ai cũng lo lắng về những trở ngại này, trở ngại khác, nhưng khi đã cương quyết tiến được bước đầu rồi thì ta thấy sự thay đổi cuộc đời không có gì là khó cả. Một ông bạn tôi hồi đầu viết báo, ghét và ngại về đi dạy lắm: phải tới đúng giờ, về đúng giờ, hò hét, sửa bài…; nhưng khi tờ báo đình bản, anh miễn cưỡng phải đi dạy thì chỉ sáu tháng sau thấy dạy học thú hơn viết báo, và từ đó anh bỏ luôn nghề viết báo. Những ai tuyên bố: "Viết là lẽ sống của tôi, phải gát bút thì tôi sống không nổi" nên ngẫm về trường hợp vừa kể. Và đừng nên sợ những biến chuyển trong đời. Người ta thường bảo ngoài bốn chục tuổi ai cũng ngại đổi nghề; nhưng bất kì một người nào còn khoẻ mạnh và chịu được cực khổ thì năm mươi sáu mươi tuổi vẫn có thể đổi nghề một cách dễ dàng được, và sau khi đổi nghề sẽ thấy vui thích hơn, tự tín hơn, tinh thần như trẻ lại. Mới mở nhà xuất bản, tôi quyết định chỉ in những tác phẩm của tôi thôi, không mua của ai cả. Sở dĩ tôi xuất bản lấy như vậy vì muốn hưởng một số lợi bằng hai, có khi bằng ba số nhuận bút các nhà xuất bản trả cho tôi; mà lại có thể cho ra những cuốn mình thích nhưng khó bán. Tôi đã nói chỉ cần một số tiền đủ sống thôi. Mua thêm tác phẩm của người khác thì có thể mau khá lắm, nhưng sẽ thành nhà xuất bản "chính cống" mất, sẽ không còn thì giờ để viết nữa, mà tôi lại thích viết hơn. Mới đầu một số bạn văn không hiểu chủ trương của tôi, đem tác phẩm lại nhờ tôi xuất bản giùm. Tôi cứ thẳng thắn bày tỏ nỗi lòng và tôi chắc rằng các bạn ấy hiểu tôi mà không nỡ trách. Thời thế đã bắt tôi bỏ nghề công chánh rồi nghề dạy học để làm cái nghề cầm bút, một nghề tôi cho là mệt nhất ở nước mình, mệt gấp hai công chức bận việc. Khi tôi đã tính toán kĩ lưỡng và quyết định rồi, một bạn ở Long Xuyên muốn giữ tôi ở lại tỉnh nhỏ đó "cho vui bạn bà ở đây có được bao người?", bảo tôi: - Nhà văn làm nghề xuất bản thì nhất định thất bại. Anh không nhớ Balzac phải bán nhà in, nợ như Chúa Chỗm, rồi viết đêm, viết ngày đến khi chết mà vẫn chưa trả hết nợ đó sao? Tôi đáp: - Tôi làm sao dám ví với Balzac. Ông ta là một nghệ sĩ, tôi chẳng có chút máu nghệ sĩ nào trong người cả. Ông ta là một thiên tài và tự cho rằng một thiên tài thì đáng được sống cuộc đời lộng lẫy của bọn công tước, bá tước, tóm lại là ông ham cái chữ de, Honoré de Balzac, nên ông mắc nợ, phải viết như mọi để trả nợ. Tôi không cần gì nhiều, anh ơi, miễn kiếm được một số tiền đủ sống, chẳng hạn bằng số lương giáo sư hay kĩ sư, là mãn nguyện rồi; mà tôi đã tính toán cẩn thận, có thể kiếm được một số như vậy nếu chịu làm việc gấp đôi một giáo sư hay kĩ sư. Tuy mệt nhưng được tự do, chẳng phải tuỳ thuộc ai, chẳng phải đi đúng giờ, về đúng giờ. ° ° ° Lên tới Saigon, một ông bạn khác cũng khuyên trở về nghề dạy học, chứ "viết văn làm sao đủ sống". Tôi vâng vâng dạ dạ, nhưng vẫn không đổi ý. Rồi một buổi chiều, cũng vào tháng này trong năm, ông Thiên Giang dắt tôi lại thăm thi sĩ Đông Hồ ở Yiễm Yiễm thư trang. Tôi được biết danh ông Đông Hồ từ hồi còn học trường Bưởi, năm 1929, 1930. Mấy năm sau, mỗi khi đi dạo chơi bờ hồ Hoàn Kiếm, tôi thường ghé tiệm sách Nam Ký ở đường Francis Garnier và một lần tôi được thấy tập Thơ Đông Hồ bày trong tủ kính. Nhưng khi ở trường Công Chánh ra tôi mới được đọc bạn nói nhiều về ông, tôi trọng ông như một bậc đàn Nhưng trong mấy năm sau, tôi cũng nhận được nhiều tác phẩm ở xa gởi tới, đa số là của những người mới cầm bút. Họ nhã nhặn nhờ tôi "đọc giùm tác phẩm, sửa giùm và nếu thấy đáng in thì tìm giùm cho một nhà xuất bản". Nếu tác phẩm có giá trị thì tôi hết lòng giúp đỡ, thành thực đưa ý kiến, giới thiệu với một nhà xuất bản khác. Nhờ vậy, tôi thêm được vài bạn mới, nhiều kĩ niệm quí. Một bạn nghèo đã lục các tiệm sách ở Chợ lớn, mua tặng tôi bộ Khang Hi tự điển in từ năm Quang Tự thập ngủ niên (1889), mà tôi vẫn bày ở bàn viết, mặc dù cả năm mới có dịp dùng tới một lần. Nếu là một người sức học, kinh nghiệm còn kém thì tôi thẳng thắn khuyên nên đợi ít năm rồi hãy viết, đời còn dài, gấp gì? Tôi còn nhớ lần đó một học sinh đệ nhất hay đệ nhị, sắp thi tú tài Việt, xin tôi in giùm một tập phê bình truyện Kiều mà cậu mới soạn xong. Tôi không cần hỏi bản thảo, trả lời ngay: - Cậu còn nhỏ mà sao đã vội viết một loại rất khó là loại phê bình? Công việc đó để các giáo sư làm thì hơn. Cậu ta đáp: - Tôi đã đọc nhiều sách, nghe nhiều giáo sư giảng và tôi thu thập lời phê bình của các giáo sư để viết. - Phê bình đâu phải vậy! Phải có ý riêng của mình chứ. Năm sáu tháng sau tôi hay tin tác phẩm của cậu đó được mộ nhà xuất bản in cho và xuýt đưa tới vụ kiện vì "tác giả" đã chép trọn – và chép sai – một cuốn đã tuyệt bản của Đào Duy Anh, mà bản quyền thuộc về một nhà xuất bản khác. Một cậu nữa mới ở trường ra, thấy sách của Carnegie bán chạy, viết một cuốn nhan đề là Hạnh phúc trong hôn nhân, bảo là dịch theo bản Pháp dịch mà nguyên tác của bà Carnegie. Coi tên bản tiếng Pháp ghi dưới nhan đề tiếng Việt, tôi biết ngay là bịp, vì tiếng Pháp dốt quá. Tôi đòi cho coi bản tiếng Pháp, cậu ta hứa đem lại và dĩ nhiên là không trở lại. Mạo danh người ta thì cả gan thật. Quả là hậu sinh khả uý. Một truyện buồn cười nữa là một thi sĩ miền Trung gởi thư cam đoan với tôi rằng tập thơ của ông mà in ra thì mười ngàn bản sẽ bán hết veo, đã được ông lớn nọ, ông lớn kia khen, sẽ làm nổi tiếng cho nhà xuất bản của tôi v.v… Một bạn khác cũng cam đoan rằng bộ Quốc Gia Giáo Dục đã hứa mua cho năm trăm cuốn, lại sẽ giới thiệu cho các trường trung học cho nữa… Có người rất cẩn thận, đích thân mang bản thảo lại nhờ tôi "coi giùm và cho ý kiến"- chứ chưa nói là xuất bản hộ - rồi trước khi ra về còn dặn kĩ: - Tôi tin ông nên mới đưa ông đấy, xin ông đừng cho lọt ra ngoài, hồi này người ta đạo văn nhiều lắm. Mặt tôi hừng hừng lên, nhưng tôi nén lại được liền, mỉm cười: - Xin lĩnh ý. Tôi sẽ coi xong nội đêm nay. Sáng mai bà lại lấy bản thảo. Sáng mai bà ta trở lại, tôi không tiếp, cho người nhà đem bản thảo ra trả: Văn của bà viết không đều, được một vài bài khá. Nhưng khoảng một năm sau, tôi ngạc nhiên làm sao khi hay tin bà đạo văn của người khác. Tôi ân hận nhất về việc dưới đây. Không hiểu sao tháng chạp âm lịch nào tôi cũng bận việc, nên vào khoảng ấy, tôi thường dặn người nhà hễ có khách lạ thì cứ nói rằng tôi đi vắng, không biết bao giờ về. Hôm ấy, một bà ở miền Trung vô, muốn gặp tôi, chị ở đáp rằng tôi mới đi khỏi. Rồi mà bà ta và cô con gái quyết tâm đứng ở cổng chờ tôi về, tôi không hay mà chị ở cũng không hay. Khoảng một giờ sau, nhà tôi đi đâu về, thấy vậy hỏi thăm rồi mời vô chơi. Bà ta đưa một bản thảo với một bức thư của ông chồng nhờ tôi coi giùm rồi đề tựa. Nếu hôm đó nhà tôi về trễ thì không biết bà ta và cô con gái phải đứng đợi bao lâu nữa. Nghe nhà tôi kể lại, tôi ái náy, vội bỏ hết các công việc khác – tôi nhớ lúc đó tôi đương đau nữa – đọc cho xong bản thảo rồi viết bài tựa, mặt dù tôi vốn sợ công việc đề tựa. Tôi mất trọn hai ngày nhưng trong đời viết văn của tôi, hai ngày ấy có lẽ là hai ngày tôi làm được một trong những việc thú và có ích nhất vì tác phẩm ấy rất đáng giới thiệu, và tác giả sau khi tự xuất bản lấy rồi, tiếp tục cho ra thêm được vài cuốn nữa. ° ° ° Mấy năm đầu sau chiến tranh, ngành xuất bản của ta rất tiêu điều. Người ta chỉ in ít cuốn tiểu thuyết như của Lý Văn Sâm, ít sách giáo khoa tiểu học, ít cuốn về chính trị như của Trịnh Quốc Quang (tức Trương Văn Chình) và một số tác phẩm cũ. Người ta kể chuyện hồi 1950, một người ở Hà Nội có sáng kiến tái bản truyện Kiều, in 5.000 bản, bán hết liền, vội vàng in mau 10.000 bản nữa, cũng hết, rồi 20.000 bản, 30.000 bản cũng hết. Mới hồi cư, sách vở không còn, ai chẳng muốn có một cuốn truyện Kiều để ngâm nga cho đỡ buồn. Chẳng mất công gì cả, chỉ cần mau chân lẹ tay mà kiếm được một số tiền lớn trong có vài tháng. Tất nhiên "bổng" đó không được bền. Từ 1950 đến nay, ngành xuất bản tấn bộ nhiều, nhờ số học sinh tăng lên mạnh, Việt ngữ được dùng làm chuyển ngữ ở tiểu học rồi trung học, nhờ cuộc di cư của các nhà văn và nhà xuất bản Bắc sau hiệp định Genève, nhất là nhờ lòng yêu nghề của một số nhà xuất bản. Từ 1958-1959, tình hình mỗi ngày một thêm khó khăn, các nhà đó càng phải gắng sức. Nhà thì hạ giá bán cho thật rẻ để sách phổ biến rộng, làm ta nhớ tới loai Phổ thông bán nguyệt san của nhà Tân Dân, nhưng nội dung và hình thức mới hơn, nhà thì đặc biệt chủ trọng tới công việc ấn loát cho thật đẹp và sang (cuốn Tìm hiểu hội hoạ chẳng hạn); nhà thì trình bày nhã nhặn mà có nghệ thuật (như nhà Cảo Thơm), nhà thì lựa chọn tác phẩm kĩ lưỡng, miễn có giá trị, chứ không cần bán được nhiều (in hai ngàn bản trở lại thôi); nhà thì dám bỏ ra một số vốn lớn in những bộ sách khảo cứu rất dày mà ngay những cơ quan văn hoá của chính quyền ngân sách luôn luôn dư, cũng không dám in; nhà thì xuất bản sách bằng ngoại ngữ để giới thiệu văn chương của mình với thế giới, nhà lại chuyên in ronéo độ trăm bản để "phổ biến" trong số bạn đồng điệu… Họ đều có thiện chí góp công về văn hoá. Nhưng tôi thú thực "hiện tượng P. Văn Tươi" vẫn lạ lùng nhất. Hết thảy các bạn đồng nghiệp của tôi đều nhận rằng từ xưa tới nay chưa có nhà xuất bản nào phát mau như vậy. Chưa đầy một năm sau khi thành lập (vào khoảng 1949 hay 1950), P. Văn Tươi đã được sự tin cậy của rất nhiều độc giả đến nỗi có người phải ghen, mỉa mai này nọ. Sách bán rất chạy, in hai ba ngàn bản chỉ sáu tháng hay một năm là hết. Tới thời toàn thịnh của ông, tức thời ông cho ra tuần báo Mới, cửa tiệm đường Sabourain 1(hình như trong thời thế chiến, chính là tiệm sách Nguyễn Khánh Đàm) thành chỗ hội họp của các nhà văn và các người yêu sách ở Saigon). Đã thành công rực rỡ trong loại sách Học làm người rồi (danh từ ày ông Phạm Văn Tươi đặt ra, dịch tiếng Culture humaine của Pháp – người Anh gọi là Seft improvement – mới đầu bị một số người mỉa mai, nay đã được thông dụng), ông can đảm ra loại sách Doanh nghiệp nữa, ra đều đều (trước sau trên mười cuốn) mặc dầu loại này bán rất chậm (có cuốn năm mười năm mới hết ba ngàn bản), vì lẽ dễ hiểu là nước ta hồi đó rất ít nhà doanh nghiệp mà ngay bây giờ, các nhà doanh nghiệp của mình vẫn thành công dễ dàng nhờ chạy chọt, chưa cần đến phương pháp tổ chức công việc làm ăn. Loại doanh nghiệp chưa vững thì ông cho ra tuần báo Mới và dự bị cho ra một loại như loại Que sais-je của Pháp. Ông đã nhờ vài người viết, đã có được vài bản thảo. Cho vẽ bìa rồi nữa mà sau phải ngưng vì ông thất bại trong những công việc làm ăn khác và cho tới bây giờ chưa có nhà nào dám nối gót ông cả. Ông Tươi có nhiều sáng kiến, dám làm, co chủ trương rõ rệt, có đường lối vạch sẳn, vừa thực tế vừa biết giữ vững chí hướng. Những tác phẩm ông xuất bản không có giá trị về văn học, nhưng rất có ích, giúp một cách gián tiếp cho sự phát triển kinh tế trong nước. Tôi tin chắc rằng hồi năm 1949 hay 1950, ông cũng như mọi người khác ở Việt Nam chưa biết thuyết phát triển kinh tế, vì thuyết đó chưa hình thành, các nhà kinh tế học như Clark, Myrdal, Pourasité, Rostow, còn đương nghiên cứu, chưa tìm ra được nó. Theo thuyết ấy, sự phát triển kinh tế trải qua năm giai đoạn sau: 1- Xã hội cổ: các hoạt động sản xuất rất hạn chế, theo phương pháp rất truyền thống, thiếu tính cách khoa học.; 2- Giai đoạn dự bị, tức giai đoạn ở cuối thế kỉ 17 và đầu thế kỉ 18 tại phương Tây: người ta bắt đầu có ý thức về sự tấn bộ kinh tế nhờ nhiều phát minh mới về khoa học; một nhóm người có tinh thần kinh doanh đã nghĩ tới việc phát triển kinh tế, tiết kiệm để đầu tư; 3- Giai đoạn bắt đầu phát triển mạnh: đầu tư nhiều, mở mang mọi ngành, tức giai đoạn ở hậu bán thế kỉ trước tại châu Âu; 4- Giai đoạn thành thục, tức giai đoạn của châu Âu đầu thế kỉ này. 5- Giai đoạn đại chúng tiêu thụ mạnh mẽ, tức giai đoạn của châu Âu và Nhựt Bản hiện nay (1965), của Huê Kì từ hai ba chục năn trước. Giai đoạn này cũng gọi là "hậu kĩ nghệ" (post industrielle, do Daniel Bell đặt ra): mọi người chỉ lo hưởng thụ, sản xuất thừa thải quá rồi, người ta ít ham cạnh tranh, thành công nữa, ý thức về quốc gia, giai cấp nhạt đi, có thể tinh thần nhân bản và sự giáo dục được tôn trọng hơn trước. Ở nước ta, giai đoạn dự bị bắt đầu vào khoảng 1930, một số người đã tin ở kĩ thuật, ở sự phát triển kinh tế, sự gắng sức, nói chung là ở sự tấn bộ. Thời xưa, các cụ vẫn có thể gắng sức để cải thiện đời sống mà leo lên những bậc thang cao trong xã hội bằng con đường khoa cử. Đời cha nghèo vô học, rán cần kiệm cho con ăn học thành thầy khoá, thầy đồ, đời con lại gắng nữa tới đời cháu có thể thành ông Tú, ông Cử. Đó là trường hợp gia đình tôi. Cụ tổ năm đời của tôi không biết chữ, tòng quân, có cơ hội vô Đồng Nai dẹp loạn Lê Văn Khôi, có quân công, được ban ít ruộng đất, đón thầy dạy ông cố tôi, ông cố tôi thành ông đồ, rồi tới ông nội tôi, đậu Tú tài. Không theo đường khoa cử mà làm thợ, làm ruộng hay đi buôn thì có thể làm giàu nhưng không thế nào tiến lên hạng thượng lưu, hạng cầm quyền được. Từ 1930 trở đi, tình thế đã khác. Có thêm nhiều ngành hoạt động, trên thương trường, trong kinh doanh, ngay cả trong giới làm báo, đã có những người không có bằng cấp hoặc chỉ có những bằng cấp trung bình mà nhờ tự học, gắng sức, cũng nhờ khôn lanh nữa, làm giàu mau, lại chiếm được những địa vị cao trong xã hội, vừa phú vừa quí. Bạch Thái Bưởi được các "thượng quan" trọng và nể, nhiều người kém Bạch Thái Bưởu được bầu làm dân biểu, Phạm Quỳnh được mời dạy ở Đại học, và một bước nhảy lên ghế thượng thư… Tinh thần ấy cần cho sự phát triển kinh tế và một số nhà văn trong nhóm Hàn Thuyên đã lờ mờ nhận thấy vậy nên soạn vài cuốn về kinh doanh; một người soạn (hay dịch) một cuốn về tinh thần khoa học được giải thường Alexandre de Rhodes; nhóm Tự lực cũng xuất bản cuốn Mười điều tâm niệm của Hoàng Đạo và dịch ít đoạn trong cuốn Le chemin du bonheur của Victor Pauchet. Tóm lại người ta đã thấy cần phải cải tạo tinh thần của thanh niên để thích ứng với thời mới, và lớp thanh niên được cải tạo ấy sẽ là lớp người mở đầu cho giai đoạn phát triển kinh tế sau này. Như người Pháp nói, "ý đó phản phất trong không khí" từ trước thế chiến. Ông Phạm Văn Tươi cho tôi hay chính ông đã viết một cuốn rồi xuất bản hồi đầu thế chiến, nhưng bán không chạy. Vào hồi đó tôi cũng đã dịch một cuốn mà ông Nguyễn Duy Cần cũng viết được vài cuốn, đều để đó, đợi thời xuất bản. Vào khoảng 1949-1950, thời cơ vừa tới thì ông Phạm Văn Tươi cho ra loại sách Học làm người, gom ngay một số cây viết cùng chủ trương, nhờ vậy ông thành công rất mau. Mấy năm sau nhà xuất bản của ông phải đóng cửa, nhưng loại sách ấy vẫn phát triển đều đều: nó không có mục đích gì cao xa, nhưng thực tiễn và lành mạnh, gây được trong giới thanh niên tinh thần cầu tiến, tự học, tin ở tương lai của mình và của quốc gia. Một số người có óc hẹp hòi, cho nó là "phụng sự tư bản"; họ không hiểu rằng dù tư bản hay cộng sản thì cũng phải trải qua năm giai đoạn phát triển kinh tế tôi đã tóm tắt ở trên, và trong giai đoạn thứ nhì, giai đoạn dự bị cho sự phát triển, cũng phải tạo một số người tin ở sự tấn bộ, ở phương pháp khoa học, chịu cực khổ, có sáng kiến và óc mạo hiểm. Và trong một xã hội tư bản hay cộng sản, hạng người đó luôn luôn được trọng dụng, quốc gia càng lạc hậu càng muốn tiến mau thì càng cần tới họ. Hiện nay loại sách ấy chỉ bán "lai rai" thôi, và tôi nghiệm thấy tinh thần, trình độ của thanh niên mười lăm năm nay không tấn bộ mấy: tỉ số bán những cuốn về Tổ chức công việc, về Tân giáo dục của tôi tăng ít thôi, không bằng tỉ số tăng của các thanh niên có tú tài; mà những cuốn mới như cuốn Một niềm tin bán rất chậm, nên tôi không dám soạn những cuốn về tâm lí trong xí nghiệp, về xã hội học, để bổ túc cuốn Tổ chức công việc khoa học của tôi nữa. Người cầm bút thời nào cũng bị những hạn chế như vậy. Nghĩ tới tinh thần ham đọc sách của người Nhật, tôi không thể không buồn: nhiều cuốn Fourastié, Raymond Aron, Rostow ở Âu Mĩ mới phát hành thì vài tháng sau đã có bản dịch của họ rồi. Sự tiếp thu văn hoá phương Tây phải như vậy thì nước ta mới mau tiến mà thoát được cảnh lệ thuộc người về mọi phương diện. Tôi mong rằng sau chiến tranh này, các ngành canh nông, kĩ nghệ của nước ta sẽ phát triển mạnh, chính quyền sẽ hướng dẫn thanh niên đọc loại sách đó ngay từ học đường. ° ° ° Loại ấy cũng như tiểu thuyết của các nhà Ngày nay, Thời Mới, Giao Điểm, Lá Bối… chỉ tiêu thụ quanh quẩn trong mấy châu thành. Tiêu thụ mạnh ở thôn quê trong giới nông dân, lại là "sản phẩm" của các nhà xuất bản khác mà các nhà làm văn hoá ít ai lưu ý tới, có khi không biết tới tên nữa. Tiếng "sản phẩm" ở đây tuyệt nhiên không có ý nghĩa xấu, ta phải dùng nó vì không kiếm được một tiếng nào khác: nó gồm sách và những tập mõng độ mươi, mười lăm trang, cả lịch nữa. Vào khoảng gần cưới năm 1955, một hôm tôi giao sách cho nhà phát hành Nam Cường. Ông Cường phàn nàn với tôi đương phải chạy tiền để mua lịch Tam Tông miếu. Tôi ngạc nhiên hỏi: - Ông phát hành cả lịch sao? Và thứ đó có mười mấy đồng một tấm, cần gì phải chạy tiền? Ông ta cười: - Ông chưa biết đấy. Thứ ấy bán mạnh lắm và lời lắm, hơn sách của ông và của tôi nhiều. Chẳng cần soạn, dịch gì cả, chẳng cần mua bản quyền, chẳng cần có nhà xuất bản, cứ tới đúng kì nào đó, giao cho một nhà in quen thuộc, rồi khi họ in xong, đem giao cho các nhà phát hành mà thu tiền. Khoẻ ru! Hoa hồng thấp, phí tổn ít, chẳng cần mướn người giúp việc, mỗi năm chỉ bận độ mộ hai tháng – vì lịch đâu có bán quanh năm – mà lời thì… Ông suy nghĩ một chút, tính sơ sơ, cho tôi một con số mà nay tôi đã quên, chỉ nhớ nó làm cho tôi hoá ra nghĩ vơ vẩn. Tôi hỏi ông: - Dễ kiếm tiền như vậy, sao không có nhà nào ra cạnh tranh? - Có đấy chứ! Đã nhiều nhà cạnh tranh, in cũng y hệt vậy, cũng đủ ngày xấu ngày tốt, đủ kiêng với cữ, giá lại rẻ hơn, nhưng vẫn không khá. Ai mua lịch thì cũng đòi cho được lịch Tam Tông miếu, cũng như hồi trước, mua sữa thì đòi sữa Con chim, mua xà bông thơm thì đòi xà bông Cadum vậy mà. Lúc đó tôi mới nhớ rằng đi về miền quê, vào nhà nào có vẻ phong lưu một chút cũng thấy treo một tấm lịch Tam Tông miếu. Xin dộc giả cứ tưởng tượng mỗi làng trung bình có hai ba chục nhà như vậy (điền chủ, hương chức, thầy giáo…) rồi nhân cho số làng ở Nam Việt thì biết tại sao buổi chiều ấy, ở nhà phát hành Nam Cường ra, tôi hoang mang… Nghe nói năm nay (1967) Tam Tông miếu in 200.000 tấm, mỗi tấm bán trên 30đ. ° ° ° Nhắc đến Tam Tông miếu thì phải nói đến truyện Tàu. Nhà Tín Đức thư xã đã thực sự một mình một chợ trong phạm vi xuất bản truyện Tàu, non nữa thế kỉ nay. Hồi tôi mới bước chân vào đây (1935), loại ấy đã có mười mấy tuổi thọ. Tới bây giờ hỏi các nhà phát hành Sống Mới, Á Châu, Hồng Dân, tôi được biết nó vẫn bán lai rai, không chạy lắm, nhưng lúc nào cũng có người mua. Cũng có vài nhà cạnh tranh về vài truyện như Tam Quốc, Đông Châu, Thuỷ Hử, Tây Hán… nhưng không nhà nào dám nghĩ chuyện giành độc quyền của nhà Tín Đức. Vì nhà này chuyên phục vụ giới bình dân, đặc biệt các ông già bà cả ở thôn quê. Thật là cảm động, cái cảnh bà già tóc bạc phơ, mặc chiếc bà ba đen hàng Tân Châu, nằm võng trong một cái nhà sàn ở bờ rạch Bằng tăng hoặc kinh Bảy-ngàn, vừa bỏm bẻn nhai trầu vừa nghe một cháu gái mươi mười hai tuổi đọc chuyện Chinh Đông, Chinh Tây dưới ngọn đèn dầu. Tình gia đình ấm làm sao! Lúc đó phải đọc một bản dịch của Nguyễn Chánh Sắt hoặc của nhà Tín Đức chứ không thể dùng bản của Tử Vi Lang được. Phải có cái giọng văn như: "đi tiên phuông", "bèn cả cười mà rằng", "thoảng như có biến thì chắc bọn ta không còn đời", thì mới hợp cảnh. Cũng như ta thưởng thức món mắn ruột Long Xuyên với đọt xoài, đọt bằng lăng thì phải uống với rượu đế chứ tuyệt nhiên không thể dùng Whisky Soda. Thế nào tôi cũng phải noi gương ông Tạ Trọng Hiệp mà mua đủ các bộ truyện Tàu của nhà Tín Đức thư xã mới được. Tôi chẳng nghiên cứu gì cả như ông đâu, chỉ để khoảng hai chục năm nữa – nếu tôi còn sống – nằm đưa võng, bảo đứa cháu nhỏ nào đọc cho tôi nghe rồi trả công nó bằng một cây cà rem cây. Tôi đã đếm trên năm chục bộ gồm trên trăm cuốn, mỗi cuốn trên hai trăm trang khổ lớn, mà giá rất rẻ: trước kia 20, 25đ, nay 30đ một cuốn. Như vậy thì nhà Tín Đức giữ độc quyền nữa thế kỉ nay cũng dễ hiểu; mà sẽ giữ độc quyền cho tới khi không còn ai đọc truyện Tàu nữa. Thành trì đó quả là vững vàng. Công lao chẳng tốn bao nhiêu: cứ "bổn cũ soạn lại" vì loại đó để cung cấp cho hạng bình dân thì điều tối kị là sửa văn cho mới, cho gọn. Tôi đoán rằng có bộ có thể in năm ngàn bằng cách đổ chì, rồi chất trong kho, bán lai rai, mỗi năm đều đều thu về món lợi đáng kể. ° ° ° Ai cũng biết tiếng nhà Tín Đức, nhưng còn một nhà khác cũng chiếm độc quyền về một loại sách bình dân, thì tôi thú thật với độc giả rằng làm nghề xuất bản mười ba năm rồi mà mãi đến gần đây mới được biết tên hiệu cùng địa chỉ. Cũng lại nhờ ông Tạ Trọng