" Mùa Hạn Kinh Hoàng: The Dry PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mùa Hạn Kinh Hoàng: The Dry PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo MỞ ĐẦU Không phải là nông trại này chưa từng chứng kiến cảnh chết chóc, và lũ nhặng thì chẳng phân biệt đối xử. Đối với chúng, xác gia súc hay xác người nào có gì khác biệt. Đợt hạn hán mùa hè năm ấy giúp lũ ruồi nhặng có dư thừa sự lựa chọn. Chúng lao đi, tìm kiếm những cặp mắt trơ thao láo và những vết thương nhớp nháp mỗi khi những người nông dân ở Kiewarra giương súng nhắm vào đàn vật nuôi chỉ còn da bọc xương của mình. Không có mưa nghĩa là không có thức ăn. Và không có thức ăn sẽ khiến người ta phải đưa ra những quyết định khó khăn, khi mà thị trấn bé nhỏ ấy hết ngày này qua ngày khác, lấp lóe bên dưới bầu trời xanh ngăn ngắt như thiêu như đốt. “Nắng mãi rồi cũng phải hết thôi.” Những người nông dân nói, khi những tháng ngày nóng nực đã bước sang năm thứ hai. Họ nhắc đi nhắc lại những câu từ ấy, họ nói to với nhau, như một câu thần chú, và họ thì thầm với bản thân như một lời cầu nguyện. Nhưng những người làm dự báo thời tiết ở Melbourne thì không đồng tình với họ. Com-lê chỉnh tề, bằng sự đồng cảm trong những trường quay điều hòa mát lạnh, gần như mỗi tối, vào lúc sáu giờ, họ lại phát đi những bản tin liên quan. Nói một cách chính thức thì đó là đợt hạn hán kinh khủng nhất của thế kỷ. Hình thái thời tiết đó có tên gọi, cách phát âm của nó chưa bao giờ thực sự được thống nhất. El Niño. Chí ít thì có lũ nhặng là vui sướng. Tuy nhiên những gì chúng kiếm được ngày hôm ấy lại khá bất thường. Nhỏ bé hơn và con đường để chúng tìm đến với lớp thịt thì mềm mại, bằng phẳng hơn. Nhưng chuyện đó cũng chẳng quan trọng. Đích đến sau cùng vẫn là giống nhau. Những con mắt vô hồn. Những vết thương tươm máu. Cái xác ở ngoài khoảng rừng thưa là tươi mới nhất. Lũ nhặng tốn nhiều thời gian hơn một chút mới phát hiện ra hai cái xác còn lại bên trong căn nhà xây kiểu nông trại, mặc cho cánh cửa chính bung mở như một lời vẫy gọi. Những con nhặng liều gan bỏ qua món tặng phẩm đầu tiên ngoài sảnh sẽ nhận được một món khác, lần này là trong phòng ngủ. Phần tặng phẩm này nhỏ hơn, nhưng cũng ít kẻ tranh giành hơn. Tại hiện trường, dưới cái nóng, lũ nhặng vẫn bu lấy nhung nhúc trong sự thỏa mãn, bởi máu tràn ra, tưới thẫm nền nhà và thảm trải sàn. Bên ngoài, đồ giặt giũ vẫn còn nguyên trên dây phơi, khô cong, cứng đờ dưới nắng. Một chiếc xe trượt của trẻ con nằm bơ vơ trên con đường lát đá. Trong vòng bán kính một cây số xung quanh nông trại đó, chỉ có một con người duy nhất mà trái tim còn đang đập. Thế nên chẳng có ai phản ứng gì khi mà ở sâu bên trong căn nhà, đứa trẻ bắt đầu cất tiếng khóc. CHƯƠNG 1 Kể cả những người chẳng mấy khi ghé qua nhà thờ từ Giáng sinh này qua Giáng sinh khác cũng thừa biết rằng số người đến viếng vượt quá số lượng ghế ngồi bên trong nhà thờ. Đoàn người áo xám, áo đen đang ùn lại bên ngoài lối vào nhà thờ khi Aaron Falk đánh xe tới, để lại phía sau xe một vệt bụi trộn lẫn cùng lá cây khô bị nghiền nát. Những người hàng xóm, mặc dù cố gắng không thể hiện ra mặt, song tràn đầy quyết tâm, xô đẩy nhau và cố chen vào trước, nhưng trong đám đông hỗn loạn ấy, lượng người vào được bên trong chỉ vô cùng nhỏ giọt. Phía bên kia đường, đám phóng viên đang đi đi lại lại. Falk đỗ chiếc sedan cũ của mình bên cạnh chiếc xe bán tải đã qua rồi những tháng ngày tươi đẹp, và tắt máy. Điều hòa trên xe lách cách rồi lặng hẳn, bên trong xe ngay lập tức nóng dần lên. Mặc dù không có nhiều thời gian nhưng anh vẫn dành cho mình vài giây lướt nhìn một vòng quanh cái đám đông người ấy. Anh đã lừng chừng suốt quãng đường đi từ Melbourne, khiến cho chặng đường năm tiếng đồng hồ bị kéo dài thành hơn sáu tiếng. Mừng vì không nhìn thấy ai trông quen mặt, anh bước ra khỏi xe. Cái nóng của buổi chiều muộn quấn lấy anh như một tấm chăn. Anh kéo mở cửa ghế sau để lấy áo vét-tông, tay anh bỏng rát khi sờ vào thân xe. Thoáng một chút chần chừ, anh chộp lấy chiếc mũ để ở trên ghế. Chiếc mũ rộng vành bằng vải bạt cứng màu nâu chẳng ăn khớp gì với bộ com-lê - trang phục anh đang mặc trên người. Nhưng với làn da mà cứ nửa năm lại có màu xanh lợt của sữa tách béo và nửa năm còn lại thì chi chít những mảng tàn nhang như sắp ung thư, Falk sẵn sàng thách thức thế giới thời trang. Nước da nhợt nhạt từ khi lọt lòng cùng với mái tóc màu vàng lợt cắt sát da đầu và mi mắt gần như không có, trong suốt ba mươi sáu năm cuộc đời vừa qua, anh thường cảm thấy cái nắng của nước Úc đang cố nói với anh điều gì đấy. Đó là một thông điệp dễ lãng quên hơn khi anh ở Melbourne, nơi có đầy bóng râm, thay vì ở Kiewarra, nơi mà bóng râm là một món hàng xa xỉ. Một lần, Falk liếc nhìn về phía con đường dẫn ra khỏi thị trấn, rồi liếc nhìn đồng hồ. Đám tang, buổi tưởng nhớ, ngủ lại một đêm, sau đó anh sẽ đi khỏi đây. Mười tám tiếng đồng hồ, anh suy tính. Không ở lại lâu hơn nữa. Khắc ghi điều đó trong đầu, anh bước nhanh về phía đám đông, một tay giữ chặt mũ khi đột nhiên một cơn gió nóng ập đến, thổi bay những tà áo. Ở bên trong, nhà thờ thậm chí trông còn nhỏ bé hơn so với những gì anh nhớ. Vai kề vai với những người xa lạ, Falk cho phép mình tiến sâu hơn vào giữa đám đông. Anh nhìn thấy có chỗ trống ở sát tường và vội vã đi đến đó, lách người vào ngồi bên cạnh một nông dân, chiếc áo sơ mi bằng vải bông của ông ta bị kéo căng lì phía trên bụng. Người đàn ông gật đầu với anh rồi tiếp tục chăm chú nhìn về phía trước. Falk có thể nhìn thấy những vết hằn trên hai khuỷu tay của ông ta, ở đó hai ống tay áo vừa mới được xắn lên. Falk bỏ mũ xuống rồi dè dặt lấy nó để quạt mát cho mình. Anh không kiềm chế nổi mà liếc nhìn xung quanh. Những khuôn mặt lúc đầu tưởng như không quen biết, giờ đây dần hiện ra rõ ràng hơn, và bỗng nhiên, anh cảm thấy trong lòng dâng tràn một nỗi ngạc nhiên hết sức phi lý trước những vết chân chim trên mắt người này, những lọn tóc bạc trên đầu người kia, hay vài ba kilô tăng thêm trên cơ thể người nọ rải rác trong đám đông. Một người đàn ông lớn tuổi ngồi sau anh hai hàng ghế bắt gặp ánh mắt của Falk và gật đầu với anh, rồi họ mỉm cười với nhau, một nụ cười buồn khi nhận ra nhau. Tên ông ấy là gì nhỉ? Falk cố nhớ lại. Anh không thể tập trung. Người đàn ông đó từng là thầy giáo. Falk chỉ có thể hình dung ra hình ảnh ông ấy đứng trước lớp học, cố gắng dùng nhiệt huyết truyền tải bài học Địa lý, hay Kĩ thuật làm mộc, hay cái gì đó, sao cho sống động tới lũ học sinh đang buồn chán, nhưng kí ức đó cứ trôi tuột đi mất. Người đàn ông gật đầu về phía băng ghế bên cạnh mình, ý nói rằng ông ấy có thể dịch chỗ cho anh, nhưng Falk lịch sự lắc đầu và quay về phía trước. Anh tránh những cuộc nói chuyện xã giao kể cả khi điều kiện cho phép anh thoải mái nhất, huống gì trong tình cảnh này, chẳng có gì phải thắc mắc, nó cách xa cái điều kiện thoải mái ấy cả nghìn thước. Chúa ơi, chiếc quan tài ở chính giữa nhỏ quá! Đặt nó nằm giữa hai cái quan tài cỡ lớn chỉ càng khiến nó trông thảm thương hơn. Thật không thể tin nổi! Những đứa trẻ Con bé tí xíu, tóc chải dính sát vào da đầu, chỉ trỏ: “Bố ơi, nhìn kìa! Cái hộp đó có màu của quả bóng bầu dục kìa.” Những đứa đủ lớn để biết bên trong có gì thì nhìn chăm chú với sự im lặng kinh hãi, trong bộ đồng phục, chúng bồn chồn nghịch chân nghịch tay khi ghé sát hơn một chút vào bên cạnh mẹ chúng. Phía trên ba chiếc quan tài, trong bức ảnh phóng to, bốn người trong ảnh đang chăm chú nhìn xuống bên dưới. Nụ cười bất động của họ được phóng to và nhìn rõ cả điểm ảnh. Falk nhận ra bức ảnh đó từng được đăng trên bản tin. Người ta đã dùng đi dùng lại bức ảnh đó rất nhiều lần. Phía bên dưới, tên của những người đã khuất được xếp lại từ nhiều bông hoa bản địa. Luke. Karen. Billy. Falk nhìn chằm chằm vào bức ảnh của Luke. Mái tóc đen dày đã lấm tấm vài sợi bạc, nhưng trong anh ấy vẫn cân đối hơn nhiều so với phần đông đám đàn ông đã qua ngưỡng tuổi ba lăm. Gương mặt của anh ấy trông có vẻ già hơn những gì Falk còn nhớ, nhưng cũng gần năm năm rồi còn gì. Nụ cười đầy tự tin thì không hề thay đổi, cả cái vẻ dường như là biết tuốt trong ánh mắt của anh ấy nữa. Vẫn như cũ, là những gì đột nhiên vang lên trong tâm trí. Nhưng ba chiếc quan tài lại nói điều khác hẳn. “Một thảm kịch đẫm máu.” Người nông dân ngồi bên cạnh Falk cất tiếng bâng quơ. Hai cánh tay của ông ta khoanh lại, hai nắm tay kẹp chặt bên dưới nách. “Đúng thế.” Falk nói. “Anh thân với họ chứ?” “Cũng không hẳn. Chỉ Luke thôi, người…” Trong giây lát choáng váng, Falk không thể nghĩ ra từ nào để miêu tả người đàn ông nằm trong chiếc quan tài lớn nhất. Anh cố gắng tìm ra từ gì đó nhưng chỉ nghĩ được mấy lời miêu tả sáo rỗng trên báo lá cải. “Người cha…” Cuối cùng anh nói. “Ngày còn trẻ chúng tôi từng là bạn” “Ừ. Tôi biết Luke Hadler là ai mà.” “Tôi nghĩ bây giờ ai cũng biết rồi.” “Anh vẫn sống gần đây chứ, đúng không?” Người nông dân khẽ dịch chuyển thân hình to béo của mình để lần đầu tiên có thể nhìn Falk một cách chăm chú hơn. “Không. Đã lâu rồi tôi không còn sống ở đây nữa.” “Nhưng mà, có vẻ như tôi đã từng gặp anh rồi.” Người nông dân cau mày, cố nghĩ ra xem đã từng gặp Falk ở đâu. “Này, anh không phải là một trong số mấy cái đứa phóng viên truyền hình đấy chứ, phải không?” “Không. Cảnh sát. Ở Melbourne.” “Thật à? Mấy anh phải điều tra chính phủ đi, sao lại để mọi chuyện tồi tệ đến mức này!” Người đàn ông hất đầu về phía người ta đặt thi hài của Luke cùng vợ và cậu con trai sáu tuổi. “Chúng tôi đang ở đây, cố gắng nuôi nấng đất nước này, thời tiết tồi tệ nhất trong một trăm năm qua, ấy thế mà bọn họ còn lải nhải về chuyện cắt xén tiền trợ cấp. Nói đi nói lại, đôi khi cũng khó trách cái thằng khốn đáng thương đó. Thật là tai tiếng đ…” Ông ta dừng lại. Nhìn xung quanh nhà thờ. “Đó là một vụ bê bối khủng khiếp, chính xác là thế.” Falk không nói gì khi cả hai cùng suy ngẫm về sự bất tài của chính quyền Canberra. Nguồn cơn gây ra thảm kịch cho gia đình Hadler đã được tranh luận nhan nhản trên khắp các mặt báo. “Anh sẽ điều tra vụ này chứ?” Người đàn ông hất mặt về phía những chiếc quan tài. “Không. Tôi chỉ đến đây với tư cách bạn bè.” Falk nói. “Tôi không chắc có còn gì cần điều tra hay không nữa.” Anh chỉ biết những gì anh được nghe trên bản tin, giống những người khác. Nhưng theo như lời bình luận, chuyện cũng rõ ràng rồi. Khẩu súng săn đó là của Luke. Đó cũng chính là thứ sau này được tìm thấy, kẹp chặt bên trong những gì từng là miệng của anh ta. “Không ư? Tôi cũng đoán là không rồi.” Người nông dân nói. “Tôi chỉ nghĩ, biết đâu vì anh ấy là bạn của anh…” “Dù sao thì tôi cũng không thuộc lĩnh vực đó. Tôi là cảnh sát Liên bang. Đơn vị tình báo tài chính.” “Chả hiểu anh nói gì đâu, anh bạn ạ.” “Có nghĩa là tôi truy lùng theo các khoản tiền. Bất cứ khoản nào có nhiều hơn vài con số 0 nằm sai chỗ. Rửa tiền, biển thủ tiền, kiểu như thế.” Người đàn ông có nói gì đó đáp lại, nhưng Falk không nghe ông ta nói. Ánh mắt của anh chuyển từ phía ba chiếc quan tài sang những người tới viếng ở hàng ghế đầu tiên. Đó là hàng ghế dành riêng cho người thân trong gia đình. Ở đó, họ có thể ngồi trước tất cả bạn bè, hàng xóm, đổi lại, những người ngồi sau có thể nhìn thấy phía sau đầu của họ và thầm tạ ơn Chúa người ngồi trên đó không phải là mình. Đã hai mươi năm rồi, nhưng Falk nhận ra cha của Luke ngay tức khắc. Khuôn mặt của Gerry Hadler trông buồn bã. Đôi mắt ông hõm sâu. Ông ngồi nghiêm nghị tại vị trí của mình trên hàng ghế đầu, nhưng mặt ngoảnh đi hướng khác. Ông không để ý đến người vợ ngồi khóc thút thít ở bên cạnh cùng ba chiếc thùng gỗ mang di hài của con trai, con dâu và cháu nội của ông. Thay vào đó, ông chăm chăm nhìn thẳng vào Falk. Đâu đó ở phía trên, vài nốt nhạc phát ra từ loa. Lễ tang đã bắt đầu, Gerry nghiêng đầu gật nhẹ và Falk vô thức nhét tay vào túi áo. Anh sờ thấy lá thư nằm trên bàn làm việc của mình hai ngày trước. Từ Gerry Hadler, mười chữ viết nguệch ngoạc: Luke nói dối. Cậu nói dối. Hãy đến đám tang. Là Falk quay mặt đi trước. Thật khó kìm lòng khi nhìn những bức ảnh. Chúng hiện lên trên một màn hình ở phía trước nhà thờ như một đoạn phim chạy mãi không ngừng. Luke ăn mừng khi trở thành cầu thủ bóng bầu dục độ tuổi U10; cô bé thiếu niên Karen cưỡi ngựa nhảy qua rào. Những nụ cười bất động ấy lúc này đây trông có gì đó thật lố bịch, và Falk nhận ra anh không phải người duy nhất đưa mắt nhìn sang hướng khác. Những bức ảnh lại thay đổi và Falk bất ngờ khi nhìn thấy mình trong ảnh. Một bức ảnh mờ mờ chụp gương mặt anh lúc mười một tuổi đang nhìn thẳng vào anh. Anh và Luke đang đứng cạnh nhau, để ngực trần, miệng há ra khi giả vờ làm con cá cắn câu. Cả hai dường như rất vui vẻ. Falk cố gắng nhớ lại bức ảnh được chụp khi nào. Nhưng anh không thể. Đoạn trình chiếu lại tiếp tục. Những bức ảnh của Luke, rồi của Karen, cả hai đều mỉm cười, như thể không bao giờ ngừng lại, và rồi lại đến ảnh của Falk. Lần này, anh cảm tưởng như hai lá phổi của mình bị siết chặt. Từ những tiếng rì rầm, xôn xao trong đám đông, anh biết anh không phải người duy nhất rùng mình trước bức ảnh. Một phiên bản trẻ hơn của anh đang đứng cùng với Luke, lúc này đây cả hai đã cao lều khều và mặt thì chi chít mụn. Vẫn tiếp tục mỉm cười, nhưng lần này hai người họ là một phần trong bức ảnh chụp bốn. Cánh tay