"Mặc Tử và Biệt Mặc - Nguyễn Hiến Lê PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mặc Tử và Biệt Mặc - Nguyễn Hiến Lê PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo MẶC HỌC (Mặc tử và Biệt Mặc) Tác giả: Nguyễn Hiến Lê Đánh máy: Dianhvohinh, Goldfish Sửa lỗi và bổ sung: Goldfish Tạo eBook (01/01/‘16): QuocSan. MỤC LỤC: Vài lời thưa trước Phần I. MẶC TỬ §I. Thân thế Họ và tên Nơi sinh Sinh và tử Thời đại §II. Hành động §III. Tư cách – tài năng §IV. Bộ Mặc Tử §V. Ngôn ngữ của Mặc Tử Phần II. HỌC THUYẾT MẶC TỬ §I. Uyên nguyên §II. Lợi và nghĩa §III. Thuyết Kiêm Ái a/ Khó làm b/ Không dùng được c/ Không hợp đạo làm con d/ Không hợp tình người So sánh đạo Nhân của Nho và đạo Kiêm Ái của Mặc §IV. Mạt sát chiến tranh xâm lăng §V. Trời và quỉ thần A. Trời B. Quỉ thần §VI. Bác thuyết định mạng §VII. Dưới thống nhất tư tưởng với trên §VIII. Lựa người hiền §IX. Mạt sát thói xa xỉ A. Hễ đủ dùng thì thôi B. Chôn cất và để tang §X. Bỏ mĩ thuật mà sống khắc khổ và đẻ nhiều §XI. Kết A. Giáo chủ hay đảng trưởng? B. Công của Mặc Tử Phần III. BIỆT MẶC VÀ MẶC KINH §I. Sau khi Mặc Tử mất A. Các phái B. Tác phẩm Mặc Kinh Nội dung Mặc Kinh Hình thức Phụ lục §II. Sửa lại Mặc Học Định nghĩa lại chữ lợi Trọng tình cảm Biện hộ và sửa thuyết kiêm ái Phản cổ §III. Bác các nhà khác Bác các triết gia Bác các nhà nguỵ biện Bác Huệ Thi Bác Công Tôn Long §IV. Tri thức luận Tri thức Điều kiện của tri thức Ba loại tri thức Bốn yếu tố của tri thức Biện thuyết §V. Khoa học thường thức Về Hình học Về Lực học Về Quang học Các môn khác Về tâm lí §VI. Kết chung về Mặc Học PHẦN IV. TRÍCH DỊCH Lời thưa trước Kiêm Ái (thượng) Kiêm Ái (trung) Kiêm Ái (hạ) Phi Công (thượng) Phi Công (trung) Thiên Chí (thượng) Minh Quỉ (hạ) Phi Mạng (hạ) Thượng Đồng (hạ) Thượng Hiền (trung) Tiết Dụng (thượng) Tiết Dụng (trung) Tiết Táng (hạ) Phi Nhạc (thượng) Canh trụ Quí Nghĩa Công Mạnh Lỗ Vấn Công Thâu PHỤ LỤC Thiên tiểu thủ bàn thêm về “từ” Bộ Mặc Tử Kiêm Ái Dịch nghĩa VÀI LỜI THƯA TRƯỚC Trong tập Hồi kí, cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết về cuốn Mặc học như sau: Từ năm 1977, được nhàn rỗi, tôi lại tiếp tục nghiên cứu hết các triết gia lớn đời Tiên Tần, để thực hiện xong chương trình tôi đã vạch từ sáu năm trước và soạn thêm năm cuốn nữa: Mặc Học, Lão Tử, Luận Ngữ, Khổng Tử, Kinh Dịch. - Mặc học (gồm Mặc Tử và phái Biệt Mặc) Đạo Mặc là đạo Khổng của bình dân, do một tiện nhân thành lập. Mặc Tử sinh sau Khổng Tử, chịu ảnh hưởng của Khổng, cũng tôn quân, trọng hiền, đề cao đạo đức và sự tu thân như Khổng, nhưng chống Khổng ở chỗ ghét lễ nghi, cho nó là phiền phức, xa xỉ, ghét ca nhạc, mà lại có tinh thần tín ngưỡng rất mạnh. Đạo Mặc gần như một tôn giáo, tổ chức cũng chặt chẽ như một tôn giáo. Nó chỉ thịnh ở thời Chiến Quốc, các thời sau không một triều đại nào dùng nó vì thuyết kiêm ái và bỏ chính sách mĩ thuật, sống khắc khổ của nó không hợp nhân tình, nhưng nó có ảnh hưởng khá lớn: mở đường cho Lão Tử vì nó chủ trương bình đẳng giữa các giai cấp (không kẻ giàu người nghèo) và trở về lối sống bình dị; mở đường cho cả pháp gia nữa vì trọng quyền lực, trọng lao động và buộc người dưới phải thống nhất tư tưởng với người trên, buộc dân phải cáo gian… Mặc Tử mất rồi, chỉ trong vài thế hệ, môn đồ không còn giữ chủ trương của ông nữa, bỏ hẳn chính trị, đạo đức, mà suy tư về tri thức, biện luận, khoa học (hình học, lực học, quang học)… khiến cho triết học Trung Hoa có được vài nét của triết học phương Tây thời Hi Lạp. Đó là một cống hiến đáng kể của bọn môn đệ Mặc Tử mà người ta gọi là phái Biệt Mặc. Gần đây các học giả Trung Hoa rất chú ý tới Mặc học vì họ nghĩ rằng giá triết học đó không bị dìm trong mấy ngàn năm thì chưa biết chừng Trung Hoa đã có tôn giáo, khoa học như phương Tây. Một lẽ nữa là chính sách của Mặc Tử có vài điểm hợp với chế độ cộng sản. Ở nước ta, mới chỉ có Ngô Tất Tố giới thiệu Mặc Tử trong một tập mỏng. Bộ của tôi dày 350 trang, nửa trên về Mặc Tử, nửa dưới về Biệt Mặc, gọi chung là Mặc học. Tôi lại trích dịch mười chín thiên ấ Ô ề quan trọng nhất của Mặc Tử. Ông có giọng một nhà truyền giáo: hùng hồn, bình dị, lập đi lập lại để đập vào óc thính giả. Đọc cuốn Mặc học chúng ta thấy có rất nhiều chỗ cụ dịch lại những đoạn mà trước kia hai cụ và cụ Giản Chi đã dịch trong Đại cương triết học Trung Quốc, và một phần do vậy mà nhận định của cụ về học thuyết của Mặc tử trong tác phẩm đó nhiều chỗ cũng không giống nhau. Ngay trong cuốn Tuân tử cũng có chỗ khác biệt với cuốn Mặc Học. Trong cuốn Tuân tử, hai cụ bảo: “Tuân Tử rất đề cao nhạc, cho nên ông lấy làm quái về cái chủ trương “phi nhạc” của Mặc gia vì Mặc kết tội nhạc là thứ nhạc của bọn cầm quyền, xa xỉ, không ích gì cho dân, mà tốn của dân. Trái lại, Tuân Tử năm lần, bảy lượt, nhắc đi nhắc lại câu hỏi: “Mặc Tử chê nhạc nghĩa là làm sao?” (Nhi Mặc Tử phi chi nại hà?). Và ông kết luận: Mặc đáng làm tội: “Thế mà Mặc Tử lại cho lễ nhạc là không phải thì thật đáng làm tội” (Nhi Mặc Tử phi chi, cơ ngộ hình dã). Thật ra, kết tội Mặc thì oan cho Mặc. Không phải Mặc không biết trọng lễ nhạc. Không phải Mặc chỉ thấy cái lợi của cái “hữu” mà không thấy cái dụng của cái “vô”. Cũng không phải Mặc không biết cái lẽ “ngựa kéo mãi không nghĩ, cung dương mãi không buông, giống có huyết khí ai mà chịu nổi” (Lời Trịnh Phồn phê bình chủ trương “phi nhạc” của Mặc trong Tam Biện). Sở dĩ Mặc “phi nhạc” là vì dân chúng đương thời cùng khổ quá mà đối với trăm họ đói rét thì cơm áo cấp thiết hơn âm nhạc, ca vũ và các bộ môn nghệ thuật khác nhiều. Có lẽ chỉ giản dị như thế thôi!” Còn trong cuốn Mặc học, cụ Nguyễn