"
Millennium 4: Cô Gái Trong Mạng Nhện PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Millennium 4: Cô Gái Trong Mạng Nhện PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
một năm trước
Câu chuyện này khởi đầu với một giấc mơ, một giấc mơ không có gì đặc biệt. Chỉ là một bàn tay đập đều đặn hoài không dứt trên tấm nệm trong một căn hộ ở phố Lundagatan.
Thế nhưng, chính nó đã khiến Lisbeth Salander rời khỏi giường vào một buổi sớm tinh mơ, ngồi vào máy tính, và bắt đầu cuộc truy lùng của mình.
đầu
con mắt giám sát
1–21 THÁNG MƯỜI MỘT
NSA, viết tắt của National Security Agency hay cơ quan An ninh Quốc gia, là một tổ chức liên bang trực thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ. Trụ sở chính đặt tại Căn cứ Meade, bang Maryland, bên cạnh đường cao tốc Patuxent. Kể từ sau khi được thành lập vào năm 1952, NSA đảm trách theo dõi liên lạc truyền thông – ngày nay chủ yếu là Internet và điện thoại. Với năng lực không ngừng lớn mạnh, hiện tổ chức này giám sát hơn hai mươi triệu tin nhắn và cuộc gọi mỗi ngày.
phần i
1
đầu tháng mười một
Frans Balder luôn tự coi mình là một người cha tồi.
Ông chưa bao giờ cố gắng đóng tròn vai trò người cha. Ngay ở thời điểm hiện tại, khi cậu bé August đã được tám tuổi, cũng khó có thể nói là ông cảm thấy thoải mái với trách nhiệm đó. Nhưng ông coi đó là nghĩa vụ của mình. August đang trải qua một thời kỳ khó khăn khi sống cùng vợ cũ của Balder và gã bạn trai đần độn của chị ta, Lasse Westman.
Do vậy, Balder đã vứt bỏ công việc tại Silicon Valley và lên chuyến bay trở về cố quốc. Lúc này ông đang đứng tại sân bay Arlanda đợi taxi trong tâm trạng khá hoang mang. Thời tiết thật kinh khủng. Mưa quất ràn rạt vào mặt Balder, và đã lần thứ bao nhiêu không biết ông tự hỏi liệu mình có đang làm điều đúng đắn.
Trong số tất cả những gã ngu tự cho mình là cái rốn của vũ trụ, Balder bỗng dưng trở thành một ông bố toàn thời gian. Điên thật! Chẳng khác nào đi làm việc trong sở thú. Ông chẳng biết gì về trẻ con và khá mù mờ về cuộc sống nói chung. Nhưng điều kỳ lạ nhất là không ai buộc ông làm thế. Chẳng có người mẹ hay người bà nào gọi điện cho Balder để yêu cầu ông cáng đáng trách nhiệm làm cha của mình.
Tự Balder đã quyết định như vậy, và ông sắp lao đến nhà vợ cũ để đòi con trai mà không buồn báo trước, bất chấp phán quyết nuôi con của tòa án. Việc này tất nhiên sẽ gây xáo trộn lớn. Chắc chắn Balder sẽ bị gã Westman bị thịt kia đập cho một trận nhừ tử. Nhưng ông gạt bỏ suy nghĩ đó và leo lên taxi. Cầm lái chiếc xe là một phụ nữ luôn miệng nhai kẹo cao su
trong lúc cố bắt chuyện với Balder. Chị ta thất bại thảm hại: kể cả vào một ngày đẹp trời hơn, Frans Balder cũng không phải là người hay chuyện.
Ngồi trơ lì trên băng ghế sau, Balder nghĩ về con trai mình và những chuyện đã xảy ra trong thời gian qua. August không phải là nguyên nhân duy nhất, cũng không phải nguyên nhân chính khiến ông nghỉ việc ở Solifon. Ông đang đứng trước một bước ngoặt lớn trong đời, và trong một thoáng, ông tự hỏi liệu mình có đủ can đảm để đương đầu với nó hay không. Khi chiếc xe tiến vào quận Vasastan, Balder có cảm tưởng như trong người mình không còn chút sức lực nào và phải cố đè nén mong muốn buông xuôi tất cả. Nhưng lúc này ông không thể bỏ cuộc.
Balder thanh toán tiền taxi trên phố Torsgatan, lấy hành lý rồi đặt xuống ngay khi bước qua cửa ra vào của một tòa nhà. Thứ duy nhất ông xách theo khi trèo lên cầu thang là một chiếc va li rỗng in hình bản đồ thế giới có màu sắc tươi sáng mua tại sân bay San Francisco. Balder dừng lại trước cửa một căn hộ, thở hổn hển, mắt nhắm tịt và hình dung ra những tình huống cãi cọ nặng nề nhất. Mà xét cho cùng, làm sao trách họ được? Chẳng có ai tự dưng từ đâu xuất hiện đưa một đứa trẻ đi khỏi gia đình của nó, chưa nói tới chuyện đó là một người cha cho đến giờ chỉ giới hạn vai trò của mình trong việc rót tiền vào một tài khoản. Nhưng đây là một tình huống khẩn cấp, nên Balder lấy hết can đảm bấm chuông cửa, bất chấp mong muốn bỏ chạy.
Im lặng một lúc. Rồi cánh cửa bật mở và Lasse Westman xuất hiện trước mặt Balder với ánh mắt xanh nhức nhối, bộ ngực vạm vỡ và hai nắm đấm chỉ chực nghiền kẻ khác ra bã. Cũng nhờ ngoại hình này mà Westman thường xuyên sắm vai phản diện trên màn ảnh, mặc dù Balder tin chắc không có nhân vật nào anh ta diễn đạt cho bằng kẻ mà anh ta nhập vai ngoài đời thực.
— Trời! – Westman thốt lên. – Thiên tài thân chinh đến thăm chúng ta này. Hân hạnh ghê!
— Tôi đến tìm August. – Balder nói.
— Cái gì?
— Tôi đến đưa thằng bé đi, Lasse.
— Anh giỡn hả?
— Tôi chưa bao giờ nghiêm túc như lúc này. – Balder đáp đúng lúc Hanna từ căn phòng bên trái bước sang.
Chị ta không còn xinh đẹp như trước kia. Quá nhiều rắc rối, thuốc lá và rượu, hẳn là vậy. Tuy nhiên, một đợt sóng thương cảm bất ngờ dâng lên trong lòng Balder, nhất là khi ông nhìn thấy vết bầm trên cổ Hanna. Hình như Hanna muốn nói một câu chào tử tế, nhưng chưa kịp mở miệng thì Westman đã hỏi tiếp:
— Sao bỗng dưng anh lại quan tâm đến mọi chuyện nhỉ? — Vì như thế này là đủ lắm rồi, August cần một mái nhà yên ổn.
— Thế anh nghĩ mình có thể đem lại cho nó điều đó sao, đồ gàn dở? Trong đời anh còn làm được gì ngoài giương mắt nhìn màn hình máy tính?
— Tôi đã thay đổi. – Balder đáp và cảm thấy mình thật dở hơi, một phần vì ông không nghĩ mình đã thay đổi dù chỉ một chút xíu.
Balder run bắn khi nhìn thấy Westman tiến đến gần mình với cơ thể đồ sộ và cơn giận xịt khói. Sự thật phũ phàng đổ ập xuống đầu ông: ý tưởng này sai ngay từ đầu, và ông sẽ không thể nào chống cự nổi nếu gã điên này ra tay. Nhưng lạ thay, chẳng có cơn lôi đình hay trận cãi vã nào nổ ra, anh ta chỉ nở một nụ cười hiểm độc và sẵng giọng:
— Hừm, thế có khi lại hay!
— Nghĩa là sao?
— Rất đúng lúc, phải không Hanna? Rốt cuộc quý ngài bận rộn cũng cảm thấy có chút trách nhiệm. Hoan hô! – Westman vừa nói vừa vỗ tay một cách cường điệu.
Sau cú sốc, điều khiến Balder sững sờ nhất là việc họ để cho thằng bé ra đi một cách dễ dàng đến thế. Hoàn toàn không phản đối dù chỉ là để làm màu, họ cứ thế cho phép ông đưa thằng bé đi. Có lẽ August chỉ là một gánh nặng đối với họ. Thật khó mà biết được.
Hanna ném cho Balder một cái nhìn không thể giải nghĩa trong khi tay chị ta run lên, quai hàm nghiến lại. Nhưng chị ta hỏi rất ít. Lẽ ra Hanna có thể truy vấn Balder, đưa ra đủ thứ yêu sách và điều kiện, tỏ ra lo lắng khi
cuộc sống của August bị đảo lộn. Tuy nhiên tất cả những gì chị ta hỏi chỉ là:
— Anh có chắc không? Anh sẽ lo liệu được chuyện này chứ? — Có, anh chắc chắn. – Balder đáp.
Nói đoạn, ông vào phòng của August và trông thấy thằng bé lần đầu tiên sau cả năm trời.
Sự xấu hổ dâng lên trong lòng Balder. Làm thế nào ông có thể bỏ rơi một thằng bé như thế này? Nó thật dễ thương và xinh xẻo với mái tóc xoăn bù xù, cơ thể gầy gò cùng một đôi mắt xanh nghiêm nghị đang chú mục vào một bức tranh ghép hình chiếc thuyền buồm cỡ lớn. Hành vi của thằng bé giống như đang thốt lên: “Đừng có quấy rầy con”. Balder rón rén bước tới, tựa như đang tiến lại gần một sinh vật lạ lẫm và thất thường.
Thế rồi Balder cũng làm cho thằng bé nắm lấy tay mình và đi theo ra hành lang. Ông sẽ không bao giờ quên khoảnh khắc này. August đang nghĩ gì? Thằng bé đang tự hỏi điều gì? Nó không nhìn ông lẫn người mẹ của mình, cũng chẳng buồn vẫy tay chào hay nói lời từ biệt. Nó chỉ biến vào trong thang máy cùng với Balder, Đơn giản là thế.
August bị tự kỷ. Nhiều khả năng nó cũng bị khuyết tật tâm thần nặng, mặc dù người ta chưa bao giờ đưa ra lời giải thích rõ ràng nào về chuyện đó, và nhìn bên ngoài mọi người có thể nghĩ đến điều ngược lại. Khuôn mặt thanh tú luôn giữ sự tập trung của nó toát lên một vẻ quý tộc, hay chí ít cũng gây ấn tượng như thể nó không mảy may quan tâm đến mọi thứ xung quanh. Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ, người ta có thể nhận thấy có thứ gì đó không thể tiếp cận được trong ánh mắt của thằng bé. Và nó cũng chưa bao giờ nói một lời nào.
Thật ra, August đã bác bỏ mọi tiên lượng được đưa ra hồi nó mới lên hai. Khi đó, các bác sĩ đã nói thằng bé thuộc vào một nhóm thiểu số những đứa trẻ bị tự kỷ không bị thiểu năng trí tuệ, và với một liệu pháp hành vi tích cực, tương lai của nó chắc chắn sẽ khả quan. Nhưng mọi chuyện không hề diễn ra như kỳ vọng của họ và Balder thực sự không biết những giải pháp hỗ trợ đó hiện nay ra sao, cũng như những trường lớp nào có thể tiếp nhận thằng bé. Ông đã bỏ sang Mỹ và rúc vào thế giới của riêng mình.
Balder đã cư xử như một thằng ngốc. Nhưng từ giờ trở đi, ông sẽ trả món nợ của mình và chăm sóc con trai. Balder đã bắt tay vào thực hiện việc đó một cách nhiệt tình. Ông đã cắm đầu tra cứu tài liệu, liên lạc với các chuyên gia cũng như những nhà giáo dục, và nhận thấy rõ ràng một điều: August chưa bao giờ được hưởng lợi từ khoản tiền mà cha đẻ gửi cho. Tiền đã bị tiêu tán vào những chỗ khác, có lẽ là các khoản ăn xài phung phí hoặc các món nợ bài bạc của Westman. Rõ ràng August đã bị bỏ mặc. Người ta đã để cho nó loay hoay với những hành vi cưỡng bức của bệnh tự kỷ, có khi còn tệ hơn – đây là nguyên nhân khiến Balder quay về Thụy Điển.
Một chuyên gia tâm lý đã điện thoại cho Balder để cảnh báo về những vết bầm tím kỳ lạ trên cơ thể August. Giờ đây Balder có thể tận mắt trông thấy chúng trên chân tay, ngực và vai của thằng bé. Theo lời Hanna thì đó là dấu vết của những lần lên cơn, khi thằng bé quăng quật cơ thể mình tới lui. Balder đã chứng kiến một cơn khủng hoảng như thế vào ngày hôm sau và sợ chết khiếp. Nhưng với ông, điều đó không lý giải hoàn toàn cho những vết thương trên người August.
Nghi ngờ thằng bé bị bạo hành, Balder cầu viện một bác sĩ đa khoa và một cựu cảnh sát viên mà ông quen biết. Cho dù họ không thể khẳng định một trăm phần trăm sự nghi ngờ của Balder, ông ngày càng cảm thấy phẫn nộ nhiều hơn và viết một loạt thư khiếu nại. Balder gần như quên mất thằng bé. Ông nhận ra mình có thể quên đi sự hiện diện của nó dễ dàng tới mức nào. Trong phần lớn thời gian, August ngồi dưới đất, trong căn phòng trông ra biển mà Balder đã sửa soạn cho nó trong ngôi biệt thự tại Saltsjöbaden, và chơi ghép hình. Hàng trăm miếng ghép của một bức tranh có độ khó cao được thằng bé lắp ghép một cách tài tình, để rồi phá ra và xếp lại từ đầu.
Thoạt đầu, Balder quan sát thằng bé như bị thôi miên. Nó cũng giống như khi nhìn một nghệ sĩ làm việc, thỉnh thoảng ông lại hình dung thằng bé ngẩng lên bình luận vài ba câu. Nhưng August không nói gì cả, nếu có ngước mặt lên khỏi bức tranh ghép thì nó cũng chỉ nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi những tia nắng nhảy nhót phản chiếu trên mặt nước. Cuối cùng Balder để thằng bé ngồi đó cặm cụi một mình. Sự thực là ông ít khi nào dẫn thằng bé ra ngoài, dù chỉ loanh quanh trong vườn.
Dưới góc độ pháp luật, Balder không được phép giữ thằng bé, và ông không muốn liều lĩnh khi mọi việc chưa được tòa án dàn xếp ổn thỏa. Do vậy, ông giao phó việc đi chợ, nấu nướng và dọn dẹp cho một người giúp việc tên là Lottie Rask. Dẫu sao thì chuyện nhà cửa cũng không phải là điểm mạnh của Balder. Ông rành rẽ máy tính và các thuật toán, còn ngoài ra ông chẳng biết gì nhiều. Càng ngày Balder càng đắm chìm vào máy tính và thư từ trao đổi với các luật sư nhiều hơn. Ban đêm ông cũng trằn trọc khó ngủ như ở bên Mỹ.
Balder biết vụ kiện và những lằng nhằng kèm theo đang chờ đón mình, ngoài ra tối nào ông cũng nốc cả chai vang đỏ, thường là loại amarone, một việc chẳng giúp ích gì cho tình hình, nếu có chăng thì cũng rất ngắn ngủi. Ông cảm thấy càng ngày càng tồi tệ và đã bắt đầu nghĩ đến việc biến mất hoặc bay tới một nơi hoang vắng, xa lánh tất cả. Thế rồi, vào một tối thứ Bảy của tháng Mười một, một sự kiện quan trọng xảy ra. Đó là một buổi tối lạnh lẽo đầy gió, khi August và Balder đi bộ dọc theo phố Ringvägen của quận Södermalm, lạnh run người.
Hai cha con đang trở về sau khi ăn tối ở nhà của Farah Sharif trên phố Zinkens. August lẽ ra phải đi ngủ từ lâu, nhưng bữa tối kéo dài quá mức và Balder tiết lộ quá nhiều những chuyện lẽ ra không nên nói. Farah Sharif quả là có biệt tài tạo dựng lòng tin nơi người khác. Hai người biết nhau từ hồi học công nghệ thông tin ở Imperial College bên London, và hiện tại Farah là một trong số ít những người đạt tới trình độ của Balder tại Thụy Điển, hay ít ra cũng là một trong những người có thể thoải mái theo kịp dòng suy nghĩ của ông. Balder rất nhẹ nhõm khi được nói chuyện với một người hiểu mình.
Balder cũng thích Farah, nhưng bất chấp mọi nỗ lực của mình, ông chưa bao giờ quyến rũ chị thành công. Ông không giỏi tán gái. Tuy vậy, tối hôm đó, cái ôm từ biệt của hai người suýt nữa đã biến thành một nụ hôn, thứ có thể được xem là một tiến bộ lớn. Balder vẫn còn vương vấn với nó khi cùng với August đi ngang qua sân vận động Zinkensdamm.
Ông tự nhủ lần tới sẽ nhờ người trông trẻ, và có thể... Biết đâu đấy? Một con chó sủa ông ổng đằng xa, rồi một tiếng hét của phụ nữ vang lên phía sau lưng Balder, không rõ là do vui mừng hay đau đớn. Balder nhìn về phía giao lộ với phố Hornsgatan, nơi ông dự định vẫy một chiếc taxi hoặc
đón tàu điện ngầm đi tới khu Slussen. Trời có vẻ sắp mưa. Khi họ đi tới chỗ sang đường thì đèn dành cho người đi bộ chuyển sang màu đỏ. Phía bên kia đường là một người đàn ông lọm khọm chừng bốn mươi tuổi mà Balder cảm thấy hơi quen quen. Ông nắm lấy tay August.
Balder chỉ muốn bảo đảm con trai mình vẫn đang đứng trên vỉa hè, nhưng rồi ông nhận ra bàn tay thằng bé cứng đơ như thể đang phản ứng lại điều gì đó một cách quyết liệt. Ánh mắt thằng bé chăm chú và rõ ràng, như thể lớp màng che phủ nó đã bị một cây đũa thần vén lên và, thay vì nhìn vào những rắc rối của bản thân, August đã nắm bắt được một điều gì đó rất sâu sắc và quan trọng nơi lối sang đường của giao lộ này. Balder mặc kệ tín hiệu đèn dành cho người đi bộ chuyển màu xanh.
Ông để cho August đứng đó quan sát, trong lòng dâng lên một cảm xúc mạnh mẽ bất ngờ. Chỉ là một cái nhìn không hơn không kém, ánh mắt cũng không đặc biệt rạng rỡ hay vui vẻ. Thế nhưng, nó đã khơi lại trong Balder những ký ức xa xăm. Và lần đầu tiên sau một thời gian dài, ông cảm thấy hi vọng.
2
ngày 20 tháng mười một
Mikael Blomkvist chỉ ngủ được vài tiếng. Anh thức khuya vì muốn đọc nốt cho xong một cuốn tiểu thuyết trinh thám của Elizabeth George, dù đó không phải là một hành động hợp lý. Ngay sáng hôm sau, ông trùm báo chí Ove Levin của tập đoàn truyền thông Seiner Media sẽ có một buổi nói chuyện về chiến lược phát triển của tạp chí Millennium, nên lẽ ra anh phải tỉnh táo và sẵn sàng để tranh luận.
Nhưng Blomkvist hoàn toàn không muốn hành động hợp lý. Anh cảm thấy bực bội trong người và miễn cưỡng lắm mới rời khỏi giường để đi pha một tách cappuccino cực đậm bằng chiếc máy Jura Impressa X7. Món đồ đã được gửi đến nhà anh trước đó khá lâu với lời nhắn gửi: “Như anh đã nói, dù sao thì tôi cũng chẳng biết sử dụng nó”. Kể từ đó chiếc máy pha cà phê được đặt trang trọng trong bếp như kỷ vật của một thời huy hoàng. Hiện anh không còn giữ liên lạc với người gửi món đồ này.
Những ngày này anh cũng không còn mấy hứng thú với công việc. Trong dịp cuối tuần vừa qua, Mikael Blomkvist thậm chí đã tự hỏi liệu mình có phải tìm hướng đi mới, một tư tưởng khá quyết liệt đối với một người như anh. Millennium từng là niềm đam mê sâu bền nhất của anh, phần lớn những sự kiện lớn lao và khác thường nhất trong đời anh đều có liên quan với tờ tạp chí này. Nhưng chẳng có gì là bất biến, kể cả tình yêu mà Blomkvist dành cho Millennium. Hơn nữa, hiện tại không phải là giai đoạn thuận lợi để làm chủ một tờ báo chuyên về điều tra.
Tất cả những ấn phẩm báo chí có tham vọng đều đang suy sụp, và Mikael Blomkvist không thể gạt bỏ suy nghĩ rằng định hướng của anh đối
với tờ Millennium, cho dù rất hay ho và chân thành dưới góc độ đạo đức, cũng không giúp ích được nhiều cho sự tồn tại của nó. Vừa nhấm nháp cà phê, anh vừa bước sang phòng khách và quan sát vịnh Riddarfjärden. Thời tiết bên ngoài đang khá xấu.
Mùa hè kéo dài đã giúp cho các quán cà phê ngoài trời mở cửa lâu hơn thường lệ trong phần lớn tháng Mười, để rồi đột ngột nhường chỗ cho một tiết trời kinh khủng với mưa dông và gió mạnh không ngớt. Thời tiết làm cho khách bộ hành chỉ biết cúi gập người, vội vã đi qua thành phố. Blomkvist ru rú trong nhà suốt dịp cuối tuần không phải chỉ vì nguyên nhân thời tiết. Anh đã nghiền ngẫm những kế hoạch phản công quy mô lớn, nhưng không thu được gì. Tất cả đều không giống với con người của anh.
Blomkvist hoàn toàn không phải là một kẻ thua cuộc chỉ chực chờ đánh trả, và khác với những ngôi sao truyền thông của Thụy Điển, anh không có một cái tôi vĩ cuồng luôn cần được khẳng định và đề cao. Nhưng mặt khác, anh đang trải qua vài năm khó khăn, và chỉ mới một tháng trước, nhà báo kinh tế William Borg đã viết một bài trên tờ Business Life của Serner, giật tít:
MIKAEL BLOMKVIST ĐÃ HẾT THỜI
Chỉ riêng việc bài báo được đăng và gây chú ý đã là một minh chứng cho thấy Blomkvist vẫn còn giữ một vị trí quan trọng trong làng báo. Ngoài ra thì không ai cho rằng bài báo đó độc đáo hay thú vị. Lẽ ra nó đã rơi tõm vào quên lãng giống như những cuộc tấn công trước đó từ phía các cây bút
đố kỵ. Nhưng vì một lý do nào đấy khá khó hiểu khi suy xét lại, vụ việc ngày càng phát triển. Lúc đầu, nó có thể được coi là một cuộc tranh luận về nghề làm báo – người ta nên làm giống như Blomkvist và “chọc ngoáy không ngừng nền kinh tế với cách làm báo lạc hậu của thời những năm 1970”, hay giống như William Borg, “vứt bỏ toàn bộ những ganh ghét hiện tại và thừa nhận uy tín của các doanh nghiệp lớn đã góp phần làm kinh tế Thụy Điển tăng tốc”.
Dần dần, cuộc tranh luận bắt đầu lạc đề, một số người khẳng định như đinh đóng cột rằng không phải ngẫu nhiên mà Blomkvist xuống phong độ trong những năm gần đây, “căn cứ trên quan niệm cho rằng mọi doanh nhân
cỡ bự đều là bọn lừa đảo của anh ta” và vì lẽ đó, “anh ta thiếu suy xét và đi quá giới hạn trong các bài báo của mình”. Cuối cùng Mikael Blomkvist cũng phải trả giá, họ đã viết như vậy. Để xát thêm muối vào vết thương, lão già cực kỳ vô lại Hans Erik Wennerström,kẻ mà Blomkvist đã đẩy đến chỗ chết, giờ đây lại nhận được một chút thương cảm. Và mặc dù báo chí chính thống đứng bên lề vụ việc, những cuộc đấu khẩu ở mọi cấp độ vẫn tràn ngập trên các mạng xã hội.
