"
Matsuo Bashō - Bậc Đại Sư Thơ Haiku PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Matsuo Bashō - Bậc Đại Sư Thơ Haiku PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Nguyên tác: Ueda Makoto
Biên dịch và bình chú: Nguyễn Nam Trân
MATSUO BASHÔ
Bậc Đại Sư Haiku
Bashô trên đuờng du hành (tranh của Morikawa Kyoriku 森川許六 1656-1715, một đệ tử)
1
Để tưởng niệm Vĩnh Sính (1944-2014), một
nhà Nhật Bản Học tiên phong và người ngưỡng mộ Bashô.
2
Mục Lục
Lời nói đầu ......................................................................................trang 4 Chương 1: Bashô hai cuộc hoá thân...............................................trang 5 Chương 2: Bashô và Haiku ...........................................................trang 28
Chương 3: Bashô và Renku ...........................................................trang 74 Chương 4: Tản văn Bashô ............................................................trang 126 Chương 5: Bashô bình thơ ............................................................trang 174 Chương 6: Di sản Bashô ................................................................trang 204 Kết từ ...............................................................................................trang 221 Thư mục tham khảo .......................................................................trang 222
3
Lời Nói Đầu
Có nhà nghiên cứu phỏng định rằng cứ 100 người ngoại quốc muốn tìm hiểu về văn học Nhật Bản đã có 80 người đặt trọng tâm vào haiku và cứ 100 người học hỏi haiku thì lại có 80 người chọn Bashô làm chủ đề. Thế mới biết vai trò của Bashô trong văn học Nhật Bản quan trọng như thế nào.
Bashô là một thiên tài nhưng khi ông sinh ra, đã không mang theo chiếc đũa thần biết chỉ đá thành vàng. Thành công đạt được đều theo một quá trình lao động trí thức bền bĩ cho dù cuộc đời ông ngắn ngủi. Như cây cọ của Picasso, ngọn bút của nhà thơ trải qua nhiều thời kỳ. Trong lãnh vực tản văn cũng như thi ca, Bashô đều có thái độ sáng tạo qua học tập. Vì thế người đời sau càng tôn kính và yêu mến ông.
Riêng Ueda Makoto - người chấp bút quyển sách này – là một nhà giáo đã có công phổ biến văn học Nhật Bản trong cộng đồng người nước ngoài. Ông sinh năm 1931 tại Kobe, tốt nghiệp Đại học Kobe năm 1954, chuyên ngành Văn học đối chiếu. Xong Cao học Đại học Nebraska (1956) , ông hoàn thành học vị Tiến sĩ tại Đại học Washington (1961). Đã giảng dạy các đại học Washington, Indiana và Toronto trước khi trở thành giáo sư Đại học Stanford. Tác phẩm “Matsuo Bashô, The Master Haiku Poet” (1970) của ông viết bằng Anh ngữ mà người viết sử dụng là một quyển sách khổ nhỏ và mỏng (chưa đến 200 trang) nhưng có tính sư phạm cao, giúp người ngoại quốc chúng ta có một cái nhìn toàn diện về Bashô, không riêng lãnh vực haiku theo nghĩa hẹp mà cả trong nghĩa rộng của nó (haikai hay bài hài), bao gồm các thể loại renku (liên cú), haibun (bài văn) cũng như hairon (bài luận), tóm lại là thi pháp haiku nói chung.
Trong tập tiểu luận gồm 6 chương dưới đây, thuật ngữ chính thức dùng khi nhắc đến thể thơ Bashô yêu thích là haiku nhưng xin nhớ cho rằng, vào thời Edo, những từ haikai (bài hài) hokku (phát cú) mới thật thông dụng. Thuật ngữ ngắn gọn haiku được thấy một đôi lần trong tác phẩm Bashô nhưng chỉ phổ cập từ khi có Masaoka Shiki (1867-1902), một nhà thơ cách tân thời Meiji.
Các tựa đề do người dịch phóng tay đặt tạm. Chú thích, niên biểu, minh họa và cảm tưởng cũng của Nguyễn Nam Trân dựa trên những tư liệu khác thấy trong thư mục và theo ý kiến riêng.
Nguyễn Nam Trân Tôkyô ngày 20 tháng 8 năm 2014
4
Chương 1
BASHÔ HAI CUỘC HÓA THÂN
Nhà thơ và lữ khách
Dẫn Nhập:
Bài viết dưới đây phỏng dịch chương thứ nhất tác phẩm “Matsuo Bashô, The Master Haiku Poet” (1970) của giáo sư Ueda Makoto giới thiệu thân thế, sự nghiệp và thời đại của nhà thơ Bashô, đặc biệt giải thích hai cuộc hoá thân trong cuộc đời ông. Làm thế nào người samurai cấp thấp Matsuo Munefusa đã trở thành ông thầy haikai Tôsei rồi cuối cùng là bậc đại sư haiku Bashô? Thế rồi, làm thế nào một kẻ lang bạt trở thành thi nhân và thi nhân đó đã chọn sống đời phiêu lãng?
Hình ảnh quen thuộc của nhiều thế hệ
Mùa xuân năm 1681, có hôm một bụi chuối đã được đem đến trồng bên túp lều con ở khu vực hoang sơ thuộc thành phố Edo, ngày nay được biết dưới cái tên Tôkyô. Bụi chuối ấy là món quà do một cư dân nơi đây đem tặng ông thầy dạy mình làm thơ. Ông này vừa mới dọn vào túp lều ấy cách đó có mấy tháng. Vị thầy - người đàn ông khoảng 36 tuổi - rất hài lòng với món quà. Ông yêu bụi chuối bởi vì tình cảnh của nó ở nơi này có phần nào giống bản thân mình. Những tàu lá rộng mềm mại, dễ bị rách tơi mỗi khi có
5
trận gió mạnh thổi đến từ biển. Buồng hoa chuối nhỏ không đập vào mắt ai. Bụi chuối ấy có vẻ đơn chiếc làm như nó biết mình không thể nào kết trái giữa cái thời tiết mát mẻ của xứ Nhật. Nhành lá dài và tươi tắn nhưng chẳng dùng được vào việc gì cụ thể.
Người thầy sống một mình trong túp lều. Nhiều đêm, khi không có khách đến thăm, ông có thể ngồi trầm ngâm, nghe tiếng gió thổi qua những tàu chuối. Không khí đơn chiếc còn cảm thấy sâu lắng hơn nữa vào những đêm mưa. Nước dột từ trên mái rơi tí tách vào lòng chậu đặt bên dưới. Trong đôi tai của nhà thơ đang ngồi trong gian phòng lờ mờ
tối, âm hưởng đó hòa điệu một cách lạ lùng với tiếng lá chuối xào xạc bên ngoài.
Bashô nowaki shite
Tarai ni ame no
Kiku yo kana
Chuối trụ giữa bão thu
Nước dột rơi vào chậu,
Tí tách đêm nằm nghe.
Bài haiku như gợi cho ta thấy nhà thơ biết rằng tâm cảnh của mình có cái gì đồng điệu với bụi chuối kia.
Một vài người khách đến thăm nhà thơ đã nhận ra sự đồng điệu ấy. Một số khác có thể chỉ xem bụi chuối như cái mốc đánh dấu thông thường của một cuộc đất. Dù sao, lần hồi họ quen gọi chỗ đó là Am Bashô (芭蕉庵 Ba Tiêu Am) và cái tên đó lại được đặt cho người cư trú ở đấy. Từ đó nhà thơ được biết như là Bashô, am chủ am Bashô hay Bashô tiên sinh. Khỏi phải nói, nhà thơ cũng vui lòng chấp nhận danh hiệu ấy. Ông đã sử dụng nó cho đến cuối đời.
I) Cuộc hóa thân thứ nhất: Kẻ lang bạt trở thành thi nhân:
Chúng ta không có bao nhiêu dử liệu liên quan đến cuộc đời của Bashô cho đến khi ông dọn vào Am Bashô. Người ta tin rằng ông đã chào đời vào năm 1644 một nơi gần Ueno thuộc phiên trấn Iga (伊賀上野 Iga Ueno), cách Kyôto chừng 30 dặm về phía nam và cách Edo 200 dặm về phía tây. Người ta gọi ông là Kinsaku 金作(và vài cái tên khác) lúc ông còn thơ ấu. Ông có một anh trai và bốn chị em. Cha ông, Matsuo Monzaemon 松尾門左衛門, có lẽ là một samurai thuộc cấp và theo nghiệp nông trong thời bình. Địa vị xã hội của gia đình tuy đáng kính nhưng không thể hứa hẹn cho cậu bé Kinsaku một tương lai sáng sủa nào nếu cậu cứ tiếp tục sống cuộc sống bình lặng, giữ chặt nếp nhà.
Sự nghiệp của Bashô cũng bắt đầu một cách không có gì đặc biệt. Người ta phỏng định chàng trai đã vào hầu việc một ông chủ trẻ, Tôdô Yoshitada (藤堂良忠 Đằng Đường Lương Trung), thân thích của vị lãnh chúa cai quản phiên trấn. Chàng Bashô buổi đầu phụng sự chủ nhân như một kẻ tùy tùng hay có một chức phận tương đương1. Chủ nhân, lớn hơn ông hai tuổi, có vẻ mến Bashô, hai người xem ra đồng điệu trong nhiều lãnh
1 Gần đây có thuyết cho rằng được thuê làm người hầu cận hay giữ việc bếp núc, trông coi lương thực cho gia đình Yoshitada.
6
vực khi họ cùng lớn lên bên nhau. Sợi giây ràng buộc họ chặt chẽ hơn cả là haikai, một thú tiêu khiển hàng đầu của những con người tao nhã thời ấy. Hình như Yoshitada rất thích sáng tác thơ, ngay cả có riêng một bút hiệu, Sengin (蝉吟 Thiền Ngâm). Không hiểu có phải là kích thích đầu tiên đến từ chủ nhân hay chăng mà Bashô đã bắt đầu học đòi sáng tác haikai dưới bút danh Tôsei (桃青 Đào Thanh)2. Bài thơ đầu tiên của Bashô ngày nay còn được giữ lại viết ra vào năm 1662. Đến năm 1664, hai bài của Bashô và
một bài của Yoshitada được đăng trong một tuyển tập xuất bản ở Kyôto. Năm sau, Bashô, Yoshitada và hai người khác họp nhau làm một renku (liên cú) gồm 100 vần (1 vần có thể là cú 3 câu và cú 2 câu), trong đó Bashô đóng góp 18 cú. Đó là những câu thơ đầu tiên của Bashô dưới loại hình này.
Cuộc đời của Bashô cứ như thế mà bình lặng trôi qua, và tưởng chừng như ông có thể thỏa mãn với chức phận một samurai cấp thấp, có đủ thời giờ rảnh rổi làm thơ tiêu khiển cho đến cuối đời. Từ lúc đến tuổi thành nhân ông đã có cái tên chính thức kiểu samurai là Matsuo Munefusa hay Matsuo Sôbô (松尾宗房 Tùng Vĩ Tông Phòng). Thế nhưng vào đúng mùa hè năm 1666, một chuỗi biến cố hoàn toàn thay đổi cuộc sống của ông. Yoshitada đột ngột qua đời. Người em của ông ta tập ấm chức tước của anh như người đứng đầu dòng họ và trở thành người chồng mới của vợ anh mình. Hình như Bashô đã từ giã chức vụ vào lúc đó và chẳng bao lâu sau, ông bắt đầu sống đời lang bạt.
Nhiều giả thuyết được nêu ra để thử giải thích lý do ông “thoát phiên” (bỏ xứ mà đi), việc ấy có nghĩa là ông mất danh hiệu samurai. Một lý do có thể hiểu được là sự đau đớn của ông trước cái chết của Yoshitada, chủ nhân mà ông có mối giao tình thật gần gủi. Có một truyện ký về Bashô cho biết ông muốn tự sát để đi theo chủ về thế giới bên kia nhưng lúc đó pháp luật thời Edo đã ngăn cấm việc hũy mình (tuẫn tử). Một lý do khác còn đầy tính thuyết phục hơn là việc Bashô cảm thấy hết sức bi quan cho tương lai của mình vì người chủ mới là kẻ ông không thân thiết vì chưa hề được hầu cận trước đó. Cũng như Yoshitada có Bashô, người thừa kế này hẳn có những tôi tớ tay chân mà ông sủng ái vì đã cùng lớn lên với ông ta. Những kẻ đó có thể ngăn cản Bashô gia nhập vào nhóm người thân cận của vị chủ mới cho dù Bashô không hề cảm thấy có một thái độ thù địch nào đến từ phía họ. Sự thực đến nay vẫn chưa được rõ nhưng chắc chắn rằng tương lai của Bashô như người samurai đã bị che lấp bởi một đám mây u ám từ sau cái chết của chủ nhân mình.
Vài giả thuyết khác về việc Bashô bỏ phiên trấn ra đi dính líu đến cuộc đời tình ái của ông. Vài truyện ký về buổi đầu của ông cho biết ông có một mối quan hệ tình cảm với người vợ của ông anh hay với một người thị nữ của Yoshitada, thậm chí với một ái thiếp của Yoshitada. Có thể đây chỉ là cấu tưởng trong tâm trí của những nhà viết truyện ký
muốn tô lục chuốc hồng để tuổi thanh xuân của nhà thơ có đôi phần cụp lạc. Thế nhưng trong đó một thuyết có thể gần với sự thực. Bashô quả là có một người tình nhân, sau trở thành ni cô với pháp danh Jutei (寿貞 Thọ Trinh). Bà đã có thể sinh cho ông một hay vài người con. Dù sao, nó giải thích cho ta được một số việc: trong thời kỳ thanh niên, Bashô, như mọi người đồng lứa, đã nếm đủ mùi vị đau thương và vui thỏa của cuộc đời.
2 Theo Takeda Tomohiro trong luận đề của ông về Oku no hosomichi, cho biết vì ngưỡng mộ Lý Bạch, Bashô đã lấy hài hiệu (biệt hiệu để viết haiku) là Đào Thanh. Đào đối với Lý và Thanh đối với Bạch.
7
Những năm tháng tiếp đến của Bashô không có mấy chi tiết. Thường thường, người ta bảo ông đã lên Kyôto, lúc đó là kinh đô của Nhật Bản. Nơi đây ông dã học triết lý, thi ca và thư pháp dưới sự chỉ đạo của nhiều vị thầy tên tuổi. Tuy vậy, có lẽ ông không sống thường xuyên ở Kyôto mà nhiều khi trở về quê hương qua những chuyến đi dài. Cũng có thể ông vẫn loanh quanh ở Ueno và các vùng phụ cận, lâu lâu mới lên Kyôto một lần. Chắc hẳn lúc bấy giờ, ông hãy chưa có ý định trở thành nhà thơ. Bởi vì về sau, trong một bài viết, ông có lần ngỏ ý mình đã “muốn trở thành quan lại để hưởng lộc điền”. Lúc ấy, ông còn trẻ và đầy tham vọng, tự tin vào tiềm năng của mình. Chắc ông chỉ muốn trau giồi học vấn để bảo đảm một tương lai sáng sủa trong xã hội. Có lẽ ông muốn nhìn thấy thế giới bên ngoài nơi mình sinh trưởng và gặp gỡ nhiều loại người.Với sự hiếu kỳ của tuổi trẻ, có lẽ ông đã thử hết những thú vui thời thượng mà lớp trẻ phóng đãng lúc ấy yêu chuộng. Có lần ông còn viết: “Đôi lúc tôi cũng bị ám ảnh bởi những chuyện đồng tính luyến ái!”.
Một điều không thể chối cãi là cái thú sáng tác chưa hề giảm sút nơi Bashô. Một tuyển tập ra đời năm 1667 đăng đến 31 bài haiku ông viết. Ngoài ra thơ của ông còn được đăng tải trong 3 tuyển tập biên tập vào thời kỳ từ 1669 đến 1671. Tên tuổi của ông từ đấy được rất nhiều nhà thơ ở kinh đô biết tới. Và như thế, đồng thời ông cũng nhận được sự kính nể của những nhà thơ ở tỉnh nhà. Khi Bashô có ý định biên tập tuyển tập thơ haikai đầu tiên thì đã có hơn 30 thi nhân đồng ý tham gia. Tuyển tập thơ đó mang tên Trò chơi bốc vỏ sò (貝ほひい Kai Ôi) đã được đem cúng dường cho một ngôi đền ở
Ueno rất sớm vào năm 1672.
Trò chơi bốc vỏ sò trình bày những vần thơ được dự thi trong một cuộc thi thơ với 30 hiệp đấu, mỗi vần thơ là do một nhà thơ khác nhau làm ra. Chúng được ghép lại thành đôi và đánh giá bởi Bashô. Dù chính ông đã đóng góp 2 bài cho cuộc thi nhưng giá trị chủ yếu của thi tập nằm ở những lời bình luận và trọng tài của thi hào. Nổi bật lên trên toàn thể tập thơ là sự nhanh trí tuyệt vời và trí tưởng tượng giàu sắc thái của người chủ khảo này, chưa nói đến sự thông hiểu về thi ca dân gian, cách diễn tả thời thuợng cũng như về những hướng đi mới trong xã hội đương thời của ông. Dường như Bashô đã biên tập cuốn thơ đầu tiên ấy trong một tâm trạng vô cùng thoải mái nhưng tài năng thi ca của ông không vì thế mà không được bộc lộ rõ ràng.
Sau đó, có lẽ vào mùa xuân năm 1672, Bashô đã quyết định đi Edo và hầu như không có ý định quay về miền Tây tức khắc. Khi lên đường, ông đã viết bài haiku sau đây để tạng người bạn còn ở lại Ueno:
Kumo to hedatsu
Tomo ka ya kari no
Ikiwakare
Chòm mây đã chia phôi,
Tôi bạn hai ngã đời
Sinh ly như hồng nhạn.
Không hiểu Bashô muốn lên Edo với động cơ gì! Có lẽ sau khi đã thu thập được chút ít
8
học vấn, ông muốn tìm một chức vị có tương lai ở Edo, lúc bấy giờ là một chốn phồn hoa đang đà phát triển mạnh mẽ, tạo ra nhiều cơ hội công ăn việc làm. Hay có lẽ vì được khuyến khích bởi những thành công ở quê nhà với Trò chơi bốc vỏ sò mà ông muốn trở thành nhà thơ chuyên nghiệp mà đến đó để tìm chút danh tiếng? Hoặc giả Bashô có cả hai mục đích một lúc bởi ông là một thanh niên đầy tham vọng. Dù ông muốn trở thành một viên chức nhà nước hay ông thầy dạy haikai thì Edo - chứ không phải Kyôto - mới là nơi dễ thực hiện được giấc mộng ấy. Lúc đó, lòng ông hãy còn đầy âu lo và muốn thử thách tài năng trong một môi trường khác, tự do hơn.
Cuộc đời Bashô từ đó cho đến tám năm về sau lại là một mảng tối khác. Có người kể lại là trong những ngày đầu tiên, ông sống lây lất từ nhà ân nhân này qua ân nhân kia. Điều này có thể xác thực nhưng chúng ta không nghĩ Bashô có thể nương tựa vào người khác một cách lâu dài. Nhiều giả thuyết, nhưng không giả thuyết nào hoàn toàn có tính thuyết phục, cho biết ông lúc thì phụ việc cho một ông lang, lúc thì làm thư ký hàng quận, lúc đi giữ việc từ hàn cho một nhà thơ. Giả thuyết được đa số chấp nhận hơn cả là có thời Bashô làm việc trong ngành thủy lợi địa phương. Về sau, như để nhắc nhở lại giai đoạn này, ông có lần viết: “Có lúc ta đã ngán ngẩm với việc làm thơ và muốn ngưng quách nhưng có lúc ta lại định theo đuổi nghiệp thơ cho đến khi tên tuổi vuợt lên trên mọi người. Những lựa chọn đối nghịch này cứ dằn vặt tâm trí ta mãi”.
Tuy vẫn mang trong lòng mâu thuẫn như thế nhưng Bashô vẫn tiếp tục làm thơ trong khung cảnh thành phố mới này.Mùa hè năm 1675, ông có dịp tham gia cùng một số nhà thơ trong đó có một thi sĩ tên tuổi để làm một liên ngâm bách vận. Dưới bút hiệu Tôsei, ông đóng góp 8 cú. Mùa xuân năm sau, cùng với một nhà thơ khác, ông viết hai renku nữa và mỗi renku cũng đều có 100 vần. Cuối năm, ông lên dường về thăm tỉnh nhà và sau đó, ông dốc hết thời gian dành cho việc sáng tác. Có thể hiểu vào lúc này, ông đã quyết định trở thành nhà thơ chuyên nghiệp (haikaishi) nếu không phải là trước đó không lâu. Tác phẩm của ông bắt đầu được đăng tải ở nhiều tuyển tập và theo đà ấy, tên tuổi ông vang dậy.Vào dịp năm mới, hình như ông đã phát tặng một tập thơ nho nhỏ cho những người trong vòng quen biết, một “thủ tục” chỉ được cho phép nơi một nhà thơ haikai đã thành danh.Vào mùa đông cùng năm, ông đứng ra làm chủ khảo hai cuộc thi thơ và khi người ta xuất bản tập ký lục nhan đề Cuộc thi thơ haiku 18 hiệp (十八番発句 合わせ Juuhachiban Hokku Awase) thì trong đó thấy có lời bình của Bashô viết cho mỗi hiệp đấu. Đến mùa hè năm 1680 thì xuất hiện tuyển tập Những vần thơ hay nhất của 20 môn đệ Tôsei (桃青門弟独吟二十歌仙 Tôsei Montei Dokugin Nijikkasen) và điều này cho thấy lúc đó Bashô đã qui tụ được bên mình một số đáng kể những thi nhân có tài. Cùng trong năm, hai đệ tử đầu đàn của ông đã “chạm trán” với nhau trong hai cuộc thi thơ mang tên Hội bình thơ dân dã (田舎句合わせ Inaka Ku-awase) và Hội bình thơ trường xuân (常盤屋句合わせ Tokiwaya Ku-awase). Vào những dịp ấy, Bashô cũng được mời đóng vai trò chủ khảo. Mùa đông, các đệ tử dựng một ngôi nhà nhỏ trong khu vực yên tĩnh, xưa cũ của thành Edo và biếu nó cho thầy. Vài tháng sau, họ mang một bụi chuối đến trồng trong sân và đặt tên cho túp lều ấy là Am Bashô (Bashô-an), một cái tên nổi tiếng mãi đến bây giờ. Bashô đã trở thành nhà thơ tiếng tăm và lần đầu tiên trong đời có được mái nhà riêng.
II) Cuộc hóa thân thứ hai: thi nhân trở thành kẻ lang bạt:
9
Bashô rất biết ơn được tặng cho một mái nhà nhưng không sống được ở đấy một cách ấm êm. Danh tiếng thi ca của ông càng nổi như cồn và tiện nghi vật chất càng thoải mái thì ông lại đâm ra bất mãn với bản thân. Trong những năm tháng tranh đấu, ông có một mục đích cụ thể, một lý tưởng để đạt đến. Mục đích đó ngày nay đã toại nguyện nhưng sao ông thấy nó không xứng đáng với những công sức mình bỏ ra. Ông có bao nhiêu là
người tài trợ, bạn bè, học trò mà vẫn có cảm giác cô đơn hơn bao giờ hết. Sau đây là một trong những bài haiku ông viết lúc dọn đến Am Bashô:
Shiba no to ni
Cha wo konoha kaku
Arashi kana
Bao nhiêu lá trà rụng,
Tấp vào cánh cửa sài.
Bão vừa dậy chăng ai?
Nhiều bài thơ làm trong giai đoạn này - kể cả bài viết về bụi chuối – luôn luôn có một giọng điệu ưu tư quá mức. Trong lời đề từ trên đầu một bài thơ ấy, Bashô đã viết: “Khi ngắm vầng trăng, ta cảm thấy cô đơn. Cô đơn nghĩ về bản thân và ta cảm thấy nỗi cô đơn đó khi suy tư về cuộc đời chẳng ra gì của mình. Ta muốn gào to lên là tôi đang cô độc đây nhưng chẳng một ai đặt câu hỏi xem tâm trạng của ta như thế nào!”.
Dường như để thoát ra khỏi sự hoảng loạn tinh thần đó mà Bashô bắt đầu tập tu thiền dưới sự chỉ đạo của nhà sư Butchô 仏頂 (Phật Đính, 1642-1715), tình cờ lại là láng giềng của ông. Lúc ấy, chắc chắn ông phải rất quyết tâm và đã tu hành nghiêm cẩn như về sau có lần nhắc lại: “...và vào một thời điểm khác, ta đã lo rằng sẽ khép mình giữa bốn bức tường tự viện”. Cô độc, buồn khổ, đánh mất ảo ảnh, bất an...không hiểu đâu là vấn đề chính nhưng rõ ràng là ông đã khốn đốn vì chúng.
Một số sự việc đã xảy ra trong vòng hai năm sau đó, lại làm cho ông khốn khổ thêm. Mùa đông năm 1682, am Bashô đã bị lửa thiêu trụi khi một trận hỏa hoạn lớn tàn phá cả một vùng lân cận. Bashô lại trở thành kẻ không nhà và có lẽ ý tưởng “con người vĩnh viễn là kẻ lang thang không bến đỗ” bắt đầu xuất hiện và càng càng càng ám ảnh tâm hồn ông. Chỉ vài tháng sau ông lại nhận được tin từ quê nhà cho hay mẫu thân đã qua đời. Nhân vì thân phụ ông mãn phần từ năm 1656, bây giờ chẳng những ông không còn nhà cửa mà cũng chẳng còn có mái ấm mẹ cha để có thể trở về.
Riêng về mặt tiếng tăm giữa làng thơ thì lúc đó Bashô và các đệ tử của ông đã đi từ thành công này sang thành công khác. Mùa hè 1683, họ đã xuất bản Những hạt dẻ rỗng (Minashiguri), một tuyển tập haikai mà nội dung của nó cho thấy có một sự khước từ những chủ đề thô kệch và hạ cấp và một sự sử dụng nhuần nhuyễn cách phát âm có hương vị Trung Quốc, làm cho ta phân biệt được nhóm tác giả của nó với những người làm thơ đương thời. Mùa đông năm ấy, khi kẻ không nhà là Bashô trở về từ một chuyến đi ngắn xuống tỉnh Kai, bè bạn và học trò một lần nữa lại quyên góp để dựng lại cho thầy một Am Bashô mới. Ông rất hài lòng nhưng không vì thể mà vơi được nỗi buồn cố hữu. Ông có bài thơ viết lúc nhập cư như sau:
10
Arare kiku ya
Kono mi wa moto no
Furugashiwa
Nghe tiếng mưa đá rơi,
Nhưng mình nào khác xưa,
Một thân sồi già cỗi.
