"Màu Của Nước - James McBride PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Màu Của Nước - James McBride PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo James McBride MÀU CỦA NƯỚC Người dịch: Nguyễn Bích Lan Nhà xuất bản Phụ Nữ 2017 Tôi viết cuốn sách này dành tặng mẹ tôi, bà ngoại của tôi, và những bà mẹ ở khắp mọi nơi. Tưởng nhớ Hudis Shilsky, Mục sư Andrew D. McBride Và Hunter L. Jordan, Sr. Khi còn nhỏ tôi không biết gì về xuất thân của mẹ mình - Tôi không biết mẹ sinh ra ở đâu, ông bà ngoại của tôi là ai. Khi tôi hỏi về gốc gác của mẹ, mẹ nói: Chúa sinh ra mẹ. Khi tôi hỏi mẹ có phải là người da trắng không, mẹ nói: “Da mẹ sáng màu, rồi lập tức chuyển chủ đề. Mẹ nuôi mười hai đứa con da đen của mẹ, cho tất cả học đại học và hầu như tất cả đều tốt nghiệp đàng hoàng. Các con của mẹ trở thành bác sĩ, giáo sư, nhà hóa học, giáo viên - Tuy nhiên cả mười hai anh chị em chúng tôi không ai biết họ tên thời con gái của mẹ cho đến khi chúng tôi trở thành người lớn. Tôi phải mất tới mười bốn năm khai quật chuyện đời lạ lùng của mẹ - chuyện về con gái của một giáo sĩ Do Thái chính thống kết hôn với một người đàn ông da đen vào năm 1912 - và mẹ tiết lộ chuyện đời mình như một đặc ân dành cho tôi hơn là muốn ngược dòng thời gian trở về quá khứ. Đây là câu chuyện cuộc đời mà mẹ kể cho tôi nghe, và xen kẽ giữa những trang viết về cuộc đời của mẹ, các bạn cũng sẽ tìm thấy những trang kể về cuộc đời tôi. C 1 Chết on muốn mẹ kể về gia đình của mẹ, mà đối với cái gia đình ấy mẹ đã chết từ năm mươi năm trước rồi. Hãy để mẹ yên. Đừng làm phiền mẹ. Gia đình mẹ không muốn có mẹ chút nào và mẹ cũng chẳng hề muốn có họ. Có hỏi thì hỏi nhanh lên rồi kết thúc mau đi. Mẹ muốn ngắm Dallas. Mà này, nếu con là một phần của gia đình ấy, con sẽ không có thời gian dành cho điều vớ vẩn này đâu, không có thì giờ để nghĩ về gốc gác của con đâu. Thà con đi xem phim “Ba Chàng Ngốc” còn hơn là hỏi họ, hỏi cha đẻ của mẹ chẳng hạn, quên chuyện đó đi. Nếu ông ngoại của con gặp con, ông sẽ lên cơn đau tim. Dẫu sao ông cũng chết rồi, nếu không thì bây giờ ông đã một trăm năm mươi tuổi rồi. Mẹ sinh ra là một người Do Thái chính thống vào ngày 1 tháng 4 năm 1921, đúng vào ngày Cá tháng Tư ở Ba Lan đấy con ạ. Mẹ không nhớ tên của cái thị trấn nơi mẹ chào đời, nhưng mẹ còn nhớ tên Do Thái của mình: Ruchel Dwajra Zylska. Ông bà ngoại của con đã xóa cái tên đó khi họ đến Mỹ và đổi tên mẹ thành Rachel Deborah Shilsky, và chính mẹ đã tống khứ cái tên ấy ra khỏi cuộc đời mình khi mẹ mười chín tuổi, không bao giờ sử dụng nó nữa sau khi mẹ đi khỏi Virgina năm 1941 mà không bao giờ quay trở lại. Đối với mẹ, Rachel Shilsky đã chết. Cô ta chết để mẹ, phần còn lại của mẹ, được sống. Khi mẹ lấy cha của con, gia đình mẹ than khóc vật vã. Họ đọc Kinh kaddish và ngồi shiva[1]. Đó là cách người Do Thái chính thống khóc người thân qua đời. Họ cầu nguyện, úp các tấm gương xuống, ngồi trên những cái hộp trong bảy ngày và dùng khăn trùm đầu. Nó có tác dụng thật đấy và có lẽ đó là lý do tại sao giờ đây mẹ không còn là một người Do Thái nữa. Có quá nhiều luật lệ phải tuân theo, quá nhiều điều cấm kỵ và quá nhiều những điều “Mày không thể làm” và “Mày không được phép làm”, nhưng có ai nói họ yêu thương mẹ không nhỉ? Không, trong gia đình của mẹ không ai nói thế với ai. Gia đình mẹ không nói thế. Mọi người nói với nhau những lời đại loại như “Liệu hồn đấy,” hoặc ông ngoại con sẽ nói, “Hãy im miệng trong lúc tao ngủ.” Tên ông ngoại của con là Fishel Shilsky và ông là một giáo sĩ Do Thái chính thống. Ông đã trốn khỏi trại của quân Nga, lẩn sang biên giới Ba Lan và cưới bà ngoại của con trong một cuộc hôn nhân sắp đặt. Ông thường nói rằng khi ông chạy trốn ông phải chạy dưới những làn đạn và khả năng lẩn trốn những gì không tốt cho bản thân tồn tại cùng ông từ khi mẹ biết ông. Bọn mẹ gọi ông là Tateh. Trong tiếng Do Thái “Tateh” có nghĩa là cha. Ông là một con cáo, nhất là trong chuyện tiền bạc. Ông có dáng người thấp, nước da sẫm màu, râu tóc rậm và là người cộc cằn, lỗ mãng. Ông mặc sơ mi trắng, quần đen, quấn một chiếc tallis[2], và những thứ đó giống như đồng phục của ông. Ông mặc cái quần đen đó hoài cho tới khi nó nhẵn bóng và cứng queo đủ để tự đứng được bằng chính hai ống của nó mà không cần xỏ chân, nhưng chỉ Chúa Trời mới có thể cứu con nếu như con đụng phải cái quần đó trong lúc vội, bởi ông ngoại của con không phải là người để đùa giỡn. Ông khó tính lắm. Bà ngoại của con tên là Hudis và bà trái ngược hoàn toàn với ông, rất dịu dàng và nhu mì. Bà sinh năm 1896 ở thị trấn Dobryzn, Ba Lan, nhưng nếu bây giờ con hỏi thông tin thì không ai còn nhớ gia đình bà nữa bởi vì bất cứ người Do Thái nào không rời khỏi đó trước khi quân Hitler tràn vào Ba Lan cũng đều bị giết hại trong cuộc tàn sát người Do Thái rồi. Bà có khuôn mặt xinh xắn, mái tóc đen, gò má cao nhưng bà bị bại liệt. Chứng bệnh đó làm bà bị liệt nửa người bên trái và khiến sức khỏe của bà không được tốt. Tay trái của bà không sử dụng được. Nó bị khòng khèo ở cổ tay và nó cong lên gần đến ngực. Mắt trái của bà gần như bị mù và bà đi cà nhắc, kéo lê cái chân trái bị liệt. Bà là một người phụ nữ ít nói, Mameh yêu quý của mẹ. Đó là lý do tại sao bọn mẹ gọi bà là Mameh. Bà là người mà trong cõi đời này mẹ đã đối xử không tốt khi… 2 Chiếc xe đạp N ăm tôi mười bốn tuổi, mẹ của tôi bỗng dưng có hai thú tiêu khiển mới: đạp xe và chơi piano. Đàn piano thì tôi không quan tâm, nhưng chiếc xe đạp thì khiến tôi phát điên. Nó cồng kềnh và cà tàng lắm rồi, nó được sơn màu xanh da trời điểm những vệt trắng, với đôi lốp bự, cặp chắn bùn to tướng và cái còi chạy bằng pin được lắp ở giữa khung xe có cái nút mà bạn chỉ việc đẩy lên là nó kêu. Cái xe đạp ấy bây giờ có lẽ là của hiếm được sưu tầm, có thể trị giá tới năm nghìn đô la chứ chẳng ít, nhưng vào thời đó nó là thứ mà cha dượng của tôi tìm thấy trên đường phố ở Brooklyn và dắt về nhà vài tháng trước khi ông qua đời. Tôi không biết liệu có phải cha dượng quyết định từ bỏ cuộc sống hay không, nhưng tôi nghĩ là không. Khi ông qua đời, ông đã bảy mươi hai tuổi, người gọn gàng, khỏe mạnh, dễ tính, dường như không thể sai lầm, và mặc dù ông là cha dượng của tôi, tôi luôn nghĩ ông là người cha thực sự của mình. Ông là một người đàn ông trầm tĩnh, ăn nói nhẹ nhàng, thường mặc những bộ quần áo đã lỗi mốt, đội mũ phớt, áo khoác len cài cúc, mang dây đeo quần, và lúc nào cũng mặc nghiêm chỉnh, cho dù công việc ông làm bụi bặm đến mức nào. Ông làm gì cũng chậm rãi và cẩn thận, nhưng đằng sau sự chậm rãi và sự nhẹ nhàng thể hiện ra ngoài của ông là sự pha trộn của một người Indian trầm lặng và một người đàn ông da đen ở vùng nông thôn, chắc chắn, cứng rắn, can đảm và nhanh nhạy. Ông không tiếp thu những chuyện vớ vẩn và cũng không gieo rắc chúng. Ông cưới mẹ tôi, một người đàn bà Do Thái da trắng khi bà đã có tám đứa con lai da đen, và tôi, đứa nhỏ nhất, lúc đó mới hơn một tuổi. Mẹ tôi và cha dượng sinh thêm bốn người con nữa, làm tròn đàn con trong gia đình thành mười hai và ông chăm sóc tất cả chúng tôi như con ruột. “Tôi có đủ người cho một đội bóng rổ,” ông nói đùa. Ngày hôm trước ông còn đùa, ngày hôm sau - trong một cơn đột quỵ, ông ra đi mãi mãi. Dạo đó tôi đang học trung học và sau khi ông mất tôi gần như bỏ học, không đến lớp. Cả năm đó tôi ném thời gian của mình vào các buổi chiếu phim ở đường 42 thuộc khu Quảng trường Thời Đại cùng với lũ bạn. “James đang trải qua cuộc cách mạng của nó,” các anh chị của tôi cười khúc khích. Tuy nhiên, các chị tôi có chút lo lắng, còn các anh trai thì tức giận. Tôi phớt lờ họ đi. Tôi và lũ bạn đi xem phim miết. Chúng tôi xem phim Superfly, Cảnh sát Shaft và hút cần sa xả láng. Tôi giật ví của người ta. Tôi ăn cắp vặt ở các khu mua sắm. Có lần tôi thậm chí đã cướp hàng của một gã buôn ma túy tép riu. Hồi đó, vào những buổi chiều, sau một ngày bỏ học, hút cần sa, huơ huơ lưỡi dao lam trên không, lượn lờ trên xe điện ngầm, tôi về nhà và nhìn thấy mẹ mình đang đi chiếc xe đạp màu xanh. Mẹ đạp xe chầm chậm qua con phố của chúng tôi, đại lộ Murdock ở St.Alban thuộc quận Queens, và là người da trắng duy nhất mà người ta nhìn thấy ở đó trong khi những chiếc xe hơi rẽ quẹo quanh mẹ và những tay lái mô tô da đen trố mắt nhìn người phụ nữ da trắng trung tuổi đi chiếc xe đạp cổ lỗ sĩ. Mẹ buồn lắm mặc dù lúc đó tôi không biết điều ấy. Cha dượng của tôi, Hunter Jordan, không còn nữa. Andrew McBride, cha đẻ của tôi, đã qua đời mười bốn năm trước, khi mẹ đang mang thai tôi. Rõ ràng mẹ không còn quan tâm đến chuyện tái giá nữa, bất chấp những nỗ lực của mấy nhà truyền đạo ở địa phương, những người đi xe Cadillac luôn mỉm cười, biết rằng mẹ tôi và tất cả chúng tôi đều đang suy sụp. Ở tuổi bốn mươi mốt mẹ vẫn thon thả, xinh đẹp với mái tóc quăn đen nhánh, đôi mắt đen, cái mũi to, nụ cười rạng rỡ và dáng đi vòng kiềng mà cách xa cả dặm bạn vẫn có thể nhận ra. Chúng tôi thường gọi dáng đi đó là “Dáng đi điên rồ của mẹ” và nếu mẹ tôi đi về phía bạn, thì cả địa ngục sẽ vỡ tung ra. Tôi đã chứng kiến mẹ đi đến chỗ mấy gã trai rắn mặt và dứ nắm đấm vào mặt chúng khi mẹ giận dữ - nhưng đó là trước ngày cha dượng tôi mất. Giờ đây mẹ dường như chỉ mải mê chơi piano, tìm cách lẩn tránh những người thu tiền hóa đơn, ép chúng tôi đến trường hoàn toàn bằng sức mạnh ý chí, và đạp xe quanh quận Queens. Mẹ không chịu học lái xe. Chiếc xe hơi cũ của cha tôi đậu im lìm ở khúc quanh trước nhà đã nhiều tuần rồi. Xe sạch bong. Bóng loáng. Hàng ngày mẹ cưỡi xe đạp đi qua chỗ đậu xe, chẳng ngó ngàng gì đến nó. Đối với tôi hình ảnh mẹ đi chiếc xe đạp ấy là ví dụ tiêu biểu cho toàn bộ sự tồn tại của mẹ. Sự kỳ quặc của mẹ, thái độ mặc kệ thế giới muốn nghĩ gì về mình thì nghĩ của mẹ, vẻ thản nhiên của mẹ trước những gì tôi hiểu là sự nguy hiểm sắp xảy ra từ những người da đen và những người da trắng không ưa mẹ chỉ vì mẹ là một người da trắng sống trong thế giới của người da đen. Mẹ chẳng đếm xỉa đến những điều đó. Mẹ đạp xe chậm đến nỗi nếu bạn nhìn thấy mẹ tôi từ xa thì bạn sẽ nghĩ bà không di chuyển, mà là một hình ảnh bất động được vẽ trên nền trời mùa xuân, một người phụ nữ da trắng trên chiếc xe đạp cổ lỗ sĩ trong khi những đứa trẻ da đen cưỡi những chiếc xe đạp hiệu Sting-Ray và chơi ván trượt phóng vèo qua, thực hiện những cú bốc đầu và ném những quả bóng rổ bay vun vút qua đầu mẹ, hoặc tung những quả pháo hoa nổ xung quanh mẹ. Mẹ phớt lờ tất cả. Mẹ mặc chiếc váy hoa, đi đôi giày lười màu đen, đầu mẹ quay trước, quay sau trong khi mẹ đạp xe một cách run rẩy qua khúc quanh hình tam giác nơi tôi thường chơi bóng chày với lũ bạn từ Đại lộ Lewiston xuống phía dưới chân đồi của phố Mayvielle, nơi một đứa bé dễ thương có tên là Roger đã thiệt mạng trong một tai nạn xe hơi, ngay phía trên đồi ở Murdock, phía khúc cua dành cho xe hơi, và ngay trước cửa nhà chúng tôi. Mẹ thường dừng lại, loạng choạng trong run rẩy, vừa kịp chống đỡ trước khi chiếc xe đạp của mẹ đổ xuống vỉa hè. “Ôi chao”, mẹ kêu lên trong khi các anh chị của tôi “cắm trại” trước hiên nhà quan sát mẹ, lắc đầu quầy quậy. Chị Dotty của tôi thường nói: “Con dám chắc mẹ không thể đi nổi cái xe đó đâu, mẹ ạ,” và tôi ngầm đồng ý với chị bởi vì tôi không muốn lũ bạn nhìn thấy người mẹ da trắng của mình đạp xe nhông nhông trên phố. Mẹ đã là người da trắng thì chớ, như vậy đã đủ là vấn đề rồi, lại còn ra đường đạp một cái xe cũ rỉn được sản xuất từ một trăm năm trước ư? Một người trưởng thành không thể bỏ bớt cái việc kỳ quặc đó đi được sao? Tôi không thể chịu đựng nổi điều đó. Khi còn nhỏ tôi luôn nghĩ mẹ mình là một người kỳ quặc. Mẹ không bao giờ quan tâm đến việc giao lưu với hàng xóm láng giềng. Quá khứ của mẹ là một bí mật mà mẹ từ chối nhắc tới. Mẹ uống trà bằng ly thủy tinh. Mẹ có thể nói tiếng I-đít[3]. Mẹ hoàn toàn không tin cậy nhà cầm quyền và khăng khăng theo đuổi sự riêng tư tuyệt đối, sự riêng tư khiến bản thân mẹ và gia đình tôi thậm chí càng kỳ quặc hơn. Không giống bất cứ nhà nào mà tôi từng biết, gia đình tôi là một gia đình đông con, có tới mười hai đứa, đông đến nỗi nhiều lúc mẹ gọi chúng tôi là “Hey James-Judy-Henry Hunter-Kath - gọi bằng bất cứ cái tên nào - lại đây ngay.” Không phải là mẹ quên chúng tôi là ai, mà vì quá đông con nên mẹ không có thời gian cho những việc nhỏ nhặt ngớ ngẩn như việc gọi tên từng đứa. Mẹ là chỉ huy trưởng trong gia đình, bởi vì cha dượng không sống cùng nhà với chúng tôi. Cha sống ở Brooklyn cho đến gần cuối đời, ở cách xa những đám đông nhốn nháo và chỉ về nhà vào cuối tuần, mang thực phẩm, xe ba bánh và sự quyết tâm về để sửa chữa tất cả những thứ hữu hình mà chúng tôi đã làm gãy vỡ trong tuần. Những chi tiết cần thiết cho việc nuôi dạy chúng tôi đều thuộc về mẹ, người hành động như một bác sĩ phẫu thuật điều trị các vết bầm tím (“Bôi i-ốt vào”), như Bộ trưởng phụ trách vấn đề chiến tranh (“Nếu đứa nào đánh con, hãy sử dụng nắm đấm và cho chúng biết tay”), như một cố vấn về tôn giáo (“Hãy đặt Chúa Trời lên trên hết”), như một chuyên gia tâm lý (“Đừng nghĩ về chuyện đó nữa”), như một cố vấn tài chính (“Tiền có nghĩa gì nếu đầu óc con trống rỗng?”). Các vấn đề liên quan đến chủng tộc và bản sắc mẹ lờ đi. Khi còn nhỏ tôi nhớ mình ước ao được lên chương trình truyền hình mang tên Người cha biết tuốt, một chương trình trong đó người cha đi làm về hàng ngày mặc complê, đeo cà vạt và có đủ những đứa con để ngồi trong lòng ông, thay vì ở trong gia đình mình, nơi chúng tôi đi lang thang trong những chiếc quần lốm đốm lỗ thủng, những đôi giày Bo-Bo đế mềm loại xoàng có giá 1,99 đô la tại cửa hàng của John, với người mẹ bận luôn tay, đầy bối rối, với người cha dượng chỉ xuất hiện vào cuối tuần trong chiếc áo sơ mi dài tay cầm những dụng cụ sửa chữa đồ gia dụng, với người mẹ ôm cả đống tã bỉm, kẹp quần áo, khăn lau, bông gạc, với một đứa con trên tay và một đứa khác túm chặt váy. Mẹ hầu như không có thời gian để chùi đít cho một đứa con trước khi một đứa khác bắt đầu hét inh tai nhức óc. Trong khu chung cư dành cho người thu nhập thấp Red Hook ở Brooklyn, nơi chúng tôi sống trước khi chuyển tới Albans thuộc quận Queens, hằng đêm mẹ thường dồn chúng tôi lên giường như những miếng thịt, đặt ba hoặc bốn đứa vào một giường, xếp chúng nằm dở đầu đuôi, chân đứa này để cạnh đầu đứa kia, cứ như vậy. “Đầu ở trên, chân ở dưới,” mẹ nói khi mẹ hôn chúc chúng tôi ngủ ngon và đặt chúng tôi vào chỗ thích hợp. Mẹ vừa mới rời khỏi phòng là chúng tôi lập tức cãi nhau để phân định ai phải nằm sát tường. “Em nằm trong!” Tôi gào lên, còn Richard, anh kế trên tôi và là người giám sát của tôi thì lắc đầu nói: “Không, không, không. David nằm trong. Tao nằm giữa. Còn mày, thằng đần này, nằm ngoài.” Vậy là cả đêm tôi phải hít hơi thở của David và ngửi mùi chân của Richie, và khi tôi không thể chịu đựng nổi cả hai điều khó chịu ấy cùng một lúc tôi trở mình và rơi phịch xuống nền nhà láng xi măng. Ở nhà tôi “khôn thì sống mống thì chết” và mẹ tôi hiểu điều đó khi mẹ tạo ra cái hệ thống ấy. Bạn phải tự tìm ra cách của riêng mình nếu không bạn cứ việc suy nghĩ cho tới khi bạn bế tắc, và khi đó mẹ bạn sẽ xuất hiện, giải cứu bạn. Tôi rất sợ cái thời điểm đến lượt mình phải đi học. Mặc dù trường P.S.188 chỉ cách chỗ chúng tôi ở tám tòa nhà, tôi không được phép đi bộ tới đó cùng với các anh chị của mình bởi vì các học sinh của trường mẫu giáo được yêu cầu phải đi xe buýt. Vào buổi sáng không may mắn, mẹ đuổi tôi chạy quanh bếp cố bắt tôi mặc quần áo tử tế trong khi các anh chị tôi cười phá lên trước nỗi sợ hãi của tôi. “Xe buýt không tệ đâu,” một người chị của tôi châm biếm, “chỉ có những con rắn thôi, chứ có gì đâu.” Một chị khác chêm vào, “đôi khi xe buýt chẳng bao giờ đưa em về nhà đâu.” Rồi họ cười khanh khách. “Im nào!” Mẹ vừa nói vừa kiểm tra trang phục ngày đầu đến trường của tôi. Quần áo của tôi sạch sẽ, nhưng không mới. Cái quần là của anh Billy, chiếc sơ mi của anh David, áo khoác của Dennis thải ra cho David, rồi David lại thải cho Richie và bây giờ Richie thải ra cho tôi. Đó là một chiếc áo khoác màu xám có cái cổ lông thực sự đã bị ai đó nhai đi nhai lại. Mẹ dùng cái chổi phất trần phủi bụi trên cái áo khoác đó, bày ra tám hoặc chín cái bát to, đổ cháo yến mạch vào từng bát, bảo đứa lớn nhất cho đàn em của mình ăn sáng rồi vơ lấy cái lược chải tóc cho tôi. Mẹ chải đầu cho tôi cứ như thể một chiếc máy kéo đang giật những món tóc xoăn của tôi vậy. “Nào,” mẹ nói, “mẹ sẽ đưa con đến trạm xe buýt.” Một phần thưởng gây ngạc nhiên. Tôi có mẹ cho riêng mình. Tôi nhớ đó là lần đầu tiên tôi được đi một mình với mẹ. Những khoảnh khắc đó trở thành khoảng thời gian đáng nhớ trong ngày của tôi, một kỷ niệm ngọt ngào đến nỗi nó làm đầu óc tôi nóng bừng như có một hình xăm ở trong đó, khoảnh khắc mẹ dẫn tôi đi bộ đến trạm xe buýt và chiều nào cũng đón tôi, đứng ở góc đường giữa khu New Mexico và đường 114, mặc chiếc áo khoác màu nâu, mái tóc được quấn gọn trong chiếc khăn choàng sặc sỡ, dõi mắt nhìn những người cha, người mẹ khác trong khi chiếc xe buýt màu vàng lượn vào góc đường và dừng lại sau tiếng phanh kít. Dần dần, khi nhiều tuần trôi qua và nỗi sợ đến trường trong tôi giảm bớt, tôi bắt đầu nhận thấy điều gì đó ở mẹ mình, rằng mẹ trông không giống mẹ của những đứa trẻ khác. Thực ra mẹ trông giống cô giáo ở trường mầm non của tôi hơn, cô Alexander, một cô giáo người da trắng. Nhìn qua cửa sổ khi xe buýt lượn vào góc đường và cánh cửa trước bật mở, tôi để ý thấy mẹ mình đứng tách khỏi những bà mẹ khác, hiếm khi chuyện trò với họ. Mẹ đứng phía sau họ, im lặng đợi, tay thủ trong túi áo, nhìn đăm đăm qua cửa sổ xe buýt xem tôi ngồi ở chỗ nào, sau đó mỉm cười và vẫy tay khi tôi gọi mẹ qua cửa xe. Tôi vừa bước xuống xe mẹ nhanh chóng nắm lấy tay tôi, phớt lờ những con mắt trố ra nhìn của các bà mẹ da đen khi mẹ dắt tôi đi. Một buổi trưa khi hai mẹ con tôi đi bộ từ nhà ra trạm xe buýt, tôi hỏi mẹ tại sao mẹ trông không giống những bà mẹ khác. “Bởi vì mẹ không phải là họ,” mẹ nói. “Vậy mẹ là ai?” tôi hỏi. “Mẹ là mẹ của con.” “Vậy thì tại sao trông mẹ không giống như mẹ của Rodney hay mẹ của Pete? Sao trông mẹ không giống con?” Mẹ thở dài và nhún vai. Rõ ràng mẹ đã đi trên con đường này nhiều lần rồi. “Mẹ trông giống con mà. Mẹ là mẹ của con. Con hỏi nhiều quá đấy. Hãy chăm học vào. Học hành quan trọng lắm đấy. Hãy quên Rodney và Pete đi. Hãy quên các bà mẹ đi. Hãy nhớ việc học hành. Và quên những chuyện khác đi. Ai quan tâm đến Rodney và Pete kia chứ! Khi mà các bạn ấy đi một đường, còn con đi một đường khác. Hiểu không? Khi mà các bạn ấy đi một đường, còn con đi một đường khác. Con có nghe mẹ nói không đấy?” “Có ạ.” “Mẹ biết mình đang nói gì. Đừng có theo đuôi ai hết. Con nghe lời các anh chị của con là được rồi. Và chớ nói với ai chuyện của con!” Rồi mẹ kết thúc chủ đề. Một tuần sau xe buýt thả tôi xuống trạm dừng quen thuộc nhưng mẹ không có ở đó. Tôi phát hoảng. Đâu đó sâu trong đầu tôi là ký ức của cái lần mẹ cảnh báo, “Con sẽ phải tập đi bộ về nhà một mình,” nhưng ký ức đó loáng thoáng hiện ra như một màn sương ở phía xa xa trên biển giông tố và nó chìm nghỉm trong nỗi hoảng sợ của tôi. Tôi bị lạc đường rồi. Nhà tôi chỉ cách trạm dừng xe buýt hai tòa nhà thôi, nhưng hôm đó tôi có cảm giác đường về nhà xa mười dặm bởi vì tôi không biết nhà mình ở đâu. Tôi đứng ở góc đường cố nuốt nước mắt. Những ông bố, bà mẹ khác nhìn tôi đầy vẻ thông cảm và hỏi địa chỉ nhà tôi, nhưng tôi sợ không nói cho họ biết. Trong tâm trí tôi là lời cảnh báo của mẹ, lời cảnh báo ăn sâu vào đầu tất cả mười hai anh em chúng tôi từ khi chúng tôi biết đi: “Đừng bao giờ, đừng bao giờ nói chuyện của con cho người khác biết,” và tôi lắc đầu, ngụ ý rằng tôi không biết địa chỉ nhà của mình. Các ông bố, bà mẹ ấy lần lượt bỏ đi, cho đến khi chỉ còn một người duy nhất ở lại, một ông bố da đen đứng trước mặt tôi cùng với đứa con trai và nói: “Đừng lo, chỉ chút xíu nữa là mẹ cháu sẽ đến thôi.” Tôi phớt lờ ông ấy đi. Ông ấy che mất tầm nhìn của tôi, khiến tôi không nhìn xuống phía tòa nhà ở phía dưới để xem liệu chiếc áo khoác màu nâu quen thuộc và khuôn mặt da trắng của mẹ có xuất hiện từ phía xa xa hay không. Tôi đợi hoài, đợi mãi mà chẳng thấy. Thực ra chẳng có ai xuất hiện từ phía đó cả, trừ một đám trẻ con mà chúng thì chẳng có chút gì giống mẹ của tôi cả. Chúng là một lũ trẻ nhốn nháo gồm cả trai lẫn gái với những mái tóc xoăn bù xù và những chiếc áo khoác cũ kỹ trông thật lôi thôi, lếch thếch, vừa đi vừa la hét nhặng xị, và chỉ khi chúng tới gần tôi mới nhận ra những khuôn mặt quen thuộc của các anh chị mình cùng đứa em gái Kathy lẵng nhẵng chạy theo sau. Tôi chạy ào vào vòng tay của các anh chị, khuỵu xuống trong nước mắt khi họ đứng vây quanh tôi, cười ngặt nghẽo. 