Những công kích nhằm vào Mikael Blomkvist không chỉ xuất phát từ giới doanh nhân và nhà báo trong mảng kinh tế, những kẻ có đủ lý do để lao vào một kẻ thù đang suy yếu, mà còn có cả một lô phóng viên trẻ tranh thủ cơ hội kiếm danh tiếng. Bọn họ xoáy vào việc anh không dùng Twitter hay Facebook, và cho rằng anh chỉ là tàn dư của một thời kỳ đã qua, thời người ta chấp nhận những kẻ vùi mình vào các đống giấy tờ ố vàng để làm việc. Một số người còn té nước theo mưa và tạo ra những hashtag mỉa mai kiểu như #vaothoicuablomkvist. Nói tóm lại, toàn là những chuyện vớ vẩn và Blomkvist không thèm bận tâm. Hay ít ra anh tự thuyết phục mình như thế.
Mọi việc càng tệ hơn khi Blomkvist không trình làng được bài báo lớn nào kể từ sau vụ Zalachenko và Millennium quả thực đang gặp khủng hoảng. Lượng phát hành vẫn còn duy trì được tương đối với khoảng hai mươi ngàn người đăng ký báo dài hạn. Nhưng doanh thu quảng cáo đã sút giảm mạnh, những khoản phụ trợ đến từ các đầu sách ăn khách đã hết, và vì Harriet Vanger không thể rót thêm vốn, ban lãnh đạo đã có một quyết định đi ngược lại ý muốn của Blomkvist, khi để cho đế chế truyền thông Na Uy Serner thâu tóm ba mươi phần trăm cổ phần của tờ báo. Chuyện này thoạt nghe có vẻ bất ngờ: Serner chuyên xuất bản các tờ tuần báo và tin nhanh, sở hữu một trang web mai mối lớn, hai kênh truyền hình trả tiền và một đội bóng đá chơi ở giải hạng nhất Na Uy. Xem ra chẳng có gì liên quan với một tờ tạp chí như Millennium.
Tuy vậy, những người đại diện của Serner – đặc biệt là Ove Levin, giám đốc xuất bản – lại khẳng định rằng tập đoàn này cần một tờ báo chính thống, rằng “mọi người” trong ban lãnh đạo đều ngưỡng mộ Millennium và họ không còn niềm vui nào lớn hơn là được nhìn thấy tờ nguyệt san tiếp tục phát triển như trước. “Chúng tôi ở đây không phải để kiếm tiền!” Levin
đã nói như thế. “Chúng tôi muốn làm những chuyện lớn lao”. Anh ta đã nhanh chóng thu xếp để tờ báo được nhận một nguồn tài chính hậu hĩ.
Lúc đầu, Serner không can thiệp vào công việc biên tập. Mọi thứ vẫn như thường lệ, chỉ là với ngân sách xông xênh hơn. Ban biên tập như được tiếp thêm sinh khí. Đôi lúc Mikael Blomkvist cũng có cùng ấn tượng đó và cảm thấy được một lần dành toàn tâm toàn ý cho việc tác nghiệp mà không
phải lo nghĩ đến vấn đề tài chính. Nhưng đâu đó trong khoảng thời gian xảy ra chiến dịch hạ bệ anh, giọng điệu của Serner đã thay đổi. Những áp lực đầu tiên bắt đầu xuất hiện, và Blomkvist không khỏi nghi ngờ tập đoàn này đã mượn gió bẻ măng.
Tất nhiên, theo lời Levin, tờ tạp chí cần tiếp tục những cuộc điều tra chuyên sâu, những phóng sự đích thực mổ xẻ các vấn đề xã hội, vân vân. Nhưng không nhất thiết mọi bài báo đều phải tập trung vào các gian lận thương mại, những bất công và tai tiếng chính trị. Viết về những chủ đề hào nhoáng hơn như người nổi tiếng và những buổi công chiếu chẳng hạn, cũng có thể cho ra những bài báo chất lượng, anh ta đã nói như thế, đồng thời say sưa nhắc đến Vanity Fair, Esquire, Gay Talese và bài báo kinh điển “Frank Sinatra Has a Cold”, Norman Mailer, Truman Capote, Tom Wolfe cùng những người có trời mới biết.
Thật ra thì Blomkvist không phản đối ý kiến trên, ít nhất là ngay tại thời điểm đó. Bản thân anh cũng từng viết một phóng sự dài về cánh săn ảnh hồi sáu tháng trước. Chỉ cần tìm một góc độ thú vị và gai góc là đủ để sản xuất ra một bài chân dung cho bất kỳ nhân vật hạng xoàng nào. Anh vẫn thường nói chủ đề không quyết định tính hay dở của báo chí, mà chính là cách thực hiện. Không, điều mà Blomkvist chống lại, đó là những ý đồ mà anh cảm nhận được: đây chỉ là khởi đầu của một sự tấn công lâu dài, và Millennium đang trở thành một tờ báo như mọi tờ báo khác đối với tập đoàn, một ấn phẩm mà người ta có thể nhào nặn thoải mái cho đến khi tạo ra được một thứ sinh lợi – và nhạt nhẽo.
Thế nên, vào chiều ngày thứ Sáu, khi hay tin Ove Levin đã nhờ một chuyên gia tư vấn thực hiện hàng loạt nghiên cứu thị trường để trình bày vào thứ Hai, Blomkvist về thẳng nhà luôn. Anh bỏ ra nhiều giờ ngồi tại bàn làm việc hoặc nằm dài trên giường, chuẩn bị những lời phát biểu đầy tâm huyết về các lý do vì sao Millennium phải giữ vững phương châm của
nó: những cuộc bạo loạn ở ngoại ô, một đảng với xu hướng công khai bài ngoại có ghế trong quốc hội, sự vô cảm ngày một tăng lên, chủ nghĩa phát xít đang lan rộng, người vô gia cư và ăn xin xuất hiện khắp nơi. Dưới nhiều phương diện, Thụy Điển đã trở thành một quốc gia đáng xấu hổ. Blomkvist đã phát triển nhiều ý tứ bay bổng và cao đẹp, anh hình dung mình giành thắng lợi thuyết phục sau khi đã đưa ra những sự thật xót xa, đầy thuyết phục, khiến cho cả ban biên tập cũng như toàn bộ ban lãnh đạo tập đoàn Serner phải thán phục đến độ đồng lòng quyết chí đi theo anh.
Tuy nhiên, khi bình tâm lại, Blomkvist nhận ra những lập luận đó không mấy nặng ký nếu không ai tin vào chúng dưới góc độ kinh tế. Có tiền ra lệnh, không tiền vâng mệnh mà! Tờ báo trước tiên phải làm ra tiền, sau đó người ta mới nghĩ đến chuyện thay đổi thế giới. Thay vì nghĩ ra những lời lẽ phát biểu tâm huyết, anh quay ra tự hỏi liệu mình có thể tìm được một câu chuyện gì đó hay ho không. Một khám phá động trời biết đâu có thể xốc lại sự tự tin của ban biên tập, và sẽ chẳng ai bận tâm đến những nghiên cứu thị trường hay dự báo về tình trạng sa sút của Millennium, cũng như những thứ vớ vẩn có trời mới biết mà Ove Levin sẽ nói.
Từ sau bài báo chấn động dư luận của Blomkvist, anh đã trở thành một dạng hòm thư tố giác. Ngày nào anh cũng được người ta mách cho những phi vụ gian lận và mờ ám. Dĩ nhiên phần lớn trong số đó là chuyện tầm phào. Những kẻ thích kiện cáo, những người theo thuyết âm mưu, những tay dựng chuyện và bịp bợm vẽ ra đủ thứ hầm bà lằng hiếm khi vượt qua được vòng xác minh sơ bộ hoặc không đủ vững chắc để viết báo. Nhưng ngược lại, đôi khi một câu chuyện ba xàm bá láp lại ẩn chứa một đề tài vô cùng hay ho. Một vụ lằng nhằng bảo hiểm hoặc một vụ trình báo mất tích có thể che giấu một vấn đề hệ trọng. Ai mà biết được? Chỉ cần làm việc có phương pháp và xem xét mọi thứ với tinh thần cởi mở. Nghĩ là làm, sáng thứ Bảy Blomkvist giở sổ tay, ngồi vào máy tính rồi bắt đầu xem xét một lượt những gì mình có.
Anh làm việc đến năm giờ chiều và đúng là cũng tìm được một vài sự việc mà hồi mười năm trước chắc sẽ khiến anh lao vào điều tra, chứ bây giờ thì chẳng khiến anh động lòng. Đó là một vấn đề kinh điển và anh hoàn toàn có thể hiểu được. Sau một thời gian lăn lộn trong nghề, mọi thứ sẽ trở nên quen thuộc, và ngay cả khi lý trí mách bảo bạn đây có thể là một đề tài
hay, sự hào hứng của bạn cũng không còn nữa. Vì thế, khi một trận mưa lạnh lẽo trút xuống mái nhà không biết đã là lần thứ mấy, anh ngừng công việc và vùi đầu vào cuốn tiểu thuyết của Elizabeth George.
Đó không đơn thuần là một sự trốn tránh thực tế, Blomkvist tự trấn an mình như vậy. Theo kinh nghiệm của anh, những ý tưởng hay ho nhất có thể nảy sinh đúng vào lúc người ta đang nghỉ ngơi. Và những miếng ghép cuối cùng của bức tranh có thể vào vị trí trong khi ta đang đắm chìm vào một việc khác. Nhưng lần này, những suy nghĩ tích cực nhất của Blomkvist chỉ dẫn tới một kết luận duy nhất: anh cần phải dành thời gian để nằm dài đọc sách nhiều hơn. Khi sáng thứ Hai đến với một tiết trời không khá lên nổi, anh đã ngốn xong một cuốn trinh thám rưỡi của Elizabeth George, cùng với ba số báo cũ của tờ New Yorker trước giờ nằm lăn lóc trên chiếc bàn đầu giường.
Hiện tại thì anh đang ngồi trên chiếc trường kỷ trong phòng khách với tách cappuccino, và quan sát cơn bão ngoài cửa sổ. Anh cảm thấy mệt mỏi và chán chường. Rồi anh đứng dậy – như thể đột ngột quyết định đã đến lúc lấy lại tinh thần – xỏ giày, khoác áo và rời khỏi nhà.
Thời tiết khó chịu đến lạ. Những cơn gió lạnh buốt thấm vào tận xương tủy trong khi Blomkvist vội vã đi về hướng phổ Hornsgatan phía trước mặt, hôm nay đặc biệt xám xịt. Dường như cả quận Södermalm đã mất sạch những sắc màu của mình. Thậm chí không thấy nổi một chiếc lá thu chấp chới trong không khí. Anh cúi đầu, khoanh tay băng qua phía trước nhà thờ Maria Magdalena, đi về phía Slussen, trước khi rẽ phải vào phố Götgatsbacken. Như thường lệ, anh đi qua giữa hiệu quần áo may sẵn Monki và quán Indigo trước khi leo lên cầu thang để đến tòa soạn báo nằm ở tầng bốn, ngay phía trên trụ sở của tổ chức Hòa bình xanh. Anh nghe thấy tiếng người nói từ khi còn đang leo cầu thang.
Tòa soạn đông đúc hơn thường lệ. Toàn bộ ban biên tập đều có mặt cùng với những cộng tác viên quan trọng nhất, ba người đến từ Serner, hai nhà tư vấn và Ove Levin. Levin đã chọn một bộ trang phục bớt trịnh trọng hơn cho dịp này. Anh ta không còn trông giống như một giám đốc và đã tìm được một số cách nói chuyện mới, gần gũi hơn, chẳng hạn như lời chào vui vẻ!
— Chào Micke, vưỡn khỏe chứ?
— Cũng còn tùy ở anh. – Blomkvist đáp, không thực sự chú ý tỏ vẻ kém thân thiện.
Tuy vậy, anh có thể nhận thấy câu nói của mình được tiếp nhận như một lời tuyên chiến. Blomkvist gật đầu có phần gượng gạo trước khi ngồi xuống một trong những chiếc ghế đã được sắp sẵn tại phòng biên tập để biến nó thành một phòng họp nhỏ.
Ove Levin hắng giọng và ném một cái nhìn lo ngại về phía Blomkvist. Tay phóng viên ngôi sao vừa tỏ ra khá hiếu chiến ở cửa tòa soạn giờ đây thể hiện một sự quan tâm mang tính lịch sự và có vẻ không muốn tranh cãi hay làm to chuyện. Nhưng điều này không làm Levin thấy thoải mái. Blomkvist và Levin từng là phóng viên tạm thời ở tờ Expressen. Lúc đó hai người chủ yếu viết các bài báo ngắn và những tin vặt vãnh kiểu chó cắn xe, xe cán chó. Thế nhưng, khi ngồi uống với nhau vào cuối ngày làm việc, họ thường mơ mộng về những cuộc điều tra lớn và những tiết lộ chấn động. Họ dành hàng giờ thảo luận, thề với nhau sẽ không bao giờ bằng lòng với những thứ mang tính khuôn khổ và thỏa hiệp mà luôn đào sâu tìm kiếm. Họ còn trẻ, đầy tham vọng và muốn có tất cả cùng một lúc. Levin thỉnh thoảng vẫn tiếc nhớ quãng thời gian ấy. Không phải khoản lương lậu, tất nhiên rồi, cũng không phải giờ giấc làm việc, cuộc sống buông tuồng hay tiết mục nhậu nhẹt gái gú, mà là những ước mơ. Phải, Levin nuối tiếc thứ quyền năng của chúng. Cái khao khát điên cuồng muốn thay đổi xã hội và làng báo, viết ra những thứ làm thay đổi thế giới, và khuất phục mọi thế lực. Tất nhiên rồi, ngay cả một kẻ có số má như Levin đôi khi cũng tự hỏi: Chuyện gì thế này? Những mơ ước của tôi đâu rồi?
Mikael Blomkvist đã làm được tất cả những điều đó. Không chỉ vì anh là phóng viên điều tra đã khui ra một số vụ đình đám gần đây, mà còn vì anh viết báo với sức mạnh và lòng nhiệt huyết mà họ hằng mơ ước, không bao giờ nhượng bộ trước áp lực của những kẻ quyền thế và không chấp nhận thỏa hiệp với những thứ đi ngược lại lý tưởng của mình. Về phần
Levin thì... Xét cho cùng, anh ta cũng có một sự nghiệp tốt. Ngày hôm nay, anh ta kiếm được thu nhập gấp mười lần Blomkvist, và cực kỳ hài lòng về điều đó. Những bài báo độc quyền phỏng có ích gì đối với Blomkvist, nếu chúng không cho phép anh mua một ngôi nhà nghỉ xinh xắn hơn cái nhà
kho trên đảo Sandhamn ấy? Lạy Chúa, làm sao có thể đem so cái ổ chuột đó với cơ ngơi mới tậu của Levin ở Cannes được kia chứ! Không đời nào! Không, chính anh ta mới là người đã lựa chọn đúng, chứ không phải Blomkvist.
Thay vì lãng phí thời gian với các tờ nhật báo, Levin đã chọn làm một chân phân tích truyền thông trong tập đoàn Serner và xây dựng được một mối quan hệ cá nhân tốt với chính Haakon Serner. Điều này đã làm Levin đổi đời và biến anh ta thành một người giàu có. Hiện giờ anh ta phụ trách nhiều tờ báo lẫn kênh truyền hình và rất thích thú với điều đó. Anh ta yêu thích quyền lực, tiền bạc và tất cả những thứ đi kèm, thế nhưng... Levin cũng đủ thành thật để thừa nhận rằng đôi lúc mình vẫn còn mơ tưởng đến những thứ kia – tuy một cấp độ khiêm tốn hơn, nhưng vẫn có. Anh ta cũng muốn được xem là một nhà báo giỏi, giống như Blomkvist. Có lẽ cũng vì nguyên nhân này mà Levin đã đốc thúc để tập đoàn Serner mua cổ phần của Millennium. Một nguồn tin riêng đã cho anh ta biết tờ tạp chí đang lâm vào khủng hoảng tài chính, trong khi tổng biên tập Erika Berger, người mà Levin luôn thầm ngưỡng mộ, hi vọng sẽ giữ chân được hai tân binh mới tuyển là Sofie Melker và Emil Granden. Berger không thể làm được điều đó nếu tờ báo không được bổ sung vốn.
Nói tóm lại, Levin đã trông thấy cơ hội mười mươi để đặt chân vào một trong những thương hiệu cao giá nhất của ngành truyền thông Thụy Điển. Nhưng ban lãnh đạo tập đoàn Serner không thực sự hào hứng. Ngược lại họ còn rỉ tai nhau rằng Millennium là một tờ báo tả khuynh đã lỗi thời, lại có xu hướng mâu thuẫn với các bên mua quảng cáo và đối tác kinh doanh quan trọng. Phi vụ tưởng đã đổ bể nếu Levin không ra sức bảo vệ quan điểm của mình. Anh ta nhấn mạnh rằng cần phải nhìn bức tranh tổng thể. Khoản đầu tư vào tờ Millennium chỉ là một số tiền không đáng kể, một khoản vốn góp nhỏ bé có thể không sinh lãi lớn, nhưng sẽ mang lại cho tập đoàn một thứ quan trọng hơn nhiều: uy tín. Nói gì thì nói, sau nhiều đợt cắt giảm ngân sách ráo riết, uy tín của Serner đang sụt giảm. Đầu tư vào Millennium là một biện pháp để chứng tỏ rằng sau tất cả mọi chuyện, tập
đoàn vẫn luôn quan tâm đến báo chí và tự do ngôn luận, mặc dù ban lãnh đạo chẳng mặn nồng gì với những thứ đó. Chuyện này thì tất cả đều hiểu. Do vậy Levin được bật đèn xanh cho việc đầu tư, và trong một thời gian dài có vẻ như đó là một thắng lợi cho tất cả các bên.
Tiếng tăm của Serner được nâng cao, trong khi đó Millennium giữ chân được nhân viên và tập trung vào những gì tốt nhất mà tờ báo làm được: các thiên phóng sự sâu sắc, có chất lượng tốt. Về phần mình, Levin như cá gặp nước và thậm chí còn tham gia vào một buổi tranh luận của câu lạc bộ báo chí, nơi anh ta tuyên bố với giọng điệu khiêm tốn thường lệ rằng: “Tôi tin vào những doanh nghiệp có đạo đức. Tôi luôn đấu tranh cho mảng báo chí điều tra”.
Nhưng rồi sau đó... anh ta không muốn nghĩ đến nữa. Cuộc tấn công nhằm vào Blomkvist nổ ra. Thật ra thì lúc đầu Levin không thực sự lo lắng. Từ khi người đồng nghiệp cũ của mình bước lên đỉnh cao của giới truyền thông, Levin không khỏi mừng thầm khi thấy Blomkvist bị ném đá. Nhưng lần này, sự đắc ý của anh ta không kéo dài. Con trai của Serner là Thorvald
đã thấy cuộc đấu khẩu trên các mạng xã hội và làm to chuyện lên, dù chẳng có liên can gì. Thorvald không phải loại người quan tâm đến tiếng nói của các nhà báo. Nhưng cậu ta hám quyền lực.
Thorvald thích chọc ngoáy và nhận ra đó là cơ hội để ghi điểm trước các bậc cha chú trong ban lãnh đạo tập đoàn. Cậu ta nhanh chóng khiến cho giám đốc điều hành Stig Schmidt – người cho đến lúc đó không buồn đếm xỉa tới những tiểu tiết như vậy – đi đến chỗ tuyên bố rằng Millennium cũng không phải ngoại lệ, và tờ báo cần thích nghi với thời đại mới, giống như các sản phẩm truyền thông khác của tập đoàn.
Vừa mới thề thốt với Erika Berger rằng mình sẽ không can dự vào công việc của ban biên tập trừ phi với tư cách “bạn bè hoặc cố vấn”, Levin bỗng dưng rơi vào thế há miệng mắc quai và buộc phải dùng đến mánh khóe hậu trường. Anh ta bằng mọi giá thuyết phục Berger, Malin Eriksson và
Christer Malm về các mục tiêu mới của tờ báo, tuy chúng chưa bao giờ được trình bày rõ ràng – những thứ phát sinh trong tình thế cấp bách vẫn thường như thế nhưng sẽ đưa đến việc cải tổ Millennium và làm cho nó có tính thương mại hơn.
Lẽ tất nhiên, mỗi khi có thể Levin luôn nhấn mạnh rằng họ không đời nào gây phương hại đến linh hồn của tờ báo, cũng như tính chất đả kích của nó, dù anh ta không thực sự đoán chắc về ý nghĩa của những chữ đó. Anh ta chỉ biết rằng cần phải thêm vào tờ báo một chút hào nhoáng để làm
vừa lòng ban lãnh đạo tập đoàn và giảm bớt những thiên phóng sự dài hơi trong mảng kinh tế, vốn có nguy cơ làm phật ý những đối tác mua quảng cáo, đồng thời rước thêm rắc rối cho Millennium. Nhưng tất nhiên Levin không đả động gì đến điều đó với Berger.
Vẫn muốn tránh những mâu thuẫn vô ích, nên khi đối diện với đội ngũ biên tập của tờ báo ngày hôm nay, Levin ăn mặc thoải mái hơn thường lệ. Anh ta thận trọng bỏ qua phong cách khác biệt của bộ com lê cà vạt nổi bần bật vốn là thứ được ưa chuộng tại ban lãnh đạo tập đoàn. Thay vào đó, anh ta xuất hiện trong chiếc quần jean, áo sơ-mi trắng giản dị mặc kèm chiếc áo thun chui đầu cổ chữ V màu xanh dương với chất liệu thậm chí không phải là casơmia. Mái tóc xoăn dài – vốn luôn là chi tiết nổi loạn của Levin – được buộc túm đuôi ngựa, bắt chước theo một số phóng viên truyền hình mà anh ta thích. Nhưng trên hết, khi có đôi lời phi lộ, Levin đã phải huy động toàn bộ sự khiêm nhường học hỏi được trong khóa quản trị.
— Xin chào tất cả mọi người. – Anh ta nói. – Thời tiết xấu thật! Tôi đã nói nhiều lần, nhưng tôi luôn sẵn lòng nhắc lại rằng tập đoàn Serner rất hãnh diện khi được chung sức cùng các bạn, và với riêng cá nhân tôi thì, điều đó còn có ý nghĩa cao hơn thế. Chính việc dấn thân vào những tờ báo như Millennium đã mang lại ý nghĩa cho công việc tôi đang làm, nhắc cho tôi nhớ những lý do thúc đẩy tôi chọn nghề báo. Cậu còn nhớ không, Micke, lúc chúng mình ngồi với nhau ở quán bar Opera ấy? Mình đã từng ao ước được cùng nhau làm đủ thứ. Và cũng uống với nhau kha khá. – Anh ta bật cười khe khẽ.
Mikael Blomkvist chẳng tỏ ra nhớ nhung gì chuyện đó, nhưng Ove Levin không vì thế mà nao núng.
— Không, không phải tôi muốn hoài cổ. – Anh ta tiếp lời. – Mà cũng có gì đâu. Hồi đó, báo chí tiêu tiền như nước. Để đưa tin một vụ án mạng vặt vãnh chẳng ai quan tâm ở Kräkemila, bọn tôi thuê hẳn trực thăng, bao luôn một tầng ở khách sạn đẹp nhất và khui champagne ăn mừng sau đó. Các bạn biết đấy, trong chuyến công tác nước ngoài đầu tiên của mình, tôi đã
hỏi nhà báo Ulf Nilson, hồi đó còn là phóng viên thường trú ở nước ngoài về tỉ giá đồng Mark Đức. “Tôi không biết, tôi tự bịa tỉ giá thôi”, ông ta đã đáp như thế.
Levin lại cười.
— Thế đấy, hồi đó bọn mình toàn khai vống lên các khoản chi phí công tác, cậu còn nhớ không Micke? Có lẽ đó là lĩnh vực mà chúng ta tỏ ra sáng tạo nhất. Những thứ còn lại chúng ta có để tâm gì lắm đâu, thế mà báo chí vẫn cứ bán đắt như tôm tươi. Tuy nhiên, hiện tại nhiều thứ đã thay đổi, tất cả chúng ta đều biết điều đó. Sự cạnh tranh trở nên rất khốc liệt, và càng ngày càng khó kiếm lợi nhuận trong mảng báo chí, ngay cả khi có trong tay đội ngũ viết báo xuất sắc nhất Thụy Điển, giống như các bạn. Do vậy tôi muốn chúng ta cùng bàn luận về các thách thức trong tương lai. Không phải tôi có ý muốn chỉ vẽ gì các bạn. Tôi chỉ muốn cung cấp cho các bạn một số dữ liệu để thảo luận. Tại Serner, chúng tôi đã tiến hành vài nghiên cứu về đối tượng độc giả của Millennium cũng như nhận thức của công chúng về tờ báo. Một số chi tiết có lẽ sẽ làm mọi người lo ngại, nhưng thay vì nản lòng, các bạn hãy coi chúng như một thách thức, và đừng quên rằng ở ngoài kia, những thay đổi rồ dại đang diễn ra.