của Luke quàng quanh cái eo mỏng manh của một cô bé tuổi hoa niên với mái tóc tơ vàng óng. Bàn tay của Falk thì vắt hờ, thận trọng hơn lên vai của cô bé thứ hai có mái tóc đen dài và đôi mắt còn đen hơn tóc. Falk không thể tin được bức ảnh đó lại được chiếu lên. Anh đánh mắt nhìn về phía Gerry Hadler, lúc này đang chăm chăm nhìn về phía trước, khuôn mặt ông trầm tư. Falk cảm thấy người nông dân bên cạnh anh dịch chuyển người và lùi ra xa chừng nửa bước một cách có suy tính. Hẳn ông ta đã hiểu ra rồi, Falk nghĩ trong đầu. Anh ép mình nhìn lại vào bức ảnh. Vào bốn người bọn họ. Vào cô gái đứng bên cạnh anh. Anh nhìn những đôi mắt ấy cho tới khi chúng biến mất khỏi màn hình. Falk nhớ bức ảnh đó được chụp như thế nào. Một buổi chiều gần cuối một kì nghỉ hè dài. Đó là một ngày rất vui. Và đó là một trong số những bức ảnh cuối cùng chụp bốn người họ ở bên nhau. Hai tháng sau đó, cô bé với đôi mắt đen ấy qua đời. Luke nói dối. Cậu nói dối. Falk nhìn chằm chằm xuống sàn nhà suốt một phút dài. Khi anh ngẩng đầu lên, đoạn phim đã tiếp tục và chuyển đến cảnh Luke cùng Karen đang mỉm cười theo đúng nghi thức trong ngày cưới của mình. Falk được mời. Anh cố nhớ lại xem mình đã lấy lý do gì để từ chối tham dự. Công việc, gần như chắc chắn là thế rồi. Những bức ảnh đầu tiên của Billy bắt đầu xuất hiện. Khuôn mặt sơ sinh đỏ au, rồi mái đầu dày tóc khi là đứa trẻ lên ba. Đã trông hơi hơi có nét giống cha nó. Mặc quần đùi đứng bên cây thông Giáng sinh. Cả gia đình mặc trang phục bộ ba quái vật, nước sơn màu trên mặt họ nứt nẻ theo những nụ cười. Tua nhanh thêm vài năm nữa, Karen lúc này đã nhiều tuổi hơn, đang ôm ấp một đứa trẻ mới sinh khác trên ngực. Charlotte. Đứa trẻ may mắn. Những cái tên kết bằng hoa không có tên của nó. Như thể nhằm đúng thời điểm ấy, Charlotte, lúc này đã mười ba tháng tuổi, bắt đầu khóc thét lên từ trên hàng ghế đầu, trong lòng bà nội. Barb Hadler, một tay ôm chặt con bé vào ngực, đung đưa theo nhịp đầy lo lắng, tay còn lại chấm chấm khăn giấy lên mắt. Falk không có kinh nghiệm gì với lũ trẻ con, không biết liệu có phải Charlotte nhận ra mẹ nó trên màn hình hay không. Hay có lẽ bởi vì con bé cảm thấy bực bội khi phải xuất hiện trong đoạn phim tưởng nhớ trong khi nó còn đang sống sờ sờ. Con bé nên quen với việc đó, đột nhiên anh nhận ra. Con bé không có nhiều lựa chọn. Một đứa trẻ mà số phận đã định cho nó phải lớn lên với danh xưng “người sống sót duy nhất” rất khó để có thể giấu giếm. Những giai điệu âm nhạc cuối cùng nhỏ dần rồi lặng hẳn, những bức ảnh sau cuối hiện lên cùng sự im lặng khó chịu. Có cảm giác như tất cả mọi người cùng thở phào nhẹ nhõm khi ai đó bật đèn lên. Khi vị giáo sĩ to béo nặng nề bước hai bước lên bục giảng kinh, Falk lại chăm chú nhìn vào những cỗ quan tài đáng sợ đó. Anh nghĩ đến cô bé mắt đen, về lời nói dối được bịa ra và tán thành hai mươi năm trước, khi nỗi sợ hãi và hoóc-môn của tuổi mới lớn sục sôi trong từng mạch máu của anh. Luke nói dối. Cậu nói dối. Con đường đi từ quyết định ngày ấy tới giây phút này của hôm nay ngắn tới mức nào? Câu hỏi cứ đau nhói như một vết bầm tím đỏ. Khi một phụ nữ lớn tuổi trong đám đông không đưa mắt nhìn về phía trước nữa, ánh mắt của bà ta dừng lại chỗ Falk. Anh không biết bà ta, nhưng bà ta vô thức gật đầu với anh như thể lịch sự tỏ vẻ nhận ra anh. Falk nhìn sang hướng khác. Khi anh liếc mắt nhìn lại, bà ta vẫn đang nhìn anh chăm chú. Đột nhiên lông mày bà ta nhíu lại, rồi quay sang một phụ nữ lớn tuổi khác ngồi bên cạnh. Không cần phải đọc được đôi môi mấp máy Falk cũng biết bà ta đang thì thầm điều gì. Thằng con nhà Falk quay lại rồi kìa. Ánh mắt người phụ nữ thứ hai nhìn nhanh vào mặt anh rồi vội vã quay đi. Bằng cái gật đầu thật khẽ, bà ta xác minh cho sự nghi ngờ của người bạn. Bà ta quay sang thì thầm gì đó với người phụ nữ ngồi cạnh phía bên kia. Ngực Falk nghẹn lại, bứt rứt không yên. Anh kiểm tra đồng hồ. Mười bảy tiếng. Rồi sau đó anh sẽ đi. Lại đi. Cảm ơn Chúa. CHƯƠNG 2 “Anton Falk, em thách anh dám bỏ đi đấy.” Falk đứng cạnh chiếc xe của mình, định lên xe và lái đi nhưng nội tâm thôi thúc anh ở lại. Đám người đi đưa tang cũng bắt đầu lê những bước chân nặng nề tới buổi lễ tưởng nhớ người đã khuất. Falk quay người về phía tiếng nói cất lên, bất giác nở nụ cười. “Gretchen!” Anh thốt lên khi người phụ nữ chạy đến ôm lấy anh thật chặt, vùi đầu vào vai anh. Falk nhẹ nhàng đặt cằm của mình lên mái tóc vàng óng ả và hai người cứ đứng ôm nhau như thế trong suốt cả một phút. “Lạy Chúa, anh không thể tưởng tượng được em vui mừng thế nào khi nhìn thấy anh ở đây đâu.” Cô vẫn ôm Falk, giọng nghẹn ngào qua lớp áo của anh. “Dạo này em ổn chứ? Falk cất tiếng hỏi khi cô buông anh ra. Gretchen Schoner chậm rãi tháo chiếc kính râm rẻ tiền của mình xuống để lộ cặp mắt đỏ hoe, Cô khẽ khàng nhún vai. “Không tốt lắm. Nếu không muốn nói là khá tệ. Còn anh thì sao?” “Cũng chẳng khác em là bao.” “Trông anh vẫn y như ngày xưa.” Cô nhoẻn miệng cười. “Vẫn cái vẻ nhợt nhạt thiếu sức sống này.” “Em cũng chẳng thay đổi gì cả.” Cô khịt mũi tỏ vẻ ngờ vực lời anh nói, nhưng nụ cười vẫn nở trên môi. “Không một chút thay đổi nào trong hai mươi năm ư? Đừng đùa chứ.” Falk quả thực không phóng đại một chút nào. Anh hoàn toàn có thể nhận ra Gretchen từ bức ảnh chụp bốn người thời niên thiếu vừa được trình chiếu trong buổi tang lễ. Vòng eo của cô gái Luke từng ôm bây giờ đã đầy đặn hơn so với ngày xưa, mái tóc vàng hoe giờ cũng dài và dày hơn trước, nhưng cặp mắt xanh và đôi gò má cao thì đích thị là của Gretchen thời hoa niên. Bộ quần áo cô đang mặc hơi bó so với phục tang truyền thống, bởi vậy việc đi lại gặp một chút khó khăn. Falk thầm nghĩ không biết là do cô đi mượn hay chỉ là hiếm khi mặc bộ quần áo này. Gretchen cũng chăm chú nhìn Falk, và khi ánh mắt họ gặp nhau, cô bật cười. Trong thoáng chốc, người phụ nữ đứng trước mặt anh trông trẻ trung và dịu dàng hơn bao giờ hết. “Đi thôi.” Cô tiến lại gần và siết chặt cánh tay của Falk. Anh cảm thấy trên da mình sự mát mẻ toát ra từ lòng bàn tay cô. “Buổi tưởng nhớ diễn ra tại trung tâm cộng đồng. Chúng ta cùng tới đó nhé.” Khi họ chuẩn bị bước đi, cô cất tiếng gọi một cậu bé đang cầm cái que chọc chọc thứ gì đó. Cậu bé ngước lên và miễn cưỡng ngừng lại thú vui của mình. Gretchen đưa tay ra nhưng cậu bé lắc đầu rồi chạy vọt lên phía trước, huơ huơ cái que giả bộ như đang cầm một thanh kiếm. “Con trai của em, Lachie.” Gretchen nói, ánh mắt quay sang Falk. “Ồ, phải rồi.” Phải một lúc sau Falk mới nhớ ra cô bé anh quen thuở nhỏ bây giờ đã là một bà mẹ. “Anh nghe nói em có một đứa con.” “Nghe từ ai cơ? Luke à?” “Chắc hẳn là vậy rồi.” Falk nói “Hiển nhiên là Luke đã nói cho anh việc này từ lâu. Thằng bé mấy tuổi rồi thế?” “Nó mới lên năm, nhưng lúc nào cũng là trùm sò trong mấy trò nghịch ngợm với bạn bè nó.” Hai người quay nhìn về phía cậu bé. Lachie đang cầm thanh kiếm tự chế của mình đâm thẳng vào kẻ thù vô hình trong không khí. Cặp mắt cậu bé cách khá xa nhau, mái tóc xoăn đã nhuốm màu đất cát, nhưng Falk không thể nhìn thấy nhiều đặc điểm của Gretchen nơi nét mặt lanh lợi của cậu bé. Anh cố lục lại trong trí nhớ liệu có khi nào Luke từng nói với anh về việc hẹn hò của Gretchen, hay đề cập qua ai là bố của đứa bé. Nhưng anh nghĩ câu trả lời là không. Falk vẫn tiếp tục chìm đắm trong suy tư. Anh liếc nhìn xuống bàn tay trái của Gretchen. Không có nhẫn, nhưng điều đó cũng chẳng có nghĩa lý gì nhiều trong xã hội ngày nay. “Vậy cuộc sống gia đình em hiện giờ thế nào?” Cuối cùng anh cất tiếng hỏi, phá tan bầu không khí tĩnh lặng. “Tạm ổn. Nuôi nấng Lachie khá là vất vả đối với em.” Gretchen đáp lại bằng giọng trầm ngâm. “Chỉ có hai mẹ con thôi. Nhưng nó ngoan lắm. Hai mẹ con em vẫn xoay xở được, chí ít là đến thời điểm hiện tại.” “Nông trại của cha mẹ em vẫn hoạt động chứ?” Cô khẽ lắc đầu. “Không, Chúa ơi. Họ nghỉ làm lâu rồi và đã bán hết mọi thứ khoảng tám năm trước. Cha mẹ em sau đó chuyển tới Sydney, mua một căn nhà nhỏ cách chỗ của chị gái em và mấy đứa con của chị ấy ba dãy phố.” Cô nhún vai. “Họ nói thích cuộc sống ở thành phố. Cha em đến giờ hình như vẫn chăm tập thể dục lắm.” Falk không thể nhịn cười khi mường tượng ra hình ảnh ông Schoner thẳng tính đang tập trung cao độ vào các bài tập hít thở và luyện nội công. “Em không có ý định đi theo họ à?” Cô nở một nụ cười gượng và chỉ vào hàng cây cằn cỗi nằm dọc đường. “Bỏ lại tất cả những thứ này ư? Ồ không. Em đã ở đây quá lâu rồi, mọi thứ dường như đã ngấm vào máu. Anh biết cảm giác này là thế nào mà.” Cô bỏ lửng câu nói của mình, quay mặt nhìn sang bên. “Cũng có thể anh không hiểu. Em xin lỗi.” Falk khoát tay như muốn nói cô đừng quá bận tâm đến điều đó. “Thế hiện giờ em đang làm gì?” “Dĩ nhiên vẫn nối nghiệp cha mẹ em. Cố gắng thì đúng hơn. Em đã mua lại toàn bộ trang trại cừu Kellerman cách đây vài năm.” “Mua lại toàn bộ?” Anh ngỡ ngàng. Đó là một cơ ngơi mà rất nhiều người mong muốn có được. Chí ít nó đã như thế khi anh còn bé. “Anh thì sao?” Cô hỏi. “Em nghe nói anh đã vào ngành cảnh sát?” “Ừ, đúng vậy. Cảnh sát liên bang. Đến giờ vẫn thế” Hai người lại im lặng, chậm rãi bước đi trên con đường. Tiếng chim hót líu lo len lỏi trong các kẽ lá nghe không khác gì âm thanh ngày xưa trong ký ức của anh. Phía trước, các tốp người đi đưa đám trong bộ phục tang màu đen trông hệt như những vết nhơ nổi bật trên con đường bụi mù trắng xóa. “Mọi việc ở đây thế nào rồi?” Anh hỏi. “Tồi tệ.” Chỉ hai tiếng cụt lủn vang lên. Gretchen vỗ nhẹ đầu ngón tay vào môi mình, cử chỉ mang dáng dấp của một người đã từng hút thuốc. “Chúa biết là trước đấy mọi thứ đã đủ kinh khủng lắm rồi. Nỗi sợ hãi về khủng hoảng tài chính và hạn hán khiến con người héo mòn. Sau đấy thì chính Luke và gia đình anh ấy đã phải đối mặt với cơn ác mộng này, và việc diễn ra thật tệ hại, Aaron ạ. Anh cũng cảm nhận được mà. Mọi người vật vờ như những cái xác sống vô hồn. Không ai biết phải nói gì hay làm gì. Chỉ đơn giản là nhìn nhau thôi. Cố gắng đoán xem ai sẽ là người tiếp theo nằm xuống.” “Lạy Chúa!” “Đúng vậy, anh không thể hiểu nổi đâu.” “Em và Luke vẫn thân thiết phải không?” Falk tò mò hỏi. Một thoáng ngại ngần hiện ra trên nét mặt của Gretchen. Khuôn miệng cong cong tạo thành một nụ cười nhẹ. “Không. Em và anh ấy đã không còn thân thiết nhiều năm rồi. Mọi thứ không còn gần gũi và trong trẻo như thời bốn chúng ta chơi với nhau đâu.” Bức ảnh đó lại hiện lên trong tâm trí Falk. Anh, Luke, Gretchen. Và Ellie Deacon, cô gái với mái tóc dài đen nhánh. Họ đã từng rất khăng khít. Tình bạn thời niên thiếu, đó là khi bạn tin rằng những người bạn của mình là bạn tâm giao, chí cốt và tình bạn này sẽ kéo dài mãi mãi. Luke nói dối. Cậu nói dối. “Anh chắc hẳn có giữ liên lạc với Luke nhỉ?” Gretchen hỏi. “Không thường xuyên lắm.” Chí ít đây là sự thật. “Khi Luke ở Melbourne, bọn anh thi thoảng hẹn gặp nhau uống vài ly bia, đại loại là như vậy.” Falk dừng lại một chút. “Vài năm gần đây anh cũng không gặp cậu ấy. Ai cũng bận rộn cả, em biết đấy. Cậu ấy có gia đình riêng để chăm sóc, còn anh thì quay cuồng với công việc của mình.” “Em hiểu mà, anh không cần phải giải thích. Chúng ta đều mang cảm giác áy náy như vậy.” Trung tâm cộng đồng dần hiện ra trước mắt. Falk bước tụt lại phía sau và Gretchen phải kéo mạnh cánh tay anh. “Thôi nào, mọi chuyện sẽ ổn thôi. Mọi người thậm chí còn chẳng nhớ anh là ai nữa đâu.” “Ngược lại, sẽ có cả tá người nhận ra anh ấy chứ. Đặc biệt là sau khi họ trình chiếu bức ảnh kia tại đám tang.” Cô thoáng nhăn mặt, tỏ vẻ không đồng ý với lời của Falk. “Em biết mà. Em cũng đã vô cùng sửng sốt khi nhìn thấy bức ảnh đó. Nhưng anh nhìn xem, ai cũng đang bận bịu với công việc của họ, chẳng ai rảnh để nhớ ra anh là ai đâu. Đừng nghĩ nhiều nữa. Chúng ta sẽ đi ra phía sau.” Không đợi Falk trả lời, một tay cô túm lấy tay áo anh, tay còn lại nắm tay con trai mình, chen qua đám đông, dẫn họ vào bên trong. Không khí lúc này thật ngột ngạt. Chiếc máy điều hòa tại trung tâm cộng đồng đã chạy hết công suất, nhưng cũng không thể làm dịu mát bầu không khí của hàng chục con người đang tụ tập thành các đám đông lộn xộn. Họ cứ thế trà trộn vào nhau, giữ thăng bằng trên tay mấy cái cốc nhựa và đĩa bánh sô cô la truyền thống. Gretchen tiến tới chỗ cánh cửa kiểu Pháp, nơi hội chứng sợ không gian chật hẹp đã đẩy đám người đứng lộn xộn ra ngoài cái sân loang lỗ. Họ tìm thấy một nơi thoáng mát bên cạnh hàng rào, còn Lachie vội vã tách khỏi họ để chạy đến chỗ cái cầu trượt bằng kim loại đang nóng rực lên dưới cái oi bức của ngày hè. “Em không cần phải đứng cạnh anh đâu, nếu điều này làm em xấu mặt.” Falk nói, tay chỉnh chiếc mũ để che mặt mình đi. “Thôi đi, Falk. Em cũng tự gây ra cho mình điều đó mà.” Falk đưa mắt nhìn quanh sân chơi một lượt, sau đó ánh mắt dừng lại trước một cặp đôi lớn tuổi mà anh nghĩ rất có thể đã từng là bạn của cha anh. Họ đang trao đổi gì đó với một viên cảnh sát trẻ, người này từ đầu đến chân mang nguyên bộ đồng phục của cảnh sát, và không thể tránh khỏi việc đổ mồ hôi nhễ nhại dưới cái nắng gay gắt của buổi chiều. Trán anh ta bóng lên mỗi khi lịch sự gật đầu với họ. “Này!” Falk hỏi. “Kia là người thay thế vị trí của Barberis phải không?” Gretchen hướng mắt theo cái nhìn của Falk. “Đúng vậy, anh đã nghe nói về chuyện của Barberis rồi à?” “Hiển