Hiệp nữa. Tôi xin hỏi quí vị độc giả có biết "thơ hậu" là gì không?... Vậy mà từ bên Paris, ông Hiệp gởi thư về nhờ tôi vô Chợ lớn lùng cho hết "thơ" và "thơ hậu" rồi gởi qua cho ông. Đọc thư tôi chẳng hiểu "thơ hậu" là cái quái quỉ gì. Theo địa chỉ ông dặn, tôi lùng mò, cuối cùng tới tiệm Hồng Dân đường Khổng Tử. Ủa, sao mà quen quen… À, phải, đã lâu lắm rồi, có lần tôi thấy bầy những tập như vầy ở vỉa hè dưới gốc dương trước Nhà việc Bình Đức, Long Xuyên và mấy nông dân từ trong Nhà việc ra, ngồi sụp xuống lựa mấy tập mang xuống ghe. Lần ấy, tôi chỉ nhìn qua vài nhan đề, đoán là những bài hát bình dân, chứ không ngờ là người ta gọi nó là thơ, thơ hậu. Hôm nay đứng trong một tiệm sách ở giữa một đại lộ tấp nập xe cộ này, lật vài tập ra coi, đọc ít câu thơ, tôi bồi hồi nhớ lại một thời xa xăm. Phải, chính những bài "thơ" này đây. Ba chục năm trước, tôi thường được nghe các "bạn" chèo ghe cho tôi ngâm nga cho đở buồn. "Ngâm", "hát", hay "nói", tiếng nào mới đúng? Ở Gò Quao, ở Chắc Băng, ở miền thứ, ở Giồng riềng… Hai ghe cặm sào dưới gốc cây bần, trên bờ là một căn nhà lá lụp sụp cất trên một chỗ lỏm, sau lưng là rừng tràm, hoặc rừng u minh. Giọng "nói thơ" của họ sao mà ảo não, nó thấm tới đáy lòng tôi, làm cho tôi nghẹn nghẹn ở họng, rưng rưng ở mắt. Họ nhớ Bình thuỷ, Cái răng, quê của họ, nơi nước thì trong, gạo thì trắng, phụ nữ thì đẹp; mà tôi, lạ chưa, cũng đâm nhớ những vườn xoài ở Thốt Nốt, vườn dứa Chợ Thủ. Những bài "thơ" này có ma lực gì đây? Phải chăng nó là hơi thở của miền Đồng Nai, miền Ba thắc? Chính họ, chính những chàng trai chất phác, đi đâu chỉ cần ôm theo một cái nóp đó, chính những chị em của họ vừa mạnh mẽ, vừa mềm mại, thẳng thắn và trung hậu, mơn mởn như những trái xoài bắt đầu ưng ửng đó mới là con cháu cụ Đồ Chiểu, cụ Thủ khoa Nghĩa, còn chúng ta, ngay cả Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, chúng ta đã âu hoá nhiều quá rồi, đã lai rồi. Coi bảng thư mục, tôi đếm được trên năm chục thứ thơ và thơ hậu, non bốn mươi thứ thơ lịch sử và dã sử. Thơ và thơ hậu (tức thơ tiếp theo: có thơ Vân Tiên rồi thơ Hậu Vân Tiên, cũng như truyện Tàu có Tam Quốc rồi Hậu Tam Quốc, kiếm hiệp có Cô gái Đồ Long rồi Hậu Cô gái Đồ Long) đều in thành những tập 16 trang bìa mỏng dính, loè loẹt, hình vẽ vụng về, ngây ngô: hoạ sĩ cấm ngay một cây thánh giá trên mộ Đạm Tiên. Hầu hết là thơ lục bát, ngoài ra là điệu "phú", điệu hò, điệu tuồng. Lời rất bình dân. Nội dung rút trong truyện Tàu, dã sử ta, truyện cổ tích, tiếu lâm, kể cả những việc xảy ra hồi nửa thế kỉ trước. Tôi hỏi ông chủ tiện sách: - Loại này bán chạy không? - Lai rai. Mỗi lần có người ở tỉnh lên mua, bán mỗi thứ vài ba chục tập. - Số bán mỗi năm có giảm đi không? - Vẫn bán được hoài. Tôi đoán là có giảm vì thấy tuồng hát bộ nhiều thứ đã hết mà không tái bản. Có gì mà không suy? Chỉ một thế hệ nữa thôi, còn ai đâu mà biết "nói" những thơ này, và nhà xuất bản tất phải chuyển qua loại khác. Tôi hỏi tiếp ông chủ tiệm: - Có khi nào người ở tỉnh lên hỏi mua sách của tôi không? - Không. Sách của ông tôi lấy về để bán cho các thầy các cô ở đây. Sao tôi ngốc vậy? Tôi có khi nào nghĩ tới họ khi viết đâu mà đòi họ mua sách của tôi. Hết thảy chúng ta đều viết "cho các thầy các cô". Chúng ta lo tiếp thu học thuyết của Raymond Aron, Sartre, kĩ thuật của Kafka, Joyce, mà 80-90% đồng bào của chúng ta chỉ ưa luân lí trong Lục Vân Tiên, kĩ thuật trong Bạch Viên tôn các. Không bao giờ chúng ta tìm hiểu cảm xúc, nhu cầu tinh thần của hạng bình dân cả. Chúng ta cố tình quên chúng đi. Họ lặng lẽ cày ruộng cho ta, chèo ghe cho ta, sống ngay bên cạnh ta mà ta với họ có vẻ như ở hai thế giới khác nhau. Họ có những mối tình khác xa mối tình cô Mai, cô Tuyết trên xa lộ, có những điệu hò, điệu hát khác xa điệu "cha cha" và "bi bốp" trong các quán trà. Còi xe in ỏi ở ngoài đường, tôi nhìn ra: vài thiếu nữ khoác tay Mĩ kiều nhởn nhơ qua lại. Báo đăng cuối năm nay lính Mĩ sẽ xuống miền Hậu Giang. Có lẽ không tới mười năm nữa đâu loai thơ, thơ hậu này sẽ không còn ai in nữa. Ông Tạ Trọng Hiệp lúc này mới nhờ tôi kiếm nó, e cũng trễ rồi đấy. Tôi quay lại, nói với ông chủ tiệm: - Xin ông cho tôi thêm mỗi thứ một bản nữa. Sàigòn 4-12-1966 -------------------------------- 1 Bây giờ là đường Tạ Thu Thâu. THÂN PHẬN CON NGƯỜI TRONG TRUYỆN KIỀU Truyện Kiều không phải là một truyện tình như Hoa Tiên, lại càng không phải như chuyện luân lý như Lục Vân Tiên, chỉ là một truyện tả thân phận con người – đúng hơn là thân phận của một người đàn bà tài sắc – trước định mạng. Điều đó ai cũng nhận ra, chính tác giả cũng đã nói rõ cho ta thấy ngay ở đầu truyện, rồi nhắc đi nhắc lại không biết mấy lần nữa ở trong truyện và cuối truyện. Nhưng một số người cứ coi nó là một truyện tình hoặc một chuyện luân lý rồi kẻ thì chê tà dâm ủy mị, là tư tưởng mâu thuẩn, kẻ thì khen trung hiếu tiết nghĩa, dung hoà được cả tam giáo. Một tác phẩm dài, nhưng tình tiết và bất hủ như truyện ấy thì đứng về phương diện nào mà xét cũng có lí ít nhiều: khen cố nhiên là phải mà chê thì cũng được; hoặc có ý muốn lồng vào nó những ý kiến của riêng mình, những tư tưởng của thời đại mình, gán cho nó một nội dung mới để cho nó thành phong phú thêm thì cũng chẳng có gì đáng trách. Đã chẳng có người khen Nguyễn Du khi viết: "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" là nắm được một chân lý huyền ảo: cái tâm gồm cả tam tài thiên, địa, nhân đấy ư? Đó cũng là một cách trả ơn hoặc góp công với cổ nhân. Nhưng muốn định giá trị cho đúng thì không thể quên mục đích của tác giả. Tác giả dùng nhan đề Đoạn trường tân thanh thì ta nên xét trước hết nỗi đoạn trường trong truyện đã, tức cái bi kịch thân phận hạng người tài sắc trước định mạng. Ôn lại tất cả những việc thường và biến xảy ra trong đời nàng Kiều, ta thấy như có một bàn tay nào đó sắp đặt trước mọi việc một cách chu đáo và cay nghiệt để bắt nàng chịu một kiếp đoạn trường kéo dài tới mười lăm năm. Sinh đôi với Thúy Vân mà tính tình nàng khác hẳn: Vân thì vô tình, vô tâm, gần như đần độn; Kiều thì sắc xảo, thông minh, đa tài, nhất là đa tình, đa cảm tới nổi đi tảo mộ, gặp một nắm mộ vô chủ cũng sụt sùi than: Rằng: "Hồng nhan tự nghìn xưa, Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu. Rồi coi Đạm Tiên là chị em với mình nữa: Hữu tình ta lại gặp ta, Chớ nề u hiển mới là chị em. Chính cái đa cảm khác thường ấy làm cho nàng nghĩ hoài tới Đạm Tiên, nằm mộng thấy Đạm Tiên và tin lời báo mộng của Đạm Tiên mà chuốc khổ vào thân sau này. Mà tính đó, nàng nhận của trời từ hồi mới sanh, nàng không được lựa chọn. Từ cái buổi "đạp thanh" đó, biến cố dồn dập tới: nàng gặp Kim Trọng, hai người yêu nhau, rồi tới vụ thằng bán tơ gây vạ trong gia đình nàng, toàn những việc trời xui nên cả để đưa tới việc nàng bán mình chuộc cha, đầu mối của mười lăm năm đoạn trường. Mới xét, ta tưởng việc bán mình chuộc cha ấy do tự nàng quyết định, nghĩa là không phải tại số, nhưng nhớ lại nàng đa cảm như vậy còn Thúy Vân vô tình như kia thì sự hy sinh cho gia đình về nàng chứ về ai? Tính tình nàng đã chỉ định hành động cho nàng, nàng đâu được tự do. Nàng chỉ tự do – tới một mức nào thôi – khi nàng thề thốt với Kim Trọng và chính lời thề thốt đó mà nàng tính trước sẽ tự tử để báo nghĩa với người tri kỉ, nên dặn dò Thúy Vân: Mai sao dù có bao giờ Đốt lò hương ấy, so tơ phím này: Trông ra ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về. Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai. Dạ đài cách mặt khuất lời, Rảy xin chén nước cho người thác oan. Lần đó là lần đầu tiên nàng có ý chống với định mạng. Sợ làm lụy cho song thân, nàng chỉ thực hiện ý đó khi thấy rõ Tú Bà, Mã Giám Sinh âm mưu với nhau để lừa gạt nàng. Nàng rút dao đeo sẵn trong người để tự sát, nhưng không chết. Tự sát trước mặt Tú Bà, Mã Giám Sinh, và đông đủ mấy ả mày ngài, mấy khách làng chơi thì làm sao mà chết được. Như vậy là tại số hay tại nàng? Nghiêm khắc mà bảo là tại nàng thì cũng có lí: nếu quyết chí tự tử thì thiếu gì lúc, sao lại nhè lúc đó? Nhưng muốn vậy phải bình tĩnh, có nhiều nghị lực, rất can đảm. Kiều đang từ nơi: Êm đềm trướng rũ màng che Mà đột nhiên bị đẩy vào cái nơi ong bướm qua lại: Giữa thì hương lửa hẳn hoi, Trên treo một tượng trắng đôi lông mày. Rồi phải nghe những lời "lạ tai" của mụ Tú Bà thì làm sao bình tĩnh được, nhất là hạng người đa cảm như nàng thường hành động vì cảm xúc. Nghị lực về tinh thần, chắc nàng có; còn can đảm về thể chất thì chưa chắc đã đủ. Cho nên việc tự tử hụt ấy cũng dễ hiểu: tại định mệnh khiến cho hụt, chứ không phải tại nàng. Huống hồ, sau đó, lúc nàng còn mê mang, Đạm Tiên lại hiện lên, khuyên nàng đừng cưỡng lại với định mạng: … "Nhân quả dở dang Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao. Số còn nặng nợ má đào Người dù muốn chết, trời nào đã cho! Lời là lời của Đạm Tiên nhưng xuất phát chính từ tiềm thức của Kiều. Hồn ma Đạm Tiên này trước sau chỉ thoáng hiện ba bốn lần mà đóng vai trò quan trọng hơn hết những nhân vật khác trong đời Kiều. Nó là "chị em" với Kiều, nó là phần "u", còn Kiều là phần "hiển", nó là tiềm thức của Kiều, nó là tay sai của định mạng "đưa lối", "đưa đàng", xui nàng "tìm chốn đoạn trường mà đi". Phần hữu thức, phần "hiển" của Kiều muốn chống với số mạng, muốn thoát cảnh đoạn trường thì phần tìềm thức, phần "u" đó ngăn lại, bắt nàng phải chịu cho hết nỗi khổ nhục mới thôi; và nàng nghe lời nó, cúi đầu thuận mạng: Vả trong thần mộng mấy lời, Túc nhân âu cũng có trời ở trong. Kiếp này trả nợ chưa xong, Làm cho thêm một nợ chồng kiếp sau. Nhưng phần hữu thức vẫn còn le lói, nàng vẫn còn muốn vùng vẫy để thoát khỏi cái lưới của định mạng. Cơ hội đưa tới, Sở Khanh dụ nàng đi trốn. Lúc đó tuy nàng nhận được rằng thái độ hắn có phần mờ ám: Nghe lời, nàng đã sinh nghi nhưng lại không đủ sáng suốt để hành động một cách hợp lí, rốt cuộc chỉ biết "cũng liều nhắm mắt đưa chân" rồi sa vào cái bẩy của mụ Tú. Vậy nàng như có một xu hướng tự hủy, càng vùng vẫy thì lưới càng thắt chặt lại. Thất bại lần nầy, nàng mất hết nghị lực, không còn phản kháng nữa, cam chịu tất cả: Uốn lưng thịt đổ, giập đầu máu sa, hơn nữa, còn năn nỉ Tú Bà cho nàng được sống nhục: Nhưng tôi có sá chi tôi, Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu. Thân lươn bao quản lấm đầu, Chút lòng trinh bạch từ sau cũng chừa. Đạm Tiên – tiềm thức của Kiều – đã hoàn toàn thắng. Thật não nùng. Bốn câu