Levin ngừng lời, tự hỏi hiệu việc dùng chữ “rồ dại” có phải là một sai lầm, liệu anh ta có đang cố gắng thái quá nhằm tỏ ra thoải mái và trẻ trung, liệu anh ta có mào đầu bằng một giọng điệu quá bỡn cợt và suồng sã hay không. Haakon Serner đã từng nói: “Không bao giờ được đánh giá thấp sự thiếu hài hước của những nhà báo có đồng lương còm cõi”. Nhưng không, Levin tự nhủ, mình sẽ làm được.
Mình sẽ kéo được họ về phía mình!
Blomkvist thôi không lắng nghe nữa khi đến đoạn Levin giảng giải rằng mỗi người phải nghĩ đến việc “số hóa bản thân”. Do vậy anh không hề theo dõi báo cáo cho thấy thế hệ trẻ chẳng biết gì về Millennium và Mikael Blomkvist. Định mệnh xui khiến thế nào mà đúng lúc đó anh lại quyết định
rằng mình đã nghe đủ và đứng lên đi vào trong phòng ăn. Thế nên anh cũng không nghe được tay tư vấn viên Aaron Ullman người Na Uy thốt lên:
— Thảm chưa kìa! Anh ta sợ mình bị lãng quên đến thế sao?
Thật ra thì chẳng có gì làm Blomkvist bận tâm ít hơn chuyện đó. Anh tức giận vì Levin dường như đang nghĩ mấy cái khảo sát ý kiến đó sẽ cứu được họ. Chẳng nghiên cứu thị trường nào làm nên một tờ báo cả. Chỉ có lòng nhiệt tình và đam mê mà thôi. Millennium đã có được danh tiếng như hiện tại là bởi vì họ đã dồn hết sức mình vào những điều mà họ cho là đúng đắn và quan trọng, không quan tâm đến chuyện gió thổi chiều nào. Blomkvist đứng im trong bếp, tự hỏi bao lâu nữa thì Berger đến tìm mình.
Câu trả lời là chừng hai phút. Anh cố gắng xác định mức độ giận dữ của chị thông qua tiếng gót giày. Tuy vậy, khi Berger đứng trước mặt anh, chị chỉ nở một nụ cười uể oải.
— Anh sao rồi?
— Anh không có can đảm để nghe, thế thôi.
— Anh không biết mình đã làm bọn họ khó chịu thế nào khi cư xử như thế à?
— Không.
— Và em đoán anh cũng đã biết Serner không thể làm gì nếu không có sự đồng ý của chúng ta. Chúng ta vẫn đang cầm đằng cán mà.
— Cầm cái quái gì. Bọn họ nắm thóp chúng ta rồi, Ricky! Em chưa hiểu ra sao? Nếu chúng ta không làm theo ý muốn của Serner, họ sẽ rút ván và chúng ta ngã lộn cổ. – Blomkvist giận dữ nói lớn tiếng.
Khi Berger ra dấu bảo anh hạ giọng rồi lắc đầu, Blomkvist nói tiếp với giọng nhẹ nhàng hơn:
— Anh xin lỗi. Anh thật trẻ con. Nhưng anh về đây. Anh cần suy nghĩ. — Ngày làm việc của anh càng lúc càng ngắn đấy.
— Ờ thì, anh nhận ra mình còn kha khá thời gian làm vượt giờ cần lấy lại.
— Hẳn rồi. Cần bạn đồng hành tối nay không?
— Anh không biết. Thật đấy, anh không biết nữa, Erika.
Nói đoạn Blomkvist rời khỏi tòa soạn và bước xuống phố Götgatsbacken.
Mưa gió lạnh buốt trút xuống đầu Blomkvist. Anh buột miệng chửi thề, và trong một thoáng đã định lao vào tiệm Pocketshop mua thêm một cuốn trinh thám Anh để vùi đầu vào đọc. Nhưng anh lại rẽ vào phố Sankt Paulsgatan, và đang đi qua một nhà hàng sushi thì di động đổ chuông. Anh cứ tưởng là Berger gọi, nhưng cái tên hiện ra trên màn hình là Pernilla, con gái anh. Con bé đã chọn đúng lúc hay ho nhất để gọi cho ông bố đang cắn rứt lương tâm vì không dành nhiều thời gian cho nó.
— Chào cưng. – Anh nói.
— Tiếng ồn gì thế ạ?
— Tiếng mưa gió, chắc thế.
— OK, con sẽ nói nhanh thôi. Con đã được nhận vào khóa viết văn của trường Biskops Arnö.
— Thế ra bây giờ con lại muốn làm nhà văn cơ đấy. – Anh nói với giọng hơi quá gay gắt đến mức gần như mỉa mai, một việc rõ là bất công dù xét dưới góc độ nào đi chăng nữa.
Lẽ ra anh chỉ nên chúc mừng con gái và chúc nó may mắn. Nhưng Pernilla đã trải qua nhiều năm tháng lạc lối, dạt từ giáo đoàn này sang giáo đoàn khác, học hết cái nọ đến cái kia mà chẳng bao giờ đi đến đầu đến đũa, nên cái tin con bé một lần nữa thay đổi định hướng được anh đón nhận khá uể oải.
— Bố không cần phải tỏ ra như thế.
— Bố xin lỗi con, Pernilla. Hôm nay bố không được ổn.
— Thế nghĩa là có ngày bố ổn ạ?
— Bố chỉ muốn con tìm được một hướng đi thực sự phù hợp. Bố không chắc viết lách là một ý hay, căn cứ theo tình hình hiện giờ.
— Con sẽ không làm thứ báo chí chán chường như bố đâu. — Thế con sẽ làm gì?
— Viết thật sự.
— Thôi được. – Anh nói dù không hiểu rõ ý Pernilla muốn nói. – Con có đủ tiền chứ?
— Con làm thêm ở quán Waynes Coffee.
— Con có muốn đến ăn với bố tối nay để thảo luận thêm không?
— Con bận rồi. Con chỉ muốn thông báo với bố thôi. – Pernilla nói trước khi cúp máy.
Dù Blomkvist đã cố nhìn vào khía cạnh tích cực trong sự hăng hái của con gái, tâm trạng của anh chỉ càng tệ đi. Anh đi tắt qua công viên Mariatorget tới đường Hornsgatan rồi quay về căn hộ của mình trên phố Bellmansgatan.
Tưởng chừng như anh chỉ mới ra khỏi nhà vài phút, Blomkvist có cảm giác như mình đã thất nghiệp và đang bước vào một dạng tồn tại mới, trong đó anh có cả đống thời gian thay vì phải làm việc chết bỏ. Trong một thoáng anh đã tự hỏi liệu có cần dọn dẹp nhà cửa tí chút. Sách báo và quần áo của anh vương vãi khắp nơi. Nhưng rồi anh lấy hai chai Pilsner Urquell trong tủ lạnh và ngồi xuống chiếc trường kỷ trong phòng khách để ngẫm nghĩ về mọi chuyện một cách tỉnh táo. Ít ra cũng tỉnh táo hết mức có thể khi trong máu được bổ sung chút cồn.
Anh sẽ phải làm gì?
Blomkvist hoàn toàn không biết. Đáng lo ngại hơn, anh cũng không muốn đấu tranh nữa. Anh đang muốn đầu hàng một cách lạ lùng, như thể tờ Millennium đã ra khỏi vùng quan tâm của anh. Một lần nữa Blomkvist tự đặt cho mình câu hỏi: có phải đã đến lúc làm chuyện khác? Đó đương nhiên là một sự phản bội ghê gớm đối với Erika Berger và những người khác. Nhưng anh có thực sự là người cần thiết để lèo lái một tờ báo tồn tại
nhà quảng cáo và lượng đặt mua dài hạn? Biết đâu anh sẽ tìm được chỗ của mình ở nơi khác? Mà nơi đó là đâu mới được?
Tài chính suy kiệt là vấn nạn của ngay cả những tờ nhật báo lớn nhất, và nơi duy nhất còn đủ nguồn lực cũng như phương tiện để thực hiện các phóng sự điều tra là các đơn vị của nhà nước. Hoặc là nhóm thực hiện bản tin Ekot trên đài phát thanh, hoặc là đài truyền hình Thụy Điển... Ờ thì, tại sao không? Anh chợt nhớ đến Kajsa Åkerstam, một phụ nữ quyến rũ dưới mọi phương diện mà thỉnh thoảng anh vẫn gặp nói chuyện. Kajsa phụ trách chương trình Lực lượng điều tra trên truyền hình và đã có ý định mời anh về từ mấy năm nay. Anh chưa bao giờ nghĩ đến chuyện đó, bất chấp những gì chị ta đề nghị, cũng như những lời cam đoan trịnh trọng rằng anh được tự do hoàn toàn và luôn được hậu thuẫn trong mọi tình huống. Millennium vẫn luôn là nhà, là tâm hồn của anh.
Nhưng giờ thì... Có lẽ anh nên thử nắm lấy cơ hội, nếu như lời đề nghị vẫn còn có giá trị sau tất cả những thứ rác rưởi người ta viết về anh. Anh đã làm nhiều mảng trong ngành báo chí, nhưng chưa bao giờ thử sức với truyền hình, ngoại trừ hàng trăm buổi tranh luận và các chương trình chào buổi sáng mà anh từng tham dự. Một vị trí trong Lực lượng điều tra biết đâu có thể thổi bùng trở lại lòng nhiệt huyết của anh.
Điện thoại di động của Blomkvist đổ chuông khiến anh vui mừng trong chốc lát. Dù đó là Berger hay Pernilla, anh cũng sẽ tỏ ra thân thiện và chăm chú lắng nghe. Nhưng số điện thoại gọi bị ẩn. Blomkvist dè dặt nghe máy.
— Có phải anh Mikael Blomkvist không ạ?
— Một giọng khá trẻ cất tiếng.
— Vâng.
— Anh có nói chuyện được không?
— Có thể, nếu cậu cho tôi biết cậu là ai.
— Tên em là Linus Brandell.
— Được rồi, Linus, tôi giúp gì được cho cậu?
— Em có một câu chuyện để anh khai thác đây.
— Cậu nói đi!
— Em sẽ nói nếu anh xuống nhà, bước sang quán Đôi Tay Của Bishop bên kia đường và gặp em tại đó.
Blomkvist hơi bực mình, phần vì giọng điệu ra lệnh, phần vì sự hiện diện đường đột của kẻ không quen biết tại khu phố của anh.
— Nói qua điện thoại cũng được rồi.
— Đây không phải là chuyện có thể nói qua một kênh liên lạc không an toàn.
— Tại sao tôi cảm thấy mệt mỏi đến thế khi nói chuyện với cậu vậy, Linus?
— Có thể vì hôm nay là một ngày không suôn sẻ đối với anh? — Đúng là tôi đã có một ngày tệ hại. Cậu ghi điểm rồi đấy.
— Đấy thấy chưa, anh sang ngay quán Đôi Tay Của Bishop, em sẽ đãi anh cốc bia và kể cho anh một chuyện cực hay.
Blomkvist chỉ muốn hét lên: “Đừng có ra lệnh cho tôi nữa!” Nhưng không hiểu sao, hoặc có thể vì chẳng còn chuyện gì hay ho hơn để làm ngoài việc ngồi nhà nghiền ngẫm tương lai, anh đáp:
— Bia tôi tôi trả. Nhưng tôi sẽ xuống.
— Anh quyết định chuẩn đấy.
— Nhưng Linus này…
— Vâng?
— Nếu cậu cà kê dê ngỗng và kể cho tôi mấy thuyết âm mưu kiểu Elvis vẫn còn sống hoặc cậu biết người đã bắn chết Olof Palme là ai, tôi sẽ về nhà ngay lập tức.
— Nhất trí. – Brandell đáp.
3
ngày 20 tháng mười một
Hanna Balder đang hút một điếu Camel không đầu lọc ở trong bếp. Chị mặc một chiếc váy ngủ xanh dương, chân đi đôi dép bông xám đã cũ. Bất chấp mái tóc dày quyến rũ cùng một sắc đẹp mặn mà, chị vẫn có một sắc diện không tốt. Đôi môi chị sưng phồng và lớp trang điểm dày quanh mắt không chỉ có mục đích làm đẹp.
Hanna lại vừa bị ăn đòn.
Hanna bị ăn đòn thường xuyên. Nhưng không thể nói là chị đã quen với chuyện đó. Chẳng ai quen với việc bị ăn đòn cả. Nhưng nó đã trở thành chuyện thường ngày của Hanna, và chị gần như không còn nhớ nổi con người vui vẻ trước kia của mình nữa. Nỗi sợ hãi đã trở thành một phần con người của Hanna, và dạo gần đây chị bắt đầu dùng thuốc an thần cùng hàng chục điếu thuốc lá mỗi ngày.
Lasse Westman văng tục một mình trong phòng khách. Cũng chẳng có gì lạ. Hanna biết thừa anh ta hối tiếc vì sự dễ dãi của mình đối với Frans. Thực ra thì chị đã thấy chuyện đó kỳ lạ ngay từ đầu. Lasse chuyên môn xài tiền của Frans gửi chu cấp cho August. Trong suốt một thời gian dài, anh ta sống chủ yếu dựa vào chỗ tiền ấy. Hanna đã nhiều lần phải gửi những bức thư trong đó chị bịa ra các khoản chi đột xuất cho thầy cô giáo, hoặc một khóa học đặc biệt nào đó. Thế nên chị càng thấy lạ khi Lasse chấp nhận từ bỏ tất cả khi để cho Frans đưa thằng bé đi.
Nhưng trong thâm tâm, Hanna đã biết câu trả lời. Máu tự ái của Lasse nổi lên dưới tác dụng của cồn. Triển vọng nhận được vai diễn trong loạt phim hình sự mới trên TV4 càng bơm phồng thêm cái tôi của anh ta.
Nhưng trên hết, lý do là August. Lasse thấy thằng bé đáng lo ngại và mờ ám. Đó mới là điều khó hiểu nhất: làm sao người ta có thể ghét bỏ một đứa bé như August?
Thằng bé suốt ngày ngồi chơi xếp hình, chẳng quấy rầy bất cứ ai. Thế nhưng nó vẫn bị Lasse ghét ra mặt. Hẳn là do ánh mắt của August. Cái ánh mắt lạ lùng cứ như đang hướng vào bên trong thay vì nhìn ra thế giới bên ngoài. Mọi người thường đùa giỡn về chuyện đó và bảo là August hẳn phải có một nội tâm rất phong phú. Nhưng vì một vì lý do không giải thích được, Lasse không thể chịu nổi ánh mắt ấy.
“Khốn khiếp, Hanna! Nó nhìn xuyên qua anh này.” Có lần anh ta đã nói như thế.
“Nó chỉ là một đứa khờ khạo, anh đã nói như thế mà”.
“Phải, khờ khạo, nhưng vẫn rất đáng ngờ. Anh dám cá nó ghét anh”.
Đúng là chuyện vớ vẩn. August đâu có nhìn Lasse, thằng bé cũng không nhìn những người khác, và chẳng ghét ai cả. Chỉ là thế giới xung quanh làm nó bối rối, và nó cảm thấy sung sướng hơn khi được ngồi trong cái kén nhỏ của mình. Ấy thế nhưng cứ hễ có rượu vào là Lasse lại cho rằng August đang nghiền ngẫm một âm mưu trả thù. Đây mới là nguyên nhân tại sao anh ta để cho thằng bé và khoản tiền phụ cấp ra đi. Đúng là dở hơi. Ít ra thì Hanna cũng nghĩ như thế. Và hiện tại, trong khi đứng cạnh bồn rửa bát, căng thẳng rít điếu thuốc đến mức làm nó dính chặt vào lưỡi, chị tự hỏi liệu tất cả chuyện này có một chút sự thật nào trong đó hay không. Biết đâu August cũng ghét Lasse. Biết đâu thằng bé thực sự muốn trừng trị anh ta vì tất cả những trận đòn mà nó đã từng nhận, và biết đâu... Hanna cắn môi... Biết đâu thằng bé cũng ghét cả chị.
Dạo này những suy nghĩ đen tối đó cứ lởn vởn trong đầu Hanna vào buổi tối, khi chị nhớ August quay quắt, rồi nghi ngờ tự hỏi liệu có phải chị và Lasse đã làm hại thằng bé.
Mình là một con mụ xấu xa, Hanna tự nhủ đúng lúc Lasse Westman la lối gì đó khiến chị không kịp nghe.
— Gì thế? – Hanna hỏi.
— Cái quyết định giao quyền nuôi con chết tiệt đâu rồi?
— Để làm gì?
— Để chứng minh rằng anh ta không có quyền chăm sóc thằng bé. — Tưởng anh cảm thấy nhẹ gánh khi không bị nó quấn chân? — Lúc đó tôi say quá hóa ngu.
— Ơ, thế bây giờ tự dưng anh tỉnh táo và khôn ra à?
— Khôn như cáo ấy chứ. – Westman rít lên trong lúc đi đến chỗ Hanna với vẻ dữ tợn và cứng rắn.
Hanna nhắm mắt lại, một lần nữa tự hỏi vì sao mọi chuyện lại ra nông nỗi như thế này.
Frans Balder không còn giống với hình ảnh một nhân viên cao cấp chỉn chu đứng trước cửa nhà vợ cũ nữa. Mái tóc ông trở nên bù xù, môi trên lấm tấm mồ hôi, lần tắm gội sau cùng của ông là ba ngày trước hay sao đó. Bất chấp ý định trở thành một ông bố toàn thời gian tử tế, bất chấp giây phút tràn trề hy vọng và cảm xúc dâng tràn trên phố Hornsgatan, ông đã lại đắm chìm trong tình trạng tập trung cao độ mà người ta dễ dàng nhầm tưởng với sự giận dữ.
Balder nghiến chặt răng, và mọi thứ xung quanh cùng thời tiết mưa gió bên ngoài dường như không còn tồn tại nữa. Ông cũng không bận tâm tới điều đang diễn ra dưới chân mình: những chuyển động khe khẽ tựa như của một con mèo hoặc của một con thú nhỏ đang luồn lách dưới chân ông. Phải mất một lúc Balder mới nhận ra August đang bò dưới bàn làm việc của mình. Ông mơ hồ đưa mắt nhìn thằng bé, như thể mắt ông vẫn đang bị che mờ bởi những dòng mã lập trình.
— Con muốn gì thế?
August nhìn lên với ánh mắt nài nỉ trong veo.
— Gì thế? – Balder nói tiếp. – Chuyện gì?
Và một chuyện kỳ lạ xảy ra. Thằng bé cầm lấy một tờ giấy nằm dưới sàn, trên đó đầy những thuật toán lượng tử. Bàn tay August run rẩy di tới di lui trên tờ giấy. Trong một thoáng, Balder đã tưởng thằng bé lại lên cơn. Nhưng không, hình như August đang hí hoáy gì đó với một cử động rất nhanh. Balder sững người. Cũng giống như lúc ở giao lộ Hornsgatan, một điều gì đó rất quan trọng và xa xăm chợt xuất hiện trong đầu ông. Nhưng lần này thì ông đã nhận ra nó.
Balder nhớ lại hồi mình còn bé, khi những con số và phép toán còn quan trọng hơn cả cuộc sống. Mắt ông sáng lên.
— Con muốn tính cộng, đúng không? Có phải con muốn tính không?
Balder vội lục tìm mấy cây bút và vài tờ giấy A4 kẻ caro rồi đặt xuống đất, trước mặt August.
Sau đó, ông viết ra một chuỗi những chữ số đơn giản nhất mà mình nghĩ ra, dãy Fibonacci, trong đó mỗi số là tổng của hai số liền kề trước nó: 1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21; và chừa chỗ trống cho con số tiếp theo, số 34. Rồi ông tự nhủ nó còn quá dễ và viết một cấp số nhân: 2,6, 18,54... trong đó mỗi số được nhân với bội số 3 để ra số kế tiếp, và như vậy số còn thiếu sẽ là 162. Để giải những câu đố này, một đứa trẻ có năng khiếu sẽ không cần phải biết nhiều kiến thức toán. Balder bắt đầu mơ mộng rằng August không bị chậm phát triển trí tuệ, đúng hơn thằng bé là bản sao được nâng cấp của ông. Hồi bé, Balder cũng chậm nói và giao tiếp, nhưng ông đã nắm được một số nguyên tắc toán học trước khi nói ra từ đầu tiên.
Balder ngồi đợi khá lâu bên cạnh August. Nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra. Thằng bé nhìn những con số bằng ánh mắt trong veo, như thể đang cầu xin các đáp số tự xuất hiện trên tờ giấy. Cuối cùng Balder để August lại một mình và lên gác uống nước, trước khi ngồi vào bàn bếp để tiếp tục công việc. Nhưng sự tập trung của ông đã biến mất. Ông lơ đãng lật giở một tờ New Scientist.
Khoảng nửa tiếng sau, Balder đứng dậy và xuống gác tìm August. Thoạt nhìn thì mọi chuyện không có gì thay đổi. Thằng bé vẫn đang ngồi ở tư thế y hệt như lúc nãy. Balder tò mò tiến lại gần.
Một giây sau, ông có cảm giác mình đang đứng trước một việc lạ lùng không thể giải thích nổi.
Quán Đôi Tay Của Bishop khá vắng khách. Mới là đầu giờ chiều, thời tiết cũng không mời mọc người ta ra ngoài, dù chỉ để đến một quán rượu bên đường. Tuy vậy, Mikael Blomkvist được chào đón bởi nhiều tiếng la hét và những tràng cười trước khi một giọng khàn khàn vang lên:
— Kalle Blomkvist!
Chủ nhân của giọng nói là một người đàn ông có gương mặt múp míp đỏ au cùng mái tóc bù xù và bộ ria vuốt cong mà Blomkvist đã gặp nhiều lần trong khu phố. Anh nhớ ông ta tên Arne. Chiều nào Arne cũng đến đây vào lúc hai giờ, chính xác như đồng hồ. Hôm nay rõ ràng ông ta đã đến sớm hơn và đang uống với ba người bạn tại một chiếc bàn phía bên trái của quán rượu.
— Mikael. – Blomkvist mỉm cười chỉnh lại.
Arne và mấy người bạn bật cười ha hả, như thể tên của Blomvist là thứ hài hước nhất trên đời.
— Cậu đang trúng quả hả? – Arne hỏi.
— Tôi đang nghĩ đến chuyện lột trần thế giới ngầm của Đôi Tay Của Bishop đây.
— Cậu nghĩ Thụy Điển đã sẵn sàng cho một quả đậm như thế sao? — Không, có lẽ là chưa.
Thật ra Blomvist khá thích nhóm của Arne. Anh chưa bao giờ trao đổi với họ quá ba câu vô thưởng vô phạt. Nhưng những người này là một phần cuộc sống hàng ngày của anh, họ là một trong những lý do khiến anh cảm thấy thoải mái khi ở đây. Và anh hoàn toàn không bực mình khi một người trong nhóm buột miệng hỏi:
— Tưởng đâu cậu đã hết thời?
Thay vì làm Blomkvist nổi đóa, câu nói đó đã biến cả chiến dịch ném đá anh thành một trò tầm phào.
— Tôi đã hết thời mười lăm năm nay. Điều tốt đẹp, rượu hỡi, chỉ tính bằng ngày. – Anh trả lời bằng câu thơ của Gustaf Fröding, và đảo mắt nhìn quanh tìm một kẻ có vẻ đủ to gan để triệu một nhà báo đang khó ở xuống tận quán rượu này.
Nhưng ngoài Arne và nhóm bạn, trong quán chẳng có người khách nào khác. Blomkvist quyết định đi đến chỗ Amir ở quầy.
