"
Minh Đạo Nhân Sinh - Michael Puett PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Minh Đạo Nhân Sinh - Michael Puett PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
THÔNG TIN EBOOK
Tên sách
The Path
MINH ĐẠO NHÂN SINH
Tác giả
Michael Puett & Christine Gross-Loh
Dịch giả
Bùi Trần Ca Dao
Thể loại
Kỹ năng sống
Phát hành
FIRST NEWS
Nhà Xuất Bản
NXB TP HCM
Ebook
2021 kindlekobovn
2021 kindlekobovn
—★—
Mục lục
Lời tựa
Lời nói đầu
1. Thời đại tự mãn
2. Thời đại triết học
3. Về các mối quan hệ: Khổng tử và các lễ nghi “như thể” 4. Về những quyết định: Mạnh tử và thế giới thất thường 5. Về ảnh hưởng: Lão tử và việc tạo tác các thế giới
6. Về sức sống: Nội nghiệp* và thần hóa
7. Về tính tự nhiên: Trang tử và một thế giới biến đổi 8. Về tính nhân văn: Tuân tử và sự áp đặt khuôn mẫu lên thế giới 9. Kỷ nguyên của khả năng
Các nguồn tham khảo và đọc thêm
“Nhân năng hoằng Đạo, phi Đạo hoằng nhân.”
(“Người ta có thể làm cho đạo rộng lớn lên, nhưng đạo không làm cho con người rộng lớn được.”*)
- Luận ngữ, Khổng Tử
* Luận ngữ, thiên thứ 15, bài 28. Nghĩa là: Con người chủ động, làm cho đạo sáng thêm, rộng thêm được; nếu con người bị động, cứ cố chấp, giữ đúng đạo thì đạo chỉ làm cho con người hóa hẹp hòi thôi. Trách nhiệm ở người chứ không phải đạo. (Tất cả phần giải thích các câu nói của Khổng Tử trong Luận Ngữ ở cuốn sách này có tham khảo từ bản dịch và chú giải của học giả Nguyễn Hiến Lê trong cuốn Luận Ngữ và Khổng Tử. Trân trọng cảm ơn ông vì những đóng góp cho văn hóa nước nhà. – First News)
(Tất cả những chú thích trong sách là của biên tập First News)
Một buổi sáng nắng giòn tan vào mùa thu năm 2013, tôi tham dự một lớp triết học Trung Quốc tại Đại học Harvard. Tôi có mặt ở trường để viết một bài cho báo Atlantic để lý giải vì sao một lớp dạy về chủ đề phức tạp như vậy lại trở thành lớp phổ biến thứ ba ở trường này, đứng sau hai lựa
chọn dễ đoán được đó là kinh tế học và khoa học máy tính. Giáo sư Michael Puett, một quý ông cao lớn, tràn đầy năng lượng ở độ tuổi bốn mươi, đứng trên bục sân khấu tại Nhà hát Sanders giảng bài sôi nổi trước hơn bảy trăm sinh viên. Anh khá cừ khôi trong việc thực hiện các bài giảng hấp dẫn mà không cần bất kỳ ghi chú hay file trình chiếu nào – suốt năm mươi phút liền chỉ thuần nói và nói. Sinh viên không được yêu cầu đọc bài viết nào khác trừ những tác phẩm được dịch sang tiếng Anh của chính các triết gia: Luận ngữ của Khổng Tử, Đạo đức kinh, hay các trước tác của Mạnh Tử. Họ không cần phải có bất kỳ kiến thức tiền đề hay mối quan tâm gì trước với lịch sử hay triết học Trung Quốc; họ chỉ cần cởi mở và sẵn lòng gắn bó với các tác phẩm cổ xưa này. Lớp học này nổi tiếng bởi lời hứa táo bạo mà mỗi năm giáo sư đều cam kết vào ngày đầu khóa: “Nếu bạn nghiêm túc lĩnh hội những tư tưởng trong các tác phẩm này, chúng sẽ thay đổi cuộc đời bạn”.
Tôi lấy bằng tiến sĩ về lịch sử Đông Á tại Harvard, khi còn là học viên sau đại học, tôi từng tham gia giảng dạy cho các sinh viên đại học về triết học Trung Quốc. Thế nên tôi chẳng xa lạ gì các tác phẩm ấy. Nhưng khi nghe Michael giảng ngày hôm đó và suốt những tuần tiếp theo, tôi thấy anh đã đưa được những tư tưởng này vào cuộc sống theo cách mà trước giờ tôi chưa từng trải nghiệm. Anh yêu cầu sinh viên không phải chỉ đánh vật với ý tưởng của các nhà tư tưởng mà còn phải để cho những ý tưởng ấy thách thức những giả định cơ bản của họ về chính mình và về thế giới họ đang sống.
Michael giảng về triết học Trung Quốc tại các trường đại học và tổ chức khác trên toàn thế giới. Sau mỗi bài nói chuyện, mọi người luôn tìm đến anh, thiết tha muốn biết làm thế nào để có thể áp dụng những ý tưởng này vào cuộc sống của họ và các vấn đề thực tế như: mối quan hệ, nghề nghiệp, những mâu thuẫn trong gia đình. Đó là vì họ nhận ra những nguyên tắc này cho thấy một góc nhìn mới mẻ về một cuộc đời tốt đẹp và ý nghĩa là thế nào; một quan điểm mâu thuẫn với rất nhiều điều họ vẫn cho là đúng.
Đó là một cách nhìn đã tác động đến nhiều người theo hướng tốt đẹp hơn. Các sinh viên của Michael đã chia sẻ với tôi những câu chuyện rằng cuộc sống của họ đã thay đổi thế nào nhờ những tư tưởng này. Một số người bảo tôi họ đã thay đổi cách nhìn nhận về các mối quan hệ, bây giờ họ mới nhận ra rằng những hành động nhỏ nhất cũng gây ra một hiệu ứng lan tỏa tới bản thân họ và mọi người xung quanh. Như một sinh viên đã giải thích: “Giáo sư Puett đã mở ra cánh cửa đến với con đường khác biệt trong sự tương tác với thế giới quanh tôi, quá trình xử lý cảm xúc của tôi, kiến tạo bản thân tôi và cả những người khác, một cảm giác điềm tĩnh mà trước giờ tôi chưa từng cảm nhận được”.
Những người trẻ thành công được định vị để trở thành những nhà lãnh đạo tương lai trong bất kỳ nghề nghiệp nào họ theo đuổi ấy cho tôi biết những tư tưởng này đã thay đổi cách họ tiếp cận với các quyết định lớn trong cuộc sống và quỹ đạo riêng của họ như thế nào. Dù họ quyết định đi theo con đường tài chính hay nhân loại học, luật hay y học, thì những tư tưởng này cũng trang bị cho họ những công cụ khác và một thế giới quan khác với những gì họ từng biết, mở ra một cánh cửa mới về mục đích của cuộc sống và những khả năng vô hạn của nó. Một sinh viên đã nói với tôi: “Quá dễ để có tư duy rằng bạn đang xây dựng một mục tiêu tối hậu nào đó và đang từng bước leo đến kết cuộc tốt đẹp của một giấc mơ – dù mục tiêu đó là một danh vọng hay vị trí trong cuộc đời. Nhưng đây thật sự là một thông điệp có sức ảnh hưởng mạnh mẽ: khi sống theo một cách khác, bạn sẽ tự khai mở cho mình những khả năng mà bạn không bao giờ tưởng tượng là mình có thể”.
Và không phải chỉ những tác phẩm triết học ấy thôi đã định hình được các sinh viên. Chính bản thân Michael mới là nguồn cảm hứng. Anh được biết đến bởi sự ân cần, khiêm tốn và tận tâm giúp sinh viên của mình phát triển: những đặc điểm khởi nguồn trực tiếp từ hàng thập niên đắm chìm trong tư tưởng Trung Quốc của anh. “Thầy là hiện thân hoàn hảo cho những bài giảng”, một sinh viên đã nói.
Vậy trong những triết lý ấy có gì mà gây tác động to lớn đến vậy với những người nghiên cứu chúng? Không có tư tưởng nào trong số đó bảo bạn “chấp nhận và trân trọng bản thân”, “tìm ra chính mình”, hay phải làm theo một loạt chỉ dẫn để đạt được mục tiêu cụ thể. Trên thực tế, chúng chính là thứ đối chọi với kiểu tư duy đó. Chúng không cụ thể, không ra lệnh, cũng không đao to búa lớn. Thay vào đó, chúng thay đổi từ nền tảng theo những cách không thể đoán định hay hình dung ra trước. Một sinh
viên lý giải rằng thật nhẹ nhõm biết bao khi nhận ra những gì chúng ta nghĩ là vốn dĩ và đã ăn sâu một cách thâm căn cố đế trong đầu thật ra không phải là vậy: “Bạn có thể áp dụng những thói quen mới và thật sự thay đổi cách bạn tiếp nhận thế giới, phản ứng lại với nó và tương tác với người khác. Tôi đã học được rằng có thể sử dụng sức mạnh của thói quen, hay 'lễ nghi', để đạt được những điều mà bạn không bao giờ nghĩ là mình có thể, dù bạn nghĩ mình là ai đi nữa”.
Từ lâu, chúng ta đã nhìn nhận tư tưởng của người Trung Quốc qua những lăng kính sai lầm, có xu hướng cho rằng nó không thể thoát ra khỏi “một thế giới truyền thống” và vì thế cứ nghĩ nó chẳng liên quan gì đến cuộc sống đương đại của chúng ta. Nhưng như những sinh viên này có thể chứng thực, lời dạy của các triết gia Trung Quốc cổ đại buộc chúng ta phải đặt nghi vấn nhiều niềm tin mà chúng ta vẫn cho là hiển nhiên. Những tư tưởng của các vị về cách con người tiếp cận thế giới của hai ngàn năm trước – rằng làm thế nào chúng ta có thể gắn kết với người khác, đưa ra quyết định, đối phó với những thăng trầm cuộc sống, cố gây ảnh hưởng lên người khác, chọn lựa hướng đi cho đời mình – cũng phù hợp với ngày nay giống như hai ngàn năm trước vậy. Thực tế, chúng còn thích hợp hơn bao giờ hết.
Michael và tôi nhận ra rằng có thể đưa những tư tưởng này đến với tất cả chúng ta, và đó là lý do cuốn sách này ra đời. Ở những trang tiếp theo, chúng tôi sẽ chỉ ra cho bạn thấy lời dạy của các triết gia Trung Quốc có thể khiến bạn suy nghĩ lại về bản thân và tương lai của mình như thế nào.
- Christine Gross-Loh
LỜI NÓI ĐẦU
K
hổng Tử. Mạnh Tử. Lão Tử. Trang Tử. Tuân Tử. Có thể bạn đã biết đến một số trong những tư tưởng gia này; cũng có những người hẳn bạn chưa từng nghe nói tới. Một viên quan trở thành thầy dạy học, dành cả cuộc đời để truyền dạy kiến thức cho một nhóm nhỏ môn đệ. Một người khác chu du từ vùng này sang vùng khác để cố vấn cho các quan lại địa phương. Một người nữa sau này được tôn là thần thánh. Cuộc đời và những trước tác của họ dường như đã quá mơ hồ và xa lạ với cuộc sống hiện đại của chúng ta.
Rốt cuộc, những triết gia Trung Quốc sống hơn hai ngàn năm trước có thể dạy gì cho chúng ta về nghệ thuật sống? Nếu bạn từng nghĩ về họ, thì hẳn bạn nghĩ họ là những bậc hiền triết điềm tĩnh, phun châu nhả ngọc ra những lời vô vị hay ho về sự hài hòa và tự nhiên. Trong khi đó, ngày nay chúng ta hướng đến cuộc sống hiện đại, năng động, tự do. Giá trị, phong tục, công nghệ và văn hóa của chúng ta hoàn toàn khác họ.
Nếu chúng tôi nói với bạn rằng mỗi người trong số những nhà tư tưởng này lại đưa ra một quan điểm sâu sắc khác thường về cách trở thành một con người tốt hơn và tạo ra một thế giới tốt hơn thì sao? Nếu chúng tôi nói với bạn rằng khi bạn nghiêm túc tiếp thu chúng, những tư tưởng trong các tác phẩm Trung Quốc kinh điển khác thường này có khả năng biến đổi cách bạn sống thì sao? Đó chính là chủ đề trọng tâm của cuốn sách này, rằng lời dạy của các triết gia Trung Quốc cổ đại đối với các vấn đề rất
giống với chúng ta hiện nay sẽ cho ta những quan điểm hoàn toàn mới mẻ về cách để sống một cuộc đời tốt đẹp.
Hầu hết chúng ta đều nghĩ mình đang làm đúng khi nhìn vào nội tâm, tìm ra chính mình và định đoạt cuộc đời chúng ta nên trở thành thế nào. Chúng ta tìm ra loại nghề nghiệp nào phù hợp nhất với tính cách và khuynh hướng của chúng ta. Chúng ta nghĩ về kiểu người nào sẽ phù hợp với mình. Và chúng ta nghĩ rằng nếu tìm ra những điều ấy – con người thật sự của chúng ta, nghề nghiệp mà chúng ta định theo đuổi và người bạn đời phù hợp – thì cuộc đời sẽ viên mãn. Chúng ta sẽ nuôi dưỡng con người bản chất của mình và lập ra một kế hoạch để được hạnh phúc, thịnh vượng và thỏa mãn bản thân.
Dù chúng ta có nhận ra hay không, thì quan điểm về cách xây dựng một cuộc sống tốt đẹp như thế này đã khởi nguyên từ lịch sử, cụ thể là tư tưởng của những người theo thuyết Calvin* về vận mệnh tiền định thế kỷ 16, một “người được chọn”** và một Thiên Chúa sắp đặt kế hoạch cho từng người để đi theo. Những người theo thuyết Calvin chối bỏ các lễ nghi mà họ cho là rỗng tuếch và cứng nhắc, thay vào đó họ đề cao niềm tin thành khẩn vào Đấng Tối Cao này. Ngày nay, chúng ta không còn suy nghĩ theo kiểu số mệnh tiền định, theo kiểu “người được chọn”, thậm chí một số người trong chúng ta không còn nghĩ đến Thiên Chúa nữa. Nhưng phần lớn suy nghĩ của chúng ta hiện nay đều là di sản của những quan điểm Tin Lành thuở ban đầu ấy.
* Thần học Calvin còn được biết đến là “Thần học cải cách”, được đặt theo tên của nhà thần học người Pháp Jean Calvin (1509 – 1564). Thần học Calvin hướng đến quyền tể trị tuyệt đối của Đức Chúa Trời và tin rằng Kinh thánh có thẩm quyền trên mọi vấn đề của đức tin. Năm luận điểm của
Thần học Calvin bao gồm: Sa ngã toàn diện, Lựa chọn vô điều kiện, Sự chuộc tội có giới hạn, Ân điểm bất khả kháng, Sự gìn giữ các Thánh đồ. ** Luận điểm “Lựa chọn vô điều kiện” của Thần học Calvin cho rằng Thiên Chúa lựa chọn (không có điều kiện) một số người để cứu rỗi và định trước cho họ một số phận.
Nhiều người hiện nay tin rằng mỗi người nên là một cá nhân duy nhất hiểu rõ chính mình. Chúng ta hiện tin rằng ta nên xác tín và trung thành với một chân lý, không phải một vị thần tối cao mà là với chính bản thân ta. Chúng ta mong muốn được sống theo đúng bản thân mình.
Nhưng sẽ ra sao nếu những tư tưởng mà chúng ta tin rằng giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của mình thật ra lại đang giới hạn chúng ta? Chúng ta thường liên tưởng triết học với những tư tưởng trừu tượng, thậm chí vô tích sự. Nhưng sức mạnh của các nhà tư tưởng trong cuốn sách này nằm ở chỗ họ thường minh họa cho những lời dạy của mình bằng các khía cạnh bình thường, cụ thể trong cuộc sống hằng ngày. Họ tin rằng chính từ cấp độ thường ngày ấy lại dễ dẫn đến những thay đổi lớn, và một cuộc đời viên mãn sẽ bắt đầu.
Khi chúng tôi nghiên cứu những nhà tư tưởng này, hy vọng của chúng tôi là bạn sẽ cho phép họ thách thức một số quan niệm mà bạn xem trọng nhất. Một số tư tưởng của họ có thể mang tính trực giác; và những tư tưởng khác thì không như thế. Chúng tôi không nhất thiết mong đợi rằng bạn sẽ đồng ý với mọi thứ bạn đọc. Nhưng chính cuộc gặp gỡ với những tư tưởng quá khác biệt so với tư tưởng của chúng ta sẽ giúp ta nhận ra rằng những giả định của chúng ta về việc sống thế nào cho tốt thật ra chỉ là một trong số rất nhiều cách khác nhau. Và một khi đã nhận ra điều đó, bạn không thể quay về cuộc sống trước đây của mình mà không có sự thay đổi nào.
1
THỜI ĐẠI TỰ MÃN
M
ột tầm nhìn chắc chắn thuộc về lịch sử trở thành lẽ phải thông thường. Con người sống trong cái mà chúng ta gọi là xã hội truyền thống mãi cho đến thế kỷ 19. Trong những xã hội ấy, người ta luôn được bảo phải làm những gì. Họ sinh ra trong một cấu trúc xã hội có sẵn, và chính cấu trúc xã hội ấy quyết định cuộc đời họ: “Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”. Dòng dõi của họ quyết định việc họ có bao nhiêu tiền bạc và quyền lực, nói chung, quỹ đạo của cuộc đời họ đã được sắp đặt từ khi chào đời.
Ở châu Âu vào thế kỷ 19, cuối cùng người ta cũng thoát khỏi những ràng buộc này. Lần đầu tiên, chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta đều là những cá nhân biết suy nghĩ bằng lý trí. Chúng ta có thể tự quyết định và kiểm soát cuộc đời mình. Là những sinh vật có lý trí, chúng ta có thể tạo ra nhiều cơ hội chưa từng có. Với những nhận thức này, thế giới hiện đại đã ra đời, câu chuyện được diễn đạt như thế.
Nhưng nếu một phần trong thế giới chúng ta được thoát ly, thì các nền văn hóa khác đã bị bỏ lại phía sau – hoặc chúng ta đã tin là vậy. Đối với nhiều người, Trung Quốc cổ điển đại diện cho xã hội truyền thống cơ bản, trong đó mọi người được yêu cầu phải tuân thủ nghiêm ngặt những vai trò xã hội đã được xác định để sống trong một thế giới có trật tự và phân tầng rõ rệt.
Như vậy, đó hẳn là một thế giới không có gì để dạy cho chúng ta.
Tất nhiên, đôi khi ta cũng đọc được những câu chuyện đã được lãng mạn hóa về các xã hội truyền thống nói chung và Trung Quốc nói riêng, rằng: Ngày nay chúng ta sống xa cách nhau, còn trong xã hội theo lề thói cũ, người ta lại sống hòa hợp với vũ trụ. Chúng ta đã thoát ly thế giới tự nhiên, tìm cách kiểm soát và thống trị nó, còn con người trong xã hội cũ đã luôn cố sống sao cho phù hợp với các khuôn mẫu của tự nhiên.
Quan điểm ủy mị về xã hội cũ này cũng chẳng dạy được gì cho chúng ta. Nó chỉ đơn giản là biến cái gọi là xã hội kiểu cũ thành một thứ gì đó na ná những mảnh vụn hoài niệm luyến tiếc quá khứ. Chúng ta có thể đi đến viện bảo tàng, nhìn thấy một xác ướp Ai Cập và ta sẽ nghĩ: Thú vị làm sao. Với một món đồ tạo tác cổ đại của Trung Quốc? Trông cổ quái làm sao. Nó gợi tò mò để ta muốn ngắm nghía, nhưng chúng ta sẽ chẳng muốn quay lại thời đại đó – về cái thế giới mà món đồ đó đại diện. Chúng ta không muốn sống ở đó hay học hỏi bất cứ thứ gì từ những thế giới truyền thống ấy cả, bởi vì họ không hiện đại. Chúng ta mới là người khám phá ra mọi thứ, chứ không phải họ.
Nhưng như bạn sắp được biết ngay thôi, rằng nhiều định kiến của chúng ta về những xã hội “truyền thống” này là hoàn toàn sai lầm. Và chúng ta có thể học hỏi nhiều điều từ quá khứ.
Mối nguy trong cách nhìn lịch sử của chúng ta không chỉ đơn thuần nằm ở chỗ nó đã khiến chúng ta gạt bỏ những sự tồn tại của con người chỉ bởi không còn phù hợp, mà nó còn khiến chúng ta nghĩ rằng những tư tưởng đang chiếm ưu thế hiện nay là những tư tưởng duy nhất khuyến khích người ta tự quyết định cuộc đời mình; và do đó, chúng là những tư tưởng duy nhất đúng.
Thực ra đã có hàng loạt quan điểm về việc con người có thể tự tạo dựng cuộc đời mình như thế nào. Một khi nhận ra điều đó, chúng ta có thể thấy
nó thật sự “hiện đại” đến thế nào: Một thể văn tường thuật vượt trội giữa nhiều thể loại, được xây dựng ở một thời gian và không gian đặc trưng. Cả một thế giới tư tưởng nhờ đó mà trở thành có hiệu lực với chúng ta – một thế giới sẽ thách thức một vài huyền thoại mà chúng ta yêu mến nhất.