trên rât bình dị, không hề tô chuốt, như tự nhiên thốt ra, mà đưa được cái bi thảm trong thơ Việt Nam lên tới mức từ trước tới nay chưa một thi sĩ nào đạt được. Đã ghê tởm kiếp lầu xanh, đã không sợ chết thì tại sao lại phải năn nỉ như vậy, mâu thuẩn như vậy? Phần hữu thức bị che lấp, Kiều và Đạm Tiên bây giờ chỉ là một. Sau đó, nàng lại gặp Thúc sinh, một người xứng đáng, tha thiết yêu nàng, lại đủ uy thế bắt Tú Bà phải thả nàng ra. Cơ hồ nàng có thể rút tên ra khỏi sổ đoạn trường rồi, nhưng định mạng lại chưa cho: anh chàng đó sợ vợ mà người vợ lại rất ghen và rất hiểm, cho nên mặc dù Kiều đã đoán trước tai vạ sau này, lần đầu nàng muốn từ chối cuộc vuông tròn với Thúc Sinh – "giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng" -, lần sau lại khuyên Thúc Sinh về thú thực với vợ cả: Xin chàng liệu kíp lại nhà Trước người đẹp ý, sau ta biết tình nhưng Thúc Sinh nhu nhược, vẫn cứ giấu quanh, rốt cuộc, lưới định mệnh tạm lơi ra được một hai năm rồi lại thắt lại, và lần thứ nhì ta phải nghe tiếng đàn bạc mệnh của nàng: Bốn dây như khóc như than… Nàng xin Hoạn Thư được xuất gia. Lửa lòng tuy muốn tắt nhưng đường trần duyên nào đã tuyệt hẳn, vì Quan Âm các vẫn chỉ ở trong vườn họ Hoạn, Thúc Sinh lại mắc mưu vợ nữa, và Kiều quyết chí ra khỏi chốn "hang hùm nọc rắn" đó. Nếu bình tỉnh, sáng suốt cứ viết thư trần tình như lần trước (khi xin được xuất gia) thì Hoạn Thư tất kiếm cho nàng một ngôi chùa nào đó ở xa để Thúc Sinh khỏi có dịp gặp, như vậy có thể yên được; nhưng nàng lại quá hoảng sợ, vội giắt mình mấy món đồ kim ngân trong Quan Âm các để hộ thân rồi bỏ trốn. Ta có thể hiểu cho hoàn cảnh nàng lúc ấy, nhưng hành động mù quáng ấy cũng một phần lớn do: Ma đưa lới, quỉ dẫn đường, Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi. nghĩa là do tìềm thức, do xu hướng tự hủy nữa. Vì những đồ kim ngân ấy đã chẳng giúp cho nàng được gì mà lại đưa nàng vào thanh lâu một lần nữa: biết những đồ vật đó ở đâu, sư Giác Duyên không dám chứa nàng, khuyên nàng lánh qua nhà họ Bạc, không ngờ Bạc bà với Tú bà cùng "một tổ bợm già" với nhau. Sau hai lần vào thanh lâu, trên mười năm "ong qua bướm lại", gặp được Từ Hải là cái phúc lớn cho Kiều, ai chẳng tưởng từ nay nàng sẽ yên ổn, vinh hoa nữa là khác. Nhưng lại cũng không được lâu, cũng vẫn cái xu hướng tự hủy đó nó xui khiến nàng: Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng. và khuyên Từ Hải ra hàng để rồi ta lại phải nghe khúc bạc mệnh thứ ba dưới màn Hồ Tôn Hiến. Điều mà từ xưa tới nay người ta trách nàng Kiều nhiều nhất là sao không chết với Từ Hải mà còn nhục nhã hầu tiệc tổng đốc họ Hồ. Cay nhất là lời của Tản Đà: Hai hàng nước mắt hai làn sóng Nửa đám ma chồng nửa tiệc quan Hai câu đó chưa tàn nhẫn bằng hai câu sau: Tổng đốc ví thương người bạc mệnh, Tiền Đường chưa chắc mả hồng nhan! Gay gắt thật, nhưng chính Kiều có linh thiêng e cũng lúng túng, không biết tự biện hộ cách nào cho được. Nhưng Kiều đã có người bênh vực cho nàng: Bùi Giáng. Trong tập Một vài nhận xét về truyện Kiều (Tân Việt 1957 – trang 14) ông viết: "Nhiều nhà phê bình muốn rằng ở đây Kiều phải mắng vào mặt Hồ Tôn Hiến (…) Nàng chửi Hồ Tôn Hiến thì đã dễ rồi. Nàng có sợ đâu. Cái chết không còn sợ nữa là. Nhưng cái khổ đã đến cái độ mà con người không còn lên cái tiếng chửi mắng thông thường ấy của chúng ta nữa. Ta giận ta đập bàn, ta đỏ mặt, ta to tiếng, thì cái ấy đã thường. "Nhưng ở đây cái cung đàn bạc mệnh phản chiếu một đời người có khác. Vâng, ông bảo tôi thị yến dưới màn. Ông bảo tôi vặn cung đàn bạc mệnh cho ông nghe. Ông bảo tôi lấy ông, tôi xin lấy. Ông gán tôi cho thổ quan, tôi xin gật. Vì than ôi, người ta đã hiểu giùm chưa? Từ nay đi đâu, ở đâu, đứng ngồi đâu, mang một hình người hay bóng quỉ, ở địa ngục hay trần gian, lòng tôi đã chết hẳn rồi. Tôi có nhảy xuống Tiền Đường chỉ là vì sợ Đạm Tiên trách sao lại sai hẹn mà thôi. Kể ra thì không cần phải nhảy". Vong linh của nàng Kiều cũng đã được thỏa mà lời thơ của Tố Như thật cũng đã được hiểu một cách thông minh. Quả thật cái "tân thanh của đoạn trường" chưa lúc nào thấm thía bằng lúc nầy: Một cung gió tủi mưa sầu Bốn giây giỏ máu năm đầu ngón tay! Nhưng đọc lại cả đoạn từ khi Từ Hải chết đến khi Kiều bị áp thẳng xuống thuyền thổ quan, tôi thấy tâm trạng nàng phức tạp, thay đổi chứ không một mực như người mất hồn, tuy còn sống mà như đã chết. Trước hết, nàng muốn tuẩn tiết theo Từ Hải: Mặt nào trông thấy nhau đây Thà liều sống chết một ngày với nhau! Dòng thu như xối cơn sầu Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên. Vậy thì đâu có phải chỉ vì sợ sai hẹn với Đạm Tiên mà Kiều tự tử. Tuy nhiên ta phải nhận ý muốn quyên sinh lần này không mạnh như lần trước. Hữu thức của nàng muốn chống lại lần nữa với định mạng, song chỉ chống một cách yếu ớt, chỉ "cũng gieo đầu một bên" thôi. Nàng như mất cả sinh lực rồi. Tất nhiên là như vậy không chết được. Phản ứng đầu tiên đó qua, nàng lo chôn chồng; rồi mặc dầu "giọt ngọc tuôn dào", nàng lại muốn sống, cũng chỉ muốn một cách yếu ớt thôi. Cho nên đêm đó, sau khúc đàn "gió tủi mưa sầu" nàng ngỏ ý với Hồ xin được về với cha mẹ: Thân tàn được thấy gốc phần là may. Vậy lời của Tản Đà tuy nghiêm khắc mà có phần đúng. Có thế mới hợp với tâm lí. Sau mười lăm năm hoa trôi nước chảy, nàng không còn cái nhiệt tình, cái thanh khiết buổi đầu nữa, nàng hóa ra tầm thường – con người, ai mà chẳng vậy? – nhưng trước sau ta vẫn thấy nàng hành động hoàn toàn do cảm xúc, có thiện tâm mà lại nhu nhược, nhiều khi mù quáng, bị tiềm thức đưa dắt, dù tính gì thì tính, rốt cuộc vẫn không chống nổi với định mạng. Vì thực là chua xót! Chỉ còn một ngày nữa là sổ đoạn trường được rút tên ra, mà nàng rút ra vẫn không nổi, nhất định phải đúng hẹn với Đạm Tiên ở sông Tiền Đường mới được, nghĩa là lại tuân theo tiềm thức một lần nữa. Cái giá trị nhân bản của truyện ở đó mà bi kịch trong truyện cũng ở đó. Ở chỗ muốn chết mà chết không được. Thành thử suốt mười lăm năm, nàng như sống trong một giấc mộng, bị hồn ma Đạm Tiên mê hoặc, bị tiềm thức chi phối, không lúc nào làm chủ được mình, bẩm tính thông minh mà mấy lần quyết định mù quáng, hai lần tự tử chỉ là để lún thêm vào cõi nhục, bốn lần vùng vẫy – khi trốn theo Sở Khanh, khi mưu hạnh phúc với Thúc sinh, khi trốn nhà Hoạn Thư, khi khuyên Từ Hải ra hàng – thì mỗi lần như chỉ để tự hủy thêm tấm thân, để cho lưới định mạng thắt chặt thêm nữa. Tiềm thức của chúng ta đôi khi hướng dẫn ta rất linh, có thể báo trước tai nạn để ta kịp thời tránh, tiềm thức của nàng chỉ đưa đẩy nàng vào những hoàn cảnh tủi nhục, ê chề, những tai biến vô lí, khiến cho nàng y như con thiêu thân, cứ đâm đầu vào chỗ chết. Ngay những đức đáng quí của nàng – như hiếu nghĩa, thông minh – cũng chẳng giúp gì cho nàng mà chỉ làm hại nàng: vì có hiếu nên mới bán mình, vì thông minh mới đoán được nghĩa hai chữ "tích Việt", mới mấy lần tính cách vùng vẩy; và cũng vì hiếu nghĩa thông minh mới được Thúc Sinh, Từ Hải gắn bó, rồi chính vì cái gắn bó đó mà gặp thêm mấy bước đoạn trường. Mà cái kiếp đoạn trường đã định lúc nào hết thì tới lúc đó mới hết, sớm một ngày cũng không được. Khi nó hết thì dễ dàng làm sao! Nàng bổng như tỉnh mộng: Triều đâu nổi tiếng đùng đùng, Hỏi ra mới biết là sông Tiền Đường. Như lời thần mộng rõ ràng, Này thôi hết kiếp đoạn tràng là đây! Lần tự tử thứ ba này không định trước mà thành. Nàng bình tỉnh, đủ sáng suốt, nghị lực, can đảm sửa soạn cho lúc chết, viết bức tuyệt bút để lại, mở rèm, tạ tội với Từ Hải, nhìn trời nước rồi thản nhiên, gần như vui vẻ gieo mình xuống sông. Trước sau chỉ trong một lát. Ôi! Đạm Tiên, hồn nàng lúc này đã thỏa? Thực ra truyện kết thúc ở đây. Phần tái hợp ở sau chỉ là thêm vô cho có hậu và để răn đời "chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài". Tôi chưa thấy một tác phẩm nào tả thân phận con người một cách bi đát như vậy. Chúng ta hoàn toàn bị trói chặt vào định mạng, nó nằm trong bản tính tiềm thức của ta, trói chặt ngay từ lúc mới sanh. Chúng ta tưởng được tự do hành động, mà thực sự là bị tiềm thức xô đẩy vào những bước đường ta muốn tránh. Bắt phong trần phải phong trần, Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi. Biết là mấy lần, chứ đâu phải một lần! Bi đát nhất là cái định mạng đó cứ nhè các bực tài tình mà đầy đọa. Những hạng như Thúy Vân thì được sung sướng, hạng như Thúy Kiều mới bị chìm nổi: Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy (Phạm Quí Thích) Nhưng chính cái lụy đó, cái nhục đó lại là cái vinh của con người. Đọc truyện Kiều, có ai yêu được Thúy Vân, hay chỉ có những người khóc cho nàng Kiều, làm thơ vịnh nàng Kiều, mơ mộng nàng Kiều, khấn vái nàng Kiều; và đồng thời với Nguyễn Du, biết bao người được cho "thanh cao" hơn tiên sinh, mà đến nay còn gì, có ai nhắc tới, nhớ tới? Vậy thì không bị cái "thiên cổ lụy kia, tất không có cái "tân thanh" này, cái "tân thanh" đã trên trăm rưởi năm rồi vẫn cứ mỗi ngày một vang thêm, vì tác phẩm của tiên sinh đã được dịch mấy lần ra tiếng Pháp, rồi tiếng Nhật, tiếng Trung Hoa, tiếng Nga, tiếng Đức, tiếng Anh… Hương hồn Tố Như tiên sinh có linh thiêng tất không còn thắc mắc về cái điều "tam bách dư niên hậu" nữa, có thắc mắc chăng, theo tôi, chỉ ở điểm này: cái định mạng đố tài kia, ta nên oán nó hay không nên oán? Viết ngày 5-5-1965 nhân kỉ niệm hai trăm năm Nguyễn Du ra đời. CÁCH DÙNG TIẾNG "ĐÂU" TRONG TRUYỆN KIỀU Ngoài giá trị vô song về mặt văn học, truyện Kiều còn có một giá trị rất lớn về ngôn ngữ học mà chúng ta mới nhận chân và bắt đầu khai thác từ mấy chục năm nay. Khi soạn bộ Tự Điển V.N. và ngữ pháp V.N., muốn qui định ý nghĩa của những hư từ, bán hư từ, ta phải dẫn văn thơ cổ nhân làm tỉ dụ, mà trong những áng văn thơ nôm còn lưu truyền tới nay, truyện Kiều có giá trị nhất về cả hai phương diện lượng và phẩm: lượng vì nó vừa dài lại vừa tả nhiều tình tiết, cảnh ngộ, cảnh vật, do đó giúp ta được nhiều tỉ dụ 1; phẩm vì cách dùng tiếng của Nguyễn Du đúng hơn hết mà lời của ông lại có giọng bình dị, không chịu ảnh hưởng quá nhiều của Trung Hoa như Hoa Tiên hoặc Cung Oán ngâm khúc. Hội Khai Trí Tiến Đức đã nhận thấy như vậy nên trong bộ Việt Nam tự điển đã trích nhiều câu trong truyện Kiều để dẫn vào phần Văn liệu. Nhưng có lẽ vì thiếu người, thiếu tiền, Hội chỉ mới kịp sơ thảo thôi, hình như nhớ đâu trích dẫn đó, hoặc không lục soát kĩ để tìm đủ các nghĩa và cách dùng của mỗi tiếng. Theo chỗ chúng tôi biết, người đầu tiên có công lục soát ấy là Phan Khôi. Trong cuốn Việt ngữ nghiên cứu (Nhà xuất bản Văn nghệ, 1955), chương "Hư tự trong truyện Kiều", ông viết: "Dùng hư tự 2, theo tôi thấy, truyện Kiều của Nguyễn Du dùng đúng hơn hết, ta lấy đó làm gương mẫu. Tôi bèn đọc cả cuốn truyện, gặp mỗi hư tự thì lục riêng từng chữ ra với nhau, có chữ dùng năm ba lần hay mươi, mười lăm lần, có chữ dùng đến năm bảy chục lần. Xong rồi tôi soát đi soát lại từng chữ, qui nạp nó vào một nghĩa hay mấy nghĩa và tìm cái qui luật ứng dụng nó…" (trang 130) Dùng phương pháp ấy, ông phân tích được ý nghĩa và cách dùng những tiếng: bao, bây, bấy, đâu, dầu, đưa ra được nhiều nhận xét mới mẻ và gợi cho chúng ta suy nghĩ, tìm tòi thêm. Chính vì đọc chương "Hư tự trong truyện Kiều" đó mà chúng tôi mới có bài viết này. Số là đọc đoạn ông viết về tiếng Đâu, chúng tôi thấy những nhận xét của ông tuy đại khái thì đúng song có chỗ chưa được minh bạch. Nhưng đọc kĩ lại những chỗ lập luận của ông, chúng tôi không tìm ra được cái lẽ vì đâu mà đoạn ấy không làm cho chúng tôi hoàn toàn mãn ý. Rốt cuộc chúng tôi đành bỏ lập luận của ông, đi lại bước đường của ông đã đi, nghĩa là lục hết những tiếng đâu trong truyện Kiều để rán tìm ý nghĩa và cách dùng của nó; và chúng tôi thấy Nguyễn Du đã dùng tiếng ấy khoảng chín chục lần, theo những nghĩa dưới đây: I. "ĐÂU" diễn tả ý bất định. Trong trường hợp này chỉ gặp độ mười lần trong truyện Kiều: 1. Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào 1170 3 2. Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh 2020 3. Dón chân đứng núp độ đâu nửa giờ 1996 4. Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này 406 5. Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu 1582 Mấy câu trên là những câu thường, không phải là câu hỏi hoặc câu cảm thán. Trong hai câu đầu, "đâu" trỏ một nơi nào đó. Câu 3 "đợi đâu nửa giờ" nghĩa là đợi khoảng nửa giờ. Câu 4 "cũng đâu thế này" là cũng đại khái như thế này. Câu "những lời đâu đâu" là những lời bâng quơ, không có căn cứ. Vậy "đâu" hoặc "đâu đâu" trong những tỉ dụ đó có một nghĩa chung là trỏ cái gì bất định. 6. Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy 1517 7. Lạ tai nghe chửa biết đâu 947 8. Khắp thế giới đâu đâu cũng có chiến tranh (câu này chúng tôi đặt ra, truyện Kiều không dùng "đâu dâu" theo nghĩa khắp mọi nơi như vậy). Ý nghĩa câu 6 và 7 là phủ định hẳn hòi, mà phủ định là vì có tiếng "chẳng" (câu 6), tiếng "chửa" (câu 7), còn tiếng "đâu" trong hai câu vẫn chỉ có cái nghĩa không xác định (indéterminé): (chẳng) đi đâu = (chẳng) vì một lẽ nào; (chửa) biết đâu = (chửa) biết điều này hay điều khác. Rõ ràng nhất là câu 8 diễn ý khẳng định, "đâu đâu" nghĩa là nơi này hay nơi khác = ở mọi nơi. So sánh hai tỉ dụ này: a- đi đâu cũng gặp nó b- không tìm đâu ra nó, thì ta thấy "đâu" vì có nghĩa là khắp nơi, nên ở trong một câu khẳng định (a) thì làm sao cho ý khẳng định mạnh lên, mà ở trong một câu phủ định (b) thì làm cho ý phủ định mạnh lên; chứ bản chất nó, trong trường hợp 4 này, không có nghĩa khẳng định mà cũng không có nghĩa phủ định, chỉ có nghĩa là nơi này hay nơi khác, là khắp nơi, rốt cuộc cũng là cái nghĩa bất định ° ° ° II. "ĐÂU" dùng trong một câu hỏi, nghĩa là: ở chỗ nào? Tỉ dụ: 1. Hỏi rằng "Này khúc ở đâu?" 2573 2. Nàng trong khê các đâu mà đến đây? 296 3. Phận tôi đành vậy, vốn người ở đâu? 1147 Trong truyện Kiều chúng tôi thấy có năm, sáu tiếng "đâu" dùng theo nghĩa đó. Câu 2 "đâu mà đến đây" = ở đâu đến đây: lược trạng từ ở. Câu 3 "vốn người ở đâu", "đâu" từ cái nghĩa ở chỗ nào? chuyển ra cái nghĩa để làm gì? như ta thường nói: "Túi khôn của anh để đâu?" = để làm gì mà không đem ra dùng? "Đâu" trong trường hợp này đều đi với một động từ. ° ° ° III. "ĐÂU" dùng trong một câu vừa có ý hỏi vừa có ý phủ định mà ý phủ định lấn ý hỏi. Trường hợp này dùng nhiều nhất, trên bốn chục lần. "Đâu" cũng đi với một trạng từ 5thường là đứng sau, cũng có khi đứng trước mà không phải là do sự bó buộc vì luật bằng trắc trong thơ. a- Đứng sau trạng từ (trên ba chục lần). Tỉ dụ: 1. Còn tình đâu nữa, là thù đấy thôi 3156 2. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ? 1244 3. Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa! 336 4. Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu! 262 Trong những câu đó, ý hỏi đã rất nhẹ, gần như chỉ còn ý phủ định: Còn tình đâu nữa = không còn tình nữa; cảnh có vui đâu = cảnh không vui; trẻ thơ đã biết đâu = trẻ thơ không biết gì; thấy gì nữa đâu = không thấy gì nữa. Câu 2 có ý hỏi mạnh hơn ba câu kia là vì có thêm tiếng "bao giờ"; bỏ tiếng này đi thì ý hỏi sẽ chỉ còn rất nhẹ, mà để nó thì ý hỏi cũng chỉ ngang ý phủ định thôi. Chính vì ý phủ định lấn ý hỏi, nên cuối những câu 1, 3, 4 ta không nên đáng dấu hỏi (?) mà nên đánh dấu cảm thán (!). Ngay như câu 2, đánh dấu cảm thán cũng vẫn được. Tuy nhiên ý hỏi không phải là mất hẳn, mà hỏi thì có nghĩa là nghi ngờ, cho nên những câu đó không phủ định mạnh bằng những câu dùng tiếng "không", chẳng hạn: không còn tình nữa; người buồn cảnh cũng không vui; trẻ thơ không biết gì; không trông thấy gì nữa. So sánh với Hoa ngữ, chúng ta thấy rằng câu "Quỉ thần an năng tri thử sự" xây dựng cũng y như câu "Quỉ thần không biết được việc đó" của ta. Về điểm ấy, hai ngữ pháp giống nhau. b. Đứng trước trạng từ (chúng tôi chỉ đếm được bốn lần, có thể còn bỏ sót, nhưng dù sao, trường hợp này cũng hiếm). 1. Nguyên người quanh quất đâu xa 147 2. Cũng người một hội một thuyền đâu xa 202 3. Tin xuân đâu dễ đi về cho năng 368 4. Nhân duyên đâu lại còn mong 6 1927 Cũng như trường hợp nêu trên (đứng sau trạng từ), ý phủ định lấn hẳn ý hỏi: đâu xa: không xa; đâu dễ = không dễ; đâu lại còn mong = không còn mong. Đặt tiếng "đâu" trước trạng từ như vậy, không phải là muốn trọng luật bằng trắc, vì trong lời nói hằng ngày, chúng ta thường nghe: Tôi đâu muốn vậy – việc đó đâu phải dễ - Đâu có xa gì… Ý phủ định trong trường hợp (b) này hình như có mạnh hơn trong trường hợp (a) một chút. Tựu trung về ý nghĩa, trường hợp này cũng như trường hợp trên: "đâu" từ cái ý bất định biến ra ý hỏi, rồi biến lần nữa, thành ý phủ định. Luật đó chúng ta có thể kiểm soát được: tìm những câu tạo như những tỉ dụ trên (nghĩa là dùng tiếng "đâu" có ý hỏi mà như phủ định), nhưng có thêm một tiếng phủ định nữa, xem nghĩa có hóa ra khẳng định không, vì hai phủ định thành một khẳng định. Trong truyện Kiều chúng tôi kiếm được hai câu (có thể chúng tôi bỏ sót vài ba câu thôi, chứ không nhiều), xin chép lại đây: 1. Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh? 158 (= phải biết chứ) 2. Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao? 444 (= sẽ là chiêm bao) Hai câu ấy đều có ý khẳng định cả. Tất nhiên, tùy cách cấu tạo của mỗi câu, tùy những tiếng trong câu, mà cái ý khẳng định, câu 1 còn chứa thêm ý trách móc; câu 2 diễn thêm ý nghi ngờ, tuy khẳng định nhưng chỉ có thể là chiêm bao thôi, chứ không nhất định là chiêm bao, vì trong câu dùng tiếng "biết đâu" mà tiếng này trỏ sự phỏng đoán (biết đâu = biết đâu chừng). Ta thấy câu 2 tạo thêm một ngữ pháp giống với Trung Hoa. Chẳng hạn câu: "Tái ông thất mã, an tri phi phúc" cũng dùng tiếng "an tri" tương đương với "biết đâu" và cũng dùng tiếng "phi" tương đương với "chẳng", mà dịch câu đó ra tiếng Việt, ta phải nói: "Ông lão ở biên cương mất ngựa, biết đâu chẳng là phúc". Vậy ta có thể tin rằng luật nêu trên là đúng: ý hỏi biến ra ý phủ định. Ngược lại, chúng tôi còn thấy ý phủ định và ý bất định dùng trong câu hỏi. Những tiếng không, chẳng, chưa, vốn là những tiếng phủ định: Nó không ăn Nó chẳng uống Nó chưa làm rồi lần lần biến ra ý hỏi: Nó ăn hay không ăn? -> Nó ăn hay không? -> Nó ăn không? Nó uống hay chẳng uống? -> Nó uống hay chẳng? -> Nó uống chăng 7 ? Nó làm hay chưa làm? -> Nó làm hay chưa? -> Nó làm chưa? Thì ra có một liên lạc mật thiết giữa ý hỏi và ý phủ định: hỏi thành phủ định, phủ định thành hỏi; hai ý đó chuyển lẫn cho nhau và chúng ta có thể viết: hỏi ∞ phủ định. ° ° ° IV. "ĐÂU" dùng với một ý hỏi rất nhẹ, nhất là với ý gần như hoang mang, ngạc nhiên, cảm thán. Dùng như vậy, "đâu" thường biểu thị nhiều tình cảm. Trường hợp này rất thường gặp trong truyện Kiều, trên ba chục lần; có một điểm giúp ta phân biệt được với trường hợp III là tiếng "đâu" không đi với một trạng từ mà thường đi với một thể từ (nom). Tỉ dụ: 1. Duyên đâu chưa kịp một lần trao tơ 540 2. Gió đâu dịch bức mành mành 213 3. Khúc đâu Hán, Sở chiến trường 473 4. Kiệu hoa đâu đã đến ngoài 778 5. Người đâu gặp gỡ làm chi? 181 6. Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi 2169 7. Thoát đâu thấy một tiểu kiều 187 8. Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay 120 Những câu trích ấy tuyệt nhiên không có nghĩa phủ định, có thể là hàm ý một chút cái nghĩa hỏi, nhưng là ngạc nhiên mà hỏi, hay hoang mang mà hỏi. Câu 1 diễn cái ý chua xót; câu 2 trỏ cái ý hơi ngạc nhiên; câu 3, 4 có giọng cảm thán; câu 5 có nghĩa hỏi nhưng nghĩa ấy do bốn tiếng cuối "gặp gỡ mà chi", còn tiếng "đâu" cũng như ở câu 1 thôi; ba câu cuối khác hẳn với những câu trên, "đâu" đi với "bỗng, thoắt, phút", chỉ còn diễn cái ý ngạc nhiên. Tới đây, ta có thể bổ túc luật ở đoạn III: tiếng "đâu" trỏ một ý bất định, đã biến nghĩa, diễn cái ý hỏi rồi ý phủ định, sau cùng lại biến một lần nữa, diễn cái ý ngạc nhiên, cảm thán, và ta có thể viết: Chúng tôi còn nhận thấy luật đó chỉ đúng với tiếng đâu, mà còn đúng cả với những tiếng khác cũng trỏ một ý bất định, như ai, chi, gì, nào, sao. Chúng tôi xin dẫn chứng: a. Ý bất định: 1. Ai có thân nấy lo, ai có bò nấy giữ (tục ngữ) (Ai = không trỏ người nào) 2. Làm chi cũng chẳng làm chi (tục ngữ) 3. Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao (chi và gì = bất kì cái gì) 4. Muốn cách nào cũng được (= bất kì cách nào) 5. Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi 1274 (= làm bất kì cách nào cho sỉ nhục…) b. Ý hỏi: 1. Nào người tích lục tham hồng là ai? 90 2. Vào luồn ra cuối, công hầu làm chi? 2468 3. Nhà huyên chợt tỉnh hỏi "Cơn cớ gì?" 224 4. Mặc lòng nghĩ lấy, muốn xin bề nào? 2546 5. Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên 2600 c. Ý phủ định nhiều hơn ý hỏi: 1. Một cây một buộc, ai giằng cho ra? 1288 (= không ai giằng cho ra) 2. Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình 1542 (= không tốt) 3. Thiệt đây mà có ích gì đến ai? 340 (= không ích gì) 4. Nỗi gần nào biết đường xa thế này? 1790 (= không biết) 5. Còn mang lấy kiếp má hồng được sao? 798 (= không được) Trong trường hợp (c) này, nếu dùng thêm một tiếng phủ định nữa thì hóa ra khẳng định (cũng như trường hợp III của tiếng đâu); tỉ dụ: 1. Ai mà chẳng hiểu điều đó? (= ai cũng hiểu) 2. Làm chi mà chẳng được (= làm gì cũng được) 3. Anh bảo gì mà nó chẳng nghe? (= bảo gì thì nó cũng nghe) 4. Vẻ nào chẳng mặn, nét nào chẳng ưa? 1282 (= vẻ nào cũng mặn, vẻ nào cũng ưa) 5. Nghĩ mình chẳng hổ mình sao? 3103 (= thật hổ mình) d. Diễn một cảm thán: 1. Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay! 326 (ý mừng và cảm động) 2. Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây 282 (ý mừng) 3. Những mình nào biết ý xuân là gì? 1240 (ý buồn tủi) 4. Nào hay con tạo trêu ngươi (Cung oán) (ý buồn và tức) 5. Còn nhiều nợ lắm sao mà thác cho! 1269 (ý than thở) Xét vậy thì chúng ta thấy hình như từ cái ý bất định tới cái ý hỏi, rồi từ ý hỏi, thêm ý phủ định, cuối cùng thêm ý hoang mang, ngạc nhiên, cảm thán, có một sự liên lạc nào đó trong trình tự tư tưởng, cho nên chúng ta mới tự nhiên dùng một tiếng (như đâu, hoặc ai, chi, gì, nào, sao…) để diễn tất cả những ý đó. ° ° ° Đấy, trong khoảng chín chục câu Kiều dùng tiếng "đâu" chúng tôi phân tích được những ý nghĩa và công dụng kể trên mà chúng tôii xin tóm tắt lại như sau: 1. Mới đầu tiếng "đâu" trỏ cái gì bất định. Nó dùng trong một câu thường, không phải là câu hỏi, và có thể đi với một trạng từ hay một thể từ. 2. Rồi dùng trong một câu hỏi, nó chỉ có cái ý hỏi, chứ không diễn một ý gì khác; trong trường hợp này nó đi với một trạng từ và luôn luôn đứng sau trạng từ. 3. Khi nó phát biểu thêm ý kiến (nghĩa là dùng trong một câu có phát biểu ý kiến) thì cái nghĩa của nó có giảm đi, mà thêm nghĩa phủ định, nghi ngờ. Trong trường hợp này, nó cũng đi với trạng từ, đứng sau trạng từ nhiều hơn đứng trước. 4. "Đâu" vẫn còn giữ một chút ý hỏi nhưng mất ý phủ định và thêm cái ý ngạc nhiên, cảm thán. Nó phát biểu tình cảm hơn là ý kiến. Trong trường hợp này, nó thường đi với một thể từ. Sự biến nghĩa của nó theo trình tự nào, chúng ta không thể căn cứ vào đâu mà quyết định được, chỉ có thể đoán rằng nghĩa 1 hoặc nghĩa 2 xuất hiện trước 8 , nghĩa 3 và nghĩa 4 xuất hiện sau. ° ° ° Phân tích và qui nạp như vậy rồi, chúng tôi đọc lại chương "Hư tự trong truyện Kiều" của ông Phan Khôi và thấy kết quả của ông và của chúng tôi giống nhau, nhưng những nhận xét đưa tới kết quả thì khác nhau. Về tiếng đâu ông ra hai luật: Luật A. - "Đâu khi đi với một động từ 9, phó từ, hình dung từ nào có sức làm cho ý hỏi của nó mạnh lên thì nó thành ra ý "không" hay là ý "phủ định" (trang 136) Mới đọc luật ấy chúng tôi thắc mắc tự hỏi: Trong những câu: Còn tình đâu nữa, là thù đấy thôi 3156 Nguyên người quanh quất đâu xa 147 hoặc trong câu này mà ta thường nghe nói: Sự hi sinh của chiến sĩ đâu đã sút giảm? thì tiếng nào làm cho ý hỏi mạnh lên? Xét lại thì chúng tôi thấy luật này thuộc trường hợp III của chúng tôi. Ý hỏi nhẹ đi chứ không phải mạnh lên; mà sở dĩ nó nhẹ là vì trong những câu đó, người nói không phải hỏi mà thôi, mà còn phát biểu thêm ý kiến, ý kiến phủ định hoặc nghi ngờ. Vã lại cứ xét câu: Hiếu tình có lẽ hai bề vẹn hai? 730 chúng ta thấy chẳng cần dùng tiếng "đâu" hoặc "nào" để hỏi, mà dùng tiếng "có lẽ" làm cho ý hỏi nhẹ đi mà nghĩa cũng là phủ định. Ngược lại, có trường hợp "đâu" đi với những tiếng làm cho ý hỏi mạnh lên như câu: Mày có biết nó ở đâu không? (có… không? làm cho ý hỏi mạnh hơn, gắt lên) mà câu không có ý phủ định, chỉ có ý hỏi. Như vậy thì lối giảng của Phan Khôi chưa thật thỏa đáng. Luật B. – "Chữ đâu phủ định khi nó đi theo sau một chữ phủ định khác thì nó làm cho ý phủ định của câu càng gắt hơn, - nhưng có đứng trước một phủ định khác thì mới kể là hai phủ định làm thành ra một khẳng định để chỉ cái khả năng tính" (trang 137) Rất đúng mà cũng thật mới mẻ. a. Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy 1517 "Đâu" đứng sau tiếng phủ định "chẳng" làm cho ý phủ định của câu gắt hơn. b. Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh 1158 "Đâu" đứng trước tiếng phủ định "chẳng", kể là hai phủ định làm thành một khẳng định. Cơ hồ như chỉ đảo ngược vị trí của tiếng "đâu" mà ý câu cũng đảo ngược lại. Tại sao lại lạ lùng như vậy? Chỉ tại Phan Khôi cho "đâu" đi với "chẳng" và xét vị trí hai tiếng đó đối với nhau. Sự thực, cả trong hai câu ấy, "đâu" với "chẳng" phải tách rời nhau ra; "đâu" đi với đi (đi đâu) và "chẳng" đi với đi trong câu (a), đi với biết trong câu (b). Phân tích như vậy, chúng ta sẽ thấy "đâu" trong câu (a) thuộc trường hợp I và "đâu" trong câu (b) thuộc trường hợp III của chúng tôi; và chúng ta không còn thấy gì là lạ lùng, khó hiểu nữa. Nhưng có lẽ Phan Khôi cũng đã nhận thấy như vậy; chỉ vì ông viết tắt, không phân tích tỉ mỉ, nên luật B tuy đúng mà cách phô diễn làm cho ta bỡ ngỡ, khó hiểu, thế thôi. Tóm lại, nếu chúng ta muốn sửa lại luật của Phan Khôi cho thêm rõ ràng thì chúng tôi xin đề nghị sửa như vầy (sau khi sắp đặt lại cho có thứ tự): Luật I. – "Đâu" vốn trỏ cái gì bất định, có nghĩa là chỗ này hoặc chỗ khác, bất kì chỗ nào, mọi nơi; như vậy đứng trong một câu khẳng định nó làm cho ý khẳng định mạnh lên mà đứng trong một câu có ý phủ định cũng làm cho ý phủ định mạnh lên. Luật II. – "Đâu" đứng trong một câu bày tỏ ý kiến thì vừa có ý hỏi, vừa có ý phủ định, do đó ý hỏi của nó nhẹ đi. Cũng trong một câu như vậy, nếu chúng ta thêm một tiếng phủ định nữa thì thành hai ý phủ định, tức bằng một khẳng định, nhưng khẳng định mà không quyết liệt, vẫn còn ý nghi ngờ, vì "đâu" vẫn có chút ý hỏi mà hỏi thì có nghĩa là nghi ngờ nhiều hay ít. ° ° ° Chúng tôi chưa dám chắc rằng sự phân tích của chúng tôi đã đúng, sở dĩ viết bài này chỉ để chất chính cùng độc giả. Phải có nhiều người cùng nghiên cứu rồi mới có thể châm chước ý kiến số đông mà tạm quyết định được. Nhưng công việc phân tích này cũng giúp chúng tôi rút được hai nhận xét dưới đây. 1- Môn ngữ học là một môn phức tạp. Tìm ra được một định lệ thật là khó khăn mà có khi còn táo bạo nữa vì có thể cùng một tiếng mà mỗi người hiểu theo một nghĩa. Hiểu theo hai nghĩa khác nhau mà phân tích thì kết quả khác hẳn nhau rồi, có khi ngược nhau nữa. Nhất là trong thi ca, nhiều khi phải tìm hiểu nghĩa rồi mới định được vị trí của mỗi tiếng mà phân tích được (vì phần từ pháp – morphologie – của mình không có gì). Chẳng hạn ở trên chúng tôi đã phân biệt tiếng "đâu" đi với trạng từ (trường hợp II, III) và tiếng "đâu" đi với một thể từ (trường hợp IV). Nhưng nhiều khi nó đứng sau một thể từ và trước một trạng từ: Gió đâu sịch bức mành mành 213 Tin xuân đâu dễ đi về cho năng 368 thì làm sao biết được nó đi với tiếng nào? Đành phải tìm hiểu nghĩa trong câu. Trong hai câu trên, ý nghĩa rõ ràng, ta phân tích được: câu trên, "đâu" đi với "gió", hơi có ý ngạc nhiên; câu dưới, "đâu" đi với "dễ": tin xuân đâu dễ = tin xuân không dễ gì. Nhưng còn những trường hợp khó phân tích vì hiểu cách nào cũng có lí ít hay nhiều, như câu: Nhân duyên đâu lại còn mong 1927 thì nên cho "đâu" đi với "nhân duyên" hay đi với "lại"? Rồi như câu này nữa: Tiếc cho đâu bỗng lạc loài tới đây? 1067 Theo hình thức của câu thì "đâu" đi với "lạc loài" và thuộc vào trường hợp III của chúng tôi. Nhưng thực ra không phải vậy: câu đó không có nghĩa phủ định mà có nghĩa hỏi; và ta phải hiểu rằng "đâu" đi với một tiếng khác, tiếng người hay ở hiểu ngầm (tiếc cho đâu = tiếc cho người đâu hoặc cho ở đâu), mà nếu cho nó đi với tiếng người thì phải sắp vào trường hợp IV, cho nó đi với tiếng ở thì phải sắp vào trường hợp II. Hiểu cách nào cũng được, thực rắc rối. Cho nên có người nói rằng trong ngôn ngữ chỉ có cái khái quát. Thật đúng quá. 2 – Mỗi tiếng, nhất là những hư từ, bán hư từ, tuy có một tính cách nhất định, không thể lầm lẫn với tiếng khác, nhưng nghĩa của nó cơ hồ như không nhất định, có nhiều tiểu dị, biến thái tùy những tiếng đứng trước đứng sau nó, có khi tùy nghĩa cả câu, có khi chỉ tùy giọng người nói thôi. Là vì cảm xúc, ý tưởng của loài người thì rất nhiều mà dụng ngữ để diễn tả thì thiếu thốn. Một người như Nguyễn Du, cảm xúc và ý tưởng phong phú, tế nhị gấp mấy người thường mà dụng ngữ để phô diễn thì cũng chỉ có chừng đó; vậy mà tiên sinh diễn được hết, diễn khéo hơn những người khác, chỉ nhờ tiên sinh sắp đặt những tiếng với nhau trong một câu để cho tiếng này chiếu vào tiếng khác, thanh âm này ảnh hưởng với thanh âm nọ, và ta có cảm tưởng rằng Việt ngữ nhờ tiên sinh mà phong phú thêm lên, tinh xác thêm lên, tế nhị hơn lên. Thiên tài ở chỗ đó, và đó là điểm ta nên để ý tới mà đem ra phân tích khi đọc truyện Kiều. Tiếng "đâu" vốn trỏ cái gì bất định mà phân tích non chín chục câu của tiên sinh, chúng tôi gom được bốn nghĩa chính; nhưng trong mỗi nghĩa chính vẫn còn những tiểu dị (nuance), chẳng hạn trong sáu câu chúng tôi dẫn làm tỉ dụ trong trường hợp IV, thì tiếng "đâu" cũng đã có bốn nghĩa khác nhau rồi. "Đâu" trong câu 2: "Gió đâu sịch bức mành mành" không hẳn là "đâu" trong câu 1: "Duyên đâu chưa kịp một lời trao tay"; mà "đâu" trong câu 1 cũng không bâng khuâng tình tứ như "đâu" trong câu 5: "Người đâu gặp gỡ làm chi"; rồi "đâu" trong câu 6: "Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi" có ý ngạc nhiên thích thú, khác những tiếng "đâu" trong những câu trên. Khả năng của ngôn ngữ hay ảo thuật của bút pháp? Bài này cũng viết năm 1965, chung với Trương Văn Chình, nhân kỉ niệm 200 năm Nguyễn Du ra đời. -------------------------------- 1Trong truyện Kiều ta thấy xuất hiện đủ hạng người trong xã hội, trừ hạng nông dân. Danh từ này ông Phan Khôi dùng để trỏ tất cả "những chữ không cứ thuộc về từ loại nào mà đã không có hình thể lại không có đối 2 tượng như "nếu, bàn, mà, ư…" (trang 129), như vậy những tiếng ông gọi là hư từ gồm những tiếng chúng tôi gọi là hư từ và bán hư từ. 3 Những số này chỉ số câu trong bản Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim. 4Đúng như Phan Khôi đã nói (trang 143 sách đã dẫn) đâu thay cho đằng nào, cũng như bao thay cho bằng nào. 5 Trong bài này chúng tôi gọi trạng từ là tiếng để tỏ sự trạng, nghĩa là trỏ sự vật trong trạng thái động hoặc tĩnh nào đó, còn thể từ là tiếng để trỏ chính sự vật (coi Khảo luận về ngữ Pháp VN – Đại học Huế 1963, trang 157). 