"Một Lời Nói Dối - Colleen Coble PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Một Lời Nói Dối - Colleen Coble PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo COLLEEN COBLE Nguyễn Hải An dịch —★— MỘT LỜI NÓI DỐI • ONE LITTLE LIE • (Pelican Harbor, #1) 1980 BOOKS & NXB THANH NIÊN ebook©vctvegroup | 31-05-2021 Dành tặng gia đình Anh Quốc đã giúp đỡ tôi viết cuốn sách này! Các bạn là những người tuyệt vời nhất! LỜI DẪN Tháng Năm... Nút Áo quan sát lối ra của trại và buộc mình lê bước theo sau cha mẹ, mặc cho cơn đau đang ngày càng nhói lên trong bụng. Cô nén tiếng rên rỉ và nối gót vào hội trường của hội thánh Núi Sinai*. Khu đất của hội nằm lọt giữa những cánh rừng bang, gió thổi qua cánh cửa mang theo hương thơm của gỗ thông. Khối kiến trúc bằng gỗ trắng này từng là một nhà thờ của giáo hội Giám Lý và giờ vẫn che khuất những ô cửa kính màu ghép hướng về phía đường. Bên trong nhà thờ có khoảng bốn mươi người. Nút Áo lỉnh đến một băng ghế gần cửa sổ, còn cha mẹ cô thì tiến đến vị trí của họ ở hàng phía trên. Từ bé đến giờ cô chỉ biết đến cộng đồng nhỏ này, nhưng khi cơn đau ở lưng lớn dần và quấn quanh cái bụng khổng lồ, tất cả những gì cô mong ước bây giờ là có thể thuyết phục cha cho mình đến bệnh viện. Đôi mắt cha cô lộ rõ vẻ do dự, nhưng sau khi thấy mẹ cô lập tức từ chối lời van xin thì ánh mắt ông đanh lại và ông lắc đầu. Trưởng nhóm chưa bao giờ cho phép bất cứ ai rời đi, ít nhất không phải vì một việc tầm thường như sinh đẻ. Nhưng cô sợ. Cơn đau khiến cô run rẩy với những bất trắc mà mình có lẽ sẽ phải đối mặt. Người bạn thân nhất của cô đã qua đời trong khi sinh nở vào cuối mùa thu năm ngoái. Điều gì sẽ xảy ra nếu Nút Áo cũng qua đời và ai sẽ là người nuôi con thay cô đây? Cô muốn tự mình ôm lấy con. Cô đã dành vô số đêm băn khoăn về những gì có thể làm để trốn thoát cùng với đứa con của mình. Nhưng kể cả khi tìm được cách trốn ra khỏi cánh cổng trại, cô sẽ đi đâu đây? Làm thế nào cô có thể tự chăm sóc cho bản thân và đứa bé? Đó dường như là điều không thể. Moses* Bechtol xoa hai tay vào nhau khi đến gần bục giảng. Mọi người im lặng khi trưởng nhóm bắt đầu bài giảng của mình, một cơn sấm chớp rền vang rung chuyển những ô cửa sổ. Nút Áo co rúm người lại và nhắm mắt. Người đàn ông đó không có dáng vẻ thần thánh như anh ta nghĩ, còn Nút Áo thì ngày càng chán nghe những gì anh ta nói. Chẳng lẽ cô là người duy nhất nhìn thấu vẻ ngoài giả dối của anh ta? Đã đôi lần cô cố nói chuyện với mẹ. Nhưng bà yêu quý gã đàn ông đó. Có lẽ còn hơn cả tình cảm mà bà dành cho người chồng của mình. Nút Áo tỉnh ra từ sáu tháng trước, sau khi chiêu mộ được hai cô gái ở thị trấn gần đó. Hai người này đã mang theo vài cuốn sách, và cô đã hoàn toàn bị hấp dẫn bởi cuốn Nhật Ký Công Chúa. Cuốn sách mở ra một thế giới hoàn toàn khác với thế giới mà cô đang sống. Sự lơ đãng của Nút Áo bị cắt ngang bởi cơn đau đang lớn dần trong bụng. Cô nén tiếng rên rỉ và lau mồ hôi túa ra trên trán. Những bức tường dường như đang đổ sụp về phía cô, bụng cô sôi réo. Cô phải ra khỏi đây. Cô muốn mẹ ở bên, nhưng lại không dám thu hút sự chú ý của mẹ. Cô lẻn ra cánh cửa sau cũ kỹ và hòa mình vào bầu không khí mát lạnh của Michigan. Những chiếc lá khô còn sót lại của mùa thu năm ngoái lướt nhanh qua tàn tích của trận bão tuyết mùa xuân. Hơi lạnh trên gò má giải thoát cô khỏi sức nóng đang sôi sục trên da thịt. Nút Áo cúi mình xuống, lảo đảo đi về phía căn nhà gỗ được chỉ định. Có khoảng hai mươi căn nhà gỗ và lều nằm lộn xộn xung quanh nhà thờ, căn của cô nằm ở phía tây. Cơn đau bóp nghẹt lưng cô giảm đi đôi chút, Nút Áo càng trở nên vội vã hơn. Cô dò dẫm tìm tay nắm cửa, và gần như ngã vào trong khi một cơn đau khác ập đến. Chất lỏng đọng lại dưới chân cô. Cô đang chết ư? Cô thở hổn hển khi cơn đau lan dần từ lưng xuống bụng. Hôm nay đứa bé sẽ chào đời. Cô mò đường đến chiếc cũi cứng trong phòng ngủ và ngã vào đó. Cô mất nhận thức về thời gian khi đau đớn dồn từng cơn. Có lẽ là hàng tiếng sau đó, cô mới cảm nhận được một bàn tay rắn chắc đặt lên trán và nhìn thấy gương mặt của mẹ mình. “Đứa bé,” Nút Áo thì thào qua đôi môi khô khốc. “Đúng thế, gần chào đời rồi.” Mẹ cô nhúng khăn vào thau nước và lau trán cho cô. “Con đang làm tốt lắm, con yêu. Mẹ đã báo cho Moses rồi.” Cô không muốn cha đứa trẻ đến đây chút nào. Cô thậm chí còn chưa từng nhìn rõ mặt anh ta. Cha mẹ đã hứa hôn cô cho người đó khi cô mới mười hai tuổi. Một năm trước, khi cô mười bốn, Moses đã buộc tay họ vào nhau. Anh ta đến với cô hai lần trước khi cô cảm thấy bản thân mình ngày càng nặng nề, và thời điểm này anh ta sẽ không còn cảm thấy thoải mái chút nào. Cô bám lấy tay mẹ. “Mẹ ơi, con đau quá! Con sợ. Con muốn đến bệnh viện.” “Mẹ biết là đau, con yêu.” Mẹ dỗ dành cô bằng bàn tay điềm tĩnh đặt lên trán. “Hít thở đều là cơn đau sẽ qua. Mẹ sẽ đỡ đẻ ngay cho con.” Thế giới xung quanh cô thu hẹp lại chỉ còn gian phòng nhỏ này, còn cơn đau thì xóa nhòa mọi thứ. Sau khoảng thời gian tưởng chừng như vô tận, tiếng khóc mỏng manh báo hiệu sự ra đời của một sinh linh cất lên. Nút Áo chẳng còn đủ sức để hỏi giới tính của đứa bé được nữa. “Một bé trai!” Mẹ Nút Áo đặt đứa bé lên ngực cô. “Khá bụ bẫm. Nghe tiếng khóc mà xem. Thằng bé đòi ăn đấy.” Nút Áo đã chứng kiến thủ tục này rất nhiều lần trong suốt những năm ở cùng cộng đồng, nhưng mẹ phải giúp thì cô mới giữ chắc con được. Cô đưa tay vuốt mái tóc đen của con. “Thằng bé kháu khỉnh quá!” Đứa trẻ có nước da đỏ hồng. Cô đưa tay lướt dọc theo cánh tay thằng bé. Mềm mại quá! Tình yêu ngập tràn và mãnh liệt dành cho con trai khiến chính cô cũng phải kinh ngạc. Cô nhắm mắt lại, hít vào mùi hương của con trong khi mẹ cô chụp vài tấm bằng máy ảnh lấy ngay. Sẽ phải có cách nào đó để thằng bé được hưởng nhiều hơn những gì cô có trong cộng đồng này. Nút Áo không để ý rằng mẹ mình đã để đứa bé vào một chiếc hộp nhỏ được chuẩn bị sẵn và cô cứ thế chìm vào giấc ngủ. Bị tiếng ồn bên ngoài đánh thức, cô bật dậy. “Mẹ ơi?” Không ai trả lời. Cô ngửi thấy mùi khói và nghe thấy những tiếng hét bên ngoài căn nhà gỗ. Có nhiều tiếng ồn hơn trước. Tiếng súng ư? Chẳng lẽ họ bị tấn công? Moses từng cảnh báo chuyện này có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Cô lăn khỏi giường và lao tới để bế đứa bé ra khỏi hộp, nhưng thằng bé không có ở đó. Có lẽ mẹ đã đưa con cô đi tắm, hoặc tới chỗ cha và Moses. Cô mệt lả vì thử thách ban nãy, giờ lảo đảo bước ra khỏi phòng ngủ để đi đến phòng khách. Làn khói len lỏi qua khe gỗ và ngọn lửa liếm lấy khung cửa. “Mẹ ơi?” Con của cô đâu rồi? Cô điên cuồng nhìn khắp căn nhà nhỏ, nhưng chẳng hề thấy bóng dáng con trai hay mẹ mình. Khói đã đốt cháy cổ họng và đang len dần xuống phổi. Cô ho sù sụ, tránh xa khỏi ngọn lửa bùng lên nơi vách tưởng trước của căn nhà và lê bước ra cửa sổ. Cô phải ra khỏi đây. Tấm kính cửa sổ vỡ tan sau lưng cô, ngọn lửa bùng lên nhờ luồng không khí mát lành tràn đến. “Nút Áo!” Cô quay về hướng phát ra giọng nói của cha. Ông đã đập vỡ cửa sổ và đang đưa tay ra. “Nhanh lên, không có nhiều thời gian đâu.” Cô lao đến, cha đỡ cô trèo ra ngoài hít thở không khí trong lành. “Con của con. Mẹ và con của con đâu?” “Đi theo cha.” Cha dùng tay nhấc cô lên và bế cô đi qua làn khói dày. Lửa bùng lên từ những căn nhà xung quanh, mùi khói cay sè khiến cô bật ho. Những tiếng la hét và tiếng súng vang lên khắp nơi. Một viên đạn rít qua đầu cô, khiến cô sợ hãi vùi mặt vào ngực cha. Chuyện gì đang xảy ra vậy? Cha cô đi tới bên chiếc xe Jeep cũ màu xanh lá đã móp méo với gần ba mươi năm tuổi đời. Ông đặt cô xuống cạnh cửa bên và mở nó ra. “Vào trong đi.” Cô lắc đầu quầy quậy. “Không! Con phải tìm con con. Và cả mẹ nữa!” “Mẹ con không chịu đi. Bà ấy ở lại với Moses.” Đôi mắt của Nút Áo mở to đây kinh hoàng. “Mẹ đưa con của con đi ư? Mẹ không thể giữ nó ở đây được. Nó là con của con!” Cha nhìn xuống đất. “Con yêu, đứa bé chết rồi. Chúng ta phải rời khỏi đây, nếu không tất cả sẽ phải ngồi tù. Con phải vào xe ngay.” Giọng cha mềm mỏng. Chết? Đứa con nhỏ bé hoàn hảo của cô đã chết rồi ư? “Con không tin,” cô thì thào. Cha nhìn thẳng vào mắt cô. “Chính mắt cha đã thấy đứa bé. Thằng bé tím tái và lạnh ngắt. Mẹ con đưa cha bức ảnh này để con có thể nhớ về thằng bé.” Cha dúi một tấm ảnh chụp lấy ngay vào tay cô. Mắt cô ướt nhòe. Cô gần như bất tỉnh khi ngã vào trong chiếc Jeep, được cha mình lái xe đưa qua hỏa ngục để tìm về chốn an toàn. CHƯƠNG MỘT Mười lăm năm sau... “Mẻ lưới cuối cùng của đêm nay đấy, ông chủ.” Alfie Smith gật đầu với Isaac, trợ thủ mới mười sáu tuổi của mình, và cho chạy tời để kéo lưới lên. Năm nay ông đã gần tám mươi tuổi và kiếm ăn bằng con tàu Seacow này được hơn sáu mươi năm. Những bóng đèn của Gulf Shores lấp lánh ở phía xa và ánh sáng lóe lên phía bên phải mạn thuyền. Những chiếc thuyền đánh bắt tôm khác cũng đang thu mẻ lưới cuối cùng trong đêm trước khi hướng đến một bến cảng ở Pensacola, Gulf Shores hoặc Mobile. Ánh dương nhuộm hồng những đám mây ở phía đông và phủ một lớp kim tuyến óng ánh lên những ngọn sóng. Đây là khoảng thời gian yêu thích nhất trong ngày của Alfie, khi cơ bắp của ông đau nhức vì lao động và khoang thuyền đầy ắp tôm. Hầu hết mọi người đều nói mùi này tệ đến mức giết chết cả lũ giòi, nhưng với Alfie, đây là mùi tiền mùi gạo. Ông liếc nhìn Isaac, thằng bé trông như một tay lướt sóng với đôi mắt màu xanh dương sáng và khuôn mặt rám nắng. Tóc nó hoe vàng vì ánh nắng và gió biển. Thằng bé đẹp trai, nhưng có linh hồn của một người thủy thủ và năng khiếu bẩm sinh đối với nghề đánh bắt tôm. Isaac lôi điện thoại ra. “Con gái ông nói đây sẽ là chuyến cuối cùng của ông. Có lẽ ta nên làm gì đó để kỷ niệm chứ ạ? Cháu sẽ chụp một tấm ảnh.” “Nó nói với cháu thế à?” Alfie cau có và nhìn về phía chân trời. “Cất cái điện thoại ngớ ngẩn đó đi. Bác sĩ Cosby lúc nào cũng lắm chuyện, cứ làm quá lên thôi, ông sẽ đi biển tới lúc nào còn khỏe. Con bé chỉ muốn ông nằm dài trên ghế rồi chết luôn trên đó. Nếu có một ngày ông nằm vật xuống thì cũng phải là trên chiếc thuyền này.” Isaac nhìn ông bằng ánh mắt nghi ngờ, nhưng vẫn cất điện thoại vào túi. “Nếu ông nói vậy thì thôi ạ. Chứ con gái ông có vẻ kiên quyết lắm.” “Nó không phải sếp của ông.” Con bé là một cô gái tốt bụng, giống như người mẹ đã lên thiên đàng mười năm trước. Nhưng nó luôn cho rằng mình đúng khi cứ cố gắng điều khiển ông. “Ông vẫn sẽ ra khơi ngày mai. Còn cháu thì cầm cái phiếu đó đến ngân hàng lấy lương đi.” lsaac gạt những lọn tóc xoăn cho khỏi vướng mắt. “Thế ông vẫn cần cháu chứ ạ?” “Đương nhiên. Khi nào thấy ông nằm trong quan tài thì cháu mới phải thôi việc.” Lão bác sĩ già đó cứ khăng khăng tim Alfie có vấn đề, nhưng ông thấy vẫn ổn. Có lẽ chỉ hơi mệt hơn bình thường một chút, nhưng ông đã già rồi. Tiếng rít của động cơ chợt khiến Alfie chú ý. “Động cơ đang kéo căng. Chúng ta sẽ có một mẻ hời đấy,” Isaac nói. Alfie gật đầu và chuyển lưới qua bàn phân loại, rồi mở lưới. Một tiếng đập nặng nề rơi xuống bàn, và ông bật đèn pha lên. Isaac rên rỉ. “Có một thùng đá kìa, ông Alfie. Nó làm hỏng lưới mất rồi.” Đó là một cái thùng đá hiệu Grizzly khá lớn, loại ba trăm bảy mươi tám lít, dài gần mét rưỡi. Alfie luôn muốn mua một cái thế này, nhưng nó khá đắt. Ông đoán cái thùng này phải gần bảy trăm đô-la. Ngày hôm nay, mẹ đại dương đã tặng ông một món quà quá tuyệt. Alfie vẫn luôn phát khùng với cách người ta cứ quẳng tất cả mọi thứ xuống bãi đánh tôm. Họ đem rác ra ngoài khơi đủ xa để khi ném chúng đi không bị ai phát giác. Đôi lúc, ông nghĩ người ta cố tình làm vậy để phá hoại những cái lưới đánh tôm. Alfie nhìn lỗ hổng lớn trên lưới. “Dù sao cũng xong việc rồi.” Lưới sẽ được sửa xong trước khi ông ra khơi chuyến tiếp theo. Isaac càu nhàu kéo thùng đá về phía mình. “Quá nặng so với một thùng đá rỗng.” Cậu vật lộn với cái nắp và cuối cùng cũng mở được nó ra. Khi lsaac kêu lên và loạng choạng lùi lại, Alfie vội bước tới bên cạnh cậu bé. “Sao thế?” Với đôi mắt trợn tròn, Isaac đưa bàn tay run rẩy lên. “C... cháu nghĩ có xác con gái trong đó.” Alfie bước đến gần thùng đá và dòm vào. Một chiếc váy cưới đẫm máu cuộn tròn bên trong. Không, không chỉ là một chiếc váy. Đó là một thân người, ông lùi lại, xoay người và nôn thốc nôn tháo qua mạn thuyền. Sau khi bụng đã trống rỗng, ông với lấy điện thoại. Jane Hardy ngồi trên ghế đối diện với năm ủy viên ban chấp hành đang ngồi trên chiếc bàn cong bóng loáng. Chú chó Parker thuộc giống Golden Retriever nằm dưới chân cô. Miệng cô khô khốc, cô không biết tại sao mình lại có mặt ở đây. Họ không định thực sự thăng chức cho cô đấy chứ? Nhưng nhóm người ba nam hai nữ này đang nhìn cô với vẻ gì đó gần như là ngợi khen. Ánh mắt Jane thoáng bắt gặp đôi mắt xanh nhạt của Victor Armstrong. Ông ta không hề cười. Armstrong đằng hắng. Dù đã ở tuổi năm mươi, trông ông vẫn cao to và là thành viên duy nhất của hội đồng thành phố mặc