Cả thành công về mặt thi ca lẫn sự yên ổn được sống dưới một mái nhà không đem lại cho ông một nguồn an ủi đáng kể nào. Trong tâm tưởng, từ lâu ông đã trở thành một kẻ lang bạt mất rồi và ông chỉ có nước tiếp tục sống bằng cách tuân theo sự thôi thúc đó.
Vì thế mà vào mùa thu 1684, Bashô đã làm cuộc hành trình đáng kể đầu tiên của ông. Trước đó, ông đã đi rất nhiều nhưng chưa có cuộc lữ hành nào nhắm vào mục đích tư duy hoặc thi ca. Qua cuộc hành trình này, ông chờ đợi nhiều điều, trong đó có cả sự đối mặt với cái chết và những khả năng như thế sẽ giúp ông chỉnh lý lại được tâm trí cũng như thi ca của mình. Ông gọi chuyến đi đó là chuyến đi “xương trắng bị mưa vùi gió dập” (ý tưởng thấy trong Dọc đường mưa gió, Nozarashi Kikô) nghĩa là ông đã sẳn sàng để bỏ rơi thân xác cho thiên nhiên tha hồ tàn phá nếu như đó là định mệnh của mình. Đối với chúng ta thì ý tưởng này có vẻ cực đoan nhưng phải nên nhớ rằng thân thể Bashô sinh ra đã rất èo uột và ông lại mắc vài chứng bệnh kinh niên. Ngoài ra, vào thế kỷ 17, việc di chuyển ở Nhật hãy còn vô vàn nguy hiểm và đầy bất trắc chứ không như bây giờ.
Chuyến đi nói trên rất dài, nó đưa ông qua hơn một chục tỉnh nằm giữa Edo và Kyôto. Từ Edo, ông men theo con đường lớn dọc bờ biển Thái Bình Dương đi về miền Tây, đã có dịp đến dưới chân ngọn Fuji, vượt nhiều con sông rộng và thăm được cả Đại thần cung Ise. Cuối cùng, ông đặt chân lên Ueno quê nhà, đoàn tụ với thân thích bạn bè. Người anh lớn đã mở cái túi đựng di vật và cho ông xem một nhúm tóc bạc mà người mẹ quá cố đã để lại:
Te ni toreba
Kien namida zo atsuki
Aki no shimo
Cầm lấy giữa lòng tay,
Tan theo lệ nóng bỏng,
Là một giải sương thu.
Đây là một bài thơ hiếm hoi của Bashô vì nó không kìm hãm được tình cảm của ông. Có lẽ sự đau đớn vì mất đi người mẹ đối với ông quá ư to tát, không sao chịu nổi.
Được vài hôm sau, Bashô đã giã từ cố hương Ueno để nối dài cuộc hành trình. Lần này, ông đến thăm một ngôi đền trong núi và cùng các nhà thơ địa phương mở một hội thơ. Đó là thời điểm sáng tác Mặt trời mùa đông (Fuyu no hi), một chùm thơ gồm 5 renku (thơ liên ngâm), trong đó lòi thơ không còn có tính cách trí thức hay cơ trí mà đã trở nên trữ tình, đánh dấu được giai đoạn chín muồi của thi pháp Bashô. Thế rồi ông quay về
11
đón Tết Nguyên Đán ở Ueno lần đầu tiên sau bao năm xa quê. Ông còn đi thăm Nara và Kyôto thêm một vài lần nữa và cuối cùng khi Bashô trở lại Edo thì đã là mùa hạ năm 1685.
Chuyến đi đem lại nhiều thành quả. Bashô đã gặp được bao nhiêu bạn bè cũ mới. Ông đã sáng tác được một số haiku và renku nhờ những kinh nghiệm thu thập được trong chuyến lữ hành này, kể cả những bài trong Mặt trời mùa đông. Ông đã viết được tập văn du ký đầu tiên Dọc đường mưa gió (Dã sái kỷ hành, Nozarashi Kikô). Thông qua chuỗi kinh nghiệm này, Bashô đã dần dần biến hóa. Trong phần sau của tập văn du ký nói trên, ta thấy có bài thơ ông dịp vào dịp cuối năm:
Toshi kurenu
Kasa kite waraji
Hakinagara
Một năm nữa vừa tàn,
Trên đầu vẫn nón lá,
Dép cỏ ruổi đường xa.
Bài thơ cho ta thấy Bashô thoải mái với cuộc hành trình. Cái cảm tưởng khó ở đã làm ông có một thái độ gượng gạo ngày ra đi dần dần biến mất theo bước chân đi. Hiện giờ thì ông có thể ngoái đầu nhìn lại con người lang bạt của mình một cách khách quan hơn, không còn tự coi như một người hùng hay quá đặt nặng chuyện tình cảm.
Ông tiếp tục sống thêm hai năm lặng lẽ ở Am Bashô. Đó là một cuộc sống khiêm tốn nhưng nhàn hạ, khiến cho ông có thể tự cười mình là “lão già lười nhác”. Ông lặng ngắm vẻ đẹp của thiên nhiên thay đổi theo bốn mùa và viết những bài haiku mỗi khi nguồn cảm hứng tìm đến. Bạn bè và học trò đến thăm đều chia sẻ với ông thú vui ấy. Họ
cùng nhau tụ tập ngắm trăng thanh, tuyết phủ và hoa nở. Những dòng văn thơ của bài haibun ngắn dưới đây đã được viết ra vào mùa đông 1686, dường như tiêu biểu cho cuộc sống của ông lúc bấy giờ:
Một anh bạn tên Sora đang sống tạm thời bên cạnh chiếc am con của ta cho nên ta thường đến viếng thăm anh và anh cũng hay đến chơi. Khi ta nấu ăn, anh giúp chụm lửa, còn ban đêm khi ta pha trà, anh nhâm nhi với ta. Tính anh ít nói, thích hưởng nhàn, nên chi anh trở thành một người bạn tâm đầu ý hợp. Một đêm tuyết rơi, anh ghé qua thăm và nhân đó, ta mới viết câu thơ:
Kimi hi wo take
Yoki mono misen,
Yukimaroge
Nhen lửa giùm ta nhé,
Này anh xem vật lạ,
Một hòn tuyết cực to
12
Lửa nói đến trong bài thơ là lửa nhóm lên để pha trà. Sora3có lẽ đang sửa soạn nấu nước sôi trong bếp và khi ấy, Bashô trở ra ngoài, cho tay vọc tuyết và nắn những hòn tuyết cực lớn, nghịch ngợm như một đứa trẻ con Khi trà đã sẳn sàng, họ mới ngồi lại bên nhau, vừa nhấp trà nóng vừa ngắm những hòn tuyết ngoài sân. Bài thơ này là một trong những bài mang không khí vui nhộn nhất của haiku Bashô, đã có thể gợi cho ta thấy cái tâm cảnh nhẹ nhàng thoải mái của thi hào trong những năm tháng ấy.
Tâm tình thoải mái đầy chất thơ đã đưa bước chân Bashô đền Kashima trong một chuyến đi ngắn. Kashima là một thị trấn cách Edo chừng 50 dặm về hướng Đông, nổi tiếng vì ngôi đền Thần Đạo. Bashô đã đến đây với mục đích ngắm đêm trăng ngày mùa. Sora và một thiền tăng đã tháp tùng ông trong chuyến đi vào mùa thu năm 1687. Rủi thay đúng đêm rằm thì trời lại đổ mưa, họ chỉ có dịp ngắm trăng được đôi chút lúc trời hừng sáng. Dù vậy, Bashô đã nhân cơ hội đó đến thăm thiền sư Butchô, người thầy cũ, lúc ấy đã qui ẩn ở Kashima. Cuộc du hành trở thành đề tài cho một du ký khác của ông: Chuyến hành hương đền Kashima (鹿嶋詣 Kashima Môde), còn được biết dưới tên 鹿 嶋紀行 Kashima Kikô.
Hồ Kasumigaura gần Kashima
Thế rồi, chỉ hai tháng sau, Bashô đã bắt đầu một cuộc du hành mới về miền Tây. Kỳ này ông tỏ ra thanh thản hơn là cuộc du hành đầu tiên cách đó ba năm vì ông đã trở thành nhà thơ có tiếng, qui tụ được nhiều bạn thơ và đệ tử. Họ biếu ông nhiều món quà tiễn biệt, mời ông đi du ngoạn hoặc dự tiệc cũng như tổ chức các hội bình thơ để chào đón. Những người không đến được cũng gửi thơ tham dự. Con số thơ thu thập được trong những dịp này lên đến hơn 350 bài, sau đó đã được xuất bản với nhan đề Những vần thơ đưa tiễn (句餞別 Kusenbetsu). Nhiều cơ hội lễ lạc như vậy đã làm cho Bashô có ấn tượng là mình được cư xử như một kẻ quyền cao chức trọng.
Trong chuyến đi này, ông hầu như cũng theo cùng một tuyến đường với chuyến đi trước hồi năm 1684. Vẫn gặp gỡ bạn bè và để lại những vần thơ đó đây suốt đoạn đường. Ông đặt chân lên Ueno vào một ngày cuối năm và được chào đón và tôn vinh với danh dự
3 Kawai Sora ( 河合曽良, 1649-1710), học trò yêu của Bashô. Ông sống gần bên Am thầy, ngày thường vẫn lui tới viếng thăm. Có lẽ vì mối liên hệ thân thiết ấy nên Bashô thường chọn ông làm người tháp tùng trong những chuyến đi.
13
một nhà thơ tên tuổi đất Edo. Ngay cả người thủ lãnh của dòng họ chủ nhân mà ông từng phục vụ thuở thiếu thời cũng đã mới ông đến chơi. Trong khu vườn phủ đệ của họ, hãy còn cây anh đào ngày xưa Yoshitada yêu thích, nay đang độ ra hoa:
Samazama no
Koto omoidasu
Sakura kana
Bao nhiêu chuyện đã qua,
Hiện về trong tâm trí,
Hay anh đào đơm hoa.
Đến giữa mùa xuân, Bashô từ giã cố hương Ueno, cùng với một người đệ tử, trước tiên viếng thăm núi Yoshino để ngắm hoa anh đào. Ông đi tiếp tới vùng Wakanoura thưởng thức vẻ đẹp của mùa xuân bên bờ Thái Bình Dương rồi dừng ở cố đô Nara đúng vào dịp lá xanh non. Thăm Ôsaka xong, ông ghé hai bãi biển Suma và Akashi trên bờ
biển nội địa Seto, vốn là hai “gối thơ” (utamakura) thường được nhắc đến trong những áng thi văn cổ điển.
Tù Akashi, Bashô quặt ngược về miền Đông, đi ngang qua Kyôto để đặt chân lên Nagoya đúng giữa mùa hè. Sau khi dừng chân ở đây một ít lâu, nhà thơ của chúng ta hướng về vùng núi non nằm sâu trên đảo Honshuu, một vùng được mọi người ca tụng như rặng Alps của Nhật Bản. Cùng đi với ông có một lão hữu và một kẻ tùy tùng - nhân có người lo lắng cho cuộc hành trình vào vùng núi cheo leo - gửi đến giúp ông. Mục đích của ông lần này là xem trăng ngày mùa ở Sarashina, một thị trấn cổ xưa. Như đã dự đoán, chuyến đi này cực kỳ gian khổ nhưng ông đã có may mắn nhìn được mảnh trăng tròn đầy ở nơi danh thắng mà văn học Nhật Bản từng nhắc đến nhiều lần.Thế rồi, Bashô đã len lỏi trong vùng núi non ấy để tiến về miền Đông và đến Edo cuối mùa thu năm ấy, sau chuyến đi kéo dài ngót nghét một năm.
Đường núi lên thôn Sarashina
Có lẽ đây là chuyến đi đem đến cho Bashô những tháng ngày hạnh phúc hơn cả. Ông hầu như đã trở lại nhiều nơi trên tuyến đường quen thuộc, ở những nơi ông chưa đến thì vẫn có một người bạn đồng hành và một kẻ tùy tùng giúp đỡ ông. Danh tiếng nhà thơ haiku của ông đã được lan truyền khá rộng rãi cho nên đi đến đâu ông cũng được mọi
14
người tiếp đón thảo lảo. Đó cũng là một chuyến hành trình có thành quả. Ngoài một số haiku và renku sáng tác được, ông còn viết thêm hai tập văn du ký là Tráp đeo lưng cũ (笈の小文 Oi no kobumi) kể lại đoạn đường từ Edo đến Akashi, và Chuyến viếng thăm thôn Sarashina (更科紀行 Sarashina Kikô) vốn tập trung vào cuộc du hành đến Sarashina để ngắm trăng. Bút ký trước có một địa vị đặc biệt quan trọng đối với qui phạm của trường phái Bashô, bởi vì trong đó, bên cạnh những lời phát biểu khác ông đã viết một đoạn văn tuyên cáo rằng haikai là một trong những thể thơ chính yếu của thi ca Nhật Bản. Lúc này ông đã thấu hiểu ý nghĩa của sự sáng tác haikai, tin tưởng rằng haikai - một hình thức nghệ thuật nghiêm túc - có thể chỉ đường cho con người tìm đến một lối sống hết sức cao thượng.
Không có gì đáng làm ta ngạc nhiên nếu lúc ấy Bashô đã sửa soạn ngay cho một chuyến đi tiếp. Như chính ông phát biểu, đó là vì vị Thần Đi Đường (道祖神 Dôsojin) đã mời mọc mình. Bị mê hoặc bởi cái thú của cuộc đời lữ khách, ông muốn vượt cả mọi giới hạn của các chuyến đi trước đây và trở thành một kẻ thực sự sống đời phiêu lãng hơn bao giờ hết. Trong một bức thư gửi đi trong thời gian đó, ông cho biết mình ngưỡng mộ
cuộc đời của những vị du tăng khất thực, chỉ có trong tay cái bình bát xin cơm. Giờ đây, Bashô quyết định làm chuyến hành trình không phải với tư cách của một nhà thơ danh tiếng nhưng như một ông sư khắc khổ. Cũng chính vì thế mà trong chuyến hành hương sắp tới, ông sẽ thăm viếng phần đất phía bắc đảo Honshuu, nơi đây hãy còn là nơi hẻo lánh nếu không nói là hoang dã mà ông chưa hề đặt chân lên và không chút quen thuộc với nó. Ông đã phải đi trọn một đoạn đường dài đến 1.500 dặm (1.609 m x 1500 = tương đương 2.500 km, NNT). Dĩ nhiên cuộc lữ hành này là chuyến đi dài nhất trong đời ông.
Cao nguyên có suối nước nóng Nasu
Với Sora tháp tùng, ông từ giã Edo vào cuối mùa xuân năm 1689. Có lẽ với thái độ khắc khổ và cấm dục mà ông tính giữ cho được trong suốt hành trình, cuộc tiễn biệt chỉ lặng lẽ vì không lễ nghi phiền phức và cũng chẳng có bao nhiêu người tham dự. Ông tiến lên miền Bắc theo con đường cái, dừng lại ở một vài chỗ danh tiếng như đền Toshôguu (Đông Chiếu Cung) ở Nikkô, suối nước nóng trên cao nguyên Nasu và khu thành quách lịch sử Iizuka. Thế rồi ông đi lần ra bờ biển Thái Bình Dương giáp với Sendai và có dịp chiêm ngưỡng cảnh sắc của chòm đảo trong vịnh Matsushima.Từ Hiraizumi, một thị trấn nổi tiếng vì thời trung cổ từng là bãi chiến trường, Bashô quay qua hướng Tây và
đến Sakata, nằm bên bờ Biển Nhật Bản.
15
Đầm Kisagata
Sau một chuyến đi ngắn ghé đầm Kisagata phía bắc, ông men theo con đường lớn dọc bờ biển đi về hướng tây nam. Chính là từ bờ biển này, ông đã nhìn thấy đảo Sado và nhân đó đã viết nên một trong những vần thơ được ca ngợi nhất của mình: .
Araumi ya
Sado ni yokotau
Amanogawa
Trên biển gầm sóng dữ,
Giải Ngân Hà bắc ngang,
Tận phía đảo Sado.
Vì gió mưa, vì nắng nỏ và cung đường hiểm trở, đoạn này gây nhiều khó khăn cho Bashô và Sora nên cuối cùng, khi đến được Kanazawa, cả hai đều mệt lã. Họ dừng chân ở xóm suối nước nóng nổi tiếng Yamanaka (thuộc thị trấn Kaga, tỉnh Ishikawa bây giờ) thêm một vài hôm nhưng Sora, có lẽ sức khoẻ suy sụp do ảnh hưởng của nhiều chứng bệnh kinh niên, quyết định chấm dứt cuộc hành trình và từ giã thầy nơi đây. Bashô tiếp tục đi một mình cho đến Fukui rồi gặp được một người quen biết chịu đưa ông tới Tsuruga. Từ chỗ này, một người bạn cũ khác đã đến gặp Bashô. Cả hai tiếp tục đi về hướng nam, xuống tận Ôgaki, thành phố Bashô biết khá rõ. Một số bằng hữu và môn đệ
đã đến đón rước và như thế, cuộc hành trình dài dằng dặc qua những vùng đất xa lạ, đầy gian nguy của ông đã hoàn toàn kết thúc. Nó đánh dấu một trăm năm mươi sáu ngày đường kể từ khi nhà thơ khởi hành từ Edo.
Cuộc hành trình lên miền Bắc đánh dấu đỉnh cao của sự nghiệp văn chương của Bashô. Ông đã viết được những áng thơ hay trong cuộc hành trình này. Cuốn du ký Đường mòn niền Bắc (Oku no hosomichi)4có thể được xem là thành quả to lớn nhất trong lịch sử thể văn nhật ký du hành Nhật Bản (紀行文学 Kikô bungaku). Những gì Bashô đạt được dĩ nhiên đến từ những chiêm nghiệm sâu sắc của một con người đã chín chắn. Ông đã
4 Tiếng Anh trong tác phẩm Ueda Makoto là The Narrow Road to the Deep North. Có thể dịch: Lối nhỏ lên vùng Oku hay Đường hẹp vào nơi sâu thẳm, tùy theo cách hiểu.
16
tìm ra một cách sống và nhờ đó, giải quyết được những mâu thuẫn nội tâm khó gỡ và tìm được sự bình yên trong tâm hồn. Nó đã dựa lên ý tưởng sabi 寂び (cô quạnh, cô tịch), một khái niệm cho rằng người ta có thể đạt đến sự thanh thản và trong sáng của tâm hồn khi biết hòa nhập bản ngã của mình vào trong sức sống vô ngã của thiên nhiên. Sự thu hút hoàn toàn cái bản ngã nhỏ bé, ti tiện của cá nhân vào trong vũ trụ bao la, hoành tráng với sức mạnh siêu nhiên, chính là chủ đề mà Bashô đã nhấn mạnh trong rất nhiều bài haiku của mình, kể cả bài viết về giải Ngân Hà bắc qua đảo Sado mà chúng ta mới vừa xem. Khoảnh khắc còn người đồng hóa với thiên nhiên phi nhân tính, vô tình, theo ông, hết sức quan trọng cho sự sáng tạo thi ca. Dù Bashô chưa hề viết một cương lĩnh nhưng, không còn nghi ngờ gì nữa, trong giai đoạn sau của đời mình, quả tình ông đã phát hiện ra một số ý kiến độc đáo về phong cách làm thơ. Dường như ông đã bắt đầu suy nghĩ về nguyên lý thi ca một cách đứng đắn hơn, triết học hơn khi bắt đầu cuộc hành trình lên miền Bắc. Hai tác phẩm sớm nhất ghi lại một số tư duy của Bashô về thi ca là Ghi chép lời nghe được trong bảy ngày (聞き書き七日草 Kikigaki Nanukagusa)5và Trao đổi ở Yamanaka (山中問答 Yamanaka Mondo)6đã bắt nguồn từ đó.
Am Huyễn Trú (Genjuuan) vào đông
Trong vòng hai năm sau, Bashô đã dành nhiều thời gian để thăm các bạn cũ và môn đệ sống ở Ueno, Kyôto và những thị trấn nhỏ bên bờ phía nam hồ Biwa. Mỗi lần, cùng với một người trong bọn họ, ông thường làm những cuộc du ngoạn ngắn đến những nơi khác như Ise, Nara...Trong những nơi trú ngụ vào giai đoạn này, ông đặc biết yêu thích hai chốn hơn cả, đó là Am đời hư ảo (幻住庵 Genjuuan) và Ngôi nhà quả hồng rụng (落 柿舎 Rakushisha). Am Huyễn Trú tức “Am đời hư ảo” nằm trong vùng rừng rậm cực nam hồ Biwa là một nơi rất khuất nẻo và yên tĩnh mà Bashô đã tạm trú từ đầu hè cho giữa mùa thu 1690. Ở đây, ông tận hưởng một cuộc sống ẩn dật chây lười. Nó đã được
5 Tác phẩm của Kondô Sakichi 近藤佐吉 tức Kondô Romaru 近藤呂丸 (năm sinh và mất không rõ) , một nhà thơ lớp sau, gốc nhà thợ nhuộm, ngưỡng mộ Bashô, đã có lần được gặp. Ông đã đề cập đến lý luận “bất dịch lưu hành” (mọi vật lưu chuyển trong sự bất biến) của Bashô và khuyên người làm thơ “không được rời xa cái hồn của đại tự nhiên”, đúng như điều thi hào đã chủ trương. 6 Tác phẩm của Tachibana Hokushi 立花北枝 ( ? – 1718) một đệ tử đến muộn (1689) của Bashô, nhập môn ông trong chuyến nhà thơ đi lên miền Bắc. Ông trước làm nghề mài kiếm. Ca ngợi tình cảm yêu chuộng sự cao khiết thanh bần, xa rời thế tục thấy trong thơ của thầy. Nhan đề còn có thể lồng ý “Sơn trung vấn đáp” (Chuyện vãn trong núi) từ một bài thơ của Lý Bạch ca tụng cảnh nhàn.
17
miêu tả trong một đoạn văn xuôi tuy ngắn nhưng tuyệt đẹp như sau:
Ban ngày, ông từ già canh gác ngôi đền ở địa phương hay vài người dân làng sống ở dưới chân núi lên chơi với ta và kể những chuyện chẳng mấy khi ta được nghe, chẳng hạn như nạn lợn lòi xuống dày xéo ruộng lúa hay thỏ rừng đôi lúc về quấy phá những nương đậu. Mặt trời lặn xuống bên kia đồi và màn chiều buông xuống, ta lẳng lặng ngồi chờ trăng lên.Trăng vừa ló dạng là ta bắt đầu đi dạo, bóng cũng theo người in đó đây trên mặt đất. Khi trời vào khuya, ta mới trở lại túp lều và suy ngẫm về những điều phải trái, mắt đăm đăm nhìn vào chỗ cách chia cái bóng lù mù với ánh đèn đêm.
Bashô còn có dịp được sống cuộc đời ẩn dật như vậy thêm một lần nữa ở Ngôi nhà quả hồng rụng (Rakushisha) ở Saga, ngoại ô tây bắc Kyôto. Chủ nhân của nó là Mukai Kyorai (1651-1704), một đệ tử. Gọi tên như thế vì ngoài sân nhà có trồng dăm gốc cây quả hồng (cây thị). Ở đó cũng có nhiều lùm tre và chúng đã được Bashô lấy làm bối cảnh cho một bài thơ nổi tiếng của ông:
Hototogisu
Ôtakeyabu wo
Moru tsukiyo
Tiếng chim kêu cuốc cuốc,
Len qua bụi trúc dày,
Để lọt ánh trăng thanh.
Bashô ngụ lại ngôi nhà này 17 hôm vào mùa hè 1691. Thời gian này đã hun đúc nên Nhật ký Saga (嵯峨日記 Saga Nikki), tác phẩm văn xuôi dài cuối cùng của ông.
Trong suốt thời gian trú ẩn ở hai địa chỉ này và một số nơi khác trong khu vực Kyôto và Hồ Biwa, nhiều khách đồng điệu với quan niệm thi ca của ông đã đến viếng. Đặc biệt là hai đệ tử đầu đàn của ông: Kyorai và Nozawa Bonchô (16? – 1714). Chính hai người này phụ trách việc biên tập một thi tuyển haikai dưới sự chỉ đạo của ông. Tuyển tập đó mang tên Áo tơi cho khỉ (猿蓑 Sarumino) xuất bản đầu mùa hè 1691. Nó dược đánh giá như tác phẩm tượng trưng cho cao điểm của thơ haikai theo phong cách Bashô. Quan niệm sabi và những nguyên tắc khác về cách làm thơ chung đúc trong thời gian của cuộc lữ hành đi về miền Bắc đã được bày tỏ rõ ràng ở đây. Qua những ví dụ được dẫn ra từ thi tuyển mới này, người ta thấy rằng haikai là một nghệ thuật đứng đắn, trang trọng, có nội dung thâm sâu, hàm chứa những nhận xét chín chắn về con người và thế giới chung quanh họ.
Bashô về lại Edo vào mùa thu năm 1691. Bằng hữu và môn sinh ở đó, không gặp thầy đã hơn 2 năm, tiếp đón ông nồng nhiệt. Họ bèn chung tiền góp vốn để dựng lại cho ông lần thứ ba Am Bashô vì ông đã bỏ cái am cũ từ cuộc du hành cuối cùng.Thế nhưng trong Am Bashô thứ ba này, nhà thơ không thể sống cuộc đời bình lặng như ông mong mỏi bởi vì có nhiều người ông phải nuôi nấng. Chẳng hạn một người cháu tật nguyền đã đến ở với ông. Ông chăm nom cậu cho đến khi cậu ta qua đời vào mùa xuân 1693. Một người đàn bà tên Jutei 寿貞, dường như có mối liên hệ đặc biệt với ông thời trẻ, cũng đã đến nương tựa. Bà ta không được mạnh khoẻ, còn dắt theo mấy người con. Dù phải
18
lo liệu mọi chuyện không liên quan gì đến thi phú như vậy, ông vẫn có nhiều hoạt động nghệ thuật vì tiếng tăm của ông đã nổi như cồn. Nhiều người tìm đến hoặc mời ông tới chơi với họ. Chẳng hạn, trong một bức thư viết vào ngày 8 tháng chạp năm 16937, ông đã thông báo cho một người khách muốn gặp là ông sẽ không có nhà vào các ngày 9, 10,
11, 12, 14, 15 và 16 để nhắn rằng nếu khách có đến, xin chọn ngày 13 hoặc 18. Trong một bức thư khác viết cùng lúc, ông nói thẳng thừng: “ Bị quấy quả bởi người khác, tâm trí ta không một chút bình yên!”. Tết Nguyên Đán năm đó, ông làm bài haiku sau đây:
Toshidoshi ya
Saru ni kisetaru
Saru no men
Năm tháng nối nhau qua,
Trên khuôn mặt khỉ kia,
Mang thêm mặt nạ khỉ
Bài thơ này đượm một màu cay đắng hiếm khi thấy trong thơ Bashô. Ông có vẻ như không hài lòng về những bước tiến qua chậm chạp của ông (và có thể của một vài đệ tử).