6 Về câu này xin coi thêm đoạn kết. Chẳng biến ra chăng có phải là vì ở cuối một câu hỏi, giọng thường kéo dài ra, nên ta thường dùng tiếng có phù bình thanh (ton plein)? Đọc lớn tiếng, ta thấy: "Nó chịu chăng?" vang hơn, 7 ngân hơn là: "Nó chịu chẳng?" Nếu giả thuyết ấy đúng thì chúng ta có thể trả lời được câu hỏi này của Phan Khôi trong bài "Hư tự trong truyện Kiều" (trang 131): "Tại sao bao dài (dài bao nhiêu) biến ra: bao dai; bao nhiều biến ra bao nhiêu?". 8Vì có người cho rằng "đâu" cũng như ai, chi, gì, nào, sao…) vốn có nghĩa rồi. 9Những tiếng này đứng về phương diện từ tính (nature des mots) chúng tôi sắp vào loại trạng từ, như đã chú thích ở trên. "HỒN ĐẠI VIỆT, GIỌNG HÀN THUYÊN" Một trong nét đẹp nhất của đạo Nho, không thấy trong các triết học khác, là gây được cái truyền thống tiến vi quan, thoái vi sư. Học là để tu thân, mà tu thân là để giúp nước, bằng "chính" và "giáo". Gặp thời loạn không thể thi thố tài đức để cứu dân thì trở về dạy dân để chuẩn bị cho một thời khác. Khổng Tử đã tạo nên truyền thống ấy: ông là người đầu tiên mở lớp tư thục bình dân ở Trung Quốc, vừa làm chính trị vừa dạy học, khoảng sáu mươi bảy tuổi, biết đạo mình không nhà cầm quyền nào muốn theo, mới quay về chuyên việc dạy học. Nội điểm đó, ông cũng được tôn là "vạn thế sư biểu" rồi. Ông "khai lại" rồi Mạnh Tử "kế vãng". Đời của Mạnh Tử y hệt đời ông, cũng bôn ba các nước chư hầu cho tới già rồi cũng trở về dạy học và có lần thốt ra câu bất hủ này: Người quân tử có ba niềm vui mà một trong ba niềm vui đó là được các anh tài trong thiên hạ để dạy dỗ (đắc thiên hạ anh tài nhi giáo dục chi). Trong hơn hai ngàn năm, hết thảy các nhà Nho chân chình ở Trung Hoa cũng như ở Việt Nam, hữu danh cũng như vô danh, từ Đổng Trọng Thư, Vương Dương Minh, Chu Văn An, Nguyễn Khuyến đến các ẩn sĩ, các thầy đồ đều giữ được truyền thống Khổng Mạnh, tự gây được một uy tín lớn trong dân gian, không có một chút đặc quyền, cao quí mà vừa bình dân, chỉ giúp đồng bào mà không mưu lợi cho bản thân, nghèo mà được trọng hơn vua, không tổ chức mà lại chặt chẽ, vững bền vì không tranh với ai, một giai cấp kì dị không giống một giai cấp nào trong lịch sử nhân loại: giai cấp sĩ phu. Văn minh nhân loại ngày nay không sao tạo được giai cấp đó nữa: các giáo sư đại học không sao có được uy tín với dân như các cụ đồ của ta ngày xưa, đó là điều đáng tiếc. Ở nước ta hiện nay, số hậu duệ của giai cấp đó kể ra cũng còn được khá khá, nhưng số con người giữ được nếp nhà thì hiếm đấy; và tôi nghiệm thấy người nào giữ được cũng có vài nét chung rất dễ nhận ra: không ham danh lợi, chăm lo sự dạy dỗ con cái, yêu nước, thích văn chương, chuộng nghề dạy học và hình như có khiếu dạy học nữa. Tôi được dăm ba ông bạn trong giới ấy mà ông Đông Hồ là một. Ông sinh trưởng trong một gia đình Nho gia ở Hà Tiên. Hà Tiên là một nơi hẻo lánh, xưa tuy là tỉnh, nhưng chỉ lèo tèo như một cái quận ở biên giới, gần như cách biệt hẳn với các tỉnh khác: hồi đầu thế kỉ muốn lên Sàigòn phải mất ba ngày, nói chi tới Huế và Hà Nội. Nhờ vậy mà Hà Tiên giữ được nhiều nếp cổ, ít chịu ảnh hưởng Tây Phương, sau chiến tranh thứ nhất mới có trường sơ học Pháp Việt dạy tới lớp ba (sơ đẳng), sau thành trường Tiểu học. Nhưng Hà Tiên có đủ sông hồ, núi biển, là một tiểu vũ trụ, và từ 1736 đã có Chiêu Anh Các mà vị "nguyên soái" thi đàn này, Mạc Thiên Tích, tuy gốc Trung Hoa mà lại biết quí trọng văn thơ Nôm, giỏi chữ Nôm. Đông Hồ mồ côi sớm, được ông bác, cụ Hữu Lân dạy dỗ, coi như con. Tôi còn giữ được bức thư cảm động của thi sĩ kể nỗi tiếc nhớ ông bác. Cụ Hữu Lân văn hay chữ tốt mà cũng thích thơ Nôm: chính cụ sưu tập được một bản chữ Nôm Song tinh bất dạ mà Đông Hồ đã phiên âm, hiệu đính đôi chỗ và xuất bản 1962 (nhà Bốn Phương). Chịu ảnh hưởng quê hương và gia đình đó, Đông Hồ đã sớm thích thơ văn Hán và Việt, nhất là Việt, vì như ông vẫn thường ân hận: "chữ Hán, chữ Pháp đều học rất ít". Khoảng 15-16 tuổi, ông bắt đầu được biết tạp chí Nam Phong, mê nó, đọc rất kĩ từng số một để học thêm và khi Phạm Quỳnh theo tấm gương của các cụ trong Đông Kinh nghĩa thục, đề cao tiếng Việt, thì Đông Hồ hưởng ứng liền, hô hào quốc dân học tiếng Việt, đích thân mở một học xá, cũng như một nghĩa thục, để dạy tiếng Việt. Đó là ảnh hưởng thứ ba. Ảnh hưởng cuối cùng là ảnh hưởng của thi hào Ấn Rabindranath Tagore. Năm 1901 Tagore lập một tịnh xá gần Calcutta, đặt tên là Santinikatan (có sách dịch là Nhà Tự Do, có sách lại dịch là Nhà Hoà Bình) để dạy một số thanh niên đạo giải phóng tinh thần, sống gần thiên nhiên. Nhờ đọc Nam Phong, Đông Hồ biết được Tagor dùng tiếng Bangali mà sáng tác nhiều tập thơ bất hủ được giải thưởng Nobel; và lời này của Tagore "Có học tiếng mẹ đẻ thì chúng ta mới vỡ trí khôn ra được" càng làm cho ông vững tin chủ trương của mình 1 . Mới đầu ông làm giáo viên lớp ba ở Hà Tiên. Ta nên nhớ chương trình tiểu học hồi ấy dạy bằng tiếng Pháp, mỗi tuần chỉ có vài giờ "Annamite", tức Việt ngữ. Ông dạy ở trường Tiểu học đâu được tám chín năm (từ 1924 hay 1925 đến 1933) và ngay từ đầu ông đã bất mãn về chương trình: trẻ Việt mà sao không được học tiếng Việt lại phải học tiếng Pháp, phải tụng những câu như: "Nos ancêtre sont des Gaulois" (Tổ tiên chúng ta là người Gaulois – người xứ Gaule), nên tuy phải theo chương trình nhưng ông vẫn chú trọng tới tiếng Việt hơn, khuyến khích học sinh tin tưởng ở tương lai tiếng Việt mà trau giồi tiếng Việt. Học sinh lớp ba hồi ấy ở một tỉnh nhỏ, hẻo lánh, chắc có em mười bốn mười lăm tuổi nên đã hiểu biết ít nhiều và ông đã đào luyện một số khá về Quốc văn, tập cho họ viết báo, có bài được đăng trên Nam Phong năm 1925. Ông theo đúng chương trình nên các cấp trên không trách vào đâu ông được, nhưng chắc cũng không ưa ông. Thấy một tuần lễ chỉ có vài giờ tiếng Việt, ít oi quá, một hai năm sau ông mở Trí Đức học xá ở trên bờ Đông Hồ dạy toàn tiếng Việt cho bất kì người nào muốn học. Buổi khai giảng vào ngày 30.10.1926. Năm đó ông mới hai mươi tuổi! Học xá mỗi tuần giảng hai buổi tối. Ngày lễ hay chủ nhật ông thường dắt học sinh đi thăm mười cảnh đẹp ở Hà Tiên mà Chiêu Anh Các hồi xưa ngâm vịnh, và những nơi có di tích lịch sử, để sống gần thiên nhiên như chủ trương của Tagore. Tôi không rõ ông có lập chương trình giảng dạy gì không, nhưng Nam Phong số 115, tháng ba năm 1927, có đăng trọn bài diễn văn của ông đọc ngày 19.11.1926 ở học xá, vạch rõ mục đích của học xá: là khai trí tiến đức và dạy "chữ Quốc ngữ", dùng Việt ngữ làm chuyển ngữ trong việc khai trí tiến đức ấy. Vách bên tả của học sinh treo câu cách ngôn của Chu Hi, triết gia Trung Hoa đời Tống: "Ở đời có ba điều đáng tiếc: một là hôm nay bỏ qua, hai là đời này chẳng học, ba là thân này lỡ hư." Vách bên hữu treo câu của Phạm Quỳnh: "Tiếng là nước: tiếng còn thì nước còn, tiếng mất thì nước mất…" Tôi đoán lối dạy của ông cũng không khác lối dạy của các cụ trong Đông Kinh nghĩa thục non hai chục năm trước đó: lựa một bài thơ, một áng văn hoặc một thời sự, một truyện cổ làm đầu đề giảng của mỗi buổi, về cách đặt câu, dùng chữ v.v… Chắc mỗi tuần một bài luận Quốc văn mà ông chịu khó sửa kĩ, rồi tuyển những bài khá nhất để giới thiệu trên báo Nam Phong. Học xá mở được tám năm, từ 1926 đến 1934, theo nữ sĩ Mộng Tuyết thì có ba lần khai giảng hết thảy: lần thứ nhất cho các học sinh lớp nhất 2, các lần sau cho học sinh lớp ba, tức lớp của Đông Hồ. Mỗi khoá chắc được mươi học sinh vì Hà Tiên là một thị trấn nhỏ; nhưng cũng có một số ở xa học theo hàm thụ, và tiêu đề trên các thư từ hàm thụ là bốn câu thơ dưới đây: Ríu rít đàn chim kêu, Cha truyền con nối theo. Huống là tiếng mẹ đẻ, Ta lẽ nào không yêu? Dĩ nhiên, ông bị nhà cần quyền nghi kị, theo dõi. Hồi đó dạy Việt ngữ là một điều quái gở. Ai cũng ham học được ít câu tiếng Tây để "tối sâm banh sáng sữa bò" mà sao lại dạy Việt ngữ? "Tổ tiên ta là người Gaulois" mà sao lại học tiếng "Annamite"? Chính một học sinh của ông khi phải từ biệt thầy và bạn để về quê ở Biên Hoà, đã viết những hàng này mà Đông Hồ chép lại trong bài Nhớ Tết Hạ Nguyên, Nam phong số 135, tháng 11-12 năm 1928: "Nói đến công của chữ Quốc ngữ khi sắp từ biệt nhà học xá này thì cảm động đến chảy nước mắt mà khóc được vì Quốc văn ở thời buổi bây giờ, muốn học cũng khó lắm thay! (…) Trường nào là trường có dạy thứ chữ ấy? Thầy nào là thầy chịu dạy thứ chữ ấy? Ai chẳng biết chữ Quốc ngữ ở trường nhà nước ngày nay phải ở vào địa vị thấp hèn mà chịu cái số phận khinh khi, rẻ rúng: như thế thì còn ai thiết đến việc dạy dỗ thứ chữ ấy để làm gì?..." Theo nữ sĩ Mộng Tuyết, chỉ có một lần ông Đông Hồ bị cấp trên cảnh báo. Năm đó, không nhớ rõ năm nào, một tờ báo (có lẽ là tờ Việt Dân) sắp ra, đăng quảng cáo rằng trong toà soạn có Đông Hồ, một giáo viên ở Hà Tiên, lại in hình Đông Hồ nữa. Viên đốc học liên tỉnh miền Tây, người Pháp, tức tốc tới Hà Tiên điều tra, chìa tờ quảng cáo cho Đông Hồ coi, hỏi vặn đủ điều, rồi bảo: "Ừ, về văn học thì được, chứ chính trị thì đừng đấy." Nhưng đọc bài tựa tập Bông hoa cuối mùa (tác giả là môn sinh của ông, tên là Thạch San), tôi chắc ông còn bị nhiều cảnh ép buộc, cấm đoán nữa, nên năm 1934 học xá phải tự đóng cửa: Hội bút nghiên tao phùng đâu nữa, Lệ văn chương giọt ứa cảm hoài; Mịt mù trong cỏi trần ai, Cao sơn lưu thuỷ ai người tri âm? ……………….. Thôi đành chịu người thua cảnh ngộ, Cảnh không may thật khó mà nên, Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên, Năm năm ba bận tình duyên lỡ làng! Nam phong số 162. Cảnh không may đó là cảnh nào? Ba bận lỡ làng là làm sao? Khi ông còn thì tôi không hỏi mà ông cũng không kể. Ông không kể vì ông khiêm tốn, ít muốn tự khoe; vì tôi không hỏi vì nghĩ ông còn thọ ít gì cũng dăm năm nữa, không gắp gì. Bây giờ muốn hỏi thì không biết hỏi ai. Học xá thọ bấy nhiêu năm cũng là hãn hữu, một phần vì ông không làm chính trị, một phần nữa vì qui mô nhỏ bé, nhà cầm quyền không đáng ngại. Học xá thôi giảng nhưng lớp hàm thụ vẫn cón: ai thích văn cứ viết thư hỏi han và gởi văn thơ cho ông sửa. Trí Đức học xá được nhiều người biết, nhờ những bài giới thiệu đăng trên báo Nam Phong: Gia đình giáo dục kí, số 115, Nhớ Tết Hạ Nguyên, số 135, Bài kí về giáo dục, số 157, v.v…; lại đào tạo một số môn sinh hồi đó viết Quốc văn đã khá lắm, không hiểu sao sau này không ai sáng tác gì cả, trừ nữ sĩ Mộng Tuyết. Nhưng phải nhận rằng ông Đông Hồ không gây nổi một phong trào: thiếu địa lợi chăng? Hà Tiên là một nơi hẻo lánh, nhân tài hiếm mà đồng chí