com-lê và đeo cà vạt. Ông buôn bán bất động sản thương mại và rất nổi tiếng trong thị trấn. Jane nhận ra Armstrong đã nói gì đó khi cô mất tập trung. “Xin lỗi?” Mắt ông nheo lại. “Hi vọng chúng tôi không cản trở công việc quan trọng của cô.” “Không, thưa ông.” Cô ngậm chặt miệng, vì bất kỳ lời bào chữa nào được nói ra đều sẽ khiến tình hình tệ hơn. Jane vén một lọn tóc màu nâu nhạt ra sau tai, nở một nụ cười đầy lo lắng với bà Thị trường Lisa Chapmen, người đang ngồi cạnh ông Armstrong. Lisa đã kết bạn với Jane ngay từ ngày cô mới đến thị trấn này. Lisa cũng sở hữu Petit Charms, một tiệm bánh beignet* và bánh ngọt, nhưng sau khi được bầu làm thị trưởng, bà đã giao cửa hàng lại cho con gái. Dù đã ở tuổi năm mươi nhưng Lisa vẫn trông như mới ba mươi mấy với làn da ngăm đen không tỳ vết và thân hình thon gọn. Lisa mỉm cười. “Chúng tôi đã quyết định bổ nhiệm cô làm cảnh sát trưởng, Jane ạ. Xin chúc mừng.” Cảnh sát trưởng. Jane ngồi thẳng lên. “Tôi... tôi không biết phải nói gì. Tôi không biết mình có thực sự xứng đáng hay không.” “Cô có đủ năng lực để đảm nhiệm vị trí này. Chúng tôi đã tiến hành các cuộc phỏng vấn ở sở. Kỹ năng quản lý của cô rất xuất sắc, cô là một người có tổ chức và thông minh. Tất cả chúng tôi” - Lisa liếc nhìn Armstrong và nhấn mạnh thêm một chút vào từ tất cả trước khi tiếp tục - “biết rằng cô sẽ là một đại diện tốt cho sở giống như cha của cô đã làm trong suốt những năm qua.” Jane cảm thấy choáng váng như máu không tuần hoàn được lên não. Cô đã không dám hy vọng mình sẽ thực sự được bổ nhiệm. “Cảm ơn mọi người rất nhiều. Tôi hứa sẽ không làm mọi người thất vọng.” Armstrong nhíu mày. “Tôi phải nói rằng, tôi không tin tưởng lắm khi giao vị trí này cho một phụ nữ. Tôi biết nói thẳng ra lo ngại của mình như vậy thì không được đúng đắn lắm về mặt chính trị, nhưng tôi chưa bao giờ quan tâm tới cái gọi là đúng đắn về chính trị cả. Cô là một người phụ nữ nhỏ nhắn, Jane ạ. Vẻ ngoài của cô không khiến lũ tội phạm cảm thấy sợ hãi. Vụ án về kẻ 'anh hùng’ tự phong của cô cũng không có tiến triển gì suốt hai tháng nay rồi.” Nụ cười của Jane đông cứng lại. Cô phải cố gắng lắm mới kiềm được nỗi tức giận đang chộn rộn nơi cuống họng. “Vụ án về gã 'anh hùng’ không phải ưu tiên của chúng tôi, thưa ông Victor. Chúng tôi chỉ là một lực lượng cảnh sát nhỏ, và việc tống cổ những kẻ buôn bán ma túy và tội phạm vào tù là việc khiến tôi quan tâm hơn.” Lisa cũng lao vào bảo vệ cô. “Victor, không ngờ anh lại có thể nói ra những điều như thế đấy. Jane đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong mọi vị trí mà cô ấy đảm nhiệm ở sở, từ tuần tra cho tới thanh tra. Cô ấy đã thực hiện nhiều vụ bắt giữ với vai trò là một thanh tra nhiều hơn bất kỳ ai mà chúng ta từng thuê.” Armstrong nhún vai. “Thị trưởng có quyền đưa ra quyết định cuối cùng, nhưng tôi đoán mấy tháng nữa chúng ta sẽ lại phải tới đây để thay đổi quyết định hôm nay thôi.” Lisa di chuyển giấy và bút chì, dấu hiệu chắn chắn cho thấy bà ấy đang giận dữ. Bà lên tiếng bằng giọng cẩn trọng và kiềm chế. “Tôi không muốn nghe anh nói thêm gì nữa đâu, Victor. Cuộc họp ngày hôm nay sẽ ngừng tại đây.” Bà đứng dậy, đi vòng quanh bàn để tiến tới bắt tay Jane. Jane nắm lấy tay bà một lúc lâu. “Cảm ơn bà rất nhiều, Lisa.” “Đây là niềm hân hạnh của tôi. Chúng tôi hoàn toàn tin tưởng cô có thể hoàn thành xuất sắc công việc của mình. Tôi cảm thấy rất tự hào khi chúng ta có một sĩ quan tuyệt vời có thể đảm nhận vị trí này.” Mắt bà sáng lên. “Tôi tin chắc rằng tin tức này sẽ lan ra nhanh thôi.” Nụ cười của Jane nhạt đi. Liệu có phải giới tính nữ là lý do khiến cô được đảm nhiệm vị trí này? Cô gần như không thể đón nhận những lời tán tụng và chúc mừng trước khi trốn ra ngoài tắm mình trong sức nóng của mùa xuân Alabama với Parker. Cảnh sát trưởng. Paul Baker sẽ không vui khi nghe được tin này. Liệu cô có làm được việc hay không? Ông Armstrong liệu có đúng về những thách thức mà cô phải đối mặt khi là phụ nữ? Cô nhẹ lắc đầu. Thị trấn này tin tưởng vào năng lực của cô. Cô sẽ vượt qua thử thách. Ở các đồn cảnh sát lớn, cảnh sát trưởng chỉ huy mọi người. Nhưng chỗ của cô chỉ có năm sĩ quan tính cả cô trong lực lượng, nên cô sẽ phải là một cảnh sát trưởng tự lao vào thực chiến. Cảng Pelican nằm giữa Vịnh Oyster và Barnwell, dọc theo làn nước trong xanh của Vịnh Bon Secour. Trước đây, khách du lịch hầu như không đổ về Gulf Shores, nhưng từ khi những tiệm bánh beignet và những căn nhà ống của Cảng Pelican xuất hiện trên tạp chí National Geographic Traveler*, mọi thứ thay đổi hẳn. Khách du lịch kéo đến mang theo sự thịnh vượng cho ngôi làng vốn chỉ có hai ngàn người. Kể từ đó, cư dân nơi đây bắt đầu dựng lên những ban công bằng sắt và sơn những ngôi nhà kiểu Pháp cổ kính. Thị trấn khiến du khách nhớ đến Khu phố Pháp nổi tiếng của New Orleans. Bây giờ, đây là thị trấn mà cô phải bảo vệ. Và cô sẽ làm điều đó bằng mọi khả năng của mình. Cô quay người về phía quán cà phê và đụng phải một người đàn ông. Anh ta đưa tay ra để đỡ lấy cô. “Xin lỗi, tôi đi đường mà không để ý.” Mắt anh ta hơi nheo lại như thể nụ cười lúc nào cũng thường trực trên môi, dù rằng hiện tại anh ta không cười. Anh ta cao hơn hẳn chiều cao một mét năm tám của cô, nên chắc cỡ ngoài mét tám. Cái đầu cạo trọc tăng thêm sức hấp dẫn cho đôi mắt nâu vốn giàu biểu cảm, trên người anh ta toát ra nguồn năng lượng dồi dào và sức mạnh tiềm ẩn dưới vẻ ngoài cuốn hút. Đôi tay rắn chắc và khuôn mặt rám nắng cho thấy anh ta đã dành khá nhiều thời gian hoạt động dưới ánh mặt trời. Cô bị sức hấp dẫn của anh ta cuốn hút tới nỗi ngay lập tức lùi lại một bước. Cô vẫn luôn né tránh những mối quan hệ. Đánh mất người mình thương yêu là điều quá đau đớn. Đôi mắt sẫm màu mỉm cười với cô. “Cô là Jane Hardy?” “Chính tôi đây. Anh trông quen quá.” Màu đỏ ửng lên dưới làn da rám nắng của anh. “Có lẽ cô đã từng thấy ảnh của tôi rồi.” Anh giơ tay ra và bắt tay cô. “Tôi là Reid Dixon. Cô hẳn đã xem một số phim tài liệu của tôi.” Anh thả tay cô ra. Tất nhiên cô đã từng xem chúng. “Anh đã quay một bộ phim về các hội cuồng giáo cách đây vài năm.” “Đúng thế. Tôi định mua một tách cà phê. Cô có muốn uống cùng tôi không?” Cô không muốn đồng ý, nhưng anh ta ở đây hẳn vì một lý do nào đó. Và vì anh ta đã chỉ đích danh cô, nên cô đoán mình sẽ không thích ý định của anh ta khi đến thị trấn này. Cứ chuẩn bị trước vẫn hơn. “Tôi cũng định uống cà phê.” Cô sóng bước cùng anh ta tới tòa Pelican Brews và để chú chó của mình ngồi dưới mái hiên râm mát bên ngoài trước khi bước vào trong. Mùi hương tươi mới của cà phê Guatemalan khiến bước chân cô lâng lâng. Cô gọi một cốc cà phê rồi trả tiền, sau đó ngồi đợi bên chiếc bàn nhỏ cạnh cửa sổ. Người đàn ông gọi cà phê đen rồi ngồi xuống cạnh cô. Cô nhấp một ngụm nhỏ và đợi anh ta nói ra điều mình muốn. Nhưng không thấy anh ta nói gì, cô quyết định phá vỡ sự im lặng. “Tôi không biết anh sống ở đâu, nhưng chắc hẳn nó cách xa thị trấn nhỏ này của chúng tôi.” “Tôi sống ở New Orleans nhưng đã ở đây được vài tuần để quay một bộ phim tài liệu mới.” Anh ta chỉ về hướng nam. “Tôi thuê Holbrook.” Ngôi biệt thự bằng gạch cạnh sông Bon Secour chưa được bán. Không phải ai cũng chấp nhận được giá thuê ấy. “Chỗ đẹp đấy.” “Đúng thế.” Anh nhấp một ngụm cà phê và nhìn ra cửa sổ. “Cô sống ở đây lâu rồi đúng không?” “Gần như là cả đời.” “Một vùng đất đẹp. Tôi và con trai dự định sẽ đi đánh tôm.” Anh ta muốn gì ở cô nhỉ? “Vậy anh nên đi vào ban đêm, đó là khoảng thời gian tốt nhất.” “Đúng thế. Vài tiếng nữa, Will, con trai tôi, sẽ kết thúc khóa bóng rổ của mình, nó đang bồn chồn muốn chạy đi đánh tôm lắm rồi.” Anh ta liếc nhìn cô, định mở miệng nói thêm gì đó, nhưng đúng lúc này, điện thoại từ điều phối viên vang lên. “Cảnh sát trường Hardy nghe.” “Jane, có một vụ án mạng,” Olivia Davis cất tiếng. “Em cần đến bến tàu ngay. Một người đánh tôm đã kéo được một cái xác.” “Em lên đường ngay đây.” Cô chộp lấy cốc cà phê và đứng dậy. “Rất vui được gặp anh, Reid. Tôi phải đi rồi.” “Không sao, cô cứ đi đi. Tôi sẽ liên lạc với cô sau.” Nghe giống như một lời đe dọa hơn chứ không phải một lời hứa hẹn. CHƯƠNG HAI Những con tàu màu trắng dập dềnh dọc theo các cầu tàu. Jane ra hiệu cho thanh tra Brian Boulter đi theo sau mình và Parker xuống con đường lắc lư dẫn tới tàu đánh tôm Seacow. Brian có thể đe dọa nghi phạm bằng vẻ ngoài to lớn của mình. Cậu khiến người ta nhớ đến diễn viên Dwayne Johnson* nhờ kích thước đồ sộ của đôi tay săn chắc. Cô thường xuyên cảm thấy biết ơn vẻ ngoài mạnh mẽ đó, dù trông cô chẳng khác nào một chú lùn khi đi bên cạnh. Cảm giác căng thẳng nơi ổ bụng lớn dần khi cô trông thấy con tàu cũ nát mà mình vẫn thấy suốt những năm qua. Thi thể hẳn phải có dấu vết của bạo lực nên điều phối viên mới gọi đây là một vụ giết người. Cô nhìn thấy Paul Baker và đi về phía anh ta. Paul cao khoảng một mét tám bảy, sải bước về phía cô với dáng vẻ của một người đã quen khiến phụ nữ phải ngoái nhìn. Cô biết anh ta mới khoảng ba mươi và là một người có tham vọng. Anh ta muốn được bổ nhiệm làm cảnh sát trưởng thay cho cô và sẽ chẳng vui vẻ gì khi phải đứng ở vị trí thứ hai. Nhất là sau một người phụ nữ. “Chuyện là thế nào vậy?” Cô hỏi. “Tàu đánh bắt tôm đang kéo mẻ lưới cuối cùng thì phát hiện một cái thùng đá. Bên trong chứa phần thân.” Nghe giọng điệu bình thản này thì chắc hẳn anh ta chưa hay về chuyện cô mới được bổ nhiệm, chứ không thì phải giận dữ hơn nhiều. Cô nhăn mặt. “Chỉ có phần thân thôi à?” Paul gật đầu. “Giám định y khoa vừa đến, nhưng tôi đã nhìn qua dù không chạm vào cái xác. Không có đầu hay tay chân gì cả. Chắc là hung thủ không muốn nhận diện được danh tính nạn nhân.” Anh ta ngập ngừng. “Cô ấy mặc váy cưới.” Jane lại nhăn mặt. “Tôi chưa thấy có báo cáo nào về cô dâu mất tích cả.” “Đúng thế.” Trên bến tàu, có hai người đàn ông đang ngồi với đôi chân buông thõng xuống bên dưới. Cô nhận ra ông Alfie Smith ngay lập tức. Cô thích ông già thường hay cho mình tôm này. Ông đang ngây người nhìn về phía Cảng Pelican. Trợ thủ hẵng còn tuổi thiếu niên của ông, Isaac, ném bánh mì cho lũ mòng biển đang tranh giành nhau từng mẩu nhỏ. Họ đều mặc áo dài tay, quần dài được nhét trong đôi ủng cao su vốn là màu trắng. Nhìn thấy thi thể không lành lặn của một cô dâu hẳn sẽ khiến cả người điềm đạm nhất cũng phải thất kinh. Nghe thấy tiếng bước chân của cô vang lên trên sàn gỗ, ông Alfie quay đầu lại. Ông đứng lên và nhét tay vào túi quần kaki. “Ông ổn chứ, Alfie?” Đôi mắt xanh dương đã nhạt màu của ông liếc nhanh cô một cách khó nhọc. Dường như sáng nay ông trở nên nhỏ bé và uể oải hơn. Hầu kết của ông giật giật. “Tôi thấy yếu quá, Jane ạ. Tôi chưa từng thấy cái gì tương tự như vậy cả.” “Cái thùng đá chứa xác bây giờ ở đâu rồi ạ?” “Vẫn ở trên thuyền. Chính giữa bàn phân loại. Để tôi chỉ cho cô.” “Ông có thể nói cho cháu biết bất cứ điều gì về thi thể mà ông tìm thấy không? Ông đã chạm vào nó chưa?” Cô hỏi nhanh những câu theo thủ tục thông thường, dù Paul chắc hẳn đã hỏi ông ấy trước đó rồi. ông Alfie mến cô, nên có lẽ ông sẽ mở lòng với cô hơn những người khác. Ông lắc đầu. “Ban đầu, tôi nghĩ đó chỉ là một chiếc váy cưới cho đến khi tôi nhận ra nó nặng thế nào. Tôi... tôi có thể nhìn thấy các bộ phận của cánh tay dưới ống tay áo. Chẳng thể nào mà một thi thể nguyên vẹn lại nằm vừa thùng đá được, dù thùng đá này khá lớn. Thậm chí còn kh... không có đầu. Trông chỉ như có phần thân thôi.” Bụng Jane quặn lên, nhưng cô cố gắng kiểm soát biểu cảm trên gương mặt. “Ông có nhận ra dấu hiệu gì trên thùng đá hay cái xác không?” “Không. Tôi nói rồi, tôi không hề chạm vào. Tôi nghĩ kẻ đã thả thùng đá đó xuống vịnh muốn nó được tìm thấy. Đây là vùng đánh bắt tôm chính. Nếu kẻ đó không muốn nó bị phát hiện, hắn phải đem ra xa ngoài khơi cơ.” “Trừ khi kẻ giết người không biết gì về nghề đánh bắt tôm cả.” Jane liếc nhìn cậu bé. “Cháu thì sao hả Isaac?” Cậu bé cựa quậy, nhìn xuống đôi ủng trắng đã lấm bẩn. “Chẳng có gì nhiều mà nhìn, cháu cũng chẳng muốn nhìn.” Gương mặt cậu nhóc xanh lét. “Cháu gọi ông Alfie tới, rồi cháu nôn luôn, ông ấy cũng thế.” Có lẽ cái xác sẽ tiết lộ nhiều thông tin hơn hai người đã tìm ra nó. “Cảm ơn hai người nhé. Chắc cháu sẽ phải hỏi thêm nhiều điều hơn sau khi khám nghiệm tử thi.” Alfie ngồi thẳng lưng lên và chạm vào cánh tay cậu bé. “Cô biết tìm chúng tôi ở đâu rồi đấy.” Nhân viên giám định y khoa Robert Yong đến. Jane dẫn anh ta lên tàu. Mùi tanh của tôm và sinh vật biển khiến mũi cô ngứa rát, nhưng cô bước tới chỗ thùng đá lớn với dáng vẻ tự tin hơn những gì bản thân cảm thấy. Cô bước lùi lại để Yong có thể quỳ gối xuống bên cạnh cái thùng đá. Từ chỗ này, cô có thể nhìn thấy những động tác kiểm tra sơ bộ bằng bàn tay đeo găng của Yong qua bả vai anh. Chiếc váy cưới hẳn từng có màu trắng ngà và sang trọng với những họa tiết ren và kim sa. Việc xác định được vị