nhiên. Đúng là một sự mất mát lớn. Em còn nhớ cái cách mà anh ấy dọa chúng ta sợ chết khiếp bằng mấy câu chuyện kinh dị về đám trẻ con phá phách dụng cụ làm nông chứ?” “Em có nhớ.” “Đúng là không biết nói gì. Đáng buồn thật!” Falk nói bằng giọng trầm tư. “Vậy người mới là ai thế?” “Trung sĩ Raco, và anh ta đang tiếp nhận một mớ bòng bong khó giải quyết đấy.” “Không tốt ư? Có vẻ anh ta đang xử lý với đám đông khá ổn mà.” “Em cũng không chắc. Anh ta chỉ mới xuất hiện ở đây được khoảng năm phút khi tất cả chuyện này xảy ra.” “Mới năm phút đầu mà đã phải tiếp nhận một mớ hỗn độn.” Sự xôn xao và lộn xộn chỗ cửa ra vào làm đứt quãng câu trả lời của Gretchen. Đám đông kính cẩn rẽ lối khi Barb và Gerry Hadler bước ra, hai người họ nổi bật dưới ánh nắng. Tay nắm tay thật chặt, họ đi tới chỗ từng tốp người đến đưa tang. Vài câu nói, một cái ôm, cái gật đầu khích lệ, an ủi nhau vượt qua nỗi đau này. “Bao lâu rồi kể từ lần cuối cùng anh nói chuyện với họ?” Gretchen thì thầm. “Hai mươi năm, cho đến khi gặp lại vào tuần trước.” Falk trả lời. Anh chờ đợi. Gerry vẫn đang đứng khoảng sân bên kia khi Falk nhìn thấy họ. Ông quay đi khi một phụ nữ phục phịch dang tay ra định ôm lấy ông, khiến cánh tay của bà ta bị bỏ lửng như đang ôm lấy không khí. Hãy đến đám tang. Falk đã đến theo lời chỉ dẫn. Và giờ thì anh đang nhìn cha của Luke tiến lại gần. Gretchen bước tới, cô tặng Gerry một cái ôm. Phía sau bờ vai cô, ánh mắt của ông chạm tới Falk, hai đồng tử sáng lên và mở to. Falk thầm nghĩ liệu có liều thuốc nào có thể giúp anh vượt qua ngày hôm nay không? Khi vòng tay của Gretchen buông xuống, Gerry đưa tay ra phía trước, bắt tay Falk bằng cái nắm tay thật chặt và ấm nóng của mình. “Cậu đã đến.” Ông nói bằng giọng không lộ rõ cảm xúc trong khi Gretchen đứng bên cạnh hai người. “Vâng.” Falk đáp. “Cháu đã nhận được thư của bác.” Ánh mắt của Gerry bất động nhìn Falk. “Tốt lắm. Ta nghĩ rằng sự hiện diện của cậu có ý nghĩa rất lớn ngày hôm nay. Đối với Luke. Ta đã không dám chắc là cậu có đến hay không đấy, anh bạn.” Câu nói cuối cùng như ngưng đọng lại, lơ lửng trong không khí. “Chắc chắn rồi, bác Gerry.” Falk gật đầu. “Việc có mặt ở đây rất quan trọng.” Sự hoài nghi của Gerry không phải là vô căn cứ. Một tuần trước, khi Falk đang ngồi tại bàn làm việc ở Melbourne, đôi mắt trống rỗng nhìn vào bức ảnh của Luke trên mặt báo thì tiếng chuông điện thoại vang lên. Bằng giọng ngập ngừng mà Falk đã không nghe trong suốt hai thập kỷ, Gerry báo cho anh về thông tin buổi tang lễ. “Chúng tôi sẽ gặp cậu ở đó.” Với câu nói không phải một câu hỏi, ông kết thúc cuộc điện thoại. Falk tránh cái nhìn của Luke như muốn xoáy vào tâm can khi anh lầm bầm gì đó về các cam kết trong công việc. Thực tế, Falk đã vô cùng lưỡng lự. Hai ngày sau đó, một bức thư được gửi tới chỗ anh. Chắc hẳn Gerry đã gửi bức thư này ngay sau khi ông ngắt máy. Cậu nói dối. Hãy đến đám tang. Falk đã không thể có được giấc ngủ ngon vào đêm hôm đó. Cả hai bối rối liếc nhìn Gretchen. Cô cau mày nhìn cậu con trai đang đu đưa leo qua các thanh ngang trên một khung sắt, trông như một chú khỉ con. “Cậu sẽ ở lại thị trấn vào tối nay.” Gerry nói. Một lần nữa Falk để ý rằng không có ngữ điệu hỏi trong câu nói của Gerry. “Ở lầu trên của nhà trọ.” Một tiếng khóc thét vang tới từ sân chơi và Gretchen vừa lo lắng vừa bực dọc nói: “Chết tiệt. Biết ngay là thể nào cũng có chuyện mà. Cháu xin phép một chút nhé.” Cô chạy vội ra chỗ cậu con trai. Gerry tóm lấy khuỷu tay Falk và ra hiệu cho anh tránh xa khỏi đám đông. Tay ông run lên. “Chúng ta cần nói chuyện. Trước khi con bé quay trở lại.” Falk khẽ giật cánh tay của mình ra để tránh sự chú ý của đám đông sau lưng. Không biết những ai đang nhìn, và những ai đang đứng ở đó. “Lạy Chúa, Gerry, bác muốn cái quái gì thế?” Falk cố tỏ ra đang đứng một cách thoải mái nhất có thể. “Nếu bác định đe dọa cháu thì cháu có thể nói rõ rằng việc này không có tác dụng đâu.” “Gì cơ? Aaron. Không. Ta không hề có ý như vậy.” Gerry ngỡ ngàng trước những lời của Falk. “Nếu muốn gây rắc rối thì ta đã làm cách đây mấy năm rồi, phải không? Ta đã vờ như không biết tới lời nói dối đó. Lạy Chúa, ta đã vui mừng chấp nhận sự giả dối ấy. Nhưng giờ ta không thể để như vậy được nữa. Làm sao ta có thể lờ đi mọi chuyện khi nó diễn ra theo chiều hướng như thế này? Cả Karen và Billy đều đã chết, thằng bé thậm chí còn chưa lên bảy tuổi.” Giọng Gerry như vỡ vụn ra. “Nghe này, ta rất tiếc về chuyện bức thư, nhưng ta thực sự cần cậu ở đây. Ta cần phải biết một chuyện.” “Chuyện gì?” Đôi mắt của Gerry gần như tối sầm lại dưới cái nắng gay gắt. “Có phải Luke đã giết ai đó trước đây…” Falk im lặng. Anh không hỏi ý của Gerry là gì. “Cậu biết là…” Gerry bỏ lửng câu nói của mình khi một phụ nữ lăng xăng chạy tới thông báo cho ông rằng có vị giáo sĩ cần nói chuyện với ông. Ngay lập tức nếu có thể. “Chúa ơi, mọi chuyện cứ rối tinh lên.” Gerry cắt ngang, người phụ nữ hắng giọng, nét mặt cô ta trở nên thật bình thản và kiên nhẫn. Ông quay lại phía Falk. “Ta phải đi đã. Liên lạc với cậu sau.” Ông bắt tay Falk, cái nắm tay lâu hơn thông thường. Falk gật đầu. Anh hiểu. Gerry trông hơi lom khom và nhỏ bé khi theo sau người phụ nữ. Sau khi vuốt ve dỗ dành cậu con trai của mình, Gretchen bước trở lại chỗ của Falk. Họ đứng cạnh nhau nhìn Gerry rời đi. “Bác ấy trông thật tiều tụy!” Cô trầm ngâm nói. “Em nghe thấy bác ấy la hét với Craig Hornby trong siêu thị ngày hôm qua, trách mắng rằng bác ấy đã xem nhẹ chuyện gì đó. Em không chắc là chuyện gì, nhưng Craig luôn là bạn tốt của bác ấy trong suốt năm mươi năm qua.” Falk không thể tưởng tượng ra ai lại dám xem nhẹ ba chiếc quan tài ảm đạm lãnh lẽo này, Craig Hornby thì lại càng không thể. “Thực sự không có bất kỳ dấu hiệu cảnh báo nào từ Luke à?” Không thể kiềm chế lâu hơn được nữa, Falk cất tiếng hỏi. “Như thế nào cơ?” Một con ruồi đậu vào môi của Gretchen và cô vội phẩy nó đi một cách thiếu kiên nhẫn. “Anh ấy có vung vẩy khẩu súng đi lại trên con đường lớn và đe dọa sẽ xuống tay với gia đình mình không á?” “Chúa ơi, Gretchen, anh chỉ hỏi thôi. Ý anh là Luke có bị trầm cảm hay bệnh gì đại loại như vậy không?” “Em xin lỗi. Tại trời nóng quá. Cái oi bức khiến mọi thứ càng trở nên tồi tệ hơn.” Cô dừng lại. “Nhìn kìa, ai sống ở Kiewarra cũng gần như sắp hết hơi rồi. Nhưng thành thật mà nói, điều mà Luke phải đối mặt cũng chẳng khác những người ở đây là bao. Chí ít là không phải theo cái cách mà mọi người chấp nhận nhìn thấy.” Cái nhìn chăm chú xa xăm của Gretchen trông thật dữ tợn. “Dù sao cũng thật khó nói.” Cô nói sau một hồi suy tư. “Mọi người đều cảm thấy tức giận. Nhưng họ không chỉ căm phẫn mỗi Luke. Những người muốn trả thù anh ấy nhất dường như lại không quá căm ghét anh ấy vì những việc mà anh ấy đã làm. Thật kỳ lạ. Rất có thể họ chỉ ghen tỵ mà thôi.” “Ghen tỵ về cái gì?” “Về sự thật rằng anh ấy đã làm được một việc mà họ không thể tự mình làm được, em nghĩ vậy. Bởi vì bây giờ anh ấy đã được giải thoát rồi, không phải sao? Trong khi những người còn lại trong chúng ta đang chết dần chết mòn ở đây, thì anh ấy không còn phải bận tâm về vụ mùa, trễ hạn thanh toán hay mùa mưa tiếp theo nữa.” “Giải pháp tuyệt vọng.” Falk nói. “Đưa cả vợ con đi theo. Gia đình Karen đối mặt với việc này như thế nào?” “Theo như những gì em được biết, cô ấy thực sự không còn họ hàng thân thích. Anh đã từng gặp cô ấy chưa?” Falk lắc đầu. “Là con một.” Gretchen nói. “Cha mẹ cô ấy đều đã qua đời khi cô ấy ở độ tuổi vị thành niên. Cô ấy chuyển đến đây sống với một người dì, nhưng người này cũng qua đời vài năm trước. Thật ra Karen cũng gần như một người ruột thịt của nhà Hadler rồi.” “Em có làm bạn với cô ấy không?” “Không hẳn. Em…” Từ phía những cửa ra vào vang lên tiếng leng keng của dao nĩa và cốc thủy tinh chạm vào nhau. Đám đông dần trở nên im lặng, quay mặt về phía Gerry và Barb Hadler đang đứng tay trong tay. Trông hai người thật cô độc giữa đám người xung quanh. Falk chợt nhận ra, bây giờ chỉ còn lại hai người bọn họ. Họ cũng đã từng có một đứa con gái, trong một khoảng thời gian ngắn. Con bé bị chết non khi Luke mới ba tuổi. Giá như họ cố gắng có thêm nhiều đứa nữa sau lần thất bại ấy. Thay vào đó, họ dồn hết tâm huyết vào việc nuôi dạy đứa con trai mạnh mẽ còn sống sót của mình. Barb hắng giọng, mắt bà đảo một lượt quanh đám đông. “Chúng tôi muốn cảm ơn vì sự hiện diện của mọi người. Luke là một người tốt.” Những ngôn từ bật ra nhanh và to, bà vội mím chặt môi lại như để ngăn chúng thốt ra thêm nữa. Sự im lặng kéo dài đến độ người tham dự cảm thấy lúng túng. Gerry nhìn bất động về phía khoảng sân trước mặt ông. Hít một hơi thật dài, Barb tiếp tục. “Còn Karen và Billy thật xinh đẹp. Những gì đã xảy ra…” Bà nghẹn ngào “… thật kinh khủng. Nhưng tôi mong rằng mọi người sẽ ghi nhớ về một Luke tốt bụng như trước đây. Con trai chúng tôi đã từng là bạn đối với rất nhiều người trong số các bạn. Một người hàng xóm lương thiện, một người nông dân cần mẫn. Và nó yêu thương gia đình của mình.” “Phải rồi, cho đến khi anh ta ra tay tàn sát họ.” Những từ ngữ trôi nổi bay lên từ phía cuối đám đông, nhưng Falk không phải người duy nhất quay đầu nhìn về phía sau. Mọi ánh mắt chằm chằm hướng về phía người nói ra câu đó - một người đàn ông trung niên cao lớn. Bắp tay ụ thịt với mỡ nhiều hơn cơ của gã căng phồng dưới lớp áo phông khi gã khoanh tay lại. Mặt gã đỏ ửng, với bộ râu rối bù và dáng vẻ thách thức của một kẻ chuyên đi bắt nạt. Gã chằm chằm nhìn lại từng người đang chĩa ánh mắt trách móc về phía gã, cho đến khi từng người bọn họ phải quay mặt đi. Barb và Gerry vờ như không nghe thấy. Lòng nhân từ nhỏ nhoi, Falk nghĩ. “Ai mà to mồm vậy?” Anh thì thầm, còn Gretchen ngạc nhiên nhìn anh. “Anh không nhận ra gã đó à? Là Grant Dow đấy.” “Em đùa hả?” Falk cảm thấy các sợi lông tơ trên cổ mình dựng lên và anh quay mặt sang hướng khác. Anh nhớ một gã đàn ông hai mươi lăm tuổi với cơ bắp săn chắc như dây thép gai. Còn gã đàn ông hiện tại trông như thể đã phải vật lộn với hai thập kỷ khó khăn kể từ đó. “Hắn trông khác quá.” “Vẫn là một kẻ ngu ngốc. Đừng lo lắng. Em không nghĩ hắn nhìn thấy anh đâu. Nếu mà hắn nhìn thấy thì anh đã biết rồi.” Falk gật đầu, nhưng mặt vẫn quay sang hướng khác. Bà Barb bắt đầu khóc, và đám đông coi đây là dấu hiệu cho thấy bài phát biểu đã kết thúc, theo bản năng, mọi người tiến về phía bà hoặc rời đi, tùy thuộc vào tình cảm họ dành cho bà. Falk và Gretchen vẫn đứng tại chỗ. Đứa con trai của Gretchen chạy tới và vùi mặt vào quần mẹ. Với một chút gắng sức, cô bế thằng bé lên ngang hông và nó tựa đầu vào vai mẹ mà ngáp. “Em nghĩ đã đến lúc đưa thằng bé về nhà rồi.” Cô nói. “Khi nào anh quay trở lại Melbourne?” Falk nhìn đồng hồ đeo tay. Mười lăm tiếng nữa. “Ngày mai.” Anh trả lời. Gretchen gật đầu, ngước mắt nhìn anh. Rồi cô ngả người về phía trước, vòng cánh tay còn lại của mình ôm lấy lưng anh và kéo anh lại gần. Falk có thể cảm thấy sức nóng của mặt trời phía sau lưng và trước ngực là cơ thể ấm áp của cô. “Rất vui được gặp lại anh, Aaron.” Đôi mắt xanh thẳm của cô lang thang trên khuôn mặt anh như đang cố ghi nhớ tất cả các đường nét. Mỉm cười buồn bã, cô nói: “Có thể chúng ta sẽ gặp lại nhau sau hai mươi năm nữa.” Anh lặng lẽ nhìn cô bước đi cho đến khi hình bóng cô nhỏ dần rồi biến mất hẳn. CHƯƠNG 3 Falk ngồi bên mép giường, bơ phờ nhìn con nhện thợ săn cỡ vừa đang đứng im lìm trên tường. Mới đầu buổi tối, nhiệt độ giảm xuống không đáng kể sau khi mặt trời lặn. Tắm rửa xong, anh đã thay sang quần đùi, hai chân ướt nước chạm vào tấm ga trải giường bằng vải bông rẻ tiền khiến anh cảm thấy khó chịu. Tấm biển treo trên cái đồng hồ đo thời gian hình quả trứng bên cạnh vòi hoa sen, lạnh lùng nhắc nhở anh chỉ được tắm gội trong vòng ba phút. Anh bắt đầu cảm thấy tội lỗi khi bước sang phút thứ hai. Âm thanh từ quán bar phía bên dưới vang lên qua sàn nhà, thi thoảng có tiếng người vọng tới nghe như thứ âm thanh xa xôi thân thuộc. Một phần trong anh tò mò muốn biết có ai đang ở dưới đó, nhưng anh lại chẳng hề khao khát được tham gia. Đôi khi tiếng ồn ào lại bị ngắt quãng bởi tiếng ly rơi vỡ. Rồi một lúc im bặt trước khi cả tràng cười nhạo báng vang lên. Con nhện thợ săn cựa quậy đôi chút. Falk bật dậy khi tiếng chuông điện thoại reo lên từ chiếc bàn cạnh giường, nghe chói tai và có vẻ giả tạo. Anh giật mình song không ngạc nhiên. Cảm tưởng như anh đã chờ đợi cuộc gọi này hàng giờ đồng hồ rồi. “Xin chào?” “Aaron Falk hả? Anh có điện thoại đấy.” Giọng của người phục vụ quầy bar trầm trầm, thoáng chất giọng của người Scotland. Falk tưởng tượng ra cái thân hình bệ vệ, cách đây hai giờ đồng hồ, đã lấy thông tin thẻ tín dụng trước khi giao chìa khóa cho anh mà không nói thêm điều gì khác. Falk chưa bao giờ gặp anh ta, và anh dám chắc mình nhất định sẽ nhớ nếu từng gặp qua một gương mặt như thế. Ngoài bốn lăm tuổi, vai rộng và râu quai nón màu cam, anh chàng phục vụ quầy bar này hẳn từng là một tay lữ khách xách ba lô đi khắp chốn, rồi dừng chân lại đây. Falk đoán. Anh ta không có vẻ gì là nhận ra tên của Falk, chỉ hơi một chút hoài nghi khi có người tới quán rượu mà lại không vì mục đích nào liên quan trực tiếp tới rượu. “Ai gọi vậy?” Falk hỏi, mặc dù anh có thể đoán ra. “Anh phải tự hỏi đi thôi.” Người phục vụ quầy bar nói. “Nếu muốn dùng