Amir là một người cao to và thân thiện. Làm bố của bốn đứa con, anh mở quán rượu này đã được vài năm. Hai người khá thân nhau, không phải vì Blomkvist là khách quen, mà vì họ thường giúp nhau bằng nhiều cách. Nhiều lần, khi Blomkvist tiếp bạn gái và không có thời gian đi Systembolaget mua rượu, Amir đã bán cho anh vài chai vang đỏ để chữa cháy. Ngược lại, Blomkvist từng giúp một người bạn không có giấy tờ của Amir tiến hành các thủ tục hành chính cần thiết.
— Điều gì đã mang vinh dự đến cho chúng tôi thế này? – Amir hỏi. — Tôi sắp gặp một người.
— Một gã thú vị chứ?
— Chẳng biết nữa. Sara thế nào rồi? Sara là vợ của Amir. Chị vừa trải qua ca phẫu thuật hông.
— Kêu ca và luôn miệng nốc thuốc giảm đau.
— Nghe chừng vất vả đấy. Anh cho tôi gửi lời chào nhé. — Rất sẵn lòng. – Amir đáp.
Hai người tiếp tục tán gẫu với nhau một lúc.
Mãi không thấy Linus Brandell xuất hiện, Blomkvist bắt đầu tự hỏi phải chăng đây là một trò đùa ác ý. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, có những màn chơi xỏ còn ác ôn hơn việc phải đi xuống quán rượu ven đường nhiều. Anh ngồi lại tầm mười lăm phút, nói đủ thứ trên trời dưới biển trước khi quyết định ra về. Đúng lúc đó thì anh chàng kia xuất hiện.
Sự thể không phải là August đã điền được con số đúng vào các dãy số. Để gây ấn tượng cho một người như Frans Balder thì phải là một điều gì hơn thế. Đó chính là thứ mà ông trông thấy bên cạnh những con số. Thoạt nhìn, nó giống như một ảnh chụp, nhưng thật ra nó chỉ là một bức vẽ thể
hiện một cách chính xác trụ đèn giao thông trên phố Hornsgatan, nơi hai bố con từng đi ngang qua tối hôm trước. Từng chi tiết nhỏ đều được vẽ lại với một sự chính xác kinh khủng. Bức vẽ thực sự tỏa sáng.
Mặc dù không ai dạy cho August vẽ phối cảnh cũng như cách tả bóng, thằng bé dường như làm chủ các kỹ thuật đó một cách tuyệt vời. Ánh đèn đỏ nơi trụ đèn giao thông sáng rực trên phông nền u ám của con đường Hornsgatan trong buổi tối mùa thu. Ngay giữa đường là bóng người mà Balder từng ngờ ngợ mình đã gặp. Khuôn mặt của anh ta bị cắt ngang ở phần trên lông mày. Anh ta có vẻ lo lắng, hoặc ít ra cũng không thoải mái, như thể bị August làm bối rối, và anh ta đang bước đi một cách do dự. Làm thế quái nào thằng bé có thể thể hiện được tất cả những điều này?
— Chúa ơi. – Balder thốt lên. – Con đã tự vẽ cái này sao?
Không gật cũng chẳng lắc đầu, August chỉ đưa mắt nhìn về phía cửa sổ. Balder chợt có linh cảm lạ lùng rằng từ giờ trở đi cuộc đời của ông sẽ thay đổi hoàn toàn.
Mikael Blomkvist không biết mình đợi ai, một thanh niên ăn mặc sành điệu đến từ khu Stureplan hay một cậu trai vắt mũi chưa sạch. Hóa ra là một anh chàng lôi thôi lếch thếch lùn một mẩu với quần jean thủng lỗ chỗ, tóc bết bẩn và đôi mắt ranh mãnh thiếu ngủ. Tuổi chừng hai lăm hoặc trẻ hơn một chút, cậu ta sở hữu một mái tóc che mắt, nước da xấu và một vết thương khá tệ trên môi. Linus Brandell chẳng giống chút nào với một người đang ngồi trên một phi vụ thế kỷ.
— Linus Brandell, phải không nhỉ?
— Đúng rồi ạ. Xin lỗi vì em đến muộn. Đang đến đây thì em gặp con bạn học chung hồi lớp chín, nên...
— Chúng ta vào đề luôn được không? – Blomkvist cắt ngang rồi dẫn cậu thanh niên tới chỗ một cái bàn ở cuối quán. Khi Amir tiến đến chỗ họ với một nụ cười bí hiểm, Blomkvist gọi hai cốc bia Guinness. Vài phút im lặng trôi qua. Blomkvist không tài nào hiểu được tại sao mình căng thẳng
ẳ
đến thế. Chẳng giống anh chút nào. Chắc là do vụ Serner. Anh mỉm cười với nhóm bạn của Arne đang quan sát họ từ xa.
— Em sẽ vào thẳng vấn đề. – Brandell nói. – Tốt.
— Anh biết Supercraft chứ?
Mikael Blomkvist không rành lắm về các trò chơi điện tử, nhưng anh đã từng nghe nhắc đến trò Supercraft.
— Biết tên thôi.
— Chỉ vậy thôi ạ?
— Ừ.
— Thế thì anh không biết thứ làm cho trò chơi này độc đáo, hay chí ít cũng khác biệt. Đó là một ứng dụng AI, tức là trí tuệ nhân tạo ấy. Nó cho phép người chơi thảo luận về binh pháp với một chiến binh mà không hề biết, hoặc ít ra là không biết ngay từ đầu, rằng đó người thật hay một nhân
vật ảo.
— Thế à.
Chẳng có gì làm Blomkvist quan tâm ít hơn yếu tố công nghệ của một trò chơi điện tử vớ vẩn.
— Đó là một cuộc cách mạng nho nhỏ trong lĩnh vực này, và em đã tham gia vào quá trình tạo ra nó. – Brandell nói.
— Chúc mừng. Chắc cậu kiếm được bộn tiền nhỉ.
— Vấn đề là ở chỗ đó.
— Tức là sao?
— Người ta đã đánh cắp dữ liệu của bọn em, và hiện tại Truegames đang kiếm tiền tỉ mà chẳng phải trả cho bọn em xu nào.
Blomkvist đã nghe câu này nhiều lần. Thậm chí anh từng nói chuyện với một bà già cứ khăng khăng cho rằng mình đã viết Harry Potter và bị J. K. Rowling đánh cắp ý tưởng bằng thần giao cách cảm.
— Làm sao lại có chuyện đó? – Anh hỏi.
— Bọn em bị hack.
— Sao cậu biết?
— Vụ đó đã được ghi nhận bởi các chuyên gia của cơ quan Bảo vệ Vô tuyến Quốc gia FRA . Em có thể cung cấp một cái tên nếu anh muốn, và... – Brandell ngập ngừng.
— Và sao?
— Không có gì ạ. Nhưng ngay cả Säpo cũng biết, anh cứ nói chuyện với Gabriella Grane thì rõ. Đó là một chuyên gia phân tích, chị ấy có thể khẳng định điều em nói là đúng. Gabriella đã nhắc đến vụ việc này trong một báo cáo chính thức hồi năm ngoái. Em còn giữ số công văn đây...
— Nói cách khác, vụ này không có gì mới.
— Không, không phải thế. Ny Teknik và Computer Sweden cũng đã viết về vụ này. Nhưng Frans không muốn làm to chuyện, thậm chí ông ta còn phủ nhận chuyện bị tin tặc tấn công. Thế nên vụ việc không được giới truyền thông đào sâu.
— Nhưng nó vẫn là một tin cũ.
— Vâng ạ.
— Vậy tại sao tôi phải lắng nghe cậu, hở Linus?
— Bởi vì Frans đã trở về từ San Francisco cách đây không lâu, và có vẻ như ông ta đã hiểu rõ mọi chuyện. Em tin chắc ông ta đang ngồi trên một quả bom. Ông ta trở nên thận trọng tới mức điên rồ. Ngoài những hệ thống mã hóa siêu phức tạp cho điện thoại và thư điện tử, ông ta vừa lắp đặt một hệ thống chống trộm với camera, cảm biến chuyển động và đủ thứ khác. Em nghĩ anh nên nói chuyện với ông ta. Đó là lý do em đã gọi cho anh. Một người như anh mới có thể khiến Frans nói hết, chứ ông ta không chịu nghe em.
— Vậy là cậu bảo tôi đến đây vì có vẻ như một gã Frans nào đó đang ngồi trên một quả bom.
— Không phải “một gã Frans nào đó” đâu anh. Chính là Frans Balder. Em chưa nói với anh sao? Em từng là một phụ tá của ông ta.
Blomkvist lục tìm trong trí nhớ của mình. Người duy nhất mang họ Balder mà anh nghĩ ra là Hanna Balder, một nữ diễn viên. Chẳng biết bây giờ chị ta thế nào nữa.
— Ông ta là ai vậy?
Ánh mắt khinh thường của Brandell làm anh chưng hửng.
— Anh đang sống trên sao Hỏa hay sao thế? Frans Balder là một huyền thoại. Ai mà không biết ông ta.
— Thế à?
— Vâng. Trời ạ! – Brandell đáp. – Anh chỉ cần gõ tên ông ta trên Google là thấy. Frans Balder trở thành giáo sư công nghệ thông tin khi mới hai mươi bảy tuổi, và suốt hai chục năm qua ông ta là một chuyên gia có uy tín hàng đầu thế giới trong mảng nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo. Gần như không ai vượt được ông ta trong việc phát triển máy tính lượng tử và mạng nơron. Ông ta luôn tìm ra những giải pháp độc đáo và điên rồ. Một bộ óc siêu việt và ngược ngạo, với những ý tưởng khác người. Anh có thể hình dung ngành công nghệ thông tin đã săn đón ông ta như thế nào trong suốt nhiều năm qua. Nhưng trong một thời gian dài Balder luôn từ chối mọi lời đề nghị. Ông ta muốn làm việc một mình. Thật ra, “một mình” ở đây là sự tự chủ trong công việc, chứ xung quanh ông ta luôn có hàng chục phụ tá được ông ta sử dụng tối đa. Ông ta luôn đòi hỏi kết quả với câu nói cửa miệng: “Không có gì là không thể. Nhiệm vụ của chúng ta là đẩy lùi các giới hạn”. Nhưng mọi người nghe theo ông ta răm rắp. Bọn em làm mọi thứ cho ông ta. Trong giới cuồng công nghệ của bọn em, ông ta đúng là một vị thánh quyền năng.
— Ghê nhỉ.
— Anh đừng nghĩ em giống như mấy đứa fan cuồng dở hơi. Không hề nhé. Mọi thứ đều có giá của nó, em biết chuyện đó rõ hơn ai hết. Anh có thể làm nhiều việc lớn cùng với Frans, nhưng cũng lên bờ xuống ruộng vì ông ta. Frans thậm chí không giành được quyền nuôi thằng con trai. Ông ta đã làm hỏng việc theo một cách không thể tha thứ được. Còn nhiều chuyện khác nữa, những phụ tá nghiên cứu lâm vào ngõ cụt, tự phá hỏng đời mình và có trời mới biết. Nhưng mặc dù Frans luôn bị ám ảnh, trước kia ông ta không bao giờ cư xử như vậy. Ý em là vụ tăng cường bảo vệ an ninh ấy.
Chính vì nó mà em đến đây. Em nghĩ anh nên nói chuyện với Frans Balder. Ông ta đang ôm một quả bom lớn, em cảm thấy như thế.
— Cậu cảm thấy...
— Anh phải hiểu, bình thường ông ta không phải là một kẻ hoang tưởng, mà ngược lại. Frans không điên nếu xét trên những dự án ông ta đang làm. Vậy mà hiện nay ông ta giam mình trong nhà, gần như không ra ngoài. Hình như ông ta sợ. Em có thể khẳng định với anh Frans không phải là dạng non gan. Một kẻ liều mạng là đằng khác.
— Và ông ta làm việc với các trò chơi điện tử? – Blomkvist không che giấu sự ngờ vực.
— Thật ra... Frans để cho bọn em làm việc với những gì mình thích, và ông ta thừa biết bọn em toàn dân nghiện game. Chương trình AI của Frans ứng dụng được cho mảng đó, nên ông ta đã lập ra một nhóm thử nghiệm và bọn em đã thu được những kết quả tuyệt vời. Bọn em đã có những bước tiến lớn. Chỉ có điều...
— Cậu nói thẳng ra luôn đi, Linus.
— Chẳng là Balder và các luật sư của ông ta đã nộp hồ sơ cấp bằng sáng chế cho phần độc đáo nhất của công nghệ mà mọi người nghiên cứu được. Và đó là cú sốc đầu tiên. Một kỹ sư người Nga của hãng Truegames
cũng vừa yêu cầu cấp bằng sáng chế cho một thứ y chang, và hồ sơ của Balder bị ách lại. Rõ ràng chuyện này không thể là trùng hợp. Thật ra thì vụ xin cấp bằng sáng chế chỉ là một vấn đề nhỏ. Điều quan trọng hơn là phải tìm hiểu xem tại sao người ta đánh hơi được những gì bọn em đã phát triển. Xét theo việc tất cả bọn em đều trung thành dưới trướng của Frans Balder, chỉ còn một cách giải thích khác: bất chấp tất cả những biện pháp đề phòng, bọn em đã bị hack.
— Có phải đó là lúc cậu liên hệ với Säpo và FRA?
— Không phải ngay lập tức. Frans không ưa những nhân viên an ninh ngồi bàn giấy. Ông ta thích những kẻ đêm đêm ngồi luyện mắt với màn hình máy tính hơn. Thế là ông ta đi nhờ một nữ hacker mà em không hiểu từ đâu ra. Cô ta nhanh chóng khẳng định là bọn em đã bị đột nhập. Em thề, nhìn bề ngoài cô ta chẳng có vẻ gì đáng tin cả. Nếu là em thì còn lâu mới
tin dùng một kẻ như thế. Rất có thể cô ta chỉ nói vớ vẩn. Nhưng đúng là kết luận của cô ta sau đó đã được khẳng định bởi người của FRA.
— Nhưng không một ai biết kẻ đã đánh cắp dữ liệu của các cậu?
— Không. Việc truy ra nguồn gốc tin tặc thường là rất khó, Điểm chắc chắn duy nhất: chúng là dân chuyên nghiệp. Bọn em đã phòng bị hết sức kỹ càng.
— Và bây giờ cậu nghĩ Frans Balder đã biết được điều gì đó?
—Chứ còn gì nữa. Nếu không thì ông ta đâu có cư xử như thế. Em tin chắc ông ta đã phát hiện được chuyện gì đó hồi ở Solifon.
— Ông ta làm việc cho hãng đó à?
— Vâng, rất lạ đúng không ạ. Như em đã nói với anh, Frans vẫn luôn từ chối để mình bị ràng buộc bởi các ông lớn trong ngành tin học. Em chưa từng thấy ai như Frans, luôn miệng bảo rằng phải đứng ngoài, phải giữ sự độc lập, không được biến mình thành nô lệ của các thế lực kinh tế, vân vân và vân vân. Thế rồi đùng một cái, ngay lúc mọi người đang khủng hoảng nhất vì bị đánh cắp công nghệ, ông ta đã nhận lời về làm cho Solifon. Không ai hiểu gì cả. Đồng ý là bọn họ đã dành cho ông ta một khoản lương khủng, một sự tự do tuyệt đối và những thứ khác, kiểu như “Anh muốn làm gì thì làm, chỉ cần làm với chúng tôi”. Lời đề nghị đó có lẽ rất cám dỗ. Đối với bất kỳ ai, ngoại trừ Frans Balder. Ông ta đã nhận được hàng tá lời đề nghị tương tự từ phía Google, Apple và các đại gia khác. Tại sao lần này nó thuyết phục được ông ta? Frans chưa bao giờ giải thích chuyện đó. Ông ta cứ thế phủi tay ra đi. Theo những gì em hóng được thì lúc đầu tình hình khá suôn sẻ. Frans đã phát triển công nghệ của bọn em, và em nghĩ ông chủ của Solifon, Nicolas Grant, hẳn đã bắt đầu mơ tới doanh thu hàng tỉ. Bọn họ tất thảy đều hào hứng. Thế rồi xảy ra chuyện.
— Một chuyện mà cậu không biết rõ.
— Vâng. Bọn em đã mất liên lạc. Nói chung là Frans đã cắt đứt liên lạc với mọi người. Nhưng em chắc chắn một điều, đó là một chuyện rất nghiêm trọng. Frans luôn rao giảng về sự thẳng thắn, hào hứng với Trí tuệ của đám đông và những thứ như thế: tầm quan trọng của việc khai thác sự hiểu biết của đám đông, giống như cách nghĩ của Linux. Nhưng tại Solifon,
hình như ông ta giữ bí mật đến từng dấu phẩy, kể cả với những đồng nghiệp thân cận nhất. Thế rồi, đùng một cái, ông ta từ chức và quay về Thụy Điển. Kể từ đó, Frans nhốt mình trong nhà tại Saltsjöbaden, không bao giờ ló mặt ra đường và càng không buồn để ý đến ngoại hình.
— Như vậy, nếu tôi hiểu đúng thì vụ việc lớn mà cậu vừa kể cho tôi nghe, đó là chuyện của một giáo sư đang chịu nhiều áp lực đến mức bỏ quên vẻ ngoài của mình. Còn làm thế nào hàng xóm trông thấy điều đó thì lại là chuyện khác.
— Vâng, nhưng...
— Linus, tôi cũng tin đây có thể là một câu chuyện thú vị. Nhưng rất tiếc, nó không hợp với tôi. Tôi không phải là nhà báo chuyên mảng công nghệ. Nói như một người nào đó đã từng gọi tên một cách chính xác, tôi là người tiền sử. Tôi đề nghị cậu tiếp xúc với Raoul Sigvardsson của tờ Svenska Morgon-Posten. Anh ta rất rành rẽ mảng này.
— Không, không, Sigvardsson chỉ là hạng ruồi. Anh ta không đủ tầm cho vụ này.
— Tôi nghĩ cậu đang đánh giá thấp anh ta đấy.
— Thôi nào, anh đừng né tránh nữa. Câu chuyện này có thể đánh dấu sự tái xuất của anh đấy, Blomkvist.
Blomkvist uể oải giơ tay vẫy Amir đang lau chiếc bàn gần đó. — Tôi có thể khuyên cậu một điều được không, Linus?
— Ơ... được ạ... tất nhiên rồi.
— Lần tới, nếu cậu muốn bán một câu chuyện, đừng cố nói với nhà báo về những gì nó sẽ mang đến cho anh ta. Cậu có biết người ta đã giở bài đó với tôi bao nhiêu lần không? “Đây sẽ là vụ lớn nhất trong sự nghiệp của anh. Lớn hơn cả vụ Watergate!” Cậu sẽ làm tốt hơn nếu giữ một chút sự khách quan.
— Em chỉ muốn nói...
— Phải, cậu muốn nói gì?
— Rằng anh nên nói chuyện với ông ta. Em nghĩ ông ta sẽ nể anh. Hai người đều thuộc dạng cố chấp giống nhau.
Brandell dường như đã đánh mất hoàn toàn sự tự tin, và Blomkvist tự hỏi phải chăng anh đã quá cứng rắn. Trên nguyên tắc, anh cần tỏ ra ân cần, khuyến khích những người cung cấp thông tin cho mình, bất kể họ là ai. Không chỉ vì một đề tài hay có thể ẩn sau những câu chuyện điên rồ nhất, mà còn bởi anh biết nhà báo thường là cọng rơm cuối cùng để họ bám vào. Nhiều người tìm đến với anh khi tất cả những cánh cửa khác đã đóng sập lại. Anh là hi vọng cuối cùng, và chẳng có lý do gì để anh khinh miệt họ.
— Cậu nghe này. – Anh nói, – Hôm nay là một ngày tệ hại với tôi, và tôi không muốn tỏ vẻ cay độc.
— Không sao đâu ạ.
— Và cậu biết không, quả thực trong câu chuyện này có một chi tiết làm tôi quan tâm. Cậu đã nhắc đến một nữ hacker.
— Vâng, nhưng chuyện đó chẳng có liên quan gì. Em nghĩ cô ta là một dự án xã hội của Balder thì đúng hơn.
— Nhưng có vẻ cô ta rất am hiểu.
— Đúng, hoặc là ăn may. Cô ta nói nhiều thứ linh tinh lắm. — Cậu đã gặp cô ta à?
— Vâng, ngay sau khi Balder sang Silicon Valley.
— Đó là khi nào?
— Gần một năm trước. Em đã chuyển mấy cái máy tính của bọn em về nhà em ở Brantingsgatan. Hoàn cảnh của em chẳng sung sướng gì. Thui thủi một mình, rỗng túi, uống rượu bét nhè,nhà cửa như cái chuồng lợn. Lúc đó em vừa mới nói chuyện điện thoại với Frans Balder, ông ta say sưa nói những câu đại loại như: “Đừng phán xét cô ta qua bề ngoài, ấn tượng ban đầu thường sai lầm”, vân vân và vân vân. Đi nói chuyện đó với em á? Em cũng đâu phải người hoàn hảo. Trong đời em chưa từng đeo cà vạt, và nếu có ai biết cách nhận diện một hacker giữa đám đông, thì người đó là em. Nói tóm lại, em ngồi chờ cô nàng xuất hiện. Cứ tưởng ít ra cũng biết gõ cửa đàng hoàng, nhưng hóa ra cô ta cứ thế mở cửa bước vào.
— Cô ta trông như thế nào?
— Dị lắm... nhưng khá gợi cảm, kể cũng lạ thật. Nhưng mà dị!
— Linus, tôi không yêu cầu cậu đánh giá ngoại hình của cô ta. Tôi chỉ muốn biết cô ta ăn mặc như thế nào và có tiết lộ danh tính hay không.
— Em hoàn toàn không biết cô ta là ai. – Brandell nói tiếp. – Tuy vậy em có cảm giác đã trông thấy cô ta ở đâu đó, và hình như không phải tốt đẹp gì. Cô ta xăm trổ và xỏ khoen kinh lắm. Phong cách ma quái, dân chơi hoặc tín đồ nhạc rock. Người thì gầy như cái que.
Gần như trong vô thức, Blomkvist ra hiệu Amir rót cho mình một cốc Guinness.
— Rồi chuyện xảy ra thế nào? – Anh hỏi.
— Nói sao nhỉ. Em đã nghĩ bọn em không bắt buộc phải vào việc ngay lập tức, nên em ngồi xuống mép giường – vì thật ra cũng chẳng có nhiều chỗ để mà ngồi – và đề nghị uống chút gì đó trước. Anh có biết cô ta đã làm thế nào không? Cô ta đã bảo em ra ngoài. Cô ta đã ra lệnh cho em rời khỏi nhà mình, như thể đó là chuyện tự nhiên nhất quả đất. Tất nhiên là em từ chối. Em nói đại loại: “Đây là nhà của tôi”. Nhưng cô ta chỉ đáp gọn lỏn: “Phắn đi. Biến”. Bởi thế em không còn lựa chọn nào khác ngoài đi ra khỏi nhà một lúc khá lâu. Khi em quay lại thì cô ta đang nằm trên giường của em, miệng phì phèo thuốc lá. Không tưởng tượng nổi! Cô ta đang đọc một cuốn sách về lý thuyết dây hay gì đó. Hình như em đã nhìn cô ta hơi sỗ sàng thì phải, em cũng không biết nữa. Cô ta bảo là cô ta không có ý định ngủ với em, không một chút nào. “Không một chút nào”, cô ta đã nói chính xác như thế. Và hình như cô ta không hề nhìn thẳng vào mắt em đến một lần. Cô ta chỉ nói trong máy của bọn em bị dính một con Trojan, một con RAT, và cô ta đã nhận ra điểm quen thuộc trong cách thức xâm nhập, sự khác biệt trong cách lập trình của nó. “Các cậu dính chấu rồi”, cô ta bảo thế, trước khi đi thẳng.
— Mà không buồn chào tạm biệt?
— Không thèm chào nửa câu.
— Ái chà. – Blomkvist buột miệng.
— Thực ra, em nghĩ cô ta chỉ nói bừa. Cái tay ở FRA, người đã tiến hành một cuộc kiểm tra tương tự sau đó và chắc chắn nắm được nhiều thông tin hơn, anh ta đã nói rất rõ là không thể rút ra những kết luận như thế. Và mặc dù đã lùng sục mọi ngóc ngách trong máy tính, anh ta cũng không tài nào tìm được dấu vết của phần mềm gián điệp. Tuy vậy, Molde – tên anh ta là Stefan Molde – cũng nghi rằng bọn em đã bị hack.
— Cô gái đó không hề tiết lộ gì về bản thân với cậu sao?
— Em cũng đã cố ép, nhưng cô ta chỉ nói với giọng gắt gỏng là em có thể gọi cô ta là Pipi. Rõ ràng đó không phải là tên thật, nhưng...
— Nhưng sao?
— Em thấy cái tên đó hợp với cô ta.
— Cậu nghe này. – Blomkvist nói. – Lúc nãy, tôi đã suýt bỏ về. — Vâng, em cũng nhận ra điều đó.
— Nhưng tình hình đã thay đổi theo chiều hướng tích cực. Cậu bảo là Frans Balder biết cô nàng này, đúng không?
— Vâng ạ.
— Vậy thì, tôi muốn nói chuyện với ông ta càng sớm càng tốt. — Vì cô gái đó?
— Có thể nói như vậy.
— OK, tốt thôi. – Brandell ngẫm nghĩ. – Nhưng anh sẽ không tìm được ông ta trong danh bạ đâu. Như em đã nói, ông ta đã trở nên cực kỳ kín đáo. Anh có dùng iPhone không?
— Có.
— Vậy thì, anh đừng mơ. Theo lời Frans, Apple đã bán linh hồn mình cho NSA. Để liên hệ với ông ta, anh phải mua một chiếc Blackphone,hoặc mượn một điện thoại Android và cài một chương trình mã hóa đặc biệt. Nhưng em sẽ tìm cách để ông ấy chủ động liên hệ với anh, như thế hai người sẽ có thể sắp xếp một nơi an toàn để gặp nhau.
— Tốt quá, cảm ơn cậu, Linus.
Mikael Blomkvist nán lại một lúc sau khi Brandell đã ra về. Anh uống nốt chỗ bia,mắt nhìn cơn bão bên ngoài. Phía sau lưng Blomkvist, Arne và nhóm bạn đang cười chuyện gì đó, nhưng anh mải suy nghĩ đến nỗi không nghe thấy gì hết. Anh chỉ lờ mờ nhận ra khi Amir đến ngồi bên cạnh và cho anh biết dự báo thời tiết mới nhất.
Nhiệt độ đã là âm mười độ. Đợt tuyết đầu mùa sẽ xuất hiện, nhưng không phải theo kiểu lãng mạn như trong phim, không hề.
Đó sẽ là một đợt bão tuyết tồi tệ mà đã lâu người dân Thụy Điển không được chứng kiến.
— Nghe nói sẽ có bão. – Amir nói.
Vẫn chưa để tâm vào câu chuyện, Mikael Blomkvist lơ đãng đáp: — Tốt thôi.
— Tốt thôi á?
— Phải... ờ thì, ý tôi là... còn hơn là chẳng biết gì.
— Ừ... Nhưng cậu có sao không đấy? Trông cậu thất thần lắm. Cuộc hẹn có giúp ích gì không?
— Không, không sao.
— Nhưng cậu đã nghe được một chuyện chấn động, đúng không?
— Tôi cũng chẳng biết nữa. Lúc này mọi thứ đang rối tung. Tôi định sẽ rời Millennium.
— Tôi cứ tưởng cậu sống chết với nó cơ đấy.
— Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng hình như cái gì cũng có thời. — Ông già tôi cũng nói kể cả những thứ vĩnh cửu cũng có thời. — Ông già anh ám chỉ điều gì khi nói thế?
— Tình yêu, chắc vậy. Ông ấy nói câu đó ngay trước khi bỏ mẹ tôi.
Mikael Blomkvist bật cười khan. – Tôi cũng chưa bao giờ có duyên với tình yêu vĩnh cửu. Ngược lại...
— Ngược lại sao?
— Có một người mà tôi biết, hiện tại cô ấy đã biến khỏi cuộc đời tôi khá lâu.
— Rắc rối nhỉ...
— Phải, chuyện này cũng hơi đặc biệt. Nhưng vừa rồi tôi bất ngờ bắt được một dấu vết của cô ấy, có lẽ thế. Hẳn đó là nguyên nhân khiến tôi bần thần thế này.
— Tôi hiểu.
— Thôi, tốt hơn tôi nên về nhà. Tôi thiếu anh bao nhiêu? — Chuyện đó để sau đi.
— OK, bảo trọng nhé, Amir – Blomkvist nói, trước khi đi ngang qua bàn của mấy người khách quen, những người còn cố ném cho anh vài bình luận ngớ ngẩn.
Rồi anh ném mình vào mưa gió.
Nó cho anh một trải nghiệm giống như đang cận kề cái chết. Những đợt cuồng phong thổi thốc vào người Blomkvist. Nhưng anh vẫn đứng yên một lúc, lạc trong những ký ức xa xăm, trước khi quay về nhà trên những bước chân chậm rãi. Không hiểu sao anh loay hoay mãi mới mở được cửa, sau khi xoay vặn chìa đủ mọi kiểu. Rồi anh tháo giày và ngồi vào máy tính để tìm kiếm thông tin về giáo sư Nhưng đầu óc anh cứ ở đâu đó. Giống như biết bao lần trước đây, anh tự hỏi: cô ấy đã biến đi đâu? Ngoài một vài tin tức từ ông chủ cũ của cô, Dragan Armansky, anh chẳng nghe được chút gì về cô. Cô đã biến mất khỏi mặt đất. Trong khi họ gần như ở cùng một khu vực, anh đã không hề nhìn thấy bóng dáng của cô. Bởi thế câu chuyện của Brandell làm anh bị chấn động mạnh.
Tất nhiên, cô gái xuất hiện ở căn hộ của Brandell ngày hôm đó có thể là một người khác. Có thể lắm, nhưng khó có khả năng đó. Còn ai ngoài Lisbeth Salander dám xộc thẳng vào nhà người ta mà không buồn nhìn ngó, đuổi người ta ra khỏi nhà rồi lục lọi các bí mật trong máy tính của họ?
Lại còn cái câu “tôi không có ý định ngủ với cậu, dù chỉ là một chút”? Chắc là Lisbeth Salander rồi. Cả cái biệt danh Pipi nữa... kiểu của cô ấy không lẫn vào đâu được.
Trên cánh cửa nhà cô ở phố Fiskargatan có đề chữ V.Kulla. Anh hiểu tại sao cô không muốn để tên thật. Nó quá khác biệt và gắn liền với những vụ án kinh khủng. Nhưng giờ cô đang ở đâu? Đây không phải lần đầu cô biến mất, nhưng từ cái ngày anh gõ cửa căn hộ của cô trên phố Lundagatan và
cho cô một trận vì đã điều tra quá sâu về nhân thân của anh, hai người chưa bao giờ bặt tin nhau lâu đến thế. Chuyện này hơi lạ, đúng không? Xét cho cùng, Lisbeth là... là gì của anh mới được?
Bạn thì không hẳn. Bạn bè phải qua lại thăm nhau. Bạn bè đâu có lặn mất tăm như thế. Bạn bè không liên hệ với nhau bằng cách đột nhập máy tính của nhau. Tuy vậy Blomkvist cảm thấy mình gắn bó sâu sắc với Lisbeth. Và hơn hết, anh lo lắng cho cô. Anh không thể làm khác được. Người giám hộ trước đây của cô, ông Holger Palmgren, vẫn thường nói cô luôn giải quyết được mọi chuyện. Và bất chấp tuổi thơ khủng khiếp của mình, hoặc cũng có thể là nhờ nó, cô có một khả năng sinh tồn đáng kinh ngạc. Ông ấy nói vậy cũng có phần đúng.
Nhưng không có gì đảm bảo cả, nhất là với một phụ nữ có quá khứ như thế cùng một sở trường mua thù chuốc oán. Có lẽ cô đã đi lạc hướng, giống như Dragan Armansky đã bóng gió úp mở trong bữa trưa ở Gondolen hồi sáu tháng trước. Đó là một ngày mùa xuân, ngày thứ Bảy, và Armansky đã nhất quyết mời anh đi uống với mình. Anh có cảm giác ông cần tâm sự, nhưng mặc dù cuộc gặp có vẻ giống như lần tái ngộ của hai người bạn cũ, rõ ràng Armansky chỉ muốn nói về Lisbeth Salander. Sau vài ly rượu, ông đã tỏ ra khá đa cảm.
Armansky cho Blomkvist biết công ty của ông, An ninh Milton, đã cung cấp thiết bị báo động cho một nhà dưỡng lão ở Högdalen. Thiết bị xịn, theo lời ông nói.
Nhưng chúng cũng chẳng ích gì nếu bị cắt điện và không có con người can thiệp. Đó chính là điều đã xảy ra. Điện bị ngắt đúng lúc đêm khuya và một bà cụ đã bị ngã. Bà cụ tên là Rut Åkerman. Cú ngã làm bà bị gãy cổ xương đùi, và bà đã nằm đó ấn nút báo động nhiều giờ mà không có ai đến
trợ giúp. Sáng sớm hôm sau, tình trạng của bà đã trở nên khá nguy kịch, và trong thời kỳ báo chí đang tập trung soi mói tình trạng chểnh mảng tại các nhà dưỡng lão, vụ việc càng bị thổi phồng lên.
May mắn thay, bà cụ đã qua khỏi. Nhưng bất hạnh nằm ở chỗ bà là mẹ của một nhân vật chóp bu trong Đảng Dân chủ Thụy Điển. Khi trang web Unpixelated tiết lộ rằng Armansky là người Ả rập – một điều không chính xác, mặc dù một số người đặt biệt danh cho ông là “người Ả rập” -, các bình luận bùng nổ. Hàng trăm người dùng ẩn danh bình phẩm đại loại như: “Đây là kết quả của việc chúng ta để cho mấy thằng rệp cung cấp dịch vụ”. Armansky rất buồn vì chuyện này, đặc biệt là với những bình luận ác ý nhằm vào mẹ ông.
Thế rồi đột nhiên như có phép màu, tất cả người sử dụng của trang web không còn ẩn danh nữa. Ai cũng đọc được tên họ đầy đủ, địa chỉ nhà, tuổi và nghề nghiệp của họ. Mọi thứ được làm rất rõ ràng, như thể người dùng đã điền vào một tờ khai vậy. Có thể nói, toàn bộ trang web đã bị “bóc trần”, và hóa ra người sử dụng nó không chỉ là những anh hùng bàn phím. Phần lớn trong số họ là những công dân đường hoàng, thậm chí có cả những đối thủ cạnh tranh của Armansky trong lĩnh vực an ninh. Trong một thời gian dài những người phụ trách trang web hoàn toàn bất lực, họ không tài nào hiểu nổi chuyện gì đang diễn ra. Sau rồi họ cũng đóng được trang web và thề sẽ tìm ra thủ phạm. Nhưng ngoài Armansky, không người nào biết kẻ đó là ai.
“Đích thị Lisbeth Salander chứ còn ai vào đây nữa”. Ông đã nói như thế. “Khỏi cần phải nói là tôi xoa tay hài lòng như thế nào. Dù làm công việc bảo mật thông tin, tôi cũng chẳng đủ cao thượng để thương hại cho những kẻ bị vạch trần danh tính đó. Anh biết đấy, tôi đã bặt tin Lisbeth từ rất lâu và nghĩ rằng cô ấy chẳng thèm quan tâm gì đến tôi nữa. Mà nói thật, cô ấy cũng đâu cần biết đến ai. Thế rồi xảy ra chuyện này. Nó quá tuyệt vời. Cô ấy đã bảo vệ tôi. Tôi đã gửi một email đầy lời cảm ơn và, thật bất ngờ, tôi đã nhận được hồi âm. Anh có biết Lisbeth đã viết gì trong đó không?”
“Không”.
“Sao ông có thể bảo vệ thằng cha Sandvall ở bệnh viện Östermalm?” “Sandvall?”
“Một bác sĩ thẩm mỹ được chúng tôi cung cấp dịch vụ bảo vệ cá nhân. Anh ta nhận được nhiều lời đe dọa sau khi quấy rối một cô nàng người Estonia được anh ta nâng ngực cho. Hóa ra cô ta là bạn gái của một tên tội phạm khét tiếng”.
“Ôi trời”.
“Thế mới nói. Một hành động khá ngu xuẩn. Tôi đã trả lời Lisbeth rằng tôi thừa biết Sandrall chẳng phải loại ngây thơ vô tội. Nhưng tôi cũng cố làm cô ấy hiểu là chúng tôi không có quyền phán xét. Chúng tôi không thể chỉ bảo vệ những con người tuyệt vời về mặt đạo đức. Ngay cả những gã đàn ông gia trưởng cũng có quyền được bảo vệ ở một mức độ nhất định. Sandvall đã nhận những lời đe dọa nghiêm trọng, anh ta đã cầu cứu chúng tôi, và chúng tôi đã cung cấp dịch vụ cho anh ta với giá cao gấp đôi. Đơn giản là thế”.
“Nhưng Lisbeth không chấp nhận lập luận của ông?”
“Cô ấy không hồi âm, dù là bằng email. Nhưng có thể nói, cô ấy đã cho chúng tôi một câu trả lời theo cách khác”.
“Cách gì vậy?”
“Lisbeth đã đến gặp người của chúng tôi tại bệnh viện và ra lệnh cho họ không được động thủ. Tôi nghĩ cô ấy đã lôi uy danh của tôi ra để uy hiếp họ. Sau đó, cô ấy đi qua hàng loạt y tá, bệnh nhân và bác sĩ để vào thẳng phòng làm việc của Sandvall và bẻ ba ngón tay của anh ta, vừa làm vừa tuôn ra những lời hăm dọa kinh khủng nhất”.
“Khiếp!”
“Nói như anh là còn nhẹ. Phải nói là điên nặng. Anh có hiểu nổi không, hành động như thế, trước cả đống nhân chứng, ngay giữa một bệnh viện tư hạng sang?”
“Đúng là điên thật”.
“Tất nhiên sau đó mọi chuyện rối tinh rối mù lên. Đe dọa kiện tụng, khởi tố và đủ thứ khác. Anh thử hình dung mà xem: bẻ những ngón tay chuyên cắt mắt, nâng ngực, hút mỡ của một bác sĩ phẫu thuật. Chính những vụ như thế làm cho đồng tiền nhảy múa trong mắt các luật sư hàng đầu”.
“Vậy sau đó chuyện gì đã xảy ra?”
“Chẳng có gì. Chìm xuồng. Có lẽ đó là điểm lạ lùng nhất trong câu chuyện này. Hình như Sandvall không muốn theo đuổi vụ việc. Nhưng dù vậy đó cũng là một chuyện hết sức điên rồ. Chẳng người bình thường nào lại đi bẻ tay một bác sĩ phẫu thuật giữa ban ngày ban mặt ngay tại bệnh viện như thế. Kể cả Lisbeth Salander”.
Mikael Blomkvist không hoàn toàn bị thuyết phục bởi phân tích đó. Anh thấy nó có một sự hợp lý nhất định. Hợp lý theo kiểu của Lisbeth. Và anh ít nhiều là chuyên gia trong việc phân tích nó. Anh biết rõ hơn ai hết cô có lý đến mức độ nào. Đúng là cái lý của cô không giống với đa phần mọi người, nhưng nó tương ứng với những nguyên tắc cô đã đề ra. Anh tin chắc mười mươi là tay bác sĩ kia đã làm những chuyện còn nghiêm trọng hơn việc táy máy sờ soạng một cô nàng mà anh ta không được phép đụng tới. Tuy vậy, anh không thể không tự hỏi liệu câu chuyện này có cho thấy một điểm yếu nơi Lisbeth. Ít nhất là về mặt phân tích nguy cơ.
Anh cảm thấy có lẽ cô muốn gây rắc rối để cuộc sống của mình đỡ nhàm chán. Nhưng nói thế thì hơi bất công. Anh chẳng biết gì về động cơ của cô. Anh cũng không còn biết gì về cuộc sống của cô nữa. Và giờ anh đang ngồi đây, trước màn hình máy tính, lùng sục thông tin trên mạng về Frans Balder giữa lúc gió bão như muốn giật tung cửa sổ, chỉ để biết vì sao định mệnh lại sắp đặt cho anh và cô tái ngộ nhau một cách gián tiếp như thế này. Dù sao thì, có còn hơn không, và anh sẽ rất vui vì Lisbeth không thay đổi. Xem vẻ cô vẫn là chính cô, và biết đâu cô có thể đem đến cho anh một câu chuyện để viết báo. Linus Brandell làm anh bực bội ngay từ đầu, anh đã định đuổi khéo cậu ta dù vụ việc cậu ta kể nghe chừng cũng hay ho. Nhưng khi Lisbeth Salander xuất hiện trong câu chuyện, anh đã nhìn nhận lại mọi thứ dưới góc độ mới.
Trí tuệ nhạy bén của Lisbeth thì không còn nghi ngờ gì nữa, nên nếu cô đã tham gia vào vụ việc này thì có lẽ nó cũng đáng để Blomkvist nghiên cứu. Chí ít anh cũng nên xem xét nó kỹ lưỡng hơn.
Nếu gặp may, anh sẽ được biết thêm đôi chút về cuộc đời mới của cô. Vấn đề ở đây là vì sao cô lại liên quan với vụ việc này?
Lisbeth Salander không phải là một nhà tư vấn tự do về công nghệ thông tin. Đồng ý là những bất công trong cuộc sống có thể làm cô bất bình và sẵn sàng vào cuộc để tự mình đòi lại công bằng. Nhưng đối với một phụ nữ không ngần ngại xâm nhập vào bất cứ hệ thống tin học nào, việc nổi giận trước một vụ tin tặc là điều khá bất ngờ. Bẻ ngón tay một bác sĩ phẫu thuật, OK! Nhưng phá đám bọn hacker á? Thế có khác nào bệnh viện đi chửi nhà thương! Mặt khác, anh thiếu thông tin một cách trầm trọng.
Blomkvist không biết lịch sử của vụ việc. Có thể Lisbeth và Balder là bạn bè, hoặc có mối quan hệ nào đó. Chuyện này không phải là không thể, và để kiểm tra, anh thử tìm kết hợp cả hai cái tên trên Google, nhưng không ra kết quả nào, hay đúng hơn là không có gì rõ ràng. Blomkvist ngồi nhìn cơn bão một lúc, nghĩ đến một hình xăm con rồng trên chiếc lưng gầy guộc và tái xanh, đợt rét đột ngột ở đảo Hedestad và nấm mồ toang hoác ở Gosseberga.
Sau đó anh tiếp tục tìm kiếm về Frans Balder. Cái tên của ông giáo sư cho ra hàng triệu kết quả, nhưng không thể từ đó tổng hợp lại thành một tiểu sử hoàn chỉnh. Chủ yếu chúng là những bài báo hoặc các bình luận khoa học. Hình như Frans Balder không cho ai phỏng vấn mình. Do vậy, những chi tiết nhỏ nhất về cuộc đời của ông ta cũng nhuốm một màu sắc giai thoại – như thể chúng được tô vẽ bởi những sinh viên ngưỡng mộ thầy.
Có vẻ như Frans Balder từng bị coi là trẻ chậm phát triển hồi còn bé. Cho đến cái ngày ông ta bước vào phòng hiệu trưởng ngôi trường trung học trên đảo Ekerö mà mình đang theo học để chỉ cho ông thầy thấy một lỗi trong quyển sách toán liên quan đến thứ được gọi là số ảo. Cuốn sách đã được chỉnh lí ở lần xuất bản tiếp theo, và mùa xuân năm sau Balder đã giành được một giải thưởng quốc gia về toán học. Người ta nói ông ta có khả năng nói ngược và tạo ra những câu dài đọc xuôi ngược đều được. Trong một bài luận cũ được đăng lên mạng, ông ta đã mạnh miệng chỉ trích cuốn Chiến tranh giữa các thế giới của H. G. Wells. Theo Balder, không thể chấp nhận được chuyện những sinh vật vượt trội chúng ta về mọi mặt lại không nắm được một dữ liệu cơ bản như sự khác biệt về hệ vi khuẩn giữa sao Hỏa và trái đất.
Sau khi tốt nghiệp trung học, Frans Balder theo học ngành công nghệ thông tin tại trường Imperial College bên London, nơi ông ta bảo vệ luận án tiến sĩ về các thuật toán trong mạng nơron. Luận án đó được đánh giá có tính đột phá. Balder trở thành giáo sư trẻ tuổi nhất từng được phong tại Học viện công nghệ Hoàng gia Stockholm, đồng thời được bầu vào Viện Hàn lâm Khoa học công nghệ Hoàng gia Thụy Điển. Hiện ông ta là một chuyên gia có uy tín toàn cầu về khái niệm giả định “điểm kỳ dị công nghệ”, hay tình trạng trí thông minh của máy tính vượt qua trí tuệ của con người.
Về mặt hình thức, Frans Balder chẳng có vẻ gì đặc biệt hoặc quyến rũ. Trong các tấm ảnh có trên mạng, trông ông ta giống như một gã lùn nhếch nhác với đôi mắt bé xíu và mái tóc bù xù. Thế nhưng ông ta đã cưới nữ minh tinh Hanna Lind xinh đẹp. Cặp đôi đã có một đứa con trai, và theo một bài báo lá cải giật tít Nỗi đau lớn của Hanna, cậu bé bị khuyết tật trí tuệ nặng, mặc dù trong tấm ảnh kèm theo bài báo, cậu ta trông chẳng có vẻ gì là chậm phát triển cả.
Cuộc hôn nhân đổ vỡ, và trong một phiên xử gay cấn tại tòa án quận Nacka, đứa trẻ hư của ngành sân khấu, Lasse Westman, đã hùng hổ xuất hiện. Anh ta lớn tiếng tuyên bố Frans Balder không được giữ quyền nuôi con, do ông ta quan tâm đến “trí tuệ của máy tính nhiều hơn là trí tuệ của con mình”. Blomkvist không mất nhiều thời gian cho vụ ly dị ồn ào mà tập trung tìm hiểu những nghiên cứu của Balder. Anh ngồi một lúc lâu để xem xét một bài báo khoa học phức tạp về máy tính lượng tử.
Sau đó, anh vào thư mục Tài liệu của mình, mở một tập tin mà anh đã tạo ra một năm trước. Tập tin có tên là [KHO CỦA LISBETH].
Blomkvist hoàn toàn không biết liệu Lisbeth có còn đột nhập vào máy tính của anh nữa không, nhưng anh vẫn hi vọng là có và tự nhủ mình nên viết gì đó cho cô, bất chấp mọi chuyện. Vấn đề là viết cái gì.
Những bức thư cá nhân dài dòng không hợp với Lisbeth, chúng chỉ làm cho cô khó chịu. Tốt hơn anh nên thử viết gì đó ngắn gọn, hơi bí ẩn một chút. Blomkvist gõ một câu hỏi:
Sau đó anh đứng dậy và ngắm nhìn cơn bão tuyết ngoài cửa sổ.
4
ngày 20 tháng mười một
Edwin Needham, tên thường gọi Ed the Ned, không phải là chuyên viên bảo mật được trả lương cao nhất nước Mỹ, nhưng có lẽ anh ta là người giỏi nhất và ngạo mạn nhất. Sinh trưởng ở South Boston, Dorchester, Ed có người bố đúng nghĩa là một tạo vật xấu xí của Chúa, một gã nát rượu sống lay lắt qua ngày trên bến cảng nhờ những công việc vặt vãnh và tìm quên trong những cuộc chè chén liên miên, với điểm dừng là phòng cấp cứu hoặc nhà tù, một việc chẳng làm ai thích thú.
Thế nhưng những cuộc nhậu của ông bố lại là những khoảnh khắc dễ thở nhất của cả nhà. Khi ông ta đi uống rượu, bà Rita được nghỉ xả hơi đôi chút. Bà có thể ôm hai đứa con vào lòng để an ủi chúng rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn thỏa. Những khi Sammy chịu ở nhà, ông ta thường xuyên thượng cẳng chân hạ cẳng tay với vợ. Nhiều lần bà nhốt mình hàng giờ, thậm chí cả ngày trong phòng vệ sinh để khóc lóc và run sợ.
Trong những lần ăn đòn nặng nhất, bà còn bị nôn ra máu. Do vậy không ai quá ngạc nhiên khi bà chết vì bị xuất huyết nội khi mới bốn mươi sáu tuổi, cũng như khi chị gái của Ed bập vào ma túy. Họ càng không ngạc nhiên khi người cha và hai đứa con đứng trước tình cảnh phải khăn gói ra đường.