Hiến Lê bác ý kiến trên. Sau khi dẫn một đoạn trong thiên Công Mạnh, cụ kết như sau: “Rõ ràng Mặc tử bắt mọi người phải khắc khổ như ông, mạc sát nhạc và mọi mĩ nghệ, không hiểu rằng nhạc, nếu tốt, có công dịch tục, mà có mĩ nghệ thì kinh tế mới phát triển được. Ông bảo nhu cầu của dân mệt thì được nghỉ ngơi, mà ông quên rằng nghe nhạc là một cách nghỉ ngơi rất tốt; ông chỉ lo tận lực làm việc, sản xuất cho thật nhiều, nhưng ca nhạc có thể giúp cho năng suất tăng lên mà quên mệt, tức như các điệu dân ca khi đi cấy, các điệu hò chèo thuyền v.v… Ngày nay tại các xí nghiệp lớn, người ta còn cho thợ vừa làm việc vừa nghe những bản nhạc êm đềm nữa”. Sau cuốn Mặc học, cụ Nguyễn Hiến Lê còn soạn thêm một số tác phẩm nữa, trong đó có bộ Sử Trung Quốc. Trong Mặc học, cụ nêu thuyết vua Nghiêu truyền ngôi cho vua Thuấn như sau: “Theo truyền thuyết, vua Nghiêu trị vì 100 năm, từ 2357 đến 2257, rồi nhường ngôi cho vua Thuấn chứ không truyền lại cho con. Vua Thuấn trị vì từ 2255 đến 2207, rồi nhường ngôi cho vua Vũ (nhà Hạ) chứ không truyền ngôi cho con. Hai ông ấy rất thương dân, rất bình dân, được dân coi như cha. Và dân tộc Trung Hoa từ thời Tiên Tần đến thời Thanh, đều coi thời thịnh trị của Nghiêu, Thuấn là hoàng kim thời đại của họ. Truyền thuyết đó đáng tin đến mức nào, chưa ai quyết đoán được; có thể hai ông ấy chỉ là tù trưởng của một bộ lạc lớn thời mà Trung Hoa mới biết canh tác, theo chế độ thị tộc, chưa thành một quốc gia, mà việc “truyền hiền” chứ không “truyền tử” chỉ là tục chung của các bộ lạc chứ không phải là “đức lớn” của Nghiêu, Thuấn: khi họ chết thì lựa người nào có tài, có công lớn hơn cả, đưa lên thay họ, họ không có quyền truyền ngôi cho ai hết”. Còn trong bộ Sử Trung Quốc, cụ lại nêu một thuyết khác. Cụ bảo: “Nghiêu và Thuấn chỉ là tù trưởng của một thị tộc. Có thể Nghiêu được nhiều bộ lạc liên hiệp bầu làm thủ lĩnh (mỗi bộ lạc gồm nhiều thị tộc). Nghiêu, Thuấn lên ngôi cách nhau cả trăm năm như truyền thuyết chép lại thì khó có sự Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn được: lúc đó Nghiêu bao nhiêu tuổi, Thuấn bao nhiêu tuổi? Có lẽ Thuấn là thủ lĩnh nhiều bộ lạc khác, sau chiếm được đất đai của Nghiêu, rồi thay Nghiêu mà làm “thiên tử”. Dĩ nhiên là khi gặp những chỗ khác biệt như vậy, ta nên theo tác phẩm viết sau. Trước đây bạn Dianhvohinh đã gõ được ba chương đầu của phần I. Tôi đã xem lại ba chương đó (có sửa vài chỗ sai sót) và chép tiếp từ chương IV đến cuối sách từ một ebook (về sau gọi là “bản nguồn”) do bạn PNT gởi tặng. Ngoài ra tôi còn chép thêm hai đoạn, một trích trong Đại cương triết học Trung Quốc mà cụ Nguyễn Hiến ổ ố Lê khuyên là nên xem thêm, và một trích trong Cổ văn Trung Quốc để chúng tôi thấy thêm vài điểm khác biệt giữa cuốn này và cuốn Mặc học. Chúng tôi dự định dùng cuốn Mặc Kinh hiệu thuyên 墨經校詮 của Cao Hanh[1] để sửa lỗi và bổ sung chữ Hán phần III cuốn Mặc học này, nhưng chưa có thời gian. Xin chân thành cảm ơn các bạn Dianhvohinh và PNT. Goldfish Tháng 9 năm 2011 PHẦN NHẤT MẶC TỬ CHƯƠNG I THÂN THẾ Mặc tử là một nhân vật kì dị nhất của Trung Hoa, kì dị từ tên họ, tới tư tưởng và đời sống, kì dị đến nỗi gần đây người Trung Hoa ngờ rằng ông có dòng máu Ấn Độ hoặc Ả Rập (!) chứ không thể là con cháu của Phục Hi, Thần Nông được. Họ là Mặc, một họ mà trước ông và sau ông cơ hồ không có người thứ hai nào mang tên. Sinh trong giới bình dân, có thể là tiện dân nữa, ông dùng ngôn ngữ của bình dân, lối lí luận của bình dân, dựng lên một triết thuyết cho bình dân, bênh vực quyền lợi của bình dân; lập nên một chính đảng kỷ luật rất nghiêm – Có thể nói là một tôn giáo nữa – rất đông người theo, trên hai thế kỷ ảnh hưởng ngang với Khổng phái, nhưng rồi ảnh hưởng đấy chìm luôn trong non hai ngàn năm, mãi tới đời Thanh mới có người lục các sách cũ để tìm hiểu Mặc học. Kì dị nhất và đáng phục nhất là con người đó có lẽ không vợ không con, suốt đời lo việc thiên hạ, hễ nghe nói một nước nào tấn công nước khác thì dù xa xôi tới đâu cũng gấp rút đi tới – Có lần đi mười ngày đêm không nghỉ (!) từ Lỗ đến Sở – để tìm cách thuyết phục, ngăn cản, ngăn cản không được thì tìm cách bảo vệ giùm nước bị tấn công, bắt mấy trăm môn đệ của mình hi sinh giữ thành cho, chống với kẻ xâm lăng, và họ tuân lệnh ông răm rắp. Đọc lịch sử nhân loại, tôi chưa thấy một người thứ hai nào yêu hòa bình, bênh vực kẻ yếu như ông. Một nhân vật có công với dân tộc Trung Hoa, làm vẻ vang cho dân tộc Trung Hoa như vậy mà sách vở chép rất ít, khiến cho tới nay, đời của ông còn rất nhiều nghi vấn. Không ai hiểu tại sao. Tư Mã Thiên trong bộ Sử ký không chép truyện Mặc tử, chỉ viết vỏn vẹn hai mươi bốn chữ phụ vào thiên Tuân Khanh liệt truyện, nghĩa như sau: “Mặc Địch, một đại phu nước Tống, giỏi chống giữ [thành], chủ trương tiết dụng. Có người bảo là sống một thời với Khổng tử”. ế Có phải vì từ thời Hán Vũ Đế (đời Tư Mã Đàm và Tư Mã Thiên) học thuật đã bị nhà Nho lũng đoạn, Mặc học bị coi là tà thuyết, nên Tư Mã Thiên chỉ viết vắn tắt như vậy chăng?