dịch vụ để lại lời nhắn, anh phải chọn chỗ nào sang trọng hơn mới được, anh bạn ạ. Tôi nối máy cho anh bây giờ đây.” Đường dây điện thoại im lặng một lúc lâu, rồi Falk nghe thấy có tiếng thở. “Aaron? Cậu đang nghe chứ? Là Gerry đây.” Giọng người cha của Luke có vẻ mệt mỏi. “Bác Gerry. Chúng ta cần nói chuyện.” “Phải. Tới nhà đi. Dù sao Barb cũng muốn nói chuyện với cậu.” Gerry đọc cho anh địa chỉ nhà. Tiếp đó là khoảng im lặng dài, rồi đến một tiếng thở dài nặng nhọc. “Nghe này Aaron. Bà ấy không biết gì về bức thư. Hay bất cứ điều gì về chuyện này. Hãy để kệ như thế đi, được chứ?” Falk theo chỉ dẫn của Gerry, lái xe trên những con đường u ám của miền quê, rồi hai mươi phút sau, anh đưa xe vào một đoạn đường ngắn lát đá. Bóng đèn ngoài hiên hắt luồng ánh sáng da cam lên ngôi nhà mái nghiêng gọn gàng, sạch sẽ. Anh đỗ xe lại, và cánh cửa lưới rít mở, để lộ ra bóng người lùn mập của bà Barb Hadler. Một lát sau, chồng bà cũng xuất hiện từ phía sau, thân hình cao lớn của ông hắt cái bóng dài lên con đường dẫn vào nhà. Khi Falk bước tới, anh nhìn thấy hai người vẫn đang mặc nguyên bộ trang phục. Giờ đã nhàu nhĩ. “Aaron. Ôi Chúa ơi, đã lâu lắm rồi. Cảm ơn cháu vì đã tới đây. Vào trong đi nào.” Barb vừa thì thầm, vừa chìa một bàn tay ra với anh. Tay bên kia bà đang ôm chặt Charlotte bé nhỏ vào ngực và liên tục rung rung. “Xin lỗi vì con bé. Nó hiếu động lắm. Chẳng lúc nào chịu yên cả.” Từ những gì Falk có thể nhìn thấy, Charlotte đang ngủ say. “Bác Barb.” Falk vươn người tới, qua cả đứa bé, để ôm chặt người phụ nữ. “Thật tốt khi được gặp lại bác.” Bà ôm anh suốt một lúc lâu, cánh tay mập mạp của bà vòng quanh lưng anh, và anh cảm thấy thứ gì đó trong mình với nhẹ đi đôi chút. Anh có thể ngửi thấy mùi hương của hoa cỏ ngọt ngào từ keo xịt tóc của bà. Vẫn là nhãn hiệu mà bà dùng từ hồi còn trẻ. Họ tách nhau ra, và lần đầu tiên, anh có thể cúi nhìn xuống, ngắm nghía kĩ lưỡng cô bé Charlotte. Khuôn mặt cô bé đỏ hồng lên và trông có vẻ cáu kỉnh, áp sát vào lớp áo sơ-mi của bà nội. Trán cô bé nhăn lại một chút, hơi cau có, khiến Falk điếng người nhận ra, gương mặt ấy, kì quặc thay, nhắc anh nhớ tới cha của cô bé. Anh bước vào sảnh, dưới ánh đèn, Barb nhìn anh từ trên xuống dưới, và anh quan sát lòng trắng trong mắt bà dần chuyển sang màu hồng đỏ. Bà đưa tay ra, chạm lên má anh bằng những đầu ngón tay ấm áp. “Nhìn cháu này. Cháu gần như chẳng thay đổi gì cả.” Bà nói. Chẳng biết vì sao Falk lại cảm thấy tội lỗi vô cùng. Anh biết, bà đang hình dung ra hình ảnh cậu con trai của bà, cái thời vẫn còn là một cậu nhóc mới lớn, đang đứng bên cạnh anh. Barb sụt sùi rồi dùng khăn giấy lau mặt, vài mẩu giấy rách sót lại trên trán bà. Bà mặc kệ chúng, rồi bằng một nụ cười buồn bã, bà ra hiệu cho anh đi theo mình. Bà dẫn anh đi dọc theo hành lang xếp đầy những bức ảnh gia đình được đóng khung mà cả hai người họ đều cố tình lờ đi. Gerry bám sát theo sau. “Căn nhà của bác ở đây đẹp đấy ạ, bác Barb.” Falk lịch sự nói. Người phụ nữ ấy vẫn luôn tự hào và thích được ngợi khen căn nhà của mình, nhưng giờ đây, khi nhìn xung quanh, anh có thể nhận ra vài dấu hiệu bừa bộn bất thường. Mấy chiếc cốc bẩn ngổn ngang trên bàn trà nhỏ, thùng rác đầy ngập ngụa, và hàng chồng thư vẫn chưa được mở. Tất cả những thứ ấy cùng kể một câu chuyện về nỗi đau khổ và tâm trạng rối bời mà người chủ của chúng đang phải chịu đựng. “Cảm ơn cháu. Chúng ta đã muốn có một nơi nhỏ hơn và dễ chăm nom hơn sau khi…” Bà ngập ngừng một chút. Nuốt nước bọt. “Sau khi chúng ta bán nông trại cho Luke.” Họ bước ra sân hiên, nhìn khu vườn được cắt tỉa gọn gàng. Lớp sàn gỗ kêu cót két dưới chân họ, bởi màn đêm vẫn tiếp tục hấp thụ đôi chút cái nóng gay gắt từ ban ngày. Xung quanh là những bụi hoa hồng đã được cắt tỉa gọn gàng, nhưng cũng sắp héo khô. “Bác đã cố gắng tái sử dụng nước để tưới, giữ cho chúng sống.” Barb vừa nói vừa nhìn theo ánh mắt của Falk. “Nhưng vẫn không lại được với cái nóng.” Bà dẫn Falk tới chỗ chiếc ghế đan bằng dây liễu. “Chúng ta đã nhìn thấy cháu trên bản tin. Gerry đã kể với cháu chưa? Vài tháng trước. Mấy công ty đó lừa gạt nhà đầu tư. Cướp sạch tiền giắt lưng của họ.” “Vụ Pemberley” Falk nói. “Vụ đó thật sự quá bàng hoàng.” “Họ nói cháu đã làm rất tốt, Aaron ạ. Trên tivi và cả trên báo nữa. Tìm lại tiền cho mấy người đó.” “Chỉ một vài người thôi ạ. Một số khác thì bị mất hẳn rồi.” “Họ nói rằng cháu đã làm rất tốt.” Barb vỗ vỗ lên chân anh. “Bố cháu chắc là tự hào lắm.” Falk ngập ngừng. “Cảm ơn bác.” “Chúng ta rất tiếc khi nghe tin ông ấy qua đời. Bệnh ung thư thực sự rất kinh khủng.” “Vâng.” Ung thư ruột, sáu năm trước. Một cái chết không nhẹ nhõm chút nào. Gerry đang đứng tựa người bên khung cửa, cất tiếng lần đầu tiên kể từ khi Falk tới. “Bác đã cố gắng giữ liên lạc kể từ sau khi cháu rời đi, cháu biết đấy.” Cái giọng cố tỏ ra bình thường của ông chẳng thể giấu nổi vẻ phòng vệ ẩn chứa đằng sau. “Viết thư cho cha cháu, thử gọi điện thoại mấy lần. Nhưng chưa bao giờ được đáp lại. Cuối cùng đành bỏ cuộc.” “Không sao đâu ạ.” Falk nói. “Bố cũng không khuyến khích cháu giữ liên lạc với Kiewarra.” Đó là một lời nói giảm nói tránh. Tất cả họ đều vờ như không để tâm. “Uống gì nhé?” Gerry biến mất vào trong nhà mà không đợi ai đáp lại, một lát sau, ông quay ra cùng ba cốc rượu whiskey to. Falk đón lấy cốc rượu của mình trong sự ngạc nhiên. Anh không biết Gerry uống được bất cứ thứ gì có độ cồn nặng hơn mấy loại bia nhẹ. Viên đá đã bắt đầu tan khi chiếc cốc được trao vào tay anh. “Cụng ly nào.” Gerry ngửa cổ ra sau và uống một hơi dài. Falk đợi xem ông cau mặt lại. Nhưng không. Falk lịch sự nhấp một ngụm rồi đặt cốc rượu xuống. Barb nhìn cốc rượu của mình bằng vẻ mặt chán ghét. “Thật sự anh không nên uống mấy thứ này trước mặt con bé, Gerry ạ.” Bà nói. “Trời ơi, thôi đi nào, Barb, con bé không quan tâm đâu. Nó đang ngủ say như chết rồi còn gì.” Gerry nói, rồi tất cả chìm vào sự im lặng đáng sợ. Đâu đó trong khu vườn tối đen như mực, tiếng côn trùng hoạt động về đêm cứ rí rách. Falk hắng giọng. “Bác vẫn chịu đựng được chứ, bác Barb?” Bà cúi xuống và vuốt má Charlotte. Bà lắc đầu, một giọt nước mắt rớt xuống khuôn mặt cô bé. “Hiển nhiên.” Barb bắt đầu, rồi ngừng lại. Bà chớp mắt liên tục. “Ý bác là, hiển nhiên, Luke không làm việc đó. Nó không bao giờ có thể làm chuyện ấy. Cháu biết điều đó mà. Không làm thế với bản thân nó. Và chắc chắn không làm thể với gia đình tuyệt vời của nó.” Falk liếc nhìn sang Gerry. Ông vẫn đang đứng ở ngưỡng cửa, mắt nhìn chằm chằm xuống cốc rượu đã uống mất một nửa. Barb tiếp tục. “Bác đã nói chuyện với Luke vài ngày trước khi sự việc xảy ra. Nó hoàn toàn ổn. Thành thật mà nói, nó vẫn bình thường.” Falk không thể nghĩ được bất cứ điều gì để đáp lại nên anh chỉ gật đầu. Barb coi đó như một dấu hiệu khích lệ. “Đấy, cháu hiểu mà, bởi vì cháu thực sự biết nó rất rõ. Nhưng những người khác quanh đây… họ không như thế. Họ chỉ chấp nhận những gì mà họ được nghe kể lại.” Falk kìm lòng, không nhắc đến việc đã năm năm rồi anh chưa gặp Luke. Hai người họ ngẩng đầu nhìn về phía Gerry, lúc này vẫn chăm chú nhìn cốc rượu. Ông không mảy may tỏ vẻ sẽ tham gia cuộc đối thoại này. “Đó là lý do mà chúng ta hi vọng…” Barb quay đầu trở lại, ngập ngừng.“… Ta hi vọng cháu có thể giúp chúng ta.” Falk nhìn bà chằm chằm. “Chính xác là giúp như thế nào, bác Barb?” “Ừ thì, tìm hiểu chuyện gì đã thực sự xảy ra. Để lấy lại thanh danh cho Luke. Cho Karen và Billy. Cả Charlotte nữa.” Nói tới đây, bà bắt đầu ru ru Charlotte trong tay, vỗ lưng cô bé, thì thầm những lời vỗ về. Đứa bé vẫn không động đậy. “Barb.” Từ chỗ đang ngồi, Falk cúi người về phía trước, đặt tay anh lên bàn tay không bận ôm em bé của Barb. Anh cảm thấy nó ươn ướt và gây gây sốt. “Cháu rất lấy làm tiếc vì những gì đã xảy ra. Với tất cả mọi người. Luke từng như anh em của cháu, bác cũng biết điều đó mà. Nhưng cháu không phải người thích hợp để làm việc này. Nếu có điều gì lo ngại, bác cần phải đến tìm cảnh sát.” “Chúng ta tìm đến cháu đây.” Bà bỏ tay của anh ra. “Cháu là cảnh sát mà.” “Cảnh sát được trang bị đầy đủ để giải quyết những vụ án như thế này cơ ạ. Cháu không còn làm việc đó nữa. Bác biết mà. Giờ cháu đang làm ở mảng tài chính. Các tài khoản, tiền bạc ấy bác.” “Chính xác rồi.” Barb gật đầu. Gerry khẽ đằng hắng. “Barb nghĩ có thể các vấn đề về tiền bạc là một phần nguyên nhân gây ra chuyện này.” Ông cố nói với giọng thật bình thường, nhưng thất bại. “Phải. Tất nhiên là em nghĩ như thế rồi.” Bà ngắt lời. “Tại sao anh lại không chịu tin nhỉ, Gerry? Nói đến chuyện đốt tiền. Nếu Luke có một đô la trong tay, nó sẽ tiêu hẳn hai đô la để đảm bảo là đồng kia đã được xài hết.” Thật thế ư? Falk tự hỏi. Luke mà anh biết chưa bao giờ là người thích vung tiền hoang phí. Barb quay lại nhìn thẳng vào mặt anh. “Nghe này, suốt mười năm qua chúng ta đã nghĩ bán lại nông trại cho Luke là một việc đúng đắn. Nhưng hai tuần vừa rồi, bác chẳng làm được gì khác ngoài việc lo lắng, lo lắng rằng chúng ta đã dồn một gánh nặng quá lớn lên Luke. Hạn hán kéo dài tới mức ấy, ai biết được sẽ có chuyện gì cơ chứ? Tất cả mọi người đều vô cùng tuyệt vọng. Rất có thể thằng bé đã mượn tiền ai đó. Hoặc có một khoản nợ xấu nào đó mà nó không trả được. Có thể ai đó mà nó nợ tiền đã tìm đến nó thì sao.” Tất cả chìm vào im lặng. Falk với tay lấy cốc rượu whiskey của mình và uống một ngụm nhỏ. Cốc rượu đã ấm lên. “Bác Barb ạ.” Sau một hồi, cuối cùng anh lên tiếng. “Có thể bác không thấy, nhưng các cảnh sát có trách nhiệm sẽ xem xét mọi khả năng có thể xảy ra.” “Không đủ đâu.” Barb ngắt lời. “Họ không muốn biết đến tận cùng. Họ lái xe từ Clyde đến đây, liếc nhìn một cái rồi bảo: ‘Lại thêm một lão nông dân quẫn trí nữa’, và thế là hết. Mở ra rồi đóng vào. Bác nhìn thấy rõ họ đang nghĩ gì. Chẳng có gì khác ngoài cừu và mùa màng. Chắc phải điên rồ thế nào đó mới sống ở một nơi như thế này. Bác nhìn thấy suy nghĩ đó trên mặt họ.” “Họ cử cả một đội từ Clyde xuống đây ạ?” Falk hỏi, có chút ngạc nhiên. Clyde là thị trấn lớn gần nhất mà đồn cảnh sát có đủ quân số và trang bị. “Anh ta không phải là người địa phương ạ? Tên anh ta là gì ấy nhỉ?” “Trung sĩ Raco. Không, không phải. Anh ta mới tới đây được chừng một tuần gì đó. Họ đã cử người khác tới cơ.” “Bác muốn nói gã Raco này khiến bác cảm thấy lo lắng ạ?” Vẻ mặt thách thức của bà trả lời cho câu hỏi của anh. “Chúng ta đã bảo rồi mà.” Bà nói. Gerry đặt mạnh cốc rượu của mình xuống thành lan can, làm cho hai người giật mình. “Được rồi, anh nghĩ chúng ta đã kể hết phần của mình rồi.” Ông nói. “Hôm nay là một ngày dài. Hãy cho Aaron thời gian suy nghĩ. Để xem cậu ấy nghĩ như thế nào. Đi nào, chàng trai, ta sẽ tiễn cháu.” Barb mở miệng như muốn phản đối, nhưng ngậm lại ngay sau khi nhìn vẻ mặt của Gerry. Bà đặt Charlotte xuống một chiếc ghế trống và kéo Falk lại, buồn bã ôm lấy anh. “Hãy suy nghĩ về lời đề nghị của chúng ta. Làm ơn đi nhé.” Hơi thở ấm nóng của bà phả vào bên tai anh. Anh có thể ngửi thấy mùi rượu trong hơi thở đó. Barb lại ngồi xuống và bế Charlotte lên. Bà mạnh tay đung đưa cho đến khi đứa bé mở mắt và khóc ré lên đầy cáu gắt. Suốt từ lúc ấy, lần đầu tiên Barb mỉm cười khi bà vuốt ve mái tóc của đứa cháu nội và vỗ vỗ vào lưng nó. Falk có thể nghe thấy tiếng hát ru đã lạc nhịp của bà khi anh theo Gerry quay ngược vào hành lang. Gerry tiễn Falk ra đến tận xe. “Barb đang cố đấm ăn xôi.” Gerry nói. “Bà ấy bị tiêm nhiễm trong đầu suy nghĩ rằng tất cả những chuyện này là hệ quả của một khoản nợ bí ẩn nào đó. Thật là vớ vẩn. Trong chuyện tiền nong, Luke đâu phải một đứa ngu ngốc. Tất nhiên cũng giống như tất cả mọi người, nó đang trải qua một giai đoạn khó khăn. Cũng có lúc nó liều mình mạo hiểm, nhưng nó vẫn biết suy nghĩ. Nó sẽ không bao giờ để mình vướng vào những thứ như vậy đâu. Với lại, Karen nắm hết các khoản tài chính của nông trại cơ mà. Nếu có chuyện gì, con bé đã kể ra. Nó sẽ kể cho chúng ta nếu mọi việc tồi tệ đến mức ấy.” “Vậy bác nghĩ sao?” “Ta nghĩ… ta nghĩ thằng bé đã phải chịu rất nhiều áp lực. Chuyện này thật đau đớn, nói thật với cậu, nó khiến lòng ta như bị xắt ra từng khúc vậy, ta nghĩ mọi chuyện xảy ra đúng như những gì chúng ta nhìn thấy. Điều ta muốn biết là có phải ta cũng có một phần lỗi hay không.” Falk tựa người vào xe. Đầu anh đang giật thình thịch. “Bác biết chuyện đó từ bao giờ thế ạ?” Falk hỏi. “Chuyện Luke đã nói dối để cố tạo ra bằng chứng ngoại phạm cho cậu ấy hả? Ta biết ngay từ đầu. Thế nào nhỉ, gần hai mươi năm rồi nhỉ? Ta đã trông thấy Luke đạp xe một mình vào cái ngày chuyện đó xảy ra. Ở một chỗ không hề gần nơi hai đứa nói hai đứa đã đến. Ta biết hai đứa không hề ở cùng nhau.” Ông ngừng lại. “Ta sẽ không bao giờ nói với ai chuyện đó đâu.” “Cháu không giết Ellie Deacon.” Ẩn mình đâu đó trong bóng đêm, tiếng ve sầu cất lên râm ran. Gerry gật đầu, mắt nhìn chằm chằm xuống dưới chân. “Aaron ạ, nếu chỉ một giây thôi, ta nghĩ việc đó là do cháu làm, thì ta đã không giữ im lặng rồi. Cháu nghĩ tại sao ta lại không nói gì cả? Bởi vì nó sẽ hủy hoại cuộc đời cháu. Mối nghi hoặc đó sẽ bám theo cháu suốt nhiều năm. Họ có để cho cháu vào ngành cảnh sát không? Và Luke sẽ bị trừng phạt vì tội khai man. Làm thế để làm gì? Cô bé đó vẫn chết cơ mà. Tự sát, thực tế là như vậy, và ta cũng biết không ít người có cùng