Tuổi thơ của Ed hứa hẹn một cuộc sống xào xáo, và ở tuổi thiếu niên anh ta đã gia nhập băng nhóm có biệt hiệu Bọn Khốn. Băng nhóm này là nỗi kinh hoàng của Dorchester, chuyên tham gia các cuộc chiến tranh băng đảng, tấn công và cướp phá các tiệm tạp hóa. Người bạn thân nhất của Ed,
một gã tên là Daniel Gottfried, đã bị đập chết bằng dùi cui và treo xác trong lò mổ. Thời kỳ đó, Ed đã ở bên bờ vực thẳm.
Ngay từ lúc còn trẻ, Ed đã có vẻ bặm trợn và thô lỗ. Việc anh ta không bao giờ cười và bị khuyết hai cái răng ở hàm trên chỉ càng làm mọi thứ tệ thêm. Ed thuộc loại to con, cơ bắp và lì lợm. Khuôn mặt của anh ta thường xuyên mang thương tích, hoặc từ những trận cãi nhau với bố, hoặc từ những lần thanh toán giữa các băng đảng. Hầu hết thầy cô trong trường đều sợ Ed ra mặt. Họ tin chắc anh ta sẽ kết thúc trong tù hoặc với một viên đạn găm trong sọ. Tuy vậy, cũng có một vài người lớn quan tâm đến trường hợp của Ed – chắc hẳn vì ngoài vẻ hung hãn và tính cách bạo lực, đôi mắt xanh thẳm của anh ta còn cho thấy một điều khác.
Ed có một khao khát khám phá không thể thỏa mãn được, một năng lượng cho phép anh ta ngốn ngấu những cuốn sách với cùng một sự hăng hái như khi nghiền ra bã mọi thứ trong các chuyến xe buýt ở địa phương. Thay vì về nhà sau giờ học, anh ta thường ngồi lại hàng giờ trong phòng
máy của nhà trường, nơi có vài chiếc máy tính để bàn. Một thầy giáo vật lý người Thụy Điển tên Larsson đã nhận ra năng khiếu tin học của Ed, và cùng với sự can thiệp của cơ quan bảo trợ xã hội, Ed đã được nhận một học bổng cho phép anh ta chuyển đến một ngôi trường có các học sinh tích cực hơn.
Kết quả học tập của Ed ngày càng tốt, anh ta có thêm những học bổng và thành tích mới. Sau đó, anh ta theo học Kỹ thuật điện và Khoa học máy tính tại MIT, Học viện công nghệ Massachusetts, Ed làm luận án tiến sĩ về những mối lo lắng liên quan đặc biệt với hệ thống mã hóa bất đối xứng như thuật toán RSA, trước khi đạt được những vị trí cao cấp tại Microsoft và Cisco. Cuối cùng, anh ta được tuyển dụng vào NSA với trụ sở đặt tại Căn cứ Meade, bang Maryland.
Thật ra mà nói, lí lịch của Ed không thực sự đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe của vị trí công việc, không chỉ vì những sai lầm hồi còn trẻ. Hồi học trung học anh ta từng hút cần sa và bày tỏ cảm tình với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thậm chí là vô Chính phủ. Anh ta cũng từng bị bắt hai lần vì hành vi bạo lực do ẩu đả trong quán bar. Tính nết của Ed khá cộc cằn, và tất cả những người quen biết đều tránh đối đầu với anh ta.
Tuy thế, tại NSA, người ta đánh giá cao những phẩm chất khác của Ed. Ngoài ra, đó là thời điểm mùa thu năm 2001, bộ phận tình báo Mỹ đang có nhu cầu rất lớn về chuyên gia tin học, nên họ tuyển dụng gần như bất kỳ ai. Những năm sau đó, không còn ai đặt câu hỏi về sự trung thành và lòng yêu nước của Ed. Nếu có người nào tỏ ra thắc mắc, năng lực của anh ta luôn thắng thế trước các khuyết điểm.
Ed không chỉ có một năng lực vượt trội, anh ta còn là một kẻ vô cùng kỹ tính, ám ảnh bởi công việc, và năng suất kinh khủng. Những điều đó hoàn toàn phù hợp cho nhiệm vụ giám sát an ninh thông tin của những cơ quan cao cấp nhất. Và anh ta sẽ không để cho ai đột nhập hệ thống của mình, đó là danh dự cá nhân của anh ta. Ed nhanh chóng trở thành nhân vật không thể thiếu tại Căn cứ Meade, các đồng nghiệp thường xuyên xếp hàng trước cửa phòng làm việc của anh ta để tham khảo ý kiến. Rất nhiều người còn nể sợ anh ta vì Ed không ngần ngại mắng chửi đồng nghiệp khi có bất đồng ý kiến. Ngay cả đô đốc Charles O'Connor huyền thoại, giám đốc của NSA, cũng từng bị anh ta chửi thẳng mặt.
“Dùng cái đầu đầy chữ chết tiệt của ông để hiểu đi”. Ed từng gầm lên như thế khi đô đốc tìm cách nhận xét công việc của anh ta.
Cũng như những người khác, Charles O'Connor mặc kệ. Họ biết Ed la lối và quát mắng là đúng – khi người ta không tuân thủ các điều khoản bảo mật, hoặc phát ngôn những chuyện mà mình chưa nắm bắt được hết. Ed chưa bao giờ xen vào những công việc khác của cơ quan tình báo, mặc dù đặc quyền cho phép anh ta tự do tiếp cận những thông tin tối mật và từ vài năm nay, cơ quan An ninh Quốc gia là tâm điểm của những cuộc đấu đá: những người tả khuynh lẫn hữu khuynh đều coi nó như hiện thân của quỷ dữ, của Anh lớn trong tác phẩm 1984 của Orwell. Đối với Ed, cơ quan sẵn sàng làm bất cứ điều gì anh ta muốn, miễn là hệ thống bảo mật của anh ta chặt chẽ và nguyên vẹn.
Chưa từng lập gia đình nên Ed gần như ăn ngủ tại cơ quan. Anh ta là một người mà họ có thể tin tưởng, và mặc dù anh ta từng là đối tượng của một số cuộc điều tra về tính trung thực, người ta chưa bao giờ tìm được điểm gì đáng phàn nàn ở Ed, ngoại trừ vài lần say xỉn mới đây, trong đó anh ta trở nên khá đa cảm và huyên thuyên về quá khứ của mình. Tuy vậy, ngay cả trong những lúc đó, không có gì cho thấy anh ta từng hé răng với
người ngoài về công việc của mình. Nói cách khác, đối với bên ngoài, Ed im lặng như nấm mồ. Nếu bị ai đó đặt câu hỏi về nghề nghiệp, Ed luôn trả lời bằng một câu chuyện bịa đặt đã thuộc nằm lòng, và người ta luôn tìm được bằng chứng khẳng định nó trên mạng hoặc trong các kho dữ liệu.
Không phải ngẫu nhiên, cũng không phải nhờ chạy chọt mà Ed thăng tiến và có được vị trí chuyên viên bảo mật cao cấp nhất tại NSA. Sau đó, anh ta đã siết chặt giám sát nội bộ để “tránh bị những cảnh báo bất ngờ đập thẳng vào mặt”, và sau những đêm thức trắng triền miên, họ đã thiết lập một thứ được gọi là “bức tường không thể phá vỡ”, hoặc “bầy chó săn cực kỳ thính nhạy”.
“Không thằng cha nào có thể xâm nhập, và không thằng chó nào có thể sục sạo ở đây nếu không được phép”, Ed luôn tự hào khẳng định như thế. Mọi thứ suôn sẻ cho đến cái buổi sáng tháng Mười một chết tiệt ấy. Đó là một ngày trời quang mây tạnh. Hoàn toàn khác hẳn thứ thời tiết tồi tệ đang
chụp xuống châu Âu, Mọi người đi làm trong trang phục sơ-mi và áo vest nhẹ nhàng. Ed với vòng bụng đã trở nên đẫy đà theo năm tháng tiến đến chiếc máy bán cà phê trên những bước chân nặng nề đặc trưng.
Do cấp bậc của mình, anh ta bỏ ngoài tai mọi quy định trang phục. Ed mặc một chiếc quần jean cùng với áo sơ-mi carô đỏ bỏ ngoài thùng, và thở phì phò khi ngồi vào máy tính. Anh ta cảm thấy không khỏe, lưng và đầu gối phải đau nhói. Ed rủa thầm Alona Casales, một nữ đồng nghiệp từng là nhân viên FBI, vì đã thuyết phục anh ta chạy bộ cùng hai ngày trước đó. Cái đồ ác phụ!
May mắn là Ed không có việc gì gấp gáp phải xử lý. Anh ta chỉ phải soạn một thông báo nội bộ đề ra các quy định mới dành cho những người phụ trách COST – một chương trình hợp tác với các công ty tin học lớn. Nhưng anh ta không kịp làm xong điều đó. Tín hiệu báo động xuất hiện ngay khi Ed đang gõ dòng mở đầu thường lệ:
<Để mọi người không bị cám dỗ bởi việc quay lại với những thói quen ngớ ngẩn, mà thay vào đó tiếp tục giữ cảnh giác như một chuyên viên bảo mật đa nghi cực độ, tôi muốn lưu ý rằng...> Ed không quá lo lắng. Hệ thống báo động của anh ta nhạy đến nỗi cảnh báo ngay khi có bất kỳ biến động nhỏ nào trong luồng dữ liệu. Đây có thể là một sự cố bất thường vặt
vãnh, không hơn. Hoặc là cảnh báo về một nhân viên đang cố gắng vượt quá giới hạn thẩm quyền của mình. Nói tóm lại là một sự cố vặt.
Nhưng hóa ra Ed không kịp kiểm tra. Ngay sau tín hiệu báo động, một chuyện kỳ lạ diễn ra khiến anh ta vài giây sau mới tin nổi mắt mình. Anh ta ngồi sững người, nhìn chằm chằm màn hình máy tính dù bộ não vẫn tiếp tục suy nghĩ. Một con RAT đã xâm nhập vào mạng nội bộ NSAnet, và trong những tình huống khác có lẽ Ed đã chửi thầm trong bụng: “Bọn khốn, tao sẽ nghiền chúng mày ra bã”. Nhưng hiện tại, trong cái hệ thống vững chắc và được kiểm soát nghiêm ngặt mà anh ta và đồng đội đã rà soát hàng ngàn lần chỉ trong một năm vừa qua để phát hiện từng khe hở nhỏ nhất thì, không, không thể nào, chuyện này không thể xảy ra.
Ed bất giác nhắm mắt lại, như thể thầm mong sự việc sẽ đâu vào đấy nếu anh ta nhắm mắt đủ lâu. Nhưng khi anh ta nhìn vào màn hình trở lại, dòng chữ đang viết dở đã được hoàn tất như sau:
<... rằng các người nên chấm dứt những hoạt động bất hợp pháp. Những kẻ do thám người khác rốt cuộc sẽ bị người ta theo dõi lại. Đó là một nguyên tắc cơ bản của tính dân chủ.>
— Khốn khiếp. – Ed lầm bầm chửi.
Ít ra đó là dấu hiệu cho thấy anh ta đang định thần trở lại. Nhưng dòng chữ tiếp tục hiện ra thêm:
Đến đây thì Ed gầm lên. Cái từ root đó khiến cho thế giới của anh ta sụp đổ hoàn toàn. Trong vài giây, khi trên màn hình máy tính của anh ta loang loáng hiện ra những phần được bảo mật kỹ nhất của hệ thống, Ed tưởng mình sắp lên cơn đau tim. Anh ta lờ mờ nhận ra mọi người bắt đầu tập trung quanh bàn làm việc của mình.
Hanna Balder đáng lẽ phải ra ngoài đi chợ. Trong tủ lạnh không còn bia, và cũng chẳng còn nhiều thứ để ăn. Lasse có thể về bất cứ lúc nào, anh ta sẽ
không hài lòng nếu không có lấy một lon bia để uống. Nhưng thời tiết xấu khiến chị ngần ngại và gác lại chuyện đi mua hàng. Chị ngồi trong bếp chọc chọc cái điện thoại và hút thuốc, mặc dù nó không tốt cho làn da và nói chung là không tốt cho mọi thứ.
Hanna kiểm tra danh bạ hai, ba lần với hi vọng nhìn thấy một cái tên mới. Nhưng chị chẳng tìm được gì. Chỉ toàn những cái tên cũ xì của những người đã ngán chị đến tận cổ. Cuối cùng chị gọi cho Mia dù biết đó là một
ý tồi. Mia là người đại diện của chị. Đã có lúc hai người rất thân thiết và mơ ước cùng nhau chinh phục thế giới. Nhưng giờ Hanna là mặc cảm tội lỗi của Mia và không còn đếm nổi những cái cớ cũng như những lời giải thích vớ vẩn mà chị được nghe dạo sau này. “Một diễn viên nữ có tuổi sẽ
gặp nhiều khó khăn”, đại loại thế. Sao Mia không nói huỵch toẹt rằng: “Trông chị mệt mỏi quá, Hanna. Công chúng hết yêu thích chị rồi”?
Y như rằng, Mia không nghe máy. Càng tốt. Cuộc nói chuyện sẽ chẳng có lợi cho ai cả. Hanna bất giác nhìn vào phòng của August, chỉ để cảm thấy một sự thiếu vắng đau nhói, như lời khẳng định rằng chị đã làm hỏng thứ quan trọng nhất của đời mình: trọng trách làm mẹ. Ngược đời thay, chuyện đó khiến chị mạnh mẽ hơn đôi chút. Không hiểu thế quái nào mà sự thương hại bản thân lại khiến chị ta cảm thấy được an ủi phần nào. Hanna đứng dậy định bất chấp gió bão đi mua bia thì vừa hay điện thoại đổ chuông.
Người gọi là Frans Balder. Hanna nhăn mặt. Suốt cả ngày chị đã nghĩ đến việc gọi cho ông ta nhưng không dám. Ý định của chị là muốn đón August về lại nhà mình. Không phải vì nhớ thằng bé, càng không phải vì chị nghĩ nó sẽ thoải mái hơn khi sống với mẹ. Đơn giản là chị muốn tránh một thảm họa. Không hơn.
Lasse muốn giành lại August để tiếp tục nhận được tiền trợ cấp. Có trời mới biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh ta đến Saltsjöbaden để đòi lại quyền lợi, Hanna nghĩ bụng. Anh ta có thể dùng vũ lực để đoạt lấy August, lôi nó ra khỏi nhà, làm thằng bé sợ xanh mặt và đánh Balder một trận nhừ tử. Chị cần phải cảnh báo Frans. Nhưng khi Hanna nghe máy, chị không tài nào nói được nửa lời, vì Frans cứ thao thao bất tuyệt về một chuyện “cực kỳ tuyệt vời và vô cùng thú vị”, hay đại loại thế.
ẳ
— Em xin lỗi anh, Frans, nhưng em chẳng hiểu gì cả. Anh đang nói gì thế?
— August là một đứa trẻ thông thái. Một thiên tài! .
— Anh mê sảng đấy à?
— Ngược lại, cưng à. Cuối cùng anh đã tỉnh ra. Em phải đến đây, phải, ngay lập tức! Đó là cách duy nhất giúp em hiểu ra, anh tin chắc như thế. Nếu không thì em không hình dung được đâu. Anh sẽ trả tiền taxi cho. Anh xin hứa, em sẽ ngã ngửa vì bất ngờ. Anh không biết nữa, hẳn là thằng bé phải có một khả năng ghi nhớ hình ảnh, hoặc đó là một phép màu, nhưng thằng bé đã thành công trong việc nắm bắt các bí quyết vẽ phối cảnh. Nó đẹp lắm, Hanna, chính xác lắm. Nó rực sáng như thể đến từ một thế giới khác.
— Cái gì rực sáng cơ?
— Cái đèn giao thông của August. Em không nghe anh nói à? Cái trụ đèn mà bố con anh đi ngang qua hôm nọ và được thằng bé vẽ một loạt tranh. Chúng còn trên cả hoàn hảo ấy chứ...
— Trên cả hoàn hảo?
— Biết nói thế nào nhỉ? August không chỉ sao chép nó, Hanna, thằng bé không chỉ nắm bắt nó một cách chính xác, và còn thêm vào một thứ khác, một chút nghệ thuật. Có một sự lấp lánh lạ lùng trong điều mà thằng bé đã làm, và nghịch lý là trong đó cũng có một chút toán học. Như thể thằng bé biết khái niệm trục lượng.
— Trục gì cơ?
— Đừng bận tâm, Hanna! Em đến đây mà xem. – Balder lặp lại, và Hanna dần dần hiểu ra.
Không hề báo trước, August đã bắt đầu vẽ như một họa sĩ kỳ tài, theo lời Frans. Nếu đó là sự thật thì tuyệt vời quá. Nhưng Hanna chẳng thấy vui vẻ gì cả và thoạt đầu chị chưa hiểu lý do của cảm giác đó. Nhưng rồi chị bắt đầu nhận ra. Chị không vui vì nó xảy ra ở nhà Frans. Thằng bé đã sống nhiều năm với Lasse và chị mà chẳng có chút tiến bộ nào, suốt ngày chỉ chơi ghép hình hoặc xếp các thứ mà không nói một lời, thỉnh thoảng lên
cơn thì hét điếc tai và quăng quật cơ thể tới lui. Vậy mà đùng một cái, chỉ sau vài tuần ở với bố, nó đã trở thành một thiên tài.
Chuyện này thật quá đáng. Tất nhiên Hanna thấy hài lòng cho thằng bé, nhưng nó khiến chị đau nhói. Tệ nhất là chị không ngạc nhiên nhiều như lẽ ra phải thế. Ngược lại, chị có cảm giác mình đã chờ đợi chuyện này. Không phải chuyện August vẽ được một cái trụ đèn giao thông, mà là chuyện thằng bé có một năng khiếu tiềm ẩn.
Hanna đã đoán được điều đó trong đôi mắt của August, trong cái ánh mắt dường như ghi nhận mọi chi tiết xung quanh những lúc thằng bé kích động. Hanna đã đoán được điều đó trong cái cách mà August chăm chú lắng nghe thầy cô, háo hức lật giở những trang sách toán được mẹ mua cho, và trên hết chị đoán được điều đó qua những con số. Không gì đặc biệt cho bằng những con số của August. Nó có thể ngồi hàng giờ viết ra những chuỗi số lạ lùng dài dằng dặc. Hanna đã cố tìm cách hiểu chúng, nhưng bất chấp mọi nỗ lực, chị vẫn chẳng hiểu được gì. Giờ đây, Hanna tự nhủ có lẽ chị đã bỏ lỡ một điều gì đó quan trọng. Phải chăng chị đã quá bất hạnh và quá vị kỷ, đến nỗi không cảm nhận được những thứ diễn ra trong đầu con trai mình?
— Em không biết. – Hanna đáp.
— Em không biết gì kia? – Balder bực bội hỏi lại.
— Em không biết liệu có đến được không. – Hanna đáp đúng lúc nghe thấy tiếng cửa căn hộ bật mở.
Lasse đã về cùng gã bạn nhậu của anh ta, Roger Winter. Theo bản năng, Hanna co rúm người lại, lí nhí xin lỗi Frans, và một lần nữa tự nhủ mình là một người mẹ tồi.
Balder chửi rủa nhặng xị vào chiếc điện thoại trên tay trong căn phòng ngủ với sàn lát gạch kiểu bàn cờ. Ông đã chọn kiểu lát gạch này vì nó phù hợp với tư duy trật tự toán học của ông và tự lặp lại vô tận trong hai cái cánh tủ gương ở hai bên giường. Có những ngày ông tưởng tượng trong sự nhân
lên đó một bí ẩn to lớn, một thứ gì đó sống động sinh ra từ những hình ảnh ba chiều và đều đặn, cũng giống như những suy nghĩ và giấc mơ sinh ra từ các nơron của bộ não, hoặc những chương trình máy tính bắt nguồn từ các mã nhị phân.
Tuy nhiên, hiện tại Balder chìm đắm trong những suy nghĩ khác. — Con ơi, mẹ con đã thành ra cái quái gì thế này?
Ngồi dưới sàn bên cạnh bố, miệng nhai một cái sandwich kẹp phô mai và dưa chuột muối, August ngước lên nhìn ông với ánh mắt quan tâm. Balder bỗng có cảm giác lạ lùng là con trai ông sắp sửa nói điều gì đó rất người lớn và hợp lý. Nhưng tất nhiên suy nghĩ đó thật nực cười, thằng bé vẫn chẳng nói chẳng rằng, và chẳng quan tâm gì đến việc một người phụ nữ trở nên héo tàn và bị vứt bỏ. Chính những bức vẽ của thằng bé đã gieo vào đầu ông hi vọng hão huyền đó.
Những bức vẽ hiện giờ – có cả thảy ba bức – ngoài việc chứng tỏ thằng bé có năng khiếu nghệ thuật và toán học còn là biểu hiện của một dạng thông thái. Với một sự chính xác như của hình học không gian, Balder nhận thấy chúng rất trưởng thành và phức tạp, một điều mà ông không tài nào liên hệ được với những khuyết tật trí tuệ của August. Hay nói đúng hơn là ông không muốn. Vì ông đã đoán ra chuyện này là gì, không chỉ vì cũng như mọi người, ông đã từng xem bộ phim Người đi trong mưa.
Là cha của một đứa trẻ tự kỷ, Balder đã nhanh chóng quan tâm đến hội chứng thông thái. Những người bị mắc hội chứng này theo mô tả vẫn có khiếm khuyết nặng về nhận thức, nhưng lại cho thấy năng lực ấn tượng trong những lĩnh vực cụ thể. Đó là những tài năng mà theo cách này hay cách khác có liên quan với trí nhớ, hoặc khả năng ghi nhận chi tiết một cách phi thường. Balder biết nhiều bậc cha mẹ vẫn hi vọng vào một chẩn đoán hội chứng thông thái, như thể đó là một giải thưởng an ủi, nhưng xác suất của nó không cao. Theo ước lượng, chỉ có một trên mười đứa trẻ tự kỷ mắc hội chứng này. Và trong phần lớn trường hợp, chúng không phải là dạng tài năng xuất chúng như trên phim ảnh mô tả. Chẳng hạn như, có những người tự kỷ có thể nói chính xác một ngày tháng cụ thể rơi vào thứ mấy trong tuần, với khoảng dự đoán kéo dài vài trăm năm – thậm chí bốn mươi ngàn năm ở một số trường hợp đặc biệt.
ẳ
Những người khác lại có trí nhớ siêu đẳng về một lĩnh vực rất hẹp, chẳng hạn như giờ xe buýt, hoặc số điện thoại. Một số người có thể tính nhẩm với những con số cực lớn trong đầu, hoặc nhớ chính xác thời tiết từng ngày trong suốt cuộc đời mình, hoặc nói giờ chính xác đến từng giây mà không cần xem đồng hồ. Có rất nhiều năng khiếu ít nhiều lạ lùng như thế. Theo như Balder được biết, những cá nhân có năng lực kiệt xuất như vậy được gọi là những “nhà thông thái”. Những con người có thành tích xuất sắc trong một lĩnh vực nào đó và tương phản với khuyết tật của họ.
Tiếp theo là một nhóm người còn hiếm gặp hơn nữa, và Balder tin August thuộc vào nhóm này. Đó là nhóm những người “thông thái phi thường”. Họ có những tài năng xuất chúng, dưới bất kỳ góc độ đánh giá nào. Giống như Kim Peek, người đã là nguồn cảm hứng để xây dựng nhân vật Người đi trong mưa và vừa qua đời gần đây sau một cơn đau tim. Kim không thể tự mặc quần áo và bị khuyết tật trí tuệ nặng. Tuy nhiên, ông ta nhớ được mười hai ngàn quyển sách và có thể đưa ra câu trả lời nhanh như chớp cho gần như bất kỳ câu hỏi về sự kiện nào. Ông đúng là một ngân hàng dữ liệu. Người ta gọi ông là Kimputer.