[2] Vắn tắt mà lại rất mơ hồ: Không cho biết sống ở thời nào, quê hương ở đâu, còn về học học thuyết thì chỉ nhắc đến chủ trương tiết dụng. Một số sách thời Tiên Tần như Mạnh tử (thiên Đằng Văn công hạ), Tuân tử (thiên Phi thập nhi tử), Hàn Phi tử (thiên Hiển học) ghi, tuy có nhiều đoạn khen hoặc chê – Chê nhiều hơn khen – học thuyết Mặc tử, nhưng hoàn toàn không cho ta biết chút gì về đời của Mặc tử cả. HỌ VÀ TÊN Về họ và tên, các sách đều nhất trí ghi là Mặc Địch. Nhưng cái họ “Mặc” đó kì dị quá, cho nên Chu Lượng Công đời Thanh đưa ra thuyết Mặc là tên đạo, chứ không phải tên họ; sau Giang (Tuyên)[3] trong tập Độc tử chi ngôn, rồi Tiền Mục trong cuốn Mặc tử phụ họa vào. Đại khái Giang bảo trong sách Mặc tử có nhiều chỗ gọi là Tử Mặc tử (thầy Mặc tử), mà thời đó chữ tử dùng để tôn xưng, chỉ đặt trước tên hiệu chứ không đặt trước tên họ, chẳng hạn không ai gọi là Tử Khổng Cấp mà gọi là Tử Tư (Tử Tư là tên hiệu của Khổng Cấp, cháu nội Không Tử). Lí do đó không vững? Trong sách Trang tử có năm chỗ gọi Tống Kiên là Tử Tống tử. Và ngay trong sách Mặc tử cũng có chỗ gọi Cầm Hoạt Li là Tử Cầm tử, không thể bảo Liệt, Tống, Cầm đều không phải tên họ. Tiền Mục bảo chữ Mặc (nghĩa là mực, đen), chỉ một hình pháp ngày xưa: Tội nhân bị xâm đen vào tráng rồi đày làm nô dịch. Mặc tử chủ trương tiết dụng, để tang ngắn, không dùng âm nhạc, sống một đời cực kì khắc khổ, lao động cực nhọc nên người thời đó gọi ông và môn đệ của ông là Mặc, có ý nghĩa coi như bọn nô dịch. Một chứng cớ là thiên Quí Nghĩa sách Mặc tử chép rằng Mặc tử đem học thuyết của mình trình bày với Mục Hạ, bề tôi của Sở Huệ Vương, Mục Hạ mừng lắm, bảo: “Lời của thầy rất hay, nhưng vua chúng tôi là một đại vương trong thiên hạ, chắc sẽ bảo: “Đó là việc làm của người thấp hèn (tiểu nhân) mà không dùng lời của thầy chăng?” ề ể ố ổ Mặc tử là một tiện dân, điều đó có thể tin được; ông sống cực khổ như một tiện dân, điều này chắc chắn; còn việc người đương thời vì vậy mà gọi ông là Mặc thì chỉ là một giả thuyết tuy hữu lí (cho nên được Phùng Hữu Lan – trong bộ Trung Quốc triết học sử – chấp nhận) nhưng chưa có chứng cứ gì cả. Chưa biết sự thực ra sao thì chúng ta cứ tạm nhận Mặc là tên họ. Còn Địch thì là tên tục, không nghi ngờ gì nữa, vì trong bộ Mặc tử, có rất nhiều chỗ Mặc tử tự xưng là “Địch tôi”. NƠI SINH Về quê quán của Mặc tử, Sử ký không ghi; người sau đưa ra nhiều thuyết. Chúng ta gạt bỏ thuyết gần đây nhất đăng trên một số Đông phương tạp chí năm 1929 của Thương vụ ấn thư quán bảo Mặc tử không phải là người Trung Hoa mà là người Ấn Độ vì Mặc tử có nghĩa là mọi đen mà thuyết kiêm ái của của Mặc cũng như thuyết đại bi của Phật. Thuyết đó chỉ là lập dị, đáng cho ta mỉm cười mà thôi. (Nguồn: http://baochivn.com/images/imported/2011/01/226.jpg) Còn lại ba thuyết Mặc tử sinh ở Sở, ở Tống, ở Lỗ. - Thuyết sinh ở Sở do Tất Nguyên đời Thanh đưa ra. Thiên Lữ Gián trong bộ Lữ thị Xuân Thu bảo Mặc tử là người Lỗ, Tất Nguyên hiểu lầm là Lỗ Dương, một miền ở Sở, nên cho quê quán của Mặc tử ở Sở. Nhưng trong Mặc tử có nhiều chỗ chép Mặc tử đi tới Sở, chẳng hạn: Thiên Quí Nghĩa, bài 3: Tử Mặc tử nam du ư Sở. Thiên Canh Trụ, bài 5: Tử Mặc tử du Kinh (tức Sở). Nếu Mặc tử là người ở Lỗ Dương nước Sở thì không thể viết như vậy được, mà phải viết: Tử Mặc tử Dĩnh[4] (Thầy Mặc tử tới Dĩnh, kinh đô nước Sở) cũng như không thể nói một người Việt đi tới nước Việt mà phải nói tới Saigon hay Hà Nội. Vậy thuyết của Tất Nguyên cũng phải gạt bỏ. - Thuyết sinh ở Tống có lẽ căn cứ vào bốn chữ “Tống chi đại phu” (đại phu của nước Tống) trong Sử kí. Nhưng thiên Công Thân trong Mặc tử kể chuyện Công Thâu Ban chế tạo cho nước Sở một kiểu thang máy để đánh Tống. Mặc tử từ nước Lỗ đi mười đêm mười ngày không nghỉ để đến kinh đô Sở là Dĩnh, thuyết phục Công Thâu Ban và vua Sở đừng đánh Tống. Vua Sở nghe lời. Trên đường về, Mặc tử đi qua nước Tống, gặp trời mưa, vào một cổng làng để tránh mưa, người giữ cổng ngờ là gián điệp không cho vô. Việc đó đủ chứng tỏ rằng Mặc tử không phải là đại phu nước Tống, cũng không phải là người Tống[5]. - Rốt cuộc, còn lại thuyết sinh ở Lỗ. Thuyết này đáng tin hơn cả. Chứng cớ ở ngay trong sách Mặc tử. Thiên Quí Nghĩa, bài 2, chép: “Tử Mặc tử tự Lỗ tức Tề” (Thầy Mặc tử từ Lỗ tới Tề). Thiên Lỗ Vấn, bài 14, chép: vua Việt cho Công Thượng Quá một đoàn năm chục cỗ xe để qua Lỗ rước thầy Mặc tử (…dĩ nghinh Tử Mặc tử ư Lỗ). Ngoài ra thiên Phi Công trung, có câu: “Phía đông có nước Cử”, thiên Quí Nghĩa bài 18 có câu: Thầy Mặc tử đi lên phía Bắc để tới nước Tề… tới sông Tri… phải về. Mà Cử đúng là ở phía Đông nước Lỗ, Tề đúng là ở phía Bắc nước Lỗ. Vì những chứng cứ đó mà hầu hết các học giả Trung Hoa ngày nay đều nhận rằng Mặc tử là người nước Lỗ. Phùng Hữu Lan trong Trung Quốc triết học sử bảo thuyết Mặc tử là người Lỗ “cơ hồ có thể coi là định luận”; Đường Kính Cảo trong Mặc tử cũng bảo: “Những thuyết cho Mặc tử là người Tống, người Sở đều đã bị người trước ế ỗ bác, không đứng được; …thuyết người Lỗ đáng coi là đúng; Phương Thụ Sở trong Mặc học nguyên lưu còn quả quyết hơn: “thuyết Mặc tử là người Lỗ… vững như núi, không sao lay động nổi”. SINH VÀ TỬ Về năm sinh và năm tử, các học giả Trung hoa đưa ra nhiều thuyết, không thuyết nào đáng tin hẳn. Chúng ta hãy gạt bỏ hai thuyết cực đoan, sai nhiều đến hai trăm năm: tức thuyết Mặc tử đồng thời với Khổng tử[6] mà Tư Mã Thiên đã chép trong Sử kí nhưng còn coi là nghi vấn; và thuyết của Tất Nguyên nhà Thanh căn cứ vào câu (của Mặc tử): “Trung Sơn chư quốc vong ư Yên, Đại, Hồ, Mạch chi gian” cho là Mặc tử còn được trông thấy cuộc diệt vong của nước Trung Sơn và đoán rằng Mặc tử người đời Lục quốc, hồi cuối Chu[7] hãy còn” (Mặc tử của Ngô Tất Tố – in lần thứ nhì, Khai Trí 1959 – tr.13, 14). Chúng tôi không hiểu Tất Nguyên trích câu “Trung Sơn chư quốc vong ư Yên, Đại, Hồ, Mạch chi gian” ở đâu, chứ trong Mặc tử, thiên Phi Công – trung, chúng tôi chỉ thấy câu: “Bắc giả, Tra, Bất Trứ Hà, kì sở dĩ vong ư Yên, Đại, Hồ, Mạch, chi gian giả, diệc dĩ công chiến dã” (Phương Bắc, các nước Tra, Bất Trứ Hà – tức Bất Đồ Hà, ở Phụng Thiên ngày nay – mất về Yên, Đại, Hồ, Mạch ở bên cũng là do chính sách đánh chiếm). Hai nước Tra, Bất