3 Kosher[4] C uộc hôn nhân của ông bà ngoại con được thu xếp bởi một giáo sĩ được trọng vọng, người chuyên đi tới gặp các bậc cha mẹ để xem của hồi môn và soạn những hợp đồng hôn nhân theo luật Do Thái, và điều đó có nghĩa là tình yêu chẳng liên quan gì tới hôn nhân. Gia đình nhà bà ngoại con có đẳng cấp và tiền bạc. Mẹ không biết gia đình bên nội của mình xuất thân từ đâu. Bà ngoại con là tấm vé để ông ngoại con sang Mỹ, và một khi ông đã đặt chân lên đất Mỹ, ông coi như chẳng còn quan hệ gì với bà. Ông đến đây dưới sự bảo lãnh của chị cả của bà ngoại con, bà Laurie, và chồng của bà, Paul Schiffman. Con không thể cuốc bộ sang Mỹ được. Con phải có một người bảo lãnh, người sẽ nói: “Tôi bảo lãnh cho người này.” Ông ngoại sang Mỹ trước, và vài tháng sau bà ngoại, mẹ và anh trai của mẹ, bác Sam được đưa sang sau. Khi đó mẹ hai tuổi còn bác Sam bốn tuổi, vậy nên mẹ không nhớ bất cứ điều gì về chuyến đi dài đầy nguy hiểm đến nước Mỹ ngoài những gì mẹ thấy qua các bộ phim. Trong chiếc hộp để dưới gầm giường, mẹ còn giữ tấm giấy thông hành ghi rõ mẹ đến nước này vào ngày 23 tháng Tám năm 1923 trên một chiếc tàu thủy mang tên Austergeist. Trong suốt hơn hai mươi năm mẹ luôn giữ cái giấy đó bên mình. Đó là sự bảo vệ của mẹ. Mẹ không muốn người ta ném mẹ ra khỏi nước Mỹ. Ai ư? Bất kỳ ai… Chính phủ, bố đẻ của mẹ, bất cứ ai. Mẹ đã nghĩ họ có thể sẽ ném một người ra khỏi nước Mỹ như tống cổ anh ta ra khỏi một trận bóng rổ vậy. Ông ngoại của con thường nói: “Ta là công dân Mỹ còn chúng mày thì không. Ta có thể tống cổ chúng mày về châu Âu bất cứ khi nào ta muốn.” Ông thường dọa như vậy, dọa tống cổ vợ con ông về châu Âu, nhất là bà ngoại con, bởi vì bà là người cuối cùng trong gia đình bà đến đây và ở Ba Lan bà đã chạy trốn lính Nga trong một thời gian dài. Bà thường nói về Czar hoặc Kaiser và về chuyện lính Nga đến làng của bà, bắt những người Do Thái đứng xếp hàng và bắn chết họ như những kẻ máu lạnh. “Mẹ đã phải chạy trốn suốt cả đời,” bà thường nói như vậy. “Mẹ đã ôm con và anh con trong tay trong khi mẹ chạy trốn.” Bà sợ châu Âu và mừng rơn khi được sống ở Mỹ. Khi bà và anh em mẹ rời tàu, đặt chân lên đất Mỹ, cả nhà ta sống với ông bà ngoại của mẹ, Zaydeh và Bubeh, tại phố 115 and St. Nicholas ở Manhattan. Mặc dù khi đó mẹ còn bé xíu, mẹ vẫn nhớ Zaydeh của mình rất rõ. Ông có bộ râu dài, tính tình vui nhộn và dường như luôn uống trà nóng bằng ly thủy tinh. Tất cả những người đàn ông trong gia đình của mẹ đều để râu dài. Zaydeh còn giữ một bức ảnh chụp ông và mẹ đẻ ra ông trên bàn làm việc. Ảnh được chụp trong khi gia đình vẫn còn ở châu Âu. Ông và cụ ngoại đứng bên nhau, Zaydeh mặc bộ complê đen, đội mũ và hồi đó đã để râu, còn cụ ngoại đội tóc giả, như một tập tục tôn giáo. Dưới mái tóc giả đó là cái đầu hói của cụ, mẹ tin như vậy. Đó là lý do tại sao phụ nữ lại che đầu. Họ bị hói. Mẹ quý mến ông bà ngoại của mình. Họ có trái tim ấm áp và mẹ yêu quý họ như bất cứ đứa cháu nào yêu ông bà của mình. Ông bà ngoại của mẹ giữ gìn căn hộ của họ sạch sẽ và thật dễ chịu với những đồ nội thất bằng gỗ gụ sẫm màu chắc nịch. Bàn ăn của các cụ lúc nào được trải vải ren trắng lấp lánh. Các cụ là những người Do Thái chính thống, hàng ngày ăn uống theo luật kosher. Con cần phải đọc về nó mới hiểu được bởi vì mẹ không phải là chuyên gia. Có những người viết ra những cuốn sách về chủ đề đó, hãy tìm đọc chúng và hỏi họ! Hoặc hãy đọc Kinh Thánh! Hãy nói cho mẹ biết! Mẹ là ai? Mẹ chẳng là ai cả! Mẹ không thể kể với cả thế giới chuyện này! Mẹ không biết! Cái cách bọn mẹ thực hành nó, mỗi bữa ăn lại sắp xếp bàn ăn mỗi khác, khăn trải bàn khác, đĩa bát khác, thìa nĩa khác, dao khác, mọi thứ đều khác không giống với bữa trước. Và con không thể ăn các bữa theo kiểu hổ lốn được, ăn kiểu gì phải ra kiểu đấy. Giống như con ăn kiêng thì ra ăn kiêng và ăn mặn thì ra ăn mặn, không thể pha trộn. Vậy nên bữa này con ăn kiêng, bữa sau con ăn mặn. Không pha trộn. Không ăn thịt lợn nhé - không có những miếng thịt lợn ăn với salat cà chua đâu, không có thịt lợn xông khói và trứng đâu, quên đi. Con đặt mông xuống và ăn những gì con được cho là nên ăn, và làm những gì được cho là phải làm. Bọn mẹ đã từng sử dụng khăn trải bàn loại đặc biệt cho những bữa ăn chay bởi vì có thể lau sạch nó bằng một chiếc khăn rửa bát đơn giản chứ không phải giặt. Mỗi tối thứ Sáu vào lúc mặt trời lặn con thắp nến lên, cầu nguyện và lễ Sabbath bắt đầu. Lễ Sabbath kéo dài đến lúc mặt trời lặn của ngày thứ Bảy. Không bật đèn hoặc tắt đèn, không xé giấy, không lái xe hơi, không đi xem phim, thậm chí không làm cái việc đơn giản như nhóm bếp lò. Con phải ngồi yên tại chỗ đọc trong ánh nến. Hoặc nếu không, chỉ ngồi im. Đối với mẹ ngồi yên tại chỗ là việc khó nhất. Thậm chí là con gái mẹ vẫn thích chạy nhảy. Mẹ thích ra khỏi nhà, đi chơi. Thích chạy. Điều duy nhất mẹ được phép làm trong lễ Sabbath là đọc những tạp chí lãng mạn. Mẹ làm điều đó trong nhiều năm. Mẹ còn nhớ cái ngày Zaydeh qua đời trong căn hộ đó. Mẹ không biết cụ mất như thế nào, chỉ biết cụ chết, đơn giản vậy thôi. Vào thời đó con người ta không sống lay lắt và ngớ ngẩn như bây giờ, với những cái ống treo ở miệng và làm giàu cho cánh bác sĩ như bây giờ đâu. Họ chết là chết thôi. Chết. Vĩnh biệt. Cụ ngoại của con chết. Họ đặt cụ nằm trên giường và dẫn anh em mẹ vào phòng để nhìn cụ lần cuối. Họ nhắc bổng mẹ và bác Sam lên nhà để nhìn cụ. Bộ râu của cụ xẹp lép trên ngực cụ còn hai tay cụ đan vào nhau. Cụ đeo một chiếc cà vạt màu đen nhỏ xíu. Trông cụ như đang ngủ. Mẹ nhớ khi ấy mẹ tự nhủ rằng cụ không thể chết được, bởi vì dường như mới trước đó không lâu cụ vẫn sống, cười đùa và làm trò, vậy mà bây giờ cụ chết rồi. Người ta chôn cụ ngay trong ngày hôm đó trước khi mặt trời lặn và bọn mẹ ngồi shiva[5] cho cụ. Tất cả những tấm gương ở trong nhà đều bị che đi. Người lớn trùm khăn kín đầu. Mọi người đều ngồi trên những cái hộp. Sau đó cụ bà mặc đồ đen trong một thời gian dài. Nhưng con biết đấy, mẹ cảm thấy người ta chôn cụ ông quá nhanh. Mẹ muốn hỏi một ai đó, “Ngộ nhỡ Zaydeh chưa chết thì sao? Ngộ nhỡ ông chỉ đùa thôi, ngộ nhỡ lúc tỉnh dậy ông thấy mình đã bị chôn thì sao?” Nhưng một đứa trẻ con trong gia đình của mẹ không được mở miệng hỏi này hỏi nọ. Trẻ con làm những gì người lớn bảo phải làm. Trẻ con phải vâng lời. Mẹ luôn nhớ chuyện đó, và mẹ nghĩ đó là lý do tại sao giờ đây mẹ mang nỗi sợ bị giam cầm, bởi vì mẹ không biết chết nghĩa là gì. Mẹ biết gia đình mình không nói về cái chết. Mẹ không được phép nói từ đó. Người Do Thái thời xưa họ nhổ nước bọt xuống sàn khi họ nói từ “chết” bằng tiếng I-đít. Mẹ không biết liệu đó có phải là mê tín hay không, nhưng nếu ông ngoại của con nói từ “chết” thì con có thể chắc chắn rằng hai giây sau một bãi nước bọt sẽ bay ra từ miệng ông. Tại sao? Tại sao không? Ông có thể mửa ra sàn nhà ông và không ai được phép nói một lời. Mẹ không biết tại sao ông lại nhổ bọt, nhưng khi ông ngoại của mẹ qua đời mẹ cứ tự hỏi “Ngộ nhỡ Zaydeh chưa chết thì sao ? Ngộ nhỡ ông nằm giữa những người chết mà ông thì vẫn còn sống thì sao?” Chúa ơi… bất cứ chỗ nào quá kín đều khiến mẹ cảm thấy không thể thở nổi và mẹ tưởng chừng mình sắp chết. Đó là lý do tại sao mẹ kể với con tất cả để đảm bảo rằng khi nào mẹ chết thật thì mới là chết. Hãy đá mẹ, đấm mẹ và chắc chắn rằng mẹ đã chết thật bởi vì cứ nghĩ đến chuyện bị chôn sống, nằm đó bị lấp đất lên và bị vây quanh bởi những người chết trong khi mình còn sống, Chúa ơi, là mẹ sợ muốn chết. 4 Sức mạnh của người da đen[6] K hi tôi còn nhỏ, tôi thường tự hỏi mẹ mình từ đâu đến, mẹ xuất hiện trên trái đất này như thế nào. Khi tôi hỏi mẹ điều đó, mẹ nói: “Chúa tạo ra mẹ,” và lảng sang chuyện khác. Khi tôi hỏi có phải mẹ là người da trắng không, mẹ nói, “Không. Da mẹ sáng màu,” và lại lảng sang chuyện khác. Trả lời những câu hỏi về lịch sử của bản thân là điều không phù hợp với quan điểm của mẹ về việc nuôi nấng mười hai đứa con da nâu tò mò và hoang dại. Mẹ ban hành những mệnh lệnh và lệnh của mẹ là luật. Bởi mẹ từ chối tiết lộ những chi tiết về bản thân và quá khứ của mẹ, và bởi cha dượng của tôi hầu như không có mặt ở nhà để đối diện với những câu hỏi về bản thân ông hoặc về mẹ nên những gì tôi biết được về quá khứ của mẹ đều do tôi tự tìm hiểu từ các anh chị của mình. Chúng tôi đổi chác thông tin về mẹ theo cái cách người ta đổi những cái thẻ bóng rổ, đưa ra từng mẩu tí ti sau một hồi quanh co với một mớ những chuyện ngoài lề, chuyện vớ vẩn, ranh mãnh đôi khi ngu xuẩn. “Chuyện đó quan trọng gì đối với mày hả?” anh Richie chế giễu khi tôi hỏi anh rằng chúng tôi có ông bà ngoại hay không. “Mày là con nuôi, nhóc ạ.” Tôi và các anh chị trêu chọc nhau hàng giờ. Đó là cách chúng tôi đương đầu với những thực tế mà chúng tôi không thể thay đổi, chẳng thể kiểm soát được. Tôi nói với anh Richie rằng tôi không tin anh. “Mày tin hay không tao không quan tâm,” anh khụt khịt. “Mẹ này không phải là mẹ đẻ của mày đâu. Mẹ đẻ của mày đang ở trong tù.” “Anh nói dối!” “Tuần tới mày sẽ thấy mẹ đưa mày trả lại cho mẹ đẻ của mày. Mày nghĩ vì sao mẹ lại tốt với mày như thế trong suốt tuần qua hả?” Bỗng nhiên tôi chợt nhớ ra rằng, quả thực mẹ đã tốt với tôi suốt cả tuần. Nhưng chẳng phải lúc nào mẹ cũng tốt với tôi sao? Tôi không thể nhớ được, một phần vì đầu óc của một đứa trẻ tám tuổi đang bối rối của tôi có một nỗi sợ hãi đang dâng lên, nỗi sợ rằng có thể Richie nói đúng. Suy cho cùng, mẹ trông chẳng giống tôi. Thực ra mẹ trông cũng chẳng giống Richie hay David - hay bất cứ đứa con nào của mẹ. Tất cả chúng tôi rõ ràng đều đen, hoặc có nước da nâu đậm, nâu nhạt, nâu vừa, một số có làn da sáng, và tất cả chúng tôi đều có mái tóc xoăn. Mẹ tự định nghĩa mình là người “có nước da sáng màu”, một tuyên bố mà ban đầu tôi đã chấp nhận như là sự thật nhưng về sau tôi quyết định rằng đó không phải là sự thật. Mẹ của Billy Smith, thằng bạn thân của tôi, có nước da trắng giống như mẹ và có mái tóc đỏ dài đến bắp chân, nhưng trong thâm tâm tôi tin chắc rằng mẹ của Billy là người da đen còn mẹ mình thì không. Có điều gì đó trong tôi, một nỗi nhức nhối giống như một chỗ sưng tấy không lúc nào hết và tôi càng lớn thì chỗ sưng tấy đó càng phát triển. Nó ở trong máu của tôi, bạn có thể nói như vậy, và mặc dù nó rất mơ hồ, nó lại khiến tôi bận tâm lắm. Tuy nhiên mẹ không chịu thừa nhận mẹ là người da trắng. Tại sao mẹ từ chối, điều đó tôi không rõ, nhưng ngay cả các giáo viên của tôi dường như cũng biết mẹ tôi là người da trắng còn tôi thì không. Vào những lần sinh hoạt ngoại khóa ở trường, câu hỏi thường được các giáo viên trường tôi đưa ra là: “James là con nuôi chăng?” một câu hỏi ngay lập tức kích động sự phản ứng tức giận từ mẹ tôi. Tôi nói với Richie: “Nếu em là con nuôi thì anh cũng là con nuôi.” “Không,” Richie đáp. “Chỉ có mày là con nuôi thôi nhóc ạ, mày sẽ được đưa trả lại cho mẹ đẻ của mày ở trong tù.” “Thế thì em sẽ bỏ trốn trước khi điều đó xảy ra.” “Mày không thể làm điều đó đâu. Mẹ sẽ gặp rắc rối lớn nếu mày làm chuyện đó. Mày không muốn thấy mẹ gặp rắc rối chứ, đúng không nhóc? Việc mày là con nuôi đâu phải lỗi tại mẹ đúng không nào?” Với trò đùa của mình Richie đã đạt được mục đích. Nỗi hoảng sợ dâng lên trong lòng tôi. “Nhưng em không muốn đến với mẹ đẻ của em đâu. Em muốn ở đây với mẹ này…” “Mày phải đi. Tao rất tiếc.” Trò đùa cứ thế tiếp diễn cho đến khi tôi khóc nhè. Tôi nhớ tôi cứ đi đi lại lại cả ngày trong căng thẳng trong khi Richie, người biết chắc đã làm tôi khổ sở, thản nhiên ngủ tít. Đêm hôm đó tôi nằm thao thức trên giường đợi mẹ đi làm về lúc hai giờ sáng, và rồi mẹ dẹp cái trò bịp bợm kia đi khi tôi ngồi xuống bàn bếp trong bộ đồ lót cũ như giẻ rách. “Con không phải là con nuôi,” mẹ cười thành tiếng. “Vậy mẹ là mẹ đẻ của con à?” “Tất nhiên.” Và mẹ dành cho tôi một cái hôn thật âu yếm. “Vậy thì ông bà của con là ai?” “Ông Nash của con mất rồi và bà Etta của con cũng vậy.” “Họ là ai hả mẹ?” “Họ là cha mẹ của bố con.” “Ông bà quê ở đâu ạ?” “Ở miền Nam. Con còn nhớ ông bà không?” Tôi có một ký ức mờ nhạt về bà Etta của mình, một người phụ nữ da đen với khuôn mặt đẹp, người dường như hơi bối rối, thường đi loanh quanh trong bộ váy màu xanh da trời và cái cần câu cá, cùng với mồi câu và dây dợ, một sợi dây lủng lẳng quanh mắt cá chân của bà. Đối với tôi bà dường như không có thật. “Vậy mẹ có biết ông bà không, mẹ?” “Mẹ biết chứ, biết rất rõ, rất rõ.” “Ông bà có yêu quý mẹ không?” “Tại sao con hỏi nhiều thế hả?” “Con chỉ muốn biết thôi mà. Ông bà có yêu quý mẹ không? Bởi vì ông bà ngoại của con không yêu mẹ, vậy ông bà nội có yêu quý mẹ không?” “Ông bà ngoại của con yêu quý mẹ đấy chứ.” “Vậy thì ông bà ngoại đâu hả mẹ?” Mẹ im lặng một lát. “Bà ngoại của con đã mất lâu rồi, lâu lắm rồi,” mẹ nói. “Còn ông ngoại, ông là một con cáo. Đêm nay con hỏi thế thôi nhé, đừng hỏi nữa. Con có muốn ăn bánh có vị cà phê không?” Hỏi thế đủ rồi. Nếu việc giành được sự chú ý đã bị phân tán của mẹ thêm năm phút nữa là một biệt tài trong gia đình có những mười hai đứa con thì việc có được một chút quà ăn vặt lúc nửa đêm ở nhà tôi là một điều thậm chí còn kỳ diệu hơn. Tôi nhịn hỏi để ăn bánh, mặc dù không lúc nào tôi không thắc mắc, lắc lỏm, một phần vì ý thức về bản thân mỗi ngày một tăng của tôi và một phần vì nỗi lo cho sự an toàn của mẹ, bởi vì mặc dù còn là một đứa trẻ tôi đã có cảm giác rất rõ ràng rằng người da đen và người da trắng không hòa hợp với nhau, và điều đó đặt mẹ và cả chúng tôi vào tình trạng khó khăn. Năm 1966, khi tôi chín tuổi, phong trào “Sức mạnh của người đen” tràn vào mọi yếu tố ở khu dân cư St. Albans, thuộc quận Queens. Năm trước đó Malcolm X đã bị giết hại và sức mạnh của ông ta khi chết còn lớn hơn cả khi còn sống. Kiểu tóc châu Phi trở thành mốt. Đảng Báo Đen của người da đen trở thành một đảng có sức mạnh. Những tòa nhà công cộng, những bức tượng, những tượng đài, thậm chí những cái cây, buổi tối còn là những mầu nhẹ sáng hôm sau đã được sơn màu đỏ, đen, và xanh lá cây, “những sắc màu biểu tượng của sự tự do”. Ban đêm những ban nhạc chơi nhạc trên đường phố trong khi lũ trẻ mới lớn bị ảnh hưởng bởi âm nhạc tụ tập với nhau nói về cuộc cách mạng của người da đen. Các anh chị của tôi đi quanh nhà đọc thơ của nhóm “Những thi sĩ cuối cùng”, như một ban nhạc Rap đọc những bài thơ được đệm bằng tiếng nhạc và những câu thơ lôi cuốn được đọc làm nền cho âm nhạc, cùng với những bài hát có tên “Dân da đen sợ cuộc cách mạng” và “Trên tàu điện ngầm.” Sáng thứ Bảy nào tôi và lũ bạn cũng đạp xe đến góc phố Dunkirk và đại lộ Ilion để xem những tay đua xe địa phương trổ tài gần nhà máy sản xuất đồ uống Sun Dew, cố xem ai có thể lái xe phóng nhanh nhất qua chỗ lún trên đường, cái chỗ khiến cho ngay cả chiếc xe hơi đi chậm nhất cũng nảy lên như bay. Cha dượng của tôi lái chiếc Pontiac 64 của ông qua chỗ lún đó với tốc độ mười lăm dặm một giờ mà tôi ngồi trên xe còn nảy bật người lên. Những tay đua xe phóng qua đó với tốc độ chín mươi dặm một giờ và xe hơi của họ bay như chim, xoay tròn trên không trung, tiếp đất cách chỗ đó hơn năm mét, thường trong tình trạng mất kiểm soát, đôi khi đập vào tường của nhà máy Sun Dew trước khi trở thành một đống sắt bẹp rúm. Xe của họ có những cái tên như “Smokin’s Joe” và “Miko”, “Dream Machine” được sơn nguệch ngoạc ở trên mui, nhưng chiếc xe yêu thích của chúng tôi là một chiếc GTO màu đen bóng loáng, được độ công phu với mấy chữ Black Power (Sức mạnh của người da đen) được viết bằng sơn trắng mịn kéo dài từ đầu xe lên đến mui. Nó là chiếc xe chạy nhanh nhất và lái xe của nó dĩ nhiên là người can đảm nhất. Anh ta lái xe như một gã điên, và sau khi bỏ xa một chiếc Corvette trong khói bụi, anh ta điều khiển chiếc xe to đùng của mình chạy một vòng mừng chiến thắng đãi chúng tôi, lái với tốc độ chậm, thò một cánh tay cuồn cuộn cơ bắp của mình ra ngoài cửa sổ xe, trong khi chiếc xe của anh ta gầm lên còn chúng tôi thì huýt sáo, reo hò, giơ nắm tay lên và đồng thanh hô “Black Power!”. Anh ta cười thành tiếng và rú ga cho chúng tôi xem, lốp xe rít lên, gầm lên trong khi xe chạy ra xa trong sự nổ tung của kim loại lấp lánh và nhiệt, đèn xi nhan lóe sáng khi anh ta chạy biến vào trong con ngõ phố tối om trước khi cảnh sát có cơ hội ập tới bắt giữ anh ta. Chúng tôi đã nghĩ anh ta là Chúa Trời. Nhưng tôi phần nào rất sợ cái phong trào mang tên sức mạnh của người da đen vì một lý do rõ ràng. Tôi cứ nghĩ nó sẽ là sự chấm hết của mẹ tôi. Tôi đã cố nuốt nỗi sợ dân da đen của người da trắng, như hồi đó người ta vẫn nói. Chuyện bắt đầu với một ký giả người da trắng hoàn toàn tỉnh táo và nghiêm túc xuất hiện trong chiếc ti vi đen trắng giới thiệu một đoạn phim chiếu một cuộc mít tinh của đảng Báo Đen do Bobby Seale hoặc Huey Newton hoặc một lãnh đạo trẻ người da đen trong quân đội dẫn đầu, la hét cùng với hàng trăm, hàng trăm sinh viên người Mỹ gốc Phi đầy giận dữ, trong khi đám đông gào lên, “Black Power! Black Power! Black Power!” Tôi sợ hết hồn. Tôi thầm nghĩ, những người này sẽ giết chết mẹ mình mất. Ngược lại, mẹ tôi dường như không hề lo lắng. Phương châm của mẹ là: “Nếu chuyện gì không liên quan tới việc học hành và đi nhà thờ của con, thì mẹ chẳng quan tâm và câu trả lời của mẹ là không, cho dù nó là chuyện gì.” Mẹ quyết tâm duy trì cho chúng tôi sự riêng tư tuyệt đối, điểm tốt ở trường, và không tin tưởng bất cứ người ngoài nào, thuộc bất cứ chủng tộc nào. Chúng tôi được dạy không bao giờ tiết lộ về cuộc sống gia đình cho bất cứ nhân vật nào thuộc giới cầm quyền: giáo viên, nhân viên xã hội, cảnh sát, chủ tiệm bán hàng, thậm chí cả bạn bè. Nếu bất cứ ai hỏi chúng tôi về cuộc sống gia đình, chúng được dạy phải trả lời, “Tôi không biết,” và trong nhiều năm tôi đã làm như thế. Ngôi nhà của mẹ là một thế giới khép kín mà mẹ đã tạo ra. Mẹ chỉ định đứa con cả của mình ở nhà là “vua” hoặc “nữ hoàng” để quản lý gia đình khi mẹ vắng nhà và bắt đầu từ đó chúng tôi tạo ra những chú hề trong hoàng cung, các nô lệ, các nhạc sĩ, các thi sĩ, những con thú cưng. Chơi trên đường phố là điều không được khuyến khích và thường bị cấm và nếu chúng tôi vẫn cố chuồn đi chơi thì “hãy nhớ tha cái mông của con về nhà này trước khi trời tối,” mẹ cảnh báo, một cái luật mà mẹ bắt chúng tôi phải khắc ghi tận xương tủy. Tôi thường lách luật, lẻn về nhà vào lúc trời tối, khi tia nắng cuối cùng le lói phía chân trời đằng tây, đóng cửa thật khẽ, hy vọng mẹ đã đi làm vắng, để rồi chỉ vừa quay vào đã bắt gặp mẹ đứng ngay trước mặt, tay chống nạnh, giơ chiếc thắt lưng trên tay lên, ánh mắt đầy giận dữ quét qua quét lại phía ô cửa sổ, sau đó đi tới chỗ tôi, mắm môi, cố quyết định lúc đó ở bên ngoài còn sáng hay đã tối. “Vẫn còn sáng mẹ ạ,” tôi gợi ý, giọng tôi run run, các anh chị của tôi tập trung lại, đứng phía sau mẹ giương mắt chờ xem cuộc tàn sát sắp diễn ra. “Trời như thế kia mà bảo là còn sáng hả?” mẹ vừa nói một cách cáu kỉnh vừa bước về phía cửa sổ. “Khá tối rồi đấy ạ,” các anh chị của tôi thỏ thẻ phía sau mẹ. “Rõ là tối rồi đấy mẹ ạ!” anh chị tôi nói to tướng rồi cười khúc khích. Nếu đúng lúc đó ở phòng khác một đứa em của tôi bỗng dưng khóc thét lên thì tôi quả là may mắn quá và mẹ sẽ phải đến chỗ có tiếng khóc, tạm vắt chiếc thắt lưng da lên núm cửa. “Chớ có làm như thế nữa,” mẹ ngoái đầu lại cảnh báo, còn tôi thì được tự do. Nhưng cho dù mẹ quan tâm đến sức mạnh của người da đen, mẹ cũng chẳng có thời gian để nói về nó. Mẹ làm thợ đánh máy và chuyên làm ca đêm tại Ngân hàng Manhattan Chase, rời khỏi nhà lúc ba giờ chiều và trở về nhà lúc hai giờ sáng, vậy nên mẹ có rất ít thời gian để quan tâm đến những trò chơi, và thậm chí