Ngoài ra còn có những nhạc công như Leslie Lemke, một người mù bị chậm phát triển trí tuệ, nhưng khi choàng tỉnh trong một buổi tối khuya vào năm mười sáu tuổi, Leslie bắt đầu chơi bản concerto số 1 dành cho dương cầm của Tchaikovski một cách điêu luyện, sau khi nghe nó duy nhất một lần trên ti vi và không hề học đàn trước đó, Đặc biệt nhất là trường hợp của Stephen Wiltshire, một người Anh bị tự kỷ với cung cách đặc biệt khép kín, người chỉ nói được từ đầu tiên vào năm sáu tuổi – từ “giấy”. Đến năm lên bảy, Stephen đã có thể vẽ những bản phác họa kiến trúc cực kỳ tỉ mỉ chỉ sau khi nhìn thoáng qua nó. Một ngày nọ, anh đã bay qua London trên trực thăng, quan sát nhà cửa đường phố bên dưới, và sau khi xuống máy bay, anh đã vẽ một bức tranh toàn cảnh thành phố với sự chính xác đáng kinh ngạc. Nhưng anh không chỉ vẽ những thứ đã có sẵn: anh có một khả năng sáng tạo độc nhất vô nhị và hiện tại được xem là một họa sĩ lớn. Họ là nam giới, giống như August.
Chỉ có một trên sáu người thông thái là nữ, điều này có thể liên quan với một trong những nguyên nhân chính của bệnh tự kỷ: một nồng độ testosterone quá cao trong dịch ối của người mẹ. Testosterone có thể làm
hư hại mô não của bào thai. Gần như lúc nào cũng là bán cầu não trái bị ảnh hưởng, do nó phát triển chậm hơn và mỏng manh hơn bán cầu não phải. Hội chứng thông thái là sự bù đắp của bán cầu não phải cho các tổn thương nơi bán cầu não trái.
Do hai bán cầu não có vai trò khác nhau – bên trái là nơi chủ yếu dùng để tư duy trừu tượng và phân tích logic – nên kết quả của sự mất cân bằng này là một cách thức quan sát mới mẻ, với khả năng ghi nhận chi tiết đáng kinh ngạc. Nếu Balder hiểu đúng thì August và ông đã nhìn cái trụ đèn giao thông kia theo hai cách hoàn toàn khác nhau. Không chỉ vì thằng bé rõ ràng có khả năng tập trung hơn hẳn, mà còn vì bộ não của ông đã nhanh chóng lọc bỏ những thứ được coi là không quan trọng để tập trung vào cái cốt lõi, ở đây là sự an toàn và thông điệp được ngọn đèn truyền tải: đi hay dừng. Rất có thể sự quan sát của ông cũng bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác, đặc biệt là những mộng tưởng về Farah Sharif. Vạch sang đường dành cho người đi bộ đã bị pha trộn với một loạt những ký ức và hi vọng mà ông vừa có trong đầu, trong khi với August, nó hiện lên một cách chính xác như bản thân nó vốn thế.
August đã đồng thời quan sát vạch sang đường và người đàn ông đi đối diện với hai bố con ở thời điểm đó, ghi nhận mọi chi tiết dù là nhỏ nhất. Sau đó, thằng bé đã lưu giữ hình ảnh như một bức tranh khắc trong trí nhớ, và cảm thấy có nhu cầu thổ lộ nó vài tuần sau đó. Kỳ lạ hơn, thằng bé không chỉ bằng lòng với việc vẽ lại một cách chính xác trụ đèn giao thông và người đàn ông, mà còn thêm vào một thứ ánh sáng đáng lo ngại. Balder không thể gạt bỏ suy nghĩ rằng August muốn nói với ông điều gì đó chứ không chỉ là: “Nhìn xem con làm được gì này!” Một lần nữa ông quan sát bức tranh với một sự chú ý cao độ. Và lần này, ông cảm thấy như quả tim mình vừa bị một mũi gai đâm xuyên qua.
Balder cảm thấy lo sợ. Có điều gì đó nơi người đàn ông trong bức vẽ. Đôi mắt ông ta cứng rắn và long lên. Quai hàm căng cứng, đôi môi mỏng gần như không thấy được. Tất nhiên ta không nên trông mặt mà bắt hình dong, nhưng càng nhìn, Balder càng thấy ông ta đáng ngại, nỗi sợ hãi
chiếm lấy ông như thể ông vừa có một linh cảm.
— Bố yêu con, – Balder thì thào, gần như không nhận ra mình đang nói gì.
Ông lặp lại câu nói đó một, hai lần, vì những từ ngữ đó nghe thật khác lạ đối với ông. Với một nỗi đau chưa từng cảm thấy, ông nhận ra mình chưa bao giờ nói câu vừa rồi. Sau khi cơn choáng váng ban đầu qua đi, ông tự nhủ chuyện này có một điều gì đó thật đáng khinh bỉ. Con trai ông phải thể hiện một năng khiếu ngoại hạng để được nhận tình yêu của bố nó ư? Xét cho cùng, chuyện này cũng không đáng ngạc nhiên. Suốt cả đời ông chỉ tập trung vào thành tích.
Trong công việc, ông chỉ quan tâm đến những thứ mang tính cách mạng và thiên tài. Khi rời Thụy Điển sang Silicon Valley, gần như ông không nghĩ đến August nữa. Về cơ bản, con trai ông là một nguồn kích ứng khó chịu trên lộ trình của những khám phá nổi bật mà Balder đang bận rộn đi tìm.
Nhưng giờ đây, mọi thứ đã thay đổi, ông tự hứa với lòng mình như thế. Ông sẽ gác lại việc nghiên cứu và tất cả những rắc rối trong vài tháng vừa qua, để tập trung hoàn toàn cho con trai mình.
Ông sẽ trở thành một con người mới.
5
ngày 20 tháng mười một
Làm thế nào Gabriella Grane vào làm trong Säpo, chuyện đó không ai có thể hiểu nổi, bản thân chị lại càng không. Chị từng là cô gái mà ai cũng dự đoán một tương lai xán lạn. Đám bạn cũ ở khu Djursholm lo ngay ngáy vì đã bốn mươi ba tuổi đầu mà chị vẫn chưa nổi tiếng hay giàu có, chưa cưới được một đấng phu quân hoàn hảo, hoặc ít ra là vớ đại một tấm chồng.
“Mày bị sao thế, Gabriella? Mày định suốt đời làm cớm à?” Họ thường xuyên hỏi Grane như thế.
Trong đa số trường hợp, chị không buồn cãi lại hoặc nhấn mạnh rằng chị không phải là cớm, mà chỉ là một chuyên viên phân tích đã vượt qua vòng tuyển chọn gắt gao, và hiện tại chị viết những báo cáo sâu sắc hơn hẳn so với hồi còn làm ở Bộ Ngoại giao hoặc trong những dịp hè ngồi biên tập cho tờ Svenska Dagbladet. Ngoài ra, chị cũng không được quyền tiết lộ thông tin. Do đó Grane chỉ im lặng, mặc kệ những lời xét đoán thiếu căn cứ về địa vị xã hội của mình và chấp nhận rằng, việc đi làm cho Säpo là một thất bại hoàn toàn trong mắt đám bạn bè trưởng giả lẫn trí thức.
Đối với họ, Säpo là một bọn ăn hại hữu khuynh, chuyên săn lùng người Kurd và Ả rập vì những lý do phân biệt chủng tộc không buồn che giấu, không ngần ngại gây ra những tội ác nghiêm trọng hoặc làm trái luật để bảo vệ đám cựu gián điệp Liên Xô. Quả thật, đôi khi Grane cũng đồng tình với họ. Säpo có một số kẻ bất tài và những thứ không lành mạnh, minh chứng bởi vết nhơ không thể gột rửa sau vụ Zalachenko. Nhưng Säpo không hoàn toàn tệ hại. Những công việc đầy thách thức và rất quan trọng vẫn được thực hiện tại đây, đặc biệt là kể từ chiến dịch làm trong sạch nội bộ sau vụ
bê bối. Thỉnh thoảng Grane còn cảm thấy mình nghe được nhiều ý tưởng thú vị hơn tại Säpo, chứ không phải trong các hội trường hay phòng biên tập, và đây cũng là nơi mà người ta hiểu một cách thấu đáo nhất những biến cố xảy ra trên thế giới. Nhưng tất nhiên chị cũng thường xuyên tự hỏi mình rằng: làm thế nào mình vào được đây, và tại sao mình ở lại?
Rõ ràng là bên cạnh những lý do khác, chị đã xiêu lòng trước những lời tâng bốc. Chính Helena Kraft, sếp mới của Säpo, đã đích thân liên hệ với Grane, cho chị biết là sau những vụ bê bối và những bài báo chỉ trích liên tiếp, Säpo phải thay đổi quy trình tuyển dụng. “Chúng tôi phải làm giống như người Anh, tìm đến những sinh viên có thực tài trong các trường đại học, và phải nói thật, Gabriella, cô là ứng viên tốt nhất. Chỉ cần câu nói đó là đủ.
Grane đã được tuyển dụng làm công việc phân tích chống gián điệp, trước khi chuyển sang ban bảo mật công nghiệp. Cho dù không thực sự phù hợp với tiêu chuẩn của vị trí công việc do là một phụ nữ trẻ, hấp dẫn theo nghĩa tích cực, Grane đáp ứng hoàn hảo mọi tiêu chí khác. Một số người thỉnh thoảng vẫn gây ra va chạm không đáng có khi gọi Grane là “gái cưng” hoặc “cô nàng sang chảnh”, nhưng chị là một tân binh xuất sắc. Nhanh nhẹn, dễ tiếp thu, và có lối suy nghĩ thoáng. Ngoài ra, chị nói được tiếng Nga.
Grane đã học tiếng Nga song song với việc theo học tại Trường Kinh tế Stockholm. Là một sinh viên gương mẫu tuy không phải xuất sắc, Grane vẫn mơ ước một điều gì đó cao cả hơn là lăn lộn trên thương trường, nên sau khi tốt nghiệp, chị đã xin vào làm ở Bộ Ngoại giao. Tất nhiên Grane được chấp nhận một cách dễ dàng, nhưng công việc tại đó không làm chị cảm thấy hào hứng. Các nhà ngoại giao quá cứng nhắc và khuôn phép. Đúng lúc đó thì Helena Kraft liên lạc. Hiện giờ thì Gabriella Grane đã làm việc tại Säpo được năm năm và dần được chấp nhận và năng lực không thể chối cãi, mặc dù công việc không phải lúc nào cũng nhẹ nhàng.
Ngày hôm đó, mọi việc không hề thuận lợi, không chỉ vì thời tiết xấu. Trưởng phòng Ragnar Olofsson xuất hiện ở phòng làm việc của Grane với vẻ mặt cáu kỉnh và nghiêm khắc. Ông ta nói chị không nên đong đưa trong khi đi làm nhiệm vụ.
— Đong đưa? – Grane hỏi lại.
— Người ta gửi hoa đến tận đây cho cô đấy.
— Hóa ra là lỗi của tôi ạ?
— Phải, tôi cho rằng cô cũng có một phần trách nhiệm. Chúng ta phải cư xử một cách đúng đắn và nghiêm túc ngoài thực địa. Chúng ta đại diện cho một cơ quan nhà nước rất quan trọng.
— Hay quá sếp! Ông luôn dạy cho chúng tôi nhiều điều hay lẽ phải. Cuối cùng tôi đã nhận ra mình phải chịu trách nhiệm cho việc giám đốc chuyên môn của Ericsson không thể phân biệt được sự khác biệt giữa phép lịch sự và trò ve vãn. Cuối cùng tôi cũng hiểu mình nên tự trách bản thân khi một số đàn ông cứ tưởng bở đến độ xem một nụ cười đơn giản là một lời mời gọi lên giường.
— Đừng có ngu ngốc. – Ragnar nói trước khi bỏ đi.
Ngay sau đó Grane cảm thấy hối tiếc vì sự đáp trả của mình. Nói chung loại phản ứng kiểu này chẳng đưa tới điều gì tốt đẹp cả. Nhưng ngược lại, chị đã bị ức hiếp quá lâu. Con giun xéo lắm cũng quằn. Grane nhanh chóng dọn dẹp bàn làm việc và lấy ra một báo cáo của GCHQ bên Anh về gián điệp công nghiệp của Nga tại các công ty phần mềm châu Âu mà chị chưa có thời gian để đọc. Đúng lúc đó điện thoại reo vang. Người gọi là Helena Kraft, một điều khiến Grane vui hẳn lên. Helena chưa bao giờ gọi cho chị để than phiền hay trách móc. Ngược lại thì có.
— Tôi sẽ đi thẳng vào vấn đề. – Kraft lên tiếng. – Tôi đang có một cuộc gọi từ bên Mỹ, chuyện này có lẽ khá cấp bách. Cô có thể tiếp nhận nó trên điện thoại Cisco được không? Chúng tôi đã mở một kênh an toàn.
— Tất nhiên là được ạ.
— Tốt. Tôi muốn cô diễn dịch thông tin và đánh giá tình hình. Chuyện này có vẻ nghiêm trọng, nhưng tôi thấy người báo tin có vẻ hơi kỳ quặc. Mà này, chị ta nói là có biết cô đấy.
— Chị cứ nối máy cho tôi.
Đầu dây bên kia là Alona Casales của NSA, và quả thực hai người có biết nhau, nhưng Grane nhanh chóng tự hỏi liệu có đúng là Alona Casales
mình quen hay không. Lần cuối cùng hai người gặp nhau là tại một hội thảo ở Washington. Alona tỏ ra là một báo cáo viên tự tin và đầy sức hút trong lĩnh vực được chị gọi trại đi là “chủ động theo dõi tín hiệu”, nói trắng ra là tin tặc. Sau buổi hội thảo, hai người đã đi uống với nhau một chầu. Phải nói là Grane đã mê tít bà chị này. Alona hút xì gà điếu nhỏ, trò chuyện với một chất giọng trầm mê hoặc, cố tình đế thêm những câu pha trò dí dỏm và những từ ngữ bóng gió khá bậy bạ. Nhưng ngày hôm nay, trên điện thoại, chị ta tỏ ra bối rối đến mức không thể nói chuyện mạch lạc.
Alona Casales không phải là người dễ mất tinh thần. Bình thường chị hiếm khi gặp khó khăn trong việc tập trung. Chị bốn mươi tám tuổi, dáng người cao to và nổi tiếng là người nói thẳng. Vòng một đồ sộ và đôi mắt nhỏ tinh anh của chị có thể làm nao núng bất kỳ ai. Casales có biệt tài đi guốc trong bụng người đối diện và không biết đến khái niệm luồn cúi. Chị có thể mắng mỏ không chừa một người nào, kể cả ngài bộ trưởng Bộ Tư pháp, và đó cũng là một trong những lý do khiến Ed the Ned chấp nhận chị. Cả hai người đều không coi cấp bậc là điều gì to tát, với họ năng lực mới là thứ quan trọng. Do đó sếp ngành an ninh của một đất nước nhỏ như Thụy Điển cũng chẳng là gì đối với Casales. Và nếu như trong một cuộc điện thoại chị có tỏ ra hoàn toàn mất tinh thần thì chắc chắn nguyên nhân không phải là Helena Kraft. Tất cả cũng vì thảm họa vừa nổ ra ngay lúc đó trong phòng làm việc chung ở phía sau lưng chị. Mọi người đều đã quen với cá tính nóng nảy của Ed. Anh ta có thể quát tháo, đập bàn đập ghế ngay khi gặp chuyện bực mình dù là vặt vãnh nhất. Nhưng lần này, Casales đã lập tức đoán ra mức độ nghiêm trọng của vấn đề.
Ed dường như bị tê liệt hoàn toàn. Trong khi Casales lắp bắp mấy từ ngớ ngẩn vào ống nghe điện thoại trên tay, những người khác túm tụm lại xung quanh anh ta. Nhiều người rút di động ra, và tất cả đều tỏ ra hốt hoảng, không ngoại trừ một ai. Dưới ảnh hưởng của cú sốc, Casales đã không gác máy ngay hoặc đề nghị gọi lại sau. Chị đã tiếp tục cuộc đàm thoại và được nối máy với Gabriella Grane, cô nàng chuyên viên phân tích
hấp dẫn mà chị đã gặp và cố gắng quyến rũ ở Washington. Mặc dù không thu được kết quả, chị cũng đã cảm thấy hài lòng sâu sắc.
— Chào cưng. – Chị nói. – Khỏe không?
— Bình thường ạ. – Gabriella Grane đáp. – Ở đây đang có bão, ngoài ra mọi chuyện đều ổn.
— Lần trước chị em mình đã có một buổi tối vui vẻ, em há?
— Vâng ạ, rất vui. Em bê bết suốt cả buổi sáng hôm sau đấy. Nhưng em không nghĩ chị gọi để rủ em đi chơi.
— À không, rất tiếc là không. Chị gọi vì bọn chị vừa phát hiện dấu hiệu của một mối đe dọa nghiêm trọng nhằm vào một nhà nghiên cứu người Thụy Điển.
— Ai vậy?
— Bọn chị gặp khó khăn trong việc xử lý thông tin và truy tìm quốc gia nguồn gốc của mối đe dọa. Nó có vài mật danh mơ hồ và được mã hóa một phần, nhưng nhờ những manh mối nhỏ, tụi chị đã... Chết tiệt... Cái quái gì...
— Sao ạ?
— Chờ chị chút xíu!
Màn hình máy tính của Casales chập chờn rồi tắt phụt. Theo những gì chị hiểu, một điều tương tự cũng đang diễn ra trong phòng làm việc chung. Trong một giây, chị tự hỏi mình phải làm gì. Sau đó chị nói chuyện tiếp. Có lẽ chỉ là sự cố điện, mặc dù đèn đóm vẫn sáng.
— Em vẫn đang nghe chị đây. – Grane lên tiếng.
— Cảm ơn em. Chị xin lỗi. Tình hình ở đây đang rối beng. Chị nói tới đâu rồi ta?
— Chị vừa nhắc đến các manh mối nhỏ.
— Đúng rồi, tụi chị cũng lắp ghép được một số chi tiết. Dẫu có chuyên nghiệp đến đâu, rồi cũng có lúc họ sơ sảy hoặc...
— Sao ạ?
—... lỡ miệng nhắc tới một địa chỉ, một chi tiết nào đó. Trong trường hợp này, nó là...
Casales lại im bặt. Người vừa bước vào phòng làm việc chung là chỉ huy Jonny Ingram, một trong những chóp bu của NSA, người có mối liên hệ với những nhân vật cao cấp của Nhà Trắng. Ông ta cố tỏ ra điềm tĩnh như thường lệ, thậm chí còn tếu táo mấy câu với một nhóm người ngồi hơi tách biệt trong góc. Nhưng không ai cười nổi. Ẩn sau khuôn mặt nhẵn nhụi và rám nắng – từ khi nắm trung tâm mã hóa của NSA tại Oahu, ông ta có nước da mạnh khỏe quanh năm – là một vẻ căng thẳng. Dường như ông ta đang kêu gọi sự chú ý của mọi người.
— Alô, chị vẫn còn đó chứ ạ? – Grane lên tiếng ở đầu dây bên kia.
— Thôi rồi, chị phải cúp máy đây. Chị gọi em sau nha. – Casales đáp trước khi gác máy.
Đúng lúc đó, cảm giác lo lắng thật sự xâm chiếm lấy Alona Casales. Bầu không khí nhuốm một cảm giác khó tả, như thể vừa xảy ra một biến cố rất khủng khiếp. Có lẽ là một vụ khủng bố mới. Jonny Ingram tìm cách tiếp tục pha trò để xoa dịu tình hình. Mặc dù mồ hôi bắt đầu túa ra trên trán và môi, ông ta vẫn khẳng định là sự cố không có gì nghiêm trọng. Có lẽ một con virus đã xâm nhập vào hệ thống bất chấp mọi biện pháp đề phòng, ông ta đã nói như thế.
— Để tránh các rủi ro, chúng tôi đã tắt các máy chủ. – Jonny Ingram cho biết khi rốt cuộc cũng làm tình hình dịu xuống.
Mọi người dường như tự hỏi một con virus thì “có gì ghê gớm lắm đâu” và Ingram bắt đầu huyên thuyên dài dòng thì Casales không kìm được nữa, chị hét lên:
— Hãy nói cho chúng tôi biết chuyện gì đang thực sự diễn ra!
— Hiện tại chúng tôi chưa biết gì nhiều, chuyện chỉ mới xảy ra. Nhưng rất có thể chúng ta đã bị tin tặc tấn công. Chúng tôi sẽ thông báo với mọi người ngay khi biết thêm thông tin. – Ingram đáp.
Sự lo lắng của ông ta đã thể hiện rõ ràng. Tiếng xì xầm nổi lên khắp gian phòng.
— Lại bọn Iran nữa à? – Ai đó hỏi. – Chúng tôi nghĩ rằng...
Ingram chỉ kịp có thời gian để nói đến đó. Người lẽ ra phải giải thích mọi chuyện ngay từ đầu bất ngờ ngắt lời ông và đứng dậy, lừng lững như con gấu. Một phút trước Ed Needham còn giống như người mất hồn, nhưng lúc này anh ta tỏ ra vô cùng quyết đoán.
— Không. – Anh ta rít lên. – Đây là một hacker, một siêu hacker chết tiệt. Và tôi sẽ bẻ cổ nó. Chấm hết.
Gabriella Grane vừa mới khoác áo để chuẩn bị về nhà thì Alona Casales gọi lại. Thoạt đầu Grane cảm thấy hơi bực. Cũng vì cú điện thoại trước đó, nhưng chủ yếu là do chị muốn chuồn nhanh trước khi cơn bão bên ngoài trở nên quá mạnh. Theo thông tin trên đài, gió sắp sửa thổi trên một trăm cây số giờ và nhiệt độ tụt xuống âm mười độ. Trong khi chị không có quần áo đủ ấm.
— Chị xin lỗi vì đã gọi cho em muộn như vầy. – Alona Casales nói. – Bọn chị vừa trải qua một buổi sáng kinh hoàng. Hỗn loạn toàn tập.
— Ở đây cũng vậy. – Grane nhã nhặn trả lời, mắt liếc nhìn đồng hồ đeo tay.
— Nhưng chị có việc khẩn cấp phải nói với em. Ít ra chị cũng nghĩ như thế. Chưa thể đánh giá thấu đáo được. Chị vừa kiểm tra một nhóm người Nga, chị kể em chưa vậy? – Casales nói.
— Chưa ạ.
— Ờ, hình như còn có vài người Đức, người Mỹ và một, hai người Thụy Điển nữa.
— Nhóm kiểu gì vậy chị?
— Tội phạm, những tên tội phạm tinh vi, có thể nói như vậy. Chúng không cướp nhà băng, không buôn bán ma túy, mà đánh cắp bí mật công nghiệp và những thông tin kinh tế tối mật.
— Bọn mũ đen.
— Chúng không đơn thuần là hacker. Chúng cũng tống tiền và mua chuộc người khác nữa. Nhiều khả năng chúng cũng tiến hành những tội ác kinh điển như giết người chẳng hạn. Tuy vậy, nói thật với em, chị chưa biết nhiều về bọn này, chị chỉ có một mật danh và những mối liên hệ chưa được khẳng định. Cùng vài cái tên thật của các thanh niên trẻ rành rẽ công nghệ thông tin. Nhóm người này tiến hành gián điệp công nghiệp, do vậy báo cáo về chúng mới xuất hiện trên bàn chị. Bọn chị lo là các công nghệ mũi nhọn của Mỹ đang rơi vào tay người Nga.
— Em hiểu rồi.
— Nhưng tóm được đám này không dễ. Chúng rất giỏi mã hóa. Bất chấp mọi nỗ lực, chị vẫn chưa thể tiếp cận được ban lãnh đạo của chúng. Chị chỉ biết tên kẻ cầm đầu là Thanos.
— Đúng, cái tên này bắt nguồn từ chữ Thanatos, tên của thần chết trong thần thoại Hy Lạp. Đó là con trai của Nyx, nữ thần đêm tối, và là anh em song sinh của thần ngủ Hypnos.
— Màu mè nhỉ!
— Trẻ con thì đúng hơn. Thanos là nhân vật phản diện trong truyện tranh Marvel, em có nhớ cái truyện có Hulk, Iron Man và Captain America không? Chẳng có chất Nga chút nào. Nhưng nó... biết nói thế nào nhỉ?
— Nhạo báng và tự phụ?