trí của cửa hàng bán chiếc váy này sẽ giúp cô tìm ra cô dâu đang nằm đây là ai, mặc dù không có cả đầu lẫn tay. Nếu cô gái này không nằm trong kho cơ sở dữ liệu DNA thì rất khó để xác định danh tính, mặc dù chắc chắn người ta sẽ báo cáo nếu một cô dâu biến mất trong ngày cưới. Yong đã làm giám định y khoa được ba năm rồi. Jane khá quý anh ấy. Chủ nghĩa thực dụng điềm tĩnh của anh được phát huy một cách hiệu quả trong những tình huống như thế này. Dù đã ngoài bốn mươi nhưng tóc anh vẫn đen láy, đôi mắt nâu lúc nào cũng biểu lộ sự tươi vui. Anh đã kết hôn với một giáo viên tiểu học và có hai đứa con đang học cấp ba. Họ sống cùng đường nhưng xa chỗ cô hơn một chút. Yong thở hổn hển và lùi lại đủ để ngã lưng lên boong tàu. “Tôi không ngờ đấy,” anh nói bằng giọng run run. Jane tiến lại gần hơn. “Sao thế?” “Nạn nhân của chúng ta không phải phụ nữ. Đây là một người đàn ông.” “Trong một chiếc váy cưới? Một người thích hóa trang ư? Hay một người chuyển giới?” “Chắc chắn là nam.” Robert đứng dậy và đóng cái nắp lại. “Và đương nhiên, tôi sẽ yêu cầu đưa đến Mobile để khám nghiệm tử thi.” “Hẳn rồi.” Cô gật đầu đồng ý. Robert không thể tự mình khám nghiệm tử thi được. Nếu anh ấy cảm thấy có gì đó cần được chứng minh, anh sẽ yêu cầu Sở Pháp Y Alabama khám nghiệm. Còn vụ việc như thế nào thì cần khám nghiệm ư? Chắc chắn là vụ như thế này. Tấm lưới được mở tung trên bàn phân loại, trộn lẫn mùi tôm với mùi khét của nhiên liệu động cơ. Nắng chiều rực rỡ trên cánh tay Reid khi anh và Will chạy thuyền máy tới Vịnh Mexico. Một đàn cá heo mũi chai hộ tống họ từ bờ biển. Lũ mòng biển kêu gào trên những thanh lan can thuyền và chỉ chực để chộp lấy những con tôm bị loại. Một con bồ nông và vài con diệc xanh vỗ cánh phía trên đầu, càng khiến anh cảm thấy hôm nay là một ngày hoàn hảo. Reid nhíu mày trước đống lộn xộn nào là tôm và những mảnh rác vụn bị kéo lên theo lưới. Có nhiều rác và ít tôm hơn anh muốn. Có lẽ bởi vì anh đã không tập trung vào việc đánh bắt tôm sau khi gặp Jane Hardy bằng xương bằng thịt sáng ngày hôm nay. Cô ấy không còn là một cô bé ngây ngô nữa, mà đã trở thành một phụ nữ xinh đẹp rồi. Dải đất Perdido Key vươn lên từ phía xa, một vài chiếc thuyền lướt đi trên vùng nước động. Thời điểm đánh tôm tốt nhất là vào ban đêm, nhưng cậu nhóc nhà anh đã nài nỉ đi ngay nên Reid không thể từ chối được. Sao lại có một đứa trẻ thích đi chơi với ông cha già như anh nhỉ? Anh ra hiệu cho Will tới giúp phân loại mớ bòng bong sinh vật biển và rác rưởi. Will cao hơn mét tám, cơ bắp đang phát triển. Chẳng mấy chốc, Reid sẽ không thể ghìm thằng bé trong những trận đấu vật được nữa. “Chẳng có gì nhiều cha ạ.” Will ném rác vào một cái rổ. “Con nghĩ chúng ta nên di chuyển đến Vịnh Pensacola và xem có thể tìm thấy gì không.” Will dường như có giác quan thứ sáu đối với nghề đánh bắt tôm, và Reid đã học cách tin tưởng vào khả năng thả lưới bẩm sinh của con trai mình. “Con nói gì cũng được. Cha sẽ phân loại nốt, còn con lái tàu đi.” Quãng thời gian quý giá để hai cha con có thể cùng nhau đi đánh tôm không nhiều. Khi những bộ phim tài liệu ngày càng được săn đón thì anh càng phải di chuyển nhiều hơn mong muốn. Điện thoại của Reid rung lên, anh nhìn vào dãy số. Anh không nhận ra số này, nhưng nhìn mã vùng thì chắc chắn đây là số di động của vùng này. Có lẽ là một khách hàng mà anh chưa kịp lưu vào danh bạ, nhưng các nhà sản xuất và khách hàng thường là người lạ. “Reid Dixon nghe.” Một khoảng lặng kéo dài trước khi người gọi đến cất giọng khàn khàn. “Reid?” Giọng nói của cô là thứ đầu tiên anh chú ý. Anh đưa điện thoại ra khỏi tai và nhìn lại vào dãy số. Anh đang mơ ư? Anh liếc nhìn Will, người đang đứng nơi bánh lái. Gió và sóng biển khiến con trai anh không thể nghe lỏm được cuộc trò chuyện này. Reid lại đặt điện thoại vào tai. “Lauren?” Cổ họng anh nghẹn lại. Không thể nào là cô ấy được. Không đời nào. “Bằng xương bằng thịt.” Tiếng cười khùng khục của cô nghe thật quen thuộc, thật quyến rũ. “Cô còn sống.” Câu này nghe ngu ngốc làm sao. Đương nhiên cô ấy còn sống thì mới có thể nói chuyện được. “Tôi chỉ muốn nói là, tôi đã tuyên bố rằng cô chết một năm rồi. Cô đã ở đâu?” “Ngay khi pháp luật cho phép hả?” Giọng cô có gì đó sắc nhọn. Anh không trả lởi, cô thở dài một hơi. Anh dường như có thể ngửi thấy mùi thuốc lá luẩn quẩn quanh mình. Cô yêu những điếu thuốc chẳng khác nào một kẻ nghiện cô-ca-in yêu ống hút. Cô đã ở đâu, và tại sao cô lại gọi điện đến sau ngần ấy năm? Anh cố gom lại những dòng suy nghĩ đang lộn xộn của mình. “Tôi đã cố tìm cô nhiều năm. Cô kiểu như... biến mất. Cô muốn tôi phải làm sao?” “Anh thế nào rồi, Reid? Ừm, cả Will nữa?” Ý nghĩ về con trai khiến đầu gối anh run lên. Lauren đột ngột xuất hiện trở lại khiến anh choáng váng, đây chính xác là phản ứng mà Lauren muốn. “Ổn. Chúng tôi ổn cả. Cô muốn gì?” Will đang ở trong buồng lái, mái tóc đen bờm xờm bị gió thổi bay. Reid phải nuốt lại nỗi kinh hoàng của mình. Nếu cô ta muốn cướp Will đi, anh sẽ chiến đấu tới cùng. Đáng ra anh không nên để cô ta nuôi dưỡng thằng bé, nhưng cô ta đã che giấu bản chất thật của mình đủ khéo để anh không thể nhận ra cho tới khi quá muộn. “Tôi nghe nói bây giờ anh thành công lắm. Tôi thì đang gặp một chút khó khăn và tôi cần tiền.” Cô ta nói thẳng yêu cầu của mình bằng giọng chán nản, như thể biết thừa anh sẽ đáp ứng mọi điều mà mình muốn. Anh đã từng làm thế. Từng cố gắng trao cho cô ta tất cả những gì cô ta muốn. Nhưng những việc anh làm, những thứ anh mua không bao giờ là đủ. Anh biết giờ không phải lúc cố gắng nữa. “Không.” “Được thôi. Vậy tôi sẽ nói chuyện với Will. Để xem con sẽ nói gì khi biết anh đối xử với tôi như vậy.” “Cô đã bỏ rơi một đứa bé bảy tuổi trong lúc nó đang cần mẹ. Cô thậm chí còn không có tư cách nói chuyện với con. Cô không chịu nổi việc làm mẹ, và tôi biết điều đó chắc chắn chưa hề thay đổi. Cô không cướp con đi khỏi tôi được đâu.” “Bây giờ thì nó không còn khóc lóc và bám rịt lấy tôi nữa. Tôi chắc chắn rằng mẹ con tôi sẽ hòa hợp, thân thiết với nhau. Tôi biết tỏng anh đấy, Reid ạ. Anh muốn bảo vệ nó khỏi bà mẹ tồi tệ này chứ gì? Anh không muốn cho nó biết tôi ghét làm mẹ đến nhường nào, hay chuyện tôi đã đẩy nó ra khi nó muốn được bế. Anh không muốn nó biết về những lần anh phải bế nó lên để tôi không quăng nó xuống sàn, đúng không? Tôi biết thừa. Nhưng anh sẽ phải trả giá nếu muốn bảo vệ thằng bé khỏi tôi.” Cô ta khiến anh lạnh sống lưng. Lúc đầu, cô ta tỏ ra thật sự thương yêu Will. Sau khi kết hôn, anh bất lực chứng kiến cách hành xử của cô ta hoàn toàn thay đổi trong vô vọng. Anh đã làm tất cả mọi điều để Will không biết sự thật về Lauren. Trong tâm trí Will, cô ta vẫn là một người mẹ tuyệt vời, chỉ là đã gặp chuyện không may. Thằng bé sẽ suy sụp nếu biết chẳng có chuyện gì ép cô ta bỏ đi cả. Và nếu nó biết sự thật rằng cô ta thậm chí còn không phải mẹ ruột thì sẽ đau đớn hơn gấp bội. Điều này dẫn đến những câu hỏi mà Reid chưa sẵn sàng trả lởi. Anh hít một hơi thật sâu. “Bao nhiêu?” “Năm trăm ngàn đô-la.” “Tôi không thể kiếm ra nổi ngần ấy tiền. Có lẽ tôi sẽ gom được một trăm, nhưng chỉ thế thôi.” Ngần đó đã là cả một vấn đề rồi. Anh khó mà kiếm được một trăm ngàn đô-la sau khi bị Gary trộm tiền và đánh cắp thiết bị. Reid đã phải dùng đến một khoản kha khá tiền tiết kiệm của mình để mua những chiếc máy quay và thiết bị chỉnh sửa phim đắt tiền. Hẳn cô ta đã nhận ra sự thật qua giọng nói của anh, nên thở dài. “Được. Tôi cần tiền càng sớm càng tốt.” Anh sẽ phải bán một ít cổ phiếu, động đến quỹ hưu trí 401k* của mình. “Tôi cần vài ngày để gom tiền.” “Tôi sẽ chờ anh đến thứ Tư, nếu không tôi sẽ tự tìm đến Will.” “Tôi sẽ nhắn lại khi có tiền.” Điện thoại bị ngắt kết nối, và anh nhìn vào màn hình. Cô ta đã kết thúc cuộc gọi. Hiển nhiên rồi. Anh đưa bàn tay run rẩy lên xoa gáy. Anh thậm chí không thể nói với bất kỳ ai về chuyện này. Vĩnh viễn không thể để cho Will biết. Trò chơi đã bắt đầu. Hắn thấy nỗi hân hoan theo từng bước chân Jane khi cô rời cuộc họp với nụ cười trên môi. Nhưng cô sẽ không cười được lâu nữa. Đường nét trên khuôn mặt và vóc dáng cô có gì đó khiến hắn liên tưởng đến nữ diễn viên Reese Witherspoon*. Thon gọn và nhỏ nhắn, Jane bước đi với tư thế ngẩng cao đầu và vẻ mặt như muốn nói “tôi có thể làm chủ cả thế giới”. Cô sẽ sớm nhận ra mình không thể nào sánh được với kẻ thù mà đến bản thân cũng chẳng hề hay biết. Jane không biết hắn sẽ xáo trộn cuộc đời cô như thế nào. Chuyện đó còn lâu nữa mới xảy ra. Quả báo là một từ thú vị mà hắn đã ấp ủ trong đầu suốt nhiều năm trời. Nó như một con tàu chở hàng lao vào gia đình Hardy bằng vận tốc tối đa. Sẽ chẳng ai hiểu mục đích của hắn là gì cho đến khi quá muộn. Hắn đã tìm được vài sự trợ giúp và giờ họ đang làm việc cùng nhau. Cô sẽ bận bù đầu với những vụ án dồn dập, rồi thời cơ thích hợp sẽ đến. Hắn móc đồng xu nửa đô-la Kennedy năm 1964 ra và lật nó qua lại giữa những ngón tay. Hắn sẽ bỏ nó ở nơi cô dễ dàng tìm thấy. Cô sẽ nghĩ mình tìm thấy đồng xu may mắn, nhưng thực tế lại là một sự hủy diệt. Đây chỉ là nước đi đầu tiên trong ván cờ chết chóc. Chiếu tướng và trò chơi kết thúc. CHƯƠNG BA “Chị nghe nói là phải xếp hàng mới được gửi lời chúc mừng đến em.” Jane ngẩng đầu, nhìn về hướng giọng nói của Olivia vang lên trên ngưỡng cửa. Olivia Davis gần năm mươi tuổi, là điều phối viên trưởng ở sở. Thời gian chị ấy làm việc ở đây lâu chẳng kém gì Jane. Chị ấy cũng là người đã che chở cho Jane ngay từ khi mới gặp mặt, lúc cha cô mới vào làm việc trong lực lượng cảnh sát. Jane mỉm cười, đặt cây viết chì xuống. “Cảm ơn chị, em cũng bất ngờ lắm. Em vừa pha cà phê, chị uống không?” Olivia ở vậy từ khi anh Chris, chồng chị, bị sát hại trong khi thực hiện nhiệm vụ năm ba mươi ba tuổi. Jane thường băn khoăn không hiểu tại sao người bạn của mình lại không đi thêm bước nữa dù chị ấy là một cô nàng tóc nâu tươi tắn khiến bất cứ ai cũng cảm thấy cực kỳ thân thiết ngay từ lần đầu gặp mặt. Jane rất quý chị. Olivia đóng cánh cửa sau lưng. “Chị cần nói chuyện với em.” Jane nhăn mặt. “Úi chà, em đã làm gì à?” Nụ cười của Olivia không chạm đến đôi mắt màu xanh đen. “Không phải em, mà là chị.” Chị ấy ngồi xuống một trong những chiếc ghế dành cho khách. “Chị bị xơ cứng teo cơ một bên*, Jane ạ.” Giọng chị run rẩy, nhưng ánh mắt nhìn Jane thì chứa đầy sức mạnh và sự kiên định mà cô vẫn luôn quý mến. Parker hẳn đã nhận ra sự căng thẳng trong giọng nói của chị, nên đã đứng dậy và dụi mũi vào tay Olivia. Jane vắt óc cố nghĩ ra lời an ủi gì đó. Cô chưa từng biết ai mắc bệnh xơ cứng teo cơ cả, nhưng cô cũng hiểu nó có khả năng gây tử vong. Cô ngồi xổm xuống trước mặt Olivia, cầm lấy bàn tay đang đặt trên đầu Parker. “Kể cho em nghe mọi chuyện đi.” Những ngón tay của Olivia lạnh ngắt khi nắm lấy tay Jane. “Cơ bắp trên người chị cứ giật, kỳ lắm. Chân phải của chị vẫn luôn khá yếu, và chị bị ngã nhiều lần rồi.” Chị ấy chỉ vào miếng băng gạc trên mắt cá chân của mình. “Sau khi bị ngã tới lần thứ ba, chị đã đi khám bác sĩ vì nghĩ mình bị đa xơ cứng. Và ông ấy giới thiệu chị đến gặp một bác sĩ khoa thần kinh.” “Đó là lý do tuần trước chị xin nghỉ mấy ngày đấy à? Sao chị chẳng nói gì với em cả?” Olivia nuốt nước miếng. “Chị không muốn em lo lắng. Bác sĩ đã cho chị làm một loạt xét nghiệm để loại trừ các nguyên nhân khác. Chẳng thấy gì cả, nên cô ấy kết luận chị bị xơ cứng teo cơ một bên.” “Ôi, chẩn đoán kiểu gì điên rồ vậy! Chưa chắc đã là bệnh đó đâu. Chị nên đi khám lại với bác sĩ khác đi.” “Có lẽ chị sẽ đi khám lại, nhưng vị bác sĩ ấy đã cam đoan là bệnh đó. Cô ấy sẽ thực hiện thêm vài xét nghiệm trong vòng sáu tháng tới để xem căn bệnh tiến triển thế nào và đã kê cho chị một vài loại thuốc để kiềm chế bệnh, nhưng có tới chín mươi lăm phần trăm khả năng người bệnh sẽ tử vong trong vòng hai tới năm năm. Chị mong rằng mình sẽ nằm trong số năm phần trăm những người có thể chống chọi với căn bệnh trong vòng hai mươi năm.” Jane điếng cả người, cố gắng để không rơi nước mắt. Ngay lúc này, Olivia cần cô mạnh mẽ để giúp chị ấy vượt qua chuyện này. “Em rất tiếc, chị Olivia.” Nước mắt rơm rớm giữa hai hàng mi chị ấy. “Chị hiểu. Sốc quá nhỉ? Chị vẫn chưa nói với Megan. Em sẽ ở bên chị khi chị nói chuyện với con bé chứ?” “Đương nhiên rồi ạ.” Megan mới mười bốn tuổi và chỉ là một đứa trẻ khi chồng chị Olivia qua đời. Hai mẹ con rất thân thiết, vậy nên chuyện này chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng không ít. “Chị đã tính phải nói thế nào chưa? Có lẽ cô bé không cần phải biết tường tận mọi chuyện đâu.” Olivia lắc đầu. “Chị thấy khá yên tâm về chuyện này. Chị không nói dối con bé được, con bé cũng phải chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất. Nếu chị chỉ sống được ba năm trung bình như người ta thì sao? Lúc đó, Megan còn chưa tốt nghiệp cấp ba.” Cha mẹ Olivia đi truyền giáo ở tận Campuchia, còn cha mẹ Chris thì sống ở Canada. Bốn năm năm họ mới gặp Megan một lần, và cô bé cũng chẳng gần gũi với bất kỳ ai trong số họ. Jane siết chặt tay Olivia hơn. “Em sẽ chăm sóc cô bé, dù cho bất cứ chuyện gì xảy ra. Chị chỉ cần tập trung vào những việc cần làm. Em sẽ nghiên cứu và tìm hiểu về cách đánh bại căn bệnh này.” “Em hứa là sẽ chăm sóc con bé chứ? Nó chẳng có ai ngoài chị cả.” “Em hứa.” Mây mù phủ kín đôi mắt xanh của Olivia. “Chị không biết mình có thể làm việc được bao lâu nữa. Bây giờ thì việc cơ bắp bị suy yếu chưa phải vấn đề lớn, nhưng điều đó có thể thay đổi bất cứ lúc nào.” “Đến đâu hay đến đó, chị ạ.” Jane quay cuồng với những suy nghĩ làm thế nào để giúp chị ấy. Cô có thể mang đồ ăn tới và giúp Megan học. Cô cũng có thể đưa Olivia đi khám. “Thôi đi.” “Dạ?” “Thôi ngay việc nghĩ rằng em phải chịu trách nhiệm đi. Em đâu có được trả lương để làm thế. Em có thể đi cùng chị qua cơn khó khăn này, nhưng em không thể thay đổi nó được đâu. Chị hiểu em mà. Em cứ gánh cả thế giới lên vai, và cố gắng kiểm soát mọi thứ. Trong công việc, em làm vậy là đúng, nhưng với những chuyện như thế này thì vô ích thôi.” “Tại sao lại là chị chứ?” Jane không kiềm được nữa mà thốt lên. “Tại sao Chúa lại bắt chị phải chịu đựng chuyện này, trong khi chị đã làm biết bao điều tốt vì Chúa và vì những người khác. Chị đã chăm sóc biết bao đứa trẻ lang thang trên đường phố trong suốt năm năm qua chứ?” “Bảy đứa,” Olivia lẩm bẩm. “Bảy đứa. Và một đứa trong số chúng còn trộm đồ của chị nữa.” “Sáu đứa còn lại hiện đang sống tốt. Tỷ lệ như vậy là quá đẹp rồi.” “Chính xác. Vậy thì sao Chúa lại hành hạ chị như vậy chứ?” Olivia siết chặt tay Jane. “Cuộc đời đâu phải lúc nào cũng tràn ngập ánh trăng và hoa hồng đâu hả Jane? Chúng ta sống trên đời là để tâm hồn mình được trưởng thành. Chẳng có ai sinh ra mà không phải đối mặt với cái chết cả. Ai rồi cũng sẽ chết. Chỉ là chị chưa sẵn sàng rời bỏ Megan thôi.” “Tâm hồn chị đã đẹp lắm rồi. Em muốn nói chuyện với Chúa về cách Ngài đối xử với bầy tôi của mình. Chị là người tốt nhất, Olivia ạ. Thật chẳng công bằng chút nào!” Olivia nở nụ cười, một nụ cười thực sự khiến đôi mắt chị nheo lại và khuôn mặt bừng sáng. “Chà, chị thấy em đã tiến bộ khi muốn nói chuyện với Ngài đấy, dù là vì giận dữ.” Jane đứng dậy, đi đi lại lại trên nền sàn gạch màu xám trong văn phòng của mình. “Em vẫn nghĩ người ta chẩn đoán sai rồi. Vô lý quá.” Olivia đứng dậy, ôm chầm lấy Jane. “Đời đâu phải lúc nào cũng có lý,” chị ấy thì thầm vào tai cô. “Thế nên mới cần có niềm tin.” Niềm tin là thứ gì đó mà tâm trí Jane không thể nắm bắt. Làm sao mà người ta lại có thể tin tưởng vào một thứ vô hình được chứ? Anh vẫn cứ nghe thấy giọng đe dọa của Lauren vang lên trong đầu. Reid cởi bỏ quần áo ướt và bước vào phòng tắm. Anh ước mình có thể gột rửa những lo lắng trong lòng dễ dàng như gột bỏ mùi mặn của biển. Sau khi đã sạch sẽ với hương xà phòng Dial xộc thẳng vào mũi, anh lau người rồi mặc một chiếc quần soóc và áo phông trước khi bước ra phòng khách để tìm Will. Nơi này chỉ là một chốn trọ, đúng như vẻ ngoài của nó. Các bức tường không hề có tranh. Ngôi nhà nhìn ra sông Bon Secour và chẳng có mấy đồ đạc. Will xứng đáng được ở một nơi tốt hơn, nhưng Reid chỉ định ở đây một thời gian để thỏa mãn nỗi tò mò của anh về Jane Hardy. Cuộc điều tra đã bắt đầu từ sáng nay với cốc cà phê đó. Vấn đề lớn hiện giờ là, anh phải làm gì với Lauren? Anh càng nghĩ càng thấy việc đưa tiền cho cô ta không phải là một giải pháp đúng đắn cho lắm. Lòng tham vô độ sẽ khiến cô ta quay lại và đòi hỏi anh nhiều hơn nữa. Giá như anh có thể tâm sự chuyện này với ai đó, nhưng anh không dám nói về tình cảnh của mình. Nhất là khi anh muốn giữ bí mật với Will. Anh đã kiểm tra tài khoản của mình, không thể nào gom được ngần ấy tiền nếu không động đến quỹ 401k. Anh bước qua phòng khách tới thềm nhà rộng được quây bằng kính nhìn ra cảnh sông, rồi thả mình xuống chiếc ghế bên cạnh con trai. “Con đặt đồ ăn trưa rồi à?” Will gật đầu. “Con đã gọi bánh mỳ kẹp Po-boys và súp cua. Họ sẽ giao đến trong khoảng nửa tiếng nữa.” Reid không thích nấu ăn, nhưng anh vẫn cố nấu nướng hằng ngày vì không thể để Will sống bằng đồ ăn mua bên ngoài được, nhưng hôm nay đã xảy ra quá nhiều chuyện rồi. “Nghe được đấy.” Anh lắng nghe tiểng ếch nhái ộp oạp và tiếng côn trùng râm ran phía bờ sông. Bùn bắn lên cầu tàu ngay sau tiếng gầm của một con cá sấu lớn. Sự cô tịnh của nơi này thường khiến anh điềm tĩnh, nhưng bây giờ thì mọi âm thanh đều khiến anh giật mình. Anh không tin Lauren một chút nào cả. Mặc dù họ đã thỏa thuận, nhưng cô ta có thể mò đến trước cửa nhà bất cứ lúc nào. Nếu cô ta đã tìm được số điện thoại của anh thì chắc chắn cũng có thể tìm được địa chỉ. Kịch bản tồi tệ cứ diễu hành trong đầu anh. Sự bàng hoàng và đau đớn của Will. Nụ cười tự mãn và vẻ thương hại giả tạo của Lauren. Cảm giác bị bỏ rơi của chính Reid. Đối với cô ta, anh chưa bao giờ là đủ, dù đã cố gắng thế nào. Cô ta lợi dụng anh y như cha anh. Dù anh đã cố gắng sống theo những tiêu chuẩn mà ông ấy đặt ra, nhưng rốt cuộc anh vẫn chỉ là kẻ kém cỏi. Lúc nào cũng vậy. Nếu cha anh còn sống, liệu ông có tự hào về những gì anh đã làm được không? Chắc là không đâu. “Cha sao thế ạ?” Reid bị kéo ra khỏi dòng suy nghĩ của mình. Anh nhún vai, “Cha ổn mà. Chỉ là hơi mệt thôi.” Will đứng dậy và bước tới cửa sổ để ngắm nhìn dòng nước đen lững lờ trôi. “Con thích nơi này.” Cậu quay sang Reid. “Chúng ta không quay lại New Orleans có được không ạ?” Reid quan sát ánh mắt khẩn cầu của con. “Sao con lại muốn ở đây?” “Trại bóng tuyệt lắm. Bọn nó làm gì cũng kéo con theo. Nhịp sống ở đây chậm hơn. Không vội vã.” Vẻ mặt nài nỉ của thằng bé đủ để Reid thấy thương rồi. “Thế còn các bạn ở nhà thì sao?” Will nhún vai. “Bọn nó thì có sao đâu. New Orleans chứ đâu phải Sao Hỏa. Bọn nó có thể tới đây thăm con, và con cũng có thể đi thăm chúng nó.” Bọn trẻ sẽ không tới đây đâu. Các mối quan hệ ở độ tuổi này rất mong manh. Will đã kết bạn ở đây rồi. Thằng bé còn chạy tới nhà một người bạn để tập nâng tạ ba buổi tối trong tuần qua. “Con biết thế là đòi hỏi.” Giọng Will lộ vẻ thăm dò. “Ý con là, có lẽ cha muốn quay lại với cô Saunders.” Reid từng hẹn hò một vài lần với giáo viên tiếng Pháp của Will, nhưng điều đó không có nghĩa là anh nhớ Amanda. Tháng vừa rồi, họ có nói chuyện đôi ba lần, nhưng chẳng có gì nghiêm túc cả. Hồi ở Louisiana, giữa họ cũng chẳng có gì hết. Anh sẽ đi xa để quay phim tài liệu khi cần, giống như bây giờ. Sân bay Mobile khá gần đây. Đúng như Will nói, New Orleans không xa đến thế. Thấy Reid không nói gì, Will lại quay mặt nhìn ra sông. “Cha không cần trả lời ngay đâu. Nhưng cha cứ nghĩ xem sao.” Lồng ngực Reid căng tràn yêu thương. Từ khi nào mà Will đã trưởng thành đến mức không còn mè nheo nữa rồi? “Cha không cần nghĩ nhiều đến thế. Nếu con muốn sống ở đây, cha sẽ thử. Cha muốn có nhiều thời gian với con hơn, chẳng mấy chốc là con lên đại học rồi. Cha sẽ rao bán ngôi nhà, và chúng ta sẽ mua một ngôi nhà khác ở đây. Bây giờ con đã lớn, con cũng có thể đi du lịch với cha nhiều hơn.” Will quay ngoắt lại, miệng cười toe toét. “Ngôi nhà này đang được rao bán đấy ạ. Mình mua nó đi cha!” “Cũng được.” Công việc của anh kiếm được kha khá. “Cha sẽ gọi điện, để xem chúng ta có thể thương lượng về giá cả được không.” Và thế là, cuộc đời lại biến chuyển. Nhưng vấn đề lớn nhất của anh vẫn đang lảng vảng ngoài cửa chính. “Ngày mai là ngày cuối cùng con tham gia trại bóng. Con có muốn đi chơi với ông già này trước khi kết thúc kỳ nghỉ xuân không?” “Cha đoán xem!” Reid chưa bao giờ coi nhẹ tình yêu của con trai dành cho mình. Will là một đứa trẻ tuyệt vời, nếu không muốn nói là tuyệt nhất. Reid đã lo sợ thằng bé sẽ trở thành một chàng trai ngỗ nghịch, khó bảo khi đến tuổi nổi loạn, nhưng may mắn rằng nó chưa bao giờ quậy phá cả. Anh rất biết ơn về điều đó. Chuông cửa reo lên và Will quay đầu lại. “Để con ra mở cửa. Chắc là bữa trưa của chúng ta đấy.” Về mặt lô gích, Reid biết Will đoán đúng, nhưng anh cứ không kiềm được mà tưởng tượng ra cảnh con trai mở cửa ra và sẽ gặp Lauren. “Để cha. Cha phải trả tiền nữa.” Chỉ khi nhìn thấy anh chàng giao hàng trẻ tuổi qua khung cửa sổ của cửa trước thì anh mới nhẹ nhõm. Cả cuộc đời này anh sẽ như vậy suốt sao - bụng quặn lại mỗi khi có ai đó đến trước cửa hoặc gọi điện? Đáng ra anh nên dập máy ngay khi nghe thấy giọng của Lauren. Không có ai chơi với lửa mà không bị phỏng tay cả. Anh phải gọi điện cho cô ta, nói với cô ta rằng sẽ không có bất kỳ thỏa thuận nào cả. Will đưa tay ra để lấy đồ ăn. Reid chăm chú nhìn gương mặt thằng bé. Có lẽ con trai anh sẽ phải nghe sự thật. Nhưng không phải hôm nay. Reid cầm một cái bánh kẹp lên. “Sau bữa trưa, cha sẽ vào thị trấn để bắt đầu quay phim. Con muốn ở đây hay đi cùng?” “Con sẽ ở nhà. Chắc con sẽ câu cá ở cầu tàu.” “Cẩn thận lũ cá sấu đấy. Có vẻ quanh đây khá nhiều.” Will đảo tròn mắt. “Cha ơi, con có phải trẻ lên năm đâu.” “Biết rồi, khổ lắm.” Reid cầm lấy cái bánh kẹp và phần súp của mình. Cảnh sát trưởng sẽ nổi cơn tam bành nếu nhận ra lý do tại sao anh lại tới nơi này. Anh đã định nói cho cô nghe về bộ phim tài liệu lúc ở tiệm cà phê, nhưng rõ ràng là thị trưởng chưa nói gì với cô ấy cả. CHƯƠNG BỐN Jane đậu chiếc SUV của mình trên lối vào tòa nhà, đằng sau một chiếc xe tuần tra đang nhấp nháy rồi bước ra ngoài, ánh nắng mặt trời chiếu vào đôi mắt hằn học của cô. Một cuộc gọi yêu cầu tiến hành điều tra một thi thể khác đã kéo cô lên xe mà chưa kịp tắm rửa gì hết. Hai cái xác trong vòng hai mươi bốn giờ... Cô có thực sự đủ sức cho công việc này không? Cô dẫn Parker ra phía sau, trước khi bước đến căn nhà ống với những bồn hoa được tỉa tót gọn gàng, nằm trải dọc hai bên cánh cửa chính màu đỏ. Cô để ý thấy một người phụ nữ đang đứng nép ở một bên cửa, hai tay ôm chặt lấy mình. Chắc hẳn đây chính là người hàng xóm đã gọi 911. Lát nữa Jane sẽ nói chuyện với cô ấy. Có bóng người di chuyển bên cạnh căn nhà. Cô thoáng thấy ánh sáng kim loại lóe lên. Một khẩu súng chăng? Cô chỉ vào bụi cây. “Hạ hắn, Parker!” Tai của Parker hất về phía trước. Nó nhảy qua luống cây. Những chiếc lá rung lên khi kẻ đó cố thoát khỏi cuộc tấn công của chú chó, nhưng Parker là một chú chó nghiệp vụ dày dặn kinh nghiệm. Tiếng sủa của nó lẫn vào với tiếng hét cầu cứu của gã kia cho cô biết mục tiêu đã bị hạ gục. Hầu hết các chú chó giống Golden không được nuôi dạy để bảo vệ chủ nhân, nhưng Parker nặng tới hơn bốn mươi cân, khá lớn so với đồng loại và đã dễ dàng học được cách bảo vệ cô. Cô rút súng ra và nhanh chóng lao tới bóng cây, nơi bàn chân Parker đang ghì lên ngực một gã đàn ông. Ngay lập tức, cô nhận ra gã chính là người đàn ông đã mời cô uống cà phê sáng ngày hôm qua. Reid Dixon. Cô không thấy anh ta mang theo vũ khí, nhưng có một chiếc máy quay đang treo lủng lẳng trên bụi cây. Cô tra súng vào bao. “Thả ra, Parker.” Chú chó nhảy xuống khỏi người Reid và trở về bên cạnh cô. “Ngoan lắm.” Cô nheo mắt nhìn anh ta đứng lên. “Anh đang làm gì ở đây?” Reid phủi đất và lá vụn bám trên bộ đồ màu be của mình. “Thị trưởng đã cho phép tôi đi theo cô trong một vài tuần tới, cảnh sát trưởng ạ. Tôi đang quay một bộ phim tài liệu về sở cảnh sát ở các thị trấn nhỏ. Cô là một trong số ít nữ cảnh sát trưởng quanh đây, nên tôi sẽ tập trung phần lớn video của mình vào cô.” Hóa ra đó là lý do anh ta tìm kiếm cô lúc ở thị trấn. Gò má cô nóng lên. “Không thể nào. Bà Lisa phải nói với tôi chứ? Tôi muốn anh đi ngay cho.” “Cô tự gọi cho bà ấy đi.” Anh liếc nhìn Parker, chú chó vẫn đang nhìn chằm chằm vào mình. “Tôi ổn mà, anh bạn. Tôi không tấn công cô ấy đâu.” Chú chó chẳng hề bớt cảnh giác. Bây giờ mới là năm giờ sáng, nhưng Jane bắt buộc phải xác minh câu chuyện của anh ta. Cô gọi cho thị trưởng và đi ra xa để khỏi bị nghe thấy. “Cô Lisa ạ? Ở đây có một phóng viên khẳng định anh ta đã được cô cho phép bám theo cháu. Nhưng đây là hiện trưởng vụ án đấy. Anh ta không thể ở đây được.” “Cô đã nói với cháu rồi mà, rằng có một vài tờ báo quan tâm tới việc cháu được bổ nhiệm.” Giọng Lisa nghèn nghẹt vì ngái ngủ. “Anh ta nổi tiếng lắm đấy, Jane. Đây là một cơ hội tuyệt vời cho Cảng Pelican.” “Cô đã biết chuyện này từ khi bổ nhiệm cháu đúng không?” “Ừ, nhưng mà cô không nghĩ anh ta lại xuất hiện nhanh đến thế. Anh ta mới gọi cho cô tuần trước thôi. Cô biết anh ta chắc chắn sẽ cảm thấy hứng thú hơn trong việc quay phim khi biết chúng ta có một nữ cảnh sát trưởng.” “Vậy hóa ra tất cả là vì quảng bá cho hình ảnh của thị trấn? Cháu không muốn thế.” “Cô e rằng cháu không có sự lựa chọn nào khác đâu. Chỉ vài tuần thôi mà. Đây là một cơ hội tốt cho danh tiếng của chúng ta.” Giọng điệu cứng rắn của Lisa khiến Jane hiểu rằng việc tranh cãi sẽ không giúp cô đi đến đâu ngoài việc bị sa thải. Cô cúp máy và lườm Reid. Anh ta đã lấy lại máy quay phim của mình và đang