suy nghĩ như vậy. Hai người bọn cháu chẳng can hệ gì đến chuyện đó cả.” Gerry chọc chọc mũi giày xuống nền đất. “Chí ít thì đó là những gì mà ta nghĩ trong đầu.” “Còn bây giờ thì sao ạ?” “Bây giờ ư? Chúa ơi. Ta không biết phải tin vào cái gì nữa. Ta đã luôn nghĩ Luke nói dối để bảo vệ cháu. Nhưng giờ đây, con dâu và cháu nội của ta bị sát hại, con trai của ta thì thiệt mạng với khẩu súng dính đầy dấu vân tay của nó.” Gerry ôm mặt. “Ta yêu Luke. Ta sẽ bảo vệ nó đến cùng. Nhưng ta cũng yêu Karen và Billy. Cả Charlotte nữa. Đến lúc chết ta vẫn sẽ nói rằng không thể nào con trai ta lại làm những việc như vậy. Nhưng có một giọng nói cứ thì thầm với ta. Có thật thế không? Ông có dám chắc thế không? Thế nên ta đang hỏi cháu. Ngay tại đây. Ngay lúc này. Có phải Luke đã khai ra chứng cứ ngoại phạm đó để bảo vệ cháu không hả Aaron? Hay là nó đã nói dối để bảo vệ chính mình?” “Chưa từng có bất kì nghi ngờ nào nói rằng Luke có trách nhiệm trong những gì đã xảy ra với Ellie.” Falk thận trọng nói. “Không hề” Gerry nói. “Nhưng ấy là bởi vì cả hai đứa đã tạo chứng cứ ngoại phạm giả cho nhau, đúng chứ? Cả cậu và ta đều biết nó nói dối chuyện đó, nhưng cả hai chúng ta đều không nói gì cả. Thế nên câu hỏi của ta là liệu có phải bàn tay ta cũng đã dính máu của con dâu và cháu ta rồi không?” Gerry nghiêng đầu và biểu cảm trên gương mặt ông bị che khuất trong bóng tối. “Đó là điều cậu nên tự chất vấn mình trước khi vội vàng bỏ về Melbourne. Cả cậu và ta đều che giấu sự thật. Nếu ta có tội, thì cậu cũng vậy.” Những con đường vùng nông thôn dường như dài thêm trên chặng đường lái xe quay trở về quán rượu. Falk gạt đèn pha lên mức sáng nhất, và chúng hắt cả luồng sáng trắng lóa vào giữa bóng đêm. Anh cảm tưởng mình là sinh vật duy nhất giữa quãng đường dài hàng cây số. Không một bóng người trước mặt, cũng chẳng một bóng người sau lưng. Anh cảm thấy một tiếng uỵch bên dưới bánh xe, khiến anh nổi hết da gà, gần như trước khi nhận ra cái bóng mờ mờ nhỏ xíu phóng vụt qua đường. Một con thỏ. Ngay tại đó, rồi lập tức mất dạng. Tim anh đập thình thịch. Anh đã vội vã đạp phanh cho xe chạy chậm lại, nhưng chẳng kịp trở tay với cả ngàn ki-lô đang chạy với tốc độ tám mươi cây số một giờ. Không một động thái phản kháng. Lập tức có thứ gì đấy nghẹn chặt trong lồng ngực anh, gọi về một điều vốn rời rạc trong tâm trí. Một ký ức mà đã nhiều năm anh không nghĩ tới chợt ùa về. Con thỏ cũng chỉ mới sinh, run rẩy trong lòng bàn tay Luke. Móng tay cậu ta dính đầy bùn đất. Cũng chỉ là chuyện thường ngày mà thôi. Những đứa trẻ tám tuổi ở Kiewarra có rất ít trò để giải trí mỗi cuối tuần. Chúng vừa mới rượt đuổi nhau chạy nhảy khắp nơi, lao vun vút qua những rặng cở um tùm, thế rồi Luke chợt đứng khựng lại như trời trồng. Cậu ta cúi người xuống giữa những thân cỏ lêu nghêu, rồi một lát sau, đứng dậy, cậu ta nhấc lên cái sinh vật nhỏ bé ấy. Aaron chạy lại xem. Chúng vuốt ve nó, bảo nhau đừng vuốt quá mạnh. “Nó thích tớ. Nó là của tớ.” Luke nói. Chúng tranh cãi với nhau đặt tên gì cho con thỏ suốt chặng đường quay về nhà Luke. Chúng tìm được một cái thùng các-tông để đặt con thỏ trong đó, rồi chúng thò đầu nhìn vào, quan sát con vật cưng mới. Con thỏ hơi run rẩy một chút dưới sự quan sát kĩ lưỡng của hai đứa trẻ, nhưng hầu như nó chỉ nằm im lìm. Nỗi sợ hãi được ngụy trang dưới lớp vỏ của sự chấp nhận. Aaron chạy vào trong để lấy một cái khăn bông trải chuồng cho con thỏ. Cậu mất nhiều thời gian tìm kiếm hơn dự định, và khi cậu quay trở ra, dưới ánh nắng sáng tươi, Luke vẫn đang đứng im lìm. Một tay cậu ta đặt vào trong cái thùng. Đầu của Luke giật nảy khi Aaron tiến lại gần, và ngay lập tức, cậu ta rụt tay ra khỏi thùng. Aaron bước lại, không dám chắc sẽ nhìn thấy điều gì, nhưng cảm nhận được sự thúc giục hãy chậm lại, đừng vội nhìn vào bên trong. “Nó chết mất rồi.” Luke nói. Miệng cậu ta mím chặt. Cậu ta không dám nhìn vào mắt Aaron. “Tại sao vậy?” “Tớ không biết. Nó cứ chết, vậy thôi.” Aaron hỏi đi hỏi lại vài lần nữa nhưng câu trả lời vẫn không thay đổi. Con thỏ nằm nghiêng một bên, ngay ngắn, nhưng bất động, đôi mắt của nó đen láy và cô hồn. “Hãy suy nghĩ về lời đề nghị của chúng ta.” Barb đã nói như thế khi Falk rời khỏi nhà họ. Thế nhưng, khi lái xe trên những con đường vùng nông thôn dài dằng dặc đó, khi máu của con vật vẫn còn ướt dưới bánh xe, anh lại không thể ngăn mình nghĩ tới Ellie Deacon và nhóm bốn người cái thời tuổi hoa niên ấy. Và đôi mắt đen láy của Ellie, nó có vô hồn như thế không, khi nước tràn căng hai lá phổi của cô? CHƯƠNG 4 Dải băng niêm phong của cảnh sát vẫn được treo quanh cánh cửa trang trại nhà Luke Hadler. Nó phản chiếu ánh sáng ban ngày khi Falk dừng xe bên cạnh một chiếc xe cảnh sát khác đang đậu trên một thảm cỏ đã héo úa. Mặt trời vẫn chưa lên đến đỉnh, nhưng làn da của Falk đã bị mẩn ngứa bởi cái nóng gay gắt ngay khi anh vừa bước xuống xe. Đội mũ lên đầu, anh đi khảo sát ngôi nhà. Anh đã quá quen thuộc với nơi đây. Anh đã dành phần lớn thời thơ ấu ở nơi này như thể đó là ngôi nhà của chính anh vậy. Luke đã không thay đổi nó nhiều kể từ khi tiếp quản trang trại từ cha mẹ, Falk thầm nghĩ khi anh bấm chuông cửa. Tiếng chuông vang vọng như kéo anh vào một chuyến du hành ngược thời gian. Anh bỗng cảm thấy bồn chồn day dứt khi mường tượng ra hình ảnh cậu thiếu niên mười sáu tuổi tự phụ khi xưa chắc chắn không ngại ngần mở cánh cửa này, cánh cửa mà hiện giờ anh gần như không còn đủ dũng khí để bước qua đó. Không có gì thay đổi. Những ô cửa sổ buông rèm trông hệt như những cặp mắt mù lòa từ lâu đã không được nhìn thấy ánh sáng. Falk đã nằm thao thức cả đêm suy nghĩ về lời nói của ông Gerry. Sáng hôm đó, anh gọi điện đến và báo với Gerry rằng anh có thể ở lại thị trấn này thêm một, hai hôm nữa. Cho đến cuối tuần. Hôm đó là thứ Năm. Anh phải trở lại làm việc vào thứ Hai tuần sau. Trong thời gian ấy, anh sẽ tới trang trại của Luke. Anh sẽ xem xét các vấn đề tài chính giúp bà Barb. Chí ít đó là điều anh có thể làm. Ông Gerry thể hiện rõ sự đồng ý trong giọng điệu của mình. Quả thực đó là điều tối thiểu anh có thể làm cho gia đình họ. Falk đứng đợi một hồi lâu, sau đó anh đi vòng quanh ngôi nhà. Bầu trời bao la xanh thẳm thấp thoáng trên những cánh đồng màu vàng. Ở phía xa xa, những bụi cỏ hoang mọc um tùm đã bị chặn lại bởi một hàng rào dây thép gai. Đây là lần đầu tiên anh cảm nhận được mảnh đất này nằm ở một vị trí thật biệt lập. Nơi này đã từng ngập tràn sức sống khi anh còn bé. Ngôi nhà thời thơ ấu của anh chỉ cách trang trại này một đoạn ngắn đạp xe, nhưng giờ đây nó đã hoàn toàn vô hình trước đường chân trời rộng mênh mông. Nhìn xung quanh bây giờ, chỉ còn lại duy nhất một căn nhà lọt vào tầm mắt: ngôi nhà màu xám nằm bên sườn một ngọn đồi phía xa xa. Ngôi nhà của Ellie. Falk tự hỏi liệu cha và anh họ của cô ấy có còn sống ở đó, và theo bản năng, anh quay đầu đi. Anh lang thang trên sân cho đến khi nhìn thấy bóng dáng của trung sĩ Greg Raco trong nhà kho lớn nhất trong số ba cái nhà kho tại nơi này. Viên sĩ quan đang bò trên sàn nhà, lục lọi một đống hộp cũ nào đó ở trong góc. Một con nhện lưng đỏ sáng bóng đang nằm im bất động trong mạng nhện của nó, lờ đi những gì đang xảy ra cách nó hai mét. Falk gõ nhẹ vào cánh cửa kim loại và Raco vội ngoảnh đầu lại, khuôn mặt anh ta lấm lem bụi và nhễ nhại mồ hôi. “Lạy Chúa, anh khiến tôi giật mình đấy. Không nghe thấy tiếng ai bước đến cả.” “Xin lỗi. Tôi là Aaron Falk, một người bạn của gia đình Hadler. Nhân viên lễ tân nói rằng anh ở đây.” Anh chỉ vào con nhện lưng đỏ. “Nhân tiện, anh thấy nó chứ?” “Tôi biết, cảm ơn anh. Còn vài con nữa ở xung quanh đây.” Raco đứng thẳng dậy, tháo đôi găng tay của mình ra. Anh ta cố gắng phủi sạch bụi bẩn trên ống quần màu xanh hải quân nhưng sau đó đành bất lực vì nó chỉ càng bám chặt vào quần anh ta hơn. Chiếc áo sơ mi gọn gàng đã ướt đẫm mồ hôi ở phần dưới cánh tay. Anh ta thấp hơn Falk, dáng người chắc nịch như một vận động viên đấm bốc, những lọn tóc xoăn được cắt sát vào da đầu. Làn da rám nắng màu ô liu vùng Địa Trung Hải, nhưng giọng lại đặc sệt người Úc. Đôi mắt trông như đang cười, nhưng thực ra lại không phải vậy. Falk biết điều này, bởi vì hiện giờ anh ta không hề mỉm cười. “Gerry Hadler đã gọi thông báo về việc anh sẽ ghé qua đây.” Raco nói. “Xin lỗi phải làm điều này, anh bạn, nhưng anh có mang theo thẻ căn cước chứ? Có một vài kẻ không bình thường lảng vảng quanh khu vực này. Rình mò hoặc làm điều gì đó, tôi cũng không biết nữa.” Nhìn ở khoảng cách gần, anh ta nhiều tuổi hơn Falk tưởng. Khoảng trên dưới ba mươi. Falk để ý thấy viên trung sĩ cũng đang kín đáo nhìn anh một lượt. Thân thiện nhưng thận trọng. Điều này khá là công bằng. Falk giơ bằng lái xe của mình ra. Raco miễn cưỡng cầm lấy xem, vẻ mặt như mong chờ một điều gì hơn thế nữa. “Tôi tưởng Gerry nói rằng anh là một cảnh sát?” “Tôi tới đây với mục đích cá nhân.” Falk nói. “Vậy không phải vì công việc.” “Không phải.” Một chút gì đó thoáng hiện trên nét mặt Raco mà Falk không thể hiểu được. Anh thực sự mong chuyện này sẽ không chuyển biến theo chiều hướng tiêu cực. “Tôi là bạn cũ của Luke. Bạn từ thời niên thiếu.” Raco cẩn thận nhìn chiếc bằng lái xe trước khi trả nó lại cho Falk. “Gerry nói anh cần xem xét vài báo cáo về ngân hàng. Sổ sách kế toán, những thứ đại loại như thế.” “Chắc là vậy.” “Có điều gì ở đó tôi cần phải biết không?” “Barb nhờ tôi xem qua.” Falk nói. “Như một sự giúp đỡ.” “Được rồi.” Mặc dù thấp hơn vài xen-ti-mét, Raco gần như cố gắng nhìn thẳng vào mắt Falk. “Nghe này, nếu anh đã nhận được sự đồng ý của Gerry và Barb, tôi sẽ không quấy rầy anh thêm nữa. Nhưng hiện giờ thực sự là quãng thời gian khó khăn nhất đối với họ, vì vậy nếu có bất cứ chuyện gì tôi cần được biết, anh hãy nói với tôi, được chứ?” “Đừng lo. Tôi chỉ ở đây để giúp đỡ họ thôi.” Falk liếc nhìn qua vai Raco. Cái nhà kho sâu hút này oi bức đến ngột ngạt, nắng lọt qua ô cửa sổ trên mái khiến mọi thứ đều nhuốm cái màu vàng vọt bệnh tật. Chiếc máy kéo nằm im bất động giữa sàn bê tông, các loại máy móc khác mà Falk không thể nhớ tên được dựa thẳng vào tường. Ống và vòi nằm ngổn ngang trên sàn nhà ngay sát chân anh. Anh không chắc liệu đó có phải dụng cụ để vắt sữa không. Anh đã có lần nhìn thấy dụng cụ này. Bây giờ tất cả trông thật mơ hồ, giống như một đống dụng cụ tra tấn dưới con mắt của một người thành phố. Falk hướng mắt về phía những cái hộp nằm trong góc. “Anh đang tìm kiếm thứ gì ở đó thế?” “Anh đang tra hỏi tôi à, anh bạn? Không phải anh đã nói anh đến đây với mục đích cá nhân sao?” Raco nói. “Những tài liệu liên quan đến ngân hàng đều ở trong nhà. Đi thôi. Tôi sẽ chỉ anh cách tìm kiếm.” “Không cần đâu.” Falk lùi lại một bước. “Tôi biết nó nằm ở đâu. Cảm ơn.” Trước khi quay người đi, anh thấy Raco nhướng mày lên một chút. Falk nghĩ nếu Raco mong đợi một cuộc ẩu đả, chắc chắn anh ta sẽ không tìm kiếm tại nơi này. Tuy nhiên, Falk vẫn phải ngưỡng mộ sự tận tâm của viên trung sĩ. Dù mới sáng sớm nhưng có vẻ Raco đã ở đây hàng giờ rồi, minh chứng là hai khuỷu tay đỏ ửng lên của anh ta. Falk bắt đầu tiến về phía ngôi nhà. Rồi dừng lại. Nghĩ một chút. Barb Hadler có vẻ có những hoài nghi riêng, nhưng Raco dường như lại giống một tay cảnh sát luôn quan trọng hóa mọi thứ. Falk quay người lại. “Nghe này.” Anh nói. “Tôi không biết Gerry đã nói với anh những gì, nhưng đối với tôi mà nói, khi tôi đảm nhận công việc nào đó, mọi chuyện sẽ trở nên dễ dàng hơn khi tôi biết được chuyện gì đang xảy ra. Bỏ qua những chuyện bên lề sẽ tốt hơn đấy.” Raco im lặng lắng nghe khi Falk kể cho anh ta những băn khoăn của Barb về các khoản nợ và rắc rối tài chính đã đến hạn thanh toán. “Anh nghĩ có gì trong đó không?” “Tôi không biết. Nhưng chắc chắn có những vấn đề tài chính. Nhìn xung quanh mà xem, anh có thể suy luận được mà. Ngoài Luke ra, liệu còn ai khác châm ngòi cho chuyện này không lại là một câu hỏi khác.” Raco chậm rãi gật đầu. “Cảm ơn. Tôi thực sự đánh giá cao điều này.” “Không có gì. Tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm.” Dưới cái nắng như đổ lửa, Falk đi chưa được nửa khoảng sân thì Raco đã gọi. “Này. Đợi đã.” Viên trung sĩ lau mồ hôi trên mặt, mắt nheo lại dưới ánh nắng mặt trời. “Anh là bạn thân của Luke phải không?” “Cách đây rất lâu rồi.” “Nghe nói Luke muốn cất giấu thứ gì đó. Nhỏ thôi. Anh có biết ở đâu không?” Falk suy nghĩ một hồi, rồi chợt nhận ra anh quả thực không cần phải mất nhiều thời gian để suy nghĩ. “Có thể. Là thứ gì vậy?” “Chúng ta cùng đi tìm nó, tôi sẽ chỉ cho anh.” Ngày trước, khi Falk ngả lưng trên mảnh đất đặc biệt này, bãi cỏ xanh rì và vô cùng tươi tốt. Bây giờ anh chỉ có thể cảm thấy những bụi cỏ vàng úa đang cào xước bụng anh qua lớp áo sơ mi. Anh dẫn Raco đi vòng ra mặt xa nhất của ngôi nhà, kiểm tra các tấm ván ốp tường bằng chân. Khi đã tìm thấy đúng tấm ván mình đang tìm kiếm, anh nằm xuống và luồn một cái que qua kẽ hở bên dưới tấm gỗ. Dưới lực bẩy, tấm ván kêu kẽo kẹt rồi bật ra, để lộ một khoảng trống lớn. Falk đưa mắt nhìn lên Raco đang đứng chăm chú theo dõi anh. “Ở trong đó à?” Raco hỏi, nhanh chóng đeo đôi găng tay dày cộp của mình vào. “Anh ta giấu gì ở đây vậy?” “Bất kể thứ gì. Đồ chơi và đồ ăn vặt khi chúng tôi còn nhỏ. Một chút đồ uống có cồn. Chẳng có gì quá hấp dẫn. Chỉ là những đồ vật thông thường