— Ờ, giống như một đám học trò thích phá đám chúng ta vậy. Điều đó làm chị bực mình. Nhưng nói thật, có nhiều chuyện khiến chị thấy bất an trong vụ việc này. Chị đặc biệt quan tâm khi các biện pháp theo dõi đã cho thấy trong những người có liên quan có một tên đảo ngũ mà chúng ta có
thể dùng làm nội gián nếu nắm được gáy hắn. Tuy nhiên, khi xem xét kỹ hơn, hóa ra sự việc không như bọn chị đã nghĩ.
— Nghĩa là sao ạ?
— Kẻ đảo ngũ đó không phải là tội phạm, mà ngược lại, đó là một người tốt. Ông ta đã rời khỏi doanh nghiệp mà nhóm này đã do thám, nhiều khả năng là sau khi phát hiện ra những thông tin quan trọng.
— Chị nói tiếp đi.
— Theo bọn chị, hiện tại người này đang gặp nhiều mối đe dọa nghiêm trọng. Ông ta cần được bảo vệ. Mãi cho đến gần đây bọn chị còn chưa thể tìm ra nơi ẩn nấp của ông ta. Bọn chị không biết ông ta đã làm việc cho doanh nghiệp nào. Nhưng giờ thì chị đã khoanh vùng được rồi. – Casales nói. – Em biết không, mới cách đây vài ngày, một tên trong nhóm đã bóng gió nhắc tới ông ta khi nói: “Cùng với ông ta, những chữ T siêu nhảm kia cũng lên đường”.
— Những chữ T siêu nhảm?
— Phải, cũng khá kỳ lạ và khó hiểu, nhưng được cái cụ thể. Có thể sử dụng để tìm kiếm được. Tất nhiên, “những chữ T siêu nhảm” không cho kết quả nào, nhưng những chữ T ngắn gọn và có liên quan đến các công ty, đặc biệt là công ty công nghệ cao, thì luôn dẫn bọn chị đến cùng một địa chỉ – Nicolas Grant và phương châm của ông ta: “Tiếp thu, Tài năng và Tập trung”.
— Chúng ta đang nói tới Solifon, đúng không ạ? – Grane hỏi.
— Phải, chị nghĩ như vậy. Ít nhất mọi người cũng có cảm giác tất cả chuyện này phải mang một ý nghĩa nào đó, và bắt đầu đào sâu tìm hiểu để xem ai đã rời Solifon trong giai đoạn gần đây. Thoạt đầu việc điều tra giậm chân tại chỗ. Công ty này có sự biến động nhân sự rất lớn, hình như đó là nguyên tắc cơ bản của họ. Các tài năng phải luôn chuyển động. Sau đó mọi người bắt đầu nghĩ đến ý nghĩa của mấy chữ T kia. Em có biết hàm ý của Grant là gì không?
— Không ạ.
— Đó là công thức sáng tạo của ông ta. Sự tiếp thu đồng nghĩa với việc ta phải lắng nghe những ý kiến khác biệt và những con người khác thường. Càng cởi mở với những cá nhân đặc biệt, ta càng dễ lĩnh hội những ý tưởng mới. Nó hơi giống với Richard Florida và “chỉ số đồng tính” của ông ta, em hiểu không? Nơi nào người ta sẵn sàng tiếp nhận những người như chị, nơi đó cũng có tính cởi mở và sáng tạo nhiều hơn.
— Những tổ chức quá đồng nhất hoặc rập khuôn sẽ không thể phát triển.
— Đúng vậy. Và các tài năng, theo ông ta, không chỉ tạo ra kết quả tốt. Họ còn thu hút những tài năng khác. Họ tạo ra một môi trường hấp dẫn. Thay vì tuyển dụng chính xác những chuyên gia lành nghề thỏa mãn điều kiện, ngay từ đầu Grant đã muốn tuyển dụng những thiên tài trong lĩnh vực máy tính. Đối với ông ta, cần phải để cho các tài năng tự định hướng, chứ không phải ngược lại.
— Vậy còn sự tập trung?
— Ờ thì, những tài năng này phải tập hợp lại với nhau. Và không bị cản trở bởi sự quan liêu. Cũng như không cần phải thông qua các thư ký để xếp lịch hẹn. Họ có thể tha hồ qua lại phòng làm việc của nhau để thảo luận. Các ý tưởng phải được trao đổi một cách tự do. Như em cũng biết, Solifon đã trở thành một điển hình thành công. Họ là người tiên phong trong nhiều lĩnh vực, và ngay cả NSA cũng dùng dịch vụ của họ. Nhưng sau đó một thiên tài mới đã xuất hiện, một người đồng hương của em, và cùng với ông ta...
—... tất cả những chữ T siêu nhảm kia đã tan tành mây khói. — Chính xác.
— Và em dám cá người đó là Frans Balder.
— Đúng vậy. Chị biết bình thường thì Balder không có vấn đề gì với sự tiếp thu hay tập trung gì gì đó. Nhưng ngay từ đầu ông ta đã tạo ra một môi trường thù địch quanh mình khi từ chối chia sẻ bất cứ điều gì. Rất nhanh chóng, ông ta đã phá vỡ bầu không khí hòa hợp giữa các nhà nghiên cứu cao cấp của công ty. Nhất là khi ông ta bắt đầu tố cáo một vài người trong số họ tội ăn cắp và sao chép. Ngoài ra, Balder cũng xung đột với Nicolas Grant. Nhưng Grant đã từ chối tiết lộ thêm với bọn chị – ông ta chỉ nói đó là việc nội bộ. Không lâu sau, Balder đã xin từ chức.
— Em biết.
— Đa số mọi người đều hài lòng thấy rõ khi ông ta ra đi. Bầu không khí làm việc dễ thở trở lại, và mọi người lại bắt đầu tin tưởng nhau. Ở một mức độ nhất định. Nhưng Nicolas Grant không hài lòng chút nào, và các luật sư của ông ta càng không. Balder đã ra đi mang theo đề án được ông ta nghiên cứu tại Solifon. Mọi người đồn rằng ông ta đang có một thứ gì đó
rất chấn động, có thể tạo ra cuộc cách mạng đối với thế hệ máy tính lượng tử mà Solifon đang phát triển.
— Và theo quan điểm của pháp luật, những gì ông ta đã nghiên cứu phải thuộc về công ty, chứ không phải cá nhân ông ta.
— Đúng. Như vậy mặc dù Balder la làng la xóm rằng mình bị chôm chỉa, cuối cùng ông ta mới chính là kẻ cắp. Em thử tưởng tượng mà xem, chuyện này sẽ sớm trở thành một phiên tòa gay cấn. Trừ phi Balder có thể
làm mấy tay luật sư run sợ với những thông tin ông ta nắm được trong tay. Chúng là bảo hiểm sinh mạng của ông ta. Có lẽ thế thật, nhưng với kịch bản xấu nhất, nó có thể đồng nghĩa với...
—... cái chết dành cho Balder.
— Đó là điều mà chị đang sợ đây. – Casales nói. – Bọn chị tìm thấy những dấu hiệu ngày càng rõ ràng cho thấy một điều gì đó rất nghiêm trọng sắp diễn ra, và sếp của em đã nói là em có thể giúp chị tháo gỡ vụ này.
Grane nhìn cơn bão bên ngoài, trong lòng dấy lên mong muốn vứt hết tất cả để về nhà. Nhưng rồi chị cởi áo khoác và ngồi vào ghế, thiểu não ra mặt.
— Em có thể giúp gì đây?
— Theo em ông ta đã phát hiện được điều gì?
— Như vậy tức là chị chưa theo dõi hay đột nhập được vào máy tính của ông ta?
— Cưng à, câu này chị không trả lời được. Nhưng em nghĩ thế nào?
Gabriella Grane nhớ lại cách Frans Balder đứng ngay ngưỡng cửa phòng làm việc của chị cách đây không lâu và lí nhí bảo rằng ông ta đang mơ về “một dạng sự sống mới”. Có trời mới biết hàm ý của ông ta là gì.
— Có lẽ chị đã biết, Balder cho rằng mình bị người ta đánh cắp công trình nghiên cứu tại đây, tại Thụy Điển. FRA đã tiến hành vài cuộc điều tra cho thấy ông ta nói có phần đúng, mặc dù không phát hiện được gì thêm. Đó là lúc em gặp Balder lần đầu tiên, và em không thích ông ta cho lắm. Balder chẳng biết gì về những chuyện không có liên quan tới công trình
nghiên cứu hoặc cá nhân ông ta. Em đã tự nhủ không có thành công nào trên thế giới này xứng đáng với việc phải chịu đựng một đầu óc hạn hẹp như thế. Nếu cần phải có thái độ như vậy để đổi lấy uy tín toàn cầu thì em không thể. Dù là trong mơ. Nhưng có thể em bị ảnh hưởng bởi những phán quyết chống lại ông ta.
— Về quyền nuôi con á?
— Vâng, Frans Balder đã bị mất quyền nuôi đứa con trai tự kỷ, do cho tới lúc tòa ra phán quyết, ông ta chẳng ngó ngàng gì tới thằng bé. Có lần, thằng bé đã bị cả chồng sách rơi xuống đầu mà bố nó không hề hay biết. Em không ngạc nhiên khi biết ông ta đã gây thù chuốc oán với mọi người ở Solifon. Em nghĩ như thế càng tốt cho Balder.
— Vậy còn sau đó?
— Sau đó, Balder quay về Thụy Điển, và bọn em đã tự hỏi liệu có phải bảo vệ ông ta theo cách nào đó hay không. Em mới gặp ông ta cách đây vài tuần, và phải thú thật là em kinh ngạc trước sự biến đổi của Balder. Ông ta đã cạo râu, cắt tóc và giảm cân. Nhưng ông ta cũng tỏ ra mềm mỏng hơn, thậm chí có một chút thiếu tự tin. Em đã hỏi Balder liệu ông ta có lo lắng trước phiên tòa trong tương lai hay không. Đố chị biết ông ta trả lời em thế nào đấy?
— Chị không biết.
— Ông ta đã nói với giọng mỉa mai rằng mình hoàn toàn chẳng lo gì cả, bởi vì mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
— Tức là sao?
— Tức là tất cả chúng ta đều bình đẳng, nếu chấp nhận trả giá. Trong thế giới của Balder, luật pháp chỉ là một thanh gươm dùng để chém những người như ông ta. Vậy tức là ông ta có lo lắng. Balder lo ngay ngáy vì biết được những chuyện quan trọng, mặc dù chúng là lá bùa hộ mạng của ông ta.
— Nhưng ông ta không chịu hé răng?
— Ông ta không muốn đánh mất ưu thế duy nhất của mình. Balder muốn đợi cho đến khi đối phương sẵn sàng vào cuộc. Nhưng em cảm thấy
ông ta đang dao động. Ông ta nói là có người muốn hại mình. — Theo cách nào?
— Không phải hại theo kiểu xâm phạm thân thể. Theo Balder, người ta muốn có công trình nghiên cứu và danh tiếng của ông ta Nhưng em không chắc ông ta có thực sự nghĩ rằng mọi chuyện không thể đi xa hơn hay không. Em đã khuyên Balder nuôi một con chó giữ nhà. Em nghĩ chỉ là một người bạn tuyệt vời đối với một người sống trong một ngôi nhà quá rộng ở vùng ngoại ô. Nhưng Balder không đồng tình. Ông ta khẳng định với giọng khá cương quyết là không thể nuôi chó vào lúc này.
— Theo em, nguyên nhân là gì?
— Em không biết. Em có cảm giác ông ta đang chịu một gánh nặng nào đó. Dẫu sao thì Balder cũng không phản đối quá khi em đòi gắn thiết bị báo động tại nhà ông ta. Nó vừa mới được lắp đặt xong.
— Bởi ai?
— Một công ty bảo vệ mà bọn em thường nhờ đến, An ninh Milton.
— Tốt. Nhưng dù vậy chị khuyên em nên tìm cho ông ta một nơi an toàn.
— Chuyện nghiêm trọng tới mức ấy ạ?
— Có lẽ thế. Đủ nghiêm trọng để thực hiện mọi biện pháp đề phòng, em không nghĩ thế sao?
— Có chứ, tất nhiên rồi. – Grane đáp. – Nếu chị gửi cho em một chút tài liệu để em có thể giải trình với sếp.
— Để chị xem, nhưng chị không biết liệu có làm ngay được không nữa. Bọn chị đang gặp... vài trục trặc khá nặng trong hệ thống máy tính.
— Một tổ chức như NSA mà cũng để cho chuyện đó xảy ra được á?
— Không, tất nhiên là không rồi. Chị sẽ liên lạc với em sau, nha cưng. – Casales nói trước khi cúp máy.
Gabriella Grane ngồi bất động một lúc, mắt nhìn cơn bão hoành hành mỗi lúc một dữ dội ngoài cửa sổ.
Tiếp đó, chị rút chiếc Blackphone ra và gọi cho Frans Balder. Chị nhất định phải nói chuyện với ông ta. Không phải chỉ vì chị muốn cảnh báo và bảo đảm ông ta chuyển đến một nơi an toàn, mà còn vì chị bỗng dưng cảm thấy rất muốn tìm hiểu hàm ý của Balder khi ông ta nói: “Dạo gần đây, tôi đã mơ đến một dạng sự sống mới”.
Sẽ không ai tin nổi nếu biết lúc đó Frans Balder đang bận hối thúc con trai vẽ thêm một bức tranh nữa. Một bức tranh với cùng phong cách lạ lùng như thể thuộc về một thế giới khác.
6
ngày 20 tháng mười một
Dòng chữ nhấp nháy hiện lên màn hình: Dịch Bệnh hét lên một tiếng khàn khàn, gần như rồ dại. Một việc hơi khinh suất. Nhưng ngay cả nếu mấy người hàng xóm có nghe thấy thì họ cũng khó lòng hình dung nổi chuyện gì đang diễn ra. Căn hộ của Dịch Bệnh không hề giống với tổng hành dinh của những cuộc tấn công phá hoại an ninh mạng ở tầm quốc tế.
Nó giống với một nơi cần nhận được phúc lợi xã hội thì đúng hơn. Dịch Bệnh sống ở phố Högklintavägen thuộc khu Sundbyberg, một xó xỉnh tầm thường với những tòa nhà gạch bốn tầng. Bản thân căn hộ chẳng có điểm nào tích cực. Nó đầy mùi hôi hám ẩm mốc, bàn làm việc của anh ta vương vãi đủ thứ rác: hộp đựng thức ăn nhanh, lon nước ngọt, những mảnh giấy nhàu nhĩ, vụn bánh, cốc tách bẩn và túi kẹo rỗng. Cho dù một phần của chúng đã được tống vào cái thùng rác cả tuần chưa đổ, bạn cũng khó có thể nhúc nhích trong phòng mà không đạp phải rác rưởi và bụi bẩn. Nhưng điều đó không gây ngạc nhiên cho những người quen biết Dịch Bệnh.
Anh ta không phải loại người tắm rửa thay quần áo một cách đều đặn. Dịch Bệnh suốt ngày ngồi trước máy tính, kể cả trong những giai đoạn ít việc nhất. Cơ thể đồ sộ, béo phì và lôi thôi tạo ra một ấn tượng xấu cho anh ta. Dịch Bệnh từng thử nuôi chòm râu dê, vốn là mốt được ưa chuộng một thời, nhưng bộ râu thiếu chăm chút nhanh chóng trở thành cái chổi xể. Với vóc người quá khổ, Dịch Bệnh có bộ dạng thật kinh khủng và có thói quen thở hồng hộc khi di chuyển. Tuy nhiên anh ta lại có những phẩm chất khác.
Khi ngồi vào máy tính, Dịch Bệnh là một thầy phù thủy, một tin tặc có thể thoải mái sục sạo không gian mạng và có lẽ chỉ chịu kém một người trong việc này. Một phụ nữ. Những ngón tay anh ta múa trên bàn phím thật vui mắt. Trên mạng anh ta linh hoạt và nhanh nhẹn bao nhiêu thì ngoài đời thực anh ta nặng nhọc và vụng về bấy nhiêu. Khi trần nhà vang lên mấy tiếng thình thịch, nhiều khả năng là do ông hàng xóm Jansson ở trên lầu, Dịch Bệnh trả lời tin nhắn anh ta đã nhận được:
Sau đó anh ta ngả người trên ghế với một nụ cười sung sướng và thử tổng kết trong đầu những sự việc vừa diễn ra. Dịch Bệnh muốn nhấm nháp hương vị chiến thắng một chút trước khi đòi Ong Vò Vẽ kể lại tường tận đồng thời nhắc cô xóa sạch mọi dấu vết. Không ai được phép lần ra họ, không một ai!
Đây không phải lần đầu tiên họ phá phách các tổ chức hùng mạnh. Nhưng lần này là một cấp độ mới, và nhiều thành viên của Cộng hòa Tin tặc, hội nhóm duy nhất mà Dịch Bệnh tham gia, lúc đầu đã không đồng tình với ý tưởng đó, đứng đầu là Ong Vò Vẽ, cô có thể chọc ngoáy bất kỳ thế lực và cá nhân nào nếu cần. Nhưng cô không thích ra tay chỉ để cho vui.
Ong Vò Vẽ không thích kiểu tấn công vô tội vạ. Cô không phải loại người thích đột nhập các siêu máy tính để thể hiện, Ong Vò Vẽ muốn có một mục đích rõ ràng và luôn phân tích các hậu quả có thể xảy ra. Cô biết so sánh những nguy cơ lâu dài với sự thỏa mãn nhu cầu trước mắt, và với quan điểm đó thì thật vô lý khi tấn công vào NSA. Nhưng Ong Vò Vẽ đã chiều theo ý người khác, dù chẳng ai hiểu nguyên nhân vì sao cô làm thế.
Có lẽ cô cần được kích thích. Chắc cô đang chán và muốn khuấy đảo tí chút để khỏi chết vì buồn. Hoặc là, như một số người trong nhóm đồn đoán, cô đã va chạm sẵn với NSA, nên vụ đột nhập này chẳng qua cũng để trả thù cá nhân. Những thành viên khác lại tỏ ra nghi ngờ giả thiết đó và cho rằng Ong Vò Vẽ đang muốn tìm kiếm thông tin, rằng cô đang có một cuộc điều tra cá nhân sau cái chết của bố cô là Alexander Zalachenko tại bệnh viện Sahlgrenska, Göteborg.
ẳ
Nói tóm lại, chẳng ai chắc chắn được chuyện gì, và Ong Vò Vẽ vẫn kín như bưng. Thật ra động cơ của cô không quan trọng. Ít nhất họ cũng tự thuyết phục mình như vậy. Họ nên chấp nhận điều đó và cảm ơn sự tham gia của cô thay vì lo nghĩ đến chuyện ban đầu cô không tỏ ra mấy hào hứng, hay đúng hơn là chẳng tỏ thái độ gì cả. Đơn giản là cô đã thôi phản đối, và như thế là đủ.
Với sự góp sức của Ong Vò Vẽ, kế hoạch đã có một khởi đầu suôn sẻ. Hơn ai hết, bọn họ đều biết NSA đã lạm quyền đến thế nào trong những năm vừa qua. Hiện nay, hoạt động của cơ quan này không còn giới hạn trong việc nghe lén các tổ chức khủng bố và những cá nhân có nguy cơ gây hại đến tình hình an ninh, hoặc những lãnh đạo chuyên chế, các nguyên thủ quốc gia. NSA gần như theo dõi tất cả mọi người. Hàng triệu, hàng tỉ, hàng nghìn tỉ cuộc gọi, thư điện tử và các hoạt động trên mạng đã bị theo dõi và lưu lại. Càng ngày cơ quan này càng bành trướng và xâm nhập sâu hơn vào cuộc sống riêng tư của mọi người, trở thành một con mắt giám sát khổng lồ quỷ quyệt.
Lẽ đương nhiên, không ai trong Cộng hòa Tin tặc có thể tự cho mình là gương mẫu trong chuyện này. Tất cả các thành viên, không ngoại trừ một ai, đều từng đột nhập vào những hệ thống thông tin chẳng có liên quan gì với họ. Luật chơi là thế. Một hacker theo định nghĩa là một cá nhân có thể vượt qua các rào cản bất kể vì mục đích xấu hay tốt, thách thức các luật lệ và mở rộng giới hạn hiểu biết của mình mà không quan tâm đến ranh giới giữa sự công khai và riêng tư.
Nhưng họ không hoàn toàn vô đạo đức. Và, với kinh nghiệm của mình, họ biết những kẻ quyền thế có thể biến chất như thế nào, đặc biệt là những quyền lực ngầm. Họ cũng không thích việc những vụ tin tặc quy mô nhất, vô lương tâm nhất lại không phải do cá nhân thực hiện, mà chính là do các thế lực lớn của Chính phủ, những kẻ muốn kiểm soát dân chúng. Dịch bệnh, Bộ Ba, Bob Chó, Flipper, Zod, Cat và toàn bộ Cộng hòa Tin tặc do vậy đã quyết định trả đũa bằng cách đột nhập NSA và quậy một chập.
Đó không phải là một nhiệm vụ ngon ăn. Nó chẳng khác nào đột nhập vào kho vàng ở Căn cứ Knox. Thêm vào đó, họ không chỉ muốn đột nhập vào hệ thống, mà còn muốn chiếm quyền kiểm soát nó. Họ muốn có một tài khoản “superuser”, hay còn gọi là tài khoản “root” theo ngôn ngữ Linux,
và để đạt được điều đó, họ phải tìm ra những lỗ hổng bảo mật chưa được biết đến, được gọi là lỗ hổng Zero Day. Đầu tiên họ phải tấn công vào nền tảng máy chủ của NSA, sau đó là mạng nội bộ NSAnet, nơi mà từ đó Chính phủ tiến hành do thám toàn thế giới.
Như thường lệ, họ bắt đầu với một chút mánh khóe xã hội. Họ phải tìm ra tên của những nhà quản trị hệ thống và chuyên viên phân tích hạ tầng biết các mật mã phức tạp của mạng nội bộ. Nếu với được một gã hậu đậu cẩu thả trong quy trình bảo mật thì càng hay. Thật ra, trong mạng lưới của mình, họ đã tìm được bốn, năm cái tên, trong số đó đáng chú ý có Richard Fuller.
Fuller làm việc tại Nisirt, đội phản ứng nhanh các sự cố hệ thống thông tin của NSA, có vai trò giám sát mạng nội bộ, liên tục tìm kiếm các lỗ hổng và kẻ xâm nhập. Fuller là một tay khá bảnh – cử nhân luật Harvard, thành viên Đảng Cộng hòa, cựu tiền vệ bóng đá Mỹ, một công dân yêu nước lý tưởng nếu ta tin vào lý lịch của anh ta. Nhưng thông qua một trong những cô bạn gái cũ, Bob Chó đã phát hiện ra Fuller bị rối loạn lưỡng cực và có thể còn là một con nghiện cocaine.
Mỗi khi lên cơn, Fuller có thể làm đủ thứ ngớ ngẩn, kể cả việc mở các tập tin và tài liệu mà không đưa chúng vào thứ được gọi là sandbox, hộp cát. Ngoài ra, anh ta rất đẹp trai, dẻo miệng như kiểu chuyên gia tài chính Gordon Gekko, và có người trong nhóm, hình như chính là Bob Chó, đã đề xuất ý tưởng để Ong Vò Vẽ tới nhà Fuller ở Baltimore, mọi thông tin bằng cách đưa anh ta lên giường.
Ong Vò Vẽ đã chửi om lên vì cái ý tưởng đó.
Cô cũng gạt phắt đề xuất thứ hai, theo đó họ sẽ viết một tài liệu với những thông tin chấn động về các lỗ hổng và kẻ xâm nhập tại trụ sở chính ở Căn cứ Meade. Tài liệu này sẽ được phát tán bởi một phần mềm gián điệp,một Trojan siêu cấp mà Dịch Bệnh và Ong Vò Vẽ có nhiệm vụ phát triển. Kế hoạch tiếp theo là bày ra những manh mối trên mạng để lôi kéo sự tò mò của Fuller và để cho hắn tìm thấy tập tin. Nếu họ gặp may mắn, hắn sẽ mừng rỡ đến mức khinh suất. Đó không phải là một kế hoạch tồi, nó có ưu điểm là giúp cho họ vào được hệ thống của NSA mà không phải thực việc một vụ đột nhập chủ động, vốn có nguy cơ dễ bị phát hiện.
"""