Huyền thoại #1: Chúng ta đang sống trong một thời kỳ tự do không giống bất kỳ thế hệ nào trước đây
Hầu hết chúng ta nghĩ về chính mình như là một sự tự do về bản chất, tự do theo những kiểu mà tổ tiên chúng ta không có được. Sau khi phương Tây thoát ly xã hội cũ vào thế kỷ 19, chúng ta cuối cùng đã có khả năng tự quyết định cách tổ chức thế giới. Suốt hai thế kỷ sau đó, chúng ta vật lộn với các hệ tư tưởng cạnh tranh nhau: chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản dân chủ. Và khi tất cả các tư tưởng đó, trừ một, đã gần như bị mất tín nhiệm, thì chúng ta cuối cùng đã đi đến “tận cùng của lịch sử”. Với sự sụp đổ của Bức tường Berlin vào năm 1989, chủ nghĩa tân tự do dường như đã trở thành con đường đúng đắn duy nhất để cấu trúc thế giới – con đường thích hợp nhất giúp cho loài người trở nên thịnh vượng và phồn vinh.
Nhưng khi đó chúng ta làm gì với những nỗi bất hạnh, rối loạn nhân cách ái kỷ và những nỗi lo âu đang tràn dâng trong thế giới phát triển này? Chúng ta được bảo rằng cứ làm việc chăm chỉ sẽ dẫn đến thành công, nhưng khoảng cách giàu nghèo vẫn gia tăng khủng khiếp, còn mức dịch chuyển xã hội*lại trên đà suy tàn. Chúng ta được trang bị tất cả các loại thiết bị hấp dẫn và ấn tượng, chúng ta đã đạt được những tiến bộ y tế chưa từng có, nhưng chúng ta cũng phải đối mặt với những cuộc khủng hoảng môi trường và nhân đạo ở quy mô đáng sợ. Vài thập niên gần đây, chủ nghĩa lạc quan vĩ đại của chúng ta đã biến mất. Chúng ta không còn tự tin rằng mình đang đi đúng đường để tạo dựng nên thế giới của mình.
* Social mobility, còn gọi là di động xã hội, cơ động xã hội, là khái niệm xã hội học dùng để chỉ sự chuyển động của những cá nhân, gia đình, nhóm xã hội trong cơ cấu xã hội và hệ thống xã hội. Di động xã hội liên quan đến sự vận động của con người từ một vị trí xã hội này đến một vị trí xã hội khác trong hệ thống phân tầng xã hội.
Vậy, chúng ta đã hiểu được bao nhiêu? Các nhà sử học sau này liệu có nhìn nhận thời đại chúng ta là một thời kỳ thịnh vượng, bình đẳng, tự do và hạnh phúc? Hay thay vào đó, họ sẽ xem giai đoạn đầu thế kỷ 21 là một thời đại tự mãn: một thời kỳ con người không có được hạnh phúc và sự mãn nguyện; khi họ phải chứng kiến những cuộc khủng hoảng ngày càng tăng nhưng không thể nào phản ứng lại và cảm thấy không có con đường thay thế nào là khả dĩ?
Các tác phẩm triết học Trung Quốc được nói đến trong sách này sẽ cung cấp những con đường thay thế cho Thời đại Tự mãn này của chúng ta. Nhưng chúng không phải là những hệ tư tưởng chặt chẽ có thể thay thế cho, ví dụ, chế độ dân chủ. Đúng hơn là, chúng là những quan niệm khác thường về cái tôi và vị trí của cái tôi trong thế giới này. Nhiều quan niệm trong số ấy đã thực sự được phát triển trong sự đối lập với quan niệm sống theo bất kỳ hệ thống tư tưởng phổ quát nào.
Từ khoảng năm 600 đến năm 200 trước Công nguyên, một cơn bùng nổ các trào lưu triết học và tôn giáo trên khắp lục địa Á – Âu đã mở rộng tầm nhìn về sự phồn thịnh của con người. Trong giai đoạn được gọi là Thời đại Trục** này, nhiều tư tưởng sinh ra ở Hy Lạp cũng xuất hiện ở Trung Quốc và ngược lại. Thật ra, như chúng ta sẽ thấy, một số niềm tin khởi sinh ở Trung Quốc rất giống với những niềm tin phổ biến ở phương Tây ngày nay. Nhưng ở Trung Quốc, những quan điểm như thế đã thoái trào, trong
khi những tư tưởng khác nổi lên theo chiều đối lập, đưa ra tranh luận về một con đường rất khác để đi đến cuộc đời tốt đẹp.
** Axial Age, Thời đại Trục, là một thuật ngữ triết học được đặt ra bởi triết gia người Đức Kark Jaspers (1883 – 1969), có nghĩa là thời đại chủ chốt, dùng để mô tả giai đoạn từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 2 TCN. Đi ngược lại truyền thống châu Âu vốn lấy sự ra đời của Chúa Jesus làm “trục” của lịch sử thế giới, Jaspers cho rằng giai đoạn sáu thế kỷ này đã xuất hiện sự đột phá về ý thức lịch sử tại ba thế giới cổ đại là phương Tây, Ấn Độ và Trung Hoa, tạo nên khuôn khổ chung cho con người ngày nay. Jaspers dẫn chứng cho thời đại này với sự ra đời của vô số các triết gia, các nhà tu hành lỗi lạc ở cả ba thế giới cổ đại, với đặc điểm chung là con người có ý thức về sự tồn tại, về chính mình và về các giới hạn, biết đặt ra câu hỏi triệt để, hướng tới giải phóng và giải thoát.
Không nên coi bất cứ quan điểm nào chúng ta đang xem xét là quan điểm “của người Trung Quốc” đối lập với quan điểm “của người phương Tây”, giống như chúng ta không nên coi những tư tưởng truyền thống như là một sự đối lập với những tư tưởng hiện đại vậy. Khi tìm hiểu những quan niệm này, chúng ta sẽ thấy rằng từ rất lâu trước thời kỳ hiện đại, người ta không chỉ đã tranh luận xem đâu là cách tốt nhất để tổ chức thế giới, mà họ còn đã nghĩ ra những phương án lựa chọn chân chính về việc sống sao cho tốt.
Huyền thoại #2: Chúng ta biết cách xác định phương hướng cho đời mình
Ở phương Tây, khi bắt đầu lập kế hoạch cho hạnh phúc và thịnh vượng, chúng ta được dạy phải dựa vào lý trí, phải tự tin rằng ta có thể đạt đến một giải pháp nếu tính toán cẩn thận. Đối mặt với sự bất định của cuộc sống, chúng ta vẫn thoải mái tin rằng bằng cách vượt qua được cảm xúc và thiên
kiến, đồng thời biến kinh nghiệm thành dữ liệu đo lường được, thì chúng ta có thể nắm lấy cơ hội và thách thức số phận. Cứ xem cách tiếp cận phổ biến nhất của chúng ta với những tình huống tiến thoái lưỡng nan liên quan đến đạo đức và luân lý: Đặt ra một tình huống giả định điển hình, rồi xử lý nó một cách hợp lý. Trong thí nghiệm xe goòng nổi tiếng, chúng ta được bảo rằng hãy tưởng tượng mình đang ở một sân ga, nhìn thấy một chiếc xe goòng đang chạy theo đường ray. Chúng ta thấy nó sắp tông vào năm người đang ở trên đường ray phía trước. Nhưng nếu bẻ ghi, chúng ta có thể chuyển hướng chiếc xe sang một đường ray khác, nơi chỉ có một người đang nằm thôi. Chúng ta có để cho chiếc xe lao vào năm người đó không, hay bẻ ghi để cứu họ, và chủ động chọn cách giết một người đang nằm đó?
Làm sao mới đúng?
Câu hỏi này đã làm vướng bận các triết gia và các nhà đạo đức suốt cả đời. Vô số bài tiểu luận, thậm chí có một, hai cuốn sách gì đó, đã được viết ra về những ẩn ý trong thí nghiệm này. Kịch bản cho phép chúng ta tối giản việc ra quyết định xuống thành một tập hợp các dữ liệu đơn giản và một lựa chọn duy nhất. Hầu hết chúng ta đều nghĩ rằng đó là cách mà các quyết định được đưa ra.
Ở Trung Quốc cổ đại, người ta cũng từng thử thực hiện những thí nghiệm tư duy như vậy. Nhưng các nhà tư tưởng Trung Quốc không vận động ngầm. Họ xác định đây là một trò chơi trí tuệ tinh vi, bạn có thể chơi những trò chơi này cả ngày mà không ảnh hưởng gì đến cách sống hằng ngày. Không gì cả.
Cách chúng ta nghĩ mình đang sống thật ra không phải là cách ta sống. Cách chúng ta nghĩ mình đưa ra quyết định không phải là cách ta ra quyết định. Ngay cả nếu một ngày nào đó bạn đứng ở sân ga thật và thấy ai đó
sắp bị giết bởi một chiếc xe goòng đang lao tới, thì phản ứng của bạn cũng chẳng liên quan gì đến việc tính toán lý trí. Trong những tình huống ấy, cảm xúc và bản năng của chúng ta sẽ tiếp quản và chúng cũng dẫn dắt các quyết định ít tự phát hơn của chúng ta, ngay cả khi chúng ta nghĩ rằng mình đang rất thận trọng và lý trí: Tôi nên ăn tối món gì? Tôi nên sống ở đâu? Tôi nên kết hôn với ai?
Nhìn thấy những hạn chế của cách tiếp cận này, các triết gia Trung Quốc đã tìm kiếm những cách thay thế. Đối với họ, câu trả lời nằm ở việc mài giũa bản năng của chúng ta, rèn luyện cảm xúc và dấn thân vào một quá trình tự tu tự dưỡng không ngừng để cuối cùng, trong những khoảnh khắc vừa mang tính quyết định vừa trần tục, chúng ta sẽ phản ứng theo cách đúng đắn và hợp đạo đức đối với từng tình huống cụ thể. Thông qua những phản ứng đúng đắn đó, chúng ta gợi nên những phản ứng tích cực ở những người quanh ta. Theo cách này, những nhà tư tưởng này truyền đạt rằng mọi cuộc gặp gỡ và trải nghiệm đều có khả năng mang đến một cơ hội để linh hoạt kiến tạo một thế giới mới mẻ và tốt đẹp hơn.
Huyền thoại #3: Sự thật về việc chúng ta là ai nằm trong chính chúng ta
Sự sụp đổ của các tổ chức tôn giáo quý tộc cũ đã khiến người Thời đại Trục phải đi tìm những nguồn chân lý và ý nghĩa mới. Tương tự, trong thời đại của chính chúng ta, chúng ta cảm thấy mình đã được giải phóng khỏi những lối suy nghĩ cũ kỹ, hạn hẹp và đang tìm kiếm những nguồn ý nghĩa mới. Càng ngày chúng ta càng được yêu cầu phải tìm kiếm sự thật cao hơn bên trong bản thân. Hiện nay, mục tiêu mà một người cần tự thực hiện là tìm ra chính mình và sống cuộc đời mình một cách “chân chính”, theo một sự thật bên trong.
Sự nguy hiểm của điều này nằm ở niềm tin rằng tất cả chúng ta sẽ biết được “sự thật” của mình ngay khi nhìn thấy nó, và rồi giới hạn cuộc sống của chúng ta theo sự thật đó. Với tất cả sự đầu tư này trong việc tự định nghĩa bản thân, chúng ta có nguy cơ xây dựng tương lai của mình theo một ý nghĩa rất hạn hẹp của việc chúng ta là ai, tức chúng ta thấy đâu là điểm mạnh và điểm yếu của mình, điều gì chúng ta thích và không thích. Nhiều nhà tư tưởng Trung Quốc có thể nói rằng khi chúng ta làm vậy, chúng ta chỉ nhìn thấy một phần nhỏ tiềm năng của bản thân. Chúng ta trải qua một lượng giới hạn những khuynh hướng cảm xúc của mình trong một thời điểm và nơi chốn nhất định, rồi cho phép những khuynh hướng đó định nghĩa con người chúng ta mãi mãi. Với việc nghĩ về bản chất con người như là một sự bất biến, chúng ta đã lập tức hạn chế tiềm năng của mình.
Nhưng nhiều nhà tư tưởng Trung Quốc sẽ tranh luận rằng bạn không phải và không nên nghĩ mình là con người trước sau như một. Thử ví dụ, bạn nghĩ mình là một người có tính khí nóng nảy; một người dễ nổi giận. Các nhà tư tưởng mà chúng ta sắp gặp gỡ đây sẽ cãi lý rằng bạn không nên nói: “Ờ, tôi là thế đó” và cứ khăng khăng với bản thân về việc mình là ai. Như chúng ta sẽ thấy, có khi bạn vốn dĩ không phải là một người nóng nảy. Có lẽ bạn chỉ đơn giản là rơi vào đường mòn – những mô thức hành vi – mà bạn cho phép định nghĩa con người bạn nghĩ chính là mình. Sự thật là bạn cũng có tiềm năng để, chẳng hạn như, dịu dàng hoặc tha thứ, tương đương với khả năng nổi giận.
Những triết gia ấy sẽ thôi thúc chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta đều phức tạp và thay đổi liên tục. Mỗi người có nhiều khuynh hướng cảm xúc, mong muốn, cách phản ứng với thế giới khác nhau và thường mâu thuẫn nhau. Các khuynh hướng cảm xúc của chúng ta phát triển bằng cách nhìn ra bên ngoài, chứ không phải nhìn vào nội tâm. Chúng không được
luyện thành khi bạn lui về ẩn dật khỏi thế giới để thiền định hoặc nghỉ dưỡng. Trong thực tiễn, chúng được hình thành thông qua những gì bạn làm trong cuộc sống hằng ngày: cách bạn tương tác với người khác và các hoạt động bạn theo đuổi. Nói cách khác, chúng ta không chỉ là chúng ta – chúng ta có thể chủ động biến mình thành một người tốt hơn bất kỳ lúc nào.
Tất nhiên, đây không phải là nhiệm vụ đơn giản. Nó đòi hỏi chúng ta phải thay đổi cách suy nghĩ về lực của chính mình và về việc làm thế nào sự thay đổi thực sự diễn ra. Nó cũng không phải là một quá trình nhanh chóng: Thay đổi sẽ tăng dần dần thông qua sự kiên trì. Xuất phát từ việc tự rèn luyện bản thân để mở rộng tầm nhìn, chúng ta mới có thể nắm bắt được các yếu tố phức tạp (các mối quan hệ chúng ta đang có, bạn bè của chúng ta, công việc chúng ta đang làm và các hoàn cảnh sống khác) tạo nên bất kỳ tình huống cụ thể nào và dần biến đổi cách chúng ta tương tác với mọi thứ xung quanh. Tầm nhìn rộng lớn này cho phép chúng ta hành xử theo những đường lối dần dần mang lại sự thay đổi đích thực.
Mặc dù người ta bảo rằng tự do thực sự chỉ xuất phát từ việc khám phá ra bản chất chúng ta là ai, nhưng “khám phá” đó chính là cái đã đánh bẫy rất nhiều người trong Thời đại Tự mãn. Chúng ta chính là người đang cản đường bản thân mình.
Vậy có phải điều này nghĩa là chúng ta cần một kế hoạch hoàn toàn mới để sống và tổ chức thế giới? Trái lại, các triết gia chúng ta sẽ khám phá đây lại thường minh họa cho tư tưởng của mình bằng các khía cạnh trần tục trong cuộc sống hằng ngày, vì họ cho rằng đó là nơi sẽ diễn ra những thay đổi lớn. Theo sự dẫn dắt của họ, trong quyển sách này, chúng tôi sẽ đưa ra nhiều ví dụ thường ngày để mang tư tưởng của họ vào cuộc sống. Nhưng những nhà tư tưởng này không có ý dùng những minh họa đó
như lời khuyên mang tính giáo huấn, và chúng tôi cũng vậy. Đúng hơn, họ muốn cho thấy rằng chúng ta vốn đã làm nhiều điều trong số đó; chỉ là chúng ta làm chưa tốt thôi. Khi ngẫm nghĩ lại những khía cạnh này trong chính cuộc sống của chúng ta, ta sẽ hiểu những tư tưởng ấy thật sự thiết thực và khả thi đến thế nào.
Tiêu đề của cuốn sách này xuất phát từ một khái niệm mà các triết gia Trung Quốc thường gọi là Đạo. Đạo không phải là một “lý tưởng” hài hòa mà chúng ta phải gắng sức đi theo. Đúng hơn, Đạo là con đường mà chúng ta tiến lên liên tục thông qua các lựa chọn, hành động và các mối quan hệ của mình. Chúng ta tái tạo Đạo mỗi giây phút trong đời mình.
Chưa từng có ai đưa ra được một quan điểm thống nhất về Đạo mà tất cả các triết gia này đều tán thành. Họ không chỉ tranh luận chống lại các quy ước của chính xã hội họ, mà mỗi người còn đưa ra một quan điểm cực kỳ khác biệt về việc người ta có thể tạo ra con đường này chính xác đến mức nào. Nhưng họ đồng ý rằng bản thân quá trình xây dựng nên nó đã có tiềm năng vô tận để biến đổi chúng ta và thế giới mà chúng ta đang sống.
2
THỜI ĐẠI TRIẾT HỌC
C
ứ bước vào bất kỳ bảo tàng nghệ thuật lớn nào là bạn sẽ phải đối mặt với vô số phòng trưng bày: Lưỡng Hà, Ai Cập cổ đại, Hy Lạp cổ đại, Đế chế La Mã, châu Âu thời Trung cổ, châu Âu hiện đại. Mỗi phòng trưng bày chứa đầy những tạo tác tuyệt đẹp và khi đi qua chúng theo trình tự, bạn có thể vạch ra sự phát triển của nền văn minh. Sau đó, bạn có thể lang thang sang một khu khác nếu thích và vào các phòng trưng bày theo chủ đề các vùng đất như Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản.
Đây là xu hướng tìm hiểu về lịch sử thế giới của chúng ta – như những nền văn minh rời rạc tự phát triển theo thời gian.
Bây giờ, hãy hình dung một dạng bảo tàng khác, một kiểu bảo tàng được sắp xếp duy nhất theo kỷ nguyên. Chẳng hạn như, bạn có thể dạo qua một phòng trưng bày và nhìn thấy một đồng xu denarius bạc của La Mã, một đồng xu bằng đồng thiếc từ thời Hán của Trung Quốc và một đồng tiền in dập từ Đế chế Maurya của Ấn Độ. Bạn sẽ thấy ngay rằng ba nền văn minh lớn ấy đang trải qua những thay đổi quan trọng tương tự nhau cùng một lúc, bất chấp khoảng cách địa lý quá lớn giữa chúng: Mỗi nền văn minh đã trở thành một đế chế, và mỗi nền văn minh ấy đang vận hành một nền kinh tế dựa trên tiền xu. Hoặc bạn có thể vào một phòng trưng bày về giai đoạn đầu thời Trung cổ, vài thế kỷ sau đó, rồi nhìn thấy các thánh vật và các tàn tích kiến trúc của Kitô giáo, Hồi giáo và Phật giáo. Tất cả chúng sẽ đưa ra một sự thật sống động rằng cùng một thời gian trong lịch
sử, tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới đã lan tỏa, thiết lập vững chắc dọc theo các mạng lưới thương mại kết nối Trung Quốc, Ấn Độ và khu vực Địa Trung Hải. Việc này sẽ mô tả một chân dung chính xác hơn về thời kỳ lịch sử này, rằng châu Âu và châu Á vốn luôn luôn kết nối với nhau.
Nhiều người trong chúng ta nghĩ toàn cầu hóa là một hiện tượng riêng biệt của thế giới hiện đại, rằng công nghệ và ngành hàng không đã mở ra một kỷ nguyên mới nơi các xã hội khép kín cuối cùng cũng có thể kết nối với nhau. Nhưng nếu vậy thì tại sao Khổng Tử, Socrates và Đức Phật lại nói về những vấn đề triết học tương tự nhau vào cùng thời điểm hai ngàn năm trăm năm trước, dù ba vị sống ở những địa điểm hoàn toàn khác biệt, cách nhau rất xa và nói những ngôn ngữ hoàn toàn riêng biệt? Thực tế là những phát kiến, công nghệ và ý tưởng vốn đã di chuyển khắp toàn cầu trong một thời gian rất dài. Sự căng thẳng và chuyển động sôi động trong lục địa Á - Âu đã xác định phần lớn lịch sử của nó. Khổng Tử, Socrates và Đức Phật đã phản ứng rất tương đồng với những chất xúc tác xã hội.
Để hiểu tại sao tranh luận triết học lại nổi lên và tại sao những nhà tư tưởng này lại tập trung vào những vấn đề giống nhau như vậy, chúng ta phải hiểu được nền văn hóa sôi nổi và đầy sức sống nơi họ sống và phát triển các tư tưởng.
Người châu Âu thế kỷ 19 không phải những người đầu tiên nghĩ mình đang tách khỏi quá khứ và tạo ra một thời đại hoàn toàn mới. Những đợt bùng nổ tương tự đã xảy ra liên tục trong suốt lịch sử loài người. Một trong những đợt quan trọng nhất xảy ra trên khắp lục địa Á – Âu vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.