ghi hình. Cô chỉ muốn giật lấy nó rồi đập nó xuống đất. “Không có người quay phim à? Tôi tưởng anh có phải có cả một đội ngũ chứ?” “Thường thì tôi sẽ có một người quay phim. Nhưng tôi đã cho anh ta nghỉ việc và bây giờ vẫn chưa tìm được ai khác thay thế.” Lưng cô nổi da gà hết cả lên. Cô ghét bị ghi hình. Đây sẽ là hai tuần dài đằng đẵng cho xem. “Tránh xa tôi ra.” Cô bỏ mặc anh và đi về phía căn nhà. Hiện trưởng vụ án nằm ở giữa sân, các thanh tra của Jane đã dùng băng dính vàng quây nó lại. Thi thể của một người phụ nữ nằm trần truồng giữa những mảnh vải thô ráp, bên dưới những chiếc lông vũ bị kết dính với thứ chất màu đen. Hắc ín và lông vũ khiến người ta nghĩ đến những hình phạt thời trung cổ. Dòng chữ Phá hoại gia đình được viết nguệch ngoạc lên tấm cổ phiếu được gắn cố định vào khúc gỗ bằng một cái đinh gỉ. Jane nhăn mặt. Nicole Pearson. Cô vẫn luôn thích Nicole, cô ấy cũng tầm tuổi cô và dường như chẳng bao giờ giao du với người lạ. Lại là gã “anh hùng” tự phong à? Nếu thế, giờ tội danh của gã đã nâng lên thành giết người. Cô bước đến gần Paul. “Anh có gì rồi?” “Một người hàng xóm đã gọi điện.” Anh chỉ về phía người phụ nữ đang ngồi gần hàng cây, quay lưng về phía họ. “Sáng nay cô ấy đến để ăn sáng với Nicole.” Anh ta thậm chí còn không thèm che giấu giọng điệu hậm hực của mình. Hẳn anh ta đã nghe về việc cô được bổ nhiệm, nhưng còn lâu anh ta mới chúc mừng cô. Cô phớt lờ giọng điệu của anh ta và tiến đến xem xét hiện trường. Robert Yong đang quỳ gối bên cạnh thi thể, và cô bước đến bên cạnh anh. “Tôi không nghĩ sẽ gặp lại anh sớm thế này.” “Người này cũng cần được chuyển tới Mobile. Có vẻ như cô ấy chết vì ngạt thở, nhưng phải phải khám nghiệm tử thi mới biết chắc chắn được.” “Chết ngạt ư? Bị siết cổ à?” Yong đứng dậy, lắc đầu. “Có lẽ cô ấy bị dị ứng với lông vũ. Cả người cô ấy toàn mề đay, dấu hiệu thông thường của chứng dị ứng.” “Tức là gã 'anh hùng’ đó có thể không có ý định giết cô ấy.” “Có thể không. Kẻ đó có lẽ đã đổ hắc ín và lông vũ lên người nạn nhân, rồi mang cô ấy ra đây để bị người ta nhìn thấy và giễu cợt. Có lẽ cô ấy đã bị sốc phản vệ và ngạt thở.” Jane nhìn lại khuôn mặt của người phụ nữ. “Cô ấy là Nicole Pearson, làm việc ở thư viện.” “Phải, tôi cũng nhận ra cô ấy.” Jane bước tới nói chuyện với Brian. “Xem xem có thể vào nhà không. Chúng ta cần điện thoại hay bất kỳ thiết bị điện tử nào của cô ấy. Bất cứ thứ gì đó có thể chỉ ra ai đã làm việc này.” “Tôi sẽ lo liệu việc này, cảnh sát trưởng.” “Tốt hơn là tôi nên nói chuyện với nhân chứng.” Jane bước qua thảm cỏ ướt lại gần người phụ nữ. “Cô là Gail Briscoe?” Cô không nhận ra gương mặt hay cái tên của người phụ nữ này. Đây là điều đáng ngạc nhiên vì nơi này khá nhỏ bé, nhưng có lẽ là do cô mới đến. Cô gái này chừng ba mươi, tóc nâu, mặc quần legging và áo thun cộc tay khoe cánh tay rắn chắc. Đôi mắt xanh lục của Gail mở to. “Người ta đã đưa cô ấy đi chưa?” “Họ sẽ sớm chuyển cô ấy lên xe van.” Jane di chuyển xung quanh để Gail không phải đối mặt với căn nhà hay cảnh tượng khủng khiếp trong sân. “Sao cô lại quen Nicole Pearson?” Mặt Gail biến sắc. “Cô ấy chết rồi phải không?” “Đúng thế, tôi rất tiếc. Hai người là bạn à?” Gail gật đầu. “Tôi chuyển đến khu này vào tháng trước. Chúng tôi gặp nhau ở thư viện ngay ngày đầu tiên tôi đến thị trấn. Hôm nay chúng tôi đã lên kế hoạch chạy bộ trước khi ăn sáng, nên tôi mới tới đây.” “Cô có nghĩ đến bất cứ ai có khả năng làm chuyện này không? Hoặc tại sao họ làm vậy?” Ánh mắt của Gail nhìn về phía xa, rồi dừng lại trên mũi giày Adidas của mình. “Có lẽ tôi biết nguyên do.” Cô ấy đưa tay lên cổ họng. “Tôi chẳng phán xét cô ấy hay bất cứ điều gì đâu, nhưng cô ấy đang quen một gã đã có vợ. Mà vợ của gã khốn đó đang mang bầu tám tháng, họ còn có một đứa con hai tuổi nữa.” Cô ấy giận dữ thốt lên. “Vợ người đó có biết không?” “Tôi không biết. Có một lần tôi đã thấy họ ở thư viện với nhau.” Jane gật đầu. “Cô có biết tên người đó không?” Môi Gail mím lại. “Thanh tra Paul Baker.” Jane cố gắng giữ vẻ mặt bình thản khi quay sang nhìn Baker, người đang giúp đưa thi thể của Nicole lên xe của nhân viên giám định y khoa. Baker đáng ra nên nói ngay với cô chuyện này. “Cảm ơn cô. Tôi sẽ xác thực lại chuyện này. Cô có thấy ai lảng vảng quanh đây không? Hay có chiếc xe nào không?” Gail lắc đầu. “Chẳng có ai ở đây khi tôi tìm thấy cô ấy cả. Tôi đã chạm vào người cô ấy, thấy lạnh ngắt nên tôi... tôi gọi 911 ngay.” “Điều cô làm hoàn toàn đúng đắn. Hãy cho tôi biết nếu cô nghĩ ra thêm gì nhé.” Jane muốn mắng Baker một trận, nhưng cô vẫn ý thức được rằng mình đang bị một máy quay đáng ghét bám theo. Cô quay lưng lại với Reid. Baker tiến lại gần Jane. Dù có máy quay hay không, cô cũng không thể cứ để mặc chuyện này được. “Paul, tôi vừa mới được nghe anh đang qua lại với nạn nhân. Anh nên rút khỏi cuộc điều tra này ngay.” Paul tỏ vẻ chần chừ, bàn tay to lớn đầy thịt siết chặt lại. “Ai nói với cô thế?” Jane nhận ra vẻ tội lỗi trên gương mặt anh ta. “Chỉ cần một sợi tóc hay một chút dịch cơ thể thôi là DNA của anh sẽ được tìm thấy trên người cô ấy. Anh cũng có thể kể tôi sự thật. Lần cuối cùng anh gặp cô ấy là khi nào?” Đôi mắt xanh thẫm của anh ta hết đảo sang trái rồi lại sang phải. Paul mím môi lại. “Tôi không giết cô ấy. Đáng ra tôi sẽ gặp cô ấy lúc mười giờ tối qua, nhưng khi tôi đến thì cô ấy không có mặt ở đó. Tôi đến trễ nửa tiếng. Con gái tôi không được khỏe.” Jane không biết chắc có tin anh ấy được không. “Sau đó anh đi đâu?” “Về nhà. Vợ tôi có thể làm chứng.” “Chúng ta vẫn chưa xác định được thời điểm tử vong,” cô nhắc nhở. “Tôi sẽ phải nói chuyện với vợ của anh.” “Tina đã đưa Ivy đến phòng khám khẩn cấp* lúc năm giờ sáng.” Anh liếc nhìn đồng hồ. “Một tiếng trước. Tôi sẽ gọi điện để xem khi nào cô ấy về nhà.” “Không, đừng làm vậy. Tôi không muốn anh nói cho cô ấy biết chuyện gì đã xảy ra.” Cô nghiêm khắc nhìn anh. “Lèo lái lời khai của cô ấy sẽ không tốt cho anh đâu, Paul.” Gò má anh ta đỏ lên, quai hàm bạnh lại. “Tôi sẽ không làm thế đâu, Jane.” “Vậy hãy chứng minh điều đó.” Anh nhìn cô một lúc lâu. “Được thôi. Cứ làm những gì cô muốn. Nếu cô ghé qua trong khoảng vài giờ nữa, hẳn cô ấy đã về nhà và đưa Ivy đi ngủ.” “Trước khi có thêm thông tin, anh không được tham gia vào vụ này. Tôi không còn sự lựa chọn nào khác.” Anh ta nghiến chặt răng trước khi xoay người lại và bước ra xe. Cô đưa tay lên bóp trán. Thật là quá tải. Đáng ra cô không bao giờ nên để cho hội đồng chỉ định cô vào vị trí này. CHƯƠNG NĂM Hai tiếng đồng hồ tiếp theo, Reid đã cố cho Jane nhiều không gian nhất có thể để cô và đồng nghiệp của mình cào xới hiện trường, nhưng chuyện này cũng đến lúc phải chấm dứt. “Cảnh sát trưởng!” Anh sải những bước lớn để đuổi kịp cô. Lúc này, cô và chú chó của mình đang chúi đầu qua cây sồi nước phủ đầy rêu để lao về phía chiếc SUV. Dù nhỏ bé, nhưng cô di chuyển rất nhanh. Cô quay lại và quăng cho anh một cái lườm. “Anh đang làm phiền công việc điều tra của tôi đấy, anh Dixon.” “Thôi nào, Cảnh sát trưởng Hardy. Tôi có quyền đến đây. Cô cũng đã nhận được lệnh rồi. Cô nên để tôi đi cùng, chứ không phải lẽo đẽo theo sau cô.” Hai tay cô chống nạnh. “Còn lâu!” “Tôi đoán ngay sẽ thế này mà. Nếu cần, tôi sẽ gọi cho thị trưởng. Tôi đoán cô không muốn bị mắng ngay tuần đầu tiên nhận chức đâu.” Anh bắt chẹt được cô rồi. Và từ biểu hiện trong mắt cô, cô cũng biết điều đó. Anh không đợi cô thừa nhận mình đã rơi vào thế bí. “Tôi đã nghiên cứu một chút trước khi tới đây và xem qua một vài tác phẩm của một gã ‘anh hùng’ tự phong trong quận. Có một kẻ đeo mặt nạ đã ép một cô gái lao xe ra rìa đường, trong khi cô ấy mắc kẹt trong xe thì hắn đã cắt tóc và viết chữ Dối trá bằng hắc ín lên trán cô ấy. Cô ấy thừa nhận mình đã khai báo gian dối về vụ cưỡng hiếp. Tôi cũng đã xem một vụ khác, về một gã đàn ông bị ván ép ghim trên giường hai ngày. Lực lượng cứu hộ thấy có chữ Ăn cắp được viết bằng hắc ín trên miếng ván đó. Anh chàng kia hoảng loạn đến độ thừa nhận đã trộm hai trăm đô-la của ông chủ. Có vẻ đây cũng là một tác phẩm khác của gã ‘anh hùng’ đó.” “Còn quá sớm để kết luận.” Anh chĩa máy quay về phía cô. “Cô có nghĩ gã ‘anh hùng’ này là người ở đây không?” Có lẽ anh cần nhanh chóng tìm một người quay phim mới. Để người khác quay tất tần tật mọi thứ sẽ liền mạch hơn nhiều. Cô nhún vai. “Chúng tôi không biết. Kẻ đó tấn công vào giữa đêm, các nhân chứng không thấy gì cả. Chúng tôi đã nhận được báo cáo về một chiếc bán tải cũ đậu trong khu phố khi nạn nhân - người được cho là kẻ trộm - đang bị ép ván trong phòng của mình. Nhưng bác gái đã báo cáo không thể xác định được nhà sản xuất hay mẫu mã của chiếc xe đó, chỉ nói là nó được sơn màu tối thôi.” “Tiếp theo chúng ta sẽ đi đâu đây?” Cô nhìn anh một hồi lâu. “Đây là những gì anh muốn nói với tôi khi ở quán cà phê đấy hả?” Đúng thế, và cả những điều khác nữa. Anh gật đầu. “Đáng ra anh nên thẳng thắn với tôi ngay từ đầu thay vì giả vờ muốn tìm hiểu tôi.” “Tôi đã định làm thế, nhưng lúc đó cô có điện thoại.” Cô hơi nghiêng đầu. “Cái cớ này nghe thuận tai nhỉ? Anh có thể nói điều đó với tôi trước khi chúng ta tới quán cà phê. Vậy sẽ chân thành hơn nhiều.” Anh giơ tay lên, lòng bàn tay ngửa ra - dấu hiệu rằng anh muốn làm hòa. “Thôi nào, chúng ta có thể đình chiến không? Tôi chỉ đang cố gắng hoàn thành công việc của mình, và cô cũng vậy. Tôi sẽ cố hết sức để nhanh chóng tìm một người quay phim, mọi sự rồi sẽ đỡ phiền phức hơn nhiều.” Jane nhướng mày. “Tôi không tin. Nếu là mình thì anh có thích bị máy quay chĩa vào mặt như này cả ngày không?” Anh dành tặng cô nụ cười tươi tắn nhất. “Tôi quen rồi mà. Cô sẽ ngạc nhiên khi thấy mình sớm chẳng hề để ý tới máy quay nữa ấy chứ.” Anh thích khí thế của cô và cách những tia sáng ánh lên trong đôi mắt màu hạt dẻ tràn đầy sức sống. Cơ hội tiếp cận cô khi cô không biết anh là ai chính là động lực của anh đằng sau bộ phim này, nhưng anh không ngờ cô lại ghét anh đến thế. Anh vẫn không biết mình đã từng tự giới thiệu trước cô chưa. Sấm rền rĩ và gió nổi lên, anh ngửi thấy mùi cơn mưa đang đến. “Sắp bão rồi đấy. Chúng ta nên đi thôi. Tôi sẽ theo cô tới văn phòng rồi bỏ chiếc SUV lại đó.” Cô trả lời “Được” nhưng giọng nghe có vẻ không đồng ý chút nào. Anh ngồi sau tay lái chiếc SUV của mình và đi vào thị trấn. Khi đến sở cảnh sát, anh đậu xe ở bãi dành cho khách. Jane không vào trong và vẫn để xe mình nổ máy. Cơn bão đã nổi lên từ lúc anh cầm túi đựng máy quay lao vào ghế phụ, nước nhỏ từng giọt lên ghế khi anh bò vào trong. Cô đưa cho anh một tờ khăn tay. “Không có tác dụng lắm, nhưng tôi chỉ có thế thôi. Anh có thể về nhà và thay đồ bất cứ lúc nào.” “Sẽ không đâu.” Anh dùng khăn lau mặt mình, nhưng nước mưa vẫn nhỏ từng giọt từ trên đầu. “Cô vẫn chưa nói chúng ta sẽ đi đâu.” “Đến nói chuyện với vợ của Paul Baker.” “Thanh tra mà cô vừa cho tạm nghỉ hả?” “Đúng.” Rõ ràng là cô không hề muốn nói gì về chuyện này, nhưng cũng được thôi. Anh đã nghe ngóng đủ để biết Paul có thể vĩnh viễn không dính líu đến vụ này. Không chừng anh ta chính là một nghi phạm giết người. Cơn bão đã dịu bớt khi hai người họ đến nhà Paul. Bụng của Jane sôi lên sùng sục. Cô chẳng có gì lót dạ ngoài chút cà phê từ tối qua và cũng chẳng có đủ thời gian để mà ăn sáng. Cô đứng trên thềm ngôi nhà được xây theo lối kiến trúc kiểu Pháp với cửa sổ có mái vòm của Paul. Trong những năm qua, anh ấy đã dành khá nhiều tâm huyết cho ngôi nhà, và vườn hồng của vợ anh ấy thì đang nở rộ. Parker đứng cạnh cô với đôi tai hướng về phía trước, còn Reid thì đứng phía sau. Cô đã nói với Reid rằng anh không được quay phim cuộc thẩm vấn này và anh ta không phản đối gì về điều đó. Liệu Paul có giữ lời hứa, không nói với vợ mình rằng cô sẽ đến? Jane không tin tưởng anh ấy. Anh ấy đang giấu giếm gì đó và chắc chắn sẽ cảnh báo vợ mình không được tiết lộ bất cứ điều gì cho cô. Cánh cửa mở ra và Jane mỉm cười với Tina. Jane cố tỏ vẻ yên tâm khi người phụ nữ tóc nâu đang mang bầu xuất hiện trong tầm mắt. Tina hơi ấn tay vào eo lưng. “Chào Jane. Mọi việc ổn chứ?” Ánh mắt cô xuyên qua vai Jane, hướng về phía Reid. “Paul vẫn ổn phải không?” “Anh ấy ổn. Tôi muốn nói chuyện với cô một lát. Tôi vào được không?” Đôi mắt màu xanh dương của Tina sáng lên vì nhẹ nhõm, cô ấy bước sang một bên. “Đương nhiên rồi. Cô ăn sáng chưa? Tôi làm bánh kếp đấy.” Cô ấy không hỏi gì về Reid, có lẽ nghĩ anh cũng là một sĩ quan không mặc đồng phục. “Được ăn vài cái thì tốt quá.” Có lẽ Tina sẽ bớt cảnh giác nếu họ cùng nhau ăn sáng. Xem chừng Paul không báo trước gì cho cô ấy. “Ngồi xuống”, Jane ra lệnh cho Parker. Chú chó liền ngồi xuống sàn gạch cạnh cửa sổ, đầu thư giãn gối lên chân. Cô và Reid đi theo Tina băng qua phòng khách và vào trong căn bếp ở giữa nhà. Bánh kếp đang được xếp thành chồng trên một chiếc đĩa cạnh lò nướng. Jane hít một hơi. “Thơm quá!” Tina cười rạng