Trứ Hà đó có phải là những nước mà Tất Nguyên gọi là nước Trung Sơn không? Nếu là Trung Sơn thì, theo Từ Hải, bị nước Triệu[8] – chứ không phải Yên, Đại, Hồ, Mạch – diệt năm 20 đời Chu Noản vương (-295). Gạt bỏ hai thuyết trên đi rồi, còn lại bốn thuyết nữa xê xích nhau khoảng ba chục năm. Như vậy là chuyện thường, không có gì đáng ngạc nhiên. a- Thuyết sớm nhất, do Uông Trung đưa ra, cũng căn cứ vào một vài câu trong các thiên Phi Công – trung, Phi Công – hạ, mà chúng tôi không chép lại, sợ rườm[9]. Hồ Thích theo thuyết đó và đoán định rằng Mặc tử sinh vào khoảng 500-497, mất vào khoảng 425 -415. b- Tôn Di Nhượng trong Mặc tử niên biểu căn cứ vào những cuộc đối đáp giữa Mặc tử và Công Thâu Ban, Lỗ Dương Văn Quân chép trong Mặc tử, cho rằng Mặc tử phải đồng thời với Tử Tư (cháu nội ổ ấ của Khổng tử) và sinh sau Tử Tư, vào khoảng 468, mất vào khoảng 376. Thuyết này trễ nhất. Lương Khải Siêu sửa lại thuyết đó, Mặc tử niên đại khảo bảo Mặc tử sinh trong khoảng 468-459, chết trong khoảng 390-382. c- Tiền Mục trong Mặc tử niên biểu cho Mặc tử sinh sớm hơn một chút, vào năm Khổng tử mất (479) và chết cùng năm với Ngô Khởi (381). Thuyết này ở giữa thuyết của Uông và thuyết của Tôn, Lương. Vũ Đồng trong Trung Quốc triết học đại cương đại khái đồng ý về năm sinh của thuyết đó nhưng cho Mặc tử chết trước Ngô Khởi khá lâu, có thể từ 397. La Căn Trạch cho Mặc tử chết trong khoảng 329- 382. d- Sau cùng, Phương Thụ Sở trong Mặc học nguyên lưu cho Công Thâu Ban với Lỗ Ban là một người (điều này Từ Hải bác bỏ), mà Lỗ Ban là con Lỗ Chiêu Công, có thể lớn hơn Mặc tử khoảng hai chục tuổi, để tới kết luận rằng Mặc tử sinh vào khoảng 490, mất khoảng 403. Tiêu Công Quyền trong Trung Quốc chính trị tư tưởng sử theo thuyết này. Chúng tôi nhận thấy các học giả kể trên chỉ dùng những sự việc chép trong Mặc tử để suy đoán; cơ hồ trong bộ sử các nước chư hầu thời đó, như Lỗ, Trịnh, Sở, không có một tài liệu nào về Mặc tử cả, điều này cũng dễ hiểu: Mặc tử cũng như Liệt tử, Dương tử, Trang tử… không hề làm quan, nên sử không chép về ông. Mà những sự việc chép trong Mặc tử đáng tin tới mức nào, hình như cũng chưa có nhà nào nghiên cứu kĩ lưỡng. Nội một việc này cũng làm cho ta phải thận trọng. Bộ Mặc tử không phải của Mặc tử viết, mà do nhiều môn đệ của ông ghi lại, kẻ trước người sau, vì vậy mà các thiên chính (Thượng hiền, Thượng đồng, Kiêm ái, Phi công v.v…) đều có ba bản khác nhau, biết tin hẳn bản nào. Lại thêm, trong số hàng chục hàng trăm sự việc, mỗi học giả chỉ dùng dăm ba sự việc để suy luận, và khi hai nhà dùng hai sự việc khác nhau thì kết luận có thể khác nhau, có khi mâu thuẫn nhau nữa. Do đó mà mỗi nhà đưa ra một thuyết, và nhà nào cũng nhận rằng may mắn là thuyết của mình không xa sự thực lắm, chỉ đáng coi là ố một giả định thôi. Chính vì vậy mà chúng tôi không muốn chép lại những suy luận của họ, chỉ tóm tắt rất sơ lược như trên thôi. Viết cuốn này chúng tôi chỉ mong trình bày tư tưởng của Mặc tử chứ không có tham vọng nghiên cứu, và để kết thúc đoạn về năm sinh năm tử của Mặc tử này chúng tôi lập bảng dưới đây cho độc giả dễ thấy. Chúng tôi không quyết định được thuyết nào đáng tin cậy hơn cả; chỉ lựa những niên đại trung bình được nhiều nhà đưa ra: Sinh vào khoảng 490 tới 479, chết vào khoảng 403-382. Và trong tập này cũng như trong bộ Đại cương triết học Trung Quốc (Cảo Thơm), chúng tôi tạm dùng niên đại theo Vũ Đồng: 480-397. THỜI ĐẠI Tóm lại ta có thể nói Mặc tử sinh ở Lỗ, có phần chắc là sau khi Khổng tử mất, như vậy là ngọn đuốc triết học của nước Lỗ truyền từ Khổng tử qua Mặc tử mặc dầu Mặc không thuộc về Khổng phái. Khổng sống ở cuối thời Xuân Thu, Mặc mở đầu cho thời kì Chiến Quốc[10], trước cả Dương Chu, Lão Đam, Liệt Ngự Khấu. Suốt hai thời Xuân Thu và Chiến Quốc xã hội Trung Hoa vẫn chuyển biến liên tục, không bị gián đoạn, nhưng xét chung thì thời Chiến Quốc xã hội loạn hơn, biến cố dồn dập hơn. Chỉ cần coi niên biểu các đại sự đời Chu ở cuốn bộ Từ Hải chúng ta thấy điều đó. Trong đời Khổng tử 551-479, trên bảy chục năm, về việc các nước chư hầu đánh chiếm lẫn nhau, chỉ có ba vụ quan trọng Từ Hải ghi lại: 506: Ngô đánh Sở. 494: Ngô vương Phù Sai đánh bại Việt vương Câu Tiễn. 487: Tống diệt Tào. Mà trong đời Mặc tử 480-397 (niên đại theo Vũ Đồng), trên tám chục năm, có tới chín vụ: 478: Sở diệt Trần (sau khi Khổng mất được một năm). 473: Sở diệt Ngô. 461: Tần đánh Tây Nhung, diệt Đại Lộ. 453: Ba nhà Triệu, Hàn, Ngụy diệt Trí Bá, chia đất thành Tam Tấn. 447: Sở diệt Thái. 445: Sở diệt Kỉ. 432: Việt diệt Cử. 418: Việt diệt Đàm. 408: Tấn Ngụy Tư lấy Trung Sơn. Rõ ràng là chiến tranh dồn dập; và nếu ta đọc tiếp niên biểu tới hết đời Chu, qua tới đời Tần thì thấy càng về sau chiến tranh càng nhiều và càng khốc liệt. Nguyên nhân chính là do dân tộc Trung Hoa đã bước vào thời đại đồ sắt. Thời Ân, người Trung Hoa dùng lưỡi cày bằng gỗ, thời Tây Chu đã có lưỡi cày bằng đồng đỏ, nhưng đồng đỏ mềm, cũng chỉ cào được mạt đất thôi, không đào sâu thành luống được. Cuối thời Xuân Thu, ở Ngô, Việt mới tìm ra được sắt, đúng hơn là phát sinh ra thuật luyện sắt trong những lò rất nhỏ, rất sơ sài. Sắt lúc đó gọi là “ác kim” (vàng, bạc, đồng là “mỹ kim”) và chỉ dùng chế tạo những đồ dùng tầm thường, nhưng lại có tác dụng lớn trong đời sống kinh tế, như lưỡi cuốc, lưỡi cày, lưỡi liềm, chiếc đục, chiếc thuổng, chiếc rìu… Vào khoảng đầu thế kỷ thứ VI trước T.L ở nước Ngô có xuất hiện những truyền thuyết về hai thanh gươm Can Tương và Mạc Da[11] bén hơn những thanh gươm thường nhiều, vì đúc bằng sắt, và từ đó sắt được dùng làm binh khí. Có xưởng đúc phải dùng tới ba trăm người kéo bễ cho lò đủ nóng mà làm chảy được sắt. Và qua thời Chiến Quốc thì sắt đã thông dụng, mà sách Mạnh tử (thiên Đằng Văn Công thượng – bài 4) chép một câu Mạnh tử hỏi Trần Tương: “Hứa tử – tức Hứa Hành, thầy của Trần Tương, và chủ trương người nào cũng phải cầy ruộng lấy mà ăn – có dùng nồi đồng, trách đất nấu ăn không, có dùng lưỡi cày bằng sắt mà cày không?”