Trong một cơn chuyển mình mang tính cách mạng của lịch sử, các xã hội quý tộc thời đại đồ đồng đã thống trị lục địa Á - Âu suốt hai ngàn năm, vốn chuyển giao quyền lực và của cải theo quy chế cha truyền con nối, bắt
đầu vỡ vụn. Khi các nhà nước này sụp đổ, những hình thức thử nghiệm chính trị mới ra đời – từ chế độ dân chủ cấp tiến ở Hy Lạp đến các bộ máy quan lại và những hệ thống pháp luật ở Trung Quốc. Những hình thức quản lý nhà nước mới mẻ này đã giúp nuôi dưỡng sự khởi đầu của di động xã hội. Và giữa những biến đổi xã hội to lớn mà các nhà nước này tạo nên, các tổ chức tôn giáo gắn liền với các nền văn hóa quý tộc trước đó cũng sụp đổ theo.
Vì lẽ đó, các phong trào tôn giáo và triết học đã nảy nở mạnh mẽ khắp lục địa Á - Âu. Ở Hy Lạp cổ đại, đây là thời của Socrates, Plato và Aristotle, cũng như Pythagore và Orphics. Ở Ấn Độ, nó dẫn đến sự xuất hiện của Kỳ Na giáo* và quan trọng nhất là sự xuất hiện của Đức Phật. Và ở Trung Quốc, đây là thời của Khổng Tử, Mạnh Tử và các phong trào triết học, tôn giáo khác mà chúng ta sẽ gặp gỡ trong cuốn sách này. Tất cả đều cực kỳ hiện đại. Và tất cả đều suy ngẫm về những vấn đề xuất hiện khi một trật tự xã hội bị phá vỡ: Đâu là cách tốt nhất để điều hành một nhà nước? Làm thế nào xây dựng một thế giới đích thực nơi mọi người đều có cơ hội phát triển? Làm sao để tôi sống cuộc đời của mình? Tất cả họ đều vật lộn với những vấn đề rất giống chúng ta.
* Tức đạo Jaina, một tôn giáo của Ấn Độ ra đời cùng thời với Phật giáo, được sáng lập bởi Mahavir (540 TCN – 468 TCN). Triết lý và phương thức thực hành của đạo Jaina dựa vào nỗ lực bản thân để đến cõi Niết Bàn.
Thời đại Trục kéo dài cho đến khi hình thành các đế chế khổng lồ khắp lục địa Á - Âu những thế kỷ trước Công nguyên cuối cùng. Đáp lại các đế chế này, một loạt tôn giáo cứu rỗi đã lan rộng khắp Á - Âu trong những thế kỷ đầu tiên sau Công nguyên: Kitô giáo, Mani giáo**, Phật giáo Đại thừa, Đạo giáo, và sau nữa là Hồi giáo. Trong vòng vài thế kỷ, ở nhiều vùng của
lục địa Á - Âu, đặc biệt là châu Âu, thời kỳ thử nghiệm triết học và tôn giáo này chấm dứt sau sự sụp đổ của các đế chế và quay lại thiết chế quý tộc. ** Mani giáo (hay còn gọi Minh giáo, Mạt Ni giáo, Mâu Ni giáo), là một tôn giáo cổ của Iran, do Mani (216 – 277), người Ba Tư sáng lập vào khoảng thế kỷ 3, được truyền bá theo hai hướng Đông - Tây, cực thịnh một thời, có ảnh hưởng sâu rộng.
Những thay đổi xã hội của Thời đại Trục dẫn đến những sự phát triển tương tự nhau trên một khu vực địa lý rộng lớn. Không có bằng chứng nào cho thấy Khổng Tử, Đức Phật và các triết gia Hy Lạp có biết gì về nhau, càng không nói đến biết về tư tưởng của nhau. Tuy nhiên, vào khoảng năm 500 trước Công nguyên, những phong trào triết học lớn ở các vùng cách xa nhau của lục địa Á - Âu lại thống nhất trong niềm tin rằng thế giới phải thay đổi.
Trong suốt phần lớn thời đại đồ đồng, hầu hết mọi người đều hiểu rõ không có khả năng nào để thay đổi quỹ đạo cuộc đời họ, nhưng sự tăng trưởng di động xã hội lúc này đã gieo mầm cho suy nghĩ rằng cái gì dành cho một số người thì cũng có thể và nên dành cho tất cả mọi người, không chỉ cho thiểu số.
Đồng thời, người ta hiểu rằng mình đang sống trong giai đoạn đại khủng hoảng văn hóa. Thời kỳ được đánh dấu bằng chiến tranh liên miên, đặc biệt là ở Hy Lạp, miền bắc Ấn Độ và bình nguyên Hoa Bắc – cũng là khu vực có nhiều phong trào triết học và tôn giáo lớn xuất hiện sau đó. Ở những vùng đất này, có một cảm giác tràn lan rằng con người đã lạc lối và đã từ bỏ các quy tắc ứng xử cho phép họ sống trong sự lễ độ giản đơn. Nhà thơ Hy Lạp Hesiod đã nắm bắt được các đặc tính của thời đại, than thở rằng ông đang sống trong thời kỳ mà các mối quan hệ đã đổ vỡ: cha con
bất hòa, con không quan tâm đến cha mẹ già, anh em đánh nhau, và người ta thoải mái “tán dương bạo lực”.
Giữa lòng cuộc khủng hoảng văn hóa này, các phong trào tôn giáo và triết học bắt đầu nổi lên. Nhiều người có liên quan rút khỏi xã hội và tạo nên các cộng đồng thay thế dựa trên cơ sở cự tuyệt bạo lực. Những người khác nhấn mạnh vào việc vượt hẳn khỏi thế giới sụp đổ trên trái đất bằng cách tưởng tượng một thế giới cao hơn bên kia.
Các phong trào phát triển ở bình nguyên Hoa Bắc cũng tập trung vào việc tạo ra các thế giới thay thế. Nhưng đối với họ, giải pháp không phải là rút khỏi xã hội hay tìm kiếm những cảnh giới cao hơn, siêu việt hơn, mà phải tạo ra những thay đổi trong chính những mẫu hình của cuộc sống thường nhật.
Những sự phát triển đặc thù đã dẫn đến sự tập trung vào cõi trần thế này. Ở bình nguyên Hoa Bắc, một phản ứng trước sự sụp đổ của các xã hội theo chế độ cha truyền con nối của thời đồ đồng là sự hình thành những nhà nước mới do giới trí thức thuộc tầng lớp ngay dưới tầng lớp quý tộc điều hành, những người này lên nắm quyền nhờ vào công trạng thay vì được định đoạt chức tước dựa vào dòng dõi. Ngày càng có nhiều người cố công học tập với hy vọng giành được một vị trí trong những bộ máy quan lại mới này và nâng cao địa vị bản thân trong cuộc sống. Khi được học hành, họ trở nên bất mãn sâu sắc với thế giới đương thời và bắt đầu trăn trở về việc sống sao cho khác đi. Hầu hết các phong trào tôn giáo và triết học mới ở Trung Quốc thời kỳ này có thành viên là các nhân vật từ tầng lớp trí thức đang lớn mạnh.
Chẳng hạn như Khổng Tử. Triết gia vĩ đại này sống trong giai đoạn suy tàn của triều đại lớn cuối cùng thuộc thời đồ đồng, triều đại nhà Chu. Nhà Chu là một dòng họ quý tộc hùng mạnh, khẳng định được vị thế của mình
với các dòng họ lớn khác nhờ sở hữu Thiên mệnh. Ở Trung Quốc cổ đại, Thượng đế được coi là vị thần sẽ ban cho dòng dõi có đức nhất thời bấy giờ nhiệm vụ cai trị dân chúng cho đến khi nào họ vẫn còn giữ được phẩm hạnh. Đó là một thời đại rất giống châu Âu trước thế kỷ 19, khi các dòng dõi quý tộc lớn cai trị bằng cách tuyên bố họ có quyền thiêng liêng.
Trong giai đoạn cuộc đời Khổng Tử, những dòng họ quý tộc đầy thế lực này đã mất đi quyền lực. Bản thân nhà Chu đã suy tàn, nhưng các gia tộc khác cũng vậy. Thế nên không ai có thể bước lên để tuyên bố mình là người mới được “phụng thiên thừa vận”.
Chính trong khoảng trống chính trị tiếp đó, những nhân vật như Khổng Tử xuất hiện nổi bật. Ông giữ vài chức quan nhỏ và về sau trở thành thầy dạy học, tập trung dạy dỗ một thế hệ mới những người cũng đang tìm kiếm những chức tước ấy.
Ngày nay, khi nghĩ về Khổng giáo***, chúng ta thường liên tưởng đến hệ thống phân tầng xã hội cứng nhắc, những vai trò phân theo giới tính nghiêm ngặt và nhấn mạnh việc xử sự đúng đắn một cách bảo thủ – ấn tượng đó một phần dựa trên việc diễn giải lại những giáo lý này về sau. Nhưng chân dung của Khổng Tử trong Luận ngữ lại không phải là một người đang cố gắng kiểm soát mọi người, cũng không chút gì giống một trong những người đang cố gắng tạo ra một hệ tư tưởng cố kết. Trái lại, chúng ta thấy một nhân vật đang cố gắng tạo ra những thế giới mà ở đó con người có thể thịnh vượng. Những thế giới ấy được xây dựng ở đây, ngay lúc này, thông qua cách chúng ta tương tác với mọi thứ xung quanh.
*** Hay còn gọi là Nho giáo.
Khổng Tử cho rằng một kỷ nguyên hưng thịnh vĩ đại của loài người đã từng tồn tại vào thời kỳ đầu nhà Chu, khoảng năm trăm năm trước thời của ông. Ông xem đây là giai đoạn được cai trị bởi những người biết tự tu tự
dưỡng, trở thành con người đạo đức, và nói chung là đã thành công trong việc tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn quanh mình. Ông cố tìm con đường để làm điều tương tự: Tạo ra một thế giới nơi học trò của ông có thể phát triển, với hy vọng một số trong những học trò đó có thể tạo ra một trật tự xã hội lớn hơn, để dân chúng cũng có thể sống đời phồn thịnh.
Mọi triết gia chúng ta gặp trong cuốn sách này đều giống với Khổng Tử. Mỗi người đều nổi lên từ sự tôi luyện trong cơn quá độ này. Mỗi người đều phản đối xã hội mình đang sống và tích cực trù tính những cách sống mới mẻ, thú vị. Mỗi người đều tin tưởng mạnh mẽ rằng mọi người đều có tiềm năng phát triển như nhau.
Quá trình rèn luyện của các nhà tư tưởng này đã khiến họ trở nên cực kỳ thực tế và cụ thể. Đó là lý do vì sao khi đặt câu hỏi chất vấn xã hội, họ có xu hướng không tập trung vào ngay những câu hỏi trừu tượng lớn lao. Thay vào đó, họ đặt câu hỏi: Vì sao thế giới của chúng ta lại thành ra thế này, chúng ta có thể làm gì để thay đổi nó? Từ những câu hỏi thực tế này mới xuất hiện những khám phá đầy cảm hứng về tiềm năng trở nên tuyệt vời và tốt đẹp của mỗi người.
3
VỀ CÁC MỐI QUAN HỆ: KHỔNG TỬ VÀ CÁC LỄ NGHI “NHƯ THỂ”
N
ếu chúng tôi nói với bạn rằng chơi một trò trốn tìm đơn giản với một đứa trẻ bốn tuổi có thể thay đổi đáng kể tất cả các mối quan hệ của bạn, thì cũng dễ hiểu nếu bạn cảm thấy nghi ngờ. Nhưng sự thật là khi bạn chơi trò ấy – khi bạn rón rén nhón chân ra khỏi cánh cửa tủ để em bé có thể dễ tìm được bạn hơn, khi em bé cười to sung sướng vì phát hiện ra bạn và khi bạn nhiệt tình chơi với em hết lần này đến lần khác – bạn không chỉ đang tham gia vào một trò chơi vô tư, mà bạn và đứa trẻ ấy đang tham gia vào một lễ nghi bằng cách đảm nhận các vai trò khác với bình thường, một lễ nghi cho phép bạn dựng lên một thực tại mới.
Điều này nghe có vẻ dị thường vì chúng ta có xu hướng nghĩ về lễ nghi như một cái gì đó cho ta biết mình phải làm gì, chứ không phải là một thứ có tính biến đổi. Nhưng một chuỗi tư tưởng kinh điển, khởi đầu từ Khổng Tử, đã dẫn đến một cách nhìn hoàn toàn mới về vai trò chính xác của lễ nghi.
Khổng Tử, sống từ năm 551 đến năm 479 trước Công nguyên, là triết gia lớn đầu tiên trong truyền thống Trung Quốc. Tầm ảnh hưởng rộng rãi và lâu dài của ông không xuất phát từ những tư tưởng vĩ đại mà từ những tư tưởng dễ nhầm tưởng là đơn giản – những tư tưởng đảo ngược mọi hiểu biết của chúng ta về việc hiểu chính mình và hòa thuận với người khác.
Hãy xem một đoạn trong thiên thứ 10 của Luận ngữ, một tập hợp những đối thoại và chuyện kể do các đồ đệ của Khổng Tử biên soạn sau khi ông qua đời:
“Tịch bất chánh, bất tọa”*
(Chiếu trải không ngay ngắn, ngài chẳng ngồi.)
* Luận ngữ, thiên thứ 10, bài 9.
Đây là một câu khác:
“Thực bất ngữ”**
(Khi ăn, không đàm luận.)
** Luận ngữ, thiên thứ 10, bài 8.
Không hoàn toàn như bạn chờ đợi phải không? Có phải những câu này dường như quá bình thường với một trong những tác phẩm quan trọng nhất của nhân loại?
Những đoạn này chẳng phải là ngoại lệ. Luận ngữ đầy những chi tiết cụ thể, vụn vặt về những gì Khổng Tử đã làm và nói. Chúng ta có thể biết Khổng Tử nâng khuỷu tay cao bao nhiêu. Chúng ta có thể biết khi bước vào một căn phòng, ông nói chuyện với những người khác nhau như thế nào. Chúng ta có thể tường tận Khổng Tử hành xử như thế nào trong bữa tối.
Bạn hẳn sẽ thắc mắc làm sao những điều đó có thể mang bất kỳ ý nghĩa triết học nào. Bạn có thể muốn dò dẫm hết cuốn sách để tìm cho ra những đoạn Khổng Tử nói điều gì đó thực sự sâu sắc. Nhưng để hiểu điều gì khiến cho Luận ngữ trở thành một tác phẩm triết học vĩ đại, chúng ta cần xem cách Khổng Tử xử sự trong các bữa ăn. Chúng ta cần biết ông làm những gì trong một ngày bình thường. Lý do khiến những khoảnh khắc ngày thường trở nên rất quan trọng là vì, như chúng ta sẽ thấy, chúng chính
là phương tiện để chúng ta có thể trở thành những con người khác biệt và tốt đẹp hơn.
Lập trường như vậy là rất hiếm hoi trong phạm trù triết học. Nếu bạn dự một lớp triết học bất kỳ hoặc đọc một tác phẩm triết học nào đó, bạn sẽ thấy triết gia nhảy ngay vào những câu hỏi lớn như: Chúng ta có tự do ý chí không? Ý nghĩa của cuộc sống là gì? Kinh nghiệm có mang tính khách quan không? Đạo đức là gì?
Nhưng giáo lý của Khổng Tử lại tiếp cận theo hướng ngược lại. Thay vì bắt đầu với những câu hỏi triết học lớn lao, ông đặt ra câu hỏi nền tảng, sâu sắc mang tính đánh lừa sau:
Bạn sống cuộc đời mình như thế nào trong ngày thường? Đối với Khổng Tử, mọi thứ đều bắt đầu với câu hỏi này, câu hỏi về những điều nhỏ nhặt nhất. Và không như những câu hỏi lớn lao, khó nắm bắt, đây là câu hỏi mà tất cả chúng ta đều có thể trả lời.
Thế giới phân mảnh
Chúng ta thường nghĩ về những người sống trong các nền văn hóa truyền thống như những người tin vào một kiểu trật tự hài hòa nào đó lệnh cho họ phải sống như thế nào và ban cho họ một vai trò xã hội mà họ buộc phải gánh vác. Đây chắc chắn là cách mà nhiều người phương Tây nghĩ về Trung Quốc. Nhưng sự thật là nhiều triết gia Trung Quốc thực sự nhìn thế giới rất khác: Họ cho rằng thế giới bao gồm một chuỗi vô tận những cuộc gặp gỡ phân mảnh, lộn xộn.
Thế giới quan này bắt nguồn từ quan niệm cho rằng tất cả các khía cạnh của đời sống con người đều bị chi phối bởi cảm xúc, bao gồm cả những tương tác vô tận giữa người với người đang diễn ra. Tính tự mệnh xuất ***, một trước tác từ thế kỷ 4 trước Công nguyên mới được phát hiện gần đây, đã dạy rằng:
*** Năm 1993, trong cuộc khai quật một ngôi mộ cổ ở thôn Quách Điếm, nơi từng là kinh đô cuối cùng của nước Sở (676 – 278 TCN), thuộc tỉnh Hồ Bắc ngày nay, người ta đã phát hiện ra một lượng lớn thẻ tre ghi chép các văn bản cổ. Niên đại của ngôi mộ này được xác định vào khoảng giữa thế kỷ 4 đến đầu thế kỷ 3 TCN. Trong 804 thẻ tre được tìm thấy, có chứa văn bản cổ nhất từng được biết đến của Đạo Đức Kinh, một chương của Kinh Lễ, và một số văn bản không xác định được tác giả, nhiều đoạn ghi chép về Nho giáo và Đạo giáo lần đầu được biết tới. Các thẻ tre này được gọi là Quách Điếm Sở Giản (郭店楚簡), sau khi được phục hồi nguyên trạng đã được dịch sang tiếng Trung Quốc hiện đại và xuất bản rộng rãi. Tính tự mệnh xuất (性⾃命出), tức bản tính con người từ mệnh mà ra, là một phần của Quách Điếm Sở Giản.
Hỉ nộ ai bi chi khí, tính dã. Cập kỳ hiện ư ngoại tắc vật thủ chi dã****.
(Năng lượng của vui, giận, buồn đau từ tính mà ra. Chúng phát lộ ra ngoài là do người khác khơi gợi.)
**** Tính tự mệnh xuất, bài số 1.
Tất cả các sinh vật sống có thiên hướng, hay khuynh hướng, phản ứng với mọi thứ theo những cách nhất định. Giống như một bông hoa vốn có thiên hướng ngoảnh về phía mặt trời, chim và bướm có thiên hướng bay đi tìm hoa, con người cũng có những thiên hướng của riêng mình. Thiên hướng của chúng ta là phản ứng với người khác dựa trên cảm xúc.
Thường thì chúng ta còn không nhận thấy cảm xúc của mình liên tục bị lôi ra ngoài như thế nào. Nhưng cảm xúc của chúng ta luôn dao động không ngừng tùy theo đối tượng mà chúng ta gặp. Chúng ta trải qua một sự việc hài lòng, thế là ta cảm thấy vui; chúng ta gặp phải một chuyện kinh khủng nào đó, rồi thì ta cảm thấy sợ hãi. Một mối quan hệ độc hại khiến ta cảm
thấy tuyệt vọng, một cuộc cãi vã với đồng nghiệp khiến ta cáu tiết, sự ganh đua với một người bạn khuấy lên cảm giác ghen tị. Chúng ta phát hiện mình gặp phải một số cảm xúc nào đó thường xuyên hơn những cảm xúc khác và cách phản ứng của chúng ta khi đó trở thành thói quen kiểu mẫu.
Cuộc sống diễn ra thế này: Người ta gặp nhau hết lần này đến lần khác, phản ứng bằng vô số cách và liên tục dao động cảm xúc. Không ai có thể thoát khỏi điều này, dù là một đứa trẻ chơi trên sân hay là lãnh đạo của một cường quốc. Mỗi sự kiện của con người được định hình bởi thế giới cảm xúc mà chúng ta trải nghiệm. Nếu cuộc sống của con người bao gồm những lần va chạm với nhau liên miên không dứt và phản ứng một cách thụ động, chúng ta sẽ sống trong một thế giới phân mảnh, trong đó chúng ta bị những sự kiện khác nhau vùi dập không ngừng.
Nhưng tất cả không phải là vô vọng: Chúng ta có thể cư xử tinh tế hơn trong những cuộc gặp gỡ bất tận này và tạo ra các túi trật tự. Bài Tính tự mệnh xuất lập luận rằng chúng ta nên cố gắng chuyển từ trạng thái đơn thuần phản ứng ngẫu nhiên với mọi thứ theo cảm xúc (qing – tính) sang trạng thái phản ứng đúng phép tắc, hay “những cách phản ứng tốt hơn” (yi – nghĩa):
Đãi tập nhi hậu điện… thủy giả cận tình, chung giả cận nghĩa.***** (Chỉ thông qua rèn luyện chúng ta mới có thể phản ứng đúng đắn… Thuở sơ sinh, người ta phản ứng bằng cảm xúc; nhưng cuối cùng, người ta phản ứng bằng phép tắc.)