còn có ít thời gian hơn để quan tâm đến những cuộc khủng hoảng về bản sắc. Ở cha mẹ tôi có sự pha trộn lạ lùng của tính hay ngờ vực và đa nghi của người châu Âu gốc Do Thái và người Mỹ gốc Phi vào gia đình của chúng tôi. Về phần mình, cha tôi, Andrew McBride, một mục sư Baptist, không tin rằng thế giới sẽ chấp nhận gia đình pha trộn chủng tộc của ông. Ông luôn đảm bảo các con mình không vướng vào những rắc rối, luôn lo lắng về tiền bạc, tin tưởng Chúa Trời sẽ lo những việc còn lại. Sau khi ông qua đời và mẹ tái giá, cha dượng của tôi, Hunter Jordan, dường như kế thừa những gì cha đẻ tôi bỏ lại, tập trung vào việc học hành và đi lễ nhà thờ của chúng tôi. Về phần mẹ, mẹ không có khuôn mẫu nào cho việc nuôi nấng chúng tôi ngoài kinh nghiệm mẹ rút ra từ chính gia đình theo đạo Do Thái của mẹ, bất chấp những thiếu sót - bản chất cứng rắn, dữ dội về lời ăn tiếng nói, chú trọng đến tiền bạc, tính hoài nghi sâu sắc đối với người ngoài, ấy là chưa kể đến sự bạo ngược của ông ngoại tôi - đại diện cho những điều tốt nhất và xấu nhất về tinh thần của người nhập cư: chăm chỉ, không tào lao, luôn tìm kiếm sự xuất sắc, không tin vào giới quyền lực, và có niềm tin sâu sắc vào Chúa Trời và sự giáo dục. Cha mẹ tôi không phải là những người theo chủ nghĩa duy vật. Họ tin rằng có tiền mà không có hiểu biết thì chẳng có ý nghĩa gì, rằng giáo dục kết hợp hài hòa với tôn giáo là cách để thoát khỏi đói nghèo ở Mỹ, và qua nhiều năm họ đã cho thấy rằng mình đúng. Tuy nhiên xung đột là một phần trong cuộc sống của chúng tôi, và điều đó được viết trên mọi khuôn mặt, mọi bàn tay, cánh tay của chúng tôi, và để thấy sự mâu thuẫn sống và sống sót theo đúng bản chất của nó, chúng tôi không cần phải nhìn đâu xa, chỉ cần nhìn chính mẹ mình là biết. Những mâu thuẫn của mẹ tôi va chạm với nhau như những chiếc xe trò chơi đụng nhau ở đảo Coney. Mẹ cảm thấy người da trắng thực sự có ác cảm với người da đen, nhưng mẹ bắt chúng tôi học ở trường dành cho người da trắng để có được sự giáo dục tốt hơn. Người da đen đáng tin cậy hơn, nhưng bất cứ chuyện gì dính dáng đến người da đen thì dường như đều không đạt chuẩn. Mẹ tôi không thích những người nhiều tiền, nhưng lúc nào mẹ cũng cần tiền. Mẹ không thể chịu được sự phân biệt chủng tộc đối với bất cứ màu da nào và mẹ không ưa giới tư sản da đen, những người tìm cách cạnh tranh với những người da trắng theo kiểu trưởng giả học làm sang và “làm những điều ngớ ngẩn như bọc đi văng bằng nhựa và cầm tách trà với những ngón tay kiểu cách.” “Ngớ ngẩn!”, mẹ rít lên. Mẹ chẳng bận tâm đến chuyện các ông bố bà mẹ khoe khoang thành tích của con mình, nhưng mẹ khăng khăng rằng chúng tôi phải phấn đấu để vươn tới đích cao nhất trong nghề của mình. Mẹ không ủng hộ chính sách trợ cấp xã hội và không bao giờ xin trợ cấp mặc dù chúng tôi gặp khó khăn, nhưng lại bênh vực những người được hưởng lợi từ trợ cấp xã hội. Mẹ ghét nhà hàng và không bước chân vào một nhà hàng nào cho dù bữa ăn ở đó miễn phí. Mẹ thực sự thích sống giữa những người nghèo, những người thuộc tầng lớp lao động ở Red Hook, chung cư dành cho người nghèo ở Brooklyn, những người trộn xi-măng, những người nướng bánh, những người làm bánh rán, những người đã lên chức bà, và những người theo đạo ủng hộ món ăn truyền thống của người da đen đã trở thành bạn của mẹ trong suốt cuộc đời. Chính trong thời gian sống giữa những người đó cha mẹ tôi bắt đầu lập nên Nhà thờ Baptist tưởng nhớ New Brown, một nhà thờ nhỏ bây giờ vẫn còn hiện hữu ở Red Hook. Mẹ tôi yêu nhà thờ đó và cho đến bây giờ mẹ vẫn yêu Red Hook, một trong những khu chung cư nhếch nhác, nguy hiểm nhất ở thành phố New York. Vào bất cứ một ngày đã được ấn định nào đó mẹ dậy sớm, bắt xe buýt của hãng New Jersey Transit từ nhà mình ở Ewing, New Jersey đến Manhattan, sau đó đi tàu điện ngầm tới Brooklyn và lang thang quanh những khu dân cư ở đó như Đức Giáo hoàng, và là người da trắng duy nhất ở đó vẫy tay chào những người bạn, đi qua chỗ những người nghiện ma túy, mỉm cười với những bà mẹ trẻ đang đẩy xe nôi, luồn lách vào một hành lang tối om ở 80 phố Dwight trong khi những gã choai choai mặc áo nỉ có mũ trùm đầu trố mắt nhìn mẹ, người phụ nữ da trắng lạ mặt không còn trẻ, đi giày hiệu Nike, với dáng đi vòng kiềng, mặc áo len đỏ chầm chậm tập tễnh leo lên ba tầng cầu thang tối tăm, sặc mùi nước tiểu bất chấp chứng viêm khớp để thăm người bạn thân nhất của mình, bà Ingram ở căn hộ 3G. Khi còn nhỏ tôi thường thấy ngạc nhiên trước sự thoải mái của mẹ khi mẹ ở giữa những người da đen. Dường như hầu hết những người da trắng mà tôi biết đều sợ người da đen. Thậm chí khi còn bé tôi đã ý thức được điều đó. Tôi đọc thấy nỗi sợ đó trên báo, giữa những dòng tin thể thao mà tôi thích trên tờ Bưu điện New York và tờ Tin tức Long Island, trong sự từ chối gọi Cassius Clay Muhammad Ali là “Người da đen theo đạo Cơ Đốc xuất sắc,” và trong sự chỉ trích gay gắt nhằm vào những vận động viên người da đen như Bob Gibson của St. Louis Cardinals, người mà tôi coi là thần tượng. Thực ra tôi thậm chí không cần mở những trang báo đó cũng thấy được nỗi sợ hãi ấy. Tôi có thể thấy nó trên khuôn mặt của những người da trắng nhìn chằm chằm vào tôi, mẹ tôi, các anh chị của tôi khi chúng tôi ở trên tàu điện ngầm, và thỉnh thoảng họ ném những tràng cười về phía chúng tôi, chỉ tay, lẩm bẩm những lời đại loại như “nhìn bà kia và những đứa nhóc da đen của bà ta kìa.” Tôi nhớ có lần một người đàn ông da trắng xô đẩy mẹ tôi một cách giận dữ khi mẹ dẫn chúng tôi vào thang máy, nhưng mẹ không phản ứng gì, chỉ phớt lờ ông ta đi. Tôi nhớ có lần hai người phụ nữ da đen chỉ tay vào chúng tôi và nói, “Nhìn con mụ da trắng kia kìa,” và có lần một người đàn ông da trắng hét vào mặt mẹ tôi ở Manhattan, gọi mẹ là “người tình của mọi đen.” Mẹ phớt lờ tất cả bọn họ, trừ khi sự lăng nhục đe dọa các con của mẹ, và trong trường hợp đó mẹ sẽ đối mặt và đấu tranh chống lại kẻ lăng nhục như một con mèo trong ngõ hẻm, rít lên đầy giận dữ và không chút sự hãi. Mẹ có cái kiểu phớt lờ sự lăng mạ rất tự nhiên, thản nhiên, né những lời lăng mạ nhằm vào gốc gác da trắng của mẹ như một võ sĩ quyền anh dày dạn kinh nghiệm tránh những cú đấm. Khi Malcolm X, nhân vật được coi là ma quỷ của người da trắng, bị giết, tôi hỏi mẹ ông ta là ai và mẹ trả lời: “Ông ấy là một người đàn ông đi trước thời đại.” Mẹ thực sự thích Malcolm X. Mẹ đặt ông ấy gần ngang hàng với những người mẹ coi là anh hùng trong những phong trào đấu tranh vì dân quyền, như Paul Robeson, Jackie Robinson, Eleanor Roosevelt, A. Philip Randolph, Martin Luther King, Jr., và các nhân vật xuất sắc của dòng họ Kennedy. Khi Malcolm X nói về “con quỷ da trắng” mẹ cảm thấy sự ám chỉ đó không nhằm vào mẹ. Mẹ coi những thành tựu vì dân quyền của người Mỹ da đen với niềm tự hào, như thể đó là những thành tựu của cá nhân mẹ. Và bản thân mẹ thỉnh thoảng cũng nói về “người da trắng” như ngôi thứ ba, như thể mẹ chẳng có gì liên quan đến người da trắng hết, và quả thực mẹ không liên quan, bởi vì hầu hết bạn bè và những mối quan hệ xã hội của mẹ đều xoay quanh những phụ nữ da đen mà mẹ kết giao ở nhà thờ. “Những người da trắng này bị làm sao thế nhỉ?” mẹ trầm ngầm sau khi đọc thấy một số chuyện điên rồ trên tờ Nhật báo New York. “Họ đánh nhau vì tiền của người đàn ông vừa mới chết. Không một ai trong số họ nhòm ngó đến ông ta khi ông ta còn sống, ấy vậy mà bây giờ xem họ tranh giành tiền của ông ta này. Quên đi, cưng ạ” - đấy là lời mẹ nói với tờ báo - “Chồng bà chết rồi, phải không? Ông ấy chết rồi! Bà có cơ hội rồi. Tiền có làm ông ấy sống lại được không hả? Không!” Rồi mẹ quay sang chúng tôi và bắt đầu bài thuyết giảng trước sau như một của mình: “Các con không cần tiền. Tiền để mà làm gì nếu đầu các con rỗng tuếch! Hãy trau dồi kiến thức cho cái đầu! Thế giới này điên hay mẹ điên nhỉ? Có thể là mẹ điên.” Rất có thể là như vậy - chí ít, tôi cũng nghĩ vậy. Tôi biết không một phụ nữ da trắng nào khác ngày nào cũng bước lên tàu điện ngầm ở Manhattan vào lúc một giờ sáng và ngủ thiếp đi cho đến khi tới trạm dừng của mình ở quận Queens bốn mươi lăm phút sau. Thường thì tôi không thể chợp mắt cho đến khi tôi nghe thấy tiếng mẹ tra chìa khóa vào ổ khóa. Thái độ không biết lo cho sự an toàn của bản thân ở mẹ - đặc biệt khi mẹ ở giữa những người da đen, nơi mẹ trông thật khác biệt so với những người xung quanh và dường như dễ trở thành mục tiêu của bọn côn đồ - khiến tôi lo rối cả ruột. Bây giờ khi đã lớn tôi hiểu những nguyên tắc Thiên Chúa giáo của mẹ và hiểu rằng mẹ tin rằng Chúa Trời phù hộ cho mẹ vượt qua tất cả những cuộc chiến trong đời mẹ, nhưng khi còn nhỏ, đức tin của tôi không mạnh đến mức ấy. Đã có lần mẹ dẫn tôi đến Harlem để thăm chị Jacqueline, chị cùng cha khác mẹ của tôi, người mà chúng tôi gọi là Jack, là con gái của cha tôi với người vợ trước và là người giống một người cô của tôi hơn là một người chị. Mẹ tôi và chị nói chuyện đến khuya trong khi chị Jack nấu những món ăn truyền thống của người da đen gồm mỳ ống, pho mát, khoai lang thái lát, và bánh quy cho chúng tôi. “Mang món này về nhà cho bọn trẻ, dì Ruth ạ,” chị Jack nói với mẹ. Chúng tôi bỏ thức ăn vào trong những cái túi dùng để đựng đồ khi đi mua hàng và mang lên tàu điện ngầm mà không gặp khó khăn gì, nhưng khi chúng tôi xuống xe buýt ở St. Albans gần nhà, hai người đàn ông da đen từ phía sau xông tới và một người chộp ví của mẹ. Chiếc túi đựng đầy mỳ sợi, pho mát và khoai lang bung ra và thức ăn bay tứ tung trong khi mẹ cố giữ ví, quay cuồng đối phó với kẻ cướp giật, chẳng nói một lời khi mẹ và hắn đều cố giành giật vì chiếc ví và cơn giành giật điên cuồng đó cuốn mẹ từ vỉa hè vào trong ngõ phố vắng vẻ tối om như hai vũ công múa ba-lê ghì chặt nhau trong vũ điệu chết người. Tôi đứng như trời trồng trong cảm giác bị sốc, mở to mắt nhìn. Cuối cùng tên côn đồ cướp được ví của mẹ, chạy biến trong khi đồng bọn của hắn cười hô hố còn mẹ thì ngã xuống đất. Mẹ đứng dậy, lặng lẽ nắm tay tôi, và bắt đầu đi bộ về nhà mà không thốt ra một lời nào. “Con không sao chứ?” Vài phút sau mẹ hỏi tôi. Tôi gật đầu. Tôi sợ đến nỗi không mở miệng nói được. Tất cả thức ăn mà chị Jack đã nấu cho chúng tôi vương vãi, tung tóe trên mặt đường phía sau chúng tôi. “Tại sao mẹ không kêu lên hả mẹ?” Tôi hỏi khi cuối cùng lưỡi tôi cũng cử động được. “Chỉ là một chiếc ví thôi mà,” mẹ nói. “Đừng bận tâm về chuyện đó nữa. Hãy về nhà thôi.” Chuyện không may đó càng củng cố thêm nỗi sợ hãi trong tôi, nỗi sợ rằng mẹ luôn luôn bị hiểm nguy rình rập. Mùa hè nào chúng tôi cũng cùng những đứa trẻ nghèo trong thành phố tham gia chương trình của tổ chức Fresh Air Fund và được gửi đến nghỉ hè trong các gia đình hoặc đến trại hè miễn phí. Ai trong số anh chị em của tôi may mắn hơn thì được ở trong những gia đình tự nguyện nhận trẻ đến ở, nhưng tôi phải đi đến trại hè nơi họ nhét mười đứa trẻ vào một căn lều trong suốt hai tuần. Đôi khi những chỗ đó giống như nhà tù hoặc trại cải tạo lao động hơn là trại hè. Trẻ ở trại hè đánh nhau suốt. Thức ăn thì thật khủng khiếp. Tôi đánh nhau liên tục. Những đứa trẻ gọi tôi là Cochise bởi vì tôi có nước da sáng màu và mái tóc xoăn. Dẫu vậy tôi thích cái tên đó. Lần đầu tiên tôi đi trại hè, mẹ dẫn tôi đến điểm tập trung, trung tâm sinh hoạt cộng đồng ở Far Rockaway, một nơi đã từng là khu của người da trắng thuộc tầng lớp trung lưu và những người Do Thái như nhà soạn kịch Neil Simon, nhưng từ lâu rồi nó đã trở thành một khu dân cư của người da đen và dường như mẹ tôi là người da trắng duy nhất mà mọi người thấy trong suốt nhiều dặm ở khu đó. Những người tổ chức trại hè đặt một cái bàn ở bên trong và họ bảo chúng tôi cởi giày, cởi sơ mi ra, kiểm tra ngón chân của chúng tôi để xem có đứa nào bị nấm da chân, bị sởi, thủy đậu hay không, sau đó họ đưa chúng tôi ra ngoài dồn chúng tôi lên một chiếc xe buýt màu vàng cho một chuyến hành trình dài đến vùng nông thôn của bang New York. Khi tôi ngồi trên xe buýt, nhìn mẹ mình không dứt, nhìn khuôn mặt da trắng duy nhất trong cả một biển người da đen, qua cửa sổ xe tôi thấy một người đàn ông da đen cùng đứa con trai của ông ta bước tới. Ông ta để ria mép, mặc quần da màu đen và áo khoác da, đeo cả tấn đồ trang sức và đội chiếc mũ nồi màu đen. Ông ta trông thật bảnh bao, nổi bật trong đám đông. Thằng con của ông ta rất đẹp trai, mặc diện, và rất lịch sự. Ông ta đặt hành lý của con trai vào phía sau xe buýt và khi thằng bé chuẩn bị lên xe, thay vì ôm nó, người cha đó chìa bàn tay ra, và thế là cặp cha con đó trao nhau một cái bắt tay rất đẹp mắt mang đậm tinh thần gắn bó của sức mạnh da đen, một kiểu bắt tay được gọi là “dap”, kiểu bắt tay kéo dài năm phút, với các ngón tay siết chặt, ngón cái giơ lên, quặp xuống, ngón trỏ gập lại, cổ tay kêu lách cách, những chiếc vòng tay kêu leng keng. Dường như kiểu bắt tay đó hợp thời đến mức gây kinh ngạc. Tất cả mọi người trên xe buýt đều trố mắt nhìn. Cuối cùng thằng bé đó lảo đảo, thở hổn hển bước lên xe đến ngồi cạnh tôi, gõ ngón tay vào cửa sổ và vẫy chào cha nó, người mà giờ đây đang đứng cạnh mẹ tôi, vẫy tay chào con mình. “Cậu học kiểu bắt tay đó ở đâu vậy?” một đứa trẻ hỏi thằng bé. “Bố tớ dạy tớ đấy,” thằng bé nói đầy vẻ hãnh diện. “Bố tớ là Báo Đen đấy.” Xe buýt nổ máy trong khi tôi hoảng sợ. Một người của đảng Báo Đen ư? Hắn đang đứng cạnh mẹ mình ư? Vậy là cơn ác mộng khủng khiếp nhất của tôi đã thành sự thật rồi, mặc dù thú thực tôi không biết những người của đảng Báo Đen là ai. Tôi đã bị nhiễm cái hình ảnh về họ trên hệ thống truyền thông. Xe buýt bắt đầu chuyển bánh trong khi tôi đứng dậy mở cửa sổ sát chỗ tôi ngồi. Tôi muốn cảnh báo mẹ. Ngộ nhỡ những người của đảng Báo Đen muốn giết mẹ thì sao? Cửa sổ bị kẹt. Tôi cố chạy đến một cửa sổ khác. Người phụ trách túm lấy tôi, ấn tôi ngồi xuống. Tôi nói: “Cháu phải nói với mẹ cháu điều này.” “Vậy thì hãy viết thư,” ông ta nói. Tôi lao tới ghế của thằng con trai gã Báo Đen ở phía sau mình - cửa sổ ở chỗ nó đang mở. Người phụ trách lại ấn tôi trở lại chỗ ngồi. “Mẹ ơi, mẹ”! Tôi gào lên trước ô cửa sổ đóng kín. Mẹ tôi đang vẫy tay. Chiếc xe buýt chạy xa dần. Tôi gào lên, “Coi chừng hắn đấy!” nhưng tôi và mẹ cách nhau quá xa mà cửa sổ lại đóng kín. Mẹ không thể nghe được những gì tôi nói. Tôi nhìn thấy Báo Đen đang vẫy tay chào con trai hắn. Mẹ tôi vẫy tay tạm biệt tôi. Dường như chẳng ai để ý đến ai. Khi các bậc phụ huynh đã ở ngoài tầm nhìn, tôi quay sang con trai của Báo Đen đang ngồi phía sau mình và giơ nắm đấm đấm thẳng vào mặt nó. Thằng bé vội đưa tay ôm cằm, nhìn tôi bằng ánh mắt sửng sốt khi mặt nó méo xệch trong sự bàng hoàng cùng những giọt nước mắt. 5 Kinh Cựu Ước Ô ng ngoại của con là một nhà truyền đạo lưu động. Ông giống như bất cứ nhà truyền đạo nào, chỉ có điều ông còn là một giáo sĩ, người giảng luật Do Thái. Ông không khác chút nào so với những kẻ du thủ du thực mà con thấy trên ti vi bây giờ, ngoại trừ một điều rằng ông thuyết giảng trong những giáo đường Do Thái và ông nói không dễ nghe cho lắm. Tính ông khó ưa lắm và phải mất một thời gian những giáo đoàn của người Do Thái mới hiểu bản chất của ông và tống cổ ông đi chỗ khác, vậy nên khi còn nhỏ mẹ phải sống cảnh nay đây mai đó suốt. Vào thời đó bất cứ người Do Thái chính thống nào tự nhận mình là một giáo sĩ đều có thể thuyết giáo và điều khiển ca đoàn. Hồi ấy đi đây đó thuyết giảng và hát hò là tất cả những gì mà một số người Do Thái có thể làm. Ngày đó không có những công việc như con biết bây giờ đâu. Sống. Đó là việc của con. Cố gắng tồn tại, đọc Kinh Cựu Ước và hy vọng nó sẽ mang đến cho con cái gì đó để ăn, đó là việc con làm. Những người Do Thái chính thống sống theo những hợp đồng. Hoặc ít nhất gia đình của mẹ sống như vậy. Hợp đồng hôn nhân. Hợp đồng truyền giáo. Hợp đồng cho bất cứ việc gì. Tiền là một phần cuộc sống của họ bởi vì họ chẳng có gì khác cả, cũng như họ chẳng bao giờ có ngôi nhà thực sự của mình. Ít nhất với gia đình mẹ là như vậy. Thường thì Tateh ký hợp đồng với một giáo đường và sau một năm giáo đường đó không ký tiếp nữa, vậy nên gia đình của mẹ lại gói ghém đồ đạc và chuyển đến nơi khác. Gia đình mẹ sống ở nhiều nơi đến nỗi mẹ không thể nhớ nổi tất cả những nơi đó. Glens Falls, New York, Belleville, New Jersey, Port Jervis, Springfield, Massachusetts; một nơi có tên là Dover. Mẹ nhớ Belleville bởi vì ở đó có người luôn cho bọn mẹ những bộ quần áo cũ. Các giáo đoàn trả công cho gia đình của mẹ bằng thức ăn, một chỗ để ở và những bộ quần áo cũ. Mẹ nhớ Springfield, Massachusetts, bởi vì em gái Gladys của mẹ chào đời ở đó. Mẹ và anh trai gọi em gái là Dee-Dee. Dì của con kém mẹ bốn tuổi. Dee-Dee chào đời năm 1924. Mẹ không rõ bây giờ dì còn sống hay không. Nếu dì còn sống, thì dĩ sẽ là đứa con cuối cùng của bà ngoại con còn sống, không kể mẹ. Đi bằng xe buýt gia đình mẹ tha lôi tất cả những gì mình có từ thành phố này tới thành phố khác - quần áo, sách vở, mũ, và những tấm mền chăn to sụ mà bà ngoại của con mang từ châu Âu sang. Những tấm mền chăn ấy đầy lông ngỗng. Con có thể gọi chúng là “Piezyna” theo tiếng Do Thái. Chăn đó ấm lắm. Sống ở đâu mẹ và dì của con cũng đắp những tấm mền đó ngủ. Đi đến đâu gia đình mẹ cũng khiến người ta chú ý không chỉ vì nghèo, vì là người Do Thái mà còn vì bà ngoại của con là người khuyết tật. Mẹ thực sự ý thức được điều đó. Mẹ ý thức rất rõ mình là người Do Thái và có người mẹ khuyết tật. Mẹ xấu hổ về mẹ của mình, nhưng con thấy đấy, tình yêu không tự nhiên đến với mẹ cho đến khi mẹ trở thành người theo đạo Cơ Đốc. Trong một thời gian gia đình của mẹ sống ở bên trên một cửa hàng của người Do Thái ở Glens Falls, một vùng nông thôn của New York, và những người quản lý cửa hàng đó cho anh em mẹ bánh nướng và táo. Bọn mẹ cũng đi trượt tuyết và làm những điều mà các gia đình khác thường làm, còn ông bà ngoại của con có vẻ khá hòa thuận với nhau. Thời gian đó cuộc sống quả thực không tệ, nhưng như thường lệ hợp đồng của ông ngoại không được ký tiếp và thế là cả gia đình lại phải chuyển đi nơi khác. May mà ông được mời làm việc tại một giáo đường ở Suffolk, Virginia. Ông nói với Memeh, “Chúng ta sẽ chuyển đến miền Nam.” Mameh không muốn đi. Bà nói: “Có lẽ ở đây chúng ta sẽ xoay xở được,” bởi vì mẹ và các chị gái của bà đều sống ở thành phố New York, nhưng nói chuyện với ông ngoại con chẳng khác nào nói với một bức tường. Ông nói, “Chúng ta sẽ chuyển đi nơi khác,” và cả nhà mẹ chuyển đến Suffolk, Virginia vào năm 1929. Hồi đó mẹ mới tám hoặc chín tuổi thôi. Mẹ vẫn còn nhớ mùi của miền Nam. Mùi đó giống như mùi cây khô. Nhớ những chiếc lá. Và lạc. Chỗ nào cũng có lạc. Những chủ vựa lạc có trụ sở ở Suffolk. Ông Obici điều hành trụ sở đó. Ông là một người có máu mặt ở thành phố. Một ông lớn trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh đỗ lạc. Ông có nhiều tiền để cho mọi người. Ông xây dựng một bệnh viện. Ở Suffolk con có thể có được cả cân lạc mà không phải trả tiền. Ở đó các nông dân trồng lạc, chuyên chở lạc, làm dầu lạc, bơ lạc thậm chí cả xà bông từ lạc. Họ đặt tên cho cuốn niên giám của trường cấp ba ở đó là Lạc. Họ thậm chí đã từng tổ chức một cuộc thi để chọn ra người có thể tạo được logo đẹp nhất cho công ty sản xuất và chế biến lạc. Một phụ nữ đã giành chiến thắng trong cuộc thi đó. Họ trao tặng cố ấy hai mươi lăm đô la, mà hồi đó hai mươi lăm đô la là cả tấn tiền. Hồi đó Suffolk là một thành phố nhỏ chẳng mấy quan trọng, có một khu trung tâm, hai nhà hát - một cho người da đen, một cho người da trắng - vài cửa hàng, mấy trang trại ở ven đô, và một đường tàu hỏa phân chia khu da trắng và khu da đen. Trong nhiều năm, sự kiện lớn nhất diễn ra ở Suffolk là chương trình biểu diễn của một gánh xiếc rong đến thành phố bằng đường tàu hỏa, với một chú cá voi nhồi bông ở toa hành lý. Người dân Suffolk thích gánh xiếc đó. Họ thích bất cứ điều gì khác lạ, hoặc mới mẻ đến từ bên ngoài, ngoại trừ người Do Thái. Ở trường, mẹ bị chúng bạn gọi là “kẻ giết Đức Chúa”, “con Do Thái”. Những cái tên đó gắn liền với mẹ trong một thời gian dài. “Con Do Thái.” Con biết đấy, làm tổn thương một đứa trẻ có khó gì đâu. Ông ngoại của con làm việc tại giáo đường ở địa phương, nhưng ông để mắt đến