rỡ. “Cảm ơn cô.” Cô xếp những chiếc bánh kếp vào ba cái đĩa, sau đó chỉ tay về phía chiếc bàn trắng gần chỗ ghế ngồi trong phòng khách. Si-rô lá phong và bơ đã được đặt sẵn trên bàn. Jane chưa muốn dò hỏi gì trước khi ngồi xuống bàn ăn cả. Cô ngồi xuống bàn, cố lờ đi sự hiện diện của Reid ở ngay ghế bên cạnh. “Ivy đang ngủ à? Cô bé đỡ hơn chưa?” Tina gật đầu. “Bác sĩ nói là do virus thôi. Khoảng một giờ nữa con bé sẽ xuống đây.” Cô ấy đặt nĩa xuống và nhìn thẳng vào Jane. “Mà có chuyện gì thế?” Cảm giác thèm ăn của Jane bỗng chốc bay biến. Làm sao cô có thể nói với một người vợ đang mang bầu rằng chồng của cô ấy là nghi phạm giết người? Hay cả chuyện cô ấy cũng đang bị tình nghi? Jane đằng hắng. “Cô biết Nicole Pearson không?” Tina thở hắt ra. “Thì ra là chuyện đó hả? Tình nhân của Paul? Cô ta không phải người đầu tiên, chắc cũng chẳng phải người cuối cùng. Tôi đã khá bình tĩnh trước mấy chuyện như này rồi.” Cô ấy nhún vai. “Anh ấy là một người đàn ông tốt về nhiều mặt. Ivy rất ngưỡng mộ cha của mình, con trai của chúng tôi cũng thế. Anh ấy chu cấp cho chúng tôi đầy đủ và anh ấy có tham vọng nữa. Chúng tôi sẽ không sống trong căn nhà nhỏ này mãi đâu.” Jane cho rằng đây là cách nhìn rất thực dụng. Hôn nhân có lẽ không nên như vậy, nhỉ? Nếu cô kết hôn, cô muốn có thể tin tưởng chồng mình từ tận đáy lòng. Nếu có một thử phá vỡ niềm tin thì đó chắc chắn là sự dối trá. “Cô phát hiện Paul qua lại với Nicole từ lúc nào?” “Có một hôm tôi đã thấy họ khi đến thư viện. Nhìn cái cách họ thì thầm là tôi biết ngay.” Tina cắn môi. “Hôm qua anh ấy nói với tôi rằng muốn ly hôn, nhưng tôi đã cố gắng thuyết phục. Tôi cảnh báo anh ấy chuyện này sẽ bung bét như thế nào. Chúng tôi sẽ ổn thôi.” “Đây là lần đầu anh ấy đề nghị ly hôn à?” Tina gật đầu. “Nhưng cái thai khiến anh ấy điên đầu. Anh ấy đã thừa nhận điều đó và nói với cô ta rằng sẽ ở lại bên tôi.” “Anh ấy đã nói vậy với cô ta vào tối qua à?” “Phải. Anh ấy rời nhà khoảng lúc mười một giờ.” “Anh ấy quay về nhà khi nào?” “Lúc nửa đêm. Anh ấy không đi lâu và cũng chẳng muốn nhắc gì đến chuyện đó lúc về tới nhà. Tôi biết nó chẳng dễ chịu gì.” Mắt Tina lóe lên. “Phụ nữ không nên đeo bám một người đàn ông đã có vợ. Thế là sai trái.” “Nicole Pearson đã chết và được tìm thấy vào sáng nay.” Jane chăm chú nhìn cách đôi mắt của Tina mở to trước tin này. “Giám định y khoa chưa xác định được đây là một vụ giết người hay ngộ sát.” Tina ngồi xuống chiếc ghế ở bàn ăn. “Và cô nghĩ chuyện đó do Paul làm à? Anh ấy chẳng bao giờ làm hại ai đâu.” “Chúng tôi chưa xác định được thời điểm tử vong. Paul có rời nhà sau khi đã trở về lúc nửa đêm không?” Nước mắt chảy dài trên khuôn mặt Tina, cô khịt mũi. “Không. Chúng tôi vất vả với Ivy cả đêm. Con bé sốt và nôn mấy lần liền. Anh ấy ở nhà suốt từ đó.” Như vậy tức là Tina cũng có chứng cứ ngoại phạm. Jane cố gắng để không tỏ ra nhẹ nhõm. Nếu thời điểm tử vong là trước nửa đêm, Paul vẫn sẽ bị tình nghi, nhưng Jane không muốn nghĩ tới cảnh phải đưa Tina vào tù. Tina với lấy tờ khăn giấy ở giữa bàn và lau mặt. “Cô tin tôi chứ?” “Tôi tin cô mà. Có ai khác biết Paul ngoại tình với Nicole không?” Tina xoay chiếc nhẫn cưới quanh ngón tay. “Ừm, một nhóm nhỏ những người ở cùng nhà thờ với tôi. Tôi đã nhờ họ cầu nguyện.” “Tôi cần danh sách tên những người đó. Đây có lẽ là một sự trừng phạt cho những gì cô ta đã làm.” Tina không cần biết về dấu hiệu đó. Jane xé một tờ giấy khỏi cuốn sổ ghi chép của mình và đẩy nó qua bàn cho Tina. “Bạn bè tôi không ai giết Nicole đâu!” “Tôi vẫn cần biết tên của họ.” Tina cau mày, nhưng bắt đầu viết. Jane đứng dậy, cầm lấy đĩa của mình và Reid ra bồn rửa, xả sạch sẽ trước khi xếp vào máy rửa bát. “Cảm ơn vì bữa sáng nhé, Tina. Và vì đã nói thật với tôi nữa.” Cô nhận lấy tờ giấy mà Tina đưa cho và liếc xuống. Jane nhận ra một vài cái tên, bao gồm cả Olivia và bạn gái của cha cô ấy. Cô không hề biết họ tới chung một nhà thờ. Cô bỏ danh sách vào túi áo. “Đề phòng cô nghĩ thêm được gì khác, thì đây là danh thiếp của tôi.” Tina đẩy nó trở lại. “Tôi có số của cô trong điện thoại rồi. Mong là cô sẽ tìm ra kẻ đó. Mặc dù tôi muốn Nicole tránh xa chồng tôi, nhưng tôi không mong cô ta bị làm hại.” Jane nghe thấy tiếng khóc vang lên ở hành lang. “Có vẻ Ivy dậy rồi. Chúng tôi sẽ tự mình ra về, cô không cần tiễn đâu.” Parker đứng dậy và theo họ ra tới cửa. Những đám mây nặng nề đã tan và nắng bắt đầu chiếu xuống con đường, biến hơi ẩm thành một làn sương mỏng. Từ lúc vào trong nhà, Reid chưa hề nói một lời nào. Anh nhét tay vào túi áo hiệu Dockers của mình và theo cô ra xe. “Cô có gì rồi?” “Các mối nghi ngờ. Cho tới khi bên khám nghiệm tử nghi thông báo thời điểm tử vong, Paul vẫn là nghi phạm chính của chúng ta.” “Tiếp theo là đâu?” “Cửa hàng áo cưới, để xem có thể xác định chiếc váy mà nạn nhân đã mặc hôm qua không.” “Cô có một vụ án mạng khác à? Lúc nào vậy?” “Thi thể được tìm thấy vào sáng sớm ngày hôm qua. Một chiếc tàu đánh bắt tôm đã kéo lưới và phát hiện phần thân của một người đàn ông mặc váy cưới. Chúng tôi vẫn chưa xác định được danh tính của thi thể đó. Chắc phải mất một thời gian, vì anh ta không có ngón tay.” “Không thể dùng vân tay để xác định đúng không?” “Chính xác.” “Mà sao cô lại nhận vụ đó vậy?” Cô nhún vai. “Chủ tàu đã cập bến ở Cảng Pelican và đưa cả tàu lẫn thi thể cho chúng tôi. Chúng tôi đã báo cho cảnh sát biển rồi, nhưng hiện giờ thì họ để vụ này cho chúng tôi lo liệu, trừ khi chúng tôi thấy cần nhờ họ.” “Cô nghĩ cần phải xác định thương hiệu chiếc váy cưới đó à?” Cô thắt dây an toàn và khởi động xe. “Có lẽ thế. Có một cửa hàng thanh lý đồ cưới trong thị trấn, người chủ là bạn tôi. Nhân viên điều tra đã cởi chiếc váy ra khỏi thi thể, và tôi sẽ xem thử có lấy được ảnh chụp không. Có lẽ Fiona sẽ nhận ra nó, hoặc chí ít là biết thương hiệu.” CHƯƠNG SÁU Vào thời điểm Jane đẩy cánh cửa tiệm Áo Cưới Nhiệt Đới cũng là lúc cô nhận được những tấm ảnh chụp chiếc váy. Cô bước vào trong cửa tiệm sáng trưng. Fiona là chủ một cửa hàng một điểm đến*, nơi này bán cả những loại hoa khác nhau đang tỏa hương thơm hòa quyện với mùi của những cục xà phòng và nến được làm thủ công. Cô để Parker ngồi cạnh cửa trước, sau đó liếc nhìn những tấm ảnh để đảm bảo rằng không có bức nào gớm ghiếc tới nỗi Fiona phải kinh hãi. Đôi chân dài của Reid đã theo kịp tốc độ của cô và nhanh chóng bước vào bên trong cửa hàng. Anh lặng lẽ ngắm nhìn xung quanh. “Nơi này đẹp đấy.” Cô tắt màn hình điện thoại và gật đầu. “Cửa tiệm của Fiona khá nổi tiếng ở khu Gulf Shores. Cô ấy bán những bộ váy được thiết kế riêng cho tất cả mọi người, từ các cô dâu cho đến các bé gái rải hoa. Với rất nhiều phụ kiện váy cưới nữa.” Một vài khách hàng ngẩng đầu lên khi Jane đi về phía sau, nơi Fiona đang hỗ trợ cho một cô gái trẻ. Jane không nhận ra cô ấy, nhưng có rất nhiều khách quen đến từ những nơi rất xa như Pensacola hay Mobile, nên cũng chẳng đáng ngạc nhiên. Fiona nhìn lên và mỉm cười, sau đó hướng dẫn cô dâu tương lai vào phòng thay đồ với vô số những chiếc váy đang chờ được thử. Mẹ của cô gái đó cũng đi theo. Fiona khoảng chừng ba mươi tuổi. Hai người họ đã quen nhau khi Jane đến đây vào khoảng năm năm trước để tìm một chiếc váy dạ tiệc cho một buổi lễ trang trọng mà cha muốn cô tới dự. Fiona luôn búi gọn mái tóc vàng của mình. Jane chưa bao giờ thấy cô mặc quần, luôn là váy liền hoặc chân váy. Cô ấy cứ như đang sống ở những năm năm mươi và luôn thân thiện như June Cleaver* vậy. Fiona chuyển ánh mắt tò mò của mình từ Reid sang Jane. “Jane, ngạc nhiên thật đấy. Cậu hộ tống anh chàng đẹp trai này đến đây để ăn trưa với tớ à?” Cô ấy chìa tay ra. “Fiona Hamilton.” “Reid Dixon.” Nụ cười của Fiona rạng rỡ hẳn lên. “Tôi đang nghĩ đúng là anh. Tôi có xem bộ phim tài liệu của anh về nạn buôn bán tình dục ở Campuchia và Thái Lan. Rất xúc động, có nhiều thông tin hữu ích nữa.” “Tôi luôn hy vọng việc bóng tối bị phơi bày sẽ khiến lũ chuột nháo nhào bỏ chạy.” Jane đứng ngồi không yên. “Tớ cần cậu giúp xác định một chiếc váy.” Jane kể cho Fiona nghe về vụ giết người. Ánh sáng chợt mờ dần nơi đôi mắt xanh của cô ấy. Fiona rùng mình. “Tớ có phải nhìn thi thể không?” “Không. Tớ có ảnh chiếc váy được chụp riêng cũng như nhãn mác. Hy vọng cậu sẽ nhận ra nó.” Jane mở những tấm ảnh trên điện thoại ra và đưa cho Fiona. Fiona lướt qua tất cả những tấm hình mà chẳng nói năng gì cho tới khi xem hết tất cả. Cô trả điện thoại lại cho Jane. “Đây là một chiếc váy Vera Wang.” “Đắt không?” “Không đến nỗi. Chiếc váy này thuộc dòng Bạch sắc, và có giá khoảng một ngàn hai trăm đô-la nếu còn mới. Nó là một chiếc váy dạ hội với phần lưng chữ T.” “Cậu có bán cái nào như thế chưa?” Mắt Fiona hấp háy. “Tớ có một cái như thế, nhưng bị mất vài ngày trước.” Jane nhíu mày. “Tớ không nhớ mình đã nhận được báo cáo đó.” “Tớ không báo cáo mất trộm. Có mỗi cái đó bị mất thôi. Thực lòng thì tớ cứ băn khoăn không biết có phải mình đã bán rồi quên đánh dấu hay không.” “Nhưng cậu nhớ dai như đỉa ấy.” Fiona mỉm cười. “Dạo gần đây tớ hơi lơ đãng vì sắp có em bé.” Ngực Jane thắt lại. Cô gượng cười. “Chúc mừng nhé! Dự sinh khi nào thế?” “Khoảng Lễ Tạ ơn. Tớ cũng vẫn đang thấy ngạc nhiên lắm.” Cô dâu tương lai ra khỏi phòng thay đồ trong một chiếc váy trắng như bông. Fiona liếc nhìn về hướng đó. “Cậu cứ làm việc đi. Bọn mình xong rồi mà,” Jane nói. “Tớ muốn xem bất kỳ video giám sát nào mà cậu có trong cửa hàng.” “Cứ tự nhiên. Màn hình giám sát ở đằng sau.” Jane và Reid cùng đi về phía sau cửa hàng. “Chúng ta đã biết thương hiệu của chiếc váy đó, nhưng tôi dám cá đó chính là chiếc váy bị mất trộm, tức là nó chẳng giúp ích gì trong việc xác minh danh tính thi thể cả.” Anh nhìn cô với một biểu cảm nghiền ngẫm rất lạ. “Sao thế?” Cô hỏi. Anh chớp mắt, lắc đầu. “Không có gì. Chỉ là tôi chưa từng tới cửa tiệm áo cưới nào thôi.” “Anh chưa kết hôn à?” Một câu hỏi ngu ngốc hoàn toàn không cần thiết, nhưng cô không rút lại được nữa rồi. “Tôi đâu có nói thế. Chỉ là cuộc hôn nhân của tôi hơi khác thường chút thôi.” Mặc dù không hiểu ý anh là gì, nhưng cô cũng không định hỏi thêm. Cô mở cánh cửa phía sau tiệm rồi dẫn Reid tới văn phòng nhỏ của Fiona. Một đống những chiếc váy cưới nằm rải trên chiếc ghế bành duy nhất trong phòng. Jane phải chuyển đống váy lên bàn để mở màn hình. Cô loay hoay với những nút điều khiển và xem qua những video của mấy ngày gần đây. Reid đứng ở một góc phòng, nơi có thể quay lại hình ảnh của cô trước màn hình, nhưng cô chẳng hề bận tâm vì đang bận tua nhanh những đoạn video. Cô nhận ra một vài khách hàng, có cả Brian và một trong số rất nhiều bạn gái của cậu ấy. Cô nhăn mũi. Chắc cậu ấy tới mua đồ lót cho một trong số các cô bồ của mình. Chắc chắn là thế, vì cô gái kia ôm một đống đồ ren vào phòng thử. Paul Baker cũng xuất hiện. Anh ta đến cùng với Nicole Pearson. Jane cho video phát chậm lại và quan sát họ một lúc. “Cô thấy gì à?” “Chẳng có gì tôi chưa biết hết.” Nicole thử một vài chiếc váy dạ tiệc, nên chắc là Paul đang giúp cô ấy chọn đồ cho một chuyến đi chơi. Cảnh chuyển dần về đêm, cô phát chậm video hơn nữa. Một thân hình đồ sộ di chuyển trước một trong số những bóng đèn nhỏ nằm trên sàn nhà, nhưng cô không thể nhìn rõ bất cứ chi tiết nào. Một ánh chớp trắng lóe lên, và hình ảnh chuyển màu trắng xóa. “Là sự cố hay là âm mưu gì đây?” “Tôi không biết.” Cô sao chép tập tin và gửi nó qua email của chính mình. “Tôi sẽ nhờ sở pháp y kiểm tra.” Reid theo cô quay trở lại gian hàng và đi ra cửa trước. Cô vỗ đùi, ra hiệu cho Parker đi cùng mình trước khi đẩy mở cửa và bước vào dưới màn mưa. “Có lẽ nên kiếm bữa trưa khi ta còn ở đây thôi, mong là lát nữa trời tạnh.” Và vì nói chuyện về đồ ăn sẽ an toàn hơn nói chuyện về các mối quan hệ. Dù sao thì cô cũng chẳng muốn biết thêm gì về người đàn ông phiền phức này. Mùi sốt cà chua và tiêu đập vào mặt Reid khi anh bước vào cửa tiệm Pelican Pizza sau chân Jane. Ở bên ngoài, mưa như trút nước. Anh lắc bớt nước bám trên đầu. “Ôi, chẳng khác gì trận lụt trong Kinh thánh cả.” Đôi mắt màu hạt dẻ của Jane liếc nhìn gương mặt ướt đẫm của anh. “Cần khăn tay nữa không?” 'Tẹo là khô ngay thôi.’ Cô không trả lời và dành chút thời gian để bắt Parker ngồi xuống cửa sổ phía trước, tránh đường cho những khách quen đi lại. Reid tiến đến quầy, cô theo sau anh. “Cô muốn loại pizza nào?” Anh hỏi. “Tôi có thể tự mua cho mình.” “Để lần sau đi. Tôi muốn thử loại hải sản.” “Ngon lắm đấy. Tôm càng, tôm hùm và cua đều được đánh bắt tại đây. Tôi cũng sẽ lấy như vậy.” Jane lấy tờ khăn ăn trên quầy để lau khuôn mặt dính nước mưa của mình. “Và trà ngọt nữa nhé.” “Đã làm sẵn cho cô rồi đây, Jane.” Người đàn ông đứng sau quầy đưa một ly cho cô. Ở tuổi ba mươi, anh ta có một đôi mắt nâu mơ màng và nụ cười thân thiện. “Tôi đã nghe tin mừng rồi, Cảnh sát trưởng Hardy. Làm tốt lắm.” “Cảm ơn anh, Troy. Tôi vẫn đang cố thích nghi đây.” “Cha cô thế nào rồi? Gần đây tôi không thấy ông ấy.” Jane mỉm cười. “Tôi cũng chưa gặp cha mình mấy ngày nay rồi. Chắc ông ấy đang bận tận hưởng kỳ nghỉ hưu.” “Cha cô là một người tốt. Tôi chưa bao giờ quên ông ấy đã giúp tôi nhiều thế nào lúc mới mở cửa hàng.” “Ông ấy cũng mừng vì giúp được anh.” Jane bước đến những ô cửa sổ lớn, kéo ghế ở một chiếc bàn dành cho hai người ra. Người đàn ông đưa trà cho Reid. “Tôi sẽ mang pizza ra bàn cho các bạn.” Reid cảm ơn anh ta và ngồi xuống cùng Jane. “Cha cô giúp anh ta mở nhà hàng à?” Cô gật đầu. “Cha của Troy đã phải vào tù vì giết một trong các đội phó, còn mẹ và chị gái anh ấy qua đời trong một vụ tai nạn xe hơi khi Troy đang học đại học. Troy và em trai anh ấy chẳng còn họ hàng thân thích nào cả. Nơi này được rao bán khi Troy đang làm trợ lý phó giám đốc. Cha tôi đã giúp anh ấy trả khoản tiền đó, và sau đó Troy đã trả lại trong vòng một năm.” “Và thanh tra giỏi nhất của tôi, Brian, chính là em trai của Troy. Troy đã nuôi em mình ăn học, rồi nhờ cha tôi xin cho anh ấy vào làm. Đó là quyết định đúng đắn nhất của cha tôi đấy. Cái tính đào hoa của Brian khiến tôi vô cùng đau đầu, nhưng cậu ấy là một thanh tra tuyệt vời. Cậu ấy có thể đánh hơi ra manh mối như Parker đánh hơi ra lũ sóc ấy.” “Cha cô nghỉ hưu bất ngờ lắm à?” Anh cố giữ giọng thản nhiên để không tỏ ra mình đang tò mò. “Đột nhiên ông ấy quyết định như thế vào tháng trước. Cha tôi vẫn luôn cứng cỏi nên tôi quên mất là ông đang già đi.” Cô liếc qua nhóm bốn cậu thiếu niên bàn bên cạnh, vẻ hoài niệm và khao khát trên gương mặt cô khiến Reid chú ý. “Cô có con chưa?” Hàng mi cô vội cụp xuống, nhưng anh đã kịp thấy vẻ đau buồn trong mắt cô. “Xin lỗi, tôi hỏi chuyện riêng tư quá.” “Không sao. Tôi không có con, mặc dù rất thích trẻ con.” Anh nâng máy quay lên và hướng nó vào mặt cô. “Vậy chúng ta sẽ tiếp tục cuộc điều tra thế nào?” Anh phải khen ngợi vì cô không còn nhíu mày nhăn mặt gì hết. “Chúng ta cần đợi báo cáo giám định pháp y. Brian sẽ đi lấy rồi gửi cho tôi. Chúng ta sẽ lấy những gì có thể dùng được để bắt đầu phỏng vấn những người có thể giúp xác minh danh tính nạn nhân.” “Cô không nghĩ bên pháp y sẽ xác định được danh tính nạn nhân ư?” Chiếc máy quay bị hấp dẫn bởi gương mặt góc cạnh và cần cổ dài. Cô có vẻ thoải mái dù anh đang ghi hình cô mọi lúc. “Nếu may mắn thì chúng ta sẽ có thông tin về người đó trong kho dữ liệu DNA, nhưng thường thì không. Điều tra danh tính thường là một công việc mệt mỏi, phải nói chuyện với rất nhiều người và cào xới đống báo cáo của người mất tích để kiếm cho ra danh tính nạn nhân.” “Cô đã làm trong lực lượng cảnh sát bao lâu rồi?” “Cứ như cả đời rồi vậy.” Cô nhìn lên và mỉm cười khi thấy một cậu nhóc có lẽ vừa mới thành niên mang pizza tới cho họ. “Tôi được cha truyền cho tình yêu công lý và tốt nghiệp chuyên ngành Tư pháp hình sự ở Đại học Alabama. Trường này khá gần nên thi thoảng tôi về nhà vào cuối tuần.” “Có vẻ cô và cha cô rất thân thiết.” Cô chun mũi. “Không thân như anh nghĩ đâu. Không phải là do tôi lạnh nhạt. Chỉ là cha tôi... hơi khó hiểu một chút.” “Tôi nghĩ chúng ta có điểm chung đấy.” Cô ngước lên, nhìn xoáy vào anh. “Anh cũng có một người cha khó tính à?” “Ông ấy được rất nhiều người ngưỡng mộ, tôn thờ là đằng khác. Ông ấy kỳ vọng ở tôi nhiều hơn những đứa trẻ khác rất nhiều, để rồi sau cùng ông ấy khiến nhiều người thất vọng, trong đó có cả tôi. Tôi thường cảm thấy rằng mình phải chuộc tội thay cho cha.” Reid lắc đầu. “Tôi thường băn khoăn liệu có điều gì đó trong Kinh thánh nói về tội lỗi của người cha ứng nghiệm lên đời con hay không.” Anh chưa bao giờ bày tỏ nỗi sợ này với bất kỳ ai, nhưng Jane rất dễ nói chuyện. “Olivia, bạn của tôi, sẽ nói rằng điều đó nghe thật điên rồ. Chúa không bao giờ làm những việc như thế.” “Thế nếu là cô thì cô sẽ nói gì?” “Tôi không phải người đáng để hỏi.” Giọng cô như một lởi cảnh báo, anh không nên tiến xa thêm. Mùi thơm của hải sản khiến anh ứa nước miếng, hóa ra anh đang rất đói. Lớp vỏ bánh mỏng và giòn, đúng kiểu anh thích, với lượng phô mai vừa đủ. Thay vì sốt cà chua, cửa tiệm này dùng loại sốt trắng của pizza, rất thích hợp với đồ biển. “Pizza ngon nhất từ trước đến nay mà tôi ăn,” anh cảm thán, miệng vẫn nhồm nhoàm. Cô gật đầu đồng ý. “Đây cũng là loại pizza yêu thích của tôi.” Họ dành vài phút ăn trong im lặng. Riel dùng khăn lau miệng và những ngón tay, sau đó nhấc máy quay lên. “Tại sao cô lại quyết định thử sức với vị trí cảnh sát trưởng? Vốn không có nhiều cảnh sát trưởng là nữ. Đó có phải là một phần lý do không?” “Không hẳn. Tôi có ý thức mạnh mẽ về công lý, và tôi ghét phải chứng kiến bọn tội phạm làm tổn thương những người tốt.” “Sự nghiệp cống hiến cho công lý của cô bắt đầu thế nào?” Nhìn biểu cảm hoài niệm của cô, tim anh bắt đầu đập thình thịch. Cô sẽ kể cho anh về quá khứ của mình chứ? Cô nhấp một ngụm trà rồi chăm chú nhìn anh qua miệng ly. “Anh xem phim Ngày Tận Thế chưa?” “Đương nhiên. Một bộ phim tuyệt vời. Bruce Willis là diễn viên yêu thích của tôi.” “Đó là bộ phim đầu tiên mà tôi xem. Nghe khá ngốc nghếch, nhưng bộ phim đó khiến tôi muốn trở thành một người đứng ra hành động khi mọi thứ dường như hỏng hết. Tất cả những người sẵn sàng lên vũ trụ và phá hủy thiên thạch không giống anh hùng. Bọn họ hầu hết đều tự làm cuộc đời mình rối tung cả lên. Nhưng một hành động dũng cảm đã thay đổi cả lịch sử.” Cô nhìn chằm chằm xuống ly của mình. “Cô xem bộ phim đó lúc nào?” “Khi tôi gần mười lăm tuổi.” Trái tim anh như nhảy lên tận cuống họng. “Trước đó cô chưa từng xem bộ phim công chúa Disney nào à?” Anh có thể thấy sóng ngầm dậy lên đằng sau đôi mắt xinh đẹp ấy, nhưng cô không kể cho anh thêm gì nữa. Anh có thể nói rằng cô không muốn nhắc về quá khứ của mình. Anh đã hy vọng cô cởi mở hơn, nhưng dường như trái tim người con gái này đã bị khóa trong két sắt. Anh tắt máy quay. “Tôi sẽ không dùng cảnh vừa rồi đâu, nhưng tôi nghĩ muốn làm anh hùng cũng là điều tốt mà. Cô đã từng gặp rắc rối nào khiến bản thân muốn chuộc tội chưa?” Cô ngước nhìn anh, đôi mắt màu hạt dẻ mở to. “Còn tùy vào góc độ. Tôi thừa nhận rằng khi chúng tôi tới đây thì tôi đang trong giai đoạn cố gắng vượt qua chấn thương tâm lý. Tôi từng cảm thấy mình là một nỗi thất bại suốt một thời gian dài. Thậm chí tôi còn không thể...” Khi cô đột ngột dừng lại, anh nghiêng người về phía trước. “Cô không thể làm gì cơ?” “Không có gì. Điều đó chẳng quan trọng. Tôi chỉ muốn giúp mọi người thôi. Dù tôi biết nói thế nghe có vẻ ngốc thật.” “Thực ra nghe rất hay mà.” Nhận thức được ánh mắt mình quá mãnh liệt, anh với lấy ly trà của mình. “Vậy cô không muốn có ảnh hưởng chính trị hay gì đó tương tự ư?” Cô nhăn mặt. “Tôi ghét chính trị. Đó là phần tệ hại nhất của công việc này. Tôi phải tuân theo mệnh lệnh của thị trưởng, đó là lý do tại sao anh ở đây. Tôi không thể chịu được sự giả dối. Chỉ riêng cái ý nghĩ phải tham gia vào mớ bòng bong ấy đã đủ khiến tôi dị ứng rồi. Nhưng nếu muốn công việc này thì tôi phải chấp nhận những việc như thế. Và tôi thì muốn công việc này.” “Cô nghĩ sao về việc trở thành một hình mẫu cho các cô gái trẻ muốn tham gia lực lượng cảnh sát?” “Tôi không nghĩ đây là vấn đề giới tính. Là vấn đề tâm huyết thì đúng hơn. Tất cả chúng ta đều nên làm những gì trái tim mình mách bảo.” “Vậy đây là điều trái tim cô mách bảo sao? Cô vẫn có thể trở thành một thanh tra và đưa những kẻ vi phạm pháp luật ra trước công lý mà.” “Với tư cách là một cảnh sát trưởng, tôi sẽ có khả năng giám sát nhiều vấn đề hơn và đảm bảo mọi thứ được thực hiện đúng.” “Cha cô thì làm không đúng à?” Gò má cô ửng lên. “Cha tôi là một cảnh sát trưởng vĩ đại, và ông ấy đã truyền nhận thức về công lý cho tôi. Tôi muốn tiếp tục sự nghiệp tuyệt vời của ông ấy ở nơi đây.” “Tức là có khá nhiều lý do để cô vươn lên chức cảnh sát trưởng.” “Tôi đoán thế. Tôi chưa bao giờ thực sự nghĩ về nó một cách kỹ càng. Dường như đó là công việc mà tôi nhất định phải làm.” “Có lẽ là một nhiệm vụ do Chúa giao cho chăng?” Cô lắc đầu. “Tôi không nghĩ Chúa liên quan tới việc này. Có vẻ Ngài không lắng nghe tôi.” “Cô không tin vào vai trò của Chúa trong cuộc đời chúng ta sao?” Cô cầm khăn giấy lên và xé nó ra thành từng sợi. “Nói cho đúng thì là Ngài chưa bao giờ xuất hiện khi tôi cần.” Cô ném tờ khăn giấy đi. “Sao chúng ta lại nói về chủ đề này nhỉ? Tôi nghĩ mình nên quay lại văn phòng để xem đã có báo cáo của giám định pháp y chưa.” Reid đứng dậy. “Tôi cũng có một số công chuyện lặt vặt cần giải quyết, nên phải chào tạm biệt cô rồi. Cho tôi biết nếu cô nghe được điều gì hay ho nhé.” CHƯƠNG BẢY Anh đang làm gì bên ngoài nhà của cha cô thế này? Sau khi tạm biệt cô trước cửa văn phòng, Reid không thể kiềm được niềm thôi thúc muốn đến nơi này. Anh lái xe qua cánh cổng sắt lớn vào khu đất được rào kín. Bây giờ là một buổi chiều đẹp trời, chim hót ríu rít trên cao và những đám mây trắng lững lờ trôi trên nền trời xanh. Có hệ thống kiểm soát ra vào ở cổng, nên anh hạ cửa kính xuống và ấn nút loa. “Anh là ai và anh cần gì?” Giọng một người đàn ông kỳ quái vang lên. “À vâng, tôi là phóng viên Reid Dixon. Tôi đang quay phim về con gái ông và muốn được trò chuyện với ông.” Người đàn ông không trả lời, nhưng cánh cổng mở ra. Reid lái xe qua hai cánh cổng khác mà không cần phải nhập mật khẩu, rồi dừng lại trước căn nhà. Rõ ràng ông Charles có ý thức về an ninh rất mạnh. Tuy nhiên, đây là một chốn xinh đẹp. Hàng sồi nước điểm rêu phong xen kẽ với những cây thông và tuyết tùng tạo thêm nét tinh tế cho cánh rừng bên trái. Anh không chắc mình sẽ nói gì. Nhìn từ bên ngoài, đây là một ngôi nhà lớn kiểu bốn gian hai tầng được xây dựng giống với phong cách từ những năm 1920. Mái nhà bằng kim loại màu xanh lá phủ lên những bức tường gạch. Mái hiên trông như được xây dựng bằng vật liệu tổng hợp hay nhựa, chất liệu được cho là sẽ bền mãi mãi. ông Charles hẳn đã đổ rất nhiều tiền bạc vào ngôi nhà của mình. Chắc hẳn niềm thôi thúc phải chuẩn bị sẵn sàng đã đeo bám ông ấy suốt những năm qua. Reid tắt động cơ và chờ xem ông Charles có bước ra cửa trước với một khẩu súng không. Anh ngay lập tức nhận ra người đàn ông vạm vỡ bước qua cánh cửa lưới chống côn trùng. Mái tóc trắng xù xì và dày của ông chạm tới vành tai. Ông Charles có bộ ria mép và lông mày rậm cũng màu trắng, mặc quần yếm nhưng không kèm theo áo sơ mi bên trong. Trông không giống hình tượng của một vị cảnh sát bình thường cho lắm. Charles nheo mắt trước ánh nắng mặt trời, đặt tay lên báng súng ở thắt lưng. “Bước tới nơi tôi có thể nhìn rõ anh.” Cảnh sát lúc nào cũng là cảnh sát. Reid đẩy cửa xe và bước ra. “Cảm ơn vì đã cho tôi vào, thưa ông. Tôi đang thực hiện một bộ phim tài liệu về sở cảnh sát ở các thị trấn nhỏ và đã dành phần lớn thời gian trong ngày với con gái ông. Không biết tôi có thể hỏi ông vài câu được không?” Ông Charles rời tay khỏi khẩu súng của mình, càu nhàu. “Chắc là ổn. Tôi đã có nhiều năm làm việc trong một đơn vị cảnh sát nhỏ. Ngồi ngoài hiên đi.” Reid lấy máy quay phim và mang nó theo. Trên hiên nhà có một vài chiếc ghế bập bênh cùng một cái bàn nhỏ và một chiếc xích đu. Ông Charles ngồi xuống một cái ghế bập bênh, nên Reid quyết định ngồi xuống cái bên cạnh ông. “Ông không phiền nếu tôi quay phim cuộc phỏng vấn này chứ?” Ông Charles nhún vai. “Được. Cậu muốn biết gì?” Reid cố định máy quay của mình lên giá đỡ ba chân. “Thách thức ông gặp phải khi làm việc trong lực lượng cảnh sát quy mô nhỏ là gì?” “Khó khăn lớn nhất là không có thời gian nghỉ ngơi thực sự. Khi là một trong năm cảnh sát duy nhất, người ta sẽ gọi cho cậu kể cả sau giờ làm việc về tất cả các cuộc xâm phạm tư gia, hay những lỗi vi phạm rất nhỏ. Hầu như không bao giờ có thể thực sự nghỉ ngơi cả. Ngoài ra, vì cậu biết tất cả mọi người, nên sẽ rất khó khăn khi phải bắt giữ bạn bè hay hàng xóm của chính mình. Chúng tôi thường không có đủ ngân sách để bảo vệ bản thân. Tôi đã phải vận động trang bị máy quay tuần tra trong một thời gian dài. Chúng tôi mới có mic không dây gần đây thôi, quả là một hướng đi đúng đắn, nhưng còn thiếu thốn rất nhiều thứ để đảm bảo an toàn cho các sĩ quan.” “Việc nghỉ hưu của ông khá đột ngột. Có phải ông đã mệt mỏi với những chuyện đó không?” “Tôi già rồi. Đã đến lúc dành thời gian đi câu cá và tận hưởng cuộc sống.” Charles nheo mắt một lúc, rồi nhìn sang chỗ khác. Có thể một bác sĩ y khoa đã chẩn đoán ra gì đó nên mới dẫn ông ấy đến quyết định nghỉ hưu? Ngay cả Jane cũng có vẻ ngạc nhiên khi ông đột ngột nghỉ hưu như vậy. Ông Charles ngả về sau, gác một chiếc bốt lên lan can hiên nhà. “Tôi nghĩ tôi đã xem một vài bộ phim tài liệu của anh. Bộ phim về các hội cuồng giáo thú vị đấy. Có vẻ anh đã đặt ra những câu hỏi chính xác.” Nhịp tim của Reid tăng lên. “Tôi có nguồn tin tốt.” Anh chỉ về hướng nhà kho lớn ở đằng xa. “Tôi nghe nói ông là một trong những người theo chủ nghĩa sẵn sàng sinh