***** Tính tự mệnh xuất, bài số 1.
Trau dồi các phép tắc không có nghĩa là bỏ qua hay kiểm soát cảm xúc. Cảm xúc là cái khiến chúng ta trở thành con người. Nó đơn giản có nghĩa là giáo hóa cảm xúc để chúng ta tiếp thu những cách ứng xử tốt đẹp hơn nhằm đối đáp với người khác. Những cách ứng xử tốt đẹp hơn ấy trở
thành một phần trong con người chúng ta. Khi học được cách ứng xử tinh tế, chúng ta có thể bắt đầu đối đáp với mọi người bằng những gì chúng ta đã trau dồi, thay vì bằng phản ứng cảm xúc tức thời. Và chúng ta thực hành việc tôi luyện này thông qua các lễ nghi.
Phong tục và lễ nghi
Hầu hết chúng ta đều có những “lễ nghi” nhất định. Dù đó là một tách cà phê buổi sáng, bữa tối với gia đình, một tối thứ Sáu hẹn hò lứa đôi, hay cõng lũ trẻ đi một vòng trước khi ngủ, thì chúng ta cũng luôn coi những khoảnh khắc này là thứ quan trọng bởi vì chúng ban cho cuộc sống của chúng ta một ý nghĩa, một sự tiếp diễn, và gắn kết chúng ta với những người thân yêu.
Khổng Tử đồng ý rằng tất cả những khoảnh khắc này đều có khả năng là những lễ nghi. Nhưng trong những lời dạy của mình, ông đã chỉ ra chi tiết những gì chúng ta nên xem là các lễ nghi và lý do vì sao chúng lại quan trọng.
Hãy thử xem xét một hành động đơn giản mà tất cả chúng ta đều thực hiện nhiều lần trong ngày:
Bạn gặp một người bạn.
- Này, dạo này sao rồi?
- Khỏe lắm! Anh thì sao?
Hành động nhanh gọn này gắn kết hai bạn trong một khoảnh khắc trước khi tiếp tục công việc dang dở.
Hay khi đồng nghiệp của bạn giới thiệu bạn cho ai đó: “Rất vui được biết anh”, bạn bắt tay anh ta rồi cả hai cùng vui vẻ trò chuyện về thời tiết, về mọi thứ xung quanh hay về một số sự kiện trên tin tức gần đây.
Hay khi bạn gặp một người bạn thân ở cửa hàng tạp hóa. Hai bạn dừng xe đẩy và trao nhau một cái ôm thật ấm áp. “Dạo này ra sao? Còn tụi nhỏ
khỏe chứ?”. Các bạn trò chuyện một chút về cuộc sống, một cuộc trao đổi ngắn nhưng rất sôi nổi, rồi hẹn nhau đi uống cà phê trước khi mỗi người đi mỗi hướng.
Chúng ta sử dụng những lời chào khác nhau, hỏi những câu hỏi khác nhau và sử dụng những tông giọng khác nhau khi nói chuyện với những người khác nhau. Những điều này chúng ta thường làm một cách vô thức. Chúng ta khéo léo điều chỉnh hành vi, nhân xưng và từng từ ngữ chúng ta sử dụng, tùy thuộc chúng ta đang nói chuyện với một người bạn thân, một người quen, một người mới gặp, mẹ ruột, cha vợ, sếp, gia sư, hay giáo viên piano của các con. Chúng ta điều chỉnh cách nói chuyện theo người mà chúng ta đang trò chuyện cùng vì chúng ta đã biết rằng đây là điều phù hợp về mặt xã hội. Và vì suốt ngày chúng ta gặp gỡ những người khác nhau, trong những tình huống khác nhau, nên mọi thứ chúng ta làm cũng thay đổi liên tục.
Tất nhiên, bất kỳ triết gia nào cũng nhận biết được người ta sử dụng các kiểu chào hỏi và tông giọng khác nhau trong các hoàn cảnh khác nhau. Nhưng ít ai có suy nghĩ rằng điều này mang ý nghĩa triết học.
Đó chính là điểm khác biệt của Khổng Tử. Ông bắt đầu bằng quan sát rằng nếu chúng ta dành phần lớn thời gian không ngủ trong ngày để làm những việc này, thì về mặt triết học, đó chính xác là nơi chúng ta cần bắt đầu. Chúng ta cần tự hỏi tại sao mình lại thực hiện những hành động như vậy. Những hành vi nho nhỏ ấy gọi là tục lệ, tức là những quy ước mà xã hội đã quy định chúng ta phải tuân theo. Nhưng ít nhất một vài trong số những quy ước này có thể được biến thành các lễ nghi, một thuật ngữ mà Khổng Tử định nghĩa theo một cách mới mẻ và khơi gợi.
Con người là những sinh vật có thói quen. Chúng ta trở nên quen thuộc với việc thực hiện những điều nhỏ nhặt này – nép sang một bên để một
người lạ đi qua, đeo cà vạt trong một buổi phỏng vấn xin việc – và chúng ta làm như vậy một cách vô thức.
Ngay cả khi chúng ta không nhận thức được mình đang làm gì, thì những việc làm này cũng tạo một ảnh hưởng tích cực nào đó. Nếu chúng ta cảm thấy tâm trạng hơi buồn bã, việc dành chút thời gian để chào hỏi người khác có thể làm gián đoạn một chu kỳ cảm xúc tiêu cực. Nếu gặp gỡ ai đó từng có mâu thuẫn với mình, chúng ta có thể chia sẻ một khía cạnh khác, đời thường hơn về bản thân và trong giây lát phá vỡ hình mẫu bất đồng. Trong những khoảnh khắc ngắn ngủi đó, chúng ta trải qua những mối quan hệ khác nhau với những người xung quanh.
Nhưng trong cuộc sống, nếu chúng ta thực hiện hầu hết các quy ước xã hội một cách máy móc, chúng sẽ đánh mất khả năng trở thành những lễ nghi có thể thay đổi chúng ta một cách sâu sắc. Chúng chẳng làm được gì nhiều để giúp chúng ta trở thành người tốt đẹp hơn.
Để giúp bản thân thay đổi, chúng ta phải nhận thức được rằng việc thoát khỏi những cách tồn tại thông thường chính là điều giúp chúng ta có thể phát triển các khía cạnh khác nhau của bản thân. Lễ nghi, theo nghĩa của Khổng giáo, có khả năng biến đổi vì trong một khoảnh khắc chúng cho phép chúng ta trở thành người khác. Chúng tạo ra một thực tại thay thế ngắn ngủi mà sẽ đưa chúng ta trở lại cuộc sống thường ngày với đôi chút biến đổi. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, chúng ta đang sống trong một thế giới “như thể”.
Thế giới “như thể”
Ở Trung Quốc cổ đại, người ta xem con người là một khối những yếu tố mâu thuẫn – những cảm xúc trái ngược nhau, những nguồn năng lượng hỗn loạn, những linh hồn hỗn độn – những thứ mà họ cố công rèn luyện cả đời. Nhưng vào thời khắc lâm chung, những năng lượng nguy hiểm nhất
của một người – tất cả nỗi tức giận và phẫn uất của người này khi phải ra đi trong khi những người thân yêu của anh tiếp tục sống – sẽ bị phóng thích và ám ảnh những người sống. Do đó, người ta tin rằng thế giới đầy những linh hồn người quá cố, có vẻ ghen tị với những người còn sống. Cái chết cũng đem đến điều tồi tệ nhất trong những người còn sống: nỗi buồn khủng khiếp, sự hỗn loạn và sự giận dữ không thể lý giải.
Để chiến đấu với tất cả những năng lượng tiêu cực không thể kiểm soát này, người ta đã phát triển các hành vi lễ nghi, mà quan trọng nhất là thờ cúng tổ tiên. Mục đích là để biến những linh hồn nguy hiểm thành những bậc tiên tổ nhân từ. Thịt của một con thú, thường là heo, sẽ được đặt lên một cái chậu lễ bằng đồng và được nấu bằng một đống lửa trước mặt gia đình tại nơi thờ cúng. Gia đình sẽ gọi những linh hồn về hưởng làn khói thơm bốc lên từ thịt. Khi cho hương hồn hưởng những lễ vật này, người sống hy vọng sẽ nhân tính hóa được họ, đưa họ trở về gia đình và thuyết phục các hương hồn đó ở lại với vai trò một bậc tổ tiên nhân đức ngự ở cõi trên.
Sau khi lễ nghi kết thúc, vị tổ tiên rốt cuộc lại trở về nguyên trạng là một linh hồn giận dữ đầy ám ảnh, và lễ nghi sẽ phải lặp lại nhiều lần nữa. Trong Luận ngữ, Khổng Tử đã được hỏi về việc thờ cúng tổ tiên. Ông nói rằng lễ nghi này là hoàn toàn cần thiết, nhưng dù các linh hồn có tham gia hay không thì cũng chẳng có gì khác. “Tế như tại, tế thần như thần tại” ****** (Tế tổ tiên như tổ tiên ở trước mặt, tế thần như thần ở trước mặt), ông nói. Điều quan trọng là tham gia đầy đủ nghi lễ: “Ngô dữ bất tế, như bất tế” (Nếu không đích thân tham gia vào lễ cúng tế, thì cúng tế cũng như không cúng tế) *******.
****** Luận ngữ, thiên thứ 3, bài 17.
******* Luận ngữ, thiên thứ 3, bài 12.
Nhưng nếu những linh hồn thậm chí còn không tất yếu có mặt, thì tại sao phải thực hiện lễ nghi như thể họ đang ở đó?
Trong cuộc sống, mối quan hệ giữa người chết và người sống không hoàn hảo và đầy bất trắc, giống như mối quan hệ giữa những người sống với nhau. Một người cha có thể nghiêm khắc, nóng nảy và không biết cách thể hiện tình cảm; con cái của ông ta chắc hẳn sẽ tỏ ra chống đối và nổi loạn. Những căng thẳng chưa được giải quyết này sẽ ám ảnh người sống một cách đau đớn hơn nếu chẳng may người cha qua đời, nghĩa là mọi khả năng giảng hòa đã hết. Nhưng lễ nghi, nếu được thực hiện tốt, sẽ đưa chúng ta ra khỏi thế giới rắc rối của các mối quan hệ con người và tạo ra một không gian mới, không gian lễ nghi, trong đó các mối quan hệ lý tưởng có thể được tôi luyện. Trong không gian này, những linh hồn ám ảnh của tổ tiên sẽ hành xử đúng đắn và làm phúc cho người sống. Người sống bây giờ cư xử như thể họ là những hậu duệ chân chính của các bậc tổ tiên. Sự giận dữ, ghen tị và phẫn uất giữa người sống và người chết dần chuyển thành một mối quan hệ tốt đẹp hơn rất nhiều.
Với Khổng Tử, lễ nghi rất cần thiết bởi những điều nó làm được cho những ai thực hiện nó. Việc đặt câu hỏi liệu những lễ nghi này có thật sự ảnh hưởng được đến người quá cố hay không chính là đã không nắm được trọng điểm. Các thành viên gia đình cần phải cúng tế là bởi việc hành động như thể các bậc tổ tiên đang hiện diện sẽ mang lại sự thay đổi trong chính bản thân họ.
Lễ nghi cũng làm thay đổi cảm xúc của những người sống dành cho nhau. Một cái chết luôn gây ra những thay đổi trong mối quan hệ giữa những người còn sống. Một cuộc ganh đua ngấm ngầm từ thời thơ ấu giữa hai anh em bùng lên trở lại; một đứa con trai ương ngạnh bỗng dưng trở thành chủ gia đình trên danh nghĩa, gây bất an cho những người khác. Tuy
nhiên, trong lễ nghi, tất cả đều phải đóng vai mới của mình trong gia đình như thể không có gì bất hòa xảy ra cả.
Sức mạnh của lễ nghi nằm ở chỗ nó khác biệt rõ rệt đến mức nào so với thế giới thực. Bây giờ thử xem xét một biến thể của lễ nghi, mà trong đó ba thế hệ trao đổi vai trò cho nhau. Một đứa cháu trai sẽ là hiện thân cho người ông quá cố của nó, trong khi người cha sẽ là hiện thân cho nó. Mỗi hậu duệ còn sống được đặt vào chính góc nhìn của người thường có quan hệ căng thẳng nhất với mình ở thế giới đời thật.
Đây rõ ràng là một thế giới đóng vai “như thể”: Những người tham gia không thể nhầm lẫn vai mà họ đang đóng với bất cứ vai trò nào họ vốn mang trong đời thực; một người cha không phải đang được huấn luyện để trở thành con của con trai mình. Nhưng thông qua lễ nghi này, người sống sẽ không chỉ phát triển một mối quan hệ khác với người đã khuất, mà những người ở lại cũng sẽ được đưa vào các mối quan hệ mới.
Tất nhiên, lễ nghi nào cũng đến hồi kết. Các thành viên gia đình bước ra khỏi không gian lễ nghi, và vào khoảnh khắc đó, họ lại trở về thế gian ô trọc. Cuối cùng, sự hòa thuận mong manh ấy thêm một lần nữa sụp đổ. Anh chị em cãi vã, họ hàng chống đối nhau, cha con thì vẫn bất hòa.
Đây là lý do tại sao các gia đình phải lặp đi lặp lại lễ nghi. Sự hòa thuận mong manh có thể sụp đổ tan tành một khi họ rời nơi thờ cúng, nhưng dần dần, khi thực hiện các lễ nghi hết lần này đến lần khác và tái tạo những kết nối lành mạnh, thì sự cải thiện trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình sẽ dần được thể hiện rõ hơn trong cuộc sống hằng ngày.
Lễ nghi không nói cho ta biết phải cư xử ra sao trong thế giới thực. Thế giới trật tự hoàn hảo trong một lễ nghi không bao giờ có thể thay thế cho thế giới bất toàn của các mối quan hệ ngoài đời thực. Nó vận hành là nhờ mỗi người tham gia đóng một vai khác với vai trò của mình trong cuộc
sống thường ngày. Sự “bẻ gãy” thực tại đó chính là chìa khóa cho phép những người tham gia bắt đầu tác động đến các mối quan hệ của họ. Việc một người cha đóng giả làm con trai mình giúp ông hiểu được con và giúp ông trở thành một người cha tốt hơn, một con người tốt đẹp hơn.
Hiến sinh động vật và xoa dịu những linh hồn nghe có vẻ xa vời với cuộc sống thế kỷ 21 của chúng ta, nhưng giá trị của các lễ nghi thì vẫn còn nguyên vẹn. Chúng ta cũng bị những bóng ma ám ảnh: những người thân cáu kỉnh mà chúng ta không bao giờ hòa thuận được; những ác cảm mà chúng ta dường như không thể rũ bỏ; quá khứ mà chúng ta không thể quên đi.
Chúng ta có xu hướng phản ứng theo thói quen, khuôn mẫu. Chúng có thể là những quy ước và phong tục xã hội mà chúng ta làm theo không cần suy nghĩ, như việc chào hỏi hoặc giữ cửa mở cho người khác. Chúng có thể là những thói quen mà chúng ta thậm chí còn không nhận thấy, chẳng hạn như tiếng ậm ừ chúng ta hay phát ra mỗi khi nói chuyện điện thoại với anh/chị/em của mình, hoặc khuynh hướng im lặng khi buồn thay vì nói rõ nhu cầu của mình. Nhưng chúng ta vẫn làm những việc như vậy mọi lúc mọi nơi. Một số kiểu mẫu rất tốt, và một số thì không hẳn. Nếu chúng ta luôn luôn “làm cho đúng” với con người mình và cư xử dựa theo điều đó, chúng ta sẽ mắc kẹt trong những hành vi cũ kỹ, không bao giờ tha thứ và hạn chế tiềm năng biến đổi của bản thân.
Nhưng chúng ta đã biết cách để phá vỡ các kiểu mẫu này. Ví dụ, khi đến thăm nhà một người bạn, với tư cách người ngoài, chúng ta sẽ nhận ra những thói quen và hành động nho nhỏ của họ: bữa ăn sáng ngày Chủ nhật là bánh kếp, hay cái cách họ chào buổi sáng với nhau bằng những cái ôm. Chúng ta để ý đến những lễ nghi này là vì chúng mới mẻ với chúng ta. Khi quan sát, hoặc thậm chí tham gia vào chúng, chúng ta
làm vậy với ý thức rằng mình sẽ không mang những nghi lễ đó vào cuộc sống của chính mình.
Khi chúng ta đi du lịch, việc thoát khỏi những thói quen hằng ngày có thể cho phép chúng ta phát triển các khía cạnh mới của bản thân. Và khi quay về, chúng ta sẽ cảm nhận được ảnh hưởng còn sót lại của những thay đổi đó.
Vậy thì tại sao chúng ta lại làm theo các khuôn mẫu mọi lúc mọi nơi? Có lẽ là do việc xây dựng có chủ ý những khoảnh khắc lễ nghi trong cuộc sống “thực” gây cảm giác giả tạo.
Nhưng những khoảnh khắc đóng vai “như thể” đó có thể dẫn đến sự dịch chuyển rất lớn.
Cùng quay lại trò chơi trốn tìm với đứa trẻ bốn tuổi mở đầu chương. Trò chơi ấy nuôi dưỡng mối quan hệ bằng cách nào? Trò chơi là một lễ nghi “như thể”. Nó cho phép một sự thay đổi vai trò: Đứa trẻ, bình thường rất yếu đuối, thông qua trò chơi sẽ trở thành một người mạnh mẽ, thắng được người lớn bằng cách tìm thấy anh ta. Người lớn tham gia trò chơi với việc trở thành một người vụng về ngớ ngẩn đến mức chẳng thể tìm nổi chỗ trốn đàng hoàng. Tất nhiên, đứa trẻ cũng hiểu rằng người lớn biết nó có thể nhìn thấy anh ta, nhưng một phần của lễ nghi là họ đang chơi như thể đứa trẻ có thể khôn lanh hơn người lớn.
Sự đảo ngược vai trò này đã phá vỡ khuôn mẫu thông thường của họ. Đứa trẻ được trải nghiệm cảm giác về thẩm quyền mà nó sẽ nhớ mãi kể cả khi trò chơi đã kết thúc. Người lớn, thường là người không thể sai lầm (ít nhất là trong mắt một đứa trẻ), giờ đây đóng vai một người có thể sai lầm và dễ bị công kích. Anh ta không thật sự trở thành một người lớn ngớ ngẩn, nhưng sự đảo lộn vai trò giúp anh ta phát triển những khía cạnh đôi chút khác biệt và phức tạp hơn về bản thân mà anh cũng có thể mang theo
vào những tình huống khác, những khía cạnh như: trạng thái dễ bị công kích, sự kết giao, tính khinh suất và khả năng buông bỏ quyền lực. Chìa khóa cho người chơi là ý thức được rằng họ đang giả vờ; rằng họ đang cùng nhau bước vào một thực tại thay thế, trong đó họ tưởng tượng ra những mặt khác của bản thân. Nếu họ có thể làm điều này, thì những trải nghiệm như chơi trò trốn tìm không chỉ giúp nuôi dưỡng một mối quan hệ vui vẻ và tôn trọng nhau hơn, mà những khoảnh khắc ấy tích lũy dần dần theo thời gian cũng sẽ định hình nên kiểu người mà họ sẽ trở thành. Những lễ nghi lặp đi lặp lại này sẽ phát triển các khía cạnh của từng người để cuối cùng củng cố những mối quan hệ khác trong cuộc sống của cả người lớn và đứa trẻ.
Các lễ nghi “như thể”
Tại sao chúng ta nói “Làm ơn” và “Cảm ơn”?
Ba thế kỷ trước, toàn bộ xã hội châu Âu và các mối quan hệ xã hội vẫn được xác định bằng hệ thống tôn ti cha truyền con nối. Nếu một người nông dân nói chuyện với một lãnh chúa, anh ta sẽ sử dụng những thuật ngữ cung kính nhất định, còn nếu một người quý tộc nói chuyện với một nông dân, thì anh ta sẽ sử dụng các thuật ngữ hoàn toàn khác.
Khi những khu chợ bắt đầu phát triển ở các thành phố, mọi người thuộc các tầng lớp khác nhau bắt đầu tương tác theo những cách mới. Các lễ nghi được phát triển, trong đó người mua và người bán có thể hành động như thể họ bằng vai phải lứa, bất kể họ là ai. Trao nhau những lời “Làm ơn” và “Cảm ơn” là một khoảnh khắc ngắn ngủi mà những người tham gia có thể trải nghiệm một mối quan hệ mang vẻ bình đẳng.
Chúng ta cũng thực hiện lễ nghi như thể này. Hãy tưởng tượng cả nhà bạn đang ăn tối, và con (hoặc cháu) của bạn yêu cầu: “Cho con muối”. Nếu đứa bé còn quá nhỏ, thì bạn cũng hiểu rằng nó chưa học được những cách
nói tế nhị trong xã hội, nên bạn có thể nói: “Được rồi, nhưng con phải nói sao…?”, hay “Từ kỳ diệu đó là gì ta?”. Có thể đứa trẻ không trả lời được chính xác ngay, nên bạn phải nhắc nó lần nữa: “Con phải nói gì nào?”. Rồi bạn nhắc tới nhắc lui cho tới khi nó nói: “Làm ơn cho con muối”, thì bạn mới đưa hũ muối cho nó và dẫn dắt nó nói cảm ơn.
Tại sao chúng ta phải làm vậy dù đứa trẻ thể hiện rõ rằng nó nghĩ cái trò đố chữ tới lui này thật lố bịch? Vì đây là cơ hội để nó tham gia vào một lễ nghi, trong đó nó sẽ hành động như thể nó đang hỏi xin điều gì đó từ một người ngang hàng. Bạn không làm vậy để lập trình cho đứa trẻ hành động theo một cách nhất định; mà bạn đang huấn luyện để nó hiểu được việc hỏi xin điều gì đó từ một đồng loại là như thế nào và ý nghĩa của việc thể hiện lòng biết ơn.