một ngôi nhà cũ được xây theo kiểu nhà kho ở bên kia đường tàu trong khu da màu với mục đích mở một cửa hàng tạp phẩm ở đó. Điều ấy khiến một số người trong giáo đoàn không hài lòng. Họ không muốn giáo sĩ tinh thần của mình dính dáng đến việc buôn bán -và buôn bán với người da đen lại càng không! - nhưng Tateh nói: “Chúng ta sẽ không chuyển đi nơi khác nữa. Cứ nay đây mai đó mãi tao mệt mỏi lắm rồi.” Ông biết cuối cùng rồi thì giáo đoàn họ cũng tống tiễn ông đi - Hãy đối mặt với thực tế rằng ông là một giáo sĩ tồi. Ông có một người bạn trong thị xã tên là Israel Lavy, người đã ký quỹ cho phép ông con được sử dụng cái nhà cũ đó. Tateh ném một cái bàn quầy và mấy cái kệ vào đó, cùng một cái máy tính tiền cũ, treo tấm biển ở bên ngoài có mấy chữ “Cửa hàng tạp phẩm Shilsky” và thế là gia đình của mẹ bắt đầu buôn bán. Dân da đen ở đó gọi nó là “Cửa hàng của lão Shilsky”. Vì sao họ lại gọi ông ngoại con như vậy. Họ thường cười ông và cười cái cửa hàng xoàng xĩnh ở phía sau ông, nhưng qua nhiều năm chính họ đã làm cho “Lão Shilsky” giàu lên và khi ông giàu rồi thì không ai cười ông hết. Cửa hàng của gia đình mẹ nằm trong một cái nhà cũ khá to được dựng bằng gỗ với kiểu dáng kỳ cục và ọp ẹp trông như thể nó được ghép bằng tăm xỉa răng và hồ dán vậy. Nó nằm ở rìa thành phố, gần nhà tù và nhìn ra cầu tàu. Tầng một là cửa hàng, với một góc được dùng để làm kho chứa hàng, một phòng chứa đá để trữ đông, một gian bếp với cái bếp dầu hỏa, và cái sân sau. Bọn mẹ ngủ ở trên gác. Nhà không có phòng khách, không có phòng ăn ở trên gác, chỉ có những căn phòng trống trơn. Mẹ và Dee Dee ngủ ở một phòng dưới những tấm mền chăn. Mameh thường ngủ chung phòng với hai chị em mẹ, còn anh trai của mẹ - bác Sam của con - và Tateh ngủ ở phòng khác. Mameh và Tateh không có mối quan hệ gần gũi và ấm áp mà nhiều cặp vợ chồng thường có. Mameh là một người vợ, người mẹ rất tốt. Mặc dù bà không được khỏe - một mắt của bà gần như mất thị lực, bà bị đau dạ dày rất nặng và chứng bệnh đó mỗi năm một nặng thêm - với chỉ một tay còn sử dụng được bà làm việc nhiều hơn mẹ có thể làm bằng cả hai tay. Bà làm bánh thánh, làm Kneydlach, món cá Kugl, món gan và nhiều món ăn mà mẹ không nhớ hết được. Bà mạng tất. Mẹ học cách mổ cá, thái rau kê thớt từ bà. Bà giữ các truyền thống tôn giáo của một người nội trợ Do Thái và trung thành với chồng của mình, nhưng Tateh tuyệt đối không có tình yêu dành cho bà. Ông gọi bà bằng bất cứ cái tên nào, đem khuyết tật của bà ra chế giễu. Ông nói: “Nhìn bà tôi phát ớn,”; “Tại sao bà lại cứ cố làm cho mình trông xinh đẹp hơn nhỉ?” Cuộc hôn nhân giữa ông và bà là một hợp đồng làm ăn đối với ông. Ông chỉ muốn có tiền. Chỉ muốn có tiền và muốn trở thành người Mỹ. Đó là hai thứ ông muốn, và ông đã có được cả hai, nhưng ông đã phải trả giá bằng chính gia đình của mình, cái gia đình mà ông phát ớn và phá hoại nó. Mameh, Tateh và anh em mẹ thực ra không có cuộc sống gia đình. Cái cửa hàng đó là cuộc sống của bọn mẹ. Cả nhà làm việc ở đó từ sáng sớm đến tối khuya, trừ những lúc ở trường, và ông ngoại dạy anh em mẹ tính giờ để làm việc. Cứ đúng ba giờ chiều là ông đứng chống nạnh bên ngoài cửa hàng nhìn xuống đường để tìm mẹ và bác Sam, và sau đó là Dee-Dee, khi bọn mẹ đi bộ qua sáu khu nhà. Từ trường về anh em mẹ phải làm việc ngay lập tức. Bài tập về nhà được bọn mẹ tranh thủ giải quyết trong những lúc cửa hàng vắng khách. Cửa hàng nhà mẹ là cửa hàng duy nhất trong thành phố mở cửa vào ngày Chủ nhật, bởi vì gia đình mẹ tổ chức lễ Sabbath từ thứ Sáu đến tối thứ Bảy, vậy nên vào Chủ nhật bọn mẹ tha hồ bán hàng bởi vì các khách hàng quen và người da trắng thường kéo đến mua hàng vào ngày đó. Cửa hàng nhà mẹ bán đủ thứ: thuốc lá điếu và thuốc lá sợi - các loại thuốc Camels, Lucky Strike, Chesterfield với giá một xu một điếu, hoặc thuốc lá Wing, một xu hai điều; bọn mẹ bán than, gỗ xẻ, củi đốt, đầu hỏa, kẹo Coca-cola, thuốc giảm đau dạng bột, sữa, kem, trái cây, bơ, đồ hộp, thịt. Đá lạnh là mặt hàng được nhiều người mua. Đá được đặt trong thùng đựng đá lớn ở phía sau cửa hàng và được bán theo khúc hoặc miếng với giá năm mươi xen một miếng. Thùng đựng đá đó to đến mức đủ để một người có thể bước đi trong đó, và mẹ chưa bao giờ làm điều ấy. Bất cứ cái gì cũng có thể khiến nắp thùng đóng sập phía sau mẹ, hoặc làm mẹ mắc kẹt, và mẹ không thích thế. Mẹ mắc chứng sợ những nơi bị bít kín. Mẹ không thể chịu đựng nổi cảm giác bị kẹt ở một chỗ nào đó. Mẹ thích di chuyển. Ngay cả khi còn bé tí xíu mẹ đã thích như thế rồi. Thú tiêu khiển ư? Mẹ chẳng có thú tiêu khiển nào hết. Chạy. Đó là thú tiêu khiển của mẹ. Thỉnh thoảng vào những lúc ông ngoại vắng nhà, mẹ giật cửa và chạy ra ngoài. Mẹ chỉ chạy thôi, chạy đến bất cứ đâu. Mẹ thường chạy xuống những con đường nơi người da đen sinh sống, chạy qua đường tàu đến khu dân cư của người da trắng. Mẹ thích chạy hết tốc lực, chỉ để cảm nhận gió thổi mơn man trên mặt mình và để nhìn ngắm mọi thứ và để không phải ở nhà. Mẹ luôn là kiểu người chạy. Tất nhiên mẹ muốn chạy để thoát khỏi một số chuyện. Khi mẹ còn nhỏ, Tateh - bố đẻ của mẹ - đã làm những chuyện tồi tệ với mẹ mà mẹ chẳng thể giãi bày cùng ai. Ví dụ, ban đêm ông leo lên giường mẹ và làm những chuyện mà mẹ không thể kể với bất kỳ ai. Khi cả gia đình đi chơi biển ở Portsmouth, ông xuống nước với mẹ, giả vờ để dạy mẹ bơi, và ghì người mẹ vào người ông ở những chỗ nhạy cảm… Khi ông đưa mẹ lên bờ, bà ngoại hỏi: “Con học bơi có tiến bộ không?” Và mẹ trả lời: “Có, Mameh,” còn ông đứng đó nhìn mẹ trừng trừng. Chúa ơi, mẹ sợ cha đẻ của mình. Bất cứ khi nào có cơ hội, ông đều cố sán đến gần mẹ, trèo lên giường với mẹ, quấy rối mẹ. Mẹ sợ cha mình và không hề yêu thương ông chút nào. Mẹ khiếp sợ ông và mỗi khi ông rời khỏi nhà mẹ lại cảm thấy nhẹ cả người. Những gì ông làm với mẹ ngày ấy ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời mẹ. Khi còn nhỏ mẹ rất tự ti, và nhiều năm sau mẹ vẫn như vậy, thậm chí cho đến bây giờ mẹ không muốn ở gần bất cứ ai có thái độ hống hách hoặc ẳ có ý thúc ép mẹ bởi vì điều đó khiến mẹ rất căng thẳng. Mẹ chỉ kể riêng với con thôi bởi vì con là con trai của mẹ và mẹ muốn con biết sự thật, chỉ vậy thôi. Hồi nhỏ mẹ tự ti lắm. Mẹ cảm thấy mình rất hèn kém. Người ta sẽ nói ra nói vào, đúng không? Họ sẽ nói: “Hừm, con bé đó cảm thấy hèn kém vậy thì lớn lên nó sẽ lấy một thằng mọi đen thôi.” Mẹ không quan tâm. Cha của con đã làm cho cuộc đời mẹ thay đổi. Ông dạy mẹ biết về Đức Chúa Trời, đấng tối cao nâng bổng tâm hồn mẹ và tha thứ cho mẹ, làm mẹ hồi sinh. Mẹ may mắn đã gặp được cha của con nếu không mẹ đã trở thành một ả điếm hoặc đã chết rồi. Ai mà biết được điều gì sẽ xảy ra với mẹ. Mẹ tái sinh trong đạo Cơ Đốc. Đó là sau những gì mẹ đã trải qua. Tất nhiên, làm người Do Thái không có nghĩa là hai mươi tư tiếng trong ngày con đều sống trong đau khổ. Anh em mẹ cũng có những lúc vui vẻ, hạnh phúc, nhất là với mẹ của mình. Ví dụ như trong Lễ Quá Hải[7], dịp lễ mà con phải phải lau dọn nhà cửa thật sạch sẽ. Lau sạch đến mức không thể tìm thấy một chấm bột bánh mì ở bất cứ đâu. Bọn mẹ thích chuẩn bị cho Lễ Quá Hải. Người Do Thái phải dùng những món ăn dành riêng cho dịp lễ đó và gia đình mẹ có một bữa tiệc lớn, khi cả gia đình cùng ngồi vào bàn ăn thưởng thức món bánh thánh không men, mùi tây, trứng luộc và những món ăn truyền thống khác của người Do Thái. Bọn mẹ để một chiếc ghế trống để đón nhà tiên tri Elijah - người Do Thái nghĩ rằng Messiah chưa đến. Sách Haggadah được đọc lên và Tateh hỏi bọn mẹ những câu hỏi chẳng hạn như, tại sao người Do Thái lại mừng Lễ Quá Hải. Con có thể tin rằng bọn mẹ biết câu trả lời hơn là bị cha mình đập vào mặt, nhưng nói thật với con, mẹ thường nhìn cái ghế trống mà bọn mẹ xếp cho Elijah tại bàn ăn và ước gì mẹ có thể đi đến bất cứ nơi nào có Elijah đang hiện diện, ăn ở bất cứ nhà ai khác nơi không có ông ngoại con bò lên giường mẹ vào ban đêm, làm gián đoạn những giấc mơ của mẹ để mẹ không biết rằng đó là cha mình, chỉ là một cơn ác mộng lặp đi lặp lại nhiều lần mà thôi. 6 Kinh Tân Ước M ẹ tôi yêu Đức Chúa Trời. Chủ nhật nào mẹ cũng đi lễ nhà thờ, là người da trắng duy nhất mà chúng tôi nhìn thấy ở đó, hát thánh ca sai nhạc be bét bằng cái giọng nghe chẳng khác nào âm thanh pha trộn giữa một động cơ nguội đang cố khởi động trong một buổi sáng tháng Mười và một cái máy giặt hiệu Maytag đang rên rỉ. Mấy anh chị em tôi thường phải bưng mồm để khỏi phì cười khi mẹ say sưa hát thánh ca với sự nhiệt tình và sảng khoái: “dựa vào… âu ơ, dựa… an toàn trong.” Đến đoạn cao trào giọng mẹ ngân cao hơn, cao hơn nữa, làm chúng tôi nhớ đến nhân vật Curly trong vở hài kịch “Ba Chàng Ngốc”. Nghe kinh khủng đến nỗi tôi thường nghĩ mục sư Owens của chúng tôi sẽ đứng phắt dậy khỏi ghế và yêu cầu kết thúc bài hát đó. Ông thường ngồi phía sau bục giảng kinh trong trạng thái nhập định, mắt nhắm nghiền, mặc một chiếc áo choàng dài màu xanh dương với hai ống tay áo được cuộn lên, quàng chiếc khăn màu trắng như thể ông sắp sửa bay lên thiên đường cho đến khi những nốt nhạc được mẹ ngân nghe chối tai khiến ông sực tỉnh. Một con mắt của ông hé mở trong sự choáng váng, như thể ai đó vừa mới dội nước lạnh vào lưng ông. Rồi ông bình tĩnh đưa mắt nhìn quanh một vòng, nhìn toàn bộ giáo đoàn gồm hơn bốn mươi giáo dân để xem tiếng hát the thé kia xuất phát từ đâu. Khi ánh mắt của ông dừng lại ở chỗ mẹ tôi, ông gật đầu và như thể muốn nói: “Ồ, Xơ Jordan đấy mà”; rồi ông lại chìm vào trạng thái nhập định. Ngoài đời mẹ tôi là bà McBride hoặc bà Jordan, tùy thuộc vào việc mẹ sử dụng họ của cha ruột hoặc cha dượng của tôi, nhưng trong nhà thờ của mục sư Owens, mẹ luôn là “Xơ Jordan”. “Hôm nay Xơ Jordan mang theo vài đứa con,” mục sư Owens tỏ vẻ ngạc nhiên khi mẹ tôi loạng choạng bước vào nhà thờ với sáu đứa chúng tôi bám nhằng nhẵng theo sau. “Vài đứa.” Chúng tôi nghĩ ông thật vui tính. Ông là thầy giáo dạy giáo lý của chúng tôi vào những ngày Chủ nhật và cũng là người thợ cạo, cắt tóc cho chúng tôi mỗi tháng một lần khi chúng tôi đủ lớn để từ chối những nỗ lực của mẹ mình khi mẹ muốn tự tay cắt tóc cho chúng tôi - quả thật mẹ úp một cái bát to lên đầu tôi và cắt tóc ở xung quanh cái bát đó. Mục sư Owens là một người đàn ông gầy gò, thường mặc bộ vest may bằng vải polyester và để tóc hất ngược kiểu cổ điển với những lọn tóc như những lớp sóng. Ông thậm chí không đọc thạo - tôi có thể đọc tốt hơn ông khi tôi mười hai tuổi. Ông đứng trên bục giảng Kinh cầm chiếc khăn mùi xoa trong tay, đánh vật với những đoạn Kinh Thánh như phát rồ. Ông bắt đầu bằng câu: “Đoạn dành cho hôm nay là… ư… hừm, à…’’. Trong khi tay ông lật qua những trang Kinh Thánh để rồi cuối cùng tìm thấy đoạn cần tìm, đặt ngón tay lên chỗ cần đọc, và bạn có thể nghe thấy tiếng đồng hồ kêu tích, tắc, tích, tắc, tích, tắc khi ông đánh vật với những con chữ, mấp máy môi mà chẳng phát ra một tiếng nào để cả giáo đoàn chờ đợi trong sự sốt ruột và Helen, chị gái của tôi, người chơi piano trong nhà thờ, che miệng cười khúc khích còn mẹ tôi thì lườm chị, dứ dứ nắm đấm về phía chị ngầm hứa một cuộc báo thù kiểu như “Sau buổi lễ mày sẽ chết với mẹ.” Những bài thuyết giảng của mục sư Owens bắt đầu giống như một chiếc tàu hỏa đồ chơi nhỏ xíu và kết thúc như một đầu máy xe lửa gầm rú. Ông bắt đầu bằng giọng nói chậm, dãi dề, sau đó sự nhiệt tình tăng lên và ông dằn từng tiếng xoay quanh chủ đề mình đang nói như một người mắc chứng nói lắp phát cuồng: “Chúng ta… (im lặng)… biết… ngày hôm nay… à… ừm… tôi đã nói… chúng ta… biết… rằng (im lặng) à… Chúa Jesus (giáo đoàn đồng thanh: Amen!)… a, xuống… (Vâng! Amen!) tôi đã nói XU - UỐNG VÀ - DẪN DẮT - MỌI NGƯỜI Ở JERU -SALEM - AMEN!” Sau đó ông đổi sang kiểu lặp đi lặp lại từ “Amen” với nhịp gấp gáp và lời cứ phóng ra từ miệng ông như vãi đạn. Những tiếng “Amen” bắn ra khắp phòng như những viên đạn. “Thật tốt Amen để biết Chúa Amen và ta sẽ nói cho các con Amen biết rằng nếu chỉ mình các con AMEN đến với Chúa thôi thì sẽ không AMEN có sự đáp lại AMEN AMEN AMEN AMEN! Ta có thể nói AMEN thêm một lần nữa không nhỉ? (Amen!) Chúng tôi ngồi ở dãy ghế số 5, Xơ Jorrdan mặc chiếc váy màu xanh dương và đội chiếc mũ dành riêng để đi lễ nhà thờ, cười thầm và cười nụ, thỉnh thoảng lại vẫy tay lên trên không giống như những người khác. Mẹ yêu nhà thờ. Mẹ thích nhà thờ Baptist Whosoever của ông, mặc dù ông không phải là mục sư yêu thích của mẹ bởi vì ông bỏ vợ hoặc bị vợ bỏ - ẳ chúng tôi chẳng biết nữa. Mẹ là người biết rõ về các vị mục sư; mẹ biết rõ họ như một người sành rượu vang Pháp phân biệt được rượu Beaujolais đỏ với rượu Vouvray trắng. Dù có tài truyền giáo, mục sư Owens không phải là mục sư thuộc tốp năm. Danh sách tốp năm mục sư hàng đầu gồm có cha đẻ của tôi, mục sư W. Abner Brown của nhà thờ Baptist Metropolitan ở Harlem, người bạn của gia đình chúng tôi - mục sư Edward Belton, cùng vài người nữa, và tất cả họ đều là người da đen, trừ mục sư Belton, và hầu hết họ đã qua đời. Mẹ tôi coi họ là những người kỳ cựu, những người đàn ông có phẩm giá và sự cống hiến, những người lớn lên ở miền Nam và nhớ rõ cuộc sống thời xưa như thế nào. Họ biết cách “truyền lửa” tại một nhà thờ theo cách kinh điển, mà không cần phải nói đến chính trị, không gièm pha và không đề cập đến những chuyện tiêu cực, chỉ thực sự nói về Đức Chúa Trời và sự quan tâm dành cho giáo dân. Mẹ tôi thường lẩm bẩm đầy vẻ trầm ngâm: “Cha của con hả, ông ấy sẵn sàng cho bất cứ ai đồng cuối cùng ông ấy có.” Mẹ không thích những nhà thờ lớn, hoành tráng với những người giảng đạo có xu hướng chính trị, cũng không thích những nhà thờ ở Pentecostal bởi chúng quá lộn xộn. Và mặc dù mẹ không thích mục sư Owens cũng như phong cách kỳ cục của ông lắm - đã có lần ông giảng cả một bài về từ “the” - T-H-E - mẹ kính trọng ông bởi vì nhà thờ của ông và những buổi giảng đạo của ông rất gần với nhà thờ New Brown Memorial, nơi mà mẹ gọi là “nhà”. Tuy nhiên không giống như nhà thờ New Brown, nhà thờ Whosoever không phải là một nhà thờ có cửa hàng ở mặt trước. Nó là một tòa kiến trúc nhỏ được xây bằng gạch đứng chơ vơ một mình cách đường cái khoảng năm mét, với một tấm biển gắn trên cửa được thiết kế bởi một tay họa sĩ kẻ chữ trên tấm biển mà không hình dung được nhà thờ đó nhỏ đến mức nào. Tấm biển đó có dòng chữ “WHOSOEVER BAPTIST CHURCH.” Ơn Chúa. Tôi chưa bao giờ thấy mẹ ở trong nhà thờ Whosoever mà “trở nên hạnh phúc” hay nói cách khác là “nhận được tinh thần của Chúa” và mất kiểm soát. Khi người ta trở nên hạnh phúc như thế, điều đó quá sức chịu đựng đối với tôi. Họ hầu hết là phụ nữ, những bà mẹ vĩ đại mà tôi quen biết và yêu mến, nhưng khi Chúa Trời luôn vào trong xương của họ và nâng bổng họ tới sự tự do ngọt ngào, những phụ nữ dịu dàng, tốt bụng vò tóc tôi rối tung lên, hôn má tôi, dúi cho tôi những đồng tiền xu, đứng phắt dậy khỏi ghế ngồi như những cầu thủ hậu vệ của đội Pittsburgh Steeler. “Oh yesss!” Họ rú lên, dang tay ra, nhảy múa dọc lối đi ở giữa nhà thờ, trượt một cách đầy bạo lực làm túi xách tay bay một nơi, mũ bay một nẻo, trong khi người trợ tế già trông thật nghiêm trang mà cũng thật tội nghiệp cố níu lấy họ một cách kiên quyết để ngăn không cho họ tự làm đau chính mình, để rồi bị rũ ra như một con ruồi. Đôi khi hai hoặc ba người ôm một người đang trong trạng thái phấn khích để ngăn không cho bà ta làm đau chính mình, người co giật gào lên “Jesus, Jesus! Yes!” trong khi chúng tôi trố mắt nhìn đầy kính sợ còn mục sư Owens lắc lư người với chuỗi “AMEN” của ông và tôi không thể hiểu tại sao Đức Chúa Trời lại làm cho những người đó tràn đầy năng lượng như thế, cho đến khi tôi trưởng thành và hiểu được bản chất cũng như sức mạnh của phước lành nơi Chúa. Nhưng thậm chí khi còn nhỏ tôi đã biết Chúa là đấng toàn năng bởi vì sự tôn kính tuyệt đối của mẹ tôi dành cho Ngài, và cũng bởi vì ở nhà thờ thỉnh thoảng mẹ lại làm một điều gì đó mà tôi chưa bao giờ thấy mẹ làm ở nhà hay ở bất cứ đâu: Vào một lúc nào đó trong buổi lễ, thường thì vào lúc giáo đoàn hát một bài hát yêu thích của mẹ, như bài “Chúng con tiến được xa thế này là nhờ niềm tin” hoặc bài “Nơi Chúa Jesus chúng con có một người bạn tuyệt vời” mẹ cúi đầu và khóc. Đó là khoảnh khắc duy nhất tôi thấy mẹ khóc. “Tại sao mẹ lại khóc ở nhà thờ?” tôi đã hỏi mẹ điều đó vào một buổi chiều sau buổi lễ. “Bởi vì Chúa khiến mẹ hạnh phúc.” “Vậy tại sao mẹ lại khóc?” “Mẹ khóc bởi vì mẹ hạnh phúc. Khóc thì đã sao nào?” “Không sao,” tôi nói, nhưng tôi thấy những người hạnh phúc không khóc như mẹ tôi. Những giọt nước mắt của mẹ dường như đến từ một nơi khác, một nơi rất xa, một nơi sâu thẳm ở bên trong con người mẹ, nơi mà mẹ chưa bao giờ để chúng tôi, những đứa con của mẹ, ghé thăm, và thậm chí khi còn bé tôi đã cảm thấy có một niềm đau ở phía sau những giọt nước mắt của mẹ. Tôi đã nghĩ mẹ khóc là bởi mẹ muốn trở thành người da đen giống như những người khác trong nhà thờ, bởi vì có lẽ Chúa thích người da đen hơn, và một buổi trưa trên đường từ nhà thờ về nhà tôi hỏi mẹ Chúa là người da đen hay da trắng. Mẹ tôi trút ra một tiếng thở dài. “Ôi, con… Chúa không phải là người da đen. Chúa không phải là người da trắng. Chúa là một linh hồn.” “Chúa yêu người da đen hơn hay người da trắng hơn hả mẹ?” “Ngài yêu tất cả mọi người. Chúa là linh hồn.” “Linh hồn là gì hả mẹ?” “Linh hồn là linh hồn.” “Linh hồn của Chúa da đen hay da trắng hả mẹ?” “Linh hồn không có màu con ạ,” mẹ nói. “Chúa là màu của nước. Nước không có màu.” Tôi có thể tin điều đó, và khi đã lớn tôi vẫn tin, nhưng anh Richie của tôi thì không. Khi Richie mười bốn tuổi anh ấy đã trở thành một kẻ chuyên hành hạ tôi, hành hạ đủ kiểu từ việc cười khúc khích đến việc trở thành một học sinh trung học bảnh trai, hấp dẫn và là một người chơi kèn saxophone teno nổi tiếng. Anh được nhận vào trường Trung học Nghệ thuật và Âm nhạc ở Manhattan và đã đến lúc nhạc Jazz là đoạn đầu, đoạn cuối và đoạn giữa của cuộc đời anh. Anh bắt đầu thích mặc áo khoác da, đội mũ pork-pie giống như huyền thoại teno Lester Young, gia nhập một ban nhạc R&B ở khu phố bên cạnh, và mẹ tôi càng ngày càng khó ép anh đến trường. Những gã choai ở quanh đó gọi anh là “Hat” và nể anh lắm. Các cô nàng mới lớn thích anh. Anh phát triển tài năng sáng tạo và có những ý tưởng để thực hiện một cách độc lập mà không cần sự ủng hộ hoặc biết đến của mẹ. Cách nhà chúng tôi một vài tòa nhà là một bệ đá cao một mét rưỡi với bảng tưởng niệm sự kiện lịch sử nào đó, và một buổi sáng trên đường tới cửa hàng mẹ tôi nhận thấy rằng đá đã được sơn các màu đỏ, đen và xanh lá cây, màu biểu thị cho phong trào tự do của người da đen. “Mẹ không biết ai đã làm việc đó,” mẹ bình luận. Tôi biết, nhưng tôi không nói. Chính Richie đã làm việc đó. Tất cả các anh chị của tôi, và bản thân tôi vào một giai đoạn nào đó đều có sự bối rối, khó hiểu về màu da, nhưng Richie xử lý sự bối rối của anh theo cách độc đáo. Khi còn nhỏ anh tin rằng anh không phải là người da đen cũng chẳng phải là người da trắng mà là người da xanh giống như nhân vật trong cuốn truyện hài Người khổng lồ xanh. Anh sáng tạo ra những trò chơi xung quanh câu chuyện đó và hấp thu một cách toàn diện nhân vật đó vào cuộc sống hàng ngày của mình: “Ta là bác sĩ Bruce Banner đây,” anh nói khi anh nhìn thấy tôi ăn miếng bánh kẹp thịt cuối cùng. “Ta cần miếng bánh của nhóc. Hãy đưa nó cho ta ngay bây giờ nếu không ta sẽ nổi giận. Ta phải có được nó! Đừng làm ta nổi giận. Hãy đưa cho ta miếng bánh đó ngay lập tức!!! ĐƯA NÓ CHO TA - Ồ không! Đợi đã… AHHHHHHHHHHH!” và anh trở thành Hulk - người khổng lồ xanh, và nếu tôi không nuốt vội miếng bánh thì gã Hulk sẽ cướp mất. Một buổi sáng tại lớp học giáo lý, Richie đã giơ tay hỏi mục sư Owens: “Chúa Jesus da trắng phải không ạ?” Mục sư trả lời rằng “Không”. “Vậy thì tại sao trong bức tranh này người ta lại biến Ngài thành người da trắng?” Richie hỏi, và giơ cuốn Kinh Thánh có bức tranh Jesus lên. Mục sư Owens nói: “Chúa Jesus thuộc về tất cả các màu da.” “Vậy thì tại sao Ngài lại có nước da trắng ạ? Trong ảnh này Ngài trông giống như một người da trắng.” Richie giơ bức tranh lên cao để tất cả mọi người trong lớp học đều nhìn thấy. “Mọi người, chẳng