Những trách nhiệm này trở thành một áp lực trên ông, lần hồi Bashô trở thành bi quan yếm thế, hầu như không còn tin tưởng vào gì nữa. Sở dĩ ông muốn trở thành thi sĩ là để vượt lên trên những ràng buộc của cuộc đời nhưng bây giờ ông thấy việc đời hoàn toàn trói buộc khi mình đã đạt được danh vọng. Giải pháp lúc đó là từ chối làm thi sĩ hay đóng cửa không gặp ai cả. Bashô đã thử giải pháp thứ nhất nhưng vô hiệu: “Ta đã thử từ bỏ thi ca và giữ im lặng nhưng cứ mỗi lần như thế thì tình thơ lại sống dậy trong tim và có cái gì giống như tia chớp lóe lên trong trí. Đó chính là tiếng kêu gọi đầy ma lực của thi ca vậy”. Ông đã lún quá sâu trong lãnh vực thi ca rồi. Bây giờ chỉ còn có giải pháp thứ hai để thay thế : đóng cửa tạ khách. Ông bắt đầu làm như thế vào mùa thu năm 1693,
tuyên bố như sau:
Những lần người khác đến chơi, họ đều bàn những chuyện vô ích. Còn mỗi lần ta đi thăm ai, lại có cảm giác khó chịu là đang can thiệp vào công việc của người. Bây giờ ta không còn cách nào hơn là theo gương Sun Ching hay Tu Wu-lang8cửa đóng then cài, không giao tiếp với thế nhân. Việc không có bạn trở thành người bạn của ta, cái nghèo túng là sự giàu sang. Với một lão già 50 ngoan cố như ta thì những vần sau đây có thể làm câu răn mình:
Asagao ya
Hiru wa jô orosu
7 Người Nhật chỉ dùng Dương lịch kể từ năm 1873. Cho đến lúc đó họ theo âm lịch . Năm của họ lúc đó bắt đầu chậm hơn lịch Gregorian khoảng một tháng.
8 Trong nguyên văn Ueda Makoto viết bằng mẫu tự La Tinh nên người dịch không rõ âm Hán tên hai vị này. Tuy nhiên trong phần ghi chú Ueda có giải thích: Sun Ching là một học giả đời Tam Quốc, đóng cửa đọc sách suốt ngày. Nghe kể rằng ông treo thòng lọng vào cổ để khỏi ngủ gật khi đọc sách ban đêm. Còn Tu Wu-lang là một học giả lập dị đời Tống, chỉ thích nằm nhà, có sách chép 30 năm ông ta không ra khỏi cửa một lần.
19
Mon no kaki
Mở lúc triêu nhan nở,
Trưa đến ta cài then,
Trên hàng dậu cổng nhà.
Hiển nhiên Bashô mong được ngắm vẻ đẹp của hoa triêu nhan9 mà không phải cài then trên cánh cổng. Muốn được, tất phải mất nhiều thời giờ ngồi một mình trong nhà suy nghĩ cho ra giải pháp. Ông đã giải quyết vấn đề như thế, ít nhất đủ cho mình tạm thời thỏa mãn, và lại mở cổng sau một tháng khép kín.
Giải pháp của Bashô dựa trên khái niệm karumi 軽み(nhẹ lâng), một biện chứng vượt qua khỏi khái niệm sabi 寂び(cô quạnh). Nếu sabi khuyến khích người ta tách rời ra những ràng buộc của cuộc đời thì karumi giúp cho việc đó trở thành khả thi, nghĩa là nếu ai đạt được đến tâm cảnh ấy rồi, người ấy thể trở lại với thế giới hằng ngày. Trên phương diện tinh thần, người ấy sẽ là khách bàng quan giữa cuộc đời ô trọc. Ông ta không trốn chạy khỏi những đau thương của cuộc sống nhưng đứng bên lề, mỉm cười nhìn nó trôi qua. Bashô bắt đầu viết theo nguyên lý này và đã khuyên học trò đi cùng hướng với mình.Nỗ lực đó đã đưa tới việc họ đã hoàn thành những tuyển tập haikai như
Bị đựng than (炭俵 Sumidawara), Gian phòng biệt lập (別座敷 Betsuzashiki), Áo tơi cho khỉ, tập tiếp theo (続猿蓑 Zoku-Sarumino). Những bài thơ tiêu biểu trong những tập này thường chối từ chủ nghĩa cảm thương (sentimentalism) mà giữ một sự bình tĩnh và có thái độ thanh thản đối với mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời. Nhiều khi chúng còn được tô điểm thêm bằng một nét hài hước ý nhị.
Tìm lại được sự quân bình trong tâm hồn như thế rồi, Bashô bắt đầu dự tính một cuộc hành trình khác. Có lẽ ông cũng lo truyền bá karumi, nguyên tắc thi ca mới của mình, cho những nhà thơ sống xa Edo. Chính vì vậy, mùa hè năm 1694, ông lại làm một chuyến đi mới nhưng vẫn trên lộ trình quen thuộc về hướng tây. Lần này, đi theo ông có
anh Jirôbe, một trong những người con trai của bà Jutei. Ông dừng chân một tẹo ở Ueno rồi đi thăm một số môn đệ ở Kyôto và những thành phố kế cận mạn nam hồ Biwa. Bà Jutei 寿貞, sức khoẻ đã sa sút trong những ngày sống ở Am Bashô, qua đời lúc đó, buộc lòng Jirôbe phải trở lại Edo một thời gian. Quá đỗi thương xót, Bashô phải lui về nghĩ dưỡng ở Ueno độ chừng một tháng. Sau đó, cùng với dăm người bà con bạn bè kể cả Mataemon, con trai anh mình, và cậu Jirôbe, ông lên đường đi Ôsaka. Thế nhưng sức khỏe của nhà thơ suy sụp nhanh chóng dù rằng ông còn chút sức để viết đôi vần thơ thật xuất sắc. Một trong những bài thơ đó là:
Kono aki wa
Nan de toshiyoru
Kumo ni tori
9 Cái tên triêu nhan trong tiếng Hán hay morning glory trong tiếng Anh dễ làm ta lạc hướng vì tưởng nó phải là một thứ hoa đài các. Triêu nhan (mặt tươi tỉnh như người vừa dậy sớm) chỉ là hoa bìm bìm, một loài hoa dân dã, thân dây leo, bò lan và vì sinh ra quá nhiều nên không được quí. Thực ra loại hoa này có nhiều màu từ trắng, hồng, xanh đến tím, nhàn nhạt, rất quyến rũ. Ở Nhật, nó tượng trưng cho cuộc sống ẩn dật, thanh nhàn.
20
Cớ sao mùa thu này,
Ta già đi quá đổi,
Chim bay vào trong mây.
Bài thơ cho thấy Bashô ý thức rằng ông đã bước vào những ngày tàn của cuộc đời. Sau khi phải nằm liệt giường vì những cơn đau bao tử hoành hành, ông không còn có thể hồi phục nữa. Rất nhiều đồ đệ đã hối hả đến Ôsaka, tụ tập bên ông10. Dường như Bashô vẫn giữ được sự bình tĩnh trong những ngày cuối. Trên giường bệnh, ông đã chép lời căn dặn gửi đến cho người anh, có đoạn: “Em rất buồn phải bỏ bác ra đi. Em mong cháu Mataemon hiếu thảo để bác có thể hưởng được một tuổi già hạnh phúc! Ngoài ra, em không còn điều gì thưa với bác nữa.” Điều duy nhất còn quấy rầy tâm trí ông chỉ là thi ca. Theo ghi chép của các đệ tử, Bashô hoàn toàn ý thức rằng đây là giờ phút để đọc kinh khấn nguyện chứ không phải để làm thơ nhưng ông vẫn không khỏi tiếp tục nghĩ về nó. Thi ca đã trở thành một ám ảnh - “một sự gắn bó tội lỗi” - theo lối ông đặt tên cho nó. Bài thơ tuyệt mệnh như sau:
Tabi ni yande
Yume wa kareno
Kakemeguru
Lữ thứ thân nằm bệnh,
Mộng hồn còn luẩn quẩn,
Trên cánh đồng hoang vu.
Phụ Lục: Niên Biểu Bashô
Hành trình của một nhà thơ giữa lòng thời đại
1644 ( 1 tuổi ta):
Matsuo Bashô ra đời gần thị trấn Ueno xứ Iga (thành phố Ueno tỉnh Mie ngày nay).
Cha ông, Matsuo Yozaemon, là một samurai thuộc hạ của phiên Tôdô (dòng dõi Đại tướng Tôdô Takatora, 1556-1630). Bashô là con thứ hai. Lúc nhỏ tên Kinsaku, lớn lên là Munefusa (còn đọc là Sôbô) hay Jinshichirô. Ngoài anh trai Hanzaemon Norimasa (mất năm 1701), ông còn có 1 chị và 3 em gái.
Nhật lúc đó đang ở vào đời thịnh trị của Shôgun Tokugawa đời thứ 3 là Iemitsu. Nhà Minh vừa bị diệt vong (1368-1644) bên Trung Quốc.
1656 (13 tuổi):
10 Quang cảnh bên giường bệnh này tả lại trong Kareno (Cánh đồng khô) một đoản thiên phúng thích của Akutagawa Ryuunosuke (NNT dịch trong Trinh Tiết, 2004, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội).
21
Bố mất. Có lẽ lúc này, Bashô đã vào giúp việc cho nhà Yoshitada, thân nhân trẻ của vị lãnh chúa cai quản địa phương.
Nhật Bản đang ở giữa thời Shôgun Tokugawa đời thứ 4 Ietsuna. Hoàng đế Khang Hy nhà Thanh mới tức vị.
1662 (19 tuổi):
Viết vần thơ đầu tiên (chủ đề năm mới) được biết cho đến nay.
Có lẽ lúc này Bashô vào giúp việc bếp núc cho gia đình Tôdô Yoshitada, kế tử của một lãnh chúa lương 5.000 thạch thóc. Từ năm 1661, ông đã bắt đầu theo học haikai với Kitamura Kigin 北村季吟, một nhân vật quan trọng của phái Matsunaga Teitoku. Bashô mang bút hiệu Sôbô (Tông Phòng) từ dạo này.
Tokugawa Mitsukuni, phiên chủ phiên Mito mời di thần nhà Minh là Chu Thuấn Thủy sang Nhật.
1664 (21 tuổi):
Hai bài thơ của Sôbô (Bashô buổi đầu) đã được đăng trong Hẻm núi Sayo no Nakayama (Sayo no Nakayama) do Junrai biên tập.
1665 ( 22 tuổi):
Ông tham dự vào hội thơ kỷ niệm lần thứ 13 húy nhật của Matsunaga Teitoku 松永貞徳 do Yoshitada (bút hiệu Sengin) chủ trì.
1666 (23 tuổi):
Yoshitada mất vì bệnh (25 tuổi). Bashô từ chức và bước vào cuộc đời lang bạt trong một khoảng thời gian dài. Hình như ông lên sống ở Kyôto một thời gian. Có khi ông đến nương tựa người anh, khi lại giao du với Kigin, khi thì muốn đi tu. Có ít nhất bốn bài haiku của Bashô dưới bút hiệu Sôbô đã được đăng trong tuyển tập Gấm đêm (夜の錦Yo no nishiki) do Naitô Fuuko, lãnh chúa phiên Iwaki Taira, biên tập.
Nhà tư tưởng Yamaga Sokô bị mạc phủ giam lỏng.
1667 (24 tuổi)
Tác phẩm Giếng núi, tập tiếp theo (Zoku-Yamanoi) do Kitayama Koshun biên tập có đăng 28 hokku của Sôbô (Bashô).
Bên Anh, John Milton viết xong Thiên đàng lỡ (Paradise Lost).
1669 (26 tuổi)
22
Tác phẩm Ngọc như ý ( Nyoihôshu) của Ogino Ansei có cho vào tập 6 bài thơ của Sôbô (Bashô).
1670 (27 tuổi):
Tác phẩm Hành hương trên đất Yamato (Yamato Junrei) của Okamoto Seishin có đăng 2 bài của Sôbô (Bashô).
Ở Pháp, Pascal hoàn thành tập nghị luận Suy tưởng (Pensée).
1672 (29 tuổi):
Cúng dường (tiếng Nhật dùng từ Hán phụng nạp) Trò chơi bốc vỏ sò (Kaiôi) - thành quả của Hội bình thơ 30 hiệp (Sanjuuban Hokkuawase) - cho một ngôi đền ở Ueno. Sau đó lên Edo đi tìm cuộc đời mới và chuyển hẳn từ phong cách Teimon của Matsunaga Teitoku sang phong cách Danrin của Nishiyama Sôin.
Nhà thám hiểm Kawamura Zuiken tìm ra đường biển vòng phía Tây nối kinh đô với miền bắc Nhật Bản.
1674 (31 tuổi):
Được Kitamura Kigin phái Danrin truyền cho Haikai bị chôn vùi Haikai Umoregi 俳 諧埋もれ木, tác phẩm ghi chép bí quyết của renku và haiku.
1675 (32 tuổi):
Tham dự cuộc tiếp rước người lãnh đạo phái Danrin là Nishiyama Sôin 西山宗因 lúc ông này qua miền Đông. Bashô đổi bút hiệu từ Sôbô sang Tôsei.
Các xứ Yamato, Settsu, Kawachi đều bị nạn đói. Mạc phủ phải cứu trợ. 1676 (33 tuổi):
Cùng với Yamaguchi Shinshô 山口信章 (Tín Chương) 山口素堂 (hiệu Sodô = Tố Đường) viết một bài song ngâm (ryôgin), sau có biên thành tập hai trăm vần nhan đề Tập song ngâm ở Edo (江戸両吟集 Edo ryôginshuu) và cúng dường cho đền Tenmanguu. Về thăm Ueno trong một chuyến đi ngắn ngủi vào dịp hè, có cháu là Yuushi 猶子 và học trò là Tôin 桃印 theo cùng.Trong Liên châu, tập tiếp theo (続連珠 Zoku Renju) của Kitamura Kigin thấy chép 6 hokku và 4 tsuiku của Sôbô-Tôsei (Bashô).
1677 (34 tuổi):
Mùa đông, cùng soạn với Shintoku 信徳 và Shinshô 信章 một renku tam ngâm bách
23
vận hai quyển.
Tháng 8, xảy ra vụ dân oan ở phiên Gujô xuống Edo khiếu kiện.
1678 (35 tuổi):
Soạn thêm tam ngâm bách vận với Shintoku và Shinshô. Cho in tất cả thành Edo tam ngâm bách vận (江戸三吟百韻 Edo sangin hyakuin). Viết những lời bình luận cho Hội bình thơ mười tám hiệp đấu (Juuhachiban kuawase) của nhóm Kishimoto Chôwa.
Kép Kabuki Sakata Juujirô đời thứ nhất lần đầu lên sân khấu ở Ôsaka diễn loại tuồng Wagoto với chủ đề tình yêu, luyến ái nam nữ.
1680 (37 tuổi):
Xuất bản Những vần thơ hay nhất của 20 môn đệ Tôsei (Tôsei Montei Dokugin Nijikkasen), tuyển tập của hai mươi đệ tử đắc ý. Làm chủ khảo Hội bình thơ dân dã (Inaka kuawase) do đệ tử là Sampuu và Hội bình thơ trường xuân (Tokiwaya kuawase) do đệ tử là Kyorai đề xướng. Nhập cư am Bashô đầu tiên (Am Bashô I).
Tướng quân đời thứ 4 là Ietsuna mất (40 tuổi). Theo di chúc của ông, Tsunayoshi trở thành Shôgun đời thứ 5.
1681 (38 tuổi):
Mùa thu, bắt đầu dùng Haseo, Baseo, Baseu tức những tự dạng khác nhau của Bashô để làm biệt hiệu.
1682 (39 tuổi):
Am Bashô I bị thần hỏa thiêu rụi vì ngọn lửa phát ra từ chùa Daienji. Ông xuống vùng Kai (gần Tôkyô, thuộc tỉnh Yamanashi bây giờ), tạm trú ít lâu.
Nishiyama Sôin mất (78 tuổi)
1683 (40 tuổi)]
Việc biên tập Những hạt dẻ rỗng (Minashiguri) hoàn thành. Mẹ ông qua đời ở Ueno. Am Bashô mới (Am Bashô II) được dựng lên.
Mitsui Takatoshi (tổ tập đoàn tài phiệt Mitsui) mở hãng đổi chác tiền bạc quí kim ở Edo.
1684 (41 tuổi):
Cùng với đệ tử là Naemura Chiri 苗村千里 bắt đầu làm chuyến hành trình về miền Tây mà thành quả là tập du ký mang tên Dọc đường mưa gió (Nozarashi Kikô) tức Giáp Tý
24
ngâm hành (Kasshi Ginkô). Khi ghé Nagoya, ông hướng dẫn những nhà thơ trẻ địa phương và cùng soạn liên ngâm Mặt trời mùa đông (Fuyu no hi). Sau khi về đến Iga Ueno được dăm hôm, ông đã tiếp tục thăm những vùng Yamato, Yoshino, Yamashiro... đến tháng 9 thì đặt chân ở Ôgaki (tỉnh Gifu bây giờ) để thăm Tani Bokuin 谷木因. .
Mạc phủ ban lệnh kiểm soát ngành xuất bản.
1685 (42 tuổi):
Về cố hương Iga Ueno ăn Tết. Sau đó đi Nara xem lễ múc nước (mizutori) ở chùa Tôdaiji. Giữa tháng 3, ghé Ôtsu (tỉnh Shiga), Atsuta, Narumi (tỉnh Aichi) ... ở đâu cũng tham dự các hội bình thơ.
Takimoto Gidayu sáng lập rạp kabuki Takemoto-za ở Ôsaka. Họa sư phái Tosa là Sumitomo Tomoyoshi được vời vào làm việc cho Mạc phủ.
1686 (43 tuổi):
Viết những lời bình mà ngày nay được biết dưới cái tên Lời bình cho những vần thơ đầu năm (Hatsukaichi Hyôchuu). Bài thơ nổi tiếng Furuikeya/ Kawadzu tobikomu /Mizu no oto được làm ra và đăng trong tập Hội bình thơ con ếch (Kawadzu Awase) gồm 20 hiệp đấu.
Nhà văn Ihara Saikaku xuất bản tiểu thuyết Năm người đàn bà đa tình (Kôshoku Gonin Onna).
1687 (44 tuổi):
Tháng 8, đi thăm đền Kashima có Sora 曽良 và Sôha 宗波 tháp tùng. Viết nên Chuyến hành hương đền Kashima (Kashima Môde). Chủ khảo một cuộc thi thơ mà về sau nội dung được ghi lại trong tập Cánh đồng bất tận (Tsuzuki no hara). Tháng 10, làm chuyến lữ hành để viết nên Tráp đeo lưng cũ (Oi no kobumi) . Cuối năm về lại quê nhà Iga Ueno.
1688 (45 tuổi):
Đầu năm, tham bái Thần cung Ise. Tháng ba, sau khi xem hoa anh đào với Tokoku 杜 国 ở Yoshino (tỉnh Nara), du lịch các vùng Kôyasan, Nara, Ôsaka, Suma, Akashi, tháng tư thì về Kyôto. Tháng 5 đi thăm các vùng Ôtsu, Owari, Nagoya, Atsuta, Narumi... đâu đâu cũng tham dự các cuộc bình thơ. Trở về Edo vào mùa thu rồi cùng Etsujin 越人làm chuyến du ngoạn ở Sarashina, viết thành Chuyến viếng thăm thôn Sarashina (Sarashina Kikô).
Thời Genroku, một giai đoạn văn hóa xán lạn bắt đầu. Nhà nghiên cứu Keichuu viết Vạn Diệp Đại Tượng Ký Man.yô Daishôki nghiên cứu Vạn Diệp Tập (Man.yôshuu)
1689 (46 tuổi):
25
Với Sora, hành trình suốt những tỉnh miền bắc trên đảo Honshuu (Nikkô, Shirakawa, Matsushima, Hiraizumi, Obanazawa, Dewa sanzan, Sakata, Kisagata, Izumozaki, Kanazawa, Fukui, Tsuruga...), cuối cùng ngừng bước ở Ôgaki. Chuyến đi đã giúp tư liệu để viết Đường mòn miền Bắc (Oku no hosomichi), sẽ được biên tập ít lâu sau. Tháng 9 về quê rồi đi thăm lại Nara, Kyôto, Ôtsu. Cuối năm, đón xuân ở Zeze. Gichuuji 膳所義 仲寺 (tỉnh Shiga). Chùa Gichuuji (Nghĩa Trọng Tự) là nơi có ngôi mộ của danh tướng thời Kamakura là Minamoto no Yoshinaka (Nguyên Nghĩa Trọng, 源義仲) tức Mộc Tăng Nghĩa Trọng (木層義仲).
Tháng 11, Shibukawa Shunkai thiết lập đài thiên văn ngay trong phủ đệ của mình ở Honjô (thuộc Edo).Tháng 12, Kitamura Kigin và cha con Koshun trở thành cố vấn về thi ca cho Mạc phủ.
1690 (47 tuổi):
Rời Gijuujii, thăm bạn bè và học trò vùng Kyôto. Ở lại Am Huyễn Trú (Genjuuan) bên bờ hồ Biwa một vài tháng hè. Kỷ niệm về thời gian này được đúc kết trong Ghi chép về am Huyễn Trú (Genjuuan ki). Lại bỏ Genjuuan về Zeze ngụ ở Am Vô Danh (無名庵 Mumyôan) trong khuôn viên Gijuuji đến tận năm sau.
Mạc phủ ra lệnh cho nho gia Hayashi Hôkô dời nhà học từ tư dinh về khu Yushima nhằm nâng cao vai trò Khổng giáo. Y sư người Đức Engelbert Kaempfer của Thương quán Hà Lan đến Nhật.
1691 (48 tuổi):
Dừng chân ở Ngôi nhà những quả hồng rụng (Rakushisha) khoảng hơn hai tuần trong mùa hè và viết Nhật ký Saga (Saga Nikki). Xuất bản Áo tơi cho khỉ (Sarumino). Từ tháng 5, dọn đến nhà học trò là Bonchô ở Kyôto rồi tháng 6 lại về Zeze. Gichuuji. Chỉ trở lại Edo vào khoảng cuối năm.
Mạc phủ bắt nho gia để tóc, cấm phái Hiden của tông Nichiren hoạt động. Mitsui Takatoshi trở thành người đổi tiền cho nhà nước.
1692 (49 tuổi):
Am Bashô được dựng lại lần thứ hai (Am Bashô III) nhờ sự quyên góp do các môn đệ như Sampuu, Sora và Tarasui 岱水... thực hiện. Bashô nhân đấy viết một bài haibun về việc chuyển trồng mấy bụi chuối.
Tháng 1, Ihara Saikaku cho in tiểu thuyết Những tính toán người đời vào ngày cuối năm Seken munesanyô .
1693 (50 tuổi):
26
Viết bình luận về thơ nay được biết dưới tên Những lời bình đêm thu (Aki no Yo Hyôgo). Đóng cửa tạ khách một thời gian.
1694 (51 tuổi ta):
Cho xuất bản Bị đựng than (Sumidawara). Tháng năm, cùng con trai bà Jutei là Jirôbe về Iga Ueno. Cho đến trung tuần tháng bảy, đi thăm Ôtsu, Kyôto và có ghé lại Rakushisha ở Saga. Luôn miệng giảng giải về khái niệm nhẹ lâng (karumi). Bà Jutei mất trong thời gian giữ am cho Bashô ở Fukagawa (Edo). Buồn, ông lui về Vô Danh Am (Mumyôan) ở Zeze. Gichuuji tĩnh dưỡng. Ngày Vu Lan trở lại quê nhà nhưng không bao lâu lên đường đến Ôsaka sau một đêm ghé Nara. Bệnh cũ tái phát. Lại mắc chứng cảm lạnh, nhức đầu phải nằm liệt giường ở nhà trọ của Hanaya Niemon ở Ôsaka. Thần sắc ngày càng suy sụp. Nhờ học trò là Shikô 支考 thảo ba bức di chúc trong đó có một dành cho người anh cả, Hanzaemon. Chết ở Ôsaka vào đầu mùa thu và theo nguyện vọng, được chôn trong khu vực Gichuuji bên bờ hồ Biwa.
27
Chương 2
BASHÔ VÀ HAIKU
Năm chặng đường đi tìm một phong cách nghệ thuật
Dẫn nhập:
Bài viết dưới đây phỏng dịch chương thứ hai của quyển sách đề cập đến haiku theo nghĩa hẹp. Chú thích dựa trên quyển Zuchin Bashô Zenku (Tụ trân Bashô toàn cú, 2004) của nhà nghiên cứu Hori Nobuo và những tư liệu khác.
Những chữ gạch dưới đánh dấu xuất xứ và quí ngữ (kigo 季語, chữ liên kết với 4 mùa xuân hạ thu đông) của bài thơ. Lấy từ sách đã dẫn của Hori Nobuo. Số thứ tự là số bài trong tập ấy. Quí ngữ vốn là một đặc thù của thi ca Nhật Bản xuất hiện trước haiku nhiều thế kỷ, nó chứng tỏ thiên nhiên rất gắn bó với tâm hồn dân tộc Nhật.
Ngoài ra, để dịch 17 âm tiết (syllables) của haiku, chúng tôi phải sử dụng 15 chữ (words) Việt, không khỏi có khuyết điểm là mizumashi (pha loãng, dịch dôi), làm mất đi yếu tính của haiku là sự cô đọng. Xin xem sự bất toàn này như một lựa chọn cá nhân. Lý do là khi dịch thơ ra thơ, chúng ta phải có chút vần điệu cho hợp tai người Việt. Ngoài ra, thơ Nhật có thủ pháp kakekotoba, sử dụng một âm với nhiều nghĩa. Không dịch dôi, e rằng sẽ không thấy những chỗ chìm khuất của tảng băng sơn.