. Nhờ có những công cụ bằng sắt, sức lao động giảm đi mà năng suất cao lên: người ta cày sâu hơn, lúa tốt hơn, đào kinh dễ dàng hơn, hệ thống tưới hoàn thiện hơn, phá rừng mau hơn, mở mang thêm được nhiều đất cày, do đó mà nông nghiệp phát triển đạt mạnh. Muốn mở mang thêm đất, phải bỏ chế độ tỉnh điền, và thay đổi chính ế ề sách thuế má. Địa chủ thì tài sản tăng lên, uy quyền lớn lên, mà nông dân thì bị bóc lột hơn. Công nghiệp cũng phát đạt vì nhu cầu chế tạo dụng cụ mới (nhà nào cũng muốn có một lưỡi cày, một chiếc cuốc, một lưỡi rìu, một con dao… bằng sắt). Phương tiện giao thông vận tải được cải thiện. Do đó thương mại cũng phát đạt: nhiều con buôn hóa giàu hơn bọn quí tộc, mà hễ giàu thì có quyền. Đô thị mọc lên rất mau, đường sá phải đắp thêm. Người ta thấy biên giới các nước làm cản trở sự lưu thông, chính sách thuế quan bất tiện cho thương mại, cho nên muốn phá biên giới mà thống nhất Trung Quốc. Công việc thống nhất này được dễ dàng nhờ khí giới bằng sắt. Những khí giới này sắc bén, công hiệu hơn nên chiến tranh tàn khốc hơn. Chiến thuật cũng tiến bộ: giữa thế kỉ thứ V, người ta biết dùng kị binh và Công Thâu Ban đã cải thiện thuật công thành. Quan niệm về chiến tranh cũng thay đổi với kĩ thuật chém giết, công phá. Thời Xuân Thu chiến tranh còn ít nhiều theo luật quân tử, qua thời Chiến Quốc, nó theo luật rừng rú. Kinh tởm nhất là năm -260, tướng Tần Bạch Khởi chôn sống bốn chục vạn quân Triệu đã đầu hàng. Ngay trước thời Mạnh tử, đã có cảnh thây người chất đầy đồng; quân lính chết nhiều thì phải bắt nhiều lính. Già nửa dân số phải đi lính, để có được những đạo quân hàng trăm ngàn người; và để nuôi số quân đó, những kẻ ở nhà (đàn bà và người già) có khi phải nộp cho nhà nước tới ba phần tư hoa lợi. Nhưng cũng nhờ vậy mà các nước nhỏ mau bị thôn tính mà việc thống nhất Trung Quốc mới hoàn thành được. Tóm lại, tất cả những chuyển biến, hỗn loạn trong xã hội Trung Hoa thời Chiến Quốc, truy nguyên ra thì đều không trực tiếp cũng gián tiếp là hậu quả của sự phát minh kĩ thuật luyện sắt. Chẳng phải chỉ riêng Trung Hoa như vậy. Ở Tây Á và Âu Châu cũng vậy, nơi thì sớm hơn, nơi thì trễ hơn Trung Hoa, nhưng đều trong nửa thiên niên kỷ trước T.L. Ở Tây Á là thời kì bành trướng của đế quốc Ba Tư; ở vùng Balkan, Alexandre đại đế của Hy Lạp chinh phục cả một khu vực từ sông Nil tới sông Ấn, sau Hy Lạp, đến đế quốc La Mã ở Địa Trung Hải. ằ ế ố Người ta không còn ngạc nhiên rằng tại sao các đế quốc lớn, các nền văn minh cổ đại của nhân loại cơ hồ cùng xuất hiện vào một thời, ở Đông và ở Tây. Chỉ vì loài người thời đó mới biết luyện sắt. Sắt đã tạo ra nền văn minh nông nghiệp, cũng như điện lực đã tạo ra nền văn minh kĩ thuật ngày nay. Từ một văn minh này chuyển qua một nền văn minh khác, xã hội mất sự ổn định cố hữu, và phải trải qua một thời hỗn loạn trong nhiều thế kỷ. Nhân loại hiện nay cũng như Trung Hoa thời Chiến Quốc đương ước ao một sự thống nhất, đại đồng. Và chúng tôi có cảm tưởng rằng thế hệ chúng ta chưa thấy được sự ổn định đó đâu. CHƯƠNG II HÀNH ĐỘNG Ở đầu chương trên, chúng tôi đã nói Mục Hạ, một bề tôi của Sở Hiến Huệ vương khen thuyết của Mặc tử là hay nhưng ngại vua Sở không dùng vì Mặc tử là một tiện nhân. Đại khái xã hội Trung Hoa thời đó chia làm bốn hạng người từ trên xuống dưới: Sĩ, nông, công, thương. Hễ là dân thường, không phải là sĩ thì là tiện nhân hết… Cho nên Khổng tử tuy ở trong giai cấp quí tộc đã suy vi, mà thời chưa được làm quan, cũng tự cho mình là tiện nhân: “Ta hồi trẻ hèn (tiện) cho nên biết làm nhiều việc nhỏ nhen”. Bài 13 thiên Quí Nghĩa, Mặc tử bảo Huyền Đường tử: “Địch tôi trên không có phận sự thờ vua, dưới không phải khó nhọc mà cày ruộng, cho nên đâu dám bỏ việc đọc sách”. Hồi đó ông đã đi chu du khắp thiên hạ để truyền bá học thuyết của mình. Nhưng thời trai trẻ, chắc ông cũng phải có nghề. Căn cứ vào bài 22 thiên Lỗ Vấn: “Công Thâu tử chẻ, vót tre để làm một con chim khách bay được ba ngày mà không rớt, tự cho mình là rất khéo, thầy Mặc tử bảo: “Chim khách của ông không bằng cái chốt xe của tôi, chỉ đẽo ba tấc gỗ một lát là thành mà nó đỡ được sức nặng năm mươi thạch” (mỗi thạch 120 cân). Người ta đoán rằng Mặc tử có thời làm thợ đóng xe. Truyện đó, Hàn Phi tử (thiên Ngoại từ thuyết tả thượng) chép khác: chính Mặc tử bỏ ra ba năm làm được con diều hâu bằng gỗ bay được một ngày. Môn đệ ông khen là khéo. Mặc tử mãi lo cứu đời, chắc không nghĩ mà cũng không bỏ ra ba năm làm một con diều hâu bay được. Cho là Công Thâu Ban chế tạo được thì có lí hơn. Nhưng có điều này chắc chắn: Mặc tử giỏi về phòng ngự, giữ thành, nghĩa là ông giỏi về chiến thuật, về chế tạo binh khí, cơ khí. Sử ký đã chép vậy mà trong nhiều thiên trong Mặc tử (như Công Thâu, Bị thành môn v.v…) cũng chép vậy. Có thể bảo ông là một kĩ sư giỏi. ổ ầ Khổng tử là người đầu tiên gây phong trào dạy tư, và ai ham học thì bất kì trong giai cấp nào, ông cũng thâu nhận. Trong số các môn đệ của ông có nhiều người nghèo mà có tài đức như Nhan Hồi, Nguyên Hiến, Nhiễm Ung… Khi ông mất rồi, môn sinh của ông noi gương ông mở trường truyền bá đạo của thầy. Lỗ vốn là đất vua nhà Chu phong cho Chu công mà Chu công là người đặt ra các lễ nghi, điển lệ của nhà Chu, cho