không đông? Hay là tại thiếu thiên thời? Lúc đó ảnh hưởng tiếng Pháp đương lên mạnh. Nhưng sáng kiến đó, nhiệt tâm đó, đức kiên nhẫn đó, một người đương thời, Trọng Toàn đã ghi lại trong bài Một người có công với Quốc văn, Nam Phong số 173, và bây giờ chúng ta nên ôn lại để nêu cho đời sau tấm gương của một người từ năm hai mươi tuổi, giữa thời toàn thịnh của thực dân Pháp, đã "tự nguyện làm người tri kỉ với Quốc văn, (…) cùng với Quốc văn ước nguyền sông núi." (Nam phong số 135). Mà riêng đối với môn sinh của ông thì công của ông thực lớn. Trên mộ bằng cẩm thạch Ý đại lợi của ông ở Mạc Đĩnh Chi, chúng tôi đọc được hai câu này của một môn sinh Trí Đức học xá: Ân sâu nghĩa nặng tình dài, Khóc thầy, khóc mãi biết đời nào nguôi? Chỉ được một người khóc như vậy thì cả một đời, dù không có một sự nghiệp gì khác, cũng khả dĩ là vô hận rồi. ° ° ° Trí Đức học xá đóng cửa, chức giáo viên tiểu học cũng đã từ bỏ năm trước – năm bá phụ ông qui tiên – ông lên Sàigòn cho ra tờ tuần báo Sống (1935). Báo viết kĩ, in kĩ, chỉ sống được ba mươi số, nhưng cũng đã đánh dấu được một tiến bộ trong ngành: tờ đó là tờ đầu tiên ở Nam in trúng hỏi ngã, và cho tới bây giờ, vẫn chưa có tờ nào chú trọng chú trọng đến chính tả hơn. Dĩ nhiên ông phải đích thân sửa bản nháp của người gởi bài, rồi sửa trên ấn cảo của nhà in. Ai ở trong nghề mới thấy được công việc của ông cực nhọc, mất thì giờ ra sao. Thất bại, năm sau ông về Hà Tiên ẩn cư non mười năm. Sau quốc biến 1945, ông chèo một mình chiếc xuồng ba lá lênh đênh trên trên sông rạch miền Tây, sau cùng trôi giạt tới Sàigòn lập nhà xuất bản Bốn Phương, nhà sách Yiễm Yiễm, và ra tờ Nhân Loại (1953). Tờ này in cũng như tờ Sống mà cũng không thọ, được hai mươi số rồi phải ngưng. Trong mục Chữ và Nghĩa ông kí tên Đồ mọt sách, đưa ra nhiều nhận xét lí thú về tiếng Việt. Năm 1964, ông đã dẹp hết công việc xuất bản, phát hành sách, về nghỉ hưu ở Quình Lâm thư thất gần hồ tắm Chi Lăng thì một tin làm nhiều người ngạc nhiên: ông nhận lãnh việc giảng về Văn học miền Nam cho Đại học Văn khoa Sàigòn. Người ta ngạc nhiên vì năm ấy ông đã gần lục tuần, đã bỏ nghề dạy học ba chục năm, mà lại vào hạng thi sĩ phong lưu nhất nước. Tôi ít khi ra khỏi nhà mà cũng nghe được những lời một số người trách ông này nọ; ông cũng biết rằng những lời ấy tới tai tôi, nhưng không khi nào ông đính chính với tôi mà tôi cũng chẳng hỏi. Những chuyện đó tôi thường gác ngoài tai: mỗi người có một chí hướng, một lối sống, một hoàn cảnh, một tâm sự, một sở thích, tới hàng ruột thịt cũng khó hiểu được mình thì phê phán thế nào chẳng có điều bất công. Nhưng tôi cũng đoán thầm rằng ông vốn là một nghệ sĩ, cần có sự bó buộc thúc bách nào đó mới làm một công trình nghiên cứu dài hơi được, và ông nhận việc giảng dạy ở Văn khoa để tự buộc mình phải soạn cho xong một cuốn về Văn học miền Nam. Tôi đoán không sai, nhưng chỉ đúng một phần. Tháng chín năm 1967, nghĩa là sau khi dạy ở Văn khoa được ba tháng, ông gởi tặng tôi một tập Đào lý giá xuân phong. Tập này quay ronéo, in trên giấy đánh máy dày, chỉ gồm 12 trang, không hiểu tại sao đánh số từ 319 đến 330. Nhưng bìa in typo màu vàng, phía trước có dấu son "Lâm Đông Thuỷ Cổ Nguyệt" và hàng chữ: "Tuyển lục ít vần thơ Đại học", phía sau có đề: Giá thuần nhứt 40đ. Tôi không chắc rằng tập đó gởi bán ở các tiệm sách, có lẽ để tặng bạn bè; sinh viên Văn khoa ai có muốn một bản thì góp chút phí tổn ấn loát, thế thôi. Lật tờ bìa, tới tờ giấy mỏng màu hồng, in bằng bảng kẽm, có bốn chữ Hán: Đào lý xuân phong, và tên củng triện son của tác giả. Tập gồm chín bài, tám bài thơ và một đoản văn là từ 1965 đến 67. Tôi để ý đến ba bài: Xuân phong ngâm ở đầu tập, Vàng son hoa nở hai mùa và Tiếng Việt huy hoàng. Tôi nhận thấy ông trở lại nguồn hứng của ông trên ba chục năm trước hồi ông lập Trí Đức học xá. Ông lại nhắc đến "giọng Hàn Thuyên, hồn Đại Việt": Duyên gặp gỡ tương tri thuở nọ, Khúc nam huân ngọn gió khéo đưa, Cung đàn dìu dặt tiếng tơ, Hàn Thuyên Đại Việt hồn xưa bàn hoàn. (Xuân phong ngâm) Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên, Nền móng văn chương cổ điển, Đặt đây viên đá đầu tiên, Xây dựng tương lai còn hẹn. (Tiếng Việt huy hoàng -1967) Vậy thì cái việc dạy cho Văn khoa chỉ là để nối lại "tình duyên lỡ làng" ba mươi năm trước, chỉ là để kêu gọi "Hồn Đại Việt", đề cao "Giọng Hàn Thuyên" và trước sau ông chỉ nghĩ tới Quốc văn, giữ mối tình "tri kỉ với Quốc văn", "mối duyên nợ thâm trầm với Quốc ngữ" như ông đã viết trong Nam Phong số 135 và 162. Không biết trong thâm tâm, ông có tự hào là người đi tiên phong không? Công việc ông "đơn thương độc mã" khởi xướng hồi hai mươi tuổi bây giờ đã thực hiện được. Tôi nghĩ, chính quyền nếu có những người thực sự hiểu văn hoá Việt Nam, thực tâm yêu "giọng Hàn Thuyên" thì khi dời Văn khoa từ Hà nội vô đây, tất phải mời ông làm khoa trưởng hay giáo sư thực thụ mới phải, vì ai có lòng với tiếng mẹ đẻ hơn ông, có công với giọng Hàn Thuyên hơn ông? Ông nhận chức giảng viên Văn khoa vì đám thanh niên, vì muốn tiếp tục "xây dựng tương lai" cho "Tiếng Việt huy hoàng" đấy. Ở một nước biết trong văn nhân thi sĩ như Pháp thì bốn câu: Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên, Nền móng văn chương cổ điển, Đặt đây viên đá đầu tiên, Xây dựng tương lai còn hẹn. đã được khắc trên phiến đá Ngũ Hành Sơn mà dựng trước di chỉ Trí Đức học xá ở Hà Tiên hoặc khắc lên bảng đồng trong phòng diễn giảng ở Đại học Văn khoa Sàigòn rồi. Đọc Đào lý xuân phong tôi thích nhất bài Xuân phong ngâm. Bài đó viết theo thể song thất lục bát, thể hoàn toàn Việt Nam, lời đẹp mà hơi buồn, cho tôi cảm tưởng rằng tác giả là một ông đồ Nho thời cuối Lê hay đầu Nguyễn, chán ngán sự đời mà tìm cái vui trong sự dạy dỗ thanh niên. Ông nhắc lại tuổi thiếu niên, say mê tiếng mẹ: Tiếng mẹ với tiếng đàn náo nức, Hồn thơ chung hồn nước xôn xao, Hồn phong nhã, tiếng thanh tao. Nguồi thơ Quốc ngữ nao nao biển lòng. Rồi khi ông lập Trí Đức học xá: Vườn Trí Đức thành Phương 3 ngõ rộng, Hạt quốc văn gieo giống tinh hoa, Trải bao gió lộng sương pha, Tốt tươi hồng hạnh, rườm rà quế lan. Bây giờ đây: Một thoáng đã sông dời núi đổi, Trăm năm chi biển nổi dâu chìm, Bóng xưa ngày cũ không 4tìm, Nhắc cho thêm gợi những niềm nhớ nhung. Nhưng nhìn đám thanh niên ông đào tạo thì ông lại vui: Đây thế hệ anh hoa tuấn tú, Đêm ngày đang vui thú sách đèn, Say xưa nghĩa lý thánh hiền, Đông Tây kim cổ triền miên mộng vàng. Đang đợi những huy hoàng cao cả, Đang bắt tay luyện đá vá trời, Một trời mực đặm son tươi, Một trời Đại học, một trời Văn Khoa. Khúc ngâm dài 60 câu chấm dứt ở những vần tràn trề hi vọng ấy. Khi tỏ với ông những cảm tưởng của tôi về bài thơ – bài thơ thanh nhã, tóm tắt được chí hướng cùng cuộc đời của ông ấy – tôi mỉm cười, bảo: "Bác thực có huyết thống nhà Nho, chỉ thích làm một ông đồ, chỉ sung sướng khi có một số anh tài để dạy dỗ", ông lộ vẻ mừng, cho tôi là tri kỉ. ° ° ° Khi xây mộ cho ông, nữ sĩ Mộng Tuyết hỏi tôi nên lựa bốn câu này: Vũ trụ mang mang trời đất, Thời gian dằng dặc đêm ngày, Một thoáng cổ kim chớp mắt, Nghìn thu dâu bể trao tay. hay sáu câu: Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên, Nền móng văn chương cổ điển, Vũ trụ thiên thu vạn vật, Cảo thơm hiển hiện trước đèn. Đất nước nghìn năm văn hiến Lâu đài tiếng Việt huy hoàng. để khắc lên mộ, là nữ sĩ đã rõ tâm sự, nguyện vọng suốt đời của chồng. Tôi đã do dự hồi lâu rồi đáp nên lựa bốn câu trên. Tôi không nói ra – hay đã nói mà quên chăng? – nhưng lúc đó tôi đã nghĩ: sáu câu cuối nên để cho môn sinh khắc thì phải hơn. ° ° ° (Thủ bút của Đông Hồ) Mấy năm cuối cùng, ông thường phàn nàn sao thấy buồn quá, không hiểu gì đâu: "Gần đây tôi cứ thấy lòng buồn mà rộn, không biết buồn về điều gì và rộn về điều gì" (2-3 II 1967) "Mấy hôm nay tâm hồn tôi như có gì bất thường… Đã thấy lâng lâng niềm giản dị, Hồn tan theo nước, ý theo mây. Khi làm câu thơ đó, cách đây đã hơn 25 năm mà bây giờ mới thấy gần đúng" (5 VI 1967). Và ông bảo chỉ còn mỗi vui là được "các bác vào chơi". Các bạn khác mãi lo sinh kế, còn tôi thì rất sợ ra khỏi nhà, sợ thấy xe cộ và rác rưởi, nên cái vui được chuyện trò với bạn thân may lắm mỗi tháng ông được hưởng một lần. Đời Tống, một đạo sĩ đi sáu tháng trời từ Hoa Bắc tới Hoa Nam để thăm Tô Đông Pha. Mà ngay thời tôi còn nhỏ, một cụ đồ đi trọn một ngày để thăm ông bác tôi. Cái văn minh cơ khí này làm hư con người thật! Nhưng tôi nghĩ ít nhất mỗi tuần ông cũng được vài giờ vui với các môn sinh ở Đại học, và một trong những lúc vui nhất của ông là ngày gần tết năm nào đó, một bọn thanh niên cả trai lẫn gái quây quần chung quanh ông ở phòng khách Quình Lâm thư thất, thân mật như con đối với cha, nghe ông kể chuyện về đời ông và nhìn những ngón tay búp măng trắng trẻo nổi gân xanh của ông chấm ngọn bút vào nghiên mực, đưa thoăn thoát trên tờ giấy điều. Tôi chắc chắn không có một giáo sư Đại học nào ở Việt Nam hiện nay có thái độ và tấm lòng đó đối với sinh viên. Có thể rằng giờ này đây, môn sinh ông quên hết những điều ông giảng về Văn học miền Nam, về Chiêu Anh Các, nhưng suốt đời họ, họ sẽ không bao giờ quên được cái phong độ cái chân tình Nho gia của ông, cũng như tôi không bao giờ quên được dáng dấp ung dung, khoan hoà, nụ cười hồn nhiên, rất tươi, chiếc khăn xếp, chiếc áo the thâm rất giản dị của cụ Bùi Kỷ, thầy học cũ môn Quốc văn của tôi ở trường Cao đẳng Công chánh. Chính những nét đó mới là bài học đáng quí nhất của bậc thầy vì chính nó mới ảnh hưởng lâu bền đến tâm hồn ta, tới nhân sinh quan của ta. Nhiều người có thể thay Đông Hồ về môn Văn học miền Nam, nhưng cái không khí của giáo sư Đông Hồ, của "thầy đồ" Đông Hồ thì không ai tạo nên nổi. Các sinh viên Văn khoa có thấy mất ông là mất cả một truyền thống không? Tôi nghĩ trời đã lựa cho ông một cái chết rất hợp với cuộc đời của ông mà có lẽ cũng rất hợp với ý ông nữa: ông ngất đi trong khi ngâm thơ về hai Bà Trưng, giữa giảng đường Văn khoa trong cánh tay môn sinh. Đúng như câu của Lương Khải Siêu: "Chiến sĩ tử ư sa trường, học giả tử ư giảng toạ". Viết ở Saigon ngày 1.3.70 nhân ngày giỗ đầu Đông Hồ -------------------------------- 1Coi bài "K.E. Kripalami tiếp xúc với Đông Hồ…" trong cuốn Đăng Đàn – Mặc Lâm xuất bản – 1970. 2Lớp của thầy giáo Trọng Toàn, bạn thân của Đông Hồ, vì chỉ có thầy là khuyến khích học sinh học thêm ở Trí Đức học xá. 3 Tức Hà Tiên. 4 Tôi ngờ là khôn. """