***
28
Tượng Matsuo Bashô (1644-1694)
Ngày nay, haiku do Bashô tự tay viết ra và để lại có độ 1000 bài (thực ra là 982, NNT). Nhìn số lượng thì thấy chẳng có gì đáng kể, nhất là khi ta biết thể thơ này cực kỳ ngắn11. Rõ ràng Bashô không phải là nhà thơ có sức sáng tác phong phú, có lẽ vì ông rất kén trong việc lựa chọn câu chữ và hình thức diễn đạt. Tuy số haiku ông làm ra ít thật đấy nhưng phạm vi của nó rất rộng rãi. Nhìn chung, chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy ông đề cập đến nhiều đề tài và bằng lắm bút pháp. Lý do là Bashô luôn luôn tiến bộ, cho dù đến khi đã thành danh rồi, ông vẫn không ngừng trau dồi để tìm ra những hướng mới cho thơ.
Để tiện việc nghiên cứu, chúng ta có thể phân chia đời thơ của Bashô qua năm chặng đường để có thể đánh giá sự trưởng thành của ông:
1) Thời kỳ thứ nhất dành để tập tành, có tính cách tiêu khiển, kéo dài cho đến năm ông lên Edo (1672). Lúc đó ông đang ở trong lứa tuổi hai mươi và haiku chỉ là một trò mua vui không hơn không kém.
2) Thời kỳ thứ hai này bao trùm giai đoạn ông định cư ở Edo, đến thời điểm ông về ở một nơi tên gọi là Am Bashô (1680). Lúc này, ông bận rộn với việc nghiên cứu và khám phá. Ông tìm hiểu những khuynh hướng thơ đang lưu hành và biến đổi nhanh chóng trong một đại đô thị đang đà phát triển.
3) Thời kỳ thứ ba gồm giữa khoảng 1681-1685. Người ta thấy lúc ấy, về phong cách, Bashô lần lần tách ra khỏi những nhà thơ khác và xác định vị trí của mình như một nhà thơ.
4) Thời kỳ thứ tư là đỉnh cao của thi ca Bashô, kéo từ 1686 đến 1691. Lúc này ông hoạt động mạnh mẽ, đã tự tạo một phong cách riêng và lôi cuốn được nhiều đệ tử. Khái niệm sabi được khai triển vào thời này.
5) Thời kỳ thứ năm gói ghém trong ba năm cuối cuộc đời của nhà thơ (1692-1694), lúc mà thi pháp của ông xem như hoàn thành. Tuy nhiên, dù đã trở thành một nhà thơ tên tuổi, người ta vẫn chứng kiến nơi ông những nỗ lực cải thiện thơ mình cho đến giây phút cuối cùng trên giường bệnh. Lúc này, ông có khuynh hướng thoát khỏi thiên nhiên để khai thác chủ đề con người.
11 Theo Ueda, quá ít nếu đem so sánh với hai nhà thơ haiku tiêu biểu khác là Buson (3.000 bài) và Issa (20.000 bài). Ngoài ra, thơ chỉ có 17 âm tiết, có thiếu hay dôi ra thì cũng một hai âm mà thôi.
29
Ngôi nhà được xem như nơi Bashô sinh ra ở Iga Ueno
Trong những trang sau đây, chúng ta sẽ chứng minh sự hiện hữu của năm chặng đường đó bằng các ví dụ cụ thể, nghĩa là qua thơ tiêu biểu cho mỗi giai đoạn. Nói thế không phải cố tình ép voi bỏ rọ nhưng chỉ để cho thấy năm thời kỳ đều có đặc trưng của nó. Lý do là phạm vi rộng rãi và tính đa dạng của thi ca Bashô không cho phép chúng ta khép chặt nó vào một khung thời gian nào nhất định12.
A) Thời kỳ thứ nhất: Tập tành và xem haiku như một trò tiêu khiển (1662-1672):
Trong những bài haiku Bashô còn để lại cho đến nay, bài thơ sớm nhất có lẽ là bài làm ra vào mùa đông năm 166213, lúc ông 18 tuổi, chính xác hơn là vào ngày 29 tháng 12 âm lịch, xem như hai hôm trước Tết (kotsugomori). Thế nhưng năm ấy tiết lập xuân đáng lý ra nhằm ngày mùng một tháng giêng lại rơi đúng vào ngày cuối năm. Như thế là mùa xuân đến sớm hơn trên tờ lịch. Bashô đã viết bài haiku như sau:
Haru ya koshi
Toshi ya yukiken
Kotsugomori
(Hori 149, đông)
Có phải mùa xuân đến,
Hay năm cũ ra đi,
Nhằm hai ngày trước Tết.
12 Thực vậy, tác giả Hori Nobuo (sđd) đã phân đoạn đời thơ Bashô làm 6 thời kỳ chứ không phải chỉ có 5. Những nhà nghiên cứu khác cũng có thể có kiến giải riêng. Theo Hori, sáu thời kỳ đó là: 1) Thời học tập tác phong thi phái Teimon ( từ lúc trên 10 tuổi đến 29 tuổi); 2) Thời lên Edo chịu ảnh hưởng thi phái Danrin (từ 29 đến 37 tuổi); 3) Thời kỳ về sống ở vùng Fukagawa, tạo nên một trường phái độc lập của mình, chịu ảnh hưởng thuyết vô vi của Lão Trang (từ 37 tuổi trở đi); 4) Thời kỳ đi sâu vào triết lý vô vi, cùng lúc nhuốm màu sắc duy thức và bản giác của Phật giáo, gắn bó với thiên nhiên và làm những bài thơ phá cách (những năm Trinh Hưởng: 1684-88); 5) Thời kỳ du hành miền Oku rồi phiêu bạt vùng Kansai (những năm đầu thời Nguyên Lộc: 1689 - 91). Công bố lý thuyết “bất dịch lưu hành luận”, nêu quan điểm “vật ngã nhất như”, chủ trương con người phải hòa mình vào đại tự nhiên, tập đại thành thi pháp Bashô; 6) Thời trở lại Edo (1692) cho đến lúc lâm chung ở Ôsaka (1694) ở cái tuổi 50, nỗ lực thuyết giảng về khái niệm karumi và không ngớt tìm tòi những hướng mới cho thơ.
13 Theo Ueda, có một bài thơ nói về năm Dậu mà người xưa gán cho Bashô, lúc ấy mới 13 tuổi, nhưng các nhà nghiên cứu ngày nay tỏ ra nghi ngờ về tính cách xác thực của nó.
30
Bài thơ này ý vừa sáo mòn, cách viết vừa dụng công. Nó tập trung vào sự ngỡ ngàng của tác giả trước một sự tình cờ hiếm có trong thời tiết. Nhiều thi nhân đời xưa đã sử dụng mô-típ này nên không có gì gọi là sáng tạo cả. Người ta nhớ một nhà thơ có tiếng vào thế kỷ thứ 10 là Ariwara Motokata (888-953) đã làm bài tanka với 31 âm như sau:
Toshi no uchi ni
Haru wa kinikeri
Hitotose wo
Kozo to iwamu
Kotoshi to ya iwamu
Trong khi năm chưa tàn,
Mùa xuân vội đến nơi.
Những ngày còn sót lại,
Gọi là năm cũ chăng,
Hay đã vào năm mới?
Để làm sống lại một đề tài thường sáo, Bashô đã lấy nó ra từ một bài thơ tình nổi tiếng thấy trong Ise Monogatari (伊勢物語 Truyện Ise), một tác phẩm cổ điển của văn chương cung đình Nhật Bản. Bài tanka này do một người đàn bà gửi cho một người đàn ông, nhắc đến kỷ niệm êm ái khó quên sau một đêm gặp gỡ người tình:
Kimi ya koshi
Ware ga yukikemu
Omooezu
Yume ka utsutsuka
Nete ka samete ka
Có phải khi chàng đến,
Là lúc em ra đi.
Không làm sao nhớ nữa
Mộng mơ hay cõi thực,
Đang ngủ hay còn thức?
Mục đích của bài haiku Bashô làm ra lúc ấy là để mua vui người đọc khi ông vay mượn một câu trong bài thơ có sẳn nhưng áp dụng vào một tình huống khác.
Trong một bài thơ đầu tiên khác của Bashô, ông vẫn hãy còn nghịch ngợm với lối chơi chữ. Bài thơ ấy được viết vào khoảng năm 1664, liên quan đến một giống anh đào có tên là hoa vú già, thông xưng là hoa bà lão (乳母桜 ubazakura):
Ubazakura
Saku ga rôgo no
Omoiide
(Hori 2, xuân)
31
Cội anh đào bà lão,
Nở hoa như tưởng nhớ,
Thời xuân sắc xa xưa.
Tác giả cố tình gieo nghĩa mù mờ khi viết nên bài thơ. Bề mặt, ta thấy ông trình bày quang cảnh một cây anh đào già cỗi nhưng vẫn tươi tắn ra hoa. Thế nhưng chữ ubazakura gợi cho ta hình ảnh một người phụ nữ luống tuổi mà còn cố giữ một số nét đẹp thời thanh xuân. Ngoài ra, cụm từ rôgo no omoide (老後の思い出 ký ức lúc về già) vốn mượn chữ từ vở tuồng Nô cổ điển nhan đề Sanemori (実盛 Lão tướng Sanemori)14 kể lại cuộc chiến cuối cùng của một viên tướng già nhuộm tóc cho đen để ra quân trước những địch thủ trẻ tuổi. Điển cố ấy giúp cho ý nghĩa của bài thơ trải rộng ra với một kích thước lớn hơn và sự dàn trải đó là dụng ý của tác giả muốn truyền đạt tới độc giả.
Hoa anh đào và người lữ khách
Cũng chơi chữ đấy nhưng không quá dụng công có lẽ là bài thơ sau đây mà Bashô đã viết ra ít lâu sau:
Akikaze no
Yarido no kuchi ya
Togarigoe
(Hori 12, thu)
Gió thu đâm thốc vào,
Kẻ hở khung cửa kéo,
Nghe như tiếng thét gào.
Trong bài thơ này, tác giả sử dụng hai lối chơi chữ. Một là yarido (遣り戸 cửa kéo) hàm chứa chữ đồng âm yari (槍ngọn giáo) và động từ yaru ( còn đọc là yaburu 破るphá vỡ) cho ta thấy sức mạnh của ngọn gió luồng. Thứ đến chữ kuchi (口 kẻ hở) còn có nghĩa là cái miệng, làm cho ta liên tưởng đến tiếng ai đang gào. Thế nhưng, ngoài trò chơi chữ
này, bài thơ không đem đến một thi vị đặc biệt nào.
14 Bắt nguồn từ một đoạn trong Truyện Heike (Heike Monogatari).
32
Nhiều bài haiku Bashô viết lúc đầu đời chỉ có dụng ý mua vui và nếu thành công thì cũng là nhờ sự khéo léo của ông khi sử dụng ngôn ngữ. Nó không thể hiện bao lăm xúc cảm của chính nhà thơ, ngay cả trong những tình huống mà đáng lý ra ông có thể trình bày một cảm xúc đặc biệt. Chẳng hạn bài haiku sau đây viết trong ngôi nhà mà chủ
nhân vừa có một đứa con bị chết:
Shiorefusu ya
Yo wa sakasama no
Yuki no take
(Hori 20, đông)
Thân kia đà oằn xuống
Giữa dòng đời đảo ngược.
Cây tre nằm dưới tuyết.
Một lần nữa, Bashô đã dựa vào nghệ thuật chơi chữ.Trong Nhật ngữ, yo 世 và 代 vừa có nghĩa là cuộc đời, vừa có nghĩa là yo cành cây 枝 (eda) hay lóng tre, đốt lau 節 (fushi). Cuộc đời điên đảo, ngược ngạo đã làm cho đứa con phải chết trước cha mẹ cũng như ngọn tre oằn xuống và chạm đất trước thân tre. Ngoài ra, nó còn ngụ ý nói đến vở tuồng Nô nhan đề Take no yuki (Tuyết trên thân tre), trong đó, một người mẹ thương khóc đứa con mình bị chết giá trong khi anh ta tìm cách gạt tuyết khỏi lùm tre. Kỹ thuật chơi chữ này có cái hay là kết hợp hai trình độ ngữ nghĩa với nhau và tạo ra một sự mơ hồ cần có của một bài thơ. Khổ thay, nó cũng có cái dở: sự dàn dựng phức tạp và dụng công của nó đã làm mất đi chất trữ tình. Không thể nào một bài thơ trữ tình thiếu tính nghệ thuật và diễn tả quá trực tiếp có thể sử dụng một cách hiệu quả trong trường hợp ai điếu người chết.
Làm như thế, chàng tuổi trẻ Bashô cũng chỉ đi theo những qui ước của thời đại mình đang sống. Lúc mới bưóc vào làng thơ, Bashô chịu ảnh hưởng của thi phái Teimon hay Trinh Môn 貞門,15 một trường phái haikai đặt nặng vấn đề kỹ thuật. Thế nhưng như chúng ta sẽ thấy, càng trưởng thành, Bashô càng không thỏa mãn và sau đó đã xa rời thi phái ấy. Trong thi tập Kaiôi (貝おおい Trò chơi bốc vỏ sò)16 năm 1672, đã có một bài thơ chứng minh điều đó:
Kite mo miyo
Jinbê ga haori
Hanagoromo
(Hori 38, xuân)
Đến đây mà xem nào
Người ta khoác áo chẻn,
15 Trường phái lấy nhà thơ Matsunaga Teitoku (Tùng Vĩnh, Trinh Đức, 1571-1653) làm tổ. Đã mở màn cho phong trào haikai phổ cập trong quần chúng, vốn lấy sự chơi chữ làm trọng. Phong cách của Trinh Đức vẫn có tính truyền thống cho nên còn gọi là cổ phong.
16 Một trò chơi có từ thời Heian, còn có tên là Kai-awase, gồm 360 mảnh vỏ sò, chia làm hai bên tả hữu. Người chơi dựa trên hình thù, màu sắc, vẻ đẹp của chúng để tranh hơn thua. Có khi được trang trí bằng những bài thơ. Có thể Bashô ví von nó với Uta-awase (Hội bình thơ).
33
Làm áo hội anh đào.
Vẫn còn có có một chút chơi chữ vì chữ kite trong Nhật ngữ có nghĩa là “hãy đến” 来 て mà cũng có nghĩa là “hãy mặc”着て. Kite mo miyo “Đến xem nào, xem nào!” là một lối nói thông tục, hay xuất hiện trong những bài hát rao thời ấy. Cái áo khoác haori kiểu anh chàng Jinbê17 lại là thứ áo vải thường, cộc tay của người hàng tỉnh, không có gì là cao sang. (Từ đây, đi ngắm hoa anh đào nở cũng chẳng cần chi ăn mặc đẹp đẽ cầu kỳ, NNT). Hai câu đầu đã đưa cái chuyện xem hoa (花見 hanami) - vốn là một cái thú tao nhã - từ trời xuống đất đen. Điều đó cho ta thấy Bashô bắt đầu đi theo một hướng mới, bởi vì những bài haiku đầu tiên của ông chỉ giới hạn trong cái đẹp thanh tao và những trò chơi chữ đầy cơ trí. Lúc đó, ông cũng thường xuyên móc nối thơ mình với những bài thơ cung đình và bản tuồng Nô, thú vui của tầng lớp quí tộc. Nay thì với thi tập Kaiôi (貝ほうい Trò chơi bốc vỏ sò), dường như ông đã hạ mình xuống bằng cách sử dụng nhưng tư liệu dân dã hơn như cách nói chuyện thường ngày của người bình dân hay câu chữ có tính đại chúng.
B) Thời kỳ thứ hai: Nghiên cứu các khuynh hướng đã có và khám phá kỹ thuật mới (1673-1680):
Thời kỳ quá độ từ khuynh hướng làm dáng và cơ trí qua đến nụ cười có tính cách bình dân của Bashô có lẽ chỉ xảy ra sau khi ông đặt chân đến Edo. Lúc này, ông chịu ảnh hưởng của thi phái Danrin, một trường phái sinh ra như phản ứng chống lại Teimon. Danrin 檀林18 bắt đầu chi phối làng thơ từ năm 1675. Trường phái mới này có đặc điểm là nới rộng khuôn khổ thơ haikai về mặt chủ đề cũng như cách diễn đạt. Nó muốn đi sâu hơn nữa vào tâm tình của quần chúng bình dân. Những chủ đề thanh tao và lối diễn đạt bay bướm của các thi sĩ cổ điển cung đình đều bị họ nhại và đem ra làm trò cười. Kỹ thuật ẩn dụ và chơi chữ thì vẫn được dùng nhưng không phải để khoa trương cái cơ trí (wit) của người tỉnh thành mà chỉ nhằm bộc lộ tính cách hài hước do sự tương phản nằm trong những chủ đề thế tục thường nhật.
17 Jinbê (Thậm binh vệ) có thể là tên một kép hát Kabuki hay những nhân vật công chúng mà kiểu bởi tóc và cách phục sức ảnh hưởng đến trào lưu xã hội thời Edo.
18 Trường phái thơ haikai thời Edo mang cái tên Phật học (Chiên đàn lâm), thịnh hành từ năm 1673 đến 1684. Chuộng sử dụng văn nói và cái cười cơ trí (pun, wit), chống lại cổ phong của Teimon. Người chủ trì thi phái là Nishiyama Sôin (Tây Sơn, Tông Nhân, 1605-1682).
34
Lùm chuối am Bashô19
Một trong những bài thơ Bashô làm khi vừa đến Edo mà chúng tôi trích dẫn sau đây đã nói lên điều đó.Thực ra bài này vẫn lấy nguồn hứng từ một đề tài cổ điển được các nhà thơ cung đình yêu chuộng: người đàn bà đập áo trong cảnh chiều thu. (Chính ra hình ảnh tiếng chày đập áo phát xuất từ cổ thi Trung Quốc khi nói về người chinh phụ mùa thu nhớ chồng đồn thú nơi biên ải! NNT20). Thời xưa những nhà quí tộc Nhật Bản khi rời kinh đô về địa phương, thường thấy cảnh người đàn bà đập áo không phải bằng chày nhưng trên một hòn đá tảng và nhân đó, nói về nỗi cô đơn của kẻ đang ở trên bước hành trình. Thế nhưng, để nhại họ, Bashô đã viết:
Haritate ya
Kata ni tsuchi utsu
Karagoromo
(Hori 53, thu )
Cái ông thầy châm cứu
Đâm mũi kim lên vai
Người mặc manh áo rách.
Trong Nhật ngữ, từ karagoromo (空ごろも manh áo tầm thường hay sờn rách) của người lao động, đồng âm dị nghĩa với Karagoromo (唐衣、漢衣、韓衣) là bộ quần áo đến từ nước ngoài mà các quan lại trong triều đình ở đại lục thường mặc21.Từ đó, hình ảnh đẹp đẽ của nhà quí tộc ngắm nghía nguời con gái miền quê đang đập (utsu) và giũ tấm áo đẹp (Karakoromo) như tan biến, chỉ còn lại hình ảnh của ông thầy châm cứu trong một căn nhà xập xệ đang chăm sóc một anh nông dân nào đó mà trên người chỉ có manh áo đáng bỏ đi.
19 Bashôan “Am cây chuối”, tên một ngôi nhà bỏ trống vùng Fukagawa trong xóm bình dân Edo. Matsuo Tôsei (Tùng Vĩ Đào Thanh) đã lấy nó làm bút hiệu (Bashô) cho mình. Chủ nhân của ngôi nhà - một đệ tử của ông – là Sanpuu (Sam Phong) đã để cho thầy sử dụng . Bashô đã sống ở đó khi vừa đặt chân lên Edo.
Bị hỏa hoạn thiêu hủy năm 1682 nhưng được dựng lại vào năm sau. Nay thuộc khu Kôtô (Giang đông), trung tâm Tôkyô.
20 Ví dụ thơ Đỗ Phủ: Hàn y xứ xứ thôi đao xích, Bạch Đế thành cao cấp mộ châm. 21 Chữ châm (cây kim hari 針) trong haritate (thầy châm cứu 針立て) và chữ châm (shin 鍼) trong châm cứu đều có âm gần với chữ châm (chin, 砧 đập áo). Utsu(đả 打つ vừa là đập, giã, vừa là chích kim. Chữ kara(空)và Kara (唐, 漢, 韓)sử dụng theo thủ pháp iikake (言い掛け) nghĩa là nói lấp lửng, đa nghĩa)
35
Bài haiku dưới đây lấy điển tích từ Truyện Ise (Ise Monogatari), theo đó, một ông quan trong triều Heian (chàng Don Juan Nhật Bản, vương tử Ariwara no Narihira, 825-880, NNT) nuôi mối tình kín đáo với một công nương. Để đến nhà nàng và không muốn cho ai hay, ông ta đợi đến đêm mới leo qua bức tường đổ để vào gặp ngưòi yêu. Truyện một nhà quí tộc lén đến thăm người yêu đang gặp cảnh gia thế suy vi đáng lý ra lãng mạn biết chừng nào.Thế nhưng Bashô đã đem chuyện đó mà bỡn cợt:
Neko no tsuma
Hetsui no kuzure yori
Kayoi keri
(Hori 69, xuân)
Chị mèo cái kia đang,
Trèo qua gian bếp sập,
Để đến thăm anh chồng.
(Kayoikon 通い婚 là hình thức hôn nhân thời xưa, đàn ông ban đêm đến nhà vợ, sáng mai lại về nhà mình. NNT). Ở đây, cái hài hước nằm ở chỗ trong thế giới loài mèo thì con cái đi tìm (kayoi) con đực.
Bashô thường đem đề tài cổ điển ra làm trò cười nhưng ông cũng có những bài haiku đầy tính hài hước kiểu khác nghĩa là không cần phải đụng chạm đến những đề tài đó. Sau đây là một ví dụ. Bài thơ này ông đã làm ra trong một chuyến đi về miền tây thăm gia đình vào năm 1676, trên đường, ông thấy cảnh núi Fuji, giữa hè mà mỏm còn phủ tuyết22. Đến quê nhà, ông được một người quen mời về nhà chơi. Hôm ấy trời nóng bức. Ông mới lấy quạt ra quạt mát cho chủ nhà và không quên kèm theo mấy vần:
Fuji no kaze ya
Ôgi ni nosete
Edo miyage
(Hori 63, hạ)
Ngọn gió mát Phú Sĩ,
Còn đọng trên lá quạt,
Là quà khách Edo.
Đây là một vần thơ hài hước kiểu nhanh trí không hơn không kém. Thế nhưng cách ví dụ này không phải vay mượn điển cố xa xưa. Rõ ràng là nó đơn sơ, nhẹ nhàng và đột xuất.
22 Điều này không còn đúng cho ngày nay nữa vì sự biến đổi khí hậu.
36
Núi Fuji nằm giữa đường từ Edo về quê hương Iga Ueno của nhà thơ
Cũng là một bài thơ tình ý nhẹ nhàng và có nhiều tính đột xuất là một bài làm trong một đêm đi chơi trăng. Người ta tưởng tượng thi sĩ và chúng bạn đang ở trên một chiếc thuyền chờ trăng rằm tháng 8 (khoảng 22 hay 23 tháng 9 dương lịch). Để dùng vào dịp này, họ có mang theo ít rượu sake và một chén son lớn đã rửa trong một cái bồn. Tình cờ, trăng rằm ló dạng trên mặt biển, Bashô bèn tức hứng:
Sôkai no
Nami sake-kusashi
Kyô no tsuki
(Hori 105, thu)
Kìa trên mặt biển xanh,
Sóng cũng nồng men rượu.
Giống vầng trăng đêm nay.
Đặc điểm của bài haiku này nằm ở lối so sánh của nó: Cái chén son uống rượu được đem so sánh với vầng trăng mới mọc, còn mặt biển với bồn nước dùng để tráng chén cho sạch (theo phong cách Nhật, trong vòng thân tình, một chén có thể cho nhiều người dùng, NNT). Nếu trong những bài thơ đầu tay, Bashô thường dựa vào hình thức chơi chữ thì ở đây, sự so sánh dựa vào tính cách đồng âm dị nghĩa của ngôn từ thấy như
không còn cần thiết nữa.
Bashô cũng đã dùng thủ pháp so sánh đột ngột23ở trên, không phải chỉ với dụng ý đùa cợt nhưng còn để tạo nên một không khí đặc biệt đầy chất thơ. Cũng là một bài thơ nói về tiết trung thu:
Ki wo kirite
Motokuchi miru ya
Kyô no tsuki
(Hori 81, thu)
23 So sánh hai vật không liên quan gì đến nhau, làm người đọc không ngờ tới (surprising comparison). Ở đây là 2 cặp sóng đôi: chén rượu / vầng trăng, bồn nước / mặt biển.
37
Vừa đốn xong thân cây,
Nhìn vết chém trên gốc
Giống vầng trăng đêm nay.
Ở đây, đem so sánh vết chém trên gốc gây với con trăng đầy, quả là đột ngột và hài hước. Thế nhưng hai hình ảnh ấy chồng lên nhau còn tạo nên một bầu không khí nên thơ độc đáo, kết hợp bởi vầng trăng đầy vừa mới ló dạng nơi chân trời và vết cắt tròn ở gốc cây hãy còn ướt sương và thoảng thơm mùi nhựa. Cái tròn đầy, cái tươi mới của hai hình ảnh như ngầm nói lên sự bí mật mà thiên nhiên cất giấu.
Cùng với năm tháng, thơ Bashô trở thành nghiêm trang hơn. Ông tự giải thoát mình khỏi khuynh hướng hài hước, cơ trí của thi phái Danrin. Một số bài thơ viết vào trước thời điểm năm 1680 không lâu đã, nói lên một cách hùng hồn sự chuyển mình trong phong cách. Ví dụ như một bài tả nhện:
Kumo nan to
Ne wo nani to naku
Aki no kaze
(Hori 114, thu)
Nhện ơi cho biết với,
Nhện đã thốt lời gì?
Trước trận gió mùa thu
Tính hài hước nằm trong hai câu đầu khi nhà thơ viết như văn nói và đến từ một chuyện không ai đặt ra bao giờ là con nhện có biết nói, biết hót, biết rúc, biết ngâm ... như các động vật và côn trùng khác hay không? Thế nhưng mùa thu đã làm cho tác giả đâm ra thương cảm với nỗi cô đơn của một con nhện lẻ loi, không hề lên tiếng than thở mà chỉ
âm thầm một mình giăng tơ24. Nó gợi cho ta hình ảnh một nhà thơ đơn độc, đứng lặng lẽ trước trận gió thu, đợi chờ một người có thể đến mà có thể không đến. Một bài haiku khác cùng thời cũng có ý hài hước nhưng cùng lúc, nói lên tình cảm cô độc sâu sắc của tác giả:
Gu anzuru ni
Meido no kaku ya
Aki no kure
(Hori 119, thu)
Nghĩ dại chăng vẫn thấy,
Chốn âm cung tịch mịch,
Chẳng khác chiều thu này.