nên Lỗ giữ được nhiều truyền thống tốt, nổi tiếng là văn minh. Phong trào học tư ở Lỗ thời đó chắc phát đạt nhất Trung Hoa, và hạng tiện nhân như Mặc tử muốn học thì không khó khăn gì lắm. Mặc tử học ai? theo Lữ thị Xuân Thu (thiên Dương Nhiễm) thì ông học Sử Giác, một người do Chu Hoàn vương sai lại Lỗ, rồi bị vua Lỗ Huệ công giữ lại. Thuyết đó không tin được vì Chu Hoàn vương (719 – 696) không thể sống đồng thời với Lỗ Huệ Công được; mà Chu Hoàn vương sống ở thế kỷ thứ VII, còn Mặc tử ở thế kỷ thứ V. Chúng ta chỉ có thể đoán Mặc học đạo Nho vì ông thường dẫn Thi, Thư, Xuân Thu. Chắc chắn ông đã dạy học. Hồi nào và ở đâu, thì chúng ta không biết được. Môn đệ của ông rất đông: trong thiên Công Thâu ông bảo vua Sở rằng đệ tử của ông là Cầm Hoạt Li gồm ba trăm người giữ những khí giới ông chế tạo ra để bảo vệ thành trì của Tống, chống lại những thang mây của Công Thâu Ban. Trong bộ Mặc tử, chúng ta còn được thấy tên trên một chục học trò của ông: Trị Đồ Ngu, Huyền tử Thạc, Canh Trụ Sở, Cao Thạch tử, Quản Kiềm Ngao, Tào Công tử, Thắng Xước, Cao Tôn tử, Cầm Hoạt Li, v.v… Ông không dạy lục nghệ (Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu) như Khổng tử vì ông không ưa lễ, nhạc cho lễ là phiền toái, nhạc là xa xỉ, không có lợi gì cả, chỉ làm cho dân nghèo, nước suy. Có lẽ ông chỉ đem học thuyết của ông: kiêm ái, phi công, thượng đồng, thiên chí, tiết dụng… ra giảng cho môn sinh, nhất là bắt họ phải thi hành những điều đã học. Ông chủ trương rằng người trị nước thì miệng nói điều gì, thân phải thi hành (Chính giả, khẩu ngôn chi, thân tắc hành chi – Công Mạnh bài 24). Miệng nói mà thân không làm thì thân loạn, không trị nổi thân mình, để cho nó loạn thì làm sao trị được nước. Ô ắ ể ề Ông dắt môn sinh đi chu du các nước để truyền bá đạo, giới thiệu cho một số ra làm quan, như Canh Trụ tử làm quan ở Sở (Canh Trụ 5), một người khác làm quan ở Vệ (Quí Nghĩa 13). Chúng ta chỉ biết ông đã ở Lỗ, Tống, Vệ, Sở, Tề, có thể là Việt nữa, chứ không biết ông ở những nước đó vào những lúc nào. Ở Lỗ, ông được vua Lỗ (có lẽ là Mục công) hỏi ý kiến hai lần. Một lần, Tề muốn đánh Lỗ, vua Lỗ không biết làm sao, ông khuyên: “Xin nhà vua trên thì kính Trời, thờ quỉ thần, dưới thì yêu và làm lợi cho trăm họ; tặng nhiều da và lụa, dùng ngôn ngữ nhúng nhường, mau mau giao hảo với các nước chư hầu bốn bên; rồi xua hết dân ra chiến đấu… Ngoài ra không có cách nào khác” (Lỗ vấn 1). Một lần nữa vua Lỗ (không rõ là ai) có hai người con, một ngươi hiếu học, một người thích chia của cho người khác, không biết nên lựa người nào làm thái tử, hỏi ý kiến Mặc tử. Mặc tử bảo có thể hai người đó, mong được khen mà hành động như vậy, phải xét cả ý chí cùng công việc của họ thì mới biết được (Lỗ vấn 10). Như vậy, ta thấy Mặc có thể được trọng ở Lỗ mà không dùng, mặc dù ông đã hai lần giúp nước bằng cách thuyết phục Hạng Tử Ngưu và Tề Thái vương đừng đánh Lỗ (Lỗ vấn 2, 3) – nhưng họ có lẽ không nghe. Môn sinh của Mặc cũng không có ai làm quan ở Lỗ. Người Lỗ không ưa học thuyết của ông. Điều này cũng dễ hiểu. Vua Lỗ là hậu duệ của Chu Công, nước Lỗ là quê hương của Khổng tử. Mặc tử tuy học đạo Nho nhưng chống Nho về nhiều điểm (điều này chúng tôi sẽ xét kĩ ở sau), nên nhiều học giả ở Lỗ thường tranh biện với ông, như Vu Mã tử trong bài 4 và 6 thiên Canh Trụ (coi phần dịch), Công Mạnh tử – tức Công Minh tử, một môn đồ của Khổng tử – trong non mười bài ở đầu thiên Công Mạnh, và Trình tử, tức Trình Phiên cũng trong thiên Công Mạnh, bài 15. Ông bảo Trình Phiên rằng, đạo Nho có bốn chủ trương đủ để làm mất thiên hạ: Cho Trời là không sáng suốt, quỉ thần không thiêng; chôn cất tốn kém và để tang lâu; ham ca nhạc; tin có số mạng. Theo bốn chủ trương đó, thì người trên không trị nước, người dưới không làm ăn gì cả, nước tất phải mất. Ô ỗ Ông mạt sát đạo Nho như vậy, thì vua quan nước Lỗ không sao chịu được và ông phải qua nước khác để truyền bá tư tưởng. Tống ở sát Lỗ về phía Nam, người Tống nổi tiếng là “ngu”. Chúng ta còn nhớ truyện một nông phu Tống ra ruộng nhớm mạ lên cho nó mau lớn (trong Mạnh tử); truyện một người Tống nữa thấy một con thỏ lỡ đâm đầu vào một gốc cây mà chết, lượm đem về, rồi từ đó ngày nào cũng lại ngồi ở gốc cậy đợi thỏ (trong Hàn Phi tử); truyện một người Tống mang mũ lễ qua bán ở nước Việt, mà người Việt thì cắt tóc xăm mình nên không dùng mũ đó; và truyện Tống Tương Công, đánh nhau với Sở ở Trác Cốc, không thừa dịp quân Sở đương qua sông mà tấn công, lại đợi cho họ qua sông xong rồi, dàn trận xong rồi mới thúc quân đánh; trận đó thua to, Tương Công bị thương mà còn bảo: “Bậc quân tử không đánh quân địch ở trong bước khốn cùng” (Hàn Phi tử), Tương Công lại không nỡ bắt những quân địch đã bị thương hoặc đã có hai thứ tóc. Có lẽ do đó mà có thuyết cho rằng, nước Tống có tinh thần kiêm ái và phi công (mạt sát chiến tranh xâm lăng). Mặc tử cũng bị tác giả thiên Thiên hạ[12] trong Trang tử chê là dại dột, sống thì cần lao, chết thì chôn cất bạc bẽo; đạo khắc nghiệt quá, tự làm khổ tấm thân. Vậy thì tinh thần Mặc tử với tinh thần người Tống có chỗ hợp nhau, chắc ông có nhiều cảm tình với họ, cho nên mới đi mười đêm mười ngày từ Lỗ tới Sở để thuyết phục Công Thâu Ban và vua Sở đừng đánh Tống, lại sai một đám ba trăm môn đồ cùng với Cầm Hoạt Li giữ thành giùm cho Tống, sẵn sàng phá thuật tấn công bằng thang mây của Công Thâu Ban. Lần đó có lẽ là lần đầu tiên Mặc tử lại kinh đô Dĩnh của Sở. Theo Phương Thụ Sở, thì vua Sở trong truyện đó là Sở Huệ vương và việc xảy ra vào khoảng – 445. Mặc tử thuyết Công Thâu Ban đừng dùng thang mây để đánh Tống vì như vậy