Nếu đứa trẻ học về sự trao đổi chỉ như một hành động học vẹt, thì nó đã không tiếp thu tốt. Tất nhiên, lúc đầu, đó là một hành động học vẹt, một trong nhiều hành động mà đứa trẻ được xã hội hóa để thực hiện khi lớn lên. Nhưng khi lặp lại hết lần này đến lần khác, đứa trẻ sẽ bắt đầu thấy được lý do. Nó cũng hiểu được cách để điều chỉnh mọi thứ. Nó thấy cách mọi người phản ứng với những lời “Làm ơn” và “Cảm ơn” của nó, cũng học được rằng khi nào thì chỉ nói những từ này là đủ và khi nào thì phải nói những từ khác nữa, hoặc phải thay đổi giọng điệu, nhấn âm thế nào để đạt hiệu quả tốt hơn.
Thật ra, bằng trực giác, trẻ em hiểu lễ nghi tốt hơn hầu hết người lớn. Chúng nhận ra rằng giá trị của lễ nghi nằm ở chỗ nó không có thật. Thử hình dung một đám trẻ đang chơi một trò chơi tưởng tượng. Một đứa giả vờ làm viên cảnh sát bảo vệ một cửa hàng chống lại băng cướp, những đứa còn lại đóng vai cướp. Chúng huơ huơ súng, nấp sau những tấm nệm và bắn nhau, hết lần này đến lần khác. Bọn trẻ không nghĩ cuộc đấu súng này
bạo lực theo cách nghĩ của một người lớn. Đối với chúng, đấu súng chỉ là một trò chơi – tách biệt với thế giới thực. Chúng hoàn toàn nhận thức được rằng đây là giả vờ, và chúng lặp đi lặp lại trò chơi bởi vì nó cho phép chúng bước ra khỏi cuộc sống và mài giũa những khía cạnh khác nhau của bản thân: Chúng học được cách kiềm chế nỗi sợ hãi và lo lắng, hoặc cách đóng vai một người cứu nguy và một người hùng, tất cả đều diễn ra trong một môi trường an toàn mà chúng tự tạo ra.
Nếu cha mẹ chúng ta có từng kể về ông già Noel khi chúng ta còn nhỏ, thì đó cũng là một nghi thức “như thể”. Các gia đình cùng tham gia vào thực tại rằng ông già Noel sẽ chui xuống từ ống khói với một túi đồ chơi lớn. Trong những tuần lễ trước Giáng sinh, trẻ em viết thư, ghi ra những món chúng muốn được tặng và được truyền động lực để cư xử sao cho tử tế nhất. Vào đúng đêm Giáng sinh, người ta sẽ đặt một đĩa bánh quy và một ly sữa gần cây thông Noel. Người lớn và những đứa trẻ lớn hơn cảm thấy được thúc đẩy phải làm gì đó để giữ cho truyền thuyết này tiếp diễn cho đám trẻ con và tạo ra một bầu không khí vui vẻ. Ông già Noel có thật hay không không quan trọng. Điều quan trọng là hành vi của họ sẽ thay đổi theo hướng tốt hơn, và cả nhà xích lại gần nhau hơn.
Sinh hoạt kiểu đóng vai “như thể” là điều mà tất cả chúng ta đều làm khi còn nhỏ, và rồi ít nhiều bị bỏ đi khi chúng ta lớn lên và tin rằng mình cần phải cư xử thực tế hơn. Nhưng người lớn chúng ta cũng có một số không gian lễ nghi. Hãy hình dung ra văn phòng của một chuyên gia trị liệu, nơi người ta đến để nói về những rắc rối của mình trong một khoảng thời gian. Dù nhiều người cho rằng khoảng thời gian ấy rất có ích vì nó giúp chúng ta dần khám phá ra mình thực sự là ai, thì dưới góc nhìn của Khổng giáo, lợi ích to lớn hơn là chúng ta đã thiết lập được một không gian lễ nghi về thực tế, trong đó chúng ta đảm nhận các vai trò giả định mà
mình không thể đóng ngoài đời thật. Hoạt động trị liệu giúp phá vỡ các khuôn mẫu chi phối cuộc sống và cho phép chúng ta dựng lên những cách thức rất khác để liên hệ với người khác, thông qua những tương tác giữa nhà trị liệu và bệnh nhân.
Nhưng chắc chắn chúng ta sẽ lại rơi vào những khuôn mẫu cũ khi bước ra khỏi văn phòng của nhà trị liệu. Vậy nên chúng ta mới đi trị liệu hằng tuần, đôi khi trong nhiều năm và tiếp tục thực hiện việc phá vỡ những khuôn mẫu cũ. Nhờ sự lặp lại này, chúng ta dần dần phát triển những cách tương tác mới và cuối cùng xây dựng nên một bản thân khác, tốt đẹp hơn nhiều.
Chúng ta đánh giá cao khái niệm chân thật, nhưng thực tế là con người trong các mối quan hệ mật thiết lại luôn xây dựng nên những thực tại mới bằng những lời nói dối trắng trợn : “Em là tuyệt nhất”, “Không có gì đáng lo đâu”, “Em là đầu bếp giỏi nhất trên đời”. Một trong những câu nói dối phổ biến nhất trong số này là: “Anh/Em yêu em/anh”. Các cặp đôi có thói quen nói câu này chắc hẳn không cảm thấy yêu người kia trọn vẹn từng giây mỗi ngày. Họ gần như chắc chắn phải có nhiều cảm giác phức tạp với chồng/vợ/người yêu của mình lúc này lúc khác. Nhưng có một lợi ích lớn hơn khi nuôi dưỡng mối quan hệ thông qua những lễ nghi như vậy, đó là chúng cho phép người ta thoát khỏi thực tại và bước vào một không gian nơi mà họ như thể thật sự yêu nhau trọn vẹn từng khoảnh khắc. Tại thời điểm họ thể hiện tình yêu của mình theo một cách thức đóng vai “như thể”, họ thực sự đang yêu như vậy.
Hãy nghiền ngẫm thiên thứ 10 của sách Luận ngữ với những giai thoại về thói quen hằng ngày của Khổng Tử. Ông không trải chiếc chiếu của mình ngay ngắn chỉ vì ông thích mọi thứ trông gọn gàng, mà bởi ông hiểu rằng những hành động tưởng chừng nhỏ nhặt như sắp xếp chỗ cho mọi
người ngồi cùng mình sẽ tạo ra một môi trường khác biệt có thể gây ảnh hưởng sâu sắc đến họ. Những thói quen của chúng ta trong bữa tối cũng tương tự như lễ nghi trải chiếu ngày xưa: Khi sắp xếp bàn ăn, có lẽ là trải các tấm lót chén đĩa và khăn ăn hay thậm chí thắp nến, là chúng ta bước ra khỏi cuộc sống thường ngày và tạo ra một thực tại thay thế cho bản thân và những người cùng ăn tối với mình. Ngay cả nếu ngày hôm đó thật căng thẳng, nhiều xung đột đã xảy ra, thì cũng không cần ai phải tuyên bố: “Được rồi, đến lúc ngừng chiến rồi, giờ hãy thư giãn đi”. Nghi lễ bàn ăn tối đơn giản là tạo ra một quãng xả hơi cho phép mọi người chuyển sang một chế độ khác.
Nhưng những khoảnh khắc chúng ta tham gia vào các nghi lễ theo phương pháp Khổng giáo như vậy lại bị phản đối. Bị giam hãm bởi ý thức phải cư xử một cách chân thực, chúng ta hiếm khi cho phép mình hành động “như thể”. Nó khiến người ta cảm thấy giả tạo; như trò trẻ con. Tuy nhiên, Khổng Tử có thể chỉ rõ chúng ta mâu thuẫn như thế nào khi chống lại các lễ nghi vì nghĩ rằng chúng bảo chúng ta nên làm gì, trong khi lại vô thức làm theo quá nhiều quy tắc và quy ước xã hội. Khi không nhìn thấy được giá trị khả hữu của các lễ nghi thâm nhập vào cuộc sống của chúng ta, thì cuối cùng chúng ta cũng thực hiện chúng theo kiểu nhớ vẹt. Chúng ta đang dần trở thành người máy.
Một số người đã nhận ra sự nguy hiểm của điều này. Ở vài trường đại học, những tổ chức tiên phong như Ask Big Questions sẽ có người hướng dẫn sinh viên cách tự định vị bản thân, tạo ra một bầu không khí chân thật và diễn đạt quan điểm của họ để khi các cuộc tranh luận được đẩy lên cao trào (chẳng hạn như tranh luận về cách thúc đẩy hòa bình ở Trung Đông) không bị biến thành một trận choảng nhau đầy tiếng la hét. Trong hoàn cảnh đó, các sinh viên thật ra đã được dạy các lễ nghi khi đối thoại, dù
chúng có vẻ giả tạo và thảo mai: làm thế nào để đặt câu hỏi, ngừng lại lắng nghe, và phát biểu làm sao để mở ra một không gian gắn kết và cầu tiến thay vì phòng thủ và cứng nhắc. Bằng cách này, họ được cung cấp phương tiện để tạo ra một thế giới “như thể” nơi họ có thể thoát ra khỏi những khuôn mẫu mà họ đã có thể mắc phải (như nói năng thật hùng hồn và đầy cảm xúc), hành động nhã nhặn và gắn kết với nhau tốt hơn.
Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta dợm chân bước ra khỏi giai đoạn học vẹt mà rất nhiều người đang bị mắc kẹt? Giống như đứa trẻ đang học nói “Làm ơn” và “Cảm ơn”, giống như những sinh viên đang học cách vận dụng một thái độ khác để cởi mở bản thân với những ý tưởng đầy thách thức, chúng ta sẽ thấy được giá trị của tất cả những thực tại thay thế này; của việc trải nghiệm sự căng thẳng giữa cách mọi thứ diễn ra với gói trật tự mà chúng ta tạo ra. Trong suốt cuộc đời, chúng ta tự rèn luyện bản thân để phát triển những cách gắn kết tốt hơn với mọi người.
Đây có thể là một cách nghĩ dường khác lạ để suy nghĩ về lễ nghi hoặc sự thay đổi nói chung. Nhìn chung, hình mẫu về lễ nghi của chúng ta thường vẫn dựa trên những buổi lễ như rửa tội, đám cưới, tốt nghiệp: các lễ nghi mà trong đó chúng ta chuyển từ trạng thái này (sinh vật đầy tội lỗi, người độc thân, học sinh) sang một trạng thái khác (người có đức tin, vợ/chồng, người đã tốt nghiệp). Có một trạng thái trước và một trạng thái sau, thông qua lễ nghi đó, chúng ta được biến đổi.
Khổng Tử đưa ra một quan điểm rất khác về sự biến đổi, nó không tập trung vào sự kiện hoành tráng và kịch tính mà vào những khoảnh khắc nho nhỏ lặp đi lặp lại. Giống như nói câu: “Anh/em yêu em/anh”, những khoảnh khắc “như thể” đó tạo ra những khoảnh khắc kết nối suốt cả ngày, được tích lũy dần dần, nhưng không kém phần kịch tính, theo thời gian.
Bản thân dễ uốn nắn
Trước khi có thể biến đổi thông qua các lễ nghi “như thể”, chúng ta phải từ bỏ ý niệm về “con người thật”.
Hãy chân thành. Hãy ngay thẳng. Hãy thành thật với chính mình. Những câu khẩu hiệu của thời hiện đại luôn khuyến khích chúng ta nhìn vào nội tâm. Chúng ta cố gắng khám phá xem mình là ai rồi ghì chặt lấy cái chúng ta nhìn ra được.
Điều nguy hiểm là những gì chúng ta khám phá ra chỉ là một lát cắt về con người mình tại một thời điểm và không gian cụ thể. Chúng ta đọc sách tu thân, thiền tập, viết nhật ký, rồi tự chẩn đoán và gắn nhãn cho mình: Mình là một linh hồn tự do. Mình là một người nóng nảy. Mình là một kẻ mộng mơ. Mình sợ sự thân mật. Hồi nhỏ mình phải chuyển chỗ quá nhiều nên bây giờ mình mới nhút nhát khi gặp người lạ. Mình có nhiều mối quan hệ đổ vỡ là do mối quan hệ lạnh nhạt của mình với cha. Khi cứ ôm ghì lấy những khuôn mẫu này, chúng ta đã cho phép chúng trở nên cứng nhắc. Sự gán nhãn đã bắt đầu xảy ra từ thời thơ ấu: Đứa này chăm học lắm; đứa kia tính khí thất thường. Những nhãn dán này xui khiến hành vi và những quyết định của chúng ta, và chúng trở thành lời tiên đoán tự hoàn thành. Kết quả là, quá nhiều người một hôm thức dậy và cảm thấy bị mắc kẹt trong định nghĩa quá chật hẹp về bản thân.
Những gì người phương Tây chúng ta coi là con người thật thực ra chỉ là những khuôn mẫu phản ứng liên tục với mọi người và với thế giới; các khuôn mẫu ấy được xây dựng theo thời gian. Ví dụ, bạn có thể nghĩ, mình chính là kiểu người dễ nổi nóng. Nhưng trái lại, nhiều khả năng bạn trở thành kiểu người dễ tức tối vì những điều nhỏ nhặt là do cách bạn tương tác với mọi người trong nhiều năm, chứ không phải do thực tế bạn là một người như vậy. Khi trung thành với một “con người thật”, cuối cùng bạn đi đến chỗ cụ thể hóa những thói quen cảm xúc tiêu cực.
Nhớ lại lời dạy trong Tính tự mệnh xuất, giống như thế giới phân mảnh này, chúng ta cũng chia thành nhiều mảnh. Thay vì nghĩ về mình như là một con người đơn độc, thống nhất, đang cố gắng tự khám phá bản thân bằng cách suy ngẫm về chính mình, chúng ta có thể nghĩ về mình như là những mảng cảm xúc, tính khí, ham muốn và những đặc điểm phức tạp thường lôi kéo chúng ta theo những cách trái ngược và khác hẳn nhau. Khi nghĩ được như vậy, chúng ta sẽ trở nên dễ uốn nắn. Chúng ta sẽ tránh được nguy cơ tự đóng khung mình trong một khoảnh khắc nào đó.
Cách tiếp cận Khổng giáo là ghi nhận các khuôn mẫu của bạn rồi tích cực thay đổi chúng. Dần dần phá vỡ các khuôn mẫu đó – tức là, kìm nén tiếng thở dài mỗi khi bố bạn bắt đầu sa đà vào một trong những khuynh hướng chính trị của ông (mặc dù bạn phát bực lên được); hoặc ra cửa đón vợ đi làm về (dù bạn thích dán mắt vào cái máy tính hơn) – sẽ cho phép những khía cạnh khác của bạn lộ diện. Dần dần, bạn tiếp thu được một lối cư xử mang tính xây dựng hơn trong thế giới, thay vì bị những phản ứng cảm xúc vô kỷ luật dẫn dắt. Từng chút một, bạn phát triển các phần của bản thân mà ngay cả bạn cũng chưa từng biết đến và bạn bắt đầu trở thành một người tốt hơn.
Việc phá vỡ các khuôn mẫu giúp chúng ta nhận ra rằng người khác cũng có thể uốn nắn được. Có thể bạn đã có một xung đột nào đó với mẹ của mình. Mẹ bạn không tán thành những lựa chọn cuộc đời của bạn, và bà nói những lời chì chiết khiến bạn cảm thấy tội lỗi. Đến mức chỉ nghĩ đến việc nói chuyện với mẹ thôi cũng khiến bạn thấy phát khùng rồi, và giờ bạn hoàn toàn tránh giáp mặt với mẹ. Bạn biết rằng nội dung cuộc trò chuyện sẽ cứ lặp đi lặp lại, ý nghĩ đó khiến bạn thấy vô vọng.
Trong hầu hết các trường hợp như thế, vấn đề giữa bạn và mẹ không phải là hai mẹ con không hợp tính hay mẹ cứ thích hạch tội bạn. Vấn đề là
cách giao tiếp của bạn bị rơi vào một khuôn mẫu. Mẹ và bạn bị đóng khung trong các vai của mình: bà là người mẹ hay lải nhải, còn bạn là đứa con cứng đầu cứng cổ. Cả hai đều chẳng vui vẻ gì với điều này, nhưng lại không nhìn thấy lối thoát nào.
Lối thoát chính là phải nhận ra được mình đã rơi vào một lối mòn, nhưng bạn có thể thay đổi nó. Hãy nhớ rằng mẹ bạn không phải cứ như vậy mãi hay không thay đổi được. Bà cũng là một con người phức tạp và đa diện. Hãy nghĩ xem bạn có thể làm hoặc nói gì để khơi gợi những bộ mặt khác của mẹ ra, rồi cư xử như thể bạn đang nói chuyện với những bộ mặt đó của mẹ. Mẹ bạn hay cằn nhằn và gây áp lực cho bạn, nhưng bà cũng có mong muốn dưỡng dục con cái hoặc ít nhất là cảm thấy rằng mình đang dưỡng dục con. Bạn phải làm sao để thay đổi nội dung hay giọng điệu để gợi lên bộ mặt người mẹ muốn dưỡng dục con cái đó? Làm được như vậy, bạn sẽ giúp mẹ sống với một vai khác: một người mẹ chu đáo luôn muốn ở bên cạnh con mình.
Phản ứng thẳng thừng của bạn có thể là phản đối ngay: “Nhưng chuyện đó chẳng thực tế chút nào. Tôi thật sự không cảm thấy như vậy”. Tại sao bạn phải thay đổi hoàn toàn hành vi của mình để gợi lên một khía cạnh khác của mẹ mình và tỏ ra rộng lượng trong khi bạn đang cảm thấy bực bội chứ? Điều này xuất phát từ quan niệm sai lầm rằng chúng ta nên đáp lại một cái tôi “thâm tâm” nào đó. Chúng ta luôn luôn thay đổi. Vậy thì chúng ta sẽ hành động theo cái khuôn mẫu mà mình kẹt vào trong thời điểm này, hay theo hướng giúp chúng ta mở ra cả một bầu trời khả năng?
Không có cái gì gọi là khám phá con người đích thực trong chính chúng ta hay ở người khác. Nhà tâm lý học, triết gia William James (1842 – 1910)********từng viết rằng: “Một người có nhiều cái tôi xã hội bằng với số người mà anh ta quen biết” – một phát biểu mang màu sắc Khổng giáo
đến ngạc nhiên. Mỗi chúng ta có vô số vai trò thường xuyên xung đột nhau, mà lại không có quy tắc nào có thể cho chúng ta biết phải định hướng chúng ra sao. Chỉ có thực hành các lễ nghi mới giúp chúng ta học được cách làm điều đó.
******** William James là nhà triết học, nhà tâm lý học hàng đầu nước Mỹ thế kỷ 19. Ông là nhà giáo dục đầu tiên mở lớp dạy về tâm lý học ở Mỹ, ông được coi là cha đẻ của tâm lý học nước Mỹ. Về triết học, ông là người đóng góp quan trọng nhất cho trường phái triết học thực dụng.
Những hành vi theo khuôn mẫu và thói quen học vẹt của chúng ta – chứ không phải các lễ nghi – mới là cái thật sự xui khiến cuộc đời chúng ta và cản trở sự quan tâm của ta đến người khác. Nhưng khi thực hành các lễ nghi “như thể” giúp phá vỡ những khuôn mẫu này trong đời, chúng ta sẽ có được khả năng cảm nhận cách ứng xử tốt với những người xung quanh. Điều này mới là quan trọng. Nó được gọi là nhân (ren), hay nhận thức về lòng tốt.
Tầm quan trọng của đức nhân
Các môn đồ của Khổng Tử thường yêu cầu ông định nghĩa về đức nhân. Mỗi lần, và với mỗi người ông trả lời mỗi khác, tùy theo tình huống. Đó là bởi vì đức nhân trong Khổng giáo không phải là thứ bạn có thể định nghĩa một cách vắn tắt. Nó là khả năng đáp ứng tốt với người khác; sự phát triển một tri giác cho phép bạn cư xử theo những cách tốt đẹp với những người xung quanh và nhìn thấy những mặt tốt của chính họ.
Mọi thứ chúng ta làm đều thể hiện hoặc làm giảm đức nhân. Bạn hẳn đã từng trải qua cảm giác không khí trong phòng thay đổi đột ngột ra sao khi ai đó xông vào. Nhưng bạn có thể không nhận ra cái cau mày từ một người xa lạ, khi bạn đang bách bộ trên phố, ảnh hưởng đến bạn như thế nào. Cái nhíu mày thoáng qua đó có thể tạo ra ảnh hưởng tiềm thức đến tâm trạng
của bạn và dẫn đến một loạt các phản ứng. Và suốt cả ngày hôm đó, bạn không phải là người duy nhất bị thay đổi vì cái nhíu mày đó. Những người mà bạn tiếp xúc cũng chung số phận vì chịu tác động của bạn.