“Gu anzuru ni” nghĩa là “theo ý kiến ngu muội của tôi”, một lối nói khiêm tốn thường thấy trong cổ văn Trung Quốc. Meido (minh đồ 冥途) là cõi âm trong ngôn ngữ nhà 24 Hori có liên tưởng đến một đoạn nói về côn trùng trong Makura no Sôshi của Sei Shônagon. Ca dao Việt Nam cũng có câu: Buồn trông con nhện giăng tơ. Nhện ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai. Thơ Huy Cận: Sợi buồn con nhện giăng mau.
38
Phật. Dù cảm thấy bài thơ bắt đầu một cách hài hước, độc giả cũng phải ghìm lấy nụ cười khi đọc đến câu thứ ba để cảm thông với nỗi buồn sâu sắc của tác giả trước cảnh chiều thu.
Trong những bài thơ Bashô viết trong giai đoạn này, người ta thấy hầu như không còn dấu tích của sự hài hước.Chẳng hạn bài haiku nhan đề Vầng trăng đêm 13 tháng 9:
Yoru hisokani
Mushi wa gekka no
Kuri wo ugatsu
(Hori 117, thu)
Trong đêm dài, lặng lẽ,
Con sâu dưới ánh trăng,
Nhấm dần xuyên hạt dẻ25.
Sự kết hợp giữa ánh trăng, con sâu và hạt dẻ xem ra có vẻ lạ lùng, thế nhưng ở Nhật, trăng đêm 13 tháng 9 thường được gọi là trăng hạt dẻ (kuri-meigetsu). Kuri còn là kigo (quí ngữ) của mùa thu. Cho dù bài thơ không gieo đề tài như thế để có thể nắm bắt nội dung đi nữa thì độc giả vẫn thấy đó là một hình ảnh đẹp nói lên sự quạnh quẽ, tĩnh lặng của một đêm thu trong cánh rừng dưới ánh trăng. Bashô dường như yêu thích thủ pháp này nên ông đã khai triển nó thật nhiều và đã đi đến chỗ làm ra một số bài mà trong đó, không còn thấy đâu bóng dáng của yếu tố hài hước. Chẳng hạn:
Izuku shigure
Kasa wo te ni sagete
Kaeru sô
(Hori 122, đông)
Mưa rào rơi đâu nhỉ?
Mà nhà sư về chùa
Dù cầm tay buông thỏng.
Bài thơ hầu như chỉ tả cảnh mùa đông, có thể tưởng tượng trên bầu trời đầy mây đen, mặt đất thì cây cỏ xơ xác khô cằn. Mưa rào (shigure) như chúng ta biết, có thể đổ xuống bất cứ lúc nào, chỗ này mưa, chỗ khác tạnh. Thế nhưng lại có một nhà sư trong bộ áo nâu sòng bước trở về một ngôi chùa nhỏ trên một ngọn đồi xa (Hình ảnh Qui tăng26 hay nhà sư về chùa trong cổ thi Trung Quốc, Hori). Chiếc dù trong tay ông để buông thỏng nhưng hãy còn ướt nước của trận mưa rào nơi ông vừa thăm viếng.
Ngoài giọng điệu nghiêm trang của chúng, hai bài haiku sau cùng cho ta thấy về mặt hình thức, chúng không giống như những bài trước. Bài thơ về hạt dẻ gồm có 19 âm tiết (6-7-6), bài thơ về cái dù cũng 19 âm tiết nhưng dàn trải khác nhau (6-8-5), nói chung, chúng đều đi ra ngoài mô hình cổ điển 17 âm tiết ( 5-7-5). Ngoài ra về mặt chính tả, nó
25 Theo Hori, có thể Bashô lấy hứng từ một câu thơ chữ Hán trong Wakan Ryôeishuu (Hòa Hán lãng vịnh tập): Dạ vũ du xuyên thạch thượng đài (Mưa đêm như đi xuyên thấu làn rêu phủ trên đá). 26 Chẳng hạn thơ Giả Đảo: Điểu túc trì biên thụ, Tăng xao nguyệt hạ môn, (NNT).
39
cũng không theo qui ước cũ. Nó có vẻ gần gủi với cổ điển Trung Quốc hơn. Bài thơ về cái dù có phong vị Đường Tống. Hình như Bashô ngại ngùng với cách chơi chữ và cơ trí đến từ thi ca cung đình Nhật Bản, đã thử nghiệm một phong cách trang nghiêm, ít giả tạo hơn mà ông tìm thấy trong thơ cổ điển Trung Quốc.
Một trong những thí nghiệm thành công nhất của Bashô có lẽ là bài thơ con quạ, mà Bashô xem như đã đạt được phong cách của mình:
Kareeda ni
Karasu no tomarikeri
Aki no kure
(Hori 118, thu)
Chiếc quạ về đậu lại,
Trên cành cây khô trụi,
Chiều thu, ôi, chiều thu!27
Cành khô, chiếc quạ, chiều thu
Một lần nữa, bài thơ này xem ra rất gần gủi với thi ca và hội họa Trung Quốc. Hình thức của nó cũng tự do hơn. Trong bản thử nghiệm, Bashô dùng đến 20 âm tiết (5-10-5), bản quyết định ông mới giữ lại 19 (5-9-5). Bài haiku này có thể coi như đạt hơn hai bài đi trước vì nó không có dụng tâm gây nên sự đột ngột không ngờ cũng như không vẽ ra phong cảnh. Nó chỉ trình bày một cảnh vật mà chúng ta có thể thấy ở bất cứ nơi đâu. Nó làm cho người đọc thấy cái không khí tiêu sơ của buổi chiều thu ấy không có gì áp đặt đối với mình. Ta còn có thể nói là bài thơ con quạ có tính khách quan và phi chủ thể. Trong khi bài thơ nói về cái dù đưa ra câu hỏi “Mưa rào rơi đâu nhỉ?” thì có sự hiện diện của nhà thơ (người đặt câu hỏi, NNT), chứ nơi đây ông ta hoàn toàn vắng bóng. Bài thơ con quạ đã được các nhà nghiên cứu về sau ca tụng không ngớt vì nó cho thấy sự quan trọng của tính khách quan trong haiku. Dù sao, điều không thể chối cãi được là bài ấy có thể xem như một cái mốc quan trọng trong sự phát triển thơ haiku của Bashô.
27 Dịch giả nháy lại hai lần “Chiều thu” để nhấn mạnh tính cách tiêu sơ của hình ảnh “quạ đậu cành khô” (NNT).
40
Tượng Bashô, người lữ khách vĩnh viễn
C) Thời kỳ thứ ba: Đi tìm cho mình một sắc thái riêng (1681-85):
Cái am Bashô đầu tiên được dựng nên vào năm 1680 và nhà thơ đã đến trú ngụ ở đó từ mùa đông. Kể từ lúc này cho khi ông viết Dọc đường mưa gió (Nozarashi no kikô, 野 ざらし紀行, 1685, còn gọi là Ghi chép xương trắng dọc đường28). Đối với ông, nó đánh dấu một cuộc hành trình về miền Tây rất có ý nghĩa vì là giai đoạn chuyển tiếp khi ông làm lung lay cấu trúc thi ca có sẳn để hướng về một sắc thái riêng biệt cho thơ mình. Như chúng ta có thể hình dung, ông dã thí nghiệm nhiều bút pháp khác nhau, phần lớn bắt nguồn từ trong những bài thơ ông làm ra lúc trước. Có lẽ chúng ta có thể chia thơ làm trong giai đoạn chuyển tiếp này ra làm 3 loại:
1) Những bài lấy cảm hứng hay đồng hoá thơ cổ điển Trung Quốc mà đỉnh cao của nó là Hạt dẻ rỗng (Minashiguri 虚栗, 1683)29;
2) Những bài áp dụng kỹ thuật đối chiếu đột ngột (từ hai hình ảnh vốn được coi như không liên quan gì với nhau), và từ đó ông đã có vài giai tác.
3) Những bài miêu tả một cách khách quan sự vật. Đôi bài trong Dọc đường mưa gió chứng minh được bút pháp này.
Chúng ta hãy thử tìm hiểu bút pháp thấy trong từng thể loại 1, 2 và 3. Thể loại 1:
Những bài thơ chịu ảnh hưởng của thi pháp Trung Hoa cho ta nhận ra chúng có cùng đặc trưng thấy trong những bài thơ các giai đoạn trước của Bashô nghĩa là không bị câu
28 Nozarashi kikô (野晒紀行 Dã sái kỷ hành) hay Kasshi Ginkô (Giáp Tý ngâm hành 甲子吟行) nói về chuyến đi xuất phát từ Edo vào tháng 8 năm 1684, qua các tỉnh miền Tây (đến Nagoya, Kyoto), xem như tập văn kikô (kỷ hành văn, văn đi đường) đầu tiên của ông. Nozarashi vừa có nghĩa là mưa gió trên đồng vừa có nghĩa là đầu lâu (sarekôbe) bỏ lăn lóc ngoài trời. Ý nói sự khổ cực không thiết cả sinh mệnh của người đi tìm nguồn thơ.
29 Minashiguri (Hư lật, Hạt dẻ rỗng, 1683) gồm 2 tập với 431 bài hokku do Bashô và chư đệ tử (Kikaku, Ransetsu, Sanpuu, Sôdô...) viết ra. Đệ tử là Takarai Kikaku biên tập. Nó đánh dấu việc phát triển phong cách mới của thơ Bashô.
41
thúc bởi số âm tiết và hay sử dụng chính tả kiểu Trung Quốc để tạo nên một không khí cô quạnh và trang trọng (ví dụ dùng từ sôkai hay thương hải 滄海 thay cho aoi umibara 青い海原 để nói lên cái rộng lớn của biển cả, NNT). Một điều khác nữa là Bashô đã lấy những kinh nghiệm cá nhân để viết ra những bài thơ như thế. Một thí dụ phù hợp của bút pháp này là bài thơ sau đây, làm ra ngay khi Bashô dọn về am Bashô ở khu Fukagawa (Edo):
Ro no koe nami wo utte
Harawata kôru
Yo ya namida
(Hori 124, đông)
Tiếng chèo ai khuấy nước,
Băng giá cả lòng ta,
Đêm khuya đầm giọt lệ.
Hình thức của nó là 22 âm tiết (10-7-5)30. “Tiếng mái chèo khua đến lạnh lòng” là hình ảnh thấy trong thi ca Trung Quốc (ro no koe = lỗ thanh 櫓声)). Câu thơ cực tả sự cô đơn này đến từ Đường thi và trong lời giải thích về bài haiku nói trên, Bashô cho biết ông đã vay mượn Đỗ Phủ. Ngoài ra lời ấy còn cho biết là Bashô muốn hiện thực hoá cái lạnh mùa đông ở Edo mà ông cảm thấy trong căn lều khiêm tốn, chỗ ở gần bên bờ sông. Nó làm ông lạnh cóng cả ruột gan. Những yếu tố của vần thơ Trung Quốc được dùng để bày tỏ mục đích duy nhất của ông nghĩa là nói lên cảm xúc của mình.
Yếu tố Trung Hoa còn thấy rõ ràng hơn trong bài thơ sau đây, chép ở thi tập Hạt dẻ rỗng (Minashiguri). Bài thơ viết cũng về một mùa đông. Trong lời chú, Bashô cho biết ông phải đi mua nước và trữ nó vì vùng đó không có nước ngọt tinh khiết:
Kôri nigaku
Enso ga nodo wo
Uruoseri
(Hori 141, đông)
Nước váng băng đắng ngái,
Cũng đủ để chuột nước,
Nhấp nháp cho thông cổ.
Câu nói “Yển thử ẩm hà bất quá mãn phúc” (Con chuột nước31uống tí nước sông cũng đủ no lòng) nằm trong trứ tác của Trang tử. Ý nghĩa của câu chuyện thầy Trang đưa ra là để nhấn mạnh quan niệm người ta có thể sống hạnh phúc nếu bằng lòng với những gì
30 Câu thượng ngũ tức câu đầu dài đến 10 chữ. Hori gọi cách viết đó là “phá điệu” chứng tỏ lúc về ẩn cư ớ Am Bashô, nhà thơ đã muốn đi ra ngoài đường lối 5/7/5.
31 Tạm dịch chữ “sewer rat” (chuột cống) trong nguyên văn của Ueda Makoto vì e rằng danh từ này không thích hợp với thời của Trang Tử. Dịch là chuột mương, rãnh có thể phù hợp hơn. Hà ở đây có thể là sông Hoàng Hà chứ không phải con sông bình thường.Cổ văn có câu: Đãi Hà thanh, nhân thọ kỷ hà ý nói sông Hoàng Hà cứ 500 năm, dòng đục lại hóa ra trong nhưng đời người ngắn ngủi, làm sao có thể chứng kiến.
42
mình có. Thế nhưng điều đó không biểu lộ ra trong bài thơ Bashô. Haiku ông làm ra chẳng có mục đích dạy đời như thầy Trang. Nơi đây, nhà thơ chỉ mượn hình ảnh con chuột uống nước sông của Trang tử mà thôi. Một đêm đông lạnh lẽo nào đó, Bashô cảm thấy khát và vào bếp uống nước nhưng nước trữ trong nhà đã lên váng băng và có vị
đăng đắng. Ông đã bẻ một miếng băng nhấp nháp cho mát cổ. Cái vị đắng mát ấy khi đi qua cổ họng đã làm Bashô liên tuởng đến con chuột nước của Trang tử.
Thể loại 2:
Thế nhưng trong thể loại thứ 2 người ta mới thấy những bài thơ đẹp nhất của Bashô. Nhà thơ đã dùng trí tưởng tượng của mình để đem so sánh hai sự vật vốn dĩ không có mối liên quan nào giữa nó. Chúng ta vừa mới nói về đầu nguồn của thể loại này qua bài thơ ông đối chiếu khoanh tròn của gốc cây bị đốn với vầng trăng. Sự kết hợp hay đặt chồng hai yếu tố khác biệt ấy lên nhau có thể gây nên ngạc nhiên và tiếp theo đó là cảm giác thích thú nơi người đọc. Một ví dụ về nó là bài thơ sau đây trong Dọc đường mưa
gió (Nozarashi kikô):
Akebono ya
Shirauo shiroki
Koto isshun
(Hori 198, đông)
Trong tia nắng hừng đông
Cá ngân ngư vụt trắng,
Một tấc màu sáng bạc.
(Shirauo, bạch ngư hay ngân ngư là một loại cá thân trong suốt, còn gọi là cá băng (băng ngư, icefish), dài chừng 3,3 cm, NNT). Nó sống ở các vùng hồ Nhật Bản. Tuy là thân trong suốt không thể nhìn thấy nhưng khi ra khỏi nước thì có màu trắng bạc. Nhà thơ lữ hành của chúng ta vào một buổi hừng đông đã bắt gặp quang cảnh đó khi ông ra bờ hồ và chứng kiến những người chài lưới suốt cá vào lưới. Trong số đó có những con ngân ngư đang dãy dụa và màu trắng bạc của chúng ánh lên trong buổi hừng đông đang dần dần trải rộng ra như vô tận trên mặt hồ. Đó là một hình ảnh trong sáng và rõ nét. Cái đẹp của bài thơ này nằm trong sự đối chiếu độc đáo giữa tia nắng le lói của buổi hừng đông và ánh sáng bạc trên thân cá ngân ngư.
Nếu như bài thơ trên thể hiện được một cái đẹp tế nhị và độc đáo thì bài haiku sau đây, tuy cùng một bút pháp kết hợp hai hình ảnh xa lạ với nhau lại gây ra một không khí dữ dội. Lúc đó, Bashô đang đi viếng đền thần Ise (Ise Jinguu), một đại thần cung vốn nằm sâu trong rừng cây tuyết tùng (Japanese cedars):
Misoka tsuki nashi
Chitose no sugi wo
Daku arashi
(Hori 178, thu)
Đêm ba mươi không trăng,
43
Mỗi cơn giông vần vũ,
Trên rừng tùng muôn tuổi.
Màn đêm của ngày 30 tháng âm lịch không trăng, những rặng tuyết tùng = sugi (杉)với vòm lá nhọn hình khối của chúng tua tủa trên nền trời đen đặc và cơn bão lớn đang giận dữ gào thét trên đầu như một trận thần phong, tất cả vẽ cho cho ta một cảnh tượng hoang dã, thô bạo trước khi con người có mặt. Đó là thế giới linh thiêng chỉ có chư thần Shintô cư ngụ.
Tuy giọng văn có khác nhưng cùng được viết với một bút pháp là bài haiku sau đây. Nó cũng được làm vào chuyện lữ hành về miền Tây năm 1684. Trong dịp này, có lần Bashô dừng chân ở một quán nước bên đường để ăn trưa:
Tsutsuji ikete
Sono kage ni hidara
Saku onna
(Hori 237, xuân)
Tsutsuji chưng ngắm,
Ngồi ở dưới bóng hoa
Một chị xẻ khô cá,
Hoa tsutsuji (hoa đỗ quyên)
Hoa tsutsuji (hoa đỗ quyên, azaleas) là loại hoa mọc dại ở miền Tây Nhật Bản mà người lữ khách có thể nhìn thấy chúng ở hai bên vệ đường trong suốt chuyến đi. Ở đây, những chùm hoa hồng thắm ấy đã được chủ nhân quán nước đem về chưng đơn sơ trong một cái chậu gỗ đặt bên góc quán và dưới bóng nó, có người đàn bà đang ngồi xẻ cá khô
(hidara = dryed codfish, cá tuyết khô), một loại cá thu nhưng thịt trắng, rẻ tiền, để làm cơm cho khách. Hoa tsutsuji và cá khô hidara là hai hình ảnh chẳng ăn nhập gì với nhau nhưng khi được kết hợp lại, nó tạo ra một bầu không khí bình dị, khiêm tốn và cũ kỹ. Nếu người đọc muốn hình dung hình ảnh người đàn bà xẻ cá khô thì có lẽ phải tưởng tượng ra một phụ nữ đã trên ba mươi, có chồng con, hai bàn tay chai sạn vì công việc nhà, nhưng vẫn còn giữ đôi nét khả ái của thời thanh xuân.
Trong 3 bài thơ vừa kể, Bashô đã đặt chồng lên nhau 2 hay 3 hình ảnh (thị giác). Thế nhưng trong hai bài dưới đây thì ông lại kết hợp những cảm xúc giác quan khác (thị giác,
44
khứu giác, xúc giác), và như thế, đã tạo ra một bầu không khí mới:
Ran no ka ya
Chô no tsubasa ni
Takimonosu
(Hori 180, thu)
Làn hương của hoa lan,
Thở mùi thơm nồng nàn,
Ướp vào trong cánh bướm.
Thơ Bashô thường có màu thì ở đây lại thêm hương để đi cùng với nó. Phong vị bài thơ càng trở nên sâu đậm qua cách diễn đạt có thể thấy trong sách vở chữ Hán; ran (lan), ka (hương), chô (điệp). (Hori cho rằng bài thơ còm hàm ý chuyện bướm hoa giữa càng nàng du nữ và khách làng chơi, NNT). Tiêu biểu hơn nữa về sự cộng cảm giữa các giác quan là bài thơ sau:
Kogarashi ya
Take ni kakurete
Shizumarinu
(Hori 975, đông)
Cơn gió bấc mùa đông
Ẩn khuất trong lùm trúc.
Không gian một thoáng im.
Ở đây, động tác (xúc giác) và cảnh vật (thị giác) được đặt bên nhau và tạo ra một sự hài hòa mỏng manh giữa hai giác quan. Nếu mùi hương nồng nàn của hoa lan được đem ra kết hợp với đôi cánh sặc sỡ của con bướm thì trận gió bấc thô bạo kia có thể đem ra sánh đôi với những cây tre khô mảnh và chòm lá nhọn sắc.
Biết kết hợp đặc tính nhiều giác quan như thế sẽ đưa đến một sự cộng cảm (synesthesia) lớn hơn. Đó chính là trường hợp bài haiku sau đây mà Bashô đã viết vào cùng một thời:
Umi kurete
Kamo no koe
Honokani shiroshi
(Hori 209, đông)
Mặt biển chiều giục tối,
Bỗng tiếng vịt trời kêu,
Làm lóe lên ánh trắng.
Một tiếng vịt trời kêu ngoài khơi xa khi buổi chiều sụp tối không thể diễn tả bằng một màu sắc nào hơn là màu trắng. Nó vẽ cho ta thấy màn đêm đang dần dần bao trùm lên trên mặt biển và nỗi cô độc của thi nhân một ngày tàn đông nơi lữ thứ đang đứng trên bờ nhìn đăm đăm vào không gian đen tối. Bài thơ này được nhiều người cho là đạt đến
45
đỉnh cao nhất của phong cách Bashô (Có gì độc đáo hơn là đem màu trắng để diễn tả một tiếng chim trời, và ở thời điểm của Bashô nữa chứ, NNT)
Thể loại 3:
Thơ điển hình cho thể loại thứ ba là bài thơ nói về chiếc quạ đậu cành khô. Nó không hàm chứa những yếu tố Trung Quốc và cũng không kết hợp hay chồng chất những yếu tố cảm quan để so sánh chúng với nhau. Ngược lại, nó thật giản dị trong cách dàn dựng, trực chỉ trong cấu trúc, đều đặn trong khuôn khổ âm tiết và rõ ràng trong cách phát âm. Nhiều khi, ta thấy nó như quá bình thường để tự hỏi đâu là ý nghĩa đích thực mà tác giả
muốn nêu lên. Sự thực là loại thơ này đã được cố ý làm cho giản dị và mơ hồ. Nó trình bày một khung cảnh hoàn toàn không có sự can thiệp của tác giả vì tác giả chủ tâm để cho độc giả tự mình khám phá cũng như diễn dịch ý nghĩa của bài thơ.
Một ví dụ khác về điều đó là bài thơ khá được truyền tụng sau đây. Tác giả chỉ chú thích trên đầu bài thơ có mấy chữ: “Trên lưng ngựa”:
Michinobe no
Mukuge uma ni
Kuwarekeri
(Hori 176, thu)
Nở thắm bên bờ đường,
Mukuge hồng ngát ,
Bỗng ngựa ta ngoặm mất
Những gì bài haiku trên miêu tả là một cảnh đơn sơ: đoá hoa xinh đẹp mọc bên lề đường bị con ngựa của nhà thơ ăn mất. Thế nhưng các nhà nghiên cứu thường diễn giải nó bằng nhiều lối.Vài người nghĩ rằng bài haiku này hàm chứa tư tưởng vô thường (cái đẹp có đó, mất đó, NNT) của Phật giáo. Kẻ khác lại bảo chẳng qua tác giả muốn đề cao đức giản dị, khiêm tốn, không muốn đập vào mắt ai (của đóa hoa, NNT). Nhóm thứ ba nhấn mạnh ở tính đột ngột, tức thời của hiện tượng (khuynh hướng shasei 写生32hay tả
sinh, NNT). Nếu đọc chú thích của Bashô ở đầu bài thì có thể thuyết thứ 3 này là gần gủi với ý tác giả hơn hết. Trước một việc bất chợt (ngựa ngoặm mất đoá hoa) như vậy, ông không trình bày phản ứng của mình mà như chỉ muốn nhắn mỗi độc giả nên tự mình ngồi trên lưng ngựa ra nơi đồng quê để nhìn thấy chú ngựa của họ ăn những đoá hoa mukuge33 đó. Rồi ông để cho độc giả nghĩ sao thì nghĩ.
32 Trong haiku, ý nói khái niệm chủ trương bởi Masaoka Shiki 正岡子規(1867-1902) nối tiếp bởi Takahama Kyoshi 高浜虚子(1874-1953) cho rằng thơ phải tự nhiên, miêu tả sự vật một cách sinh động như nó là và trọng văn nói hơn văn viết.
33 Mukuge (vô cùng hoa) cũng là quốc hoa của Hàn quốc. Hoa thân thảo, có nhiều màu, sớm nở tối tàn. Tiếng Hán viết là mộc cẩn (mokuge), có lẽ được nhập từ Trung Quốc. Anh Mỹ gọi là rose mallow hay rose of Sharon, được dịch ra tiếng Việt là thục quì.
46
Hoa mukuge (mộc cẩn, thục quì)
Một bài haiku quen thuộc khác mà Bashô làm ra ít lâu sau đó, cũng lấy từ kinh nghiệm trong chuyến đi này:
Yamaji kite
Nani yara yukashi
Sumiregusa
(Hori 235, xuân)
Đi đến con đường núi,
Lòng sao thấy vui vui,
Kìa một cành lan tím.
Bài thơ hầu như nhẹ nhàng, tưng tửng. Nó chỉ cho ta biết có một cành lan tím (sumire, violet, đồng thảo) nở dọc bên đường núi. Đúng là tác giả có bày tỏ cảm tưởng “có gì làm ta vui vui” nhưng ngừng ở đó chứ không giải thích tại sao. Một lần nữa, Bashô muốn chúng ta chia sẻ kinh nghiệm của mình với ông. Nhà thơ muốn độc giả hãy làm một chuyến lữ hành đơn độc, mệt mỏi trên con đường núi như vậy, để rồi bất chợt khám phá ra đóa lan tím đang nở bên đường. Cái đáng yêu của đóa hoa sẽ làm bừng sáng khoảng không gian ấy, nó có thể gợi nhớ một kỷ niệm thời trẻ hay hơi ấm của một thân thể của người đàn bà nào đó để tác giả thấy sự cô đơn tan biến, vui vui mà không hiểu tại sao. Niềm vui của Bashô chan chứa bên trong như vậy, nếu có thêm những lời giải thích thì cũng là dư thừa. Cho nên ông chỉ bộc lộ một tình cảm chung chung (vui vui) để rồi tự độc giả chúng ta mỗi người chia sẻ kinh nghiệm của ông theo cách mình34.
34 Còn có lối giải thích thuần Hán học cho rằng hoa lan tượng trưng cho người quân tử và Bashô cảm thấy khi nhìn hoa lan trong núi sâu, ông đã gặp được người tri kỷ đang sống đời ẩn dật, “lan sinh hang tối, hương vương giả” (Lan sinh u cốc. Vương giả chi hương).
47
Hoa lan tím (sumire, đồng thảo)
Bài thơ sau đây tuy thuần miêu tả nhưng cũng nói lên cùng một không khí mơ hồ như thế:
Chô no tobu
Bakari nonaka no
Hikage kana
(Hori 241, xuân)
Kìa cánh bướm lượn bay,
Một mình. Trên đồng vắng,
Chút bóng râm dưới nắng.