mà trẻ con không muốn cha mẹ chúng nhìn thấy mà thôi.” Raco quỳ xuống. Anh ta luồn tay vào khoảng trống đó đến chỗ khuỷu tay và bắt đầu quờ quạng xung quanh. Anh ta rút tay ra, trên tay là một nắm lá khô và một bao thuốc lá cũ. Vứt chúng xuống đất, anh ta tiếp tục tìm kiếm. Lần này anh ta lôi ra được những gì còn sót lại của một cuốn tạp chí khiêu dâm. Cuốn tạp chí đã quăn lại, mép trang ố vàng và trông tả tơi do bị mối mọt gặm nhấm. Anh ta vứt nó sang một bên với vẻ bực dọc và có thêm lần nữa, lần này anh ta luồn tay vào kẽ hở đó sâu nhất có thể. Một cách miễn cưỡng, anh ta rút tay ra. Không có gì cả. “Đưa đây” Falk ra hiệu về phía đôi găng tay. “Để tôi thử.” Trước đây, anh và Luke chưa bao giờ dùng găng tay, vừa nghĩ Falk vừa luồn tay của mình vào khoảng trống cũ kĩ đó. Những đồ vật được cất giấu dưới nhà không bao giờ sống mãi cùng thời niên thiếu cả. Anh mò mẫm xung quanh, chẳng cảm nhận được gì ngoài nền đất phẳng. “Chí ít cũng cho tôi một chút manh mối về thứ tôi đang tìm kiếm chứ.” Anh cằn nhằn. “Có thể là một cái hộp. Hoặc thứ gì đó có vỏ bọc bên ngoài.” Falk tiếp tục sờ lần, cố gắng vươn cánh tay ra xa nhất có thể. Cái chỗ giấu đồ đó hoàn toàn trống rỗng. Anh rút tay của mình ra. “Xin lỗi.” Anh nói. “Đã lâu lắm rồi.” Đầu gối Raco kêu khục một tiếng khi anh ta đứng thẳng dậy. Anh ta mở bao thuốc lá đã méo mó ra, rút một điếu thuốc, chăm chú nhìn hồi lâu, rồi lại đút nó trở lại vào bao. Cả hai im lặng suốt một lúc lâu. “Những viên đạn…” Cuối cùng Raco cũng cất tiếng nói. “Với khẩu súng săn đã giết chết cả gia đình Hadler. Chúng không trùng khớp.” “Cái gì không trùng khớp?” “Nhãn hiệu mà Luke Hadler dùng. Theo tôi được biết, anh ta đã dùng nhãn hiệu đó nhiều năm rồi. Ba phát đạn giết chết anh ấy và gia đình anh ấy là đạn Remington. Loại đạn duy nhất tôi tìm thấy trên toàn bộ cơ ngơi này là đạn Winchester.” “Winchester?” “Phải. Tôi đã để ý đến điều này khi nhận được hồ sơ từ phía cảnh sát ở Clyde, tôi đã suy nghĩ rất nhiều kể từ đó.” Raco nói. “Chuyện là thế đấy. Một hộp đạn Remington, và tôi có thể sẽ cảm thấy vui vẻ hơn một chút.” Falk tháo đôi găng tay ra. Bàn tay anh nhớp nháp. “Cảnh sát ở Clyde không thể gửi tới một vài đơn vị để giúp anh tìm kiếm quanh khu vực này à?” Raco nhìn sang hướng khác, tay vân vê bao thuốc lá trên tay. “Ừm. Tôi không biết. Có thể là được.” “Phải thế chứ.” Falk nén cười. Raco có thể đang hãnh diện chưng bộ đồng phục cảnh sát và khoác lác về các vấn đề chuyên môn, nhưng Falk đã ở trong ngành đủ lâu để biết những hoạt động điều tra không được ghi trong sổ sách ngay khi nhìn thấy chúng. “Có thể Luke đã nhặt được vài viên đạn rơi đâu đó.” Falk nêu lên giả thuyết của mình. “Phải rồi, rất có thể.” Raco nói. “Hoặc có thể đó là những viên đạn cuối cùng và anh ấy đã vứt hộp đạn đi.” “Cũng đúng. Mặc dù không hề có dấu vết của hộp đạn đó trong thùng rác trong nhà hay trong xe bán tải chở hàng của anh ấy. Và tin tôi đi…” Một nụ cười thoáng qua trên mặt Raco. “Tôi đã kiểm tra rồi.” “Còn chỗ nào anh chưa tìm kiếm không?” Raco hướng mắt về phía tấm ván vừa bị cạy ra. “Trên khu đất này hả? Nếu tính cả chỗ này thì tôi nghĩ là tôi đã kiểm tra toàn bộ rồi đấy.” CHƯƠNG 5 Họ ngồi bên hông nhà, lưng tựa vào tường, bên cạnh miếng ốp gỗ đã bị tháo ra, cỏ cọ vào bắp chân. Họ cố gắng tận dụng những khoảng râm mát hiếm hoi, trong khi Raco xem xét lại các dữ kiện. Anh ta bắt đầu nói bằng giọng tương đối khách quan, dường như trước đó anh ta đã có lần nói qua những điều này. “Đúng vào ngày hôm nay của hai tuần trước…” Anh ta vừa nói, vừa dùng tờ tạp chí khiêu dâm nhàu nhĩ phe phẩy quạt. “Một người đưa hàng đã phát hiện ra Karen và gọi ngay cho cấp cứu. Điện thoại gọi đến vào khoảng 5:40 chiều.” “Gọi đến anh à?” “Đến cả đồn cảnh sát ở Clyde và một bác sĩ đa khoa trong vùng nữa. Điều phối viên thông báo cho tất cả chúng tôi. Bác sĩ là người ở gần nhất, thế nên anh ấy có mặt ở hiện trường đầu tiên. Bác sĩ Patrick Leigh. Anh biết anh ấy chứ?” Falk lắc đầu. “Nói chung, anh ấy là người tới đầu tiên, tôi có mặt sau đó vài phút. Khi tôi đỗ xe thì cửa đang mở, và bác sĩ đang ở ngoài sảnh, cúi xuống Karen để kiểm tra xem cô ấy còn sống không.” Raco dừng lại một lúc lâu, mắt nhìn ra phía hàng cây thân gỗ đánh dấu địa giới khu nông trại với ánh mắt lơ đãng. “Tôi chưa bao giờ gặp cô ấy, thậm chí cho đến lúc đó tôi còn chẳng biết cô ấy là ai, nhưng anh ấy thì biết. Hai tay anh ấy dính đầy máu của cô ấy. Và anh ấy la lên, gần như là gào lên với tôi ấy, anh biết đấy: ‘Cô ấy có con, có thể có trẻ con đấy.’ Thế là…” Raco thở dài, lật mở bao thuốc lá cũ của Luke. Anh ta rút ra một điều, đặt lên miệng và chuyển bao thuốc sang cho Falk. Falk rút ra một điếu, cảm thấy bất ngờ với chính mình. Anh không còn nhớ nổi lần cuối cùng mình hút thuốc là từ khi nào. Rất có thể cũng tại chính vị trí này, bên cạnh người bạn thân đã quá cố. Bất luận vì lý do gì, hút một điếu trong lúc này có lẽ cũng là hợp lý. Anh ghé người sang bên khi Raco châm thuốc. Falk hít một hơi và ngay lập tức nhớ ra tại sao anh có thể từ bỏ thói quen này dễ dàng đến vậy. Nhưng rồi khi anh hít thở một hơi thật sâu, và mùi thuốc lá trộn lẫn với mùi thơm nồng của những cây bạch đàn, cảm giác bốc đồng của tuổi mười sáu lại một lần nữa ùa về theo dòng chảy của nicotin. “Vậy là…” Raco tiếp tục. Lúc này, giọng anh ta nhỏ hơn. “Bác sĩ hét lên, và tôi phóng như bay vào trong nhà. Không hề biết bên trong có ai, và tôi sẽ phải tìm cái gì. Liệu có hay không một người nào đó sắp sửa bước ra từ phía sau một cánh cửa với khẩu súng trong tay. Tôi muốn gọi lũ trẻ nhưng tôi nhận ra mình thậm chí còn chẳng biết tên chúng. Thế là tôi hét lên: ‘Chú là cảnh sát đây. Không sao đâu, ra đi nào, các cháu an toàn rồi.’ Hay cái gì đó khác, nhưng thậm chí tôi còn chẳng biết là có đúng như thế hay không nữa.” Anh ta vừa hít một hơi thuốc dài, vừa nhớ lại. “Và rồi tôi nghe thấy tiếng khóc, thế là tôi đi theo âm thanh đó, không hề hay biết điều gì đang chờ đợi mình. Tôi đi vào phòng em bé, nhìn thấy cô bé đó nằm trong cũi, kêu khóc ầm ĩ, và thành thật mà nói, cả đời mình, chưa bao giờ tôi cảm thấy mừng rỡ đến vậy khi trông thấy một đứa trẻ liên tục khóc thét vào mặt mình như thế.” Raco nhả một làn khói vào không khí. “Bởi vì con bé vẫn ổn.” Anh ta nói. “Tôi không thể tin được. Con bé sợ hãi, hiển nhiên rồi, nhưng những gì tôi có thể nhìn được bằng mắt thường là con bé không bị thương tổn gì cả. Và tôi nhớ lúc đó mình đã nghĩ trong đầu rằng có lẽ mọi thứ vẫn đang ổn cả thôi. Phải, những gì đã xảy ra với người mẹ thật đáng buồn, thật thê thảm. Nhưng tạ ơn Chúa, chí ít lũ trẻ vẫn yên ổn. Nhưng rồi tôi nhìn sang phía bên kia hành lang và thấy một cánh cửa khép hờ.” Anh ta cẩn thận dúi mẩu thuốc lá xuống đất, mắt không nhìn Falk. Falk cảm nhận được cơn rùng mình của người đàn ông ngồi bên cạnh, anh hiểu cái gì xảy đến tiếp theo. “Và tôi nhận ra đó là căn phòng của một đứa trẻ nữa. Cả căn phòng được sơn màu xanh nước biển và dán đầy các tấm áp-phích có hình ô tô, anh biết đấy, phòng của con trai mà. Và chẳng có bất cứ âm thanh nào phát ra từ căn phòng đó. Thế là tôi đi ngang qua hành lang, đẩy mở cánh cửa, và rồi mọi chuyện không hề ổn chút nào.” Anh ta ngừng lại. “Cảnh tượng trong căn phòng giống như đang ở dưới địa ngục vậy. Căn phòng đó là thứ tồi tệ nhất mà tôi từng nhìn thấy.” Họ ngồi trong im lặng, cho đến khi Raco đằng hắng một tiếng. “Đi nào.” Anh ta nói rồi đứng dậy, lắc lắc hai cánh tay như để rũ bỏ kí ức kinh hoàng đó. Falk đứng dậy và theo anh ta đi về phía mặt tiền của ngôi nhà. “Các đội ứng phó từ Clyde đã đến ngay sau đó ít lâu.” Vừa đi Raco vừa kể tiếp. “Cảnh sát, nhân viên y tế. Lúc họ tới nơi là khoảng gần sáu giờ ba mươi. Họ lục soát những khu vực còn lại của căn nhà và không tìm thấy bất cứ ai khác nữa, ơn Chúa, thế là mọi người cố gọi điện cho Luke Hadler trong nỗi tuyệt vọng. Mới đầu, ai cũng lo lắng, anh biết đấy, lo rằng không biết chúng tôi nên báo tin này với anh ta như thế nào? Nhưng rồi gọi mãi vẫn không có ai bắt máy, và xe của anh ta cũng không có ở nhà, cũng chẳng thấy anh ta về nhà, rồi đột nhiên người ta nhận ra tâm trạng đó bắt đầu thay đổi.” “Luke có thể đang làm gì khi ấy nhỉ?” “Có hai tình nguyện viên tìm kiếm và giải cứu, bạn của anh ta, cho biết anh ta tới giúp một người bạn bắn thỏ tại trang trại của người này vào đầu giờ chiều. Người bạn đó tên là Jamie Sullivan. Đã có người gọi điện cho Sullivan và xác nhận việc đó, nhưng anh ta nói rằng Luke đã rời khỏi nông trại nhà mình từ vài tiếng trước.” Họ đi tới cửa chính của căn nhà, và Raco rút ra một bộ chìa khóa. “Trong khi Luke vẫn bặt tăm, điện thoại cũng không thấy bắt máy, chúng tôi yêu cầu tăng cường đội tìm kiếm và ứng cứu. Phân chia các đội đó đi cùng với cảnh sát, yêu cầu họ đi tìm. Đó là mấy giờ đồng hồ chúng tôi trải qua trong kinh hãi. Những người tham gia tìm kiếm không được trang bị vũ khí, cuốc bộ qua những cánh đồng và bãi đất hoang đầy bụi rậm, chẳng biết mình sẽ tìm thấy cái gì. Luke đã chết ư? Hay vẫn còn sống? Chúng tôi chẳng biết tình trạng của anh ta như thế nào. Tất cả đều lo sợ có thể tìm thấy anh ta đang ẩn náu đâu đó với khẩu súng trong tay và sẵn sàng liều chết. Cuối cùng, một nhóm tìm kiếm vô tình bắt gặp chiếc xe bán tải của anh ta, hoàn toàn là do may mắn. Chiếc xe nằm trơ trọi giữa khoảng rừng thưa ghê rợn cách nhà chừng ba cây số. Không cần phải lo lắng nữa. Luke đã chết, nằm ngửa, toàn bộ khuôn mặt gần như biến dạng. Khẩu súng của anh ta, được cấp phép, có đăng kí, hoàn toàn hợp pháp, nằm yên vị trong tay.” Raco mở khóa cánh cửa chính và đẩy nó mở ra. “Vậy đấy, mọi chuyện có vẻ là như thế đấy. Dường như là xong xuôi, không có gì phải thắc mắc thêm nữa. Nhưng đây…” Anh ta bước sang bên để Falk có thể nhìn thẳng vào trong hành lang sâu thẳm. “Đây là chỗ câu chuyện bắt đầu trở nên kì lạ.” Sảnh vào có cảm giác oi nồng và bốc mùi thuốc tẩy. Chiếc bàn nhỏ ở góc tường phía xa, bên trên chất đầy các loại hóa đơn, mấy cây bút viết để lung tung, bừa bãi. Sàn nhà lát gạch hoa sạch sẽ đến mức quái gở. Toàn bộ tường hành lang được cạo sạch, chỉ còn trơ lớp vữa trát ban đầu. “Công ty dọn dẹp chuyên nghiệp đã ghé qua, thế nên chẳng còn điều bất ngờ khủng khiếp nào nữa đâu.” Raco nói. “Họ không tẩy sạch được tấm thảm trong phòng ngủ của đứa trẻ. Mà dù sao cũng chẳng ai muốn làm thế.” Các bức ảnh chụp gia đình treo đầy trên tường. Những dáng người bất động có chút gì đó thân thuộc, và Falk nhận ra anh đã nhìn thấy hầu hết các bức ảnh đó trong đám tang. Toàn bộ khung cảnh tưởng như một trò nhạo báng kệch cỡm vào cái gia đình đầm ấm mà anh từng quen biết. “Thi thể của Karen được tìm thấy ngay tại đây.” Raco nói. “Lúc đó cửa mở nên người giao hàng nhìn thấy cô ấy ngay tức thì.” “Cô ấy cố bỏ chạy ra phía cửa ư?” Falk cố tưởng tượng ra cảnh Luke đuổi theo vợ mình trong chính căn nhà của họ. “Không, không phải thế. Cô ấy ra mở cửa. Bị bắn bởi kẻ nào đó đứng ngoài bậc cửa. Có thể khẳng định được điều đó từ vị trí của thi thể. Nhưng thử nói tôi nghe xem, nếu anh về nhà vào buổi tối, vợ anh có ra mở cửa cho anh không?” “Tôi chưa kết hôn.” Falk nói. “Ừm, tôi thì kết hôn rồi. Cứ cho tôi là một gã tân tiến đi, nhưng tôi có chìa khóa riêng để vào nhà đấy.” Falk ngẫm nghĩ. “Cô ấy đã bị bất ngờ?” Anh nói, mường tượng trong đầu những gì có thể đã xảy ra. “Có gì khác nhau đâu. Người bố về nhà với khẩu súng đã nạp đầy đặn. Tôi đoán là cho tới lúc chết họ vẫn khá ngỡ ngàng. Anh ta bắn gục cả hai ngay trong nhà. Biết rõ đường đi lối lại bên trong. Quá dễ dàng còn gì.” Falk bước hẳn vào trong sảnh và mở ra đóng vào cánh cửa chính vài lần. Mở cửa ra, toàn bộ ô cửa là một khung chữ nhật sáng lòa đối chọi với sự tối mờ bên trong sảnh nhà. Anh tưởng tượng Karen ra mở cửa, hơi bị phân tán một chút, có thể là cảm thấy khó chịu bởi ánh sáng rọi vào bên trong. Vài giây chớp mắt để thích ứng với ánh sáng là giây phút quyết định để gã sát nhân giơ súng lên, chĩa thẳng vào cô. “Tôi cảm thấy thật kì cục” Raco nói. “Bắn cô ấy ở ngay lối cửa vào. Làm như thế chỉ khiến đứa trẻ tội nghiệp kia giật mình sợ hãi và chốt chặt cửa, đâu nhất thiết phải tiến hành theo trình tự như thế.” Raco nhìn sang Falk. “Điều đó dẫn tôi đến với điểm khúc mắc tiếp theo.” Anh nói. “Nếu anh đã chuẩn bị xong.” Falk gật đầu và theo anh ta đi qua sảnh. Khi Raco bật đèn trong phòng ngủ nhỏ màu xanh nước biển, ấn tượng đầu tiên của Falk là ai đó đang sửa chữa lại căn phòng. Chiếc giường trẻ con bị dựng nghiêng và đẩy sát vào bức tường phía xa, ga giường đã được lột sạch. Đồ chơi chất đầy trong các thùng giấy đặt lộn xộn bên dưới mấy tấm áp-phích cầu thủ bóng bầu dục và nhân vật hoạt hình của Disney. Tấm thảm trải sàn đã được lột đi, để lộ ra lớp sàn gỗ chưa qua xử lý. Dấu giày của Falk in trên lớp mùn cưa dưới mặt sàn. Các tấm ván gỗ đặt trong góc phòng đã được mài nhẵn. Vết máu khô vẫn còn. Raco quanh quẩn đi qua đi lại bên ngoài khung cửa. “Tôi vẫn cảm thấy không thoải mái để bước vào bên trong.” Anh ta vừa nói vừa rùng mình. Đây đã từng là một phòng ngủ rất xinh đẹp, Falk biết điều đó. Hai mươi năm trước, nó là phòng của Luke. Falk cũng từng ngủ trong căn phòng này nhiều lần. Thì thầm nhỏ to với nhau khi đèn đã tắt. Nín thở và nén cười khi Barb Hadler quát vọng từ ngoài vào bảo đừng nói chuyện nữa mà ngủ đi. Quấn mình ấm áp bên trong túi ngủ, cách không xa mấy tấm ván sàn dính đầy máu là bao. Căn phòng này đã từng là một nơi rất tuyệt vời. Nhưng giờ đây, cũng giống như tiền sảnh, nó ngập ngụa mùi thuốc tẩy. “Chúng ta mở cửa sổ được không?” “Tốt nhất là không nên” Raco nói. “Chúng tôi phải kéo rèm xuống đấy. Bắt gặp một số đứa trẻ cố tìm cách chụp ảnh, không lâu sau khi sự việc xảy ra.” Raco lấy chiếc máy tính bảng của mình ra và chạm vào nó vài lần. Anh ta chuyển nó sang cho Falk. Trên màn hình là thư viện hình ảnh. “Thi thể của cậu bé đã được chuyển đi.” Raco nói. “Nhưng anh vẫn có thể xem được tình trạng căn phòng khi sự việc mới được phát hiện.” Trong các bức ảnh, tấm rèm cửa được kéo cao, để ánh sáng hắt vào cảnh tượng khủng khiếp phía bên dưới. Cánh cửa tủ để quần áo mở tung và áo quần bên trong bị gạt hết sang bên một cách vô cùng thô bạo. Một cái thùng lớn đựng đồ chơi đan bằng dây liễu bị lật nhào. Trên giường, chiếc chăn lông in hình tàu vũ trụ bị dồn thành đống sang một bên như thể ai đó đã lật lên để kiểm tra xem có gì bên dưới. Tấm thảm phần lớn là màu be trắng, ngoại trừ một góc nơi có một vũng nhỏ màu đỏ thẫm rỉ ra từ phía sau cái giỏ lớn đựng quần áo đã bị lật nhào. Trong giây lát, Falk cố gắng tưởng tượng ra những giây phút cuối đời của Billy Hadler. Co ro trốn đằng sau cái giỏ đựng quần áo, nước tiểu chảy thành dòng xuống hai chân khi cậu bé cố kìm nén hơi thở trong tâm trạng hoảng loạn. “Anh có con chứ?” Raco hỏi. Falk lắc đầu. “Anh thì sao?” “Một nhóc, sắp sinh. Con gái.” “Chúc mừng anh.” “Nhưng nhà chúng tôi có nguyên một đội quân cháu trai và cháu gái. Chúng không ở đây, mà ở quê nhà, tận Nam Úc Cơ. Có vài đứa tầm tuổi Billy, mấy đứa khác thì nhỏ hơn một chút.” Raco vừa nói vừa nhận lại chiếc máy tính bảng và lướt qua các tấm ảnh. “Vấn đề ở đây là, các anh em trai của tôi biết mọi chỗ ẩn nấp của từng đứa trẻ mà họ sinh ra. Anh cứ bịt kín mắt rồi đẩy họ vào trong phòng ngủ của lũ trẻ mà xem, họ có thể tìm được chúng chỉ trong vòng hai giây.” Anh chạm vào màn hình. “Bất luận nhìn vào những bức ảnh này theo góc nhìn nào đi nữa, tôi vẫn cảm thấy nó giống một cuộc tìm kiếm.” Raco nói. “Một người hoàn toàn không biết những chỗ mà Billy có thể trốn, vậy nên theo lý thuyết hắn cần phải tìm kiếm. Nó ở trong tủ ư? Không. Dưới gầm giường ư? Không. Cảm giác như đứa trẻ này đã bị truy lùng.” Falk nhìn chăm chú vào vết ố sẫm màu. “Cho tôi xem chỗ anh tìm được Charlotte đi.” Căn phòng dành cho em bé ở phía bên kia hành lang được trang trí với tông màu vàng. Một cái chuông gió cho trẻ em treo từ trên trần nhà thả xuống đang đung đưa giữa khoảng không. “Gerry và Barb đã lấy cái cũi đi rồi.” Raco giải thích. Falk nhìn xung quanh căn phòng. Nó trông khác hoàn toàn những căn phòng khác. Đồ đạc bên trong và tấm thảm vẫn còn nguyên. Không có mùi thuốc tẩy khiến mũi nhưng nhức. Nó tạo ra cảm giác về một nơi trú ẩn an yên, tách biệt hoàn toàn với sự kinh hoàng lộ bày bên ngoài cánh cửa. “Tại sao Luke không giết hại Charlotte?” Falk nói. “Khả năng lớn là lương tâm anh ta thức tỉnh ngay lúc đó và chợt cảm thấy tội lỗi.” Falk bước ra ngoài, đi ngang qua hành lang sang phòng của Billy. Anh đứng ngay trên vết máu trong góc phòng, quay 180 độ và bước trở lại, vượt qua hành lang, đi sang phòng ngủ của Charlotte. “Tám bước.” Falk nói. “Nhưng tôi khá là cao, nên chúng ta có thể coi là chín bước cho hầu hết mọi người bình thường. Chín bước từ vị trí thi thể của Billy tới chỗ Charlotte đang nằm trơ trọi, không chút khả năng phòng vệ. Và cơn kích động trong người Luke khi ấy chắc chắn đang dâng cao, máu chảy dồn dập, đầu óc điên cuồng, việc đang làm dở dang. Thế nên, chỉ có chín bước thôi. Câu hỏi là, liệu như thế có đủ thời gian để anh ta chợt động lòng được hay không?” “Tôi thì cảm thấy là không đủ.” Falk nghĩ tới người đàn ông mà anh đã quen biết. Hình ảnh từng rất rõ ràng giờ đây trở nên méo mó và mờ ảo. “Anh đã bao giờ gặp Luke chưa?” Falk hỏi. “Chưa.” “Anh ta có thể thay đổi tâm trạng nhanh như trở bàn tay vậy. Chín bước, tức là có thể đã thừa đến tám so với những gì anh ta cần rồi.” Nhưng lần đầu tiên kể từ khi quay trở về Kiewarra, Falk cảm thấy bứt rứt trong nỗi nghi hoặc thực sự. “Nhưng đáng lý ta đã có thể đưa ra tuyên bố rồi, phải vậy không? Một thứ đại loại như thế này. Chuyện xảy ra là một vấn đề thuộc cá nhân. Anh ta đã giết hại cả gia đình mình. Đó là điều anh muốn mọi người sẽ nói. Người vợ suốt bảy năm trời của Luke nằm hấp hối trên sàn tiền sảnh và anh ta dành - bao nhiêu nhỉ, hai phút ư? Hay là ba? - xới tung phòng ngủ để sát hại cậu con trai do chính mình đẻ ra. Anh ta đã lên kế hoạch tự sát sau khi xong xuôi. Nhưng nếu đó là do Luke làm…” Anh hơi ngập ngừng một chút ở từ nếu. “… thì tại sao con gái anh ta lại còn sống?” Họ đứng đó suốt một lúc lâu, cả hai cùng nhìn chiếc chuông gió treo im lìm và lặng lẽ phía trên chỗ từng đặt cái cũi. Tại sao đã sát hại cả gia đình mà chừa lại đứa bé? Falk suy đi nghĩ lại câu hỏi đó trong đầu cho đến khi anh nghĩ ra một vài lý do, nhưng chỉ có một trong số đó là hợp lý. “Có lẽ kẻ có mặt ở đây ngày hôm đó, bất luận là ai đi nữa, hắn không sát hại đứa bé bởi vì hắn không cần thiết phải làm việc đó.” Cuối cùng Falk nói. “Chẳng có lý do gì thuộc về cá nhân trong hành động đó cả. Bất luận anh là ai đi nữa, một đứa trẻ mười ba tháng tuổi đâu thể làm nhân chứng.” CHƯƠNG 6 “Nói chung họ cũng không quá nôn nóng về việc tôi đến đây.” Giọng Raco pha chút tiếc nuối khi anh ta đặt hai chai bia lên mặt bàn. Chai bia chao đảo và sánh ra ngoài, chất lỏng bên trong tràn ra. Anh ta đã về nhà để thay bộ đồng phục của mình, sau đó quay trở lại với một tập tài liệu dày cộp đề tên Hadler kẹp dưới cánh tay. “Tôi không hợp với kinh doanh buôn bán. Mọi người lúc nào cũng làm quá lên việc cất giấu chìa khóa xe của họ.” Họ liếc nhìn người phục vụ quầy bar. Vẫn là gã đàn ông cục mịch với bộ râu dài rậm từ đêm hôm trước. Anh ta ngước nhìn hai người qua tờ báo để trước mặt. “Uống mừng cho đội cảnh sát!” Falk nâng cốc và nhấp một hơi hết sạch. Anh luôn có thể uống hoặc từ bỏ đồ uống có cồn, nhưng thời điểm này anh thực sự cảm thấy hân hoan vui sướng. Lúc đó vẫn chưa tối hẳn và quán rượu khá tĩnh lặng, họ ngồi nhâm nhi ở một góc bàn. Phía xa của căn phòng, ba người đàn ông đang bần thần theo dõi trận đua chó xám trên ti-vi. Falk không nhận ra họ, và họ cũng lờ anh đi. Ở căn phòng phía sau, mấy cỗ máy đánh bạc không ngừng nhấp nháy và phát ra những âm thanh vui tai. Máy điều hòa như đang thổi ra những luồng gió buốt lạnh từ Cực Bắc. Raco nhấp một ngụm nhỏ. “Giờ thì sao?” “Hãy báo cho cảnh sát ở Clyde về những mối quan ngại của anh.” Falk nói. “Tôi sẽ tới chỗ cảnh sát ở Clyde ngay bây giờ, họ sẽ chột dạ và ngay lập tức có những động thái đề phòng để tránh bị khiển trách.” Raco nhíu mày. “Anh biết họ sẽ làm gì nếu nghĩ họ đã phá hỏng vụ này rồi đấy. Họ sẽ lập ra một đội riêng, cố gắng hết sức để chứng minh rằng kết quả điều tra của họ là đúng đắn. Tôi biết sẽ là như vậy.” “Tôi không chắc anh có sự lựa chọn. Đây không phải công việc một người có thể tự giải quyết.” “Chúng ta có Barnes.” “Ai cơ?” “Một cảnh sát nữa. Vậy là chúng ta có ba người.” “Chỉ có hai người các anh thôi, anh bạn ạ.” Falk nói. “Tôi không thể ở lại đây được.” “Tôi tưởng anh đã nói với ông bà Hadler rằng anh sẽ lại.” Falk day day sống mũi mình. Cái máy đánh bạc phía sau bắt đầu phát ra tiếng to hơn. Anh cảm giác như âm thanh đã chui vào đầu mình. “Chỉ một vài ngày thôi. Có nghĩa là một đến hai ngày. Chứ không phải ở lại để điều tra. Tôi quên chưa nói với anh điều đó. Tôi còn công việc của mình nữa.” “Ổn thôi.” Raco đáp nhẹ tênh như một điều hiển nhiên. “Vậy cứ ở lại một hai ngày đi. Hãy làm những việc liên quan đến vấn đề tài chính như anh đã nói. Khi chúng ta có cơ sở vững chắc, tôi sẽ tới Clyde ngay lập tức.” Falk lặng thinh không đáp. Anh đang mải nghĩ về hai hộp tài liệu chứa các báo cáo tài chính mà anh mang về từ chỗ gia đình Hadler, hiện đang nằm ngay ngắn trên giường ngủ phòng anh. Luke nói dối. Cậu nói dối. Anh nhấc hai cái cốc trống không lên và đưa trở lại chỗ quầy bar. “Vẫn loại cũ?” Người phục vụ quầy bar nhấc thân hình nặng nề của anh ta khỏi cái ghế và đặt tờ báo xuống. Theo Falk thấy thì đây là người duy nhất làm việc ở quầy bar kể từ ngày hôm qua. “Nghe này.” Vừa nói anh vừa nhìn cốc bia trống không được đặt dưới nút thùng bia. “Cái phòng mà tôi đang ở ấy. Tôi thuê thêm vài hôm nữa được không?” “Còn tùy.” Người phục vụ đặt một cốc bia lên quầy. “Tôi đã nghe thấy mấy lời bàn tán về anh đấy, anh bạn.” “Thế à?” “Đúng vậy. Và trong kinh doanh, tôi không hề muốn vướng vào rắc rối, anh hiểu chứ? Nơi này có quá đủ chuyện khiến người ta phải đau đầu rồi.” “Rắc rối sẽ không bắt nguồn từ tôi đâu.” “Nhưng anh chỉ mang nó theo thôi?” “Thực sự tôi sẽ không gây ra nhiều phiền toái. Anh biết tôi là một cảnh sát mà, phải không?” “Phải, tôi đã nghe được thông tin này. Nhưng giữa cái vùng thôn quê ngoài kia, vào lúc nửa đêm với vài gã say mèm đang kiếm cớ để gây sự, thì mấy cái phù hiệu cảnh sát đó cũng chẳng nghĩa lý gì mấy, anh hiểu ý tôi chứ?” “Thôi được rồi. Tùy anh vậy.” Falk không có ý định van nài thêm. Người phục vụ đặt cốc bia thứ hai lên quầy kèm theo một nụ cười nửa miệng. “Ổn thôi, anh bạn. Không cần quá căng thẳng đâu. Tiền của anh hay tiền của người thuê nào khác cũng như nhau cả thôi, và với tôi thế là tốt rồi.” Anh ta trả lại Falk tiền thừa và cầm tờ báo lên. Trông anh ta như đang tập trung vào trò giải ô chữ khó nhằn nào đó. “Hãy coi đó như một lời cảnh báo thân thiện, dù sao mọi việc vẫn có thể diễn ra theo chiều hướng vui vẻ ở đây. Anh đang bị mọi người để ý, không phải ai cũng sẵn sàng giúp đỡ anh đâu.” Anh ta liếc nhìn Falk. “Mặc dù từ những gì tôi nghe được thì anh cũng không cần để tâm mấy chuyện đó cho lắm.” Falk đặt hai cốc thủy tinh lên bàn. Raco đăm chiêu nhìn miếng vải lót cốc đã ướt sũng bia. “Anh có thể đánh mất thị giác đấy.” Falk nói. “Tốt hơn là anh nên để ý đến tôi này.” Raco đẩy tập tài liệu trên mặt bàn. “Đây là tất cả những gì tôi tổng hợp được.” Anh ta nói. Falk nhìn quanh quán rượu. Một nửa quán vẫn trống. Không có ai ở gần hai người họ. Anh mở tập tài liệu ra. Ngay trang đầu tiên là hình ảnh chiếc xe của Luke được chụp từ đằng xa. Một vũng máu ở phía bánh sau. Anh đóng tập tài liệu lại. “Hiện giờ chỉ cần đưa tôi những thông tin chính thôi. Chúng ta có thể khai thác được gì từ nhân chứng đã phát hiện ra họ?” “Nhân thân vô cùng trong sạch. Làm việc tại một công ty chuyển phát đã được xác minh. Đã làm được hai năm. Anh ta vận chuyển tới cuốn sách dạy nấu ăn mà Karen đặt mua trên mạng, bao gồm cả thanh toán. Anh ta đã bị trễ, đó là chuyến giao hàng cuối cùng trong ngày. Đây là chuyến giao hàng đầu tiên của anh ta tới Kiewarra. Anh ta nói là khi đang vội vã bước đến, anh ta nhìn thấy Karen nằm ở lối ra vào và nôn sạch bữa trưa của mình vào bồn hoa bên cạnh, rồi quay trở lại trong xe. Sau đó gọi cấp cứu ngay trên trục đường chính.” “Anh ta đã bỏ lại Charlotte ở trong nhà à?” “Tôi đoán là anh ta đã không nghe thấy tiếng đứa bé.” Raco nhún vai. “Có thể anh ta không nghe thấy thật. Đứa bé nằm một mình một lúc lâu rồi. Có thể nó đã khóc nhiều đến nỗi không còn hơi để khóc nữa.” Falk nhìn lại trang đầu tiên của tập tài liệu. Lần này anh để mở nó ra. Anh đã luôn nghĩ rằng người ta tìm thấy Luke trên chiếc ghế lái xe của anh ấy, nhưng những bức hình này lại cho thấy thi thể của Luke nằm ngửa ở khoang chở hàng phía sau. Khay chắn để mở và chân của Luke buông thõng xuống như thể anh ấy đang ngồi ở mép khoang vậy. Một khẩu súng săn đặt bên cạnh anh ấy chĩa thẳng vào mớ hỗn độn mà trước đó là phần đầu của Luke. Khuôn mặt của Luke hoàn toàn biến dạng. “Anh ổn chứ?” Raco cẩn thận thăm dò Falk. “Tôi ổn.” Falk uống một ngụm bia lớn. Máu chảy tràn trên khắp nền khoang chở hàng, đọng lại trong các rãnh kim loại. “Đội pháp y còn tìm thấy thứ gì khác hữu dụng ở trong khoang chở hàng không?” Falk hỏi. Raco rà soát lại những tờ ghi chú của mình. “Ngoài vũng máu của Luke thì chẳng có gì đặc biệt được ghi lại cả.” Anh ta nói. “Dù sao tôi cũng không chắc họ đã xem xét kỹ càng đến mức nào. Họ tìm thấy món vũ khí. Một chiếc xe vẫn hoạt động được. Luke có đủ các món đồ linh tinh ở phía sau xe.” Falk nhìn lại bức ảnh, tập trung vào phần xung quanh thi thể. Ở phần khó nhìn phía góc trái bên trong khoang chứa là bốn vết sọc ngang mờ mờ. Trông chúng khá mới. Màu nâu nhạt nổi bật trên nền sơn trắng, vệt dài nhất trong có vẻ tới ba mươi xen-ti-mét, vệt ngắn nhất dài khoảng một nửa. Chúng được chia ra làm hai phần, mỗi phần cách nhau khoảng một mét. Sự sắp đặt cũng không đồng đều. Những vết bên tay phải nằm ngang, trong khi những vết bên tay trái lại nghiêng nghiêng một chút. “Cái gì đây? Falk chỉ vào bức ảnh và Raco cúi xuống nhìn. “Tôi không chắc. Như tôi đã nói, chiếc xe đó có thể chuyên chở mọi vật dụng.” “Chiếc xe vẫn ở đây chứ?” Raco lắc đầu. “Đã được vận chuyển tới Melbourne rồi. Người ta sẽ lau dọn chiếc xe để bán hoặc nghiền nát nó, tôi nghĩ vậy.” Falk cố lục trong đống ảnh để mong thấy được một góc nhìn tốt hơn, nhưng những gì anh thu được chỉ là sự thất vọng. Anh đọc hết phần còn lại của những tờ ghi chú. Không có gì khác thường. Ngoài vết súng bắn vào phần đầu thì Luke