bất nghĩa: làm cho nhiều người chết để mở mang bờ cõi cho Sở mà Sở thì đất đã dư rồi, dân lại thưa. Công Thâu Ban chịu, không cãi được, giới thiệu cho Mặc vào yết kiến Sở Huệ vương. Mặc cũng đem điều nghĩa ra giảng: Nước Sở đất rộng mà nhiều tài nguyên, nếu đánh chiếm nước Tống ỗ đã nhỏ lại ít tài nguyên, như vậy không khác gì người có cỗ xe trang hoàng đẹp đẽ mà còn muốn ăn trộm xe tồi tàn của hàng xóm; có quần áo bằng gấm thêu mà còn muốn ăn trộm chiếc áo vải thô của hàng xóm; có gạo thịt ngon mà còn muốn ăn trộm thức ăn xấu của hàng xóm. Sở Huệ vương khen hay, nhưng lại để cho công Thâu Ban quyết định vì chính Công Thâu Ban có ý chiếm Tống nên mới làm chiếc thang mây. Mặc tử lại phải thuyết phục Công Thâu Ban một lần nữa, vạch cho công Thâu Ban thấy rằng ông đã có khí giới để phá thang mây và đã cho ba trăm đệ tử tới Tống giữ thành cho Tống, chống lại sự tấn công của Sở. Lúc đó Công Thâu Ban mới chịu khuất phục. Vua Sở khen Mặc tử một lần nữa và thôi không đánh Tống (thiên Công Thâu). Sau Công Thâu Ban nói với Mặc tử: “Khi chưa gặp được ông, tôi muốn chiếm nước Tống; từ khi gặp được ông rồi, dù người ta tặng tôi nước Tống mà tôi phải làm điều bất nghĩa thì tôi cũng không làm”. (Lỗ vấn 23). Thiên Quí Nghĩa bài 3 chép một lần nữa, năm sáu năm sau (-439) Mặc tử xin yết kiến Sở Huệ vương. Theo Phương Thụ Sở (sách đã dẫn – trang 28) thì lần này Mặc tử dâng thư lên Sở Huệ vương. Huệ vương nhận, đọc rồi bảo: “Thư hay. Quả nhân tuy không làm chủ thiên hạ, nhưng thích nuôi người hiền”. Mặc tử từ chối bảo: “Địch tôi nghe nói rằng người hiền mà ra giúp đời[13] nếu đạo của mình không được thi hành thì không nhận thưởng, lời “nghĩa” của mình không được nghe thì không ngồi ở triều đình. Nay lời của tôi chưa được dùng, tôi xin đi”; rồi từ tạ vua Sở mà về[14]. Vua Sở sai Mục Hạ lấy cớ mình già mà từ chối. Mục Hạ lại thăm Mặc tử. Mặc tử thuyết phục Mục Hạ, Mục Hạ rất mừng bảo: “Lời của thầy thật hay, nhưng vua chúng tôi là một đại vương trong thiên hạ, sẽ bảo: “Đó là việc làm của hạng người thấp hèn mà không dùng lời của thầy chăng?”. Mặc tử phải giải thích rằng hễ cái gì có ích thì dùng, điều gì phải thì theo, đừng nên chê là thấp hèn (coi thêm bài 3 Quí Nghĩa ở phần dịch). ắ Đoạn Mặc tử dâng thư lên Huệ vương đó chắc là sai, vì Huệ vương khen hay, muốn tặng Mặc tử một chức tước, nghĩa là có ý muốn dùng ít nhất thì cũng làm cố vấn, sao Mặc tử đã vội cho là không được dùng mà bỏ đi? Mặc tử bỏ đi rồi, vua Sở sao lại còn sai Mục Hạ lấy cớ mình già mà từ chối? Từ chối cái gì? Từ chối dùng Mặc tử? Nhưng chính Mặc tử đã từ chối không muốn nhận chức tước, bổng lộc vua Sở định tặng kia mà! Đường Kính Cảo bỏ cả đoạn dâng thư đó là phải. Mặc tử không nhận chức tước của Sở, nhưng cho môn sinh là Canh Trụ làm quan ở Sở. Nhờ bổng lộc của Sở mà Canh Trụ có được mười dật (240 lượng) vàng tặng Mặc tử để “thầy chi dùng”. Dĩ nhiên, Mặc tử không chỉ dùng cho bản thân ông (ông sống rất thanh đạm, khắc khổ, điều đó ngay những người mạt sát đạo ông cũng phải nhận như vậy) mà cho đảng của ông – các đảng chính trị thời nào, mà chẳng cần dùng nhiều tiền. Nếu truyện đó đúng thì quả là nước Sở giàu có và vua Sở biết “nuôi người hiền” thật. Miền Bắc nước Sở giáp ranh với Hàn, có một huyện gọi là Lỗ Dương, hồi đó thuộc Sở. Văn Quân làm chúa miền đó, có lẽ được tự trị, như một chư hầu của Sở. Mặc tử thân thiện với Văn Quân. Thiên Lỗ vấn chép một lần Văn Quân hỏi ông thế nào là bề tôi trung, ông đáp bề tôi trung là người biết can vua khi vua lầm lẫn và mình có mưu gì hay thì trình bày với vua, chứ không phải là người vua bảo gì nghe nấy (bài 9): bốn lần nữa, ông khuyên Văn Quân đừng hiếu chiến, đánh chiếm nước láng giềng (bài 4,5,6,7). Đáng ghi nhận nhất là bài 4 chép cuộc đối đáp giữa ông và Văn Quân khi Văn Quân muốn đánh Trịnh, mà chúng tôi sẽ phân tích trong chương Phi Công phần II. Tề ở sát Lỗ mà lại muốn xâm chiếm Lỗ nên Mặc tử thường qua Tề. Thiên Lỗ vấn, bài 2, ông thuyết phục Hạng tử Ngưu, một tướng của Tề Thái Công, đừng đánh Lỗ vì chiến tranh luôn luôn hại cả cho nước lớn lẫn nước nhỏ; bài 3, ông thuyết Tề Thái Công, bảo thôn tính nước người lợi thì lợi thật, nhưng sẽ phải chịu điều bất tường (bị họa); Thái Công nhận là phải nhưng vẫn đánh Lỗ tiếm vương vị để làm bá chủ. ắ ề ề Chắc Mặc ở Tề khá lâu, nên có bạn cũ ở Tề (Quí Nghĩa 2) và một môn đệ là Cao Thạch tử có lần ở Vệ lại Tề để kiếm ông. (Canh Trụ 13). Vệ ở gần Lỗ về phía Tây, nhưng ông ít tới, chỉ một lần khuyên Công Lương Hoàn tử, một đại phu của Vệ nên bớt xa xỉ, bớt nuôi ngựa tốt và đàn bà đẹp đi để có tiền nuôi lính giữ nước (Quí Nghĩa 14). Một môn đệ của ông làm quan ở Vệ nhưng không lâu (Quí Nghĩa 15). Việc Mặc tử có qua Việt hay không còn là một nghi vấn. Nguyên văn bài Lỗ vấn 15 mở đầu như sau: “Tử Mặc tử du Ngụy Việt. Viết: Kí đắc kiến tứ phương chi quân tử, tắc tương tiên ngữ?”[15]. Tôn Di Nhượng rồi Đường Kính Cảo cho Ngụy Việt là một môn đệ của Mặc tử, như vậy hai câu trên phải dịch là: “Thấy Mặc tử sai Ngụy Việt đi du thuyết các nước. Ngụy Việt hỏi: “Gặp các bậc quân tử bốn phương thì lời nào nên đem ra nói trước (tức thuyết điều gì trước)?”. Phương Thụ Sở cho Ngụy Việt là nước Ngụy và nước Việt và hai câu đó phải hiểu khác: “Thầy Mặc tử muốn đi du thuyết ở nước Ngụy (ở phía Tây) và nước Việt (ở phía Nam). Có người nói: “Gặp các bậc quân tử bốn phương thì lời nào thầy sẽ đem ra nói trước?”