Từ bài thơ này, người ta có thể giải thích rằng tác giả có ngụ ý dạy dỗ hay so sánh chi chăng? (Hori cho rằng ông mượn ý ngụ ngôn Trang Chu mộng hồ điệp, NNT). Trên thực tế, dường như Bashô chỉ tả cảnh một con bướm đang đảo lượn (tạo được chút bóng râm giữa cánh đồng rực nắng, NNT) và chuyển nó ngay thành ra thơ trước khi có một dụng ý dạy dỗ hay có tính cách suy luận nào. Và như thế, nhà thơ mong đợi độc giả
kinh nghiệm được quá trình tiền luân lý và tiền tri thức như ông35.
Qua ngần ấy thí dụ, ta thấy từ từ Bashô đã mở rộng tầm nhìn bằng cách thử nghiệm những kỹ thuật khác nhau. Haiku của ông bắt đầu thoát ra một cách rõ ràng phạm vi sáng tác của thi nhân đương thời. Những người này hãy còn tuân theo những qui luật cổ diển. Làm sao Bashô đã đạt đến chỗ như thế là điều đáng cho ta mổ xẻ. Đó là vì Bashô đã lấy cảm hứng từ chính kinh nghiệm cá nhân chứ không dựa vào các nguồn cổ điển của văn học Trung Hoa lẫn Nhật Bản. Ông bắt đầu từ một cảm xúc (emotion) hay một tiền cảm xúc (pre-emotion) đến từ kinh nghiệm sống. Để có thể sử dụng nó, ông phải bỏ qua những kỹ thuật chơi chữ, những trò nhanh trí, làm dáng và gây sốc bởi vì chúng nó hoàn toàn xa lạ với cái gọi là tiền cảm xúc hay cảm xúc ban sơ. Với Bashô, haiku không làm ra để tiêu khiển nhưng là để truy nguyên cái ý nghĩa chân thực của cuộc đời.
D) Thời kỳ thứ tư: Diễn đạt được cái Sabi (Cô quạnh) qua thơ (1686-1691): 35 Ngày nay, người ta vẫn nói “độc giả chứ không phải tác giả mới là người hoàn thành tác phẩm”.
48
Giai đoạn 1686-1691 là đỉnh cao của sự sáng tạo trong thi nghiệp Bashô. Ông đã cho ra đời Kashima môde hay Kashima kikô (Chuyến hành hương đền Kashima), Oi no kobumi (Tráp đeo lưng cũ), Sarashina kikô (Chuyến viếng thăm thôn Sarashina), Oku no hosomichi (Đường mòn miền Bắc), Saga nikki (Nhật ký Saga), Sarumino (Áo tơi cho khỉ). Lúc ấy, ông đã trở thành bậc danh sư haiku, thiện nghệ và thoải mái với nhiều thủ pháp sáng tác. Nhưng đặc biệt hơn nữa, đó là ông đã tìm ra một phong cách cho riêng mình. Có thể ông hãy còn vay mượn từ văn chương Trung Quốc, còn tìm cách lập sự tương quan giữa hai sự vật khác biệt khi đặt chúng chồng lên nhau hay còn muốn tạo ra một ý nghĩa mơ hồ cho bài thơ... nhưng dù thế nào đi nữa, ông vẫn đem đến cho những đứa con tinh thần ấy một phong vị riêng. Nét độc đáo ấy là việc diễn đạt thành công cái chân tướng tịch liêu hay cô quạnh của sự vật (sabi 寂び = nhàn tịch 閑寂). Rất nhiều bài thơ của Bashô trong giai đoạn này đã nói lên điều đó. Chúng ta phải nhớ rằng sabi có thể được thể hiện qua nhiều cách chứ không phải chỉ có một nhưng Bashô đều biết cách sử dụng tất cả. Vì vậy, tuy yếu tố sabi là chủ nhãn của thời kỳ này nhưng thơ Bashô vẫn bao trùm một phạm vi rất rộng rãi cũng như trong các giai đoạn khác..
Chữ sabi nguyên ủy đến từ tính từ sabishii, có nghĩa là cô đơn quạnh quẽ, thường dùng trong trường hợp một người đang trông chờ ai. Thế nhưng, Bashô đã sử dụng nó với một ý nghĩa đặc biệt. Sau đây, chúng ta hãy thưởng thức một bài thơ mà sabi là yếu tố quyết định của nó:
Sabishisa ya
Kugi ni kaketaru
Kirigirisu36
(Hori 702, thu)
Tịch mịch quạnh hiu sao,
Trên tường một chú dế!
Bị đóng đinh treo cao.
Theo lời chú giải của một nhân vật có mặt lúc Bashô viết ra bài này, nhà thơ đang ở trong một túp lều bên bờ hồ Biwa vào khoảng năm 1691. Một đêm khó ngủ, ông đã nghe giữa khuya tiếng dế gáy đến từ một cái lồng dế đóng bằng đinh vào tường. Cái đìu hiu quạnh quẽ thấy trong bài thơ này là tiếng kêu yếu ớt nhưng trong trẻo của chú dế sẽ chìm dần trong bóng đen của đêm thu (Đêm thu vốn dài : thu dạ trường. Tuy không có chữ nào nói về dế gáy nhưng kirigirisu (ở đây là con dế) tự thể là một tiếng tượng thanh, NNT). Cái đìu hiu đó cũng thấy trong một bài haiku khác làm ra hai năm trước đó:
Sabishisa ya,
Iwa ni shimikomu
Semi no koe
(Hori 513, hạ)
36 Thực ra kirigirisu là cào cào (grasshopper), còn dế là kôrogi (cricket). Nhưng không nghe nói cào cào gáy!
49
Tịch mịch quạnh hiu sao,
Rền rĩ tiếng ve sầu.
Thấm mất vào thớ đá
Risshakuji (Lập Thạch Tự) chùa cổ ở vùng Yamagata
Bashô đến viếng một ngôi chùa (Lập Thạch Tự) xây trên một vùng núi đá hoang vu tĩnh lặng. Ông có cảm tưởng ngay tiếng ve kêu rền rĩ37 giữa ngàn thông ngàn sồi đã thấm tận vào trong bờ đá rắn.
Điều thích thú chúng ta nên biết là Bashô đã để lại hai bản thảo khác có chủ đề về dế và ve:
Shizukasa ya
E kakaru kabe no
Kirigirisu
Ôi lặng lẽ làm sao,
Trên bức tường treo tranh,
Bóng của một chú dế.
Shizukasa ya
Iwa ni shimizu
Semi no koe
Ôi lặng lẽ làm sao,
Thấm mất vào thớ đá
Cả những tiếng ve kêu.
Không phải ngẫu nhiên mà cái buồn cô quạnh (sabishisa, loneliness) trong hai bài trước đã được tác giả sửa lại từ sự lặng lẽ (shizukasa, quietness) trong hai bài sau. Chính vì Bashô xem khái niệm cô quạnh rất gần gủi với lặng lẽ. Trong cách dùng chữ của ông, cô quạnh không có nghĩa là tình cảnh cô đơn của một người đang ngóng đợi ai. Nó liên quan đến một bầu không khí đặc biệt được khơi dậy từ một khung cảnh hay thời điểm mà sự hiện diện của con người tỏ ra không cần thiết. Trong hai bài thơ này, chúng ta
37 Loài ve chỉ sống mỗi mùa hè. Ve kêu rền rĩ là lúc chúng sắp chết. Trong bài thơ có ngụ ý ai oán. Nhật còn có thành ngữ semishigure (ve kêu như trời đổ mưa rào).
50
không thấy có bóng một người nào ngoài chú dế và bầy ve. Cái không khí “cô quạnh” hay “lặng lẽ” đã được tạo ra khi những sinh vật nhỏ nhoi ấy đóng nốt vai trò số phận cuộc đời chúng trong cái bao la của vũ trụ. Những sinh vật mong manh bé nhỏ sẽ hòa tan vào trong cái sức mạnh vô hạn của đại tự nhiên như tiếng dế rúc nhạt nhòa dần vào bóng tối đêm thu, như tiếng ve sầu thấm chìm vào thành đá. Cả hai thí dụ đều có liên quan đến nguồn gốc của khái niệm cô đơn quạnh hiu (cô quạnh) hay sabi 寂び nơi Bashô. Nhận thức được cái bèo bọt, phù du của mọi sinh vật là một điều khiến chúng ta không khỏi buồn bã. Thế nhưng khi biết rằng những con vật nhỏ bé kia cũng bị bắt buộc chịu đựng sự mong manh ấy và cũng phải đi cho hết đoạn đường số phận của mình, ta bỗng nhiên khám phá một tình cảm thăng hoa, siêu thoát (sublimation). Tính cách đặc trưng của haiku Bashô là chuẩn bị cho chúng ta hướng đến cái tình cảm siêu thoát đó.
Không nói cũng hiểu là một bài haiku có thể diễn tả khái niệm sabi mà không phải dùng đến tính từ sabishii hay danh từ sabishisa. Thực thế, hai chữ ấy đã có thể được đóng khung sẳn trong trí tưởng tượng của độc giả. Những bài haiku sau đây của Bashô - viết vào khoảng 1686 đến 1691 - đều ngầm chứa khái niệm sabi. Đặc biệt, chúng tập trung vào sự hòa nhập của cái ngắn hạn vào cái trường cửu, của cái biến đổi vào cái bất hoại, của cái nhỏ bé hữu hạn vào cái bao la vô hạn. Thế rồi từ đó sẽ làm toát ra một tình cảm cô quạnh nguyên sơ chia chung bởi mọi sinh vật trên thế gian này.
Hototogisu
Kiete yuku kata ya
Shima hitotsu
(Hori 389, hạ)
Tiếng con chim đỗ quyên,
Dần khuất phía xa mờ,
Một hòn đảo đơn cô.
Horo horo to
Yamabuki chiru ka
Taki no oto
(Hori 369, xuân)
Âm thầm không tiếng vang,
Rơi bao cánh chùm vàng,38
Bên bờ thác nước réo.
Fuyu-niwa ya
Tsuki mo ito naru
Mushi no gin
(Hori 588, đông)
Vườn mùa đông lạnh giá,
Trăng mỏng thành sợi tơ,
38 Tiếng Anh là kerria, một loại tường vi màu vàng tươi.Hoa năm cánh. Quí ngữ của mùa xuân.
51
Như tiếng trùng rã rích.
Koe sumite
Hokuto 39ni hibiku
Kinuta kana
(Hori 464, thu)
Tiếng trong thanh ngăn ngắt,
Vang động tới ngàn sao,
Phải chăng chày đập áo?
Furuike ya
Kawadzu40 tobikomi
Mizu no oto
(Hori 267, xuân)
Từ bờ vũng ao xưa,
Một chú ếch nhảy bõm,
Còn chăng, tiếng nước xao!
Ao xưa ếch nhảy bõm
Những bài thơ này đều có phần nào mơ hồ bởi vì tác giả không đặc biệt thông báo cho chúng ta cảm tưởng của ông khi đứng trước kinh nghiệm này. Nhất là trong bài thơ cuối (con ếch, con nhái), ông đã làm tốn biết bao nhiêu giấy mực của các nhà chú giải từ mấy thế kỷ nay41. Tuy nhiên giữa 5 bài này, chúng có chung một đặc điểm là sự so sánh nội tại (internal comparison). Đó là sự so sánh giữa cái hữu hạn (finite) và cái vô hạn (infinite) qua thể nghiệm mà bài haiku đã đem đến. Cái mơ hồ ấy bắt đầu lộ diện khi người ta tìm cách giải thích thể nghiệm ấy bằng nhiều lối khác nhau. Chúng ta biết phải so sánh làm sao đây mối tương quan giữa cái ao cổ kính đã có tự nghìn năm và thoáng nước gợn tan biến đi trong khoảnh khắc, giữa chòm sao Bắc Đẩu thất tinh vĩnh cửu và một tiếng chày đập áo ngắn ngủi giữa đêm thu! Hoặc là giữa tiếng thác nước đổ ào ào bất tận bên cạnh dăm cánh hoa chùm vàng cuối mùa rơi lặng lẽ trong núi vắng! Không 39 Hokuto = sao Bắc Đẩu.
40 Kawadzu là một loại ếch (kaeru). Chính ra tên nó là kajikagaeru, đặc điểm là tay chân dài và bám được chặt, sống ở các vùng rừng suối.Từng thấy trong Manyôshuu. Đến đời Heian thì người ta lẫn lộn cả hai nhưng trong thi ca thì vẫn hay dùng kawadzu thay vì kaeru.
41 Ví dụ Hori không đặt trọng tâm vào con ếch nhưng vào cái ao xưa vì cho rằng nó đã chứng kiến bao nhiêu cuộc thịnh suy. Con ếch chỉ là một khoảnh khắc cực ngắn trong dòng thời gian trường cửu.
52
thiếu chi những lời giải thích nhưng tất cả đều đồng qui vào một điểm, đó là cảm giác “cô quạnh” họ đã tìm thấy. Bashô của chúng ta chỉ cần những nhà giải thích cảm thấy “cô quạnh” chứ ông không thiết tha tìm hiểu họ giải thích như thế nào.
Trong một số bài haiku của ông, Bashô chỉ dùng sự so sánh có mỗi phân nửa, để lửng lơ nửa kia không nhắc đến. Trong những bài thơ như vậy, cái hữu hạn, cái bao la, sức mạnh hay sự thờ ơ của vũ trụ mới được bộc lộ một cách mạnh mẽ. Người đọc lúc đó có cảm tưởng mình bị cuốn hút, đè bẹp hoặc tan biến. Sau đây là một số ví dụ:
Araumi ya
Sado ni yokotau
Amanogawa
(Hori 534, thu)
Trên biển gầm sóng dữ,
Giải Ngân Hà bắc ngang,
Tận phía đảo Sado42.
Samidare wo
Atsumete hayashi
Mogami-gawa
(Hori 514, hạ)
Tụ hết mưa mùa hạ,
Dòng nước xiết làm sao,
Con sông Mogami43.
Atsukihi wo
Umi ni iretari
Mogami-gawa
(Hori 524, hạ)
Cùng đem đổ ra biển,
Một ngày nóng như thiêu,
Con sông Mogami.44
Fukitobasu
Ishi wa Asama no
Nowaki kana
(Hori 438, thu)
42 Sado là hòn đảo trên biển Nhật Bản rộng 875km2, nhìn về phía bán đảo Triều Tiên, ngày xưa nơi những người đi đày hoặc những người phu mỏ (khai thác mỏ vàng, bạc) thường được đem ra đó. Sado tượng trưng cho sự đơn côi, bi thảm của con người.
43 Mogami (Tối thượng xuyên) được xem như một trong 3 con sông nước xiết (tam đại cấp lưu) của Nhật. Samidare (ngũ nguyệt vũ) là mưa tháng 5 âm lịch, mưa dầm mủa hạ.
44 Theo Hori, đó là cảm tưởng của nhà thơ khi ghé thành phố Sakata (ở tỉnh Yamagata, gần sông Mogami) vào một buổi chiều mát rượi.
53
Thổi phăng phăng sỏi đá,
Sườn núi Asama45,
Cơn bão thu chăng là!
Kogarashi ni
Iwa fukitogaru
Sugima kana
(Hori 730, đông)
Trụ được cơn bão lốc,
Thổi mạnh, là ghềnh đá
Len giữa đám tuyết tùng46,
Ishiyama no
Ishi yori shiroshi
Aki no kaze
(Hori 549, thu)
Trên núi tên Núi Đá,47
Nhưng trắng hơn cả đá,
Là ngọn gió mùa thu.
Bài Araumi ya được chép lên bức tường một ngôi nhà ở thành phố Leiden (Hà Lan)
Trong những bài thơ vừa kể, chúng ta không hề thấy sự hiện diện của con người, chỉ có vũ trụ nguyên sơ đã có từ thiên niên vạn đại. Bashô không cho biết ông đã đối phó thế nào với những hiện tượng thiên nhiên ấy. Ông để cho độc giả tự cảm thấy cái bao la rộng rãi của giải Ngân Hà, cái sức nước chảy xiết của con sông Mogami cũng như cái mạnh mẽ của những trận cuồng phong mùa thu trên núi Asama.
45 Núi Asama ở vùng Nagano nhiều sỏi đá và thưa cây (asama). Tác giả chơi chữ ở đây. 46 Phong cảnh Bashô thực sự nhìn thấy ở Hôraiji (Phượng lai tự), ngôi chùa nổi tiếng vùng Mikawa (gần Nagoya bây giờ).
47 Phong cảnh ở Tanadera (Na cốc tự) vốn dựng trên một vùng núi đá trắng ở tỉnh Ishikawa. Một trong những bài thơ nói về cảm giác màu trắng do thiên nhiên tạo ra (cá ngân ngư, tiếng vịt trời, trận gió thu).
54
Tuy nhiên, không phải tất cả đều là phi cá nhân (impersonal). Ở một vài bài thơ khác, ông đã cho phép yếu tố con người xâm nhập. Lúc đó, con người phải đối đầu với cái sức mạnh của thiên nhiên vô tình.Nhiều bài viết về mùa đông, thời điểm mà thiên nhiên tỏ ra khắc nghiệt nhất:
Kame waruru
Yoru no kôri no
Nezame kana
(Hori 273, đông)
Băng rạn trong thạp nước,
Đêm khuya giá buốt này,
Ta nghe khi nằm thức.
Fuyu no hi ya
Bajô ni kôru
Kageboshi
(Hori 321 , đông)
Mặt trời ngày mùa đông,
Lạnh cóng người trên ngựa
Biến ta thành cái bóng.
Negi shiroku
Araitatetaru
Samusa kana
(Hori 723, đông)
Chắc đống củ hành mới,
Vừa rửa xong trắng tinh,
Làm ta gây gây lạnh.
Ikameshiki
Oto ya arare no
Hinoki-gasa
(Hori 196, đông)
Rào rạo đổ ậpxuống,
Kìa là tiếng mưa đá,
Nón lá48 khách đi đường.
48 Kỳ thực Hinoki-gasa là nón làm bằng vỏ cây hinoki (Japanese cypress). Vỏ cây này cũng dùng để lợp nhà, che mưa gió.
55
Cảnh một cơn mưa giông thường gặp trong thơ Bashô
Cái lạnh lẽo toát ra từ những bài thơ này không phải chỉ do khung cảnh mùa đông đã tạo ra. Nó đến từ vài đặc tính của vũ trụ chúng ta đang sống. Để tiếp cận được cái “cô quạnh”, con người có mặt trong những bài haiku này đã bất chợt sực tỉnh vì sức mạnh siêu nhiên ẩn dấu của vũ trụ, nay bộc lộ ra trong thế giới loài người. Sức mạnh đó không hề đếm xỉa gì đến sự an nguy, hạnh phúc của những kẻ đang sống tại chỗ. Sự
bừng tỉnh của họ đã làm cho họ cảm thấy là, trước thiên nhiên, mình không đáng kể, chỉ có “cô quạnh” và “lạnh lẽo”.
Như thế, hỏi có cách nào con người sẽ vượt qua hay chịu đựng nổi sự cô đơn buốt giá này chăng? Câu trả lời mà Bashô tìm được hình như đã xuất phát từ kinh nghiệm quan sát của ông nơi tảng đá, cành cây, ngọn cỏ, trong đó, ông thấy rằng mọi vật đều có khả năng tự bảo vệ. Đơn thuần là chúng chịu đựng được những hiện tượng đó, và như thế, giữ được thế thăng bằng. Chúng không hề muốn làm hơn những gì chúng là, không chút lệch lạc, chúng thuận theo số mệnh của mình cho đến phút cuối. Những bài thơ dưới đây cho ta thấy Bashô đã ngả về chiều hướng ấy:
Hatsuyuki ya
Suisen no ha no
Tawamu made
(Hori 275, đông)
Những hạt tuyết đầu mùa,
Đáp xuống khóm thủy tiên,
Làm cành hoa lả ngọn.
Yasenagara
Warinaki kiku no
Tsubomi kana
(Hori 314, thu)
Mấy khóm cúc gầy guộc,
Cũng cố sức đơm hoa,
Kìa xem những nụ đầu.
Yoku mireba
56
Nazuna hana saku
Kakine kana
(Hori 259, xuân )
Nhướng mắt nhìn cho kỹ,
Hiện ra dưới hàng dậu.
Một đóa nazuna49
Okiagaru
Kiku honoka nari
Mizu no ato
(Hori 313, thu)
Vừa mới nhô đầu lên,
Sau khi làn nước ngập50,
Cúc đã nhẹ đưa hương.
Ở đây chúng ta cảm thấy cái mong manh của những cuộc đời thảo mộc dưới những điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Chúng chỉ biết chịu đựng cho dù chưa từng làm điều gì không phải cho ai cả. Chẳng những thế, chúng còn chấp nhận số phận của mình không chút cay đắng, lặng lẽ hoàn thành nhiệm vụ đã định.
Hơn thế, Bashô hình như tin tưởng rằng cây cỏ và đất đá đã biết đối phó với sự cô quạnh ấy bằng khả năng thông cảm giữa chúng với nhau. Dường như đối với nhà thơ, chúng là một bộ phận của sự sống trong vũ trụ. Điều đó đã được gợi ra trong những bài haiku sau đây:
Hi no michi ya
Aoi katamuku
Satsuki-ame
(Hori 624, hạ)
Hoa hướng dương nghiêng theo,
Con đường mặt trời đi,
Trong làn mưa tháng hạ.
Kane kiete
Hana no ka wa tsuku
Yuube kana
(Hori 461, xuân)
Chuông thu không lịm tắt,
Anh đào hương thêm nồng51.
49 Môt loài hoa dại mọc bên vệ đường, một trong bảy thứ hoa tượng trưng cho mùa xuân. Màu trắng, lá hình trái tim hay phím đàn. Tiếng Anh là sherperd’s purse.
50 Hori giải thích: sau khi Bashô khơi nước đục ở thảo am cho khô, hoa cúc trong vườn lại trồi đầu. 51 Theo Hori, thông thường chuông chiều tắt thì hương hoa tàn. Ở đây, Bashô trình bày ngược lại.
57
Chiều xuống rồi đấy nhỉ?
Kareshiba ya
Yaya kagerô no
Ichinishun
(Hori 344, xuân)
Bên trên đồng cỏ úa,
Hơi nắng lung linh bốc,
Cao lên độ vài phân.
Suisen ya
Shiroki shôji no
Tomo utsuri
(Hori 726, đông)
Những khóm hoa thủy tiên
Và cánh cửa giấy bồi,
Như in bóng lên nhau52.
Trong mỗi một bài thơ trên, ta thấy có một sự tương giao ngấm ngầm giữa hai sự vật: hoa cúc quì và vầng thái dương, tiếng chuông chiều và hương hoa anh đào, đồng cỏ và không khí nồng ấm của ngày xuân, những khóm thủy tiên trắng và cánh cửa giấy bồi cũng trắng. Kỹ thuật kết hợp hai sự vật không liên quan với nhau vốn nằm trong túi gấm kỹ thuật của Bashô được tái sinh ở đây để chứng minh mối tương quan tiềm ẩn ấy.
Để vượt qua nỗi “cô quạnh” của mình, con người phải học tập thiên nhiên. Họ phải biết cách thông cảm với đất đai cây cỏ. Họ có khả năng thực hiện được điều đó vì chính trong bản thân, con người đã có sẳn một cái gì giống như vạn vật. Với tiền đề đó, Bashô đã viết ra những vần thơ sau đây để ca tụng những giây phút quí hiếm khi con người và thiên nhiên giao hòa với nhau:
Asacha nomu
Sô shizukanari
Kiku no hana
(Hori 646, thu)
Nhà sư nhấp tách trà,
Buổi sáng, trong tĩnh lặng,
Hương cúc53đến kề bên.
Kutabirete
Yado karu koro ya
52 Theo Hori, Bashô ghi lại việc hoa bạch thủy tiên trồng tại Baijintei (Mai nhân đình) ở Atta (Nagoya) và cánh cửa giấy bồi (shôji) đều cùng màu trắng thấy như lẫn vào nhau.
53 Theo Hori, sau đọc kinh công phu buổi sáng, nhà sư thong thả nhấp ngụm trà. Trong cái tĩnh lặng ấy, như làm bạn, hoa cúc trong vườn đưa hương đến.
58
Fuji no hana
(Hori 383, xuân)
Mệt mỏi cuộc lữ hành,
Đúng lúc tìm chỗ trọ,
Buông rủ hoa tử đằng!54
Te wo uteba
Kodama ni akuru
Natsu no tsuki
(Hori 690, hạ)
Tiếng vỗ bàn tay ta,
Như giục ngày rạng sáng,
Đưa vầng trăng hạ lên.55
Kagerô no
Waga kata ni tatsu
Kamiko kana
(Hori 467, xuân)
Nắng xuân bốc lung linh,
Trên áo giấy đi đường,
Ta cảm thấy trên vai56.
Bashô cảm thấy sự hiện diện của những đoá hoa cúc đã đem đến một sự tĩnh lặng đặc biệt cho nhà sư đang nhấp tách trà buổi sáng trong thiền phòng. Còn người lữ khách kia, ông tìm thấy có cái gì kết hợp giữa tâm trạng mệt mỏi điếm cỏ cầu sương của mình với chùm hoa tử đằng màu màu tím nhạt đang buông rủ. Người đàn ông tưởng như khi vỗ
tay, anh ta đã được thiên nhiên đáp trả: ngày rạng sáng và con trăng muộn mọc lên. Người bộ hành trong manh áo giấy cảm thấy mọi vật chung quanh mình đều như vật vờ trước hơi nắng đầu xuân. Những bài thơ trên, dù là thơ nói đến người lữ khách mệt mỏi, không cho thấy một tình cảm “cô quạnh” nào.
54 Màu tím ngát của hoa tử đằng (wisteria, glycine) đánh thức lòng hoài cựu và tình lữ thứ của Bashô. 55 Theo Hori, đêm 23 rạng ngày 24 âm lịch, trăng mọc trễ. Người đợi trăng tin tưởng rằng nếu vỗ tay sẽ giục được ngày sáng ra và giúp trăng muộn mọc lên.
56 Theo Hori, kamiko là áo giấy có trát chất chát từ quả thị (kakishibu = persimmon juice) vốn dùng để mặc vào mùa đông cho ấm. Nay thì nắng xuân đã về, nhà thơ mới cảm thấy nóng trên vai.