Hadler vẫn là một người đàn ông khỏe mạnh. Nặng hơn vài ki-lô-gam so với cân nặng lý tưởng của anh ấy, có thể coi là một chút thừa cân. Không tìm thấy dấu hiệu của chất kích thích hay đồ uống có cồn trong cơ thể Luke. Falk nói: “Về khẩu súng săn thì sao?” “Chắc chắn là khẩu súng Luke đã dùng để kết liễu ba người bọn họ. Có đăng ký, có cấp phép. Trên khẩu súng cũng chỉ tìm thấy mỗi dấu vân tay của anh ta.” “Thông thường anh ta cất khẩu súng ở đâu?” “Trong một cái hộp có khóa bảo mật để ở nhà kho phía sau.” Raco nói. “Những viên đạn Winchester mà tôi tìm thấy được khóa riêng. Từ đó có thể thấy anh ta khá cẩn thận trong việc đảm bảo an toàn.” Falk gật đầu, nhưng chỉ nghe một cách nửa vời. Anh đang chăm chú đọc bản báo cáo về dấu vân tay thu được từ khẩu súng săn. Sáu dấu vân tay hình bầu dục sắc nét với các đường và xoáy khít vào nhau. Hai dấu còn lại mờ hơn, cảm giác đã bị trượt nhẹ, nhưng vẫn xác định được là thuộc về ngón trỏ trái và ngón áp út phải của Luke Hadler. “Dấu vân tay rõ đấy.” Falk nói. Raco hắng giọng. Ngước lên nhìn những tờ ghi chú. “Phải, rất sắc nét. Chẳng cần thuyết phục thêm nữa sau khi nhìn thấy chúng.” “Đúng vậy.” Falk nói, đẩy tập tài liệu trên bàn về phía Raco. “Liệu có sắc nét quá không? Một người đàn ông được cho rằng đã giết chết gia đình mình. Lẽ ra anh ta phải đổ mồ hôi và run rẩy như một kẻ nghiện chứ. Tôi đã thấy những thứ được chọn làm chứng cứ mà tồi tệ hơn thế này rất nhiều.” “Chết tiệt!” Raco cau mày nhìn các bản in. “Phải, rất có thể.” Falk lật sang trang khác. “Đội pháp y có tìm thấy gì ở trong nhà không?” “Họ tìm được tất cả mọi thứ. Cảm giác như đã có rất nhiều người tụ tập trong đó cùng lúc hoặc vào các thời điểm khác nhau. Có khoảng hai mươi dấu vân tay khác nhau ở khắp mọi nơi, chưa kể đến các dấu vân tay chỉ có một phần và không đầy đủ, xơ vải có ở khắp trong nhà. Tôi không có ý nói rằng Karen để mọi thứ bừa bãi, nhưng đó là một nông trại với nhiều trẻ con.” “Nhân chứng?” “Người cuối cùng nhìn thấy Luke còn sống là một người bạn của anh ta, Jamie Sullivan. Sở hữu một trang trại ở phía đông thị trấn. Luke đã từng giúp anh ta bắn thỏ. Sullivan cho rằng anh ta đến vào khoảng 3 giờ chiều, rời đi vào khoảng 4 giờ 30 phút. Ngoài ra, gần nơi ở của gia đình Hadler còn một nhà hàng xóm nữa mà rất có thể đã chứng kiến được gì đó. Ông ta đã ở nhà vào thời điểm xảy ra vụ án mạng.” Raco với lấy bản báo cáo. Falk bỗng cảm thấy đầy bụng. “Hàng xóm là một gã lạ lùng.” Raco tiếp tục. “Một lão già thích gây hấn. Không hề tỏ ra thương tiếc đối với Luke, dù sao anh ta cũng xứng đáng nhận một chút thương cảm. Không có thái độ hợp tác chút nào với yêu cầu từ phía cảnh sát.” “Mal Deacon.” Falk nói, cố giữ giọng bình thản. Raco ngạc nhiên ngước lên nhìn. “Đúng rồi. Anh biết ông ta à?” “Phải.” Raco như chờ đợi một thông tin gì đó nhưng Falk không nói gì thêm. Lại một khoảng im lặng giữa hai người. “Dù sao thì…” Raco nói. “Ông ta sống ở đó với cháu trai mình - một người tên Grant Dow - người này không ở nhà vào thời điểm xảy ra án mạng. Deacon nói ông ta không nhìn thấy gì cả. Có thể ông ta đã nghe thấy tiếng súng, nhưng ông ta không bận tâm nhiều về nó. Chỉ nghĩ tiếng súng liên quan đến những việc trong trang trại mà thôi.” Falk nhướng mày. “Mấu chốt là, thứ mà ông ta nhìn thấy hay không nhìn thấy cũng chẳng quan trọng.” Raco vừa nói vừa lấy chiếc máy tính bảng ra và gõ gõ gì đó trên màn hình. Một bức ảnh màu với độ phân giải thấp xuất hiện. Mọi thứ tĩnh đến nỗi mà phải mất một phút Falk mới nhận ra đó là một đoạn bằng chứ không phải một bức ảnh. Raco chuyển cho anh chiếc máy tính bảng. “Đoạn băng an ninh từ trang trại nhà Hadler.” “Chắc hẳn anh đang đùa.” Falk há hốc miệng kinh ngạc trước màn hình. “Chẳng có gì lạ lùng cả. Rõ ràng là một món đồ nâng cấp từ chiếc camera giám sát trẻ con dành cho các ông bố bà mẹ.” Raco nói. “Luke đã cài đặt nó sau hàng loạt vụ trộm xảy ra quanh đây một năm trước. Vài người nông dân cũng có cái camera này. Ghi hình trong hai mươi tư giờ, đăng tải đoạn băng lên máy tính gia đình, bị xóa một tuần sau đó nếu không có ai chủ động lưu lại.” Máy quay có vẻ được đặt phía trên cái nhà kho lớn nhất. Ống kính chĩa thẳng ra phía sân để có thể ghi hình bất cứ ai đi vào hay đi ra. Một mặt của ngôi nhà cũng nằm trong phạm vi ghi hình của máy quay, và góc trên của màn hình có thể nhìn thấy một đoạn của lối xe chạy. Raco tua đến đoạn anh ta đang tìm kiếm, sau đó dừng đoạn băng lại. “Được rồi, đây là buổi chiều xảy ra án mạng. Anh có thể xem đoạn băng cả ngày hôm đó nếu anh muốn, nhưng nói tóm lại, từng người trong gia đình buổi sáng đều ra khỏi nhà một cách riêng lẻ. Theo như những gì tôi có thể thấy từ đoạn băng, Luke lái chiếc xe chở hàng từ lúc 5 giờ sáng - đi thẳng tới chỗ cánh đồng của anh ta. Sau đó đến khoảng 8 giờ hơn, Karen, Billy và Charlotte rời nhà để đến trường học. Cô ấy làm việc bán thời gian ở đó với vai trò là nhân viên hành chính, còn Charlotte được đưa vào một nhà trẻ ở đây luôn.” Raco chạm vào màn hình, bắt đầu cho chạy đoạn băng. Anh ta đưa cho Falk tai nghe và cắm giắc vào chiếc máy tính bảng. Âm thanh rè rè và bị bóp nghẹt khi có gió thổi vào micro. “Ban ngày không có gì xảy ra cả.” Raco nói. “Tin tôi đi, tôi đã dành thời gian để xem toàn bộ đoạn băng này rồi. Không ai đến và cũng chẳng ai đi cho tới 4 giờ 4 phút chiều, đó là lúc Karen và mấy đứa trẻ bắt đầu trở về nhà.” Ở góc màn hình, một phần của chiếc xe hatchback màu xanh xuất hiện rồi biến mất. Chỉ có thể nhìn thấy từ nắp capô xuống lốp xe. Falk có thể phán đoán biển số phía trước. “Anh có thể đọc được nếu dừng hình lại và phóng to lên đấy.” Raco nói. “Chắc chắn đó là xe của Karen.” Giữa tiếng tanh tách của dòng điện, Falk nghe thấy tiếng của xe sập mạnh, giây lát sau lại nghe thấy tiếng thứ hai như thế. Raco chạm vào màn hình một lần nữa. Hình ảnh thay đổi đột ngột. “Rồi tất cả lại tĩnh lặng trong gần một giờ đồng hồ, tôi đã kiểm tra cho đến… đây. 5 giờ 1 phút chiều.” Raco nhấn chạy đoạn băng để Falk xem tiếp. Trong vài giây đầu, tất cả vẫn im lìm. Sau đó xuất hiện một bóng mờ di chuyển trong góc. Chiếc xe bán tải chở hàng màu bạc cao hơn chiếc xe hatchback, và chỉ có thể nhìn thấy từ chỗ đèn pha trở xuống. Biển số cũng có thể nhìn thấy được. Một lần nữa, chiếc xe xuất hiện rồi biến mất chỉ trong chưa đầy một giây. “Xe của Luke.” Raco nói. Hình ảnh trên màn hình hoàn toàn tĩnh lặng, mặc dù đoạn băng vẫn đang chạy. Lại một tiếng sập cửa vang lên dù máy quay không ghi được hình ảnh chiếc xe, sau đó chẳng có gì xảy ra trong suốt hai mươi giây. Bất thình lình một tiếng nổ khô khốc vang lên khiến Falk chói tai và một dự cảm chẳng lành ùa tới. Karen. Anh cảm thấy tim mình đập thình thịch trong lồng ngực. Hình ảnh lại tiếp tục im lìm trong khi đồng hồ bấm giờ vẫn đang chạy. Sáu mươi giây trôi qua, rồi chín mươi giây. Falk nhận ra anh đang nín thở, sẵn sàng có mặt ở đó để mang đến cái kết khác. Anh vừa nản lòng lại vừa biết ơn vì khoảnh khắc đó âm thanh rè rẹt không rõ. Tiếng la hét của Billy Hadler chắc chắn sẽ là một nỗi ám ảnh. Khi tiếng nổ thứ hai phát ra, nó dường như là sự giải thoát cho bọn họ. Falk không dám chớp mắt. Không có bất kỳ sự chuyển động nào. Rồi ba phút bốn mươi bảy giây sau khi chiếc xe bán tải lần đầu tiên xuất hiện, nó chạy rầm rập qua góc màn hình. Bánh sau, đáy khoang chở hàng và biển số xe của Luke Hadler đều được máy quay ghi hình lại một cách hoàn hảo. “Không một ai đến hay đi cho đến khi người giao hàng xuất hiện ba mươi lăm phút sau đó.” Raco nói. Falk đưa lại chiếc máy tính bảng cho anh ta. Những âm thanh đó đến giờ vẫn vang vọng trong tại anh. “Anh thực sự cho rằng có những điểm đáng ngờ sau khi xem xong đoạn bằng này?” Falk hỏi. “Đó là chiếc xe của Luke, nhưng anh không thể thấy được ai là người ngồi sau tay lái.” Raco nói. “Ngoài ra còn những điểm khác nữa. Viên đạn. Việc giết chết Karen ở bậc cửa ra vào. Phòng của Billy bị lục lọi.” Falk nhìn chằm chằm anh ta. “Tôi không hiểu. Tại sao anh lại cho rằng đó không phải là Luke? Anh thậm chí còn không biết anh ấy.” Raco nhún vai. “Tôi đã tìm kiếm những đứa trẻ.” Anh ta nói. “Tôi phải xem xem thằng bé Billy Hadler trông như thế nào sau khi bị một tên thú đội lốt người nào đó giết chết, và tôi sẽ không bao giờ quên được cảnh đó. Tôi muốn chắc chắn liệu mọi thứ có đúng là do anh ấy gây ra hay không. Tôi biết nghe có vẻ điên rồ, và nhìn xem, kỳ lạ là dường như chính Luke đã thực hiện tội ác đó. Tôi phải thừa nhận điều này. Nhưng nếu có một chút khả năng nào đó là do người khác làm và hắn đang cố gắng trốn tội…” Raco lắc đầu và uống một ngụm bia lớn. “Anh biết đấy, nhìn bề ngoài có vẻ Luke Hadler có tất cả - một người vợ tuyệt vời, hai đứa trẻ, một nông trại khá là đủ đầy, được mọi người tôn trọng. Tại sao một người như vậy lại thay đổi chỉ trong một ngày và tàn sát gia đình của anh ấy? Chẳng có nghĩa lý gì cả. Tôi chỉ không hiểu làm thế nào một người như anh ấy lại có thể làm ra những chuyện kinh khủng như vậy.” Falk xoa tay lên miệng và cằm. Cảm giác gai gai. Anh cần phải cạo râu. Luke nói dối. Cậu nói dối. “Raco.” Anh nói. “Có vài điều về Luke mà anh cần được biết đấy.” CHƯƠNG 7 “Nhớ lại hồi Luke và tôi còn nhỏ.” Falk nói. “Ừm, cũng không hẳn là còn nhỏ nữa. Thật ra là cũng lớn lớn rồi, tầm mười sáu tuổi…” Đột nhiên anh ngừng lại khi thoáng cảm thấy một dáng người di chuyển ở đầu bên kia của quầy bar. Từ lúc nào bên trong quán rượu đã đông đúc hơn nhiều, thế mà Falk không mảy may để ý, và giờ đây, khi ngẩng đầu lên, anh phát hiện không chỉ có một gương mặt thân thuộc với anh đang liếc nhìn sang hướng khác. Falk đã nghe thấy tiếng ồn ào trước khi nhận thấy chuyện gì đang xảy ra. Những người khách tới uống rượu đưa mắt nhìn xuống và tự động di chuyển sang bên, không một lời phàn nàn, khi một nhóm người tiến vào giữa đám đông. Đi đầu là một gã to béo với mái tóc màu nâu bùn, bên trên có gài cặp kính râm. Falk cảm thấy ruột gan mình lạnh toát. Có thể anh đã không nhận ra Grant Dow trong lễ tang của gia đình Hadler, nhưng ngay lúc này, anh không thể nào nhìn lầm được. Anh họ của Ellie. Họ có đôi mắt giống hệt nhau, nhưng Falk biết con người anh ta thì chẳng có chút nào giống với Ellie. Dow dừng lại ngay phía trước bàn rượu mà Falk và Raco đang ngồi, thân hình ngấn mỡ, chảy xệ của anh ta chắn ngang tầm nhìn của họ. Chiếc áo phông mà anh ta đang mặc có hình quảng cáo cho một nhãn hiệu bia của Bali. Các đường nét trên mặt anh ta trông như một con heo, nhỏ và co cụm vào nhau ở chính giữa khuôn mặt, còn bộ râu thì lòa xòa che khuất cái cằm dày thịt. Biểu cảm trên gương mặt anh ta lúc này vẫn ngang ngược y như khi anh ta chằm chằm nhìn những người đến dự buổi tưởng nhớ ở lễ tang. Dow giơ cốc rượu của mình về phía Falk như tỏ ý chào hỏi và nở một nụ cười nhạt với anh. “Gan mày hơi to khi dám xuất hiện ở đây.” Anh ta nói. “Tao phải công nhận đấy. Cậu có nghĩ thế không, cậu Mal? Gan nó to thật đấy chứ nhỉ?” Dow quay người lại. Một người đàn ông lớn tuổi đang đứng sau lưng anh ta, run rẩy bước lên phía trước, và Falk, lần đầu tiên sau hai mươi năm, mặt đối mặt với cha của Ellie. Anh cảm thấy có thứ gì đó nghẹn lại trong ngực và anh phát hiện ra mình đang phải kìm nén, nuốt nó xuống. Mal Deacon, giờ đây lưng đã còng, nhưng vẫn là một người đàn ông cao lớn, với cánh tay rất khỏe và đôi bàn tay to. Những ngón tay của ông ta xương xẩu và sưng lên theo tuổi tác, chúng gần như chuyển sang màu trắng bệch khi ông ta phải bám vào lưng ghế để đứng cho vững. Trán ông ta nhăn lại đầy giận dữ, và những phần da đầu thưa tóc của ông ta, lộ ra từ phía sau những lọn tóc đã ngả màu, đỏ phừng phừng. Falk đã sẵn sàng đón chờ một trận lôi đình bùng nổ, nhưng thay vào đó, trên gương mặt của Mal Deacon lại hiện lên vẻ bối rối. Ông ta lắc đầu nhè nhẹ, lớp da cổ sần sùi, lấm tấm nốt và nhăn nheo cọ vào cái cổ áo cáu bẩn. “Tại sao còn quay lại làm gì?” Giọng của Mal Deacon chậm rãi và cáu kỉnh. Những nếp gấp hằn sâu xuất hiện hai bên khóe miệng khi ông ta cất tiếng nói. Falk để ý thấy từng người trong quán rượu tự giác nhìn sang hướng khác. Chỉ có anh chàng phục vụ là thích thú quan sát cuộc đối thoại. Trò chơi giải đố ô chữ trong tay anh ta đã được bỏ xuống. “Hả?” Mal Deacon đâm sầm bàn tay xương xẩu của mình vào sau lưng ghế, làm tất cả mọi người giật nảy mình. “Tại sao còn quay lại? Tôi nghĩ lời nhắn cho ông đã đủ rõ ràng lắm rồi còn gì. Ông đưa cả thằng con quay về cùng đấy à?” Đến lượt Falk trông có vẻ bối rối. “Sao cơ?” “Cái thằng con khốn khiếp của ông ấy. Đừng có giả ngu trước mặt tôi, thằng khốn. Cả nó cũng quay lại rồi đúng không? Thằng con của ông ấy?” Falk chớp mắt. Ông Deacon nhầm anh với người cha đã quá cố. Anh nhìn chăm chăm vào gương mặt của ông già. Mal Deacon cũng giận dữ nhìn lại, nhưng trong cơn giận dữ của ông ta dường như thiếu đi sự nhanh nhẹn, hoạt bát. Grant Dow bước lên phía trước và đặt một tay lên vai người cậu của mình. Rõ ràng, trong một giây anh ta đã thoáng có ý định giải thích sự nhầm lẫn cho người cậu, nhưng rồi anh ta lắc đầu trong sự bối rối và nhẹ nhàng kéo người cậu của mình ngồi xuống ghế. “Hay lắm, thằng ngu này, mày làm ông ấy rối trí và buồn bực rồi đấy.” Dow nói với Falk. “Còn thằng kia, tao phải hỏi mày điều này. Mày nghĩ đây là chỗ thích hợp nhất cho mày lảng vảng sao?” """