. Chính Phương cũng nhận rằng ông chỉ đoán vậy thôi chứ cái việc Mặc tử có đi nước Ngụy, nước Việt không thì trong sách Mặc tử và khảo thêm các sách khác đều không thấy chép; nhưng đại khái thì Mặc tử đã từng qua những nước đó, cho nên người ta mới bảo ông là vội vội vàng vàng, ngồi không nóng chiếu, ống khói bếp không bao giờ đen (ý nói ít khi ở nhà lâu) – (sách đã dẫn, trang 34). Chúng tôi cho[16] thuyết của Tôn Di Như và Đường Kính Cảo vì bài Lỗ vấn 14 chép rằng vua Việt nhờ Công Thượng Quá (Một môn đệ của Mặc sai đi du thuyết ở Việt) cùng với năm chục cỗ xe lên nước Lỗ đón Mặc tử xuống Việt làm quân sư cho vua Việt, vua Việt xin cắt năm trăm dặm phong cho; Mặc tử không nhận lời bảo: ế ồ “Nếu vua Việt nghe lời ta, dùng đạo của ta thì ta sẽ tới, rồi xin được đủ ăn, đủ mặc, tự coi ta cũng như các bề tôi khác, chứ cầu được đất phong làm gì? Nếu nhà vua không nghe lời ta, không dùng đạo của ta mà ta tới thì chỉ là vì lúa (vì bổng lộc). Ở đâu thì cũng được lúa, mà ở đâu thì cũng là Trung Quốc cả, hà tất phải tới nước Việt?”. Nếu truyện đó đúng thì Mặc tử không muốn tới nước Việt, có lẽ vì biết rằng vua Việt không theo nổi đạo của mình. CHƯƠNG III TƯ CÁCH – TÀI NĂNG Thấy một người nào đó không ham quyền vị, danh lợi, ta bảo người đó là một triết nhân vì bản tính chung và nét nổi bật nhất của các triết nhân cổ kim là ghét những cái đó. Không nói các ẩn sĩ và các nhà chủ trương “vô vi” như Lão Trang, Dương Chu – họ trốn tước lộc như trốn dịch bệnh – ngay phái “hữu vi” như Khổng, Mạnh, suốt đời bôn ba khắp các nước, tìm một ông vua biết dùng đạo của mình, cũng không phải vì tước lộc mà vì muốn giúp đời. Mạnh tử cho rằng kẻ sĩ có bổn phận phải làm quan cũng như nhà nông có bổn phận phải làm ruộng (Sĩ chi sĩ dã, do nông phu chi canh dã[17] – Đằng Văn Công hạ – 3), “kẻ sĩ mất chức thì cũng như chư hầu mất nước” (Sĩ chi thất vị dã, do chư hầu thất quốc gia dã[18] – như trên) và theo truyền thuyết thì Khổng tử lòng như không yên nếu ba tháng không được thờ vua (nghĩa là không làm quan). Vậy mà Khổng tử trước sau chỉ làm quan có mấy năm ở Lỗ, còn Mạnh tử thì suốt đời không được một ông vua nào giao cho một nhiệm vụ quan trọng gì cả, chỉ đóng vai “khách khanh” tức như chức cố vấn ngoại quốc, không có một chút quyền hành; vì họ không chịu “uổng xích nhi trực tầm”[19], giữ đúng quy tắc, không chịu thỏa hiệp; và cho rằng nước vô đạo (vua không thi hành đạo, nước hóa loạn) mà ăn lương của triều đình, là một điều đáng xấu hổ. (Bang vô đạo, cốc; sỉ dã[20] – Luận ngữ – Hiến vấn 1). Mặc tử về điểm đó đúng là môt nhà Nho, cho nên ông bảo Công Thượng Quá: “Nếu vua (Việt) không nghe lời ta, không dùng đạo ta mà ta tới thì là chỉ vì lúa (vì bổng lộc)”. Còn như vua Việt mà nghe lời ông, dùng đạo ông thì ông chỉ xin được đủ ăn đủ mặc thôi. Sự ăn mặc của ông chắc là đạm bạc lắm. Sinh trong giai cấp “tiện nhân”, ông chịu khổ quen rồi, không khó tính như Khổng tử. (Khổng nếu thịt không tươi thì không ăn, cắt không đều cũng không ăn, phải có gừng để thơm miệng và dễ tiêu hóa), và cũng không đòi các vua chúa phải cung phụng mình một cách trọng hậu như Mạnh tử (Mạnh cho rằng kẻ sĩ truyền đạo của tiên vương thì có quyền đi đâu dắt trăm cỗ xe, mấy trăm người tùy tùng, đến nước nào thì vua nước ấy ấ ầ ế ế ầ ề phải cung cấp cho đủ mọi vật cần thiết, nếu cần tiền mà vua tặng hàng trăm dật vàng thì cũng có thể nhận được – Coi Mạnh tử của nhà Cảo Thơm 1975 – tr. 97-81). Mặc tử không hề làm quan, cũng ít khi ở nhà, suốt đời đi khắp nơi lo việc thiên hạ, có lần đi một mình từ Lỗ tới Sở, ngày đêm không nghỉ, thì đời ông tất phải khắc khổ rồi. Khổng và Mạnh, về già, biết đạo mình không thi hành được, trở về quê hương dạy học, còn hưởng được ít năm an nhàn. Mặc tử hình như bôn ba cho tới chết. Chết ở đâu cũng không ai biết. Vốn ghét ca nhạc, ông không được hưởng cái vui nghệ thuật của Khổng tử; lại ghét an nhàn, ông cũng không bao giờ thổ lộ tâm sự hoặc nói chuyện phiếm với môn sinh như Không tử. Sống trên bốn thế kỷ trước Ki-Tô, ông không bị đóng đinh trên thánh giá như Ki-Tô nhưng đã phải vác nó không phải mươi mười lăm năm như Ki-Tô mà ít nhất là năm chục năm vì tương truyền ông thọ tám chín chục tuổi. Triết gia thì có thể và thường có tinh thần hoài nghi, nhưng chính trị gia phải có đức tự tín. Muốn chiến đấu cho chủ trương chính trị của mình, muốn thuyết phục người khác, lôi cuốn quần chúng thì phải tin chắc rằng chỉ mình mới đúng còn mọi người đều sai. Lão, Trang, là triết gia, có lúc bàn qua về chính trị; Khổng, Mạnh, Mặc, khác hẳn, vừa là triết gia, vừa là chính trị gia, cho nên đức tự tín rất cao. Khổng tử và Mạnh tử đều tin rằng trời trao cho mình sứ mạng nối nghiệp vua Văn, vua Võ và Chu Công. Khi bị người đất Khuông (nước Vệ) toan hãm hại vì tưởng lầm là Dương Hổ, Khổng tử nói với các môn sinh: “Vua Văn vương đã mất, lễ nhạc, chế độ của ngài chẳng truyền lại cho thầy đấy ư? Nếu Trời muốn để mất lễ nhạc, chế độ ấy sao lại giao phó cho thầy? (Luận ngữ – Tử hãn 5). Rồi khi sắp mất, ông than thở: “Núi Thái Sơn sắp sụp, cây thượng lương sắp đổ, bậc triết nhân sắp mất”[21]. Còn Mạnh tử thì bảo một môn sinh là Sung Ngu: “Trời chưa muốn cho thiên hạ được bình trị, chứ nếu muốn thì thời này, không dùng ta thì dùng ai?” (Công tôn Sửu hạ, 13). Ông chê sự nghiệp của Tề Hoàn ố công và Quản Trọng nhỏ nhen, không thèm làm; và muốn được như vua Văn, vua Võ nhà Chu kia. Mặc tử không tự cho mình là được Trời giao phó sứ mạng nhưng cũng nghĩ chỉ học thuyết, chủ trương của mình mới đúng. Thiên Quí Nghĩa, 19, ông bảo: “Lời nói của ta dùng được. Kẻ nào không dùng lời của ta mà thay đổi tư tưởng của ta (suy nghĩ khác ta) thì cũng như không gặt lúa mà đi mót bông lúa vậy; kẻ nào dùng lời của mình mà bài bác lời của ta thì cũng như cầm trứng ném vào đá, ném hết trứng trong thiên hạ, đá vẫn