59
Bashô và đệ tử tháp tùng trên bước viễn du
Trong những thoáng chốc hiếm có khi Bashô chứng kiến được nguồn hạnh phúc là nhờ sự tương giao của con người và thiên nhiên, ông đã viết được những vần thơ nhẹ lâng, pha đôi chút hóm hỉnh nữa. Đây là một khoảnh khắc đó:
Hitotsuya ni
Yuujo mo netari
Hagi to tsuki
(Hori 532, thu)
Qua đêm, mình chung nhà,
Cùng hai cô hát rong,
Như trăng, hoa hagi.
Hoa hagi57 (萩)trong khoe sắc trên cánh đồng và con trăng thu sáng tỏ giữa bầu trời tuy cách xa nhau ngàn dặm nhưng vẫn tìm đến với nhau như đôi bạn đồng hành. Nhìn chúng, Bashô không khỏi liên tưởng đến sợi dây liên lạc giữa thi nhân trên bước lãng du trong manh áo bạc màu và hai người con gái ăn sương (du nữ 遊女 = con hát rong)58 xinh đẹp diêm dúa. Nhà thơ (trăng) đi tìm nguồn cảm hứng nghệ thuật, cô con gái (hoa hagi) đi hát rong kiếm miếng cơm manh áo (là hai nghệ sĩ nhưng mục đích khác nhau, NNT). Sự tình cờ đã đưa đẩy họ đến ngủ đỗ một đêm trong quán trọ bên đường.
Hoa hagi còn là chủ đề của một bài thơ khác trong cùng một thể loại:
Nurete yuku
Hito mo okashi ya
57 Tiếng Anh là bushclover (xa trục thảo) hay pampass grass, một loài cây thân thảo như lau, hoa thường có màu đỏ. Hoa hagi này tuy là một loại hoa đồng cỏ nội nhưng tự thời Vạn Diệp đã được thi nhân xem là biểu tượng cho mùa thu. Trăng thu cũng là trăng đẹp nhất trong năm nhưng giữa trăng và hoa, một ở trên cao, một ở dưới thấp như hai thân phận sang hèn khác nhau.
58 Yuujo (du nữ) chính ra là những nàng ca kỹ, nhiều khi dưới dạng nam trang, đi hết nơi này đến nơi khác và trình diễn ở nhà trọ trên các tuyến đường. Giống như các cô đầu của ta. Dĩ nhiên họ là những cô gái vốn không chú trọng cho lắm đến trinh tiết. Tuy thế, đem dịch ra tiếng Anh một cách đơn thuần như các từ điển Nhật Anh thành“prostitute” thì có lẽ sẽ làm mất đi cái chất thơ mộng của bài thơ và ...vu oan cho Bashô. Đọc Tỳ Bà Hành, người ta chỉ thương hai kiếp đời lận đận chứ không đặt câu hỏi giữa Bạch Lạc Thiên và nàng kỹ nữ bến Tầm Dương có gì với nhau.
60
Ame no hagi
(Hori 542, thu)
Khách bộ hành ướt át,
Trông đáng yêu như thể,
Hoa hagi trong mưa.
Bài thơ tạo nên một tương quan giữa khách bộ hành ướt lướt thướt và những khóm hoa hagi có một vẻ đẹp riêng dưới cơn mưa. Khi tương quan đó được lập lên rồi thì người ta thấy một người bình thường cũng có những điểm đáng yêu. (Từ okashi rất khó dịch: buồn cười, đáng yêu, dễ thương, Ueda dùng chữ beautiful nghĩa là xinh đẹp, NNT). Mưa rơi trên mọi vật, không trừ ai, và giúp ta phát hiện ra điều đó. Hai bài thơ về hoa hagi bên trên cho thấy cái hóm hỉnh của Bashô khi ông kết hợp nhà thơ thoát tục và cô con hát trần tục cũng như người bộ hành ướt át với hoa hagi trong mưa.
Cái hóm hỉnh, khôi hài còn được thể hiện trong 3 bài haiku dưới đây. Bài thơ đầu, thi sĩ đã viết ra trong một đêm đi ngắm đom đóm bay bên bờ sông:
Hotaru-mi ya,
Sendô yôte
Obotsukana
(Hori 627, hạ)
Đêm đi ngắm đom đóm,
Chú lái đò quá say,
Khách lo thuyền chòng chành.
Giữa con thuyền chao đảo trên dòng sông đen như mực và ánh chớp le lói của những con đom đóm, có một sự tương quan có thể biện minh lên tâm trạng bất an của tác giả, người ngồi trong thuyền. Còn như bài thơ dưới đây, nó đã được làm vào một ngày mùa đông mà những tia chớp nháng báo hiệu tuyết sắp sửa rơi:
Yuki wo matsu
Jôgo no kao ya
Inabikari
(Hori 729, đông)
Trông chờ mưa tuyết đến,
Ánh chớp soi rõ mặt,
Những anh chàng hào rượu.
Jôgo (thượng hộ =上戸), những cao thủ trong làng rượu và chắc hẳn cũng là những người yêu thơ. Họ đang chờ tuyết rơi xuống để tổ chức một cuộc thi vịnh tuyết và cũng để ngắm tuyết. Lúc đó rượu sẽ được đem ra mời.Sự mong muốn của họ càng lúc càng cao và đạt tới đỉnh khi những tia chớp báo tin tuyết sắp sửa rơi. Riêng bài thứ ba trong chùm thơ này khác với hai bài nói trên, không đề cập đến rượu:
61
Kogarashi ya
Hôbare itamu
Hito no kao
(Hori 665, đông)
Trận bão lốc mùa đông,
Hai bên má sưng phồng.
Mặt người đàn ông nọ.
Bài thơ này được Bashô làm ra khi lập được mối tương quan giữa cơn bão lốc giá buốt của mùa đông với người đàn ông má sưng phồng (hôbare) vì chứng bệnh nào đó (quai bị chăng? NNT), một điều không có gì đáng gọi là khôi hài cả. Thế nhưng mà cách chồng úp lên nhau hai sự vật, lối trình bày khách quan về nó, cái gương mặt sưng húp kia... tất cả những yếu tố đó đã cùng nhau thuyết phục người đọc nở được một nụ cười (có hơi ác, NNT).
Yếu tố khôi hài không phải là cái mới trong thơ Bashô, ông đã sử dụng nó khi hãy còn là một thi sĩ nghiệp dư. Thế nhưng bản chất của sự khôi hài đã hoàn toàn thay đổi. Trước kia khôi hài được thể hiện bằng những trò chơi chữ, cơ trí hay cách giải thích nghịch ngợm những điển cố trong sách vở. Sau đó Bashô đã sử dụng kỹ thuật so sánh bất ngờ hai sự vật không liên hệ, nhưng lúc đó ông chỉ dùng nó với mục đích gây cú sốc
cho độc giả. Còn như trong những bài thơ về sau như vừa nêu ra thì sự tin tưỏng vào khả năng tương giao giữa vạn vật và quan niệm cho rằng con người cũng như muôn vật đều là sản phẩm của thiên nhiên, mới là những yếu tố cơ bản tạo nên sự khôi hài của thơ ông. Thái độ mới này dẫn đến khái niệm “nhẹ lâng” (karumi = lightness) (nhẹ nhàng chứ không khiên cưỡng, cứ thuận theo dòng đời, NNT). Trên thực tế, một số haiku mà Bashô xác nhận đã sử dụng kỹ thuật karumi đã được viết ra vào thời điểm này.Chúng có nhiều điểm tương đồng với những bài thơ nhắc đến bên trên. Mùa xuân năm 1690, ông đã hạ bút:
Ki no moto ni
Shiru mo namasu mo
Sakura kana
(Hori 602, xuân)
Bên dưới những tàng cây,
Trên canh, rau, cá giấm,
Lả tả cánh anh đào.
Bài thơ tả một bữa ăn ngoài trời của người đi thưởng hoa anh đào (hanami). Những cánh hoa anh đào rơi lả tả lên người họ, lên cả rượu và thức ăn đủ loại đang được bày biện dưới tàng cây. Khung cảnh ấy muốn như cho ta thấy thiên nhiên dịu dàng khoan dung đã bao che mọi vật trong lòng của nó, kể cả con người (và những thức ăn trần tục của họ, NNT). Do đó mọi người hãy để cho thiên nhiên choàng ấp, che chở cho mình. Theo Bashô, ấy chính là phương pháp để họ có thể thoát ra được sự “cô quạnh”
(sabi) đang bủa vây.
62
E) Thời kỳ thứ năm: Từ thiên nhiên về thế giới con người ( 1692-1694)
Trong ba năm cuối cùng cuộc đời nhà thơ, người ta thấy Bashô di chuyển từ thế giới của thiên nhiên về thế giới của con người. Trên thực tế, ông đã quay lại Edo vào mùa đông 1691 và bắt đầu sống gần gủi với mọi người hơn. Tuy là một bậc đại sư tiếng tăm, ông buộc phải chung đụng những nhà thơ nghiệp dư, kể cả những người không biết làm thơ. Ngoài ra, lúc ấy ông còn phải chăm sóc một số thân nhân nữa. Những năm ẩn cư an nhàn ở Huyễn Trú Am59và Lạc Thị Xá nay trở thành xa vời. Sự cảm thông với thiên nhiên ngày xưa ở hai nơi đó từng giúp ông giải quyết vấn đề “cô quạnh” nay không có nghĩa gì trước cái ồn ào náo nhiệt của đời sống đô thị. Nguyên tắc “cô quạnh” (sabi) mà
ông đã bao năm cất công tìm kiếm mới đạt được bị coi như không có tính cách phổ quát.
Lạc thị xá (Rakushisha) gần Kyôto, nơi xưa Bashô ẩn cư60
Cho nên không ai ngạc nhiên khi thấy những vần haiku mà Bashô làm ra trong giai đoạn cuối đời này nhuộm màu uất ức, cay đắng và cả tuyệt vọng đến mức không ngờ.
Chúng ta đã đọc được sự mĩa mai cay đắng:
Toshidoshi ya
Saru ni kisetaru
Saru no men
(Hori 775, xuân)
Năm tháng nối nhau qua,
Trên khuôn mặt khỉ kia,
Mang thêm mặt nạ khỉ.61
Chúng ta thấy thêm Bashô từng đóng cửa tạ khách bằng những bài haiku:
59 Genjuuan “ Am đời hư ảo”, cạnh bờ hồ Biwa gần Kyôto. Tương truyền xưa là nhà của một vị tăng pháp danh Genjuu (Huyễn Trú). Nơi đây, trong cuộc sống ẩn cư, năm 1690, Bashô đã viết Genjuuan ki (Huyễn Trú Am ký), một tập tản văn.
60 Ngôi nhà mang tên “Nhà quả hồng rụng”, ở Sagano gần Kyôto của Kyorai, học trò của Bashô. Kyorai mời ông đến ở vào năm 1691. Nơi đây nhà thơ đã viết tác phẩm Saga Nikki (Nhật ký Saga). 61 Theo Hori, ngày Tết Nguyên Đán, có tục đeo mặt nạ giả trang. Nhưng đã là khỉ rồi thì có mang mặt nạ khỉ thì mình vẫn là khỉ. Ý nói năm mới bước qua năm cũ, tác giả cảm thấy bản thân chẳng có gì thay đổi.
63
Asagao62 ya
Hiru wa jô orosu
Mon no kaki
(Hori 795, thu)
Mở lúc triêu nhan nở,
Trưa đến ta cài then,
Trên hàng dậu cổng nhà.
Hoa triêu nhan (asagao)
Bashô muốn được người ta để một mình, chỉ lấy hoa kia làm bạn. Thế nhưng (càng ngày càng u uất, NNT), ngay cả nét đẹp thơ ngây vô tội của hoa cũng không đủ để an ủi ông:
Asagao ya
Kore mo mata waga
Tomo narazu
(Hori 796, thu)
Ngay những đóa triêu nhan,
Giờ đây cũng không đủ,
Bầu bạn với ta đâu.
Bài thơ nói lên một nỗi tuyệt vọng chạm đến ngưỡng hư vô.
Tuy nhiên 3 vần haiku nổi tiếng sau đây và làm trong giai đoạn đó mới thực sự diễn tả sự cô quạnh của nhà thơ. Nó không phải là cái cô quạnh khiến con người tìm về giữa lòng thiên nhiên nhưng là cái cô quạnh chỉ đào sâu thêm tình cảm tha hóa (alienation). Bài đầu tiên, làm ra lúc ông đóng cửa tạ khách:
Mono ieba
Kuchibiru samushi
Aki no kaze
62 Một loài hoa thân thảo, giây leo (như bìm bìm). Truyền từ vùng nhiệt đới châu Á qua Trung Quốc vào Nhật, phổ biến vào thời Edo. Tên Hán là hoa khiên ngưu hay hoa triêu nhan (morning glory), có nghĩa hoa khoe sắc vào buổi sáng.
64
(Hori 966, thu)
Có nói điều chi nữa
Thì bờ môi cũng lạnh
Trong trận gió mùa thu63
Nội dung bài thơ trình bày sự uất ức vì sự thiếu cảm thông giữa người với người. Có thể là Bashô đã nói chuyện gì với ai đó nhưng họ không hiểu ông hoặc đã hiểu lầm ông. Ông nhớ lại điều dó khi đi một mình trên con đường có gió thu giá lạnh và tiếc rằng mình đã phải mở miệng nói ra để làm chi. Bài haiku thứ hai cũng chứa chất sự cô quạnh của ông:
Kono michi ya
Yuku hito nashi ni
Aki no kure
(Hori 902, thu)
Sao trên con đường này,
Chẳng bóng người lai vãng,
Chiều thu quạnh, chiều thu!
“Con đường” trong bài thơ có ý nghĩa thi ca và mang tính cách tượng trưng. Oái oăm là Bashô đã làm ra nó vào lúc ông đạt được đỉnh cao của danh vọng, chung quanh không thiếu gì đệ tử và người hâm mộ. Còn như bài thứ ba sau đây là bài thơ ông viết khoảng hai tuần trước khi mất:
Aki fukaki
Tonari wa nani wo
Suru hito zo
(Hori 907, thu)
Mùa thu đã vào sâu,
Không hiểu nhà hàng xóm,
Kiếm sống, biết làm sao?
Một lần nữa, Bashô than thở cho sự “cô quạnh” của người đời. Nhà hàng xóm cạnh cửa ông mà họ chẳng biết gì về nhau, cuộc sống của hai bên hoàn toàn xa lạ. Thử hỏi nếu một con người không hiểu anh hàng xóm của mình sinh sống cách nào thì sao có thể đi khám phá nội tâm của những người khác được?
Thờ ơ, lãnh đạm hay khốc liệt không chỉ thấy ở thế giới con người. Nó còn thấy ở trong thiên nhiên. Một số haiku cuối cùng của Bashô đã chứng minh thiên nhiên rõ ràng là không có một chút gì bình an, đáng yêu và ấm áp. Vẫn có một sự tương giao ở đấy nhưng đó là giữa sự xấu xí, bệnh hoạn và tàn bạo. Chẳng hạn:
63 Hori cho rằng Bashô lấy ý từ một câu của Thôi Tử Ngọc trong Monzen (Văn Tuyển): “Vật ngôn nhân đoản, vật thuyết kỷ trường” (Chớ chê người dở. Chớ bảo mình hay).
65
Samidare ya
Kaiko wazurau
Kuwa no hata
(Hori 848, hạ)
Trận mưa hè đổ xuống,
Những con tằm mắc bệnh,
Nằm giữa cánh đồng dâu64.
Có một sự hòa điệu nào đó giữa màu xám xịt của bầu trời khi những trận mưa hè đổ tới và màu trắng thân thể của lũ tằm mắc bệnh bị nhà nông nuôi chúng bỏ mặc giữa cánh đồng dâu. Ngược lại, phải nói cái không khí này có vẻ dị thường so với những haiku trước kia của Bashô. Dưới đây lại là một bài khác cũng làm cho ta cảm thấy nôn nao khó ở.
Namagusashi
Konagi65 no ue
Hae66 no wata
(Hori 797, thu)
Bốc lên mùi tanh nồng,
Mùi gan ruột cá vữa,
Trên đám sậy bờ nước.
Có thể nói bài thơ đã thành công khi muốn tạo nên một bầu không khí buồn nôn của một ngày hè nóng bức và ẩm ướt khi kết hợp được cái độ mỏng của lá sậy mọc um tùm với mùi tanh nồng của ruột gan cá người ta vứt đi. Kỹ thuật vẫn là kỹ thuật quen thuộc của Bashô nhưng ở đây, ông đã dùng nó để gây cho ta một cảm xúc khó chịu. Thẳng thừng hơn nữa là bài thơ tiếp đây khi nói đến cái xấu xí và thô bạo: .
Ikinagara
Hitotsu ni kôru
Namako67 kana
(Hori 822, đông)
Còn sống nhăn ra đó,
Đã đông thành một đống,
Kìa những con đĩa biển.68
64 Hori cho rằng Bashô lấy ý từ Bạch thị văn tập của Bạch Lạc Thiên nhưng không cho thêm chi tiết. 65 Thuộc loại mizuaoi (水葵 thủy quì), cây thân thảo, lá ngắn, mọc trong nước. Gọi là cỏ sậy thì hơi khiên cưỡng nhưng chúng tôi chưa tìm ra được một chữ gợi hình hơn.Ueda dịch là waterweed. 66 Hae 鮠(đừng lầm với hae 蠅 là ruồi nhặng), còn đọc là haya hay oikawa, một loại cá nước ngọt thuộc họ chép (koi 鯉), dài khoảng 20 cm. Tiếng Anh dịch là dace (cá vược).
67 Chỉ chung một số sinh vật sống dưới biển thuộc loại hải thử (sea cucumber), loại ăn được thường dùng trong các nhà bếp Trung Quốc và Nhật Bản. Có thể là con đồn đột thường thấy ở bờ biển Việt Nam. 68 Buổi sáng, những con đĩa biển đặt trong chậu trong nhà bếp đang còn sống nhưng đã đông cứng vì trời lạnh.
66
Cái lạnh buốt thấy trong bài thơ này càng dễ gây xúc động cho người đọc hơn khi những con đĩa biển trơn nhớt, dễ vuột kia vẫn là đề tài thường dùng để khôi hài trong văn chương Nhật.
Chúng ta đã tập trung tìm hiểu những bài thơ lúc cuối đời, chúng phản ánh nỗi tuyệt vọng trong những tháng ngày xế bóng. Tuy nhiên Bashô cũng đã tìm cách vượt qua nổi tuyệt vọng và xua đuổi ám ảnh về cái chết. Như chúng ta có thể tưởng tượng ra, nững cố gắng đó đã hướng ông đến khái niệm “nhẹ lâng” (karumi, lightness) tức là sự chấp nhận một cách thanh thản mọi vật như nó là. Ông đã hiểu mình không thể thoát ra được cõi người vì mình cũng chỉ là một con người. Chỉ còn có cách chịu đựng những điều bất toàn trong bản chất con người và cười tha thứ chúng. Thái độ đó đã được bày tỏ
qua bài haiku rất đáng lưu ý như sau:
Nusubito ni
Ôta yo mo ari
Toshi no kure
(Hori 826, đông)
Cũng có đêm kẻ trộm,
Đến viếng cả nhà ta,
Lúc năm cùng tháng tận.
Thi nhân khi đó hồi tưởng lại sự việc một năm đã trôi qua và không cay đắng đối với kẻ trộm đã đến viếng nhà mình. Họa chăng, ông chỉ nở một nụ cười tha thứ, như chữ “viếng” đã cho ta thấy. Ta có cảm tưởng Bashô lúc đó đi đến chỗ chấp nhận một thế giới con người mà trộm cướp cũng là một thành phần. Một bài haiku khác cũng mô tả cùng tâm trạng:
Niwa hakite
Yuki wo wasururu
Hahaki kana
(Hori 768, đông)
Đi khắp vườn để quét,
Lại quên khuấy có tuyết,
Chổi ơi là cái chổi!
Theo lời giải thích đầu bài thơ, nhân vật trong đó cầm cái chổi để quét tuyết cho sạch vườn là một thiền sư Trung Quốc nổi danh69. Trong khi mục đích là đi quét tuyết, ông ta đã quên cả tuyết. Có lẽ đây là điểm quan trọng mà Bashô muốn đạt tới: mình phải quên đi sự nhơ nhớp trong khi vẫn sống giữa cái cảnh nhơ nhớp ấy.
69 Theo Hori, thiền tăng Hàn San đời Đường hầu như đã đạt đến tâm cảnh vô ngã, đi quét tuyết mà quên cả tuyết. Có nhiều bức tranh liên quan đến chủ đề này.
67
Hàn San quét tuyết (tranh của Soga Shôhaku, 1730-1781)70
Như thế ta hiểu tại sao Bashô làm nhiều bài thơ nói về con người vào lúc cuối đời. Thay vì trốn mãi vào thiên nhiên, ông chấp nhận ở lại với thế giới con người. Nếu có lúc ông tuyệt vọng thì cũng có lúc ông nhìn thực trạng của thế giới ấy với một nụ cười. Sau đây là một bài haiku nói lên phút giây hạnh phúc ấy:
Ika-uri no
Koe magirawashi
Hototogisu
(Hori 919, hạ)
Anh hàng cá mực rao,
Nghe không sao phân biệt,
Với tiếng đỗ quyên kêu.
Nhà thơ sống giữa đô thị ồn ào, có biết bao nhiêu người bán dạo rao hàng. Đang muốn lắng tai nghe tiếng chim cuốc đầu mùa thanh tao đầy thi vị thì cái đập vào tai ông là tiếng rao hàng rong của anh chàng bán cá mực trần tục kia. Ông không còn phân biệt được bên nào là bên nào. Tuy nhiên, Bashô không bực tức, nó chỉ làm ông buồn cười. Dưới đây lại là một khoảnh khắc khác khi Bashô chấp nhận sự không đồng nhất của thế giới con người:
Mononofu no
Daikon nigaki
Hanashi kana
(Hori 816, đông)
Mấy ông nhà võ họp,
Chuyện vãn cũng cay nồng,
70 Họa sư thời Edo. Tên thật là Miura Teruo 三浦暉雄, tính tình cổ quái, vì ngưỡng mộ Soga Dasoku 蘇我蛇足 nên có biệt hiệu là Soga Shôhaku 蘇我蕭白.
68
Như vị củ cải sống.71
Bashô vốn đã quen phong cách bình dân của người đô thị trong cách chuyện trò nên khi có dịp nhập vào đám samurai, giai cấp cầm quyền, đã nhận ra lời đối thoại của họ dù là trong cuộc tụ họp bình thường vẫn phản ánh giáo dục tân Khổng giáo họ được thừa hưởng nên rạch ròi và nghiêm trang. Thế nhưng Bashô không muốn làm mặt lạ với họ. Thái độ đó chỉ làm ông thú vị nên đã đem so sánh với vị cay nồng của daikon (củ cải trắng).
Bashô lại càng để ý đến sinh hoạt của người dân thường. Nó giúp cho ông viết được những bài haiku hầu như gói ghém cả một câu chuyện:
Susuhaki 72wa
Ono ga tana suru
Daiku kana
(Hori 824, đông)
Lễ quét nhà cuối năm,
Có anh chàng thợ mộc,
Dựng chạn gỗ nhà mình.
Người đi làm thường không muốn công việc của mình dính dáng vào công việc nhà. Nhà là nơi họ có thể thoải mái nghỉ ngơi sau khi lao động mệt nhọc. Cũng như anh thợ làm vườn ít khi chăm sóc mảnh vườn nhà hay anh bếp ra tay nấu nướng sửa soạn bữa cơm gia dình. Người thợ mộc có thể xây cất một ngôi nhà lại ít khi để ý đến việc dựng cho vợ mình một cái chạn gỗ để đồ vặt trên tường. Nhưng hôm ấy là ngày 13 tháng chạp, theo truyền thống Nhật Bản là Lẽ Tẩy Uế (Susuhaki, cũng là dịp dọn dẹp nhà cửa để mừng năm mới), anh ta mới lấy một ngày nghỉ để giúp vợ thu dọn. Rốt cuộc, có lẽ
hơi nhăn nhó một chút, anh cũng đã dựng xong cái chạn (điều mà vợ anh chờ đợi đã lâu). Khách qua đuờng nhìn thấy cảnh ấy, tất không khỏi mỉm cười. Trong bài thơ này, ta không còn thấy đâu hình ảnh một Bahô con người ẩn dật lánh đời.
Điều đó không có nghĩa là Bahô hết chú ý đến thiên nhiên. Ngược lại, một số lớn haiku trong giai đoạn cuối này đều có chủ đề thiên nhiên. Tuy vậy, khó lòng chối cãi là nội dung của chúng vẫn có bóng dáng con người, trừ một số ít biểu lộ mối quan tâm của Bashô về một thế giới nguyên thủy chưa có vết chân người. Mặt khác, cái lạnh lẽo thấy trong những bài thơ nói về thiên nhiên trước đây (thiên nhiên dữ dội, tàn khốc, vô tình, NNT) nay đã được thay thế bằng cái hơi ấm do khái niệm “nhẹ lâng” (karumi, lightness) mang lại. Khi Bashô kết hợp hai sự vật xa lạ để kiến tạo nên một khung cảnh độc đáo và hài hòa, lúc nào một trong hai sự vật đó cũng có liên hệ với thế giới con người, hay đúng hơn, với những con người tầm thường. Nhân đây, xin đơn cử hai bài haiku nói về hoa cúc:
71 Hori dẫn câu nói của nhà tư tưởng thời Minh mạt Hồng Tự Thành trong Saikontan (Thái Căn Đàm = Lời rau củ), quyển sách gối đầu giường của sĩ phu Nhật Bản: Trượng phu khiết thái căn (Kẻ trượng phu thường ăn rau củ).
72 Susuhaki là “quét bồ hóng”.
69
Kiku no hana
Saku ya ishiya no
Ishi no ai
(Hori 805, thu)
Kìa những khóm cúc dại,
Nở len giữa đống đá,
Nơi tiệm ông hàng đá
Kiku no ka ya
Niwa ni kiretaru
Kutsu no soko
(Hori 811, thu)
Hoa cúc thoảng làn hương,
Thơm thơm khắp khu vườn,
Đế dép ai rách thủng.
Bài thơ thứ nhất tạo nên một sự liên kết kỳ lạ giữa những đóa hoa cúc xinh đẹp tươi tắn và những tảng đá chưa mài thô ráp lạnh lùng. Đây là thí dụ điễn hình về kỹ thuật kết nối trùng phức hai yếu tố trong thiên nhiên của Bashô. Bối cảnh của nó là một tiệm buôn đá (ishiya 石屋)73 gần một bến cảng sầm uất của Edo. Bài thơ thứ hai nói đến cảnh hoa cúc đưa hương trong khu vườn nhà ai nhưng trọng tâm của Bashô là cái đế dép rách thủng nghĩa là nếp sống an nhàn, không câu thúc của chủ nhân74. Hai bài thơ cùng có
một điểm chung: cái đẹp tìm thấy được là khi thiên nhiên nới vòng tay và ôm trọn được con người trong sinh hoạt thường ngày của họ.