Để hiểu mức độ ảnh hưởng của chúng ta đến người khác, hãy thử điều chỉnh một số hành vi điển hình của bạn. Xem điều gì xảy ra khi bạn trừng mắt với người bạn thân, hồ hởi chào vị giám đốc lầm lỳ trong thang máy, hoặc đặt ba lô của bạn lên chiếc ghế trống kế bên trên tàu điện ngầm vào giờ cao điểm. Rồi sau đó thử hành động khác đi: mở cửa giùm cho một người lạ, nhắn tin cho một người bạn đang gặp trục trặc trong một mối quan hệ, nhẹ nhàng giúp bà của bạn bước qua mặt đất đóng băng. Để ý xem tất cả những thay đổi này ảnh hưởng đến bạn và những người xung quanh như thế nào.
Khổng Tử sẽ không định nghĩa đức nhân; ông muốn các môn đồ của mình biết rằng chúng ta phải cảm nhận đức tính đó trong tất cả những tình huống biến đổi khác nhau, để hiểu ý nghĩa của việc thể hiện đức nhân. Chúng ta đều cảm nhận được nó, và một khi đã nhận ra nó, chúng ta có thể phát triển nó hơn nữa.
Thể hiện đức nhân
Làm thế nào để giúp một người bạn vượt qua một thời điểm khó khăn? Với nhiều nhà đạo đức, đây có vẻ không phải là một câu hỏi quan trọng. Họ có xu hướng tập trung vào các vấn đề chung chung mà chúng ta có thể tính toán một cách lý tính theo những hướng rộng hơn. Họ thường chọn các ví dụ, như thí nghiệm về chiếc xe goòng mà chúng tôi đã nhắc đến trong phần giới thiệu, tách biệt hoàn toàn khỏi những rắc rối của cuộc sống hằng ngày – những thí nghiệm tư duy mà mục tiêu duy nhất là để giải quyết một vấn đề đã được xác định rõ thông qua sự nghiền ngẫm của lý trí. Ở dạng thuần túy nhất, thí nghiệm về chiếc xe goòng không có chỗ cho
những thứ mơ hồ như quyết định của bạn sẽ thay đổi thế nào nếu một trong năm người là mẹ của bạn, hoặc nếu cả năm đều là trẻ em. Các nhà đạo đức học sẽ nói rằng nếu bạn để những yếu tố như vậy ảnh hưởng đến quyết định của mình thì thực ra bạn không phải là một người lý tính; bạn đang cho phép cảm xúc che phủ phán đoán đạo đức của bạn.
Triết gia người Đức Immanuel Kant (1724 – 1804) đã suy ngẫm về những tình thế này. Ông lập luận rằng bất kể trong tình huống nào, bạn cũng nên hành động như thể hành động của bạn có thể trở thành một quy luật phổ quát cho bất kỳ ai.
Để minh họa điều này, Kant đưa ra thí nghiệm tư duy như sau: Giả sử một người đàn ông vô tội đang ẩn trốn trong nhà bạn. Một tên sát nhân đang lùng giết anh ta gõ cửa nhà bạn, hỏi rằng anh ta có trong nhà không. Bạn nên nói dối để cứu người đàn ông vô tội ấy, hay nên nói sự thật?
Câu trả lời nổi tiếng của Kant là bạn phải luôn luôn nói thật, vì huấn thị không nói dối là tuyệt đối và không nên thay đổi theo tình huống. Trọng tâm trong bài tập trí tuệ của ông là lập luận rằng bối cảnh của tình huống không có liên quan. Ngay cả trong một tình huống hiển nhiên mà bất kỳ ai cũng sẽ nói dối (như chính Kant đã thừa nhận) như vậy, thì nói dối vẫn là điều sai trái.
Từ quan điểm của triết học Kant thuần túy, một câu hỏi như “Làm thế nào để giúp đỡ người bạn gặp khó khăn?” sẽ không bao giờ được coi là điểm khởi đầu hữu ích cho một suy ngẫm đạo đức. Nó liên quan đến quá nhiều vấn đề lộn xộn: những phức tạp trong khó khăn của người bạn, cô ấy dễ tổn thương như thế nào và có ai quanh cô đang ủng hộ cô, tiền sử giải quyết khủng hoảng của cô, những cảm xúc đối lập của những người khác liên quan đến tình huống đó.
Tuy nhiên, đối với Khổng Tử, kịch bản “người bạn gặp rắc rối” chính xác là loại ví dụ thúc đẩy chúng ta phải suy nghĩ về hành vi đạo đức. Khổng Tử không chỉ có thể nói rằng tất nhiên bạn phải nói dối để cứu người đàn ông vô tội, vì bạn cần suy nghĩ về toàn bộ tình huống chứ không chỉ về một huấn thị đạo đức phổ quát kiểu như “Nói dối là sai”. Mà ông còn gần như chắc chắn tin rằng khi tước bỏ bối cảnh với tất cả các chi tiết phức tạp như vậy, Kant đã khiến thí nghiệm tư duy của mình cơ bản là thành vô dụng.
Việc cố gắng xây dựng các quy luật trừu tượng, phổ quát để hướng dẫn chúng ta chẳng những không thích đáng mà còn nguy hiểm. Bởi vì nó ngăn trở chúng ta học cách vật lộn với sự phức tạp trong các tình huống. Nó che lấp hiểu biết của chúng ta trong cách thể hiện đức nhân.
Khổng Tử có thể sẽ nhắc nhở chúng ta rằng có một điều duy nhất chúng ta có thể làm, chỉ một điều duy nhất thôi, để giúp một người bạn đang gặp rắc rối: đưa cảm giác của bạn vào tình huống đó để hiểu khó khăn thật sự người bạn đang gặp phải là gì. Mỗi tình huống là một trường hợp độc nhất và nó lại còn liên tục thay đổi; những thay đổi đó có thể xuất phát từ mọi thứ, từ việc người bạn kia có ngủ đủ giấc hay không cho đến cách mà bạn phản ứng khi cô ấy chia sẻ những khó khăn của mình với bạn. Cách bạn đọc tình huống, khả năng nắm bắt bức tranh toàn cảnh, khả năng thấu hiểu tất cả những yếu tố phức tạp đã đưa người bạn kia đến tình cảnh cụ thể này chính là cái sẽ giúp bạn hồi đáp bằng đức nhân. Bạn sẽ hiểu liệu người bạn của bạn cần một ai đó đóng vai trò can thiệp nhiều hơn (“Bạn phải chấn chỉnh lại cuộc sống của mình đi”), hay cô ấy cần một người bạn tâm tình điềm tĩnh, biết cảm thông (“Như thế hẳn là khó khăn lắm”), hay liệu có ích hơn chăng khi bạn lẳng lặng pha cho cô ấy một tách trà hoặc đề nghị thu quần áo khô vào cho cô ấy.
Hầu hết chúng ta đều biết tất cả những điều này, ở một mức độ nào đó. Nhưng theo quan điểm của Khổng giáo, chúng ta có thể làm tốt hơn nữa. Chúng ta có thể hiểu rằng không có những quy chuẩn để chúng ta biết chính xác phải làm gì khi bước vào thế gian hỗn loạn, tung hứng với vô số vai trò, cảm xúc và kịch bản. Quy chuẩn duy nhất là đức nhân. Đối với Khổng Tử, trau dồi và thể hiện đức nhân là cách duy nhất để trở thành một con người đạo đức.
Tạo ra và biến đổi các lễ nghi
Khổng Tử thường bị đóng khung hình ảnh là một người theo chủ nghĩa truyền thống cứng nhắc, người đã yêu cầu các môn đồ phải sống cả đời theo các quy ước xã hội và gắn với các vai trò cụ thể. Nhưng cho đến giờ, rõ ràng những điều ông dạy là trái ngược. Khi chúng ta thực hiện các lễ nghi và đạt tới ý thức về đức nhân, chúng ta trở nên trái ngược hoàn toàn với sự cứng nhắc. Các lễ nghi không chỉ giúp chúng ta khỏi mắc kẹt vào trong bất kỳ vai trò nào, mà việc rèn luyện bản thân trong các lễ nghi còn có nghĩa là học cách biết được khi nào và làm thế nào để tạo ra hoặc thay đổi chúng.
Trên thực tế, Tính tự mệnh xuất chỉ cho chúng ta biết rằng các nghi lễ bắt nguồn chính từ cách này. Trong khởi thủy của nền văn minh nhân loại, người ta đã trải qua những khoảnh khắc khi mà, giữa những cuộc chạm trán hỗn loạn và tiêu cực diễn ra khi người ta va vào nhau, thì mọi thứ thực sự đã diễn ra tốt đẹp (Hãy nghĩ về một cái gì đó đơn giản kiểu như hỏi xin thứ gì thay vì cứ chộp lấy nó, hoặc giúp đỡ một người bạn đang chật vật hơn là phớt lờ anh ta). Người ta đã để ý đến tác động tích cực của những cuộc chạm trán này và bắt đầu lặp lại, cuối cùng chúng trở thành lễ nghi. Dần dần, con người đã phát triển một loạt các danh mục lễ nghi để hướng dẫn họ cách cư xử tốt với nhau và dạy các thế hệ tương lai cũng làm như vậy.
Chúng ta cũng tạo ra và thay đổi các lễ nghi. Hãy tưởng tượng rằng bạn bước vào phòng và nhìn thấy vợ mình trông có vẻ lo lắng về điều gì đó. Trước đây, bất cứ khi nào bắt gặp cô ấy ở trong tình trạng này, bạn sẽ ngồi xuống bên cạnh và khuyến khích cô ấy nói ra. Cho cô ấy không gian bày tỏ cảm xúc luôn luôn là lễ nghi đã được thiết lập.
Nhưng một quan điểm Khổng giáo sẽ nhấn mạnh đến những điểm phức tạp: nghĩa là, trong tình huống cụ thể này, cần hiểu được hiện giờ cô ấy cần kiểu quan tâm nào. Có thể bạn nhận ra rằng làm một điều gì đó khác – như im lặng ôm chặt cô ấy – mới là điều tốt nhất với cô lúc này, bởi vì bạn cảm nhận được điều cô ấy cần nhất hiện giờ chính là được trấn an bởi sự có mặt của bạn. Nếu làm như vậy, bạn đã tạo ra một lễ nghi mới. Bạn làm một việc mới mẻ, hoàn toàn có chủ đích, dựa trên kinh nghiệm về các lễ nghi mà vợ chồng bạn đã sử dụng trước đó, dựa trên sự thấu hiểu vợ mình và khả năng đọc tình huống của bạn. Nếu điều này hiệu quả, thì đến lượt cô ấy cũng sẽ phản ứng khác đi, rồi điều này sẽ dần trở thành một lễ nghi giữa hai bạn. Bạn đã thay đổi các lễ nghi trước đó và tạo ra một lễ nghi mới. Và khi làm vậy, bạn đã tạo ra một thực tại mới cho cả hai: một thực tại mà trong đó bạn đã tạo ra một sự kết nối tốt hơn.
Nếu thành công trong việc liên tục thể hiện đức nhân, thì chúng ta sẽ được gì từ đó? Đôi khi, các môn đồ của Khổng Tử đã hỏi ông những câu tương tự. Thực tế, họ đã hỏi liệu ông có cho rằng chúng ta sẽ được tưởng thưởng khi chết đi nếu làm nhiều điều tốt cho người khác không. Câu trả lời của ông rất đơn giản:
“Vị tri sinh, yên tri tử.”********
(Chưa hiểu được sự sống – sao hiểu được sự chết?)
******** Luận ngữ, thiên thứ 11, bài 11.
Câu trả lời của Khổng Tử không nói đến việc chúng ta nên hay không nên tin vào lai thế. Đúng hơn là, ông nhấn mạnh rằng chúng ta nên tập trung vào những gì có thể làm, ở đây và ngay lúc này, để khơi lên những điều tốt đẹp nhất từ những người xung quanh.
Mặc dù Khổng Tử không tập trung vào hạnh phúc của cá nhân, nhưng ông lại vô cùng thân thuộc với niềm hạnh phúc sâu sắc đến từ việc phấn đấu trở thành một con người tốt đẹp hơn. Khi được hỏi về bản thân, ông đáp:
“Kỳ vi nhân dã, phát phẫn vong thực, lạc dĩ vong ưu, bất tri lão chi tương chí vân nhĩ.”********
(Đấy là người phát phẫn [giận] đọc sách [tìm hiểu đạo lý] đến nỗi quên ăn, khi tìm được rồi thì vui đến quên sầu, chẳng biết tuổi già đã đến.) ******** Luận ngữ, thiên thứ 7, bài 18.
Tu dưỡng bản thân để vun bồi cho một thế giới tốt đẹp hơn “Khắc kỷ phục lễ vi nhân.”********
(Khắc kỷ [thắng chế tư dục] mà trở về lễ [đạo lý] thì là đức nhân.) ******** Luận ngữ, thiên thứ 12, bài 1.
Nghĩ lại lịch sử hình thành lễ nghi “Làm ơn” và “Cảm ơn”. Cái tưởng như chỉ là một thay đổi nhỏ từ nhiều thế kỷ trước rốt cuộc đã trở thành một phần của cái lớn lao hơn. Một thế giới mới bắt đầu phát triển, thế giới mà mọi người có thể hình dung ra đối xử với nhau như những người bình đẳng thì sẽ thế nào, rồi trải nghiệm trong giây lát cái cảm giác cư xử ngang hàng với nhau. Và dần dần, chúng ta đã trở thành một xã hội nơi người ta đại thể tin tưởng rằng tất cả mọi người nên bình đẳng.
Chúng ta có xu hướng tin rằng để thay đổi thế giới, chúng ta phải nghĩ lớn. Khổng Tử có thể không chống lại quan điểm này nhưng hẳn ông cũng nói rằng: Cũng đừng bỏ qua những điều nhỏ. Đừng quên nói “Làm ơn” và
“Cảm ơn”. Thay đổi sẽ không xảy ra nếu mọi người không thay đổi cách cư xử của mình, và họ sẽ không thay đổi được cách cư xử nếu không bắt đầu với những việc nhỏ.
Khổng Tử đã dạy rằng chúng ta chỉ có thể tu dưỡng đức nhân thông qua các lễ nghi. Tuy nhiên, chỉ khi sống với đức nhân, chúng ta mới ý thức được khi nào thì nên sử dụng các lễ nghi và làm sao để thay đổi chúng. Điều này có thể nghe luẩn quẩn, và nó đúng thật như thế. Chính vòng lặp này tạo nên sự sâu sắc trong tư tưởng của Khổng Tử. Không có khuôn khổ đạo đức hay luân lý nào vượt qua nổi bối cảnh và sự phức tạp trong cuộc sống con người. Tất cả những gì chúng ta có là một thế giới hỗn độn mà ở đó chúng ta làm việc và cải thiện bản thân. Những nghi thức như thể bình thường này là phương tiện để chúng ta hình dung ra những thực tại mới và dần xây dựng nên những thế giới mới. Cuộc sống của chúng ta bắt đầu trong ngày bình thường và lưu lại trong ngày bình thường. Chỉ trong ngày bình thường, chúng ta mới có thể bắt đầu tạo ra những thế giới thực sự tuyệt vời.
4
VỀ NHỮNG QUYẾT ĐỊNH: MẠNH TỬ VÀ THẾ GIỚI THẤT THƯỜNG
H
ãy tưởng tượng bạn đang cố gắng lập ra một kế hoạch khởi động cuộc đời mình. Có thể bạn là một thanh niên tốt nghiệp đại học đầy tham vọng vừa mới gia nhập lực lượng lao động, hoặc bạn đang mắc kẹt trong một cuộc khủng hoảng tuổi trung niên về cả đời sống cá nhân lẫn nghề nghiệp. Hoặc có thể bạn đang cố gắng quyết định có nên kết hôn với bạn gái của mình hay không, hoặc bạn và người bạn đời của mình muốn xây dựng một gia đình nhưng không biết chắc phải xoay xở thế nào với nghề nghiệp có những đòi hỏi khắt khe của cả hai. Và sau đó hãy hình dung rằng bạn bắt tay vào kế hoạch của mình, để rồi chỉ vấp phải hết thất bại này đến trở ngại khác. Bạn gửi hàng tá hồ sơ xin việc nhưng chẳng ích gì. Bạn gái của bạn quyết định rằng rốt cuộc thì cô ấy không muốn kết hôn, và chia tay với bạn. Bạn và người bạn đời sinh một đứa con có vấn đề sức khỏe nghiêm trọng cần được tập trung chăm sóc toàn thời gian. Thế là dù bạn có lên kế hoạch gì đi nữa, bạn cũng đang phải đối mặt với những kết quả không mong đợi, và kế hoạch của bạn đổ bể.
Một trong những triết gia của chúng ta đã trải nghiệm một điều giống hệt trong cuộc đời của chính ông. Cuối thế kỷ 4 trước Công nguyên, thời kỳ xung đột liên miên mà ngày nay gọi là thời Chiến Quốc, Mạnh Tử, một nhà Nho, đã quyết định rằng đó chính là thời điểm để lập nên một triều đại mới dựa trên triết thuyết Khổng giáo. Dẫu đã có tuổi, ông vẫn bắt đầu đi
hết nước chư hầu này sang nước chư hầu khác để nói chuyện với các nhà cai trị những đất nước đó, hy vọng thuyết phục được một trong số họ trọng dụng ông làm quân sư, lắng nghe những triết lý của ông và áp dụng vào thực tế.
Sau nhiều năm, vua nước Tề đã phong cho Mạnh Tử làm khách khanh* và cho nhiều học trò theo học ông. Tất cả mọi thứ mà vị triết gia già này đã dâng hiến cả đời mình dường như sắp trở thành hiện thực: Ông sẽ là triết gia đứng sau một vị minh quân và giúp vị vua ấy mở ra một thời đại mới mẻ, thái bình.
* Người tài được mời ở lại nhà quý tộc môn hào để giúp việc, làm cố vấn.
Nhưng ngay sau đó, ông nhận ra vua nước Tề không quan tâm đến việc học hỏi các triết thuyết của mình. Khi vị vua này tiến hành một cuộc chiến chống lại một quốc gia láng giềng sau khi tung tin rằng chính Mạnh Tử đã thúc giục mình làm như vậy, Mạnh Tử đã tuyệt vọng nhận ra rằng công việc của ông thế là đi đời. Vua Tề đã sử dụng ông làm bình phong để khiến hành động xâm lăng của mình có vẻ đạo đức chứ không hề có ý định lắng nghe ông. Đã quá trễ để đi tìm một nơi khác. Mạnh Tử sẽ không bao giờ trở thành triết gia đứng sau một bậc quân vương xứng đáng. Vì thế ông đành rời nước Tề trở về cố xứ.
Mạnh Tử phải đối mặt với một tình thế lưỡng nan cực hạn của con người: Một thất bại cực kỳ đáng thất vọng phá hỏng các kế hoạch mà ông đã cẩn thận đề ra. Ông mắng nhiếc số phận. Ông trách móc ông Trời.
Nhưng trải nghiệm đó đã góp phần lớn trong việc định hình triết lý của ông. Mạnh Tử sẽ lập luận rằng chính những điều chúng ta tin là đúng khi lên kế hoạch cho đời mình, trớ trêu thay, cũng là những điều đã giới hạn chúng ta.
Cách chúng ta sống và đưa ra quyết định phụ thuộc vào việc chúng ta tin rằng mình đang sống trong một thế giới nhất quán và ổn định, hay một thế giới – mà như Mạnh Tử đã dạy – không thể đoán trước và thất thường. Nhưng làm sao chúng ta có thể sống một cuộc đời tốt đẹp nếu chúng ta từ bỏ những quan niệm cho rằng thế giới có trật tự và công bằng, rằng vạch lộ trình cuộc sống là cách để đạt được thành công? Làm sao chúng ta dám lập kế hoạch hay quyết định bất cứ điều gì, nếu chúng ta đang sống trong một thế giới thất thường?
Thế giới nhất quán và thế giới thất thường
Khi lập kế hoạch cho tương lai, chúng ta có xu hướng giả định rằng tương lai là điều có thể tiên lượng. Tất nhiên, chúng ta vẫn đãi bôi nói rằng cuộc sống có thể thay đổi trong tích tắc và rằng không có gì là chắc chắn. Nhưng chúng ta vẫn thường bị bất ngờ khi mọi thứ không diễn ra theo cách chúng ta mong đợi. Và đó là bởi khi nghĩ về việc sẽ sống cuộc đời mình như thế nào, chúng ta có xu hướng hành xử như thể có những yếu tố ổn định nhất định mà chúng ta có thể trông chờ trong một thế giới nhất quán, và giả định này sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của chúng ta.
Mặc Tử, một trong những người cùng thời với Mạnh Tử, đã thấu suốt thế giới quan này. Một người đàn ông có xuất thân hèn mọn đã tự tạo dựng thành công trong đời, cuối cùng ông đã thành lập được một cộng đồng tôn giáo kết nối chặt chẽ, và các tác phẩm triết học của ông đã phác họa được tầm nhìn về một xã hội công bằng mà bất cứ ai làm việc chăm chỉ sẽ phát triển phồn vinh.
Mặc Tử đồng tình với tư tưởng Khổng giáo rằng xã hội đã không thể giúp con người thịnh vượng. Ông rất tin rằng mọi người nên được khuyến khích để cải thiện đạo đức. Nhưng không giống như các nhà Nho (người theo Khổng giáo), Mặc Tử và các môn đồ (người theo phái Mặc gia) không
tin rằng các lễ nghi là công cụ giúp mọi người trở thành người tốt. Thay vào đó, họ gạt bỏ chúng bởi cho rằng chúng vô nghĩa và giáo điều, một sự lãng phí thời gian khiến người ta không thể tập trung vào những gì thực sự quan trọng. Và cái mà họ nghĩ thực sự quan trọng là niềm tin chân thành. Trong trường hợp này là tin vào Thượng đế, Trời, hay Thiên đế, vị thần mà họ tin là đã tạo ra thế giới này.