phải Ngài trông trắng lắm sao?” Không ai trong lớp nói gì. Mục sư Owens bí quá. Ông đứng đó, lau mồ hôi trên mặt bằng chiếc khăn cầm sẵn trên tay, nói lắp ba lắp bắp như khi ông giảng đạo. “À… à… à… à…” Tôi phát ngượng. Những đứa trẻ khác trong lớp trố mắt nhìn Richie như thể anh ấy bị điên. “Richie, quên chuyện đó đi,” tôi lầm bầm. “Không. Nếu họ đưa Chúa Jesus vào bức tranh này và Ngài không phải người da trắng, cũng chẳng phải người da đen, thì họ phải vẽ Ngài có nước da màu xám chứ. Chúa Jesus ắt hẳn là người da xám.” Sau buổi học đó Richie thôi không đi học giáo lý nữa, mặc dù anh ấy không ngừng tin vào Chúa. Mẹ tôi cố bắt Richie đi học trở lại nhưng anh ấy dứt khoát không đi. Mẹ tôi rất tự hào về mối quan hệ của chúng tôi với Chúa. Lễ Phục Sinh nào chúng tôi cũng phải biểu diễn tại nhà thờ New Brown, chơi nhạc hoặc đọc một mẩu truyện từ Kinh Thánh cho toàn thể giáo đoàn nghe. Mẹ mong ngóng ngày đó, trong khi anh chị em tôi sợ nó như sợ dịch hạch, luôn đợi cho tới tận buổi sáng của ngày lễ đó mới lẩm bẩm học thuộc lòng mẩu truyện mà chúng tôi sẽ kể trước giáo đoàn. Tôi chưa bao giờ gặp khó khăn với những buổi đọc thuộc lòng như thế, nhưng Billy, anh lớn hơn tôi một tuổi, người có trí nhớ mà sau này phục vụ anh đủ tốt để đưa anh vào trường Y của Đại học Yale, thì đi đi lại lại như diễu hành trước cả giáo đoàn trong bộ complê ca-vat, và bắt đầu đọc, “Lần đầu tiên khi Chúa Jesus đến…” rồi câm tịt. Anh ấy đứng ở đó, người giật giật đầy căng thẳng trong sự tắc tịt còn mấy đứa chúng tôi thì nhăn mặt, nín thở để cố không cười phá lên. “Ô, không sao đâu…” ông McNair, cha đỡ đầu của tôi và là người trợ tế, ngồi bên cạnh mục sư trên bục giảng Kinh lẩm bẩm, trong khi mẹ tôi vặn vẹo người trên ghế nhìn Billy, mặt mẹ đỏ bừng. “Lại lần nữa nào,” cha nói. “Được thôi,” Billy đáp, và nuốt khan. “Lần đầu tiên khi Chúa Jesus đến… Không, khoan đã… Um. Jerussalem là… Đợi chút…” Anh ấy đứng như trời trồng nhìn trần nhà không chớp mắt, cắn môi, cố gắng một cách tuyệt vọng để nhớ lại mẩu truyện trong Kinh Thánh mà chỉ mới nửa giờ đồng hồ trước đó anh đã học thuộc lòng, trong khi giáo đoàn lẩm bẩm, “Không sao, không sao… cố gắng nào…” còn mẹ tôi thì nhìn anh trừng trừng, đầy tức giận. Vài giây ngượng ngùng trôi qua. Cuối cùng cha nuôi của tôi nói: “Con không nhất thiết phải kể cho chúng ta nghe một câu chuyện trong Kinh Thánh đâu Billy ạ. Hãy đọc một đoạn Kinh Thánh thôi cũng được.” “Đoạn nào ạ?” Billy hỏi. “Bất cứ đoạn nào con muốn,” người trợ tế nói. “Được ạ.” Billy lại hướng về phía giáo đoàn. Mọi khuôn mặt đều im lặng, nhìn anh ấy. “Chúa Jesus khóc,” anh nói. Và anh ngồi xuống ghế của mình. Sự im lặng chết người bao trùm khắp nhà thờ. “Amen,” người trợ tế nói. Sau buổi lễ, chúng tôi đi theo mẹ trong khi mẹ hiên ngang bước ra khỏi nhà thờ, và cha nuôi của tôi gặp mẹ ở cửa. “Không sao đâu Ruth ạ,” ông nói và cười khùng khục. “‘Không, có sao chứ,” mẹ nói. Về nhà mẹ cho Billy ăn đòn. C 7 Sam ửa hàng của nhà mẹ nằm ở một ngã ba ở rìa thành phố trên một ngọn đồi dài và dốc. Nếu con đứng ở trước cửa hàng nhìn về phía bên phải con sẽ nhìn thấy thành phố - đường tàu hỏa, những cửa hàng bách hóa như cửa hàng Leggets và Woolworth. Nếu con nhìn thẳng về phía trước, thì con sẽ nhìn thấy trụ sở của tòa án, nhà tù, tòa thị chính, và con đường dẫn đến Norfolk. Ở bên trái là lò mổ Jaffe và cầu cảng nơi sông Nansemond gặp cầu Main Street. Cầu cảng rộng và cũ kỹ. Tàu thuyền từ khắp thế giới dừng ở đó để chờ hoàn thiện hoặc sửa chữa, và các thủy thủ thường tới cửa hàng nhà mẹ, mời mẹ và Dee-Dee ra thăm tàu của họ. “Không, không, cảm ơn cậu,” bà ngoại của con luôn trả lời họ như vậy. Bà không thể hiểu dù chỉ một từ họ nói, nhưng hễ họ vừa mở miệng nói, “Đến với chúng tôi nhé,” là y như rằng bà rời khỏi ghế, tập tễnh lê chân ra cửa, đứng trước mặt các chàng thủy thủ và lắc đầu. “Không, không, các cậu đi đi. Hãy bảo họ đi khỏi đây đi,” mẹ nói bằng tiếng Do Thái. Khi họ xuất hiện mẹ không rời mắt khỏi họ. Gia đình mẹ sống ở ngay ngã ba nơi con đường từ Norfolk và từ Portsmouth chạy tới Suffolk. Cái ngã ba đó luôn tấp nập. Mẹ không có ý nói rằng giao thông hồi đó tấp nập như con thấy bây giờ. Vào thời đó người ta chỉ thấy có hai hoặc ba chiếc xe hơi chạy trên đường thôi. Hoặc người ta đi bộ. Các nông dân dắt những con la chở lạc trên xe kéo. Những người lính trên xe tải di chuyển vào các căn cứ quân sự ở Norfolk. Hoặc những tù nhân bị xích đi thành đoàn dài. Hồi ấy người ta di chuyển bằng bất cứ cách nào có thể. Một buổi trưa mẹ đang ngồi sau quầy hàng thì một chiếc xe hơi chở những người đàn ông quàng những tấm khăn màu trắng chạy qua. Họ đội mũ trắng che kín mặt chỉ để hở ra hai con mắt để nhìn. Họ lái những chiếc xe rẻ tiền màu đen cũ kỹ, loại xe Model A, với hai người ngồi ở đằng trước và hai người ngồi ở đằng sau. Một đoàn xe, hết chiếc này đến chiếc khác nối đuôi nhau chạy qua chẳng khác gì một cuộc diễu hành. Bọn mẹ từ sau quầy bước ra, đứng ở bên ngoài cửa hàng nhìn họ. “Chuyện quái quỷ gì thế nhỉ?” Dee-Dee hỏi. “Chị không biết,” mẹ trả lời. Đó là đoàn xe của đảng Ku Klux Klan. Lúc đó mẹ không biết là người của đảng Ku Klux Klan từ Cracker Jacks tới, nhưng ngay khi nhìn thấy họ, những khách hàng người da đen lui tới cửa hàng của nhà mẹ với vẻ lén lút. Khi những người thuộc đảng Klan xuất hiện dân đa đen ở đó lập tức giấu mình và trở nên lặng lẽ. Đoàn xe Klan chạy lên Phố chính giữa ban ngày ban mặt mà không một ai làm gì cả. Với mẹ dường như thần chết luôn quanh quẩn ở Suffolk. Mẹ luôn nghe thấy chuyện một người nào đó được phát hiện bị treo cổ hoặc chết trôi ngoài bến tàu. Mẹ và gia đình cũng lo lắng không yên bởi miền Nam luôn có nhiều rượu và đồ uống, và ở đó Chúa không được nhiều người biết đến. Tateh giấu một khẩu súng lục được nạp đạn sẵn ở dưới bàn quầy bên cạnh ngăn để tiền. Ông lau chùi khẩu súng đó nhiều hơn giặt cái quần ông mặc, và khẩu súng đó sẵn sàng xử lý bất cứ ai cố đùa giỡn với tiền bạc của ông. Ông không tin tưởng bất cứ ai. Ông nghĩ người da đen luôn cố trộm tài sản của ông. Ông sai bà ngoại ngồi canh cửa và nói với bà bằng tiếng Do Thái: “Hãy trông chừng bọn da đen.” Người da đen thó trộm mấy món hàng giá rẻ đáng giá một trăm xu của ông và ông luôn lo bị họ ăn trộm. Mẹ thì luôn lo rằng khẩu súng của ông sẽ phát nổ và vô tình giết chết ông trong khi ông đang lau chùi nó. Mặc dù mẹ sợ ông, mẹ không muốn bất cứ điều gì xảy ra với ông. Nhà mẹ có một người hàng xóm, bà Brown, một phụ nữ da trắng có ngón giữa ở một bàn tay bị dị dạng vì nhiễm trùng - ngày đó, người ta bị nhiễm trùng và bị mất ngón tay, bị rụng răng là chuyện thường. Thực ra, ông bà ngoại của con đều có răng giả. Bà ngoại cắm răng giả trước, sau đó đến ông. Một hôm ông mở miệng lớn tiếng sai mẹ: “Xếp những bánh xà phòng đó lên,” và mẹ nhìn vào miệng ông, thấy nguyên một bộ răng trắng mới tinh. Mẹ nghĩ thầm: “Mình biết bố trông thật buồn cười.” Mẹ kể về bà Brown nhé, bà ấy là một trong số ít những người da trắng ở Suffolk đối xử tốt với mẹ. Bà có một cô con gái tên là Marilyn và một cậu con trai tên là Simon. Simon là kẻ nghiện rượu, thường thì cứ đêm khuya mới lảo đảo tìm đường về nhà. Anh ta bị giết bởi một kẻ say rượu, trèo qua cổng nhà anh ta và dùng dao đâm vào cổ anh ta. Marilyn làm việc ở trung tâm thành phố và ông chủ của cô ấy tự bắn chết mình khi đang lau chùi khẩu súng lục của ông ta và Marilyn phải bước qua xác của ông ta để thoát ra ngoài. Sự việc đó khiến cô ấy bị sốc nặng, và nó cũng khiến mẹ bị sốc bởi vì ông ngoại của con thường lau súng, và nếu nó phát nổ, giết chết ông thì mẹ chắc chắn sẽ không bước qua xác ông để thoát ra ngoài đâu. Mẹ sẽ nhảy qua cửa sổ và ông sẽ phải nằm đó cho tới khi ai đó phát hiện ra ông. Mẹ chưa bao giờ thích người chết và chưa bao giờ thích súng ống. Đó là lý do tại sao mẹ không bao giờ để các con chơi với những khẩu súng đồ chơi. Nhưng ngày đó người ta sử dụng súng để săn bắn và để tồn tại. Đó là những năm ba mươi, thời kỳ của cuộc đại suy thoái, và người dân thì nghèo đói, họ sử dụng súng và cần câu cá để kiếm ăn mà tồn tại. Ngày đó nếu ai đó bị ốm, thì Chúa sẽ giúp người đó bởi vì chỉ có cách chết thôi. Bệnh lao, bệnh viêm phổi tràn lan, và bà ngoại của con luôn lo sợ các con của mình sẽ bị nhiễm bệnh, bởi vì ở châu Âu một người anh của bà đã bị chết vì dịch cúm. Nhưng sau khi gia đình mẹ có cái cửa hàng đó, đã kiếm ra tiền và có tiền để đi bác sĩ. Các khách hàng của mẹ, những người da đen đến cửa hàng nhà mẹ và mua bột BC để dùng thay thuốc, đó là bác sĩ của họ. Họ mua bột đó và dùng như dùng aspirin vậy. Đó là một thương hiệu. Bột BC. Thứ bột đó có giá hai mươi lăm xu một gói nhỏ màu trắng xanh. Người dân nói rằng thứ bột đó khiến họ cảm thấy dễ chịu và sảng khoái hơn. Tất nhiên hồi đó bột BC có côcain, nhưng người ta không biết điều đó. Họ dùng bột BC cho bất cứ chứng bệnh nào. Thực ra, nếu ai đó mua quá nhiều thứ bột đó cho vợ con, thì người bán hàng không khỏi băn khoăn, bởi vì nếu dùng nhiều bột BC người ta có thể bị ốm, và có thể tử vong. Vào thời đó người ta ốm và chết dễ như bỡn ấy. Đùng một cái chết ngỏm. Mẹ ước gì những đứa trẻ da đen bây giờ có thể thấy người da đen hồi ấy ở Suffolk sống như thế nào. Lạy Chúa, con sẽ không tin nổi đâu. Những căn nhà ổ chuột không có nước sinh hoạt, sàn không được lát, không có phòng tắm, không có nhà xí. Không có những con đường được lát đá, trải nhựa, không có điện. Thỉnh thoảng mẹ và bà ngoại của con đi bộ trên những con đường đất đầy bụi ở phía sau cửa hàng và ở đó có nhiều con đường như thế dẫn vào rừng. Cuộc sống hồi đó là như vậy đấy. Là một ngõ cụt. Ngày ấy người ta không phàn nàn về cuộc sống. Mà phàn nàn với ai kia chứ? Với cảnh sát ư? Cảnh sát hồi đó không đi tuần tra như bây giờ. Họ sợ đi tuần tra hoặc là họ không muốn đi. Nhưng điều luôn khiến mẹ ngạc nhiên về người da đen là Chủ nhật nào họ cũng ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ đến mức mẹ không thể nhận ra họ để đi lễ nhà thờ. Mẹ thích điều đó. Vào sáng Chủ nhật họ dường như có một mục đích sống. Gia đình họ đi cùng nhau, và dù họ nghèo, họ vẫn có vẻ hạnh phúc. Ông ngoại của con ghét người da đen. Ông gọi những đứa trẻ da đen bằng những cái tên Do Thái đầy miệt thị và đem cha mẹ chúng ra giễu cợt. “Nhìn bọn chúng cười kìa,” ông nói bằng tiếng Do Thái. “Bọn đó không có một xu dính túi vậy mà còn cười được kia.” Nhưng ông ngoại của con có thừa tiền, ấy thế mà gia đình của ông, anh em mẹ, tất cả đều bất hạnh, sầu khổ. Sam, anh trai của mẹ, không thể chịu đựng nổi cuộc sống trong gia đình đã bỏ nhà đi ngay khi bác ấy đủ lớn để làm điều đó. Sam giống như một cái bóng. Bác ấy có dáng người thấp đậm, chắc nịch, với cái đầu to tóc rậm rì, cặp lông mày rậm, bắp tay, bắp chân to bè. Vì Sam hơn mẹ hai tuổi nên bác ấy có uy quyền đối với mẹ và dì Dee-Dee, tuy nhiên bác ấy không cậy mình là anh mà đối xử tệ với bọn mẹ. Bác ấy trầm tính và dễ bảo. Bà ngoại của con cưng Sam lắm, nhưng ông ngoại lại trút nỗi sợ Chúa vào bác con. Mỗi tối sau bữa ăn ông ngoại của con bắt mẹ và bác Sam ngồi học Kinh Cựu Ước. Dì Dee-Dee quá bé chưa thể học được, nhưng mẹ và bác Sam thì không. Ông đọc cho bọn mẹ nghe những đoạn Kinh và bắt bọn mẹ nhắc lại theo ông. Cuốn Ecclesiates là cuốn sách yêu thích của ông ngoại. “Ta nói ở trong tim, Chúa sẽ quyết định ai là người tốt ai là kẻ xấu; bởi vì có thời điểm cho mọi mục đích, mọi việc làm.” Sách Ecclesiates nói vậy đấy. Mẹ biết những đoạn này nhưng mẹ học chúng không phải vì… tình yêu dành cho Chúa mà vì… vì điều gì nhỉ? Mẹ không biết nữa. Vì bổn phận. Ông ngoại của con là một giáo sĩ, con nhớ chứ? Vậy mà các con của ông lại không biết Kinh Cựu Ước ư? Anh em mẹ ghét những buổi học như thế. Ông ngoại của con không có sự kiên nhẫn đâu, và ông thường bắt bọn mẹ dừng lại giữa chừng để mắng nhiếc hoặc để bạt tai bọn mẹ nếu như bọn mẹ không chăm chú vào Kinh Thánh. Đôi khi sự mắng nhiếc của ông còn khiến anh em mẹ cảm thấy tồi tệ hơn cả bị đánh đập. “Mày là đồ ngu. Mày chẳng hơn gì một thằng đần. Một kẻ tội lỗi. Mày không thể được cứu chuộc trước Chúa,” ông mắng. Sam là mục tiêu chính của ông. Ông bắt bác Sam của con ngồi ở góc nhà nhiều giờ liền và đọc sách tiếng Do Thái. Ông chưa bao giờ thể hiện một chút tình yêu nào đối với con trai của mình. Con biết đấy, bất cứ giáo sĩ nào đến thành phố người ta đều phải đưa ông ta đi giễu và cho ông ta ăn. Ông ngoại của con thường nói: “Chúng mày cứ đi giễu quanh phố như thế đi,” và bọn mẹ phải theo một vị giáo sĩ già lố bịch đi quanh thành phố và làm những gì ông sai phái. Anh em mẹ ghét việc đó lắm. Tất nhiên nếu không nghe lời thì bọn mẹ sẽ bị ông dùng dây lưng vụt cho no đòn. Khi bọn mẹ còn nhỏ mẹ thích chơi cờ đô-mi-nô với Sam, nhưng khi bác ấy lớn hơn, bác ấy không có thời gian để chơi nữa. Ông ngoại của con bắt Sam làm việc nhiều hơn mẹ và dì Dee-Dee. Vẫn còn là một cậu bé nhưng Sam đã phải làm việc như một người đàn ông. Nhà mẹ mở cửa hàng lúc bảy giờ sáng và Sam phải cưa củi, chặt đá, bày thịt ra, chất hàng lên giá, cho bò ở sân sau ăn, làm tất cả những việc đó trước khi đi học. Sam ghét cái cửa hàng đó. Tan trường về là bác ấy phải làm việc ngay. Khi Sam muốn thoát khỏi các việc ở cửa hàng, sau khi tan học bác ấy “lặn” cho đến nhá nhem tối mới về nhà, và hậu quả là bị ông ngoại con mắng chửi, bắt phạt phải làm việc nhiều hơn. Bị đối xử như vậy nên ở trường Sam thường bị điểm kém và luôn tự ti. Bác ấy có rất ít bạn bởi vì bác ấy nhút nhát và cho dù có kết bạn, bọn mẹ cũng không được kết bạn với người ngoại đạo. Đó là điều cấm kỵ. Mười ba tuổi Sam chịu lễ bar mitzvahed (Lễ trưởng thành). Người ta đưa ảnh của Sam và ông ngoại con lên báo và bà ngoại của con rất hãnh diện. Mẹ nhớ đó là lần duy nhất mẹ thấy Sam mỉm cười bởi vì bác ấy đã làm bà ngoại của con vui. Hai năm sau Sam bỏ nhà đi. Đó là vào năm 1934. Bác ấy bỏ nhà đi và không bao giờ quay về nữa. Lúc ấy Sam mới chỉ khoảng mười lăm tuổi thôi. Bác ấy đến Chicago và viết cho bà ngoại con một bức thư. Thư được viết bằng tiếng Anh, thứ tiếng mà bà không biết đọc, không biết nói, và thế là mẹ đọc thư cho bà nghe. Thư viết thế này: “Con khỏe. Con đã tìm được việc làm trong một cửa hàng.” Sam làm việc cho cửa hàng Montgomery hoặc J.C. Penney, một trong hai cửa hàng đó. Bác ấy không quen biết một ai ở Chicago và sống ở đó bác phải tự lo tất cả. Bà ngoại của con nghe mẹ đọc thư của bác Sam thì lo cuống cả lên. Bà bảo mẹ: “Hãy viết thư cho anh con đi. Hãy viết thư và bảo nó quay trở về nhà đi.” Vậy là mẹ viết thư cho bác ấy. Mẹ viết thư và bảo Sam hãy quay về nhà, nhưng bác ấy không bao giờ quay về và mẹ không bao giờ gặp lại bác ấy nữa. Bác ấy nhập ngũ và bị giết trong Chiến tranh thế giới thứ hai, anh trai của mẹ đấy. Mẹ không biết chuyện gì đã xảy ra với bác ấy cho đến tận khi cha con mất vào năm 1957. Khi đó mẹ đã có bảy đứa con và đang mang thai con. Mẹ gọi cho một người bác của mẹ để nhờ giúp đỡ, và bà ấy nói: “Đừng có dính dáng gì đến cuộc sống của bọn ta. Mày là người ngoài rồi. Tránh xa bọn ta ra.” Và bà ấy cúp máy, vậy là mẹ chẳng thể làm gì cho Sam ngoài việc cầu nguyện cho bác ấy. 8 Anh chị em N hà của mẹ tôi được bố trí dành cho sự lộn xộn và là đứa con thứ tám trong đàn con gồm mười hai đứa của mẹ, tôi chới với như người bơi giữa đại dương. Tôi không phải là đứa kháu khỉnh nhất, cũng chẳng phải là con út, càng không phải là đứa thông minh nhất. Trong một gia đình nơi có rất ít tiền và thức ăn, sức mạnh của bạn nằm ở chỗ bạn có thể sai phái, ra lệnh cho ai. Tôi được mẹ gọi là “Đứa Nhỏ”, một trong năm đứa con nhỏ của mẹ, năm cái chấm nhỏ li ti trên bản đồ quyền lực của gia đình, vậy nên tôi là mục tiêu thích hợp để bị trói, bị tra tấn, bị cù, bị hành hạ, bị bỏ mặc, bị sai bảo và phải chịu đựng đủ mọi sự sỉ nhục của “Những Đứa Lớn” không phải đi ngủ sớm, không tin vào ông tiên răng, và được mẹ tôi, người tất nhiên nắm quyền lực tối cao, bổ nhiệm làm cánh tay phải của quyền lực. Các anh chị em ruột là những người bạn thân nhất của tôi, nhưng khi riêng về thức ăn, thì họ là kẻ thù của tôi. Nhà quá đông con và chúng tôi lúc nào cũng đói, lúc nào cũng lục tìm cái ăn trong cái tủ lạnh và tủ bếp trống rỗng. Chúng tôi giấu thức ăn không cho nhau biết, để dành từng mẩu pho mát quý giá trên vỉ lò nướng, từng mẩu bánh, nhưng tất cả đều biết những chỗ giấu thức ăn, tất cả đều biết cách lục lọi và chút thức ăn khan hiếm được giấu giếm thường bị phát hiện và bị ăn ngấu nghiến trước khi nó kịp nguội. Toàn bộ những âm mưu của chúng tôi đều được nung nấu xoay quanh chuyện giành lấy thức ăn, được hoàn thiện bởi trò hai mang, trò phản bội, trò vận động ngầm, trò ăn cướp trắng trợn, và bằng chứng là cảnh nhai ngấu nghiến. Trước khi chuyển nhà tới quận Queens, sáng sáng mẹ tôi thường biến mất phía sau dãy tòa nhà Red Hook rồi trở về với những hộp bơ lạc to tướng mà một tổ chức từ thiện nào đó phát cho mẹ từ một tầng hầm của khu nhà ở dành cho dân thu nhập thấp. Chúng tôi vây quanh những hộp đó, mở chúng ra, thi nhau lấy thìa xúc bơ lạc như múc xúp, cười rúc rích trong khi miệng đứa nào đứa nấy ngậm đầy bơ dính nhoe nhoét. Khi mẹ rời nhà đi làm, chúng tôi nhúng bánh mỳ trắng vào sirô để ăn trưa, hoặc ăn đường đen trực tiếp từ trong hộp, thứ giết chết cơn đói một cách hiệu quả. Chúng tôi có một cái lò nướng có thể khiến bạn bị điện giật mỗi lần bạn động vào nó: Chúng tôi gọi món bánh nướng của nhà mình là món bánh sốc và chúng tôi bị sốc nhiều đến mức tóc của chúng tôi dựng đứng như tóc Buckwheat. Mẹ tôi thường than thở rằng mẹ không có đủ tiền để mua trái cây cho đàn con của mình, có khi nhiều tuần mẹ mới có tiền mua trái cây, nhưng chúng tôi không bận tâm. Chúng tôi dùng từng xu mà mình có để mua thức ăn rác[8], cốt sao ăn cho no bụng. “Nếu các con ăn thứ đó răng của các con sẽ rụng hết,” mẹ cảnh báo. Chúng tôi lờ đi không nghe. “Nếu các con nhai kẹo cao su và nuốt kẹo vào bụng thì hậu môn của các con sẽ bị vít lại,” mẹ nói. Chúng tôi nghe và không bao giờ nuốt kẹo cao su. Chúng tôi học cách ăn đứng, ăn ngồi, ăn nằm, và ăn trong lúc lơ mơ ngủ, bởi vì chẳng bao giờ có đủ chỗ ở bàn ăn cho tất cả mọi người cùng ngồi, và luôn có một cuộc tranh cướp điên cuồng hòng giành chiếc túi xách của mẹ khi mẹ đi làm về vào lúc hai giờ sáng. Căng-tin ở ngân hàng Chase Manhattan nơi mẹ làm việc phục vụ bữa tối miễn phí cho nhân viên, vậy nên mẹ nhét đầy túi đồ ăn, nào là bánh kẹp thịt, pho mát, bánh ngọt và bất cứ đồ ăn gì mẹ có thể lấy được và mang về nhà cho đàn con của mình nhai ngấu nghiến. Nếu bạn là người đầu tiên chộp được túi xách khi mẹ bạn về nhà, thì bạn sẽ được chén thức ăn. Nếu bạn không chộp được, thì ôi chao, chúc ngủ ngon. Thức ăn mà mẹ tôi mang từ chỗ làm về bao giờ cũng ngon, đặc biệt ngon so với thức ăn mẹ nấu. Mẹ nấu ăn dở lắm. Món cháo yến mạch mẹ nấu có vị giống như cát trộn với bơ, cứ lổn nhổn trêu tức răng lợi người ăn. Bánh ngọt mẹ làm có màu trắng nhờ nhờ và có cả vỏ trứng nữa. Món thịt hầm thì thường khiến anh Henry của tôi chạy lên gác trong sự kinh tởm. “Chẳng khác gì món thịt hầm ở trong tù,” anh khụt khịt, quay trở lại sau vài phút để kiếm cho mình chút đồ ăn trước khi cả đám ăn ngấu nghiến hết sạch mọi thứ. Dù sao mẹ cũng chẳng có nhiều thời gian để nấu nướng. Đi làm về đến nhà mẹ đã mệt lử rồi. Buổi sáng chúng tôi xuống nhà thường thấy mẹ vẫn mặc nguyên quần áo đi làm ngủ say như chết ngay tại bàn bếp, đầu gục trên trang vở bài tập về nhà của một trong mấy đứa chúng tôi, một tách cà phê nguội lạnh để bên cạnh cái đầu đang ngủ của mẹ. Những việc khác của mẹ kình địch, tranh chấp thì giờ với việc nấu ăn. “Mẹ là bà nội trợ kém nhất mà mẹ từng biết,” mẹ tuyên bố, và đó là sự thực. Nhà chúng tôi lúc nào trông cũng như thể vừa mới bị một cơn bão lớn quét qua. Sách vở, giấy bút, giày dép, mũ chơi bóng đá, gậy chơi bóng chày, búp bê, xe tải, xe đạp đồ chơi, nhạc cụ, nằm ngổn ngang khắp nơi và được tất cả mọi người sử dụng. Tất cả con trai ngủ trong một phòng, lũ con gái ngủ riêng trong một phòng khác, nhưng cái nhãn “phòng con trai” và “phòng con gái” chẳng có nghĩa gì hết. Đêm đêm chúng tôi mò sang phòng của nhau để trao đổi những bí mật, sự bất đồng, sự thương xót, và