Trong chiều hướng đó, ta thấy thế giới thi ca của Bashô đã đạt đến một phạm vi hoạt động lớn nhất trong những năm cuối đời. Tất cà mọi thứ - từ con người cho đến thiên nhiên vạn vật - đều hàm chứa trong đó. Ông đã dám dùng những sự vật lạ lùng để thi vị hóa đề tài cho thơ mình. Được biết đến hơn cả có lẽ là thí dụ sau đây:
Uguisu ya
Mochi ni fun suru
En no saki
(Hori 742, xuân)
Con chim oanh bay đến,
Rây phẩn lên bánh dày,
Bày ở cuối hàng hiên.75
73 Họ là những nhà buôn đá và thi công trên đá, sẽ được dùng trang trí các vườn cảnh hay vào những mục đích khác. Đá được bày lộ thiên nên cúc dại mọc xen kẻ.
74 Theo Hori, người đó là Yamaguchi Shinshô (Sơn Khẩu Tín Chương 山口信章) hay Yamaguchi Sodô (山口素堂, Sơn Khẩu Tố Đường, 1642-1716), chủ nhân Sodôtei (Tố Đường đình), nhà thơ haiku và bạn thân của Bashô.
75 Hori cho rằng đây cũng là một thí dụ điển hình của khái niệm karumi (tính cách vô tư lự của chim oanh và sự khoan dung của nhà thơ trước cảnh đó)..
70
Đó là phong cảnh một ngày xuân thật đẹp. Nhà thơ chỉ lặng ngắm con chim oanh (tượng trưng cho sự trở về của mùa xuân, NNT) rây phẩn trên bánh mochi (bánh dày làm ra để ăn Tết) đang được đem phơi cho khô dưới hàng hiên dưới ánh nắng ấm. Ở một bài thơ khác, khi tả cảnh mùa thu, Bashô lại viết:
Mikazuki ni
Chi wa oboro nari
Soba no hana
(Hori 754, thu)
Dưới trăng liềm mờ ảo,
Mặt đất trắng một màu,
Cánh đồng hoa kiều mạch.
Đồng hoa kiều mạch (soba no hana)
Dưới ánh con trăng mồng ba (mikazuki), mặt đất mờ mờ ảo ảo, lộ ra màu trắng bạt ngàn của cánh đồng hoa kiều mạch (soba, buckwheat). Khung cảnh này là một sự hài hòa gợi nhớ phong cách những bài thơ nói về sự “cô quạnh” (sabi, loneliness) từ trước. Nếu có điểm khác nhau giữa chúng thì đó là việc hoa kiều mạch vốn đầy dẫy khắp nơi và chẳng đẹp đẽ gì đặc biệt. Mì kiều mạch chỉ là món ăn xoàng trên mâm cơm một gia đình Nhật bình thường. Một bài thơ thanh tao khác tiến gần được đến khái niệm “cô quạnh” là bài khá nổi tiếng sau đây:
Kiku no ka ya
Nara ni wa furuki
Hotoke-tachi
(Hori 893, thu)
Hoa cúc vẫn dâng hương,
Nara kinh đô cũ,
Chư Phật ngồi trầm tư.
Nara 奈良 là kinh đô của Nhật Bản thời cổ (710-784), sau khi Phật giáo đã mang một
71
nền văn hoá mới đến từ Trung Hoa và Ấn Độ đến nước này. Nay thì Nara chỉ còn là một thành phố nhỏ dành cho khách du lịch mà Phật giáo đã bước qua thời toàn thịnh. Thế nhưng trong những ngôi chùa của Nara hãy còn những bức tượng Phật bằng gỗ bằng đồng ngồi trầm ngâm lặng lẽ từ bao thế kỷ. Cái thế giới ngày xưa mà chư Phật đã nhìn với cặp mắt từ bi, nếu nay vẫn còn đó, thì chỉ được thể hiện qua mùi hương hoa cúc đang lan tỏa khắp thành phố Nara76. Hít thở được làn hương đó, ta có cảm tưởng như nhìn thấy những hình ảnh xưa cũ và thở bầu không khí của kinh đô tráng lệ một thời. Điều đáng chú ý là trong nguyên văn, tác giả không nói đến “những hình bóng Phật giáo” (Bukkyô no kage, Buddhist’s images) mà chỉ nói đến “những vị Phật” (Hotoke-tachi, Buddhas) để nhân cách hóa các bức tượng đó, xem như chư Phật vẫn còn sống trong thế giới loài người kể từ dạo ấy.
Trong những năm cuối cuộc đời mình, Bashô đã cố gắng sửa chữa khái niệm “cô quạnh” (sabi) nếu không nói là thay đổi nó. Xưa kia sabi uốn con người trở về với tình trạng nguyên thủy, hòa nhập với thiên nhiên đất đá, hòa tan vào đó cái tự ngã (ego) vốn là đầu mối của những dục vọng dằn vặt họ. Nay thì Bashô thử sửa lại rằng con người có thể
sống trong cõi nhân gian tục lụy mà vẫn tìm ra sự bình an cho tâm hồn. Giải pháp của ông là “nhẹ lâng” (karumi) nghĩa là thái độ của một con người sẳn sàng chấp nhận mọi sự xảy đến cho mình. Tỷ như một nhà thơ ẩn cư nở được một nụ cười khi bị kẻ trộm viếng, hay là một thiền sư đi quét tuyết mà không nghĩ đến tuyết. Nhưng thử hỏi cố
gắng đó của Bashô có đạt được mục đích hay không? Ông đã có thể vượt qua niềm thất vọng và yếm thế bàng bạc trong những tác phẩm trước đó của ông chưa?
Chúng ta khó lòng có được một câu trả lời chắc nịch.Tất cả những điều có thể làm được là thử đọc những bài thơ ông là lúc cuối đời để phân tích tâm trạng của nhà thơ tiềm ẩn trong đó.
Shiragiku no
Me ni tatete miru
Chiri mo nashi
(Hori 905, thu)
Một cành hoa cúc trắng,
Dù nhướng mắt nhìn kỹ,
Cũng không thấy bụi trần.
Đây là một bài thơ đáng yêu. Bashô đã nhìn thấy đoá cúc trắng này nơi nhà người bạn77 vào một buổi họp mặt.Tuy nhiên, qua bài thơ, ta có cảm tưởng như đối với Bashô lúc đó, không có ai hiện diện ngoài màu trắng tinh khôi của đóa cúc. Nếu không có một tấm lòng thanh thản hồn nhiên thì tác giả khó có thể hạ vần như vậy.
Buổi chiều hôm sau, Bashô lại gặp gỡ một nhóm nhà thơ, mỗi người phải trình bày một
76 Hori nhấn mạnh là vào tiết Trùng Dương mà Nhật gọi là Kiku no sekku (mùng 9 tháng 9, Tết hoa cúc), Nara lại có một phong vị đặc biệt. Bashô đã đến nơi tham bái các tượng Phật vào dịp này. 77 Theo Hori, đó là bà Sonome (園女 Viên Nữ, 1664-1726) một nhà thơ haiku thời Edo và là đệ tử của Bashô. Ông viết bài thơ cúc trắng cũng để ca ngợi sự thanh khiết của nữ chủ nhân.
72
bài haiku nói về chủ đề tình yêu78. Bài thơ của Bashô vịnh nhan đề “Đi chung đường với cậu bạn trẻ đẹp trai dưới trăng”:
Tsuki sumu ya
Kitsune kowagaru
Chigo no tomo
(Hori 906, thu)
Dưới trăng đêm trong vắt,
Tiễn chân cậu bạn trẻ,
Tuổi còn sợ chồn cáo.
Khung cảnh này chỉ có trong trí tưởng tượng của Bashô. Đó là một hôm trời đã vào khuya, một cậu chigo (稚児, catamite)79 đang rảo bước trên con đường vắng dưới ánh trăng. Tuy trăng sáng nhưng rừng cây dày đặc và từ trong đó có tiếng chồn tru làm chú ta nép người vào ông (theo Hori, NNT). Khung cảnh thì thật nên thơ nhưng hàm chứa những bí ẩn của thiên nhiên khiến chú bé thiếu kinh nghiệm đâm ra hoảng sợ. Bashô không thể nào xóa tan nỗi lo âu của chú bé nhưng ông nghĩ mình vẫn có thể tiễn chú ta thêm một đoạn đường.
Bia mộ của Bashô trong khuôn viên Gichuuji (Nghĩa Trọng Tự) ở Shiga
Trong mười ba ngày cuối, Bashô còn có thêm hai bài haiku nữa. Bài trước có lẽ viết sau bài nói về chồn cáo một ít lâu, trong đó ông tự hỏi người hàng xóm của mình lấy gì làm sinh kế. Nó hàm chứa nỗi buồn “cô quạnh” vô hạn của kiếp nhân sinh và sự bi quan về khả năng thông cảm giữa con người với nhau. Dĩ nhiên bài thơ thiếu sự trong sáng và dịu dàng mà ông đã có đối với đoá hoa cúc cũng như chú bé con. Thế rồi, bài sau và cũng là bài thơ cuối cùng, viết 4 ngày trước khi nhắm mắt:
Tabi ni yande
Yume wa kareno
78 Hori giải thích ấy là một nhóm bạn 7 người bàn về 7 hình thức ái tình (Nanakusa no koi). 79 Nam nữ trẻ tuổi xinh xắn, được nuôi trong phủ đệ hoặc chùa chiền.Nhiều khi là đối tượng phục vụ cho những kẻ đống tính luyến ái.
73
Kakemeguru
(Hori 908, đông)
Lữ thứ thân nằm bệnh,
Mộng hồn còn luẩn quẩn,
Trên cánh đồng hoang vu.
Bài thơ này đã mở ra một chiều hướng khác. Nó không còn giống bài thơ nói về cúc trắng hay nói về con đường trăng sáng nữa. Bashô đã hiểu cõi thế gian này chẳng là gì khác hơn những cánh đồng mùa đông cằn cỗi (kareno, withered moor) nhưng ông cố quanh quẩn đi tìm cho được một chỗ nghỉ ngơi. Cả “cô quạnh” (sabi) lẫn “nhẹ lâng” (karumi) đều không đủ đem đến cho thi nhân sự thanh thản hoàn toàn. Dù sao, ông vẫn bôn ba, đánh vòng vòng, không hề chịu ngừng trên bước đường đi tìm một phong cách, sáng tác những vần haiku đánh dấu cả thành công cũng như thất bại trong quá trình tìm tòi đó.
74
Chương 3
BASHÔ VÀ RENKU
Thơ liên ngâm hay tính tập đoàn của thi ca Nhật Bản
Đất khách trời vào xuân80
Dẫn nhập:
Trước tiên, phải xin độc giả thứ lỗi vì đoạn dẫn nhập sau đây hơi dông dài.
Có renku và ... renku. Loại hình renku thứ nhất (liên cú 聯句), còn đọc là rengu, chỉ lối làm thơ với nhiều thành viên tham gia, mỗi người làm một câu thơ theo sau câu của người đi trước. Nó là một hình thức sáng tác tập thể trong Hán thi (với những kỹ thuật tu từ như tsuiren ( đối liên 対聯), tsuiku (đối cú 対句). Loại hình renku thứ hai (liên cú
連句), là một bộ phận của haikai, thể thơ thuần túy Nhật Bản. Renku trong haikai phát xuất từ haikai renga 俳諧連歌, chi lưu bình dân của renga81 truyền thống. Đặc điểm của renga truyền thống là có sự góp mặt của nhiều người.
80 Omoshiro ya. Kotoshi no haru mo. Tabi no sora (Ô, mình hay chưa kìa! Thêm một mùa xuân về. Vẫn khung trời lữ thứ) trong Thư gửi Kyorai (Kyoraibumi)
81 Từ xưa, renga có hình thức tanrenga 短連歌 (đoản liên ca) với thượng cú và hạ cú do hai người xướng họa (như bài thơ giữa Ôtomo Yakamochi và một ni cô, thấy chép trong Manyôshuu quyển 8). Đến thời viện chính (chính trị viện sảnh của các Thái thượng hoàng từ cuối thế kỷ 11), nó phát triển thành chôrenga 長連歌 (trường liên ca), còn gọi là kusari-rennga 鎖連歌 (tỏa liên ca) với các chôku 長句 (trường cú hình thức 5/7/5 hay 17 âm tiết) tiếp nối bằng các tanku 短句(đoản cú , 7/7 hay 14 âm tiết). Loại renga truyền thống này trên nguyên tắc có thể kéo dài vô tận với sự hợp tác của nhiều người. Đã được lưu hành suốt thời Edo. suố rộng rãi từ thời trung cổ sang đến thời tiền cận đại.
75
Thế nhưng trước tiên renga 連歌 là gì? Thưa, nó là một loại thơ dài bắt đầu với 3 câu mào đầu (phát cú, hokku 発句) hình thức 5/7/5 làm chính và sau đó được nối bằng 2 câu phụ hay câu nách (wakiku 脇句) 7/7, rồi đoạn thứ ba bằng 3 câu 5/7/5, sau đến 2 câu tiếp nữa, lần lần cho đủ 100 cú (bách vận)82. Bách vận hợp thành nhất quyển. Có
những hình thức giản lược như ngũ thập vận ( 50 cú), yoyoshi (tứ thập tứ, 44 cú) hay kasen (ca tiên, 36 cú).
Thời Muromachi, nhà thơ renga nổi tiếng là Sôgi83 (Tông Kỳ) đã cùng các cao đệ như Shôhaku84 (Tiêu Bách), Sôchô85 (Tông Trường) soạn ra Minase Sangin-Hyakuin (Thủy Vô Lại Tam Ngâm Bách Vận) vào năm 1488. Đây là một kiệt tác của thể loại renga hyakuin (liên ca bách vận). Bài hát do ba người (tam ngâm của Sôgi, Shôhaku và Sôchô) cùng ngâm liên tiếp một trăm cú (bách vận). Đó là thơ renga đọc lên trong đền Minase (vùng Settsu, gần Ôsaka) vào dịp lể tế vong hồn cựu thiên hoàng Go-toba-in, một người am tường văn học, được thờ ở đấy.
Sau đây xin trích sáu cú (tiết, stanzas) đầu:
Sôgi:
Yukinagara
Yamamoto kasumu
Yuube kana!
Chiều về! Tuyết còn đọng,
Chân núi bồng bềnh sương.
Shôhaku:
Iku mizu tohoku (tôku)
Ume nihofu (niou) sato
Xa xa dòng nước chảy,
Qua làng mai tỏa hương.
Sôchô:
Yawakaze ni
Hitomura yanagi
82 Xin nhớ kiểu nói hyakuin 百韻(bách vận) không chỉ có nghĩa là trăm cú thôi đâu mà còn ngụ ý là rất nhiều nữa.
83 Sôgi 宗祇(Tông Kỳ, 1421-1502) tên thật là Iio Sôgi (Phạn Vĩ, Tông Kỳ), bậc thầy renga. Sôgi hâm mộ Saigyô, du lịch khắp nơi rồi cũng chết ở đất khách như ông ta..
84 Shôhaku 肖柏(Tiêu Bách, 1443-1527), con của Naka-no-in Michikiyo 中院通純 (Trung ViệnThông Thuần), dòng dõi quí tộc họ Minamoto, dạy waka và renga.
85 Sôchô 宗長(Tông Trường, 1448-1532), thầy dạy renga.Thờ Imagawa Yoshitada 今川義忠 (Kim Xuyên Nghĩa Trung) làm thầy, sau học thiền với Ikkyuu Sôjun 一休宗純 (Nhất Hưu Tông Thuần).
76
Haru miete
Gió sông lay chòm liễu,
Tin xuân đã tỏ tường.
Sôgi:
Funasasu oto mo
Shiruki akegata
Tiếng chèo khua nước sớm,
Trong như nắng ánh gương.
Shôhaku:
Tsuki ya nao
Kiri wataru no ni
Nokoru ramu (ran)
Trăng đêm và mù tỏa,
Trời cao có vấn vương?
Sôchô:
Shimo oku nohara
Aki wa kurekeri
Cánh đồng trùm buốt giá,
Đưa tin thu lên đường.
Trong 6 cú trên thì cú 1 nói về cảnh đông tàn xuân đến trên núi, 2, 3, 4 nói về cảnh xuân trên sông và làng quê bỗng đổi qua đêm thu, rồi cảnh cuối thu đầu đông trong hai cú 5, 6. Nguyên tắc là người làm câu tiếp theo phải lấy một chủ đề trong câu trước rồi khai triển ra một đề tài mới. Trong sự liên tục lại có sự thay đổi và thay đổi này có thể đột ngột, không ngờ tới.
Ở Việt Nam ta cũng có liên cú (gọi là liên ngâm)86. Học giả Dương Quảng Hàm87 đã xếp nó vào “Loại thơ riêng” bên cạnh Đường luật cổ phong, Thủ vĩ ngâm, Liên hoàn, Thuận nghịch độc, Yết hậu, Lục ngôn, Tiệt hạ, Vĩ tam thanh, Song điệp, Họa vận vv... Cụ Dương đã trích bài Cảnh Hồ Tây (Tây Hồ phong cảnh, phần Truyện Bà Chúa Liễu) trong Việt Hán Văn Khảo88 của bậc túc nho Phan Kế Bính để chứng minh điều đó.
86 Nguyễn Huy Lượng trong Tây Hồ Phú có câu: “Chạnh nhớ khúc liên ngâm thưởng nguyệt, lúc tiếu đàm thường thỏa ý giao phu” (giao phu = trao đổi thoải mái). Dẫn bởi nhà dân tộc học Cao Xuân Giao trong bài viết về Bà Chúa Liễu và Phủ Tây Hồ. Tư liệu mạng.
87 Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu, chương 13, xuất bản 1941 (Hà Nội), tái bản 1968 (Sài Gòn). Tư liệu mạng.
88 Phan Kế Bính, Việt Hán Văn Khảo, Trung Bắc Tân Văn (Hà Nội) xuất bản, 1930.
77
Theo lời giải thích thì bài liên ngâm đã được làm ra với sự hợp tác của bốn người: Bà Liễu Hạnh (nhân vật thần thoại thời Lê Anh Tông, được dân chúng thờ phượng như thánh mẫu), ông Phùng khắc Khoan (Trạng Bùng, 1523-1613), một ông tú tài họ Lý và một ông cử nhân họ Ngô, khi họ rong thuyền chơi trrên Hồ Tây. Bài thơ này gốc chữ Hán. Xin trích đoạn đầu và cuối của bản Việt dịch:
Liễu:
Hồ Tây riêng chiếm một bầu trời,
Lý:
Bát ngát tư mùa rộng mắt coi,
Cõi ngọc xanh xanh làng phía cạnh,
Phùng:
Trâu vàng biêng biếc nước vàng khơi.
Che mưa lợp mái làm nhà cỏ,
Ngô:
Chèo gió ai bơi một chiếc chài.
Giậu thủng chó đua đàn sủa tiếng,
Lý:
Trời hôm bếp thổi khói tuôn hơi,
Mơn mơn tay lái con chèo quế .
Phùng:
Xàn xạt mình đeo chiếc áo tơi .
Thuyền Phạm phất phơ chơi bể rộng.
Ngô:
Bè Trương thấp thoáng thả sông trời
Đò đưa bãi lác tai dòn dã.
..........................................................................................................
Lý
Thuyền tới Đào Nguyên mặc sức bơi.
Chuông sớm giục thanh lòng Phật đó.
Liễu:
78
Trăng tròn soi một bóng tiên thôi.
Câu thơ chót như ngụ ý Bà Liễu Hạnh là người tiên.
Không hiểu thể liên ngâm này đã đến nước ta tự bao giờ và có phổ biến lắm hay không? Nó có nguồn gốc phương Bắc hay là một sản phẩm bản địa? Xét riêng bài thơ 4 người trên đây làm (nguyên tác bằng chữ Hán, dùng nhiều điển cố Trung Quốc và tất cả bài thơ triển khai theo sát một chủ đề độc nhất là cảnh Hồ Tây) thì ta có thể ngả về giả thuyết đầu. Tuy nhiên nếu nhìn chung thì tự thời xa xưa, trong một xã hội nông nghiệp, bất luận ở đâu, khi người ta tụ họp với nhau để lao động như cấy mạ, gặt lúa, giã thóc, đào mương, đắp bờ ruộng... hay tham gia lễ hội mừng mùa màng thì việc hát đối đáp, hát trêu ghẹo, luyến láy giữa nam nữ là chuyện thường xảy ra. Các tập thơ renga thường lấy nhan đề là “Tsukuba tập” vì các nhà biên tập dùng tên hòn núi ở miền Đông Nhật Bản, nơi có tổ chức các nghi lễ cảm tạ trời đất cho được mùa và cũng là nơi trai gái tụ tập hát hỏng, nhảy múa và tự do chung đụng xác thịt. Sự phồn thực của đất trời và sự phồn thực của loài người được xem như là một cho nên tập đoàn phải khuyến khích hành động đó.
Theo Oda Hiroshi89, bài liên ngâm đầu tiên của người Nhật và là thủy tổ của renga đã được ghi chép trong Kojiki (Cổ Sự Ký, 712) giữa người anh hùng trong thần thoại, hoàng tử Yamato Takeru (Nhật Bản Vũ Tôn) và ông lão tên Hitaki no Ogina. Sau đó, trong Man.yôshuu (Vạn Diệp Tập, 759?) lại chép bài liên ngâm của thi hào Ôtomo Yakamochi và một ni sư. Điều đó có thể hiểu như người Nhật muốn khẳng định rằng hình thức liên ngâm như renga có nguồn gốc bản địa chứ không phải một thể thơ du nhập từ đại lục90.
.
Phổ biến suốt thời trung cổ, vào đến giai đoạn tiền cận đại, renga đã chia ra thành hai nhánh: hữu tâm (ushin hay yuushin) và vô tâm (mushin). Hữu tâm thì diễm lệ, tao nhã, thường là thơ dụng công và viết theo phong cách của những người trí thức có địa vị cao trong xã hội. Vô tâm bình dị, hài hước, không câu nệ và là sản phẩm của đại chúng thấp kém. Nhánh vô tâm biến thể thành haikai renga qua sự cách tân của Matsunaga Teitoku (1571-1653) và Nishiyama Sôin (1605-1682). Kể từ đó, chúng ta có renku, một hình thức liên ngâm nhưng đi ra ngoài renga truyền thống của Nijô Yoshimoto91, Shinkei, Sôgi, Sôkan, Shôhaku..., những bậc thầy tên tuổi. Riêng Bashô, ông đã chứng tỏ mình cũng là một người viết renku có tài.
Bài viết dưới đây phỏng dịch chương thứ ba nhan đề The Renku trong tác phẩm Matsuo Bashô, the Haiku Master (1970) của Giáo sư Ueda Makoto. Như thông lệ áp dụng từ những bài trước, nó có kèm theo lời chú thích và ý kiến cá nhân người dịch.
89 Akazuka Tadashi chủ biên, sđd, xem thư mục tham khảo, trang 237.
90 Nhân vì Ôtomo Yakamochi (大伴家持, 717 ? - 785) sống vào thời Nara, tương đương với nhà Đường (618-907) bên Trung Quốc nên chúng ta còn có thể ngờ vực luận cứ “dân tộc” này. Thế nhưng nhân vật Hoàng tử Yamato Takeru lại xuất hiện vào giai đoạn khuyết sử, lúc ảnh hưởng văn hoá Hán có lẽ chưa đặt chân lên đảo quốc, dù có chăng nữa, cũng không phổ biến cho lắm.
91 Nijô Yoshimoto 二条良基 (Nhị Điều Lương Cơ, 1320-1388), đại thần đầu triều thời Nam Bắc phân tranh ở Nhật, thi nhân và nhà lý luận renga.
79
(NNT)
Bashô dưới nét bút Sanpuu
Renku là một thể thơ độc đáo với sự góp mặt của nhiều tác giả.Thường thì nó được cấu thành bởi 36, 50 hoặc 100 cú (句, tiểu đoạn, tiết, stanzas gồm từ 2 đến 3 câu hay quãng ngắt) do một “toán” thi nhân làm ra. Viết renku giống y như một “trò chơi nhóm” mà động cơ thực sự là để tiêu khiển với nhau trong những cuộc gặp gỡ. Chúng ta có thể tưởng tượng cái cảnh một thành viên nào đó vừa đưa ra được một câu thơ đẹp hay hóm hỉnh thì người trong nhóm đã xuýt xoa khen ngợi hay bật phá ra cười. Cái lợi thế trên hết của renku như hình thức thi ca là nó có thể mở rộng phạm vi và biến hóa khôn lường, việc mà một nhà thơ đơn lẻ khó lòng thực hiện.
Viết renku (Japanese linked poem) cũng có khả năng rủi ro gặp thất bại, rõ ràng nhất là việc những thành viên đóng góp vào đó đã không kết hợp được nỗ lực của họ. Để phòng chống sự ngẫu nhiên này, người ta đã đặt ra một số qui luật. Chẳng hạn khi muốn thoát ra khỏi sự đơn điệu, các thành viên không được lặp đi lặp lại một số chữ nào đó trong khoảng 2, 3 hay nhiều câu. Về âm tiết cũng được qui định trước như vậy. Một cú ba câu (triplet) với hình thức 5/7/5 phải được nối sau nó bằng một cú 2 câu (couplet) 7/7. Một renku lúc nào cũng khởi đầu bằng một cú 3 câu và kết thúc bằng một cú 2 câu. Quan trọng hơn nữa, người ta đòi hỏi renku phải theo một tiến trình thống nhất vế các mặt
nhịp điệu, hình ảnh và cách dùng chữ. Trong thể loại renku ba mươi sáu cú92(mà vào lúc cuối đời, Bashô rất yêu chuộng) thì sáu cú đầu được xem như đoạn nhập đề và mỗi câu thơ của nó phải giữ được giọng điệu ôn tồn, chữ dùng quen thuộc và có lập luận hòa nhã. Tất cả cho phép người đọc có thể chờ đợi những gì gây xúc động hơn đến sau đó.
92 Thời Heian, người làm thơ Waka có tôn vinh 6 thi hào gọi là Lục ca tiên (Rokkasen). Đời sau lại có danh xưng Tam thập lục ca tiên (Sanjuurokukasen). Thể renku 36 cú phỏng theo hình ảnh 36 người này.
80
"""