Đối với Mặc Tử và các môn đồ, Trời là một vị thần đức hạnh đã đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng lẽ đúng sai. Con người phải tuân theo những chỉ dẫn này để sống tốt. Nếu làm vậy, họ sẽ được tưởng thưởng; còn nếu không, họ sẽ bị trừng phạt. Mặc Tử tin rằng vì con người trong thời đại của ông đã không tuân theo các chỉ dẫn này, và đó là lý do dẫn đến sự vô đạo đức, suy đồi xã hội và nhiễu loạn chính trị. Những người theo phái Mặc gia đã mường tượng về một xã hội được xây dựng lại dựa trên quy tắc đạo đức của Trời. Mặc Tử cho rằng nếu con người được dạy tin vào một loại quy tắc đạo đức công bằng làm nền tảng của vũ trụ, thì họ sẽ buộc phải cư xử có đạo đức, nhờ đó xã hội sẽ tốt đẹp hơn. Với việc nhấn mạnh vào niềm tin chân thành, việc nghi ngờ các nghi lễ, và nhấn mạnh về một thế giới nhất quán và có thể tiên lượng do một vị thần tốt lành sáng tạo nên, những người phái Mặc gia, theo nhiều cách, khá giống với những người Tin Lành thời kỳ đầu.
Các tư tưởng Tin Lành đã giúp định hình phần lớn những gì chúng ta xem là hiển nhiên trong thế giới hiện đại. Chúng ta có thể tin hoặc không tin vào Chúa, nhưng chúng ta vẫn tin vào một khuôn khổ cơ bản giống nhau. Chúng ta là những người ổn định sống trong một thế giới ổn định. Chúng ta nên hành động như những con người lựa chọn bằng lý trí, biết tính toán cái gì có lợi và cái gì gây hại cho mình. Nếu chúng ta nhìn vào nội tâm, khám phá được mình là ai, vạch ra một kế hoạch để có thể phát triển,
rồi sau đó làm việc chăm chỉ để hoàn thành kế hoạch đó, thì chúng ta sẽ phồn vinh và phát triển như mong muốn. Nói tóm lại, chúng ta là những người theo phái Mặc gia.
Hơn nữa, trong khi Khổng giáo nghĩ về đức nhân như là một thứ không thể mô tả vắn tắt mà là điều bạn phải hiểu mỗi lần mỗi khác, tùy theo từng tình huống mà bản thân đang gặp phải, thì quan niệm của Mặc Tử lại rất rõ ràng: đức nhân luôn là bất cứ điều gì có lợi cho số đông. Ông tuyên bố rằng người ta cảm thấy thế nào về những người thân thiết nhất của họ là không quan trọng, bởi không có mức độ trong tình yêu. Đúng hơn là, mọi người nên cố gắng quan tâm đến tất cả mọi người như nhau. Bốn thế kỷ sau, Chúa Jesus đã rao giảng những đức tính tương tự về việc yêu thương tha nhân, yêu thương kẻ thù, và chìa luôn má bên kia**. Và trong thời đại của chúng ta, chúng ta được khuyến khích quyên góp từ thiện, làm những công việc tình nguyện, chăm sóc cho những người kém may mắn.
** Trong Kinh Thánh Phúc Âm, phần “Bài giảng trên núi” được ghi lại trong sách Matthew có câu: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa”. (Mt 5, 38- 39)
Tuy nhiên, Mặc Tử nhận ra rằng người ta không cố nhiên cư xử đạo đức, và rằng những cảm xúc và ham muốn ích kỷ luôn cản trở họ. Ông tin rằng xã hội nên được thiết lập để thúc đẩy con người hướng tới hành vi đúng đắn. Những sự khích lệ này bao gồm tưởng thưởng (thành công, tiền bạc, danh tiếng) khi người ta làm những việc họ nên làm, và trừng phạt (thất bại, giáng chức, nộp phạt) khi họ không làm vậy. Nếu người ta tin rằng họ đang sống trong một thế giới có những quan niệm rõ ràng về đúng và sai, nơi mà làm việc chăm chỉ sẽ được đền đáp và những hành vi xấu sẽ
bị trừng phạt, họ sẽ bị thuyết phục để không làm theo những cảm xúc tầm thường mà cố gắng trở thành người tốt. Mạnh Tử đã chắc chắn rằng một khi hệ thống đúng đắn này được đưa vào thực thi, kết quả sẽ là một xã hội mà trong đó mọi người đều có lợi; một thế giới của cái mà ông gọi là “kiêm ái***”.
*** Thuyết Kiêm ái (兼愛) của Mặc Tử: yêu thương tất cả mọi người, không phân biệt địa vị cao thấp, thân sơ, giàu nghèo, và yêu mọi người như yêu mình.
Mạnh Tử bất đồng một cách căng thẳng với Mặc Tử về tất cả những điều này. Thoạt nhìn, lập trường của ông có thể có vẻ khó hiểu: Có gì đáng để phản đối về một thế giới công bằng, nơi mà làm việc chăm chỉ sẽ mang lại sự thịnh vượng, nơi có những tiêu chuẩn đáng tin cậy về đúng và sai, nơi mọi người đều được quan tâm một cách công bằng?
Nhưng Mạnh Tử lại thấu suốt một thế giới quan rất khác, bắt nguồn từ tư tưởng Khổng giáo. Ông nhìn nhận thế giới này là một nơi thất thường. Làm việc chăm chỉ không nhất thiết sẽ dẫn đến sự thịnh vượng. Những hành vi xấu không nhất thiết sẽ bị trừng phạt. Không có sự đảm bảo cho bất cứ điều gì; không có sự nhất quán ổn định và bao quát khắp thế giới để người ta có thể trông đợi. Thay vào đó, Mạnh Tử tin rằng thế giới này bị phân mảnh, hỗn loạn không ngừng và cần được tác động liên tục. Và chỉ khi hiểu rằng không có gì ổn định, chúng ta mới có thể đưa ra quyết định và sống cuộc sống của mình theo cách cởi mở nhất.
Đây là một ý tưởng gây bất an, và chúng tôi biết rằng ngay cả Mạnh Tử cũng phải đấu tranh để chấp nhận nó. Trên thực tế, ông là triết gia mà cuộc đời và tính cách được hậu thế biết đến nhiều nhất. Sách Mạnh Tử, tập hợp những giáo lý của ông được các đệ tử biên soạn sau khi ông qua đời, có rất nhiều câu chuyện, mẩu đối thoại và giai thoại chi tiết, mô tả toàn diện con
người ông. Đây chính là chỗ làm cho cuốn sách trở nên hấp dẫn. Nó truyền đạt ý nghĩa của việc làm một con người có thể mắc sai lầm, với tất cả sự phức tạp của nó. Mạnh Tử không phải là Đức Phật thanh thản, không phải là Đức Chúa vị tha. Ông cũng không hề là một người khôn ngoan, nhân từ và điềm tĩnh, ông chỉ tình cờ là một người tài giỏi, lanh lợi, mạnh mẽ, kiêu ngạo và phức tạp, một người đàn ông đã đấu tranh để đạt được đức nhân và đôi khi vẫn không thể sống theo triết lý của chính mình.
Khi đưa ra quan điểm về thế giới như là một quá trình đan kết lại với nhau không ngừng nghỉ bằng hành động của con người, Mạnh Tử nhận thấy những tư tưởng của Mặc Tử đặc biệt nguy hiểm. Ông tin rằng những tư tưởng của Mặc Tử sẽ không dẫn đến một thế giới kiêm ái và hòa hợp xã hội. Thay vào đó, chúng sẽ dẫn đến một thế giới gần với phản xạ có điều kiện, nơi mọi người đã được quy định làm những gì họ phải làm để có được phần thưởng và tránh bị trừng phạt. Thực tế, đó sẽ là một thế giới nơi mọi người được đào tạo để suy nghĩ về hành động của mình thuần túy chỉ vì lợi ích: Tôi phải làm gì để có được điều mình muốn?
Trên thực tế, Mạnh Tử tin rằng người ta chỉ có thể trở nên đạo đức khi họ không nghĩ rằng có tồn tại bất kỳ hệ thống khen thưởng và trừng phạt cố kết nào. Xét cho cùng, nếu bạn tin rằng có một hệ thống như vậy tồn tại, bạn sẽ không phấn đấu để trở thành một người tốt hơn; bạn sẽ chỉ hành động để giành lợi ích cho bản thân. Trớ trêu thay, tầm nhìn xã hội bao quát của Mặc Tử về cách tạo ra một thế giới kiêm ái hoàn hảo lại dẫn đến một thế giới đầy những kẻ tìm kiếm lợi ích cá nhân.
Mạnh Tử sợ rằng những nỗ lực định hình hành vi của con người theo kiểu tính toán như vậy sẽ dẫn đến kết cuộc chia rẽ tư duy nhận thức ra khỏi khía cạnh cảm xúc của chúng ta. Trên thực tế, làm thế nào chúng ta có thể yêu thương một đứa trẻ xa lạ như chính con cái mình? Tất nhiên, loại bỏ
cảm xúc ra khỏi sự công bằng hoàn toàn là quan điểm của Mặc Tử: Lý trí sẽ cho ta quyết định một cách hợp lý rằng cái gì là tốt và cái gì không mà không hề có những ý thích bất chợt và ham muốn nào chen vào. Nhưng Mạnh Tử tin rằng cái tạo nên sự khác biệt ở những người tốt là họ không bao giờ rời xa khía cạnh cảm xúc của mình; thay vào đó, họ gìn giữ và cần mẫn tu dưỡng những phản ứng cảm xúc của bản thân. Và đó là cách giúp họ biết được đâu là điều đúng đắn để làm, quyết định đúng đắn cần đưa ra – trong mọi tình huống.
Sự khác biệt về triết lý giữa Mặc Tử và Mạnh Tử đại diện cho sự khác biệt giữa những người nghĩ rằng thế giới này là cố kết với những người nghĩ rằng nó thất thường. Một bên là một thế giới mà trong đó hành động của bạn được định hình bởi một niềm tin vào các quy tắc được áp dụng phổ quát; một bên là một thế giới mà bạn không bao giờ có thể trông mong, một thế giới mà bạn phải liên tục xây mới bằng cách tu dưỡng bản thân và các mối quan hệ của mình bằng những hành động nhỏ nhặt.
Chúng ta đưa ra quyết định như thế nào?
Thậm chí ngày nay, dù chúng ta hầu như không nhận ra, nhưng các quyết định của chúng ta được định hình bằng cách chúng ta nhìn thế giới là cố kết hay thất thường. Hầu hết chúng ta nghĩ như Mặc Tử, rằng thế giới này cố kết. Chúng ta biết rất rõ rằng mọi thứ không phải lúc nào cũng theo đúng kế hoạch, nhưng chúng ta cũng có xu hướng cho rằng thế giới vận hành theo một cách tổng quát như sau: Nếu bạn học hành chăm chỉ, bạn sẽ có thành tích tốt ở trường; nếu bạn có nền tảng giáo dục tốt, bạn sẽ kiếm được một công việc yêu thích; nếu bạn kết hôn với tình yêu của đời mình, bạn sẽ sống hạnh phúc mãi mãi.
Thông thường, chúng ta dựa vào hai mô hình dân gian để đưa ra quyết định, cả hai đều bắt nguồn từ suy nghĩ rằng có một sự ổn định nào đó trên
thế giới này.
Đó là mô hình “lựa chọn lý tính”: Chúng ta là những sinh vật lý tính có khả năng đưa ra quyết định mang tính logic. Chúng ta tiến hành vô số nghiên cứu, rồi lập danh sách các ưu và nhược điểm, cân nhắc rủi ro và lợi ích để đạt được kết quả tốt nhất có thể. Chúng ta suy nghĩ kỹ càng xem nên học lớp nào, có nên học cao học hay chấp nhận lời mời làm việc ở một thành phố xa xôi hay không.
Hoặc, chúng ta ủng hộ mô hình “trực giác”: Chúng ta quyết định dựa trên trực giác về những gì mình cảm thấy “đúng”. Chúng ta quyết định nơi để ăn tối, nơi để du lịch vào kỳ nghỉ sắp tới, hoặc đặt chiếc sofa nào cho phòng khách nhà mình.
Cuối cùng, hầu hết chúng ta sử dụng một kiểu kết hợp nào đó của cả hai mô hình này. Chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu, nhưng rồi lại làm theo những gì mình cảm thấy đúng.
Trung thành với tư tưởng thế giới này thất thường, Mạnh Tử sẽ xem cả hai mô hình quyết định đó đều là sai lầm. Nếu chúng ta tin rằng mình có thể quyết định chỉ bằng cách tính toán, chúng ta sẽ nghĩ rằng mình thực sự quyết định một cách lý tính, nhưng những quyết định đó lại bị trật đường ray vì các yếu tố vô thức. Như đã biết, nhiều nghiên cứu về việc đưa ra quyết định đã kết luận rằng cảm xúc thường trấn áp tư duy lý tính.
Nhưng điều đó chắc chắn không có nghĩa là thay vào đó chúng ta nên dựa vào bản năng, vốn thường chỉ là biểu hiện của những ham muốn không được rèn luyện hay thậm chí ích kỷ, chứ không dựa trên ý thức về điều thực sự đúng đắn nên làm.
Có một cách tiếp cận thứ ba. Chúng ta có thể liên tục mài giũa cảm xúc của mình để nó hoạt động đồng bộ với trí óc, để đưa ra những quyết định mở mang tương lai thay vì khép chặt nó lại. Chúng ta không sống trong
một thế giới bất biến, và đó là lý do tại sao loại bỏ các cảm xúc là điều cuối cùng ta nên làm, chính cảm xúc là thứ cho phép chúng ta nắm bắt mọi sắc thái của một tình huống và lèo lái vượt qua nó từ bất kỳ điểm xuất phát nào.
Bạn sẽ không thể hàn gắn một mối quan hệ trục trặc với em gái mình bằng cách ngồi xuống để có một cuộc nói chuyện chân tình mang tính đột phá. Thay vào đó, sự hàn gắn ấy sẽ chỉ xảy ra thông qua những quyết định rất nhỏ của bạn trong cách cư xử và phản ứng mỗi khi hai người nói chuyện, ngay cả khi cô em khiến bạn tức muốn điên. Suy xét chuyện gì sẽ xảy ra nếu bạn chuyển sang tập trung vào việc xem xét những tương tác hằng ngày giữa bạn và cô em, đồng thời nhận ra tất cả các chi tiết nhỏ nhặt (bao gồm phản ứng của cô ấy với cách cư xử của bạn) ảnh hưởng đến những tương tác đó. Cũng như thế giới này không ổn định, những tương tác này cũng không cố định. Nếu hiểu được điều đó, bạn có thể hành động đồng thời để thay đổi tình huống và mối quan hệ ấy bằng cách mài giũa các cảm xúc của mình để phản ứng tốt hơn, nhờ đó tạo nên một quỹ đạo tốt hơn.
Những quỹ đạo có thể xảy ra này tồn tại khắp nơi quanh chúng ta. Khi bạn lần lữa không gọi cho một người bạn ở xa bởi vì bạn đang chờ đến buổi họp mặt hằng năm để gặp nhau, là bạn đang chủ động lựa chọn không nuôi dưỡng tình bạn của hai người. Sự bê trễ của bạn là một lựa chọn chủ động mà sẽ xếp đặt mọi thứ lên một con đường nhất định. Nếu bạn trai của bạn đang tính đến chuyện chia tay, và bạn cứ nhay đi nhay lại một cách lo lắng rằng hai bạn đang làm hỏng mọi thứ, thay vì chờ đợi một chút để xem thời gian có thể thay đổi và làm dịu cảm xúc của cả hai như thế nào, chính bạn lại đang hấp tấp thúc đẩy một sự kết thúc mà có thể đã không xảy ra. Giả sử bạn đến một cửa hàng có dịch vụ chăm sóc khách hàng thật kém,
bạn yêu cầu được nói chuyện với quản lý, nếu bạn lên tiếng than phiền một cách bình tĩnh và lịch sự, bạn sẽ khơi gợi được cuộc trò chuyện giữa cả hai thay vì bít lối nó bằng cách tức giận và to tiếng, thì có thể kết quả sẽ tốt hơn.
Còn nhớ vấn đề lưỡng nan về cách nào là tốt nhất để giúp đỡ một người bạn gặp khó khăn không? Thông thường, chúng ta phản ứng dựa trên những gì chúng ta nghĩ mình có thể làm để giúp người bạn đó trong tình huống cụ thể đó. Bằng việc thừa nhận tính đặc thù của tình huống, chúng ta thực sự đang hành xử theo cách của Khổng giáo. Hầu hết chúng ta sẽ không bao giờ hiểu ra được phải trước hết suy nghĩ đến lợi ích lý tính và các quy chuẩn có thể áp dụng phổ biến trong tình huống này.
Tuy nhiên, bởi vì chúng ta thường nghĩ bản thân luôn cư xử một cách ổn định và chắc chắn, nên ta tự giam hãm mình với những vai trò nhất định trong quá khứ. Ví dụ, nếu bạn nghĩ mình là kiểu người dễ đồng tình, bạn có thể không thoải mái khi trở thành kiểu can thiệp trực tiếp, dù bạn có thể thấy rằng đó là điều mà người bạn của bạn thực sự cần vào lúc đó, chỉ bởi vì đó không phải là con người bạn. Nó nằm ngoài khuôn mẫu cư xử thường ngày của bạn. Bạn có thể nghĩ: Ừ thì, một người bạn khác có thể hối thúc cô ấy đến gặp bác sĩ/gọi luật sư/đối chất với người khai vấn của cô ấy. Còn mình thì sẽ chỉ lắng nghe thôi.
Nhưng việc tự định nghĩa bản thân “Tôi là như thế” sẽ giới hạn độ tinh nhạy của bạn với toàn bộ tình huống, giới hạn độ phóng khoáng trong phản ứng mà bạn có thể trao đi cũng như đức nhân mà bạn có thể thể hiện.
Để có cảm tưởng về toàn bộ bối cảnh trước khi đưa ra quyết định trong một thế giới thay đổi bất tận, bạn cần rèn luyện cảm xúc của mình. Bạn cần học cách suy nghĩ về các quyết định dưới dạng một bản thể phức tạp, một thế giới phức tạp và các quỹ đạo phức tạp có thể diễn tiến đa chiều.
Mạnh Tử tin rằng cách duy nhất để tu dưỡng một nhận thức đầy đủ về sự phức tạp của các tình huống là tu dưỡng khả năng thấu hiểu các hành động của chúng ta có thể dẫn đến các quỹ đạo tích cực như thế nào. Và ông tin rằng tất cả chúng ta bẩm sinh đều có tiềm năng làm như vậy: một tiềm năng đi đến đức nhân.
Nhân chi sơ tính bản thiện
Hãy hình dung bạn đang dạo bước qua một bãi cỏ có mấy đứa trẻ đang chơi đùa. Đột nhiên, bạn nghe thấy một tiếng kêu thét. Một cậu bé đã biến mất khỏi tầm mắt, nó bị trượt chân rơi xuống cái giếng bỏ hoang. Lúc này nó đang cố bám víu lơ lửng ở thành giếng, cố hết sức để không rơi xuống đáy.
Không chút do dự, chẳng cần suy nghĩ một khắc nào, bạn chạy đến giải cứu đứa trẻ. Bạn với tay vào giếng và đưa nó ra khỏi đó an toàn. Mạnh Tử đã sử dụng truyện ngụ ngôn về đứa trẻ rơi xuống giếng để nhấn mạnh rằng tất cả con người đều có tiềm năng trở thành người tốt như nhau. Ông lập luận rằng chúng ta biết điều này bởi vì không một ai ở bất cứ nơi nào lại không lập tức chạy đến cứu đứa trẻ đó. Lý do người ta làm vậy không phải là để được vinh danh, được tặng thưởng, hay được cha mẹ đứa trẻ ngợi khen và tỏ lòng biết ơn. Đó là một phản ứng tự nhiên mà con người ở bất kỳ nơi đâu cũng đều có, nó nảy sinh từ mong muốn thuần túy giản đơn là cứu đứa trẻ đó.
Nếu có thể phát triển bản năng này, chúng ta sẽ biết phải làm gì và quyết định thế nào trong mọi tình huống. Tuy nhiên, thật khó để sống trọn với tiềm năng trở thành người tốt của mình. Chúng ta ngồi lê đôi mách chuyện nhà hàng xóm, chúng ta ghen tỵ với bạn bè, chúng ta la mắng con cái. Hết lần này đến lần khác, chúng ta để những mặt xấu nhất của mình hiện ra. Nếu ai cũng sẽ chạy đến cứu một đứa trẻ đang gặp nguy hiểm, thì
tại sao, trong cuộc sống hằng ngày chúng ta lại thường xuyên làm tổn thương những người xung quanh? Tại sao chúng ta không làm nhiều hơn để nuôi dưỡng bản tính thiện của mình?