để rình mò, cũng như tiếp tục những ván cờ, những trò chơi mà ban ngày chúng tôi chơi dở. Bốn đứa chúng tôi chơi chung một chiếc kèn crarinet, chuyền tay nhau trong hành lang của trường học như các tiền vệ trên sân bóng. Với áo khoác, mũ, giày, tất, và đồng phục thể thao cũng vậy. Tất cả chúng tôi dùng chung một chiếc khăn tắm. Một chiếc bàn chải đánh răng chải cho năm bộ răng lợi. Tất cả chúng tôi đứa nào cũng thề cái bàn chải đó là của riêng mình. Đồ nội thất của chúng tôi gồm hai chiếc ghế xích đu khá đẹp mà mẹ tôi mua từ cửa hàng của Macy bởi vì mẹ thấy trên ti vi John F. Kennedy, vị tổng thống mà bà coi như người anh hùng, dùng một cái ghế như thế để các con của ông ngồi vào và đung đưa. Chúng tôi còn có một chiếc tràng kỷ, một bộ ghế tựa, mấy chiếc bàn, ngăn kéo tủ, và giường ngủ. Chiếc ti vi đen trắng cũ rích thỉnh thoảng vẫn hoạt động. Nó không nằm trong danh sách những thứ được ưu tiên sửa chữa của mẹ. Mẹ gọi nó là “boob tube” và hiếm khi cho phép chúng tôi xem ti vi. Chúng tôi cũng chẳng cần xem. Nhà của chúng tôi là sự kết hợp giữa một gánh xiếc ba vòng và một vườn thú, được hoàn thiện bởi sự hoạt động không ngừng, những xảo thuật đầy liều lĩnh, âm nhạc và những con vật. Qua nhiều năm chúng tôi xây dựng được một chuồng thú cưng giống như một vườn thú thật sự: Những con chuột nhảy, chuột thường, chó, mèo, thỏ, cá, chim, rùa, nhái bén, không con này thì con kia liếm và cắn chúng tôi, làm lây lan những căn bệnh bí ẩn như thể chúng tôi đang sống ở thế giới thứ ba, khiến chúng tôi bị mẹ điệu đến phòng khám để các bác sĩ cắm phập mũi kim tiêm vào mông như thể chúng tôi đang nằm trên dây chuyền của hãng General Motors vậy. Một lần nhân dịp Lễ Phục Sinh mẹ tôi mang về nhà một con gà con và con gà đó lớn dần lên cho tới một đêm mẹ đi làm về, mở cửa ra thấy tám đứa chúng tôi đang đuổi một con gà trống trong phòng khách. “Đuổi nó ra mau!” mẹ hét lên. Con gà bị tống cổ khỏi nhà chúng tôi và thay vào đó là một con chó chăn cừu giống Đức tên là Abe, con vật cắn tất cả chúng tôi, không trừ một đứa nào, và thỉnh thoảng lại ị một bãi vào một góc nào đó rồi gầm gừ thách chúng tôi đánh nó vì tội ị bậy. Bãi cứt chó ở chỗ nào thì cứ ở yên đó, chẳng ai động tới. Sau một ngày mùi thối loãng đi và chúng tôi tránh xa nó cho tới khi nó khô hẳn, rắn như đá để rồi một đứa nào đó trong số chúng tôi đủ can đảm đá cái đống gây khó chịu đó vào gầm lò sưởi, nơi nó bở ra và tiến thêm một bước nữa trong quá trình hóa thạch để trở thành cát bụi hoặc bị tiêu hủy hoặc bị phát hiện. Chúng tôi chẳng bao giờ hỏi ý kiến mẹ về những vấn đề như vậy. Thời gian của mẹ dành cho những chuyện ra chuyện, chẳng hạn như “Sàn bếp vẫn bị ngập hơn nửa mét bởi vì tất cả các con đều góp phần làm nó ngập lụt phải không?” và chuyện học hành của chúng tôi thường được mẹ ưu tiên hàng đầu. Mọi lý do biện hộ cho việc không làm bài tập ở nhà đều không được chấp nhận và dễ dẫn tới một trận đòn. Chửi thề cũng không được phép. Chúng tôi thậm chí không được phép nói từ “nói dối” mà phải dùng từ “bịa chuyện”. “Làm bài tập về nhà của con đi và đừng có bịa chuyện, con có thể sẽ được như anh Dennis đấy,” mẹ tôi khiển trách. “Hãy xem anh ấy học giỏi như thế nào. Hãy rèn cái đầu của con như anh Dennis đi.” “Dennis.” Bạn có thể nghe thấy tiếng thở dài vang khắp nhà khi mẹ tôi nhắc đến cái tên đó. Những tiếng thở dài nghe như tiếng rít trên tuyến đường tàu hỏa Long Island, tiếng rít kéo dài dọc đường ray cách nhà tôi mấy dãy nhà. Dennis là anh cả và là người tiên phong trong gia đình. Anh là một họa sĩ vẽ những bức tranh về những nơi anh đã từng đến và những người anh đã từng gặp. Anh có tiền trong túi, những đồng tiền thật, và có tiền thừa để tiết kiệm. Ở giữa đám chúng tôi anh là người khổng lồ, trùm cái bóng lớn lên những đứa em tựa như Đài tưởng niệm Lincoln mà chúng tôi đã đến tham quan hai lần. Những thành tựu lớn lao được nhắc tới khi anh vắng mặt bởi vì anh chỉ ở nhà vào những ngày nghỉ, được kể lại tỉ mỉ với sự sôi nổi, được phân tích kỹ càng, được đồn thổi, nhấn mạnh và tán dương. Những đỉnh cao mà anh đã chinh phục, những đỉnh cao mà những kẻ yếu kém như chúng tôi chỉ có thể mơ, được mẹ loan báo và thể hiện sự hoan hỉ ở bất cứ chỗ nào trong nhà. Dennis đã tốt nghiệp cử nhân. Dennis đã đi châu Âu. Và bây giờ, là sự loan báo về thành tựu trọn vẹn của Dennis, Dennis, ôi chàng Dennis tuyệt vời, chàng Dennis xuất sắc - Dennis! Dennis! - đã đạt được thành tích gây kinh ngạc, tuyệt vời nhất, cao vời nhất mà bất cứ người nào, bất cứ đứa con trai nào, có thể hy vọng đạt được. Dennis sắp trở thành một bác sĩ. Không có niềm vinh dự nào lớn hơn thế. Ý tôi muốn nói là, quên đi. Bác sĩ, giáo viên, bạn hãy lựa chọn đi. Nếu mẹ tôi biết Dennis thực sự đã làm gì ở trường, thay vì trở thành một sinh viên đoạt toàn điểm A, thì mẹ sẽ có ý kiến khác về anh ấy. Dennis là một trong những sinh viên hoạt động tích cực nhất vì dân quyền mà trường Đại học Y Pennsylvania từng thấy. Anh tham gia tuần hành ở Washington. Anh đứng ra tổ chức một hiệp hội của những người làm việc trong bệnh viện. Anh tham gia biểu tình ngồi ở miền Nam. Anh bị Mace xịt hơi cay và bị chính quyền xịt vòi chữa cháy. Dennis tuyên chiến với cả hệ thống, nhưng chừng nào anh còn để cuộc chiến của anh ở bên ngoài không mang về nhà và vẫn còn học ở trường Y thì đối với mẹ mọi chuyện về anh vẫn ổn. Nhưng chị Helen của tôi thì không như vậy. Chị kình địch với người da trắng và mang cuộc chiến đó về nhà, công khai trước mặt mẹ. Helen là chị lớn thứ hai trong số những người chị của tôi, những người chị dịu dàng, ngây thơ, hay nói, có tính tò mò, và đó là lý do tại sao mẹ bắt các chị không được ra phố, tránh xa cánh đàn ông con trai. Tất cả các chị đều xinh đẹp, với các kiểu ưa nhìn đa dạng, từ nước da nâu sẫm của Helen đến nước da sáng màu gần như da trắng của Kathy, và tất cả đều có cánh tay dài nuột nà, đều có tàn nhang, và có mái tóc đen quăn tự nhiên. Tất cả những đứa con trai ở khu đó đều biết tên và biết mặt năm người chị em gái của tôi. Hễ tôi đi bộ xuống phố thì y như rằng một gã lạ hoắc cất tiếng hỏi, “Này. Kathy thế nào?” “Ổn”, tôi nhún vai. Vài lần tôi suýt bị gẫy mũi vì Kathy. Chẳng có gì tệ hơn việc phải đánh nhau vì đứa em gái béo mập mà đến nửa số con trai trong khu đều phải lòng. Đó là một vấn đề thực sự. Helen là người xinh nhất trong số các chị em gái của tôi. Chị có thân hình mảnh dẻ, với mái tóc đen được buộc gọn, thường mặc quần bò và áo khoác nhẹ may bằng vải denim với những chiếc cúc có các khẩu hiệu vì hòa bình, “Chấm dứt chiến tranh” và những miếng đắp màu đỏ, đen và xanh lá cây tượng trưng cho phong trào vì tự do. Những gã trai thuộc đủ mọi tuýp người - da đen, da trắng, người châu Á, người Mỹ La tinh - theo đuổi chị ở khắp mọi nơi. Chị là sinh viên của trường Trung học Nhạc Họa, chơi dương cầm trong dàn nhạc của nhà thờ ở giáo phận của chúng tôi cho tới một sáng Chủ nhật, Judy, đứa em gái út trong gia đình lúc đó mới chín tuổi và cũng chơi dương cầm, bỗng dưng bị ép phải chơi cho dàn nhạc. Dường như từ buổi sáng hôm đó Helen đã “nghỉ hưu” sau một thời gian dài chơi cho dàn nhạc của nhà thờ. Khi mẹ tôi hỏi tại sao, Helen trả lời: “Con không muốn chơi nữa,” và thế là chấm hết. Trong gia đình, mẹ tôi chưa bao giờ phải nghe câu trả lời ngắn gọn như thế. Chúng tôi nhìn Helen bằng ánh mắt nể sợ khi chị đứng đó, nhắc lại cái quyết tâm không chơi cho dàn nhạc của nhà thờ nữa, và chị sống sót qua một trận đòn bằng dây thắt lưng của mẹ mà không bật ra một tiếng rên rỉ nào. Chị nhún vai khi mẹ kết thúc sự trừng phạt. Không lâu sau đó, hiệu trưởng của trường Trung học Nhạc Họa gọi điện đến nhà chúng tôi hỏi mẹ tại sao Helen lại bỏ học. “Chắc ông đang đùa,” mẹ nói. “Tất cả các con của tôi đều là những học sinh đạt điểm A kia mà.” “Đứa này thì không,” ông hiệu trưởng nói. “Cô bé đã bỏ học cách đây hai tuần. Thật đáng xấu hổ,” ông ta nói. Lần này mẹ tôi đánh chị Helen đau hơn, sau đó nói chuyện với chị nhiều giờ liền. Sau khi bị đánh Helen khóc, sau khi được mẹ chấn chỉnh chị hứa sẽ thay đổi, rồi nhún vai và tiếp tục bỏ học. Mẹ ghi tên cho chị vào hai trường học khác, nhưng chị bỏ cả hai, tuyên bố: “Sự giáo dục của người da trắng không dành cho con.” Chị trở thành dân híp-pi thực thụ trước ánh mắt kinh ngạc của chúng tôi, đeo chuỗi hạt, đội mũ nồi, sức những loại dầu có mùi thơm ngọt ngào mà theo như chị nói, sẽ mang đến cho bạn sức mạnh. Một tay chơi ghi-ta tên là Eric Bibb bám theo chị nhằng nhẵng khắp nơi. Chúng tôi sợ hãi. Mẹ gọi lực lượng tiếp viện - các mục sư, những người bạn, cha đỡ đầu của tôi - nhưng Helen phớt lờ tất cả. Chị thức khuya cùng với mấy anh chị lớn trong nhà, nói về cuộc cách mạng chống lại người da trắng trong khi chúng tôi, Những Đứa Nhỏ, ngủ ở trên gác. Kathy và tôi bò ra đầu cầu thang, dỏng tai nghe trong khi Những Đứa Lớn nói chuyện sôi nổi về chủ đề “thay đổi hệ thống” và “cách mạng,” ca tụng những phẩm chất vượt trội so với Malcolm X của Martin Luther King và ngược lại, rồi mở đĩa thu âm của phái Những Thi Sĩ Cuối Cùng. Helen, người từng là nhân vật thứ yếu trong các cuộc thảo luận, giờ đây trở thành nhân vật trung tâm, kẻ chủ mưu, vai chính. “Phải đấu tranh!” chị hô to. “Đấu tranh chống lại con người quyền lực!” Sự hô hào của chị tạo ra cả một làn sóng yểm trợ với sự bình luận hóm hỉnh từ các anh chị lớn của tôi, những chuyên gia về cuộc sống, không thiếu sự khôn ngoan, những người đã tận mắt thấy và đã thực hiện việc đấu tranh đó. “Phải đấy, nhưng chị là con người quyền lực kia mà? Chị là con người quyền lực mà?” “Chị muốn nói đàn ông quyền lực hay Phụ nữ?” “Con người quyền lực là ai?” “Nhưng chị là con người mà?” (hát) “Khi một người đàn ông yêu một người đàn bà à à!!!” Những phiên họp ngớ ngẩn hầu như luôn kết thúc bằng những cuộc nói chuyện nghiêm túc về dân quyền ấy thường kéo dài cho đến khi mẹ tôi đi làm về. Một đêm khi Kathy và tôi nằm ở trên gác giả vờ ngủ - chúng tôi thỉnh thoảng lẻn sang phòng của nhau - chúng tôi bỗng nghe thấy tiếng kêu đánh “rầm”, kèm theo đó là tiếng chửi thề. Chúng tôi ngồi bật dậy. Ở dưới nhà, Helen và Rosetta đang choảng nhau. Anh chị em chúng tôi hiếm khi đánh nhau thật, nhưng một khi đã đánh nhau, thì tất cả đều rất hung dữ, một chọi một, và Helen thường chiếm lĩnh đỉnh Everest của những kẻ đối đầu bằng vũ lực. Rosetta là chị gái cả và là người thông minh nhất trong số các anh chị em chúng tôi. Từ vị trí rõ là cao của mình ở trên giường - một chiếc giường ngẫu nhiên chị không phải dùng chung với bất cứ ai - Rosetta ngồi như nữ hoàng ngồi trên ngai vàng được tạo thành bởi những chiếc gối, chân đan vào nhau theo kiểu ngồi của Đức Phật, trong khi uống nước đá, nghe chương trình truyền thanh từ kênh WBAI mà chị yêu thích, và luôn miệng sai phái suốt cả ngày. Chị ấy sai chúng tôi lấy nước đá vào những chiếc ly cao cho chị và sai chúng tôi đến cửa hàng mua bánh Devil Dog, thuốc lá Montclair và hễ được sai đi mua những thứ ấy thì chúng tôi đi ngay và mang về đưa cho chị với sự khúm núm thật sự. Chị ngủ trong khi vẫn để đài nói không ngừng và để đèn sáng trưng. Trong khi chị chợp mắt, chúng tôi rón rén đi qua giường của chị, sợ làm chủ nhân của mình thức giấc. Chị đố ai dám thách thức chị. Các anh lớn của tôi đội mũ lệch và thì thầm về Jim Brown và Muhammad Ali, nhưng ngay cả anh lớn nhất, thậm chí cả anh Dennis, người mà tất cả chúng tôi nể sợ, không ai dám thách thức Rosetta. Chị là nữ hoàng của nhà chúng tôi. Tôi nghe thấy tiếng xé áo. Xoạt xoạt! “Đồ chó!” Helen gào lên. Tôi nghe thấy tiếng những quả đấm giáng vào người ai đó. Rossetta rú lên. Kathy bắt đầu khóc. “Im đi,” tôi nói. Không ai được phép chửi bậy trong nhà chúng tôi. Chửi bậy bị cấm. Chửi bậy có nghĩa là tình hình đang mất kiểm soát. Thêm những âm thanh của cuộc ẩu đả. Tôi nghe thấy tiếng các anh trai mình ở dưới nhà, “Được thôi, đập đi. Giữ lấy nó, Billy, khoan đã” - Bụp! Tiếng cười của các anh trai tôi xen lẫn tiếng khóc đau đớn của Rosetta. “Giờ thì đến lượt mày!” Bụp! Tiếng Helen rú lên. Một cuộc ẩu đả khác diễn ra. Tiếng bàn ghế bị ném, tiếng hô hét của David, tiếng một chiếc đèn vỡ loảng xoảng. Thêm những tiếng cười và tiếng chửi bậy… Cuộc xung đột dữ dội xảy ra, và tôi nghe thấy tiếng Helen tuyên bố sẽ đi khỏi nhà. Bỗng nhiên đám con trai trở nên nghiêm túc. “Đợi đã!” “Đợi đã! Khoan đã!” “Chuyện này thật điên rồ!” “Đừng động vào tôi,” Helen nói. “Đừng ai động vào tôi. Tất cả các người đều khiến tôi buồn nôn. Ai cũng khiến tôi buồn nôn hết.” Tiếng cười khùng khục, khúc khích nổi lên. “Tôi phát ớn vì cái nhà này rồi!” Im lặng. Có tiếng khóc thút thít. Sau đó là những tiếng khóc thảm thiết. “Ôi… Helen…” Tôi nghe thấy tiếng mở cửa, liền sau đó là tiếng cửa đóng sập lại. Đêm khuya hôm đó khi mẹ đi làm về thấy tất cả đèn trong nhà đều sáng trưng, còn tất cả lũ con của mẹ, thậm chí cả những đứa bé, đều có mặt ở trong bếp đợi mẹ, mẹ biết nhà có chuyện. “Helen đâu?” mẹ hỏi, bằng giọng lộ rõ sự hoảng sợ. “Đi rồi, mẹ ạ.” “Tại sao các con để Helen đi khỏi nhà?” Mẹ hỏi. “Chị ấy không ở lại, mẹ ạ. Chúng con đã cố giữ chị ấy ở lại nhưng chị ấy không ở.” “Ôi Chúa ơi…” Mẹ rên rỉ, đập tay lên trán, rồi siết tay lại thành nắm đấm. “Tại sao các con không giữ Helen lại? Tại sao?” Im lặng bao trùm khi chúng tôi chớp mắt, nuốt khan, cảm giác có lỗi bao trùm lên chúng tôi như những đám mây đen báo hiệu cơn mưa. Đêm hôm đó Helen không về nhà. Ngày hôm sau cũng vậy. Ngày hôm sau nữa cũng thế. Chị ấy mười lăm tuổi. Vào ngày thứ hai mẹ tôi gọi điện báo cảnh sát. Cảnh sát đến lập biên bản. Họ tìm kiếm trong khu, nhưng không thể tìm thấy Helen. Mẹ gọi điện cho tất cả những người bạn của chị. Vẫn không thấy Helen đâu. Tuần sau đó chị Jack gọi điện tới cho mẹ từ căn hộ của chị ở Harlem. Helen yêu quý Jack. Mọi người đều yêu quý Jack. Bạn có thể tâm sự với Jack bất cứ chuyện gì. “Cô Ruth, Helen đang ở chỗ con.” Jack nói. “Nó không muốn gặp cô đâu, nhưng cô đừng lo. Cho qua đi cô. Đừng làm nó sợ.” Nhưng mẹ không thể đợi được. Mẹ gác máy và gọi anh Richie của tôi vào bếp, trao cho anh tiền tàu xe cùng những mệnh lệnh dứt khoát. Hãy nói với Helen rằng mẹ đã tha thứ. Hãy trở về nhà. Với thái độ đầy trách nhiệm Richie khoác chiếc áo da lên người, đội chiếc mũ quả dưa Lester Young lên đầu, nhằm hướng Harlem thẳng tiến trong khi mẹ đi đi lại lại trong nhà với vẻ bực bội. Tối muộn hôm đó Richie trở về với chiếc mũ đội hơi hếch về phía sau. “Helen không về đâu mẹ ạ,” anh nói. Ít lâu sau Helen đi khỏi chỗ Jack và biến mất tăm. Mẹ lo cuống cả lên. Nhiều đêm mẹ không ngủ, cứ đi đi lại lại quanh phòng. Mẹ gọi điện cho những nhà truyền giáo và những người bạn của mẹ ở nhà thờ, gọi cho cha đỡ đầu của tôi, người mà năm thì mười họa mới xuất hiện. Nhiều giải pháp được bàn đến. Những lời cầu nguyện được thốt ra. Sự hối tiếc được bộc lộ. Những lời xin lỗi được bày tỏ. Nhưng Helen vẫn bặt tăm. “Con bé sẽ quay trở về thôi,” cha tôi nói. “Sẽ ổn thôi.” Cha tôi không biết phải làm gì với Helen. Cha và Helen không có tiếng nói chung. Ông thuộc lớp người cũ, phát âm từ “school” - trường học là “schoolin’’ và gọi tôi là “thằng bé”. Ông từng trốn khỏi Jim Crow ở miền Nam và cảm thấy rằng giáo dục, bất cứ sự giáo dục nào, cũng là một đặc ân. Helen thì khác. Nhiều tuần, nhiều tháng trôi qua mà Helen vẫn chưa trở về. Cuối cùng chị Jack gọi điện đến. “Cháu tìm thấy em ấy rồi. Nó đang sống với một người đàn bà điên,” Jack nói. Chị ấy bảo mẹ tôi rằng chị không biết nhiều về người đàn bà đó, chỉ biết bà ta quàng một đống khăn và hay đốt nhang. Mẹ lập tức thay đồ và đích thân tới đó. Đó là một tòa nhà ọp ẹp dành cho người nghèo ở gần đại lộ Nicholas với những đống phế liệu và những kẻ nghiện rượu lởn vởn trước mặt. Mẹ bước qua chỗ họ, vượt qua màn khói thuốc, đi thang máy lên tầng tám. Mẹ đứng trước cánh cửa căn hộ đó và nghe ngóng. Có tiếng nhạc vọng ra từ một chiếc cassette ở trong nhà, và giọng ai đó đang nói chuyện điện thoại. Mẹ gõ cửa. Chiếc cassette được vặn nhỏ tiếng. “Ai đó?” một người từ trong nhà hỏi. Giọng nói nghe giống giọng của Helen. “Tôi đến để gặp Helen,” mẹ nói. Im lặng bao trùm. “Mẹ biết con đang ở trong đó, Helen,” mẹ nói. Im lặng bao trùm. “Helen. Mẹ muốn con trở về nhà. Có gì sai chúng ta sẽ sửa. Hãy quên chuyện đó đi và quay về nhà.” Từ trong hành lang một cánh cửa bật mở và một người đàn bà da đen lặng im nhìn người phụ nữ da trắng, tóc đen đang đứng nói chuyện với cánh cửa đóng kín. “Helen, hãy về nhà đi con.” Cánh cửa có một cái lỗ để nhìn. Cái lỗ được mở ra. Một con mắt đen to nhìn qua cái lỗ. “Về nhà đi Helen. Đây không phải là chỗ dành cho con. Hãy về nhà đi con.” Cái lỗ được đóng lại, kín mít. Ở 9 Shul Suffolk có một trường học dành cho người da trắng và một trường học dành cho dân da đen, một trường học dành cho người Do Thái. Con có thể gọi trường dành cho người Do Thái là “shul” theo tiếng Do Thái. Thực ra đó không phải là một trường học. Nó là một giáo đường nơi Tateh dạy tiếng Hebrew và dạy trẻ em học Kinh Thánh, dạy những đứa bé trai cách điều khiển ca đoàn. Thỉnh thoảng ông luyện giọng quanh nhà, hát “đồ rê mi pha son”. Con biết không, họ còn để ông cắt bao quy đầu cho trẻ con. Đó là một phần công việc của một giáo sĩ mà ông phải làm, đi đến các gia đình để cắt bao quy đầu cho những cậu bé. Ông có những con dao dành riêng cho việc đó. Ông cũng giết mổ bò trong lễ koshier cho người Do Thái ở trong phố ăn, và nhà mình thường có một con bò ở mảnh sân phía sau cửa hàng. Bọn mẹ dắt bò đến lò mổ của Jaffe ở phía dưới đường và những người đồ tể trói chân sau của nó lại bằng sợi dây thòng xuống từ trần nhà. Tateh mở hộp dao ra - ông có một cái hộp bọc vải nhung đặc biệt để đựng những con dao dành riêng cho mục đích đó - và cẩn thận chọn một trong số những con dao to sáng loáng. Sau đó ông đọc một lời cầu nguyện ngắn và thọc dao vào cổ con bò. Con bò rùng mình một cách dữ dội và máu phun xuống cổ nó, phun qua mũi chảy thành dòng trên sàn xi măng và nó chết. Sau đó những người đồ tể ngồi lên thân nó mổ bụng lôi nội tạng ra, tất cả, tim, gan, lòng, phổi. Hồi bé mẹ không thể ăn thịt. Cái cảnh ông ngoại của con thọc dao vào cổ con bò đó đủ để khiến mẹ tránh ăn thịt trong nhiều năm. Mẹ sợ cha mình. Còn ông, ông dồn nỗi sợ Chúa vào mẹ. Trường học của người Do Thái thật ra không bao gồm người da trắng, vì vậy mẹ đi học ở trường dành cho người da trắng, trường tiểu học Thomas Jefferson. Nếu việc học hành của anh em mẹ do ông ngoại của con quyết định thì ông sẽ chẳng cho mẹ đến trường. “Cái trường ngoại đạo đó ẳ sẽ chẳng dạy mày được điều gì mà mày có thể sử dụng được đâu,” ông chế giễu. Ông trả tiền để anh em mẹ học nghề may, đan, và làm tính ở những chỗ dạy tư. Về tiền nong ông keo kiệt lắm, nhưng riêng với những việc đó, ông không ngại chi tiền. Ông thích trả tiền cho bọn mẹ học tư hơn là đi học ở những trường dành cho người ngoại đạo, nhưng luật là luật, vậy nên mẹ đi học cùng với những đứa trẻ da trắng. Ngay từ đầu mẹ đã gặp khó khăn rồi, bởi vì ở trường những đứa trẻ da trắng ghét trẻ con người Do Thái. “Này, Ruth, mày bắt đầu trở thành người Do Thái bẩn thỉu từ khi nào vậy?” chúng hỏi. Mẹ không thể chịu đựng nổi sự nhạo báng đó. Mẹ thậm chí đổi tên để cố hòa nhập ở đó. Tên thật của mẹ là Rachel, trong tiếng Do Thái là Ruckla, và đó là tên mà ông bà ngoại của con gọi mẹ - nhưng mẹ sử dụng cái tên Ruth khi mẹ ở chỗ có người da trắng bởi vì cái tên đó nghe không giống tên Do Thái lắm, mặc dù điều đó chẳng thể khiến bọn trẻ ngừng trêu chọc mẹ. Không ai thích mẹ hết. Đó là điều mà mẹ cảm nhận được khi còn bé. Mẹ biết cái cảm giác mình đi ra đường mà người ta ném về phía mình những tiếng cười hô hố, hoặc người ta cười khúc khích khi nghe thấy mình nói tiếng Do Thái, hoặc đơn giản nhìn mình với ánh mắt căm ghét. Con biết không, một người Do Thái sống ở Suffolk thời đó có thể trở nên cô đơn cho dù trong phòng có hơn chục người, mẹ không biết tại sao; đó là cái cảm giác không ai ưa mình; đó là những gì mẹ cảm thấy khi sống ở miền Nam. Ở đó con sẽ thấy mình khác biệt với mọi người, chỉ được rất ít, rất ít người thích mà thôi. Ở Suffolk có những khu da trắng, như khu Riverview chẳng hạn, nơi mà dân Do Thái không được