tồn. Người ta nói ông có đủ mọi thứ cần thiết cho cả thị trấn nếu thảm họa xảy ra.” “Cả thị trấn thì không, nhưng đủ để lo cho gia đình tôi.” “Nhưng ông chỉ có một cô con gái mà?” Ông Charles gật đầu. “Bây giờ thì thế. Nhưng tôi luôn nghĩ tới ngày nó lấy chồng, rồi sinh cho tôi mấy đứa cháu ngoại. Ấy thế mà nó còn chẳng buồn hẹn hò. Hồi trước, nó...” ông đột ngột dừng lại và nhìn về phía nhà kho. “Hồi trước?” Có lẽ đã tới lúc khám phá thêm về quá khứ và lý do anh thực sự ở đây. “Không có gì.” Ông Charles đứng dậy. “Tới giờ ăn tối rồi. Hy vong anh đã có đủ thông tin cho bộ phim tài liệu của mình.” Reid hạ máy quay xuống. “Những gì ông chia sẻ rất hữu ích. Cảm ơn ông.” Giờ vẫn chưa phải lúc khám phá những chuyện đó. Ông Charles khoanh cánh tay chắc nịch trước ngực. “Đừng quên đóng cổng khi ra về.” “Tôi sẽ đóng.” Không có trò chuyện gì nữa. Ông Charles đã chịu đựng đủ những kẻ lạ mặt dòm ngó cuộc đời mình. Ít nhất thì ông ấy cũng không gặng hỏi những hiểu biết của Reid về các hội cuồng giáo. Để không phải lo lắng về chị Olivia, Jane dành phần lớn thời gian buổi chiều làm việc với đống hồ sơ và sắp xếp những cuộc điều tra khác. Cô đã gửi đoạn video ở cửa hàng áo cưới cho bộ phận pháp y của sở cảnh sát bang, nhưng chắc phải mất một thời gian nữa họ mới có thể cho cô biết liệu đoạn video có chút bằng chứng nào không. Tại sao cô lại tiết lộ quá nhiều điều cho Reid như vậy nhỉ? Cô ước gì có thể rút lại những gì mình đã nói. Sau bữa trưa, cô đã rất mừng khi thấy bóng lưng anh rời đi. Văn phòng của cô bắt đầu ngập trong những tờ giấy ghi chú được dán trên bảng tin, với những phác họa về hai vụ án mà cô đang điều tra. Cha cô chắc sẽ lên cơn đau tim nếu biết cô bày bừa như thế này với văn phòng gọn gàng đến mức hoàn hảo của mình. Sau khi ông nghỉ hưu, mọi thứ đã thay đổi. Việc cuối cùng cô làm là đặt một tấm hình lên bàn làm việc. Đó là tấm hình hồi cô khoảng ba tuổi, đứng giữa cha và mẹ trên thềm căn nhà gỗ. Cả ba cùng mỉm cười, trông có vẻ rất hạnh phúc. Jane chạm vào gương mặt mẹ mình. Bây giờ mẹ đang ở đâu? Đã qua đời như cha nói sao? Cô đã cố tìm bà suốt nhiều năm, nhưng vô vọng. Cha bảo cô đừng bận tâm nữa, nhưng chuyện về mẹ như một cái gai mưng mủ trong kẽ móng tay, cô bắt buộc phải để tâm và lôi nó ra. Sẽ có ngày cô tìm được bà. Hôm nay là một ngày dài. Khi cô đang chuẩn bị về nhà thì nhận được điện thoại từ Sở Khoa học Pháp Y Alabama. Cuối cùng cũng đến. “Cảnh sát trưởng Hardy nghe.” “Chúng tôi đã thực hiện khám nghiệm tử thi cho phần thân thi thể mà cô gửi đến chiều nay, thưa cảnh sát trưởng. Tôi sẽ gửi kết quả cho cô và thanh tra viên của cô, nhưng tôi nghĩ mình nên gọi trực tiếp cho cô. Chúng tôi đã có kết quả DNA ngay khi vừa kiểm tra. Tôi đã gửi kết quả đó qua email cho cô rồi.” Có kết quả DNA rồi à? Cô đã dám chắc họ sẽ không thể tìm ra danh tính của nạn nhân cơ đấy. “Cảm ơn anh, mọi người vất vả rồi. Anh có thể nói cho tôi biết nguyên nhân tử vong chứ?” “Chúng tôi không thể đưa ra kết quả chắc chắn khi không có đầu của thi thể. Nhưng dựa trên những vết cắt và bầm tính, tôi cho rằng nạn nhân bị người ta dùng gậy golf đánh tới chết.” “Nạn nhân bị phân thây sau khi đã tử vong à?” “Đúng thế.” Cô không đặt câu hỏi gì thêm nữa mà chỉ cảm ơn rồi cúp máy. Bảy giờ tối, tòa thị chính tĩnh lặng. Hầu hết tất cả nhân viên đều đã ra về lúc năm giờ. Mặc dù sở cảnh sát chỉ có bốn sĩ quan khác ngoài cô, nhưng một hoặc hai người họ sẽ phải ở lại trực để nghe các cuộc gọi nếu được điều phối. Hy vọng đêm nay sẽ là một đêm yên tĩnh. Jane mở hòm thư đến và nhìn thấy báo cáo khám nghiệm tử thi. Nạn nhân là Gary Dawson. Gần đây, anh ta đã bị bắt giữ vì trộm tiền và thiết bị của ông chủ. Cô sẽ xem hồ sơ tạm giữ sau khi nói chuyện với người vợ góa của anh ta. Nhìn địa chỉ nhà thì anh chàng này sống ở Mobile. Cô lại tiếp tục xem báo cáo pháp y. Có hai điểm khiến cô chú ý. Một đồng nửa đô-la Kennedy được tìm thấy giấu ở phần trước của chiếc váy. Để làm gì nhỉ? Một tờ ghi chú đề Phá vỡ lời thề cũng được đính bên trong áo choàng. Tim cô đập dồn dập. Gã “anh hùng” tự phong à? Vì anh chàng Dawson này bị buộc tội phá vỡ lời thề, vậy có phải chiếc váy cưới ngụ ý anh ta đã phá vỡ lởi thề hôn nhân không? Ngoại tình chăng? Dáng người to lớn của thanh tra Boulter choán hết khung cửa trước khi bước vào phòng cô. “Sếp, cô ở lại muộn thế? Chúng ta đã có kết quả giám định pháp y rồi đấy.” “Họ gọi cho tôi rồi. Tôi đang xem đây. Chúng ta cần thông báo cho người vợ, để xem cô ấy có biết gì không.” Cô thấy ánh mắt sắc bén của Brian lóe lên, nhưng cậu ta không nói gì, có lẽ đã đoán được đây sẽ là nhiệm vụ của mình. Chẳng ai trong số họ thích nhiệm vụ khó khăn đó cả. “Cậu đã xem lưu ý về thứ được tìm thấy ở mặt trước của áo choàng và tờ ghi chú chưa?” Brian gật đầu, bước đến bàn để pha cà phê. “Lạ nhỉ? Có lẽ ông già, ông Alfie ấy, không đoán sai như tôi nghĩ. Có lẽ kẻ giết người đã cố tình bỏ thi thể ở đó để nó bị tìm thấy, như những gì ông ấy đã nói. Tôi đoán đầu và chân nạn nhân đã bị chặt bỏ để gây khó dễ trong quá trình xác minh danh tính, nhưng bất kỳ ai dù chỉ biết một chút về pháp y cũng hiểu kiểm tra DNA sẽ ra kết quả ngay, vì anh chàng này từng bị bắt giữ. Có lẽ kẻ giết người chỉ muốn trì hoãn việc xác minh danh tính chăng?” “Chắc thế. Tôi sẽ kiểm tra lại cái váy.” Cô nói Brian nghe về nhãn hiệu và tên trộm váy cưới. “Tôi đã thấy cậu đưa một cô bạn gái đến đó để mua đồ lót.” Brian cười toe toét. “Phụ nữ thích cửa hàng đó lắm.” Cà phê đã được pha xong. Cô đi quanh bàn để lấy cho Brian và mình mỗi người một cốc. “Mà sao cậu ở lại đây muộn vậy? Bị người ta cho leo cây à?” “Đúng thế đấy, chị tin nổi không? Các du khách.” Anh lắc đầu. “Họ phản ứng như thể Dwayne Johnson thật sự đi ra bãi biển và mời một cô nàng lạ hoắc lạ huơ hẹn hò với mình vậy.” “Trông cậu cũng giống lắm.” Brian đưa bàn tay to lớn lên xoa đầu. “Ít nhất thì tôi có tóc nhé.” Cô mỉm cười, đưa cho anh cốc cà phê. “Của cậu đây.” Khi mới vào làm việc, Brian đã mấy lần ngỏ ý muốn mời cô đi chơi nhưng cô đều từ chối, khiến cậu ấy rẽ sang hướng khác. Khi hai mươi lăm tuổi, cô chưa sẵn sàng cho một mối quan hệ, nhưng giờ đã gần ba mươi, cô bắt đầu để ý tới những anh chàng có vẻ ngoài đẹp mã. Brian là một hình mẫu lý tưởng. Nhưng nguy hiểm. Quá nguy hiểm. Cô không dám chắc chỉ có một người phụ nữ có đủ cho cậu ấy hay không. Cô nhấp một ngụm cà phê và quay ra cửa. “Chúng ta đi mua bánh mỳ kẹp đi, sau đó cùng đến nhà nạn nhân.” “Chị cũng đi à?” “Nghe tin từ một người phụ nữ chắc sẽ khiến bà góa dễ chịu hơn. Tôi khá chắc cậu không muốn làm việc này một mình.” Brian nở một nụ cười với cô, nhưng cô không dễ siêu lòng đến thế. Hình ảnh anh chàng Reid cáu kỉnh bỗng nảy ra trong tâm trí. Cô nhíu mày. Sao cô lại nghĩ đến anh ta nhỉ? Cô vơ lấy túi của mình khi điện thoại đổ chuông. Đó là cuộc gọi của thị trưởng. “Xin chào, cô Lisa.” “Chuyện với Reid thế nào rồi?” Giọng Lisa hơi hồ hởi quá mức. “Khó xử. Một người dân bình thường không nên bám theo các vụ điều tra án mạng.” “Cháu đã xác định được danh tính của thi thể kia chưa?” “Bọn cháu có rồi.” Jane thuật lại cho bà ấy những gì được pháp y phát hiện. “Cháu đang chuẩn bị đi đến đó.” “Hy vọng là với Reid?” Jane nhăn mặt. “Anh ta đã bỏ đi từ mấy tiếng trước rồi.” “Kéo anh ta theo đi. Để anh ta thấy cháu điều tra nhanh như thế nào. Đây là một cơ hội tốt để gây ấn tượng mạnh đấy, Jane. Cô không muốn chúng ta bỏ lỡ cơ hội này.” Jane thở dài. “Được rồi, cháu sẽ gọi cho anh ta.” Cô kết thúc cuộc gọi và nói Brian nghe mệnh lệnh của thị trưởng. “Tôi sẽ nhắn cho anh ta sau khi chúng ta ăn xong. Nếu không có đủ thời gian, chắc anh ta phải chịu thua thôi.” CHƯƠNG TÁM Cô ngắm nhìn đường nét trên gương mặt của cậu con trai anh từ ghế trước. Will có vẻ là một đứa con ngoan, biết tôn trọng người khác và cư xử lễ phép. Jane đoán cậu bé khoảng chừng mười sáu tuổi, chắc Reid trông cũng y như thế ở tuổi này. Cô đậu xe đằng trước một ngôi nhà màu trắng sạch sẽ rồi liếc nhìn Brian, “sẵn sàng chưa?” “Tất nhiên rồi, sẵn sàng như bất cứ ai làm việc này.” Reid cất tiếng từ ghế sau. “Chờ đã. Đây là nhà Gary Dawson mà?” Ngực cô căng ra, cô nhìn chằm chằm vào Reid. “Anh biết anh ta à?” “Anh ta là người quay phim đã bị tôi cho thôi việc. Anh ta trộm đồ của tôi để trả nợ cờ bạc, nên tôi đã báo cảnh sát.” Hay lắm, hay lắm. Cô có luôn một nghi phạm tiềm năng ngồi trong xe với mình. “Vậy anh không thể vào trong được.” Hẳn anh ta cũng tự hiểu. Cô khởi động xe và bật quạt gió lên nấc cao hơn. “Tôi sẽ để điều hòa mở cho anh.” Anh nhìn vào mắt cô qua gương chiếu hậu. “Tôi biết rõ vợ anh ấy. Có lẽ cô ấy sẽ cảm thấy đỡ hơn khi được nghe tin từ người quen.” “Anh là nghi phạm. Tôi muốn anh ở lại trên xe.” Anh định mờ miệng phản đối, nhưng cô đã nhanh chóng quay sang Brian. “Muốn tôi đi trước không?” Brian nhăn mặt. “Vậy thì may cho tôi quá.” Reid đặt tay lên tay nắm cửa. “Tôi muốn đi.” Cô quay ngoắt lại. “Chỉ cần anh bước ra khỏi xe thì tôi sẽ lập tức bắt giữ anh và áp tải anh về sở để thẩm vấn đấy.” Đôi mắt giận dữ của anh trừng trừng nhìn cô, nhưng cuối cùng anh giơ tay lên. “Được thôi. Dù sao tôi cũng chưa từng gặp Gary kể từ khi anh ta bị bắt.” Cô không hề đáp lại và mở cửa bước ra ngoài. Cô thả Parker đang ở ghế sau và bước tới cánh cửa chính của ngôi nhà trệt cùng với đoàn tùy tùng phía sau. Chú chó sẽ luôn cảnh giác trước bất kỳ loại vũ khí nào được rút ra, còn Jane thì không biết người vợ liệu có liên quan tới vụ án mạng này hay không. Khoảng sân được trang trí đẹp mắt, gọn gàng, nhưng cánh cửa chớp màu xanh nước biển cũng như cửa chính đã đến lúc cần được sơn mới. Cô nhấn chuông cửa và lắng nghe tiếng bước chân qua âm thanh gọi mẹ yếu ớt của một đứa trẻ đang ở bên trong. Cuối cùng cánh cửa cũng mờ hé ra, để lộ một phần gương mặt của một người phụ nữ trẻ. Ít nhất, với một nửa gương mặt mà Jane có thể nhìn thấy thì đây là một người phụ nữ có mái tóc dài màu vàng và đôi mắt màu xanh lam. Jane giơ cao huy hiệu của mình. “Xin chào, tôi là Cảnh sát trưởng của cảng Pelican. Tôi có thể nói chuyện với cô một lát được không?” Cánh cửa được mở rộng hơn, cùng với tiếng trẻ con khóc cũng ồn ào hơn. “Cô có cần vào với con mình trước không? Tôi có thể đợi.” Khi cánh cửa được mở hẳn ra, Jane chợt hiểu lý do tại sao cô ấy lại tỏ vẻ đề phòng như thế. Một vết bầm lớn sưng to khiến hai mí mắt của cô ấy gần như dính vào nhau. Jane nhìn nhưng không nói gì cả. Người phụ nữ do dự một chút, rồi liếc nhìn Brian đang đứng sau lưng Jane. “Mời vào. Thằng bé không muốn đi ngủ. Tôi sẽ vào với con một lát.” Cô ấy để cửa mở và chạy vào một gian phòng khác. Jane bước vào bên trong, theo chân cô ấy vào một phòng khách gọn gàng và ngăn nắp bày chiếc sô pha bằng vải tuýt màu nâu và ghế bành màu lam ngọc. Brian và Parker theo sau. Jane ra hiệu cho chú chó ngồi xuống dưới chân mình. Người phụ nữ đi về phía hành lang, giọng đứa bẻ nhỏ dần lại. Khoảng chừng năm phút sau, Jane nghe thấy tiếng lách cách của chốt cửa, và bà Dawson trở lại hành lang. “Thằng bé đang xem sách,” cô ấy nói. “Cháu mấy tuổi rồi?” “Bốn. Cô vừa nói tên cô là gì ấy nhỉ?” “Tôi vẫn chưa giới thiệu. Tôi là Cảnh sát trường Hardy của Cảng Pelican. Còn cô là?” Jane vẫn đứng thẳng. “Fanny Dawson.” “Cô và con trai sống một mình ở đây à?” “Cả chồng tôi, Gary nữa.” Dawson đưa tay chạm vào con mắt bầm tím, sưng tấy của mình. Bàn tay Jane cuộn lại thành nắm đấm. “Cô gặp anh ấy lần cuối khi nào?” “Ừm, có lẽ là Chủ nhật?” Vậy là ba ngày trước. “Cô có gặp anh ấy hôm thứ Hai vừa rồi không?” “Tôi đã cố gọi cho chồng, nhưng cuộc gọi chuyển thẳng sang hộp thư thoại. Anh... anh ấy có chút vấn đề.” “Anh ta là người đã khiến mắt cô như thế à?” Brian hỏi. Fanny gật đầu. “Nhưng đó không phải lỗi của anh ấy. Do tôi đã chọc tức anh ấy mà.” Liệu có phải hành vi bạo lực của Gary là nguyên do dẫn đến cái chết của anh ta? “Đàn ông không bao giờ nên đánh phụ nữ. Anh ta đã thề rằng sẽ yêu thương và trân trọng cô, chứ không phải đánh đập cô.” Jane giơ tay lên trước khi Fanny kịp phản đối. “Hành vi bạo hành của anh ta không phải vấn đề tôi muốn nói đến. Chồng cô có kẻ thù nào không?” Môi Fanny run rẩy. “Tôi không biết ai như thế cả. Tại sao cô lại hỏi những câu như thế? Anh ấy vẫn ổn mà, phải không?” “Tôi e là không, Fanny ạ. Thi thể của anh ấy đã được tìm thấy vào sáng ngày hôm qua ở Cảng Pelican.” Đôi mắt xanh dương của Fanny mở to và ướt đẫm. “Không thể nào là anh ấy được. Tôi muốn gặp anh ấy.” Điều cuối cùng Jane muốn nói cho cô ấy nghe là tình trạng của thi thể. Nhưng có lẽ cô không nên làm vậy. Ít nhất thì bây giờ chưa phải lúc. “Chúng tôi đã xác định được danh tính nhờ DNA của anh ấy. Gần đây, anh ấy đã từng bị bắt nên thông tin vẫn lưu trong cơ sở dữ liệu. Tôi e rằng không có nhầm lẫn gì ở đây đâu.” “Anh... anh ấy bị giết ư? Cô đã hỏi về kẻ thù. Vậy chắc chắn anh ấy bị sát hại rồi. Bị bắn, hay bị đâm?” """