Mạnh Tử đã nhận thấy tất cả những đánh đố này, điều đó cho ông niềm tin rằng mỗi con người bẩm sinh đều có năng lực tự nhiên cho tính thiện. Ông đã viết:
“Nhân tính chi thiện dã, du thủy chi tựu hạ dã. Nhân vô hữu bất thiện, thủy vô hữu bất hạ.”****
(Bản tính con người vốn hướng về điều thiện, cũng như tính nước luôn chảy xuống thấp vậy. Nước không bao giờ không chảy xuống dưới, bản tính con người không bao giờ không hướng về thiện.)***** **** Sách Mạnh Tử, chương 11, bài số 2.
***** Những phần dịch, chú giải về sách Mạnh Tử sử dụng trong cuốn sách này có tham khảo từ sách Tứ Thư Bình Giải của tác giả, nhà nghiên cứu Lý Minh Tuấn. Trân trọng cảm ơn tác giả vì những đóng góp cho văn hóa nước nhà.
Nhưng tính thiện này chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng. Bản tính con người vốn thiện, nhưng nó có thể bị tiêu biến, có thể bị biến dạng hoặc bị thay đổi bởi những gì nó gặp phải. Như Mạnh Tử đã nói:
“Kim phù thủy, bác nhi dược chi, khả sử quá tảng; kích nhi hành chi, khả sử tại sơn. Thị khởi thủy chi tính tai? Kỳ thế, tắc nhiên dã. Nhân chi khả sử vi bất thiện, kỳ tính diệc do thị dã.”******
(Đối với nước, đánh vào thì có thể nhảy lên trên, chặn dòng thì có thể khiến nó dâng tới núi. Bản tính nước liệu có phải thế chăng? Do tình thế, nó phải như vậy. Con người có thể bị khiến trở thành bất thiện, tính người cũng như vậy thôi.)
****** Sách Mạnh Tử, chương 11, bài số 2.
Mạnh Tử muốn mọi người thấu hiểu một cách ruột gan về cảm giác của thiện lương để hiểu làm thế nào trở thành người tốt. Cảm giác là người tốt sẽ như thế nào? Bạn phải làm gì mỗi ngày để có được cảm giác đó?
Để trả lời những câu hỏi này, Mạnh Tử đã dạy rằng chúng ta nên nghĩ về tính thiện của mình như những nụ mầm nhỏ. Tất cả nụ mầm có tiềm năng phát triển thành cái gì đó lớn hơn. Nhưng chúng phải được chăm bón đúng cách trong một môi trường nuôi dưỡng đầy đủ để đạt được tiềm năng đó. Tương tự như vậy, mỗi chúng ta đều có tính thiện phôi thai bên trong mình. Vì vậy, Mạnh Tử kết luận rằng mỗi người chào đời đều bình đẳng, được phú cho tiềm năng trở thành nhà hiền triết: khả năng tạo ra một môi trường mà trong đó mọi người đều hưng vượng.
Nhưng chúng ta có xu hướng bỏ bê các nụ mầm của mình, quên tưới tắm hay chăm dưỡng chúng, còn không thì lại quá ép uổng: chúng ta tóm lấy chúng và cố lôi kéo để chúng mọc lên. Chúng ta không chỉ phá vỡ bản tính thiện của mình mà còn trở nên khốn khổ, dễ bị chi phối bởi những bản năng xấu xa nhất của mình: ghen tuông, giận dữ và oán hận. Khi làm thế, chúng ta đã gây hại nhân tính của chính mình và làm hại những người xung quanh chúng ta. Với việc buông lỏng những mặt tồi tệ nhất trong con người mình, chúng ta khiến người khác cũng bộc lộ những điều tồi tệ bên trong họ và khiến họ cũng giết chết nụ mầm của chính mình. Hầu hết chúng ta không đạt được tiềm năng của mình, nhưng đây không phải là điều nên xảy ra.
Nếu tính thiện thực sự có thể quan sát được hữu hình như những nụ mầm thực sự, thì nó chẳng phải là thứ gì đó trừu tượng như thuyết kiêm ái của Mặc gia hay lòng yêu thương tất cả chúng sinh của Phật giáo; tính thiện của Mạnh Tử không liên kết với bất kỳ kiểu học thuyết nào đòi hỏi chúng ta phải yêu thương những người lạ chưa từng gặp giống như yêu
thương những người bạn tri âm tri kỷ của mình. Đúng hơn, tính thiện là thứ chúng ta có thể cảm nhận và nuôi dưỡng trong cuộc sống hằng ngày với chính những người ở bên cạnh ta.
Nếu để ý, chúng ta có thể thấy bất cứ khi nào chúng ta thực hiện một hành động tử tế, dù nhỏ đến đâu – như nói chuyện với ai đó một cách ấm áp, giữ cửa giúp cho người lạ, giúp hàng xóm xúc tuyết khỏi chiếc xe nhà họ sau cơn bão tuyết – chúng ta có thể sẽ trải nghiệm một cảm giác thể chất, như hơi ấm. Cảm giác cụ thể đó chính là nụ mầm của tính thiện mà Mạnh Tử nói đến đang nảy nở bên trong, được nuôi dưỡng bởi hành động rộng lượng và kết nối với người khác của chúng ta.
Khi bạn chú ý đến cảm giác thể chất đó, nuôi dưỡng những mặt tốt đẹp hơn của bản thân và nhận thấy tác động của nó lên chính bạn và người khác, bạn sẽ có động lực để tiếp tục. Như vậy, bạn sẽ không phát triển tính thiện của mình một cách chung chung: Bạn đang học qua từng bước của quy trình gieo các điều kiện cần thiết để nó có thể lớn nhanh. Bạn khởi đầu như một người nông dân đơn độc, gieo trồng những nụ mầm trên cánh đồng nhỏ bé của bạn, nhưng hiệu quả lại tỏa ra bên ngoài. Những người nhận thành quả từ tính thiện của chúng ta sẽ có cảm hứng để hành động tốt hơn và tiếp tục trồng những nụ mầm tính thiện của chính họ. Những khoảnh khắc thiện lương được bồi đắp cho đến khi lấp kín một ngày, rồi cuối cùng là suốt một đời.
Tâm - Trí như một
Tính thiện liên quan đến việc đưa ra quyết định hợp lý như thế nào? Chúng ta sẽ phát huy được tiềm năng to lớn của bản tính người khi hoàn thiện các phản ứng cảm xúc của mình. Không ngừng trau dồi bản thân thông qua những mối tương tác giữa chúng ta với người khác và không ngừng nỗ lực nuôi dưỡng những nụ mầm của tính thiện, đó là những thứ sẽ
dẫn dắt chúng ta cuối cùng hiểu được cách đưa ra quyết định hợp đạo đức trong bất kỳ tình huống nào.
Mặc dù một số nhà tư tưởng như Mặc Tử tin vào việc phân biệt rõ ràng giữa các năng lực lý tính và cảm xúc, và phân chia giữa trí óc và trái tim càng nhiều càng tốt, nhưng trong tiếng Hán, từ dùng để chỉ trí óc và trái tim thực ra là một: tâm (⼼). Tâm - trí là chỗ của cảm xúc, cũng như trung tâm của lý trí. Nó có thể cân nhắc, suy ngẫm, chiêm nghiệm, cảm nhận tình yêu, niềm vui và thù hận. Mạnh Tử đã dạy rằng điều phân biệt giữa những người trở nên vĩ đại với những người không vĩ đại là khả năng tuân theo tâm - trí của họ thay vì mù quáng làm theo cảm giác hoặc theo hiểu biết. Tu dưỡng tâm - trí là điều sẽ nuôi lớn khả năng đưa ra những quyết định đúng đắn.
Hãy nghĩ về những lựa chọn mà chúng ta phải đối mặt trong suốt cuộc đời, từ tầm thường đến quan trọng: nấu món gì cho bữa tối; đi đâu chơi trong kỳ nghỉ sắp đến; có nên đổi việc hay có nên đưa đơn ly hôn không. Không thể chỉ dùng lý trí suy nghĩ về mọi thứ mà cho ra được những quyết định khôn ngoan. Chúng phải xuất phát từ một sự thấu hiểu hoàn toàn về những gì tâm - trí chúng ta biết là đúng đắn. Quyết định hợp lý chỉ có được khi trái tim và trí óc cùng phối hợp.
Khi thụ động để cho cảm giác dắt mũi mình, chúng ta sẽ đưa ra quyết định thiếu khôn ngoan và mất kiểm soát. Dù đó là một việc gì đó nhỏ nhặt, như ăn quá nhiều khi không đói, hoặc một việc quan trọng, như mắng mỏ một người bạn vì nghĩ mình bị coi thường, cảm giác thường khiến chúng ta phản ứng thiếu khôn ngoan tại thời điểm ấy.
Nhưng nếu tu dưỡng tâm - trí, chúng ta sẽ có thể phản ứng với mọi thứ ở một vị thế ổn định hơn nhiều. Khi không bị xao nhãng bởi những cơn bốc đồng và những biến động cảm xúc, chúng ta có thể tập trung vào toàn
cảnh và sẽ biết phải làm gì. Chúng ta sẽ biết được phản ứng nào sẽ làm bộc lộ điểm tốt nhất trong chúng ta và những người xung quanh. Quay trở lại câu chuyện về đứa trẻ rơi xuống giếng. Câu chuyện ngụ ngôn này, tất nhiên, chỉ là một khoảnh khắc khủng hoảng hiếm gặp thôi. Còn hầu hết các quyết định mà chúng ta phải đối mặt trong cuộc sống đều không rõ ràng như thế. Bản tính hướng thiện tiềm tàng sẽ không thể ngay lập tức cho chúng ta biết phải làm gì. Tất nhiên, nó sẽ nói với chúng ta rằng ta cần cứu cậu bé kia. Nhưng, chính xác thì bạn phải làm gì để giúp đỡ hiệu quả nhất cho một đứa em họ đang gặp khủng hoảng cá nhân? Nên nhận công việc nào để có được tương lai tốt nhất? Bạn có nên chuyển nhà để ở gần cha mẹ già?
Phương pháp hợp nhất hai mặt hiểu biết và cảm xúc của Mạnh Tử sẽ lưu ý đến các phản ứng cảm xúc của bạn, sau đó cố gắng thay đổi chúng cho tốt hơn. Hãy sử dụng trí óc để nuôi dưỡng cảm xúc. Quan tâm đến những tác nhân kích hoạt cảm xúc và phản ứng của bạn mỗi ngày. Bạn nhận thức thế giới thông qua các thói quen cố hữu và các lề lối cứng nhắc nào? Có phải việc người bạn đời chỉ trích cách bạn nhồi chén đĩa vào máy rửa chén đã gợi lại trong bạn những ký ức thời thơ ấu, khi bạn không ngừng bị khiến cho cảm thấy mình là đứa ngớ ngẩn? Bạn có xu hướng thỏa hiệp với bạn bè thay vì tỏ ra quyết đoán vì bạn cảm thấy không đáng để thể hiện một quan điểm mạnh mẽ không?
Khi nhận thức được tất cả những tác nhân và khuôn mẫu đã định hình cảm xúc của bạn suốt cả ngày, bạn có thể tiến hành cải thiện cách phản ứng của mình. Nhưng cần lưu ý rằng chú ý đến phản ứng cảm xúc không giống như “chánh niệm”, khái niệm phổ biến phỏng theo quan niệm của Phật giáo về sự suy xét độc lập và không phán xét. Cũng không phải về chuyện quan sát cảm xúc của bạn, chấp nhận chúng, rồi buông bỏ chúng để bạn có thể
đạt được một kiểu bình an riêng tư nào đó. Bởi vì dù cho bạn đã đạt được cảm giác bình an, thì nó cũng sẽ biến mất ngay khi bạn bắt đầu gia nhập thế giới trở lại. Và cũng không phải về cảm giác từ bi cho tất cả chúng sinh một cách trừu tượng. Tu dưỡng tâm - trí là một hành động hướng ngoại không nhằm mục đích đưa chúng ta xa rời thế giới mà nhằm khiến chúng ta gắn kết sâu hơn vào thế giới để có thể cải thiện bản thân và những người xung quanh thông qua mọi mối tương tác. Chúng ta đang nói đến sự chú tâm không phải theo nghĩa chánh niệm mà theo nghĩa Khổng giáo.
Các sự kiện ngoại tại kích hoạt các phản ứng cảm xúc của chúng ta mỗi ngày, như niềm vui trào dâng khi con bạn tự động lẫm chẫm mang đến tặng bạn một bó hoa nó vừa hái dành riêng cho bạn, nỗi đau xoẹt qua khi bắt gặp bạn trai cũ trên phố, cơn giật mình khi sếp gửi cho bạn một email nhắc nhở deadline sắp tới. Tất cả các phản ứng của chúng ta được tích lũy lại. Cuộc sống trở thành một loạt các phản ứng khuôn mẫu không được huấn luyện – những khuôn mẫu thường đưa đến kết quả tiêu cực. Thực tế, rất nhiều quyết định mà chúng ta có khuynh hướng cho là quyết định có ý thức lại chỉ là sự phát lại những khuôn mẫu cũ. Nhưng nếu nuôi dưỡng cảm xúc, theo thời gian và bằng kinh nghiệm, chúng ta có thể học cách cảm nhận tâm tính của người khác chính xác hơn, đánh giá được điều gì đang thực sự xảy ra trong một tình huống cụ thể và tìm cách thay đổi kết quả cho phù hợp – dù là chúng ta đang đối phó với trận xung đột với người hàng xóm, một người bạn đang phải vật lộn với chứng trầm cảm, hay một đứa trẻ bị tụt hậu ở trường. Chúng ta có thể tự rèn luyện bản thân để nhận thức được những rắc rối này và biết mình có thể làm gì để thay đổi chúng.
Hãy tưởng tượng bạn có một người đồng nghiệp cứ không ngừng khiến bạn phân tâm mỗi khi bạn đang cố theo kịp deadline. Rắc rối thường xuyên này khiến bạn định hình một suy nghĩ rằng cô ấy là một kẻ hay gây
xao lãng và phiền phức. Bạn có thể cảm thấy muốn tỏ ra lạnh nhạt với cô. Hoặc bạn có thể nhượng bộ và tán dóc chút đỉnh, nhưng sau đó lại thấy khó chịu với chính mình vì đã để cô ấy làm mất quá nhiều thời gian của bạn. Hoặc bạn có thể nổi khùng với cô, tức giận vì cô không nhận ra bạn đang bận rộn như thế nào. Hoặc bạn có thể trút giận lên mấy người bạn cứ xúi giục bạn tỏ rõ chính kiến và dứt khoát bảo cô rằng lúc này bạn không thể chuyện trò gì đâu. Nhưng thay vì dán nhãn cho cô ấy là một kẻ phiền phức và sử dụng các chiến lược chung chung nhằm vào một đồng nghiệp phiền phức, khó chịu nào đó, phản ứng cởi mở nhất xuất hiện khi bạn bắt đầu nhận ra đồng nghiệp của mình là một cá nhân với một tập hợp phức tạp của sự nhạy cảm, thói quen, khuôn mẫu cư xử, cảm xúc và hành vi. Một số khía cạnh nhất định của cô ấy đang được thể hiện ra trong tình huống này vì những lý do nhất định, và bạn cũng vậy. Bạn có thể muốn giải quyết vấn đề trực tiếp, nói thẳng với cô ấy rằng hai bạn cần thảo luận về một rắc rối để khiến cô ấy nhận ra tình trạng của bạn. Nhưng chiến lược hiệu quả hơn sẽ là bạn hiểu rằng những thứ khác nhau mà bạn làm có thể chuyển hướng tình huống thành những kiểu khác nhau như thế nào theo thời gian. Một khi bạn nhìn cô ấy như là một con người đa diện và vô cùng phức tạp, thay vì một người nhất quán luôn theo kiểu cô ấy vẫn tỏ ra, góc nhìn của bạn sẽ được mở rộng để thấy được nhiều việc khác nhau mà bạn có thể thử để thay đổi tình huống; những việc nho nhỏ bạn có thể làm để giúp bộc lộ ra những khía cạnh khác của đồng nghiệp đó, cũng như chính bản thân bạn. Có phải cô ấy tìm đến trò chuyện khi đang cô đơn? Có cách nào khác để giải quyết mong muốn tương tác của cô ấy không? Hoặc có thể cô ấy liên tục xuất hiện khi cô cảm thấy bất an và bất định; định vị trạng thái chính là điểm bạn có thể khởi đầu.
Đây là một tình huống khác: Giả sử ai đó nổi giận với bạn. Có thể một sự phẫn uất kìm nén đã lâu giữa bạn và anh trai cuối cùng cũng bùng nổ dữ dội. Một phản ứng tế nhị từ phía bạn cũng sẽ không thể tự động bộc lộ khi bạn đang ở trong cơn giận của chính mình. Phản ứng tự động cũng sẽ không phải là xoa dịu anh bạn, phớt lờ, hoặc đơn giản là tránh nói chuyện. Đúng hơn là, một phản ứng tế nhị sẽ bắt đầu bằng việc dành một khoảng thời gian để cố gắng thấu hiểu toàn bộ cảm xúc và phẫn hận ẩn sau hành vi của anh bạn. Tất nhiên, phải có chất xúc tác tức thời, nhưng tình trạng hiện tại của mối quan hệ anh em bạn hẳn đã được tạo thành bởi nhiều năm phản ứng theo khuôn mẫu từ cả hai phía. Nếu bạn bắt đầu bằng cách thử suy ngẫm xem nguyên nhân gây tức giận là gì và cố nắm bắt tất cả những điều có thể thực hiện để thay đổi tình huống thì chắc chắn bạn sẽ gỡ được khỏi đầu óc mình suy nghĩ mà bạn đã mặc định về anh mình. Những cách tiếp cận mới sẽ đến với bạn. Những cử chỉ nho nhỏ (đơn giản như chấp nhận cơn giận, thừa nhận vai trò của bạn trong cơn giận đó, hoặc quyết định thận trọng rằng sẽ chờ đến lúc cả hai đều nguội rồi mới nói chuyện), chính vì chúng khác thường và hướng đến việc thay đổi động lực bên dưới cơn giận thay vì nổi nóng ngay với vấn đề trước mắt, sẽ có khả năng phá vỡ động lực nằm bên dưới đó.
Không có tư tưởng nào trong số này là mới với chúng ta cả. Chúng ta thừa biết đây chính là những cách phản ứng tối ưu. Tuy nhiên, khi đối mặt với các tình huống đầy thách thức xảy ra giữa các cá nhân, thường thì phản ứng ban đầu sẽ thiếu tinh tế. Hầu hết chúng ta thường bị vùi dập bởi những cảm xúc nhất thời và mong muốn một giải pháp chóng vánh. Cách tiếp cận khác biệt này chắc chắn sẽ không nhanh chóng dàn xếp được sự việc; không một cách phản ứng nào trong số này có thể thay đổi mọi thứ ngay lập tức. Nhưng bạn sẽ tích lũy được kinh nghiệm khi nghĩ về mọi thứ
trong phạm vi toàn cảnh; kết quả sẽ có giá trị lâu dài. Khi bạn đặc biệt quan tâm đến việc rèn luyện bản thân để tiếp cận các tình huống với quan điểm rộng mở nhất và hiểu được làm thế nào để thay đổi một kết quả, bạn đang không ngừng tu dưỡng bản tính thiện của mình. Vấn đề không phải là gạt bỏ đi cảm xúc, bởi điều đó sẽ khiến chúng ta mất đi khả năng cảm nhận bối cảnh chung của một tình huống. Vấn đề là phải cải thiện những cảm xúc đó để trực giác đưa ra được những cách phản ứng tốt hơn.
Nuôi dưỡng tâm - trí có nghĩa là vậy. Nó cho phép bạn trở nên phản ứng dễ dàng hơn với thế giới, những mặt tốt đẹp của bạn không bị sứt mẻ, và tầm nhìn của bạn còn nguyên vẹn. Điều mà Mạnh Tử gọi là “tòng quyền”******* là khả năng đưa ra những quyết định hợp đạo đức theo bản năng mà vẫn cân nhắc cẩn thận từng tình huống với tất cả sự phức tạp của nó. Rèn luyện tâm - trí nghĩa là mài giũa khả năng đánh giá của chúng ta: nhìn thấy bức tranh lớn hơn, hiểu được những gì thực sự ẩn đằng sau hành vi của một người và nhớ được rằng những cảm xúc khác nhau (như lo lắng, sợ hãi và vui thích) sẽ làm lộ ra những mặt khác của những người mà chúng ta vẫn nghĩ là cứng nhắc. Cảm thức đâu là điều đúng cần làm trở thành một hình thức phức tạp hơn, một hình thức bản năng phát triển sẽ buộc bạn phải cứu đứa trẻ rơi xuống giếng. Cũng như bạn chẳng cần tự hỏi bản thân phải làm gì khi có một đứa bé đang gặp nguy hiểm, bạn sẽ chẳng cần tự hỏi mình phải làm thế nào để vượt qua những thứ gặp phải mỗi ngày nếu bạn biết nuôi dưỡng tâm - trí.
******* Theo Mạnh Tử, những lúc bình thường, người ta phải “chấp kinh”, nghĩa là phải giữ lễ, tuân theo đạo lý truyền thống, khi gặp tình huống biến động thì phải “tòng quyền”, nghĩa là tự mình linh động xử lý sự việc (ngộ biến tòng quyền).
Đặt nền tảng để mọi thứ có thể phát triển
"""