phép sở hữu đất đai. Điều đó được nêu trong văn bản hẳn hoi, và con có thể tra cứu thông tin đó. Văn bản quy định khu đó, “chỉ dành cho người da trắng Anglo - Saxon theo đạo Tin Lành.” Đó là luật ở đó và thực tế đúng là như vậy. Người Do Thái ở Suffolk sống co cụm với nhau, nhưng thậm chí ở khu dân cư của người Do Thái gia đình mẹ cũng thuộc hạng bét bởi vì bọn mẹ giao thiệp với dân da đen. Vậy nên mẹ chẳng có nhiều bạn là người Do Thái. Khi mẹ học lớp bốn, một cô bé đến gặp mẹ ở sân trường trong giờ giải lao và nói: “Cậu có mái tóc đẹp nhất. Chúng mình kết bạn nhé.” Mẹ nói: “Được thôi.” Ôi, mẹ mừng rơn vì có người muốn kết bạn với mình. Tên của cô bé đó là Frances. Chừng nào mẹ còn sống mẹ sẽ không bao giờ quên Frances. Cô ấy gầy gò, có mái tóc màu nâu nhạt và đôi mắt màu ngọc lam. Cô ấy là một người ít nói, hiền hòa. Thực ra mẹ bị cấm chơi với Frances bởi vì cô ấy là người ngoại đạo, nhưng mẹ vẫn lén lút đến nhà cô ấy, lén lút đưa cô ấy đến nhà mình. Thực ra, mẹ không phải lén lút khi đến nhà Frances bởi vì ở đó mẹ luôn được đón chào. Frances sống ở nửa bên kia của thị xã, đi qua nghĩa trang là tới, và mẹ thường vào nhà cô ấy bằng cửa sau. Dường như ở nhà Frances bữa chính luôn được bày sẵn. Mẹ của cô ấy bày đồ ăn ra những chiếc đĩa mà bà lấy ra từ tủ đựng đồ sứ bằng gỗ: thịt giăm bông, thịt gà, khoai tây, ngô, đậu quả, cà chua thái miếng, đậu ngự, bánh mỳ trắng, bánh quy nóng giòn phết đẫm bơ - mà mẹ thì không thể ăn bất cứ món nào trong những món đó. Đó là những món cấm kị, người Do Thái không được ăn. Lần đầu tiên mẹ của Frances mời mẹ ăn tối, mẹ nói, “Cháu không thể ăn những món này,” và mẹ bối rối cho tới khi Frances cất tiếng lảnh lót, “Tớ cũng không thích những món này đâu. Món ưa thích của tớ là món mai-don-ne ăn với bánh mỳ trắng cơ.” Frances như thế đó. Cô ấy làm từng việc nhỏ để mẹ biết rằng cô ấy đứng về phía mẹ. Cô ấy không phiền chút nào trước thực tế mẹ là người Do Thái, và nếu có cô ấy ở bên thì không một ai ở trường trêu chọc mẹ hết. Mẹ thường lấy những đồng xu lẻ từ ngăn kéo của cửa hàng để hai đứa có thể đi xem phim ở rạp Chadwick - vé cho mẹ và cô ấy chỉ tốn mười xu. Hoặc trên đường đi học về mẹ đi tắt qua nghĩa trang thành phố để Tateh không nhìn thấy bọn mẹ; cả buổi trưa bọn mẹ ngồi trên những bia mộ nói chuyện rí ráu. Con biết đấy, bây giờ mẹ sợ phải ở những chỗ có người chết. Bây giờ mẹ đố con khiến mẹ đến gần một nghĩa địa đấy. Nhưng hồi đó, có Frances ở bên cạnh mẹ chẳng sợ chút nào. Hồi đó dường như ngồi trên bia mộ của ai đó dưới bóng cây nói chuyện với người bạn thân của mình là việc dễ dàng nhất, tự nhiên nhất. Bọn mẹ luôn nấn ná cho đến phút cuối và khi mẹ buộc phải về, bọn mẹ phải chạy về hai hướng khác nhau vậy nên bao giờ mẹ cũng đứng nhìn Frances chạy trước để đảm bảo rằng không con ma nào đang đuổi theo cô ấy. Cô ấy đang chạy, chợt quay đầu lại, nhìn về phía mẹ hỏi, “Có con ma nào theo sau tớ không Ruth? Có chắc không?” Và mẹ trả lời: “Chắc. Chắc chắn.” Rồi cô ấy quay người chạy vụt đi, tránh những bia mộ và ngoái cổ lại nói: “Ruth, cậu vẫn đang nhìn đấy chứ? Canh ma cho mình nhé!” “Tớ vẫn đang canh đây! Không có con nào đâu!” Mẹ hét to. Vài giây sau mẹ lại nói to: “Tớ đếm đây!” Và mẹ đếm đến mười như thế này: “Một hai ba bốn năm… mười!” và chạy về nhà! Mẹ chạy ú chạy ào qua cái nghĩa trang đó. Gia đình Frances không giàu có. Họ giống như nhiều người da trắng thời đó. Những người da trắng nghèo sống theo mô hình trang trại. Họ không nghèo như con thấy ngày nay. Thời đó người ta nghèo cũng nghèo kiểu khác cơ. Nghèo thì vẫn nghèo, nhưng là một kiểu nghèo tốt hơn. Mẹ muốn nói rằng thời đó con không cần nhiều tiền như bây giờ, nhưng con cũng không có tiền. Dường như tất cả mọi người mẹ biết trong quá khứ đều nghèo. Đa số khách hàng của cửa hàng nhà mẹ đều là dân nghèo. Người da đen và người da trắng đều nghèo. Họ kiếm thức ăn từ sông Nansemond cách cửa hàng nhà mẹ một quả đồi. Đàn ông bắt cá, bắt cua ngoài bến sông và bắt những con rùa to đem về nhà nấu món xúp và món thịt hầm. Có người chỉ chuyên đi bắt rùa thôi. Ông ta cắp cả con rùa to tướng về nhà như con kẹp một cuốn sách vào nách, khiến mẹ và dì Dee Dee của con cứ trố mắt ra nhìn. Đôi khi ông ấy dừng ở cửa hàng nhà mẹ mua vài thứ nguyên liệu cho món xúp rùa, nhiều gia vị và đồ nêm cho món xúp. Con rùa bị cắp nách vẫn còn sống nguây nguẩy, cứ đạp đạp chân cố thoát ra trong khi ông ta đứng trước cửa hàng mải chọn rau, mua gia vị để nấu nó. Mẹ cảm thấy tội nghiệp cho những con rùa. Mẹ muốn ông ta thả nó trở lại sông, nhưng mẹ không dám nói. Điên à? Câm đi! Ông ta sẽ không thả những con rùa ra sông vì bất cứ ai đâu. Chúng là bữa tối của cả nhà ông ta cơ mà. Người dân thời đó sống trong nghèo đói. Và mẹ phải thú thật rằng mẹ chưa bao giờ bị đói như hầu hết những người khác. Mẹ chưa bao giờ phải ăn thịt rùa và ăn những con cua được bắt từ ngoài bến sông như nhiều người đã phải ăn. Mẹ chưa bao giờ quá đói cho tới khi mẹ kết hôn. Hồi đó mẹ không đói thức ăn nhưng mẹ đói những thứ khác. Mẹ đói tình yêu thương. Mẹ chẳng được biết đến yêu thương. 10 Trường học V ào những năm 60, khi mẹ tôi có tiền - thứ mà mẹ hiếm khi có - mẹ đưa anh chị em tôi đến phố Delancey ở khu Đông của Manhattan để mua quần áo mặc đi học. “Các con phải đi đến chỗ có các cuộc mặc cả,” mẹ nói. “Các cuộc mặc cả không tự đến với các con đâu.” “Các cuộc mặc cả ở đâu ạ?” chúng tôi hỏi. “Ở chỗ của người Do Thái?” Tôi nghĩ người Do Thái chỉ có ở trong Kinh Thánh. Tôi đã nghe nói về họ ở lớp học giáo lý vào ngày Chủ nhật, qua Chúa Jesus hoặc đại khái thế. Tôi nói với mẹ rằng tôi không biết người Do Thái vẫn còn tồn tại. “Họ vẫn sống chứ,” mẹ nói. Mặt mẹ trông thật buồn cười. Các nhà buôn người Do Thái thuộc phái Hasidic đội mũ cầu kinh màu đen trố mắt nhìn mẹ trong cảm giác sửng sốt khi mẹ bước vào cửa hàng của họ với năm, sáu đứa con bám nhằng nhẵng theo sau. Khi họ hoàn hồn đủ để kiếm tiền, mẹ sẽ dồn họ vào chân tường, mặc cả với họ cho đến chết, sa vào cái mê cung tiếng Do Thái khi cuộc mặc cả trở nên căng thẳng. “Tôi biết chuyện gì đang xảy ra ở đây! Tôi biết chuyện gì đang xảy ra!” mẹ phản ứng khi họ quay ra nói tiếng Do Thái với nhau trong những cuộc mặc cả xung quanh một đôi giày. Mẹ nói lắp bắp đầy vẻ tức giận và các nhà buôn càng trố mắt nhìn mẹ. Chúng tôi đứng ngây ra nhìn trong sợ hãi. Lần đầu tiên chứng kiến cảnh đó, chúng tôi hỏi: “Mẹ, mẹ học bằng cách nào để nói như thế?” “Lo việc của các con đi,” mẹ nói. “Đừng bao giờ hỏi nếu không não của các con sẽ cứng như đá đấy. Mấy người Do Thái đó không chịu đựng nổi các con đâu.” Nhớ lại hồi đó tôi hiểu rằng mình chẳng bao giờ cảm thấy có mối quan hệ gì với người Do Thái. Chúng tôi không những bị cách ly khỏi thế giới của họ và bất cứ thế giới nào khác, mà còn bị cô lập trong chính thế giới của mình. Tuy nhiên tôi phần nào thừa nhận rằng người Do Thái hơi khác so với những người da trắng khác, một phần do những thông tin được lượm lặt từ mẹ tôi, người đã tìm kiếm một cách vô thức và có ý thức nhiều thứ thuộc về người Do Thái, và một phần qua các anh chị của tôi. Toàn bộ chi phí học hành của chị Rosetta nhà tôi ở trường Đại học Howard, trường dành cho người da đen - tiền học phí, tiền sách vở, thậm chí cả tiền quần áo - đều do Quỹ Joseph L. Fisher, với sự điều hành của Giáo đường Do Thái Stephen Wise Free ở Manhattan tài trợ. Thêm vào đó, Dennis, anh cả của tôi, vị quân sư đầy trí khôn và là cuốn từ điển sống về mọi điều trên thế giới của nhà chúng tôi vào những năm 60, ở trường đại học trở về nhà với niềm kính trọng dành cho những người bạn Do Thái mà anh đã gặp. “Họ ủng hộ phong trào vì dân quyền,” anh nói. Mẹ ủng hộ bất cứ điều gì liên quan đến việc cải thiện giáo dục và điều kiện sống của chúng tôi, và trong khi mẹ nhanh chóng chỉ ra rằng “Một số người Do Thái không chịu đựng nổi các con đâu,” bằng cái cách đẩy mâu thuẫn của mình mẹ cũng truyền đạt cho chúng tôi ý này: Nếu chúng tôi đủ may mắn để tình cờ gặp những người Do Thái tốt bụng - một giáo viên, một cảnh sát, một thương gia - thì chúng tôi sẽ thấy người đó còn tốt bụng hơn những người da trắng thuộc các dân tộc khác. Mẹ chưa bao giờ nói người Do Thái là người da trắng. Mẹ đơn giản chỉ nói họ là người Do Thái, và điều đó khiến người Do Thái có vẻ khác với người da trắng. Tất cả các anh chị em chúng tôi đều lớn lên với cảm giác rằng về một khía cạnh nào đó người Do Thái khác với người da trắng. Sau này, khi đã là người lớn nghe người ta nói về mối quan hệ yêu/ghét giữa người da đen và người Do Thái tôi thấm điều đó đến tận xương tủy không phải bởi bất kỳ cuộc nghiên cứu xã hội học nào từ bên ngoài, mà vì trải nghiệm của chính bản thân tôi với các giáo viên và các bạn học người Do Thái - vài người trong số họ thực sự tốt bụng, tài năng, và nhạy cảm, những người khác không thể giấu nổi sự chán ghét đối với khuôn mặt da đen của tôi - những người tôi gặp trong những cuộc tiếp xúc riêng của mình với thế giới của người Do Thái mà mẹ tôi đã ngầm thu xếp bằng cách ép từng đứa chúng tôi đi học ở các trường công chủ yếu gồm học sinh người Do Thái. Hơn bất cứ ai khác, mẹ tôi, với sự ý thức cao về giáo dục, đã truyền chất Do Thái của mẹ sang chúng tôi. Mẹ khâm phục cách các bậc cha mẹ người Do Thái nuôi dạy các con của họ trở thành những nhân vật nổi bật về học thức, bảo vệ chúng khỏi hệ thống trường công nguy hiểm bằng cách co cụm lại trong những cộng đồng nhất định, học ở một số trường nhất định, được dạy bởi những giáo viên luôn khép học trò vào sự kỷ luật và khích lệ việc học tập, và mẹ tuân theo sự dẫn dắt của họ. Trong năm học mẹ đưa ra những mệnh lệnh chi tiết, bắt chúng tôi phải mang về nhà từng bài kiểm tra mà giáo viên giao cho chúng tôi ở trường, đặc biệt là vào tháng 1, và nếu chúng tôi không làm theo những mệnh lệnh đó thì sẽ nhừ đòn. Khi chúng tôi, theo bổn phận, mang các bài kiểm tra về nhà, mẹ đọc chúng thật kỹ càng, và chăm chú tìm kiếm - “Được… được… đây rồi!” - chộp lấy một mẫu đơn và điền thông tin vào. Hàng năm, con khủng long cực kỳ quan liêu được biết đến với cái tên Hệ thống Trường Công của Thành phố New York phun ra một viên kim cương bé xíu: Nó dúi cho các phụ huynh một thông báo nhỏ cho họ cơ hội nhét con mình lên xe buýt đến những trường khác trong quận nếu họ muốn; nhưng thời gian nộp đơn có hạn, cơ hội chỉ như cánh cửa hé mở trong vài ngày rồi đóng sập lại. Mẹ tôi rình cơ hội đó như một con diều hâu rình mồi. Mẹ luôn chọn những trường công có phần lớn học sinh là người Do Thái: Trường P.S. 138 ở Rosedale, J.H.S. 231 ở Springfield Cardens, Benjamin Cardozo, Francis Lewis, Forest Hills, Trường Nhạc Họa. Sáng sáng chúng tôi bước ra khỏi cửa lúc sáu giờ ba mươi phút, tiến vào thành phố như những người lính, với “vũ khí” là những cuốn sách, tập vở, ê-ke, nhạc cụ, và tấm thẻ có chữ “S” cho phép chúng tôi đi xe buýt, tàu điện ngầm với số tiền năm xen, và một phiếu ăn trưa miễn phí tại trường trong túi áo. Ngay cả đứa bé nhất trong số chúng tôi cũng biết lịch trình của tàu điện ngầm, của xe buýt ở trong khu vực, và thuộc lòng các tuyến đường. Xe buýt số 3 sẽ dừng cho bạn xuống ở góc đường, nhưng xe 3A thì dừng ở ngã tư, vậy nên bạn phải xuống xe… Mười hai tuổi tôi đã mài mông trên xe công cộng một tiếng rưỡi để đến trường một mình, hàng ngày mỗi lần đi hoặc về đều chuyển qua hai tuyến xe buýt. Giáo viên chủ nhiệm của tôi, cô Allison, một phụ nữ trẻ người da trắng đeo kính và là người không quan tâm đến tôi lắm, thường nhún vai khi tôi bước vào lớp muộn mười phút, lúng búng xin lỗi vì xe buýt đến chậm. Ở căng-tin những đứa trẻ da trắng nhìn tôi trừng trừng khi tôi nuốt vội suất ăn trưa của mình. Ai thèm quan tâm chứ. Đó là tất cả những gì tôi phải nuốt. Trước khi Nhà nước xóa bỏ quy định học sinh da đen đi xe buýt riêng, học sinh da trắng đi xe buýt riêng, anh chị em tôi không giống như những đứa trẻ khác ở trong khu, phải vượt qua nhiều dặm đường đến những nơi có đông người Do Thái da trắng sinh sống để học trong khi bạn bè cùng trang lứa của chúng tôi chỉ việc đi bộ đến các trường học ở địa phương, chúng tôi quen dần với thực tế mình là người da đen hoặc “mọi đen” duy nhất ở trường và trở thành những học sinh xuất sắc, có kỷ luật và lịch sự, bất chấp thái độ phân biệt chủng tộc của nhiều giáo viên, những người thích thú đánh tụt điểm học lực của chúng tôi từ 95 xuống 85 hoặc 80 vì những lỗi không đáng kể. Là một đứa trẻ da đen là điều chưa bao giờ khiến tôi được thoải mái. Hồi đó tôi là học sinh da đen duy nhất ở lớp năm của tôi tại ở P.S. 138, ở Rosedale, thuộc quận Queens, và một buổi chiều khi cô giáo đọc to một cách nghiêm túc một trang trống cuốn sách “Lịch sử của người da đen” một học sinh ở cuối lớp thì thầm, “James là một thằng mọi đen!” và thế là tiếng cười rúc rích, khúc khích nổi lên khắp phòng học. Cô giáo yêu cầu học sinh kia im lặng và nhìn cậu ta bằng ánh mắt giận dữ, nhưng “bom” đã nổ rồi. Tôi cảm thấy máu dồn lên mặt và tôi ngồi lún sâu trong ghế, giận sôi máu, nhưng tôi không làm gì. Tôi có thể tưởng tượng được những gì các anh chị của tôi sẽ làm trong hoàn cảnh này. Họ sẽ nổi điên. Họ sẽ tìm cái đứa học trò thô lỗ kia và xử nó. Anh chị tôi sẽ không bao giờ cho phép bất cứ ai gọi mình là “mọi đen”. Nhưng tôi không phải là họ. Tôi nhút nhát, thụ động, trầm tính, và chỉ sau đó nỗi tức giận mới bùng nổ, gầm lên trong tôi với sự dữ dội khủng khiếp đến mức tôi tự hỏi cái đứa đã gọi mình như vậy là đứa nào và toàn bộ chuyện này bắt nguồn từ đâu. Chính vào thời điểm đó âm nhạc và những cuốn sách đi vào cuộc sống của tôi. Tôi chìm đắm trong thế giới của các cuốn sách Những cuộc phiêu lưu của Gulliver, Shane, và những cuốn sách của Beverly Cleary. Tôi tham gia các lớp học piano và clarinet ở trường, thường tìm đến một góc nào đó cùng với chiếc kèn clarinet để tập chơi nhạc, để cho tâm hồn và trí óc của mình phiêu lãng trong những bản nhạc của Tchaikovsky hoặc John Philip Sousa, thử chơi những đoạn ứng tác như nghệ sĩ saxophone chơi nhạc Jazz James Moody, để rồi một hoặc hai giờ sau đó lại ngơ ngác trở về với thực tại. Để thoát khỏi thực tại gây đau đớn, tôi tạo ra một thế giới tưởng tượng cho riêng mình. Tôi tin rằng con người thật của mình là một cậu bé sống ở trong gương. Tôi giam mình trong phòng tắm, chơi với tôi ở trong gương hàng giờ liền. Cái con người ở trong gương ấy trông giống tôi. Tôi nhìn cậu ta không chớp mắt. Tôi hôn cậu ta. Tôi pha trò với cậu ta, sai phái cậu ta. Không giống các anh chị của tôi, cậu ta không có ý kiến gì. Cậu lắng nghe tôi. “Nếu tôi ở đây và cậu là tôi, liệu cậu có thể đồng thời ở đó không?” tôi hỏi. Cậu ta nhún vai, mỉm cười. Tôi quát cậu ta, hành hạ cậu ta bằng lời nói. “Hãy trả lời tôi đi!” Tôi càu nhàu. Tôi sắp sửa bỏ đi, nhưng khi tôi quay gót cậu ta luôn ở đó, đợi tôi. Tôi có nỗi nhức nhối ở trong lòng, nhưng tôi không biết nó bắt nguồn từ đâu và tại sao tôi lại có nó. Cậu bé ở trong gương dường như không có nỗi nhức nhối đó. Cậu ta tự do. Cậu không bao giờ đói, có lẽ cậu có giường riêng để ngủ, và mẹ cậu không phải là người da trắng. Tôi ghét cậu ta. “Biến đi!” Tôi gào lên. “Biến mau! Biến khỏi đây mau!” nhưng cậu ta không biến đi. Các anh chị của tôi áp tai vào cửa nhà tắm và cười phá lên khi thấy tôi nói chuyện một mình. “Đồ ngớ ngẩn!” anh Richie của tôi cười khúc khích. Dù các anh chị của tôi gọi tôi là “Đầu To” bởi vì tôi có cái đầu to và một thân hình gầy nhom, đối với thế giới bên ngoài tôi có lẽ ở trong danh sách của những người “có khả năng thành công cao nhất”. Tôi là một đứa trẻ thông minh. Tôi đọc nhiều. Tôi chơi nhạc giỏi. Tôi chăm đi lễ nhà thờ. Tôi có những gì mà người da đen gọi là “mái tóc đẹp” bởi vì nó quăn thành lọn chứ không quăn tít thò lò. Tôi có nước da sáng hoặc có thể gọi là da nâu, và các bạn gái nghĩ tôi dễ thương cho dù tính tôi nhút nhát. Tuy nhiên tôi không biết mình là ai. Tôi yêu mẹ nhưng tôi trông chẳng giống mẹ chút nào. Tôi trông cũng chẳng giống các thần tượng của đời tôi - cha dượng, bố mẹ nuôi của tôi, và những người bà con khác - những người đều là dân da đen. Và họ trông chẳng giống những người anh hùng khác mà tôi từng nhìn thấy, những anh hùng trong phim, những người da trắng như Stvie McQueen và Paul Newman, người hùng đã nện những gã đàn ông xấu xa để cuối cùng có được cô gái xinh đẹp - những người mà, ngẫu nhiên, luôn là người da trắng. Một buổi trưa đi học về tôi dồn mẹ vào thế bí trong khi mẹ đang nấu bữa tối. “Mẹ, một người da trắng lai da đen thảm hại là người như thế nào hả mẹ?” tôi hỏi. Sự tức giận hiện rõ trên mặt mẹ giống như ánh chớp và mũi mẹ, vốn luôn có xu hướng đỏ và phồng lên vì giận dữ, giờ đây trông như một quả bóng bay. “Con nghe thấy những từ đó ở đâu vậy?” mẹ hỏi. “Con đọc được ở trong một cuốn sách.” “Lạy Chúa, con không phải là một người da trắng lai da đen thảm hại - cuốn sách đó là cuốn gì?” “Là một cuốn sách con đã đọc ấy mà.” “Đừng đọc cuốn sách đó nữa.” Mẹ nghiến răng. “Người da trắng lai da đen thảm hại. Sao lại có người dùng những từ ngớ ngẩn đó nhỉ! Ai đó đã gọi con như vậy phải không?” “Không ạ.” “Đừng bao giờ dùng những từ đó.” “Con là người da đen hay người da trắng hả mẹ?” “Con là con người,” mẹ gắt lên. “Học hành cho tử tế nếu không con sẽ là một người vô giá trị.” “Con sẽ là một người vô giá trị da đen chứ không phải chỉ là một người vô giá trị đúng không mẹ?” “Nếu con là một người vô giá trị,” mẹ nói bằng giọng khô khốc, “thì da con màu gì cũng thế mà thôi.” “Cũng thế mà thôi,” tôi nói. Mẹ thở dài và ngồi xuống. “Mẹ đánh cược rằng con chưa từng nghe câu chuyện cười về người thầy giáo và những hạt đậu,” mẹ nói. Tôi lắc đầu. “Thầy giáo nói với cả lớp: Chúng ta hãy nói về những loại đậu khác nhau.” “Cậu học sinh đầu tiên nói: đậu pinto.” “Đúng,” thầy giáo nói. “Một cậu học sinh khác giơ tay ‘Đậu bơ ạ’.” “Rất tốt,” thầy giáo khen. “Một cô bé ngồi ở cuối lớp giơ tay và nói: ‘Chúng ta tất cả là đậu người ạ!’” Cô bé cười thành tiếng “Thầy là một loại đậu người!” Mẹ cười thành tiếng. “Con là vậy đấy, một loại đậu người! Và một bữa chén no nê!” Mẹ đứng dậy, quay trở lại với việc nấu nướng trong khi tôi đi thơ thẩn trong bối rối. Bối rối đến mức muốn nổ tung, tôi đem câu hỏi đó đến hỏi các anh chị của mình. Mặc dù tất cả chúng tôi đều được nuôi dạy từ hệ thống lý luận mà mẹ cung cấp, dường như không ai có chung sự bối rối như tôi. “Chúng ta là người da đen hay da trắng?” Một hôm tôi hỏi anh David. “Anh mày là người da đen,” David nói, hãnh diện với mái tóc xoăn dài hợp thời trang của dân da đen ở Milwaukee. “Nhưng mày là một thằng mọi. Tốt hơn mày nên hỏi Billy.” Tôi đến chỗ Billy, nhưng trước khi tôi kịp mở miệng, anh ấy đã hỏi: “Mày có muốn xem cái này không?” “Có,” tôi đáp. Anh dẫn tôi đi qua chỗ mẹ đang xử lý đám khăn tã, đi qua những chiếc ghế đổ kềnh, những cuốn sách, những giá đựng đĩa nhạc và nhạc cụ tạo thành cái gọi là phòng khách, đi lên phòng ngủ của đám con trai ở trên gác và đến bên một chiếc tủ đựng đồ tạp nham đầy ặc đến tận nóc. Billy rúc đầu vào trong tủ, chỉ tay về phía vách tủ nói: “Nhìn cái này đi.” Khi tôi thò đầu vào tủ, anh đẩy tôi từ phía sau và đóng sập cửa tủ lại, đè chặt cánh tủ. “Này! Trong này tối lắm.” Tôi gào lên, đập cánh cửa tủ, cố đẩy nỗi sợ hãi ra khỏi giọng nói của mình. Bỗng nhiên, trong bóng tối, tôi cảm thấy những bàn tay chộp lấy tôi và nghe thấy tiếng một con quái vật gầm lên. Nỗi hoảng sợ trong tôi phát triển thành nỗi kinh hoàng và tôi cuống cuồng đấm cánh cửa với tất cả sức lực của mình, hét toáng lên, “BILLLLLLYYYYYYY!” Billy mở cửa tủ và tôi lao ra khỏi tủ, anh David nhào ra sau tôi. Hai anh trai của tôi cười lăn lộn trên sàn nhà, trong khi tôi chạy khắp các phòng gọi mẹ. Trong gia đình tôi, câu hỏi về chủng tộc giống như lực hút của mặt trăng. Nó là lực làm cho những dòng sông không ngừng chảy, khiến cho nước biển và thủy triều dâng lên, nhưng nó là loại lực bí ẩn, không thay đổi, không thể khuất phục, không thể bàn cãi vì thế hoàn toàn có thể bị phớt lờ. Mẹ khiến chúng tôi phải tuân theo một nhịp sống điên cuồng đến mức không còn thời gian dành cho vấn đề đó. Chúng tôi phát triển nhanh nhờ suy nghĩ, những cuốn sách, âm nhạc và hội họa mà mẹ cho chúng tôi “ăn” thay vì thức ăn. Hễ cứ có cơ hội thì y như rằng mẹ nhét năm hoặc sáu đứa chúng tôi lên tàu điện ngầm, trả tiền vé và đẩy những đứa còn lại qua những cánh cửa quay, trong khi nhân viên soát vé chau mày còn hành khách trên tàu thì mở to mắt nhìn, dẫn chúng tôi diễu khắp mọi sự kiện tổ chức miễn phí của thành phố New York: các lễ hội, vườn thú, các cuộc diễu hành, những bữa tiệc đường phố, các thư viện, những buổi hòa nhạc. Chúng tôi đi bộ nhiều giờ quanh thành phố, đi qua những con phố quanh co của tất cả những khu lân cận và chỉ đi không thôi chứ không mua hay nói chuyện với bất cứ ai. Mỗi năm hai lần mẹ dẫn chúng tôi đến phòng khám nha khoa Guggenheim ở Manhattan để khám miễn phí, nơi các sinh viên nha khoa của nước ngoài mặc áo choàng cầm những y cụ để khoan và gắp, và không có thuốc gây tê, nơi cung cấp một dãy ghế nha khoa và biến mỗi đứa chúng tôi thành một dàn âm thanh của những tiếng kêu xé tai đẫm nước mắt trong khi những đứa khác xếp hàng đợi, chứng kiến cảnh đang diễn ra mà hồn xiêu phách lạc. Họ nhổ răng như những kẻ điên, quát mắng chúng tôi bằng tiếng mẹ đẻ của họ trong khi giật đầu chúng tôi sấp ngửa như giật đầu những con búp bê bằng vải. Có lần họ nhổ răng cho anh Billy của tôi sau đó bảo anh ấy đi ra chỗ mẹ ngoài phòng đợi, và tại đó mẹ nhìn vào cái miệng đầy bông gạc và máu của anh ấy, phát hiện ra họ đã không nhổ chiếc răng cần phải nhổ. Mẹ nổi điên, xông vào gặp họ. Vào mùa hè, mẹ là Pied Piper[9] dẫn cả lũ chúng tôi đến các bể bơi công cộng, trút bỏ quần áo ngoài, mặc bộ đồ bơi một mảnh và nhảy ùm xuống nước như một con hải mã. Lũ chúng tôi nhảy theo mẹ như một đàn hải cẩu, làm nước bắn tung tóe trong nỗi hoảng sợ khi mà mẹ đập nước hoài như thể mẹ không biết bơi cho đến lúc một trong mấy đứa chúng tôi ho sặc sụa, thổi phù phù, và mẹ rẽ nước lội đến chỗ đứa ấy túm lấy nó lôi nó lên khỏi mặt nước vừa vỗ vỗ vào lưng nó vừa bật cười. Chúng tôi không coi bản thân là người bất hạnh, bị tước đoạt, hoặc là những người chán nản bởi vì khi chúng tôi còn nhỏ các luật lệ của thế giới bên ngoài dường như vô nghĩa đối với chúng tôi. Nhưng khi lớn hơn, trở thành những đứa trẻ mới lớn và trở thành sinh viên, bước vào đời chúng tôi mang thế giới bên ngoài về nhà cùng mình, và cái thế giới mà mẹ đã cần cù tạo ra bắt đầu sụp đổ. Những năm sáu mươi tràn qua nhà của chúng tôi như một con sóng thủy triều. Quyết định bỏ học và đi khỏi nhà ở tuổi mười lăm của chị Helen, mặc dù năm năm sau chị quay trở về nhà với tấm bằng y tá và một đứa con gái, là dấu hiệu đầu tiên của sự sụp đổ treo lơ lửng trên đầu chúng tôi. Các anh chị khác của tôi bắt đầu hành động và thế là ý thức về sự công bằng cũng như khát vọng về quyền được hưởng sự công bằng mà mẹ và cha tôi đã truyền cho chúng tôi bắt đầu đem lại kết quả trái với mong muốn. Những đứa trẻ tốt bụng, hiền lành ở lớp giáo lý được dạy để nói một cách hãnh diện, “Mình là người da đen,” và thuật lại những việc làm của Jackie Robinson, Paul Robeson giờ đây đã quay sang Malcolm X, Ha. Rap Brown, Martin Luther King để được truyền cảm hứng. Mẹ là người mang màu da không phù hợp cho niềm tự hào của người da đen cũng như sức mạnh của người da đen, và điều đó gần như chia rẽ gia đình tôi thành hai phe. Các anh chị của tôi, từng người, từng người một phá vỡ các luật lệ của mẹ, mang về nhà những kết quả của sự bối rối, khó hiểu của riêng mình, những kết quả mà chúng tôi gọi vui là “cuộc cách mạng”. Một người anh của tôi đã bỏ nhà sang châu Âu. Một người chị của tôi có quan hệ nam nữ ở trường đại học và trở về nhà bế trên tay một đứa con của tình yêu, một chuyện không hề nhỏ vào năm 1967. Anh Richie cưới vợ khi mới mười tám tuổi bất chấp sự phản đối của mẹ, rồi ly dị, sau đó vào đại học, và có mặt ở nhà trong kỳ nghỉ hè khi anh bị hai cảnh sát chặn lại trong khi đi ra phố với một người bạn. Một nhóm nam thanh niên đi trước Richie khoảng mười bước chân và bạn của anh đã thả một thứ trông giống như một túi heroin xuống khi xe cảnh sát tới gần. Cảnh sát tóm đám con trai kia, bắt họ đứng xếp hàng bên một hàng rào, và tra hỏi ai trong số họ đã vứt cái túi kia xuống, cái túi mà sau đó được kiểm tra hóa ra chỉ chứa toàn ký ninh, chứ không phải heroin. Không ai nhận đã làm chuyện đó, vậy nên cảnh sát kiểm tra cả đám và tìm thấy chín mươi đô la tiền vay từ ngân hàng hỗ trợ sinh viên ở trong túi của Richie. Khi cảnh sát hỏi anh số tiền đó từ đâu ra, Richie nói rằng đó là tiền anh vay ở trường và anh không nhớ là mình có số tiền đó. Nếu bạn hiểu rõ Richie bạn sẽ gật đầu và nói: “Ừ,” bởi việc quên rằng mình đang có trong người chín mươi đô la quý giá, một số tiền lớn vào thời đó, thuộc về tính nết của anh. Khi anh còn nhỏ chúng tôi thường gọi anh là “Nhà khoa học lập dị”. Những thí nghiệm khoa học của anh suýt làm nổ tung cả căn nhà của chúng tôi bởi vì bất cứ thứ gì anh sáng tạo ra, anh đều để nó trong tình trạng đang sôi và hoàn toàn quên nó trong khi chúng tôi lục tìm thức ăn. Anh có thể nhớ được những phép tính vi phân khó nhớ nhất và sành nhạc gần như một nhạc sĩ thực thụ, nhưng anh không thể nhớ nổi cách mặc quần. Anh chơi các bản solo của John Coltrane bằng kèn saxophone hàng giờ và mặc áo khoác mùa đông cùng với quần sooc thể thao. Hồi còn nhỏ anh rất thông minh nhưng hay đãng trí và sau này anh trở thành một nhà hóa học. Nhưng đối với những tay cảnh sát kia, anh chỉ là một tội phạm da đen và thế là anh bị bắt, bị tống giam. Mẹ tôi đi đi lại lại trong nhà suốt cả đêm sau khi mẹ nhận được tin chẳng lành đó. Ngày hôm sau mẹ có mặt ở nơi buộc tội Richie từ sáng sớm, ngồi ngay sau bàn của người biện hộ và khi mẹ nhìn thấy họ giải anh vào, thấy anh bị còng tay còn người thì bẩn thỉu sau một đêm bị tạm giam mẹ không thể kìm nén được cảm giác xót thương, bắt đầu lẩm bẩm, vò siết hai tay vào nhau như một người đàn bà đã hóa điên. Trong cơn lẩm bẩm đầy bấn loạn mẹ nghe thấy viên luật sư được tòa án chỉ định nghiêng người sang phía Richie và thốt ra cụm từ của một cố vấn luật pháp “nhận tội.” Mẹ đứng phắt dậy, hét lên: “Khoan đã!” Mẹ nhảy xổ qua những nhân viên của tòa án, hét lên với thẩm phán rằng sự buộc tội của tòa là nhầm lẫn, rằng từ trước đến giờ không đứa con nào của mẹ vi phạm pháp luật, rằng con trai của mẹ là một sinh viên. Vị thẩm phán da trắng nhận ra mẹ là người từng xuất hiện ở nhiều phiên tòa của người da đen liền cho phép mẹ bảo lãnh Richie và lời buộc tội sau đó bị xóa bỏ. Nhưng trải nghiệm ấy càng khiến mẹ có nhiều biện pháp mạnh đối với những đứa con nhỏ của mình hơn. Nhớ lại chuyện ngày xưa, tôi thấy mẹ mình quả là khá thông minh trong việc kiểm soát chúng tôi. Mẹ dựa nhiều vào hệ thống “hoàng đế/ nữ hoàng” mà mẹ thiết lập trong gia đình tôi từ lâu trước khi tôi ra đời: Con cả là vua hoặc nữ hoàng và bạn không thể không tuân lệnh người đó, bởi vì bạn là nô lệ. Khi người con cả rời gia đình đi học đại học, người con thứ hai nối ngôi. Hệ thống hoàng đế/ nữ hoàng mang đến cho chúng tôi khái niệm về trật tự, cấp bậc, và cái tôi. Nó tạo cho những anh chị lớn của tôi cảm giác mình là người có trách nhiệm quản lý, trông nom, nhưng thực ra chính mẹ mới là người trị vì thế giới của chúng tôi. Hệ thống đó cũng gợi lại cách dạy dỗ truyền thống của Do Thái chính thống nơi mà gia đình được điều hành bởi một nhân vật chiếm ưu thế với những luật lệ và quy định nghiêm khắc. Mặc dù gia đình tôi có sự lộn xộn, chúng tôi luôn ăn các bữa, luôn làm bài tập và đi ngủ vào giờ nhất định. Mẹ cũng liên kết với bất cứ người thân hoặc người bạn nào quan tâm đến các con của mẹ và thường gửi chúng tôi đến ở với bất cứ người thân nào đã hứa sẽ giúp chúng tôi cải thiện cách cư xử hoặc tính cánh, và nhiều người đã làm như họ hứa. Cái gia đình da đen đông đúc của chúng tôi là những lá bài của riêng mẹ, và mẹ chơi những lá bài đó thường xuyên theo sự đòi hỏi của hoàn cảnh bởi vì mẹ không thể nhờ vả đằng nhà đẻ của mình. Khi lớn lên có lúc tôi tôi chợt nghĩ rằng có vài người họ hàng mà chúng tôi chưa bao giờ gặp mặt. “Tại sao không có cô dì chú bác nào gần gũi với mẹ, mẹ nhỉ?” Một hôm tôi hỏi mẹ. “Mẹ có một người anh trai đã qua đời rồi còn em gái của mẹ… Mẹ không biết dì ấy hiện giờ ở đâu,” mẹ nói. “Tại sao mẹ lại không biết?” “Chị em mẹ ly tán.” “Như thế nào hả mẹ?” “Mẹ bỏ nhà đi.” “Bỏ nhà nhà đi ư?” “Bỏ nhà đi. Chết.” “Ai chết hả mẹ?” “Mẹ. Có lẽ bây giờ họ cũng chết rồi. Có khác gì chết đâu nào? Gia đình bên ngoại không muốn mẹ kết hôn với người da đen.” “Nhưng nếu bản thân mẹ là người da đen rồi thì làm sao họ có thể nổi điên với mẹ được cơ chứ?” Mẹ bí rồi. Tôi đã bắt thóp mẹ. Nhưng mẹ lờ câu hỏi của tôi đi. “Đừng có hỏi mẹ câu nào nữa.” Cha dượng của tôi, một nguồn thông tin tiềm tàng về gốc gác của mẹ, không giúp ích được gì. “Ồ, mẹ của con hả, con bận tâm đến mẹ của con thế nhỉ,” ông cằn nhằn khi tôi hỏi ông về gốc gác của mẹ. Cha dượng tôi yêu mẹ. Ông dường như không phiền chút nào trước thực tế mẹ là người da trắng, và điều đó khiến tôi lấy làm lạ, bởi vì rõ ràng mẹ khác biệt so với ông. Trong khi ông thoải mái và cởi mở về hầu hết các vấn đề trên thế giới, mẹ lại đầy hoài nghi, nghiêm khắc, và kín như bưng. Bất cứ khi nào mẹ bước ra khỏi nhà cùng chúng tôi, mẹ đều rơi vào một trạng thái tinh thần mà trong đó phạm vi chú ý của mẹ không vượt ra ngoài năm đứa trẻ đang bám đuôi mẹ và cái bóp nhỏ trong đó có một ít tiền mà mẹ luôn đếm cho đến đồng xu cuối cùng. Mẹ tuyệt đối không quan tâm đến một thế giới mà dường như bị kích động một cách khó tin trước sự hiện diện của chúng tôi. Những cái nhìn trừng trừng, những lời bình phẩm, những cái liếc mắt và những tiếng kêu tanh tách mà chúng tôi nghe thấy khi chúng tôi đi ra ngoài không lọt được vào đầu mẹ, nhưng lại lọt vào đầu tôi. Mười tuổi tôi đã có những cảm giác rất riêng biệt về bản thân và về tuổi trưởng thành sắp đến của mình, và việc đi ra ngoài với mẹ từng là một sự ưu tiên và niềm vinh dự khi tôi năm tuổi, khi ấy lại trở thành một điều đáng sợ. Những gì tôi cảm nhận được đã đẩy tôi đến chỗ xấu hổ về mẹ và tôi không muốn thế giới nhìn thấy người mẹ da trắng của mình. Khi tôi đi ra ngoài với bạn bè, tôi tránh nói cho mẹ biết chúng tôi sẽ chơi ở đâu bởi vì tôi không muốn mẹ đến chỗ chúng tôi chơi để tìm tôi. Tôi trở nên bí ẩn, thận trọng, tiêu cực, tức giận, sợ hãi, luôn luôn sợ con mèo xấu nết nhất ở khu chúng tôi sinh sống gọi mẹ mình là “honky”[10], và trong trường hợp đó tôi sẽ phải phản ứng và hậu quả là tôi sẽ bị đá vào mông. Một buổi trưa mẹ bảo tôi: “Mẹ con mình cùng đến cửa hàng đi.” “Con tự đi một mình được mà mẹ,” tôi nói. Tôi muốn giấu người mẹ da trắng của mình đi và muốn đến cửa hàng một mình. “Được thôi,” mẹ nói. Mẹ dường như không bực bội vì sự tự lập mới được phát hiện của tôi. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Tôi đi đến cửa hàng thực phẩm ở gần nhà. Chủ cửa hàng, một người đàn ông da trắng cục cằn giống như nhiều người da trắng ở St. Abans, đang đi ra khỏi cửa hàng thì mấy đứa trẻ da đen chúng tôi bước vào. Ông ta dường như không ưa những đứa trẻ da đen và rõ ràng ông ta không thích hoặc không thèm đếm xỉa đến tôi. Khi tôi trở về nhà, mẹ đặt hộp sữa mà ông ta đã bán cho chúng tôi lên bàn, mở nó ra và mùi sữa chua loét sực lên khắp phòng. Mẹ đóng nắp hộp sữa lại và đưa nó cho tôi. “Mang nó trả lại cửa hàng và lấy lại tiền của mẹ đi.” “Con phải làm việc đó ư?” “Mang nó đi.” Đó là một mệnh lệnh. Tôi là Đứa Nhỏ trong nhà chứ không phải đứa lớn nên không có tiếng nói và không thể gây ảnh hưởng với chủ nhân. Tôi phải tuân lệnh. Tôi lê chân trở lại cửa hàng, kinh hãi trước thử thách cuối cùng mà tôi biết chắc đang đến. Chủ cửa hàng trừng mắt nhìn tôi khi tôi bước vào. “Cháu phải trả lại hộp sữa này,” tôi nói. “Không phải ở đây,” chủ cửa hàng nói. “Hộp sữa này bị mở nắp rồi. Tao không nhận trả lại đâu.” Tôi trở về nhà. Mười phút sau mẹ xông vào cửa hàng, với dáng đi vòng kiềng báo hiệu sấm chớp sắp xảy ra - người mẹ ngả về phía trước, cằm mẹ bạnh ra, hai bàn tay mẹ siết thành nắm đấm, mũi mẹ đỏ ửng lên, chân mẹ dậm xuống mặt đất như Cab Calloway cùng với ban nhạc của Billy Eckstein đang chơi hết mình ở phía sau. Tôi ngượng ngùng đi theo mẹ, kế hoạch đến cửa hàng một mình không muốn để người mẹ da trắng của mình xuất hiện đã đổ bể hoàn toàn, và có kết quả trái với mong muốn. Mẹ tức giận đặt hộp sữa lên mặt quầy hàng, chủ cửa hàng nhìn mẹ, rồi nhìn tôi. Sau đó ông ta lại nhìn mẹ. Rồi ông ta lại nhìn tôi. Sự ngạc nhiên hiện rõ trên mặt ông chuyển thành sự tức giận, sự ghê tởm, và điều đó khiến tôi bất ngờ. Tôi cứ nghĩ ông ta sẽ nhìn mẹ và nghĩ ông ta và mẹ có điểm chung, rồi trả tiền lại cho mẹ và chúng tôi rời khỏi cửa hàng. “Hộp sữa này đã được bán rồi,” ông ta nói. “Ông ngửi mà xem,” mẹ nói. “Sữa hỏng rồi.” “Tôi không ngửi sữa. Tôi bán sữa.” Thế là họ đấu khẩu, tôi muốn nói rằng họ cãi nhau. Một đám đông trẻ da đen xúm lại, xem người mẹ da trắng của tôi cãi nhau với người đàn ông da trắng đó. Tôi muốn độn thổ và biến mất luôn. “Thôi, mẹ ơi…” tôi nói. Mẹ phớt lờ tôi đi. Trong chuyện tiền nong, thứ mà mẹ có rất ít, tôi biết có can ngăn như thế chứ hơn nữa cũng chẳng ăn thua. Mẹ nổi điên - “Đồ ngớ ngẩn… ông là đồ… đần!” - Mẹ nói lập bập lập bập như nói lắp, trong khi những đứa trẻ ở xung quanh hú hét như những con sói, thích thú trước cảnh cãi cọ. Một lúc sau rõ ràng người đàn ông ấy không có ý định trả lại tiền cho mẹ, vậy nên mẹ chộp lấy tay tôi bước ra cửa, khi ông ta buông một câu bình phẩm, một câu gì đó mà tôi không nghe rõ, một câu nói mà ông ta lẩm bẩm qua hơi thở, nhỏ đến nỗi tôi không thể nghe, nhưng nó khiến đám đông xì xào “ôi chao.” Mẹ tôi cứng người. Vẫn cầm hộp sữa trong tay phải, mẹ quay người lại ném thẳng nó về phía ông ta như ném một quả bóng. Ông ta cúi đầu xuống để tránh và hộp sữa bay sạt qua đầu ông ta, đập vào tủ đựng thuốc lá ở phía sau, khiến sữa và thuốc lá bắn tung tóe. Tôi không thể hiểu nổi nỗi tức giận đó. Tôi không thể hiểu được tại sao mẹ lại không bỏ hộp sữa đi. Tại sao mẹ lại gây ra sự lộn xộn này? Tôi cứ suy nghĩ mãi. Nỗi xấu hổ của chính tôi vượt trên mọi cảm giác. Khi tôi lê bước về nhà, nắm tay mẹ trong khi mẹ vẫn tức giận bừng bừng, tôi nghĩ sẽ dễ dàng hơn nếu như mẹ con tôi có cùng một màu da, cùng là người da đen, hoặc đều là người da trắng. Tôi không muốn là người da trắng. Các anh chị của tôi đã truyền cho tôi niềm tự hào là người da đen rồi. Tôi thích mẹ là người da đen hơn. Giờ đây khi đã lớn tôi cảm thấy xuất thân từ hai thế giới là một đặc ân. Quan điểm của tôi về thế giới không đơn thuần là quan điểm của một người da đen mà là quan điểm của một người da đen mang tâm hồn của người Do Thái. Tôi không coi bản thân mình là người Do Thái, nhưng khi tôi xem các bức ảnh về những người phụ nữ Do Thái là nạn nhân của nạn tàn sát người Do Thái dưới thời Hitler, những người có con bị phát xít Đức cướp đi, những người phụ nữ trông giống như mẹ của tôi và tôi nghĩ thầm: Chắc hẳn mẹ mình đã nhận được hồng ân của Đức Chúa Trời - và vì thế mình cũng được hưởng hồng ân đó. Khi tôi nhìn thấy hai bà cụ già bé nhỏ người Do Thái ngồi khẽ cười qua tách cà phê tại một quán ăn ở Manhattan, cảnh đó khiến tôi mỉm cười, bởi vì tôi nghe thấy tiếng cười của mẹ mình sau tiếng cười của họ. Ngược lại, khi tôi nghe “những lãnh tụ” da đen nói về “các chủ nô lệ người Do Thái” tôi cảm thấy tức giận và phẫn nộ, biết rằng họ làm mọi người bị kích động bằng những lời dối trá và bằng lịch sử bị bóp méo, cứ như thể cả bảy chủ nô lệ người Do Thái ở miền Nam trước chiến tranh phải chịu trách nhiệm về các vấn đề của người Mỹ gốc Phi hiện nay. Những lãnh tụ đó không hơn gì những đối thủ người Do Thái của họ, những người đảo các con số thống kê theo các cách lạ lùng để khiến cho người Mỹ gốc Phi bị coi là những kẻ hung dữ, tội phạm, những kẻ kéo lùi sự phát triển của xã hội, là “súc vật” (một từ khá phổ biến từng được dùng để miêu tả người da đen thời bây giờ). Tôi không thuộc bất cứ nhóm nào trong các nhóm ấy. Tôi thuộc về thế giới của Chúa, của nhân loại. Nhưng khi còn nhỏ tôi thích ở bên người da đen hơn, và thường ước gì mẹ cho tôi đi học ở trường dành cho người da đen như các bạn của tôi. Thay vì thế tôi mắc kẹt ở cái trường P.S. 138 dành cho người da trắng đó, giữa đám bạn học luôn tin rằng tôi có thể nhảy như James Brown. Họ liên tục quấy rầy tôi bắt tôi làm James Brown cho họ xem, vặn vẹo đôi bàn chân theo kiểu của “ông vua nhạc Soul”, một người nổi tiếng vào những năm sáu mươi. Tôi cố gắng giải thích cho họ rằng tôi không biết nhảy. Tôi luôn là một trong những người nhảy dở nhất mà Chúa gửi xuống trái đất này. Các chị gái của tôi dành nhiều giờ để học những điệu nhảy mới của các nhóm Archie, Drells, Martha Reeves, King Curtis, Curtis Mayfield, Aretha Franklin, và Spinners. “Nào, nhảy đi!” các chị gào lên và nhảy điệu bu-gi quanh phòng. Ngay cả mẹ tôi cũng tham gia, nhảy cuồng nhiệt, nhưng khi nhập hội tôi nhảy trông rất buồn cười, vụng về đến mức các chị tôi cười lăn ra sàn nhà. “Thôi thôi,” các chị nói “Mày không biết nhảy.” Những đứa trẻ da trắng ở trường không tin tôi, và sau vài tuần được khích lệ tôi nhận thấy mình đứng trước cả lớp trong ngày biểu diễn tài năng, đi đôi giày đẹp của anh tôi, xốc cạp quần, theo phong cách của một ca sĩ thuộc nhóm Temptations, trong khi một người nào đó thả cần quay lên mặt đĩa nhạc của James Brown. Tôi lướt nhẹ theo cách mà tôi đã xem ca sĩ đó thường thể hiện, gào lên “Owwww-shabba-na!” Mọi người tỏ vẻ thích thú. Thậm chí cả cô giáo cũng phấn khích. Mọi người thực sự tin rằng tôi có thể nhảy! Tôi đã lừa họ. Họ la hét yêu cầu tôi biểu diễn nữa, và tôi buộc phải tiếp tục, nhảy bật lên, và tiếp đất gần tấm bảng đen bằng một cú xoạc chân, trong khi miệng gào to “Eeeee-Yowwww!” Các bạn của tôi phát rồ, nhưng ngay cả khi tôi ngồi xuống với tiếng vỗ tay của họ vang vang bên tai, với tiếng cười dành cho mình, cảm thấy hạnh phúc vì được chấp nhận, cảm thấy mình đã trở thành một phần trong số họ, biết rằng tôi đã làm cho họ vui thích, tôi vẫn nhận thấy sự nhạo báng trên mặt họ, trong nụ cười của họ, trong tiếng cười dành cho sự kỳ cục, và tôi cảm thấy một nỗi nhức nhối giống như nỗi nhức nhối tôi đã từng cảm thấy khi nhìn hình ảnh của chính mình trong gương. Tôi nhớ thằng bé ở trong gương, nhớ nó đã tự do như thế nào, và tôi thậm chí càng ghét nó hơn. N 11 Bạn trai ếu có đối tượng nào Tateh ghét hơn ghét người ngoại đạo, thì đó là người da đen. Và nếu có đối tượng nào ông ghét hơn cả ghét người da đen nói chung thì đó là đàn ông da đen. Vậy nên cũng có lý khi người đầu tiên mà mẹ đem lòng yêu trong đời lại là một người con trai da đen. Mẹ không cố ý làm thế. Mẹ là một đứa con gái ít nhiều có tính nổi loạn ngấm ngầm nhưng cái tính ấy của mẹ không mạnh đến mức khiến mẹ muốn đặt cuộc sống của mình hay của bất cứ ai khác vào vòng rủi ro. Ở miền Nam ngày ấy người ta có thể giết chết một người đàn ông da đen chỉ vì anh ta dám theo đuổi một phụ nữ da trắng. Họ treo cổ anh ta. Còn cô gái da trắng nào yêu trai da đen thì sẽ bị đuổi khỏi cộng đồng. Ai muốn hứng chịu những rắc rối đó cơ chứ? Nhưng khi mẹ ở tuổi mới lớn, mẹ muốn những gì mà bất cứ đứa con gái nào ở tuổi của mẹ cũng muốn. Mẹ muốn có một mối tình, có váy áo đẹp, muốn hẹn hò. Trước đó mẹ chưa bao giờ được trải nghiệm những điều ấy. Cuộc sống của mẹ là cái cửa hàng của gia đình. Cuộc sống của mẹ không thay đổi từ khi mẹ đến tuổi đi học. Sự thay đổi duy nhất mà mẹ có được là khi Mameh gửi mẹ đến ở nhà họ hàng ở New York vào mỗi mùa hè, nhưng thực ra, trách nhiệm dồn lên vai mẹ nặng thêm kể từ sau khi bác Sam của con bỏ nhà đi. Lịch làm việc hàng ngày không thay đổi. Mẹ mở cửa hàng lúc bảy giờ, đi học lúc ba giờ, tan học phải về nhà ngay lập tức và làm việc đến mười giờ, sau đó lăn ra ngủ. Mẹ làm việc quần quật cả những ngày cuối tuần trừ lễ Sabbath, rồi thứ Hai lại đến trường. Sự tự do duy nhất mà mẹ có được là lấy những đồng xu trong ngăn kéo của cửa hàng và xuống phố cùng với Dee-Dee mua những cuốn tạp chí lãng mạn như Tạp chí Tình yêu đích thực, Sự lãng mạn thật sự. Họ xé trang bìa của những cuốn tạp chí chuyên về chuyện tình cảm lãng mạng bị ế và bán đồng giá mười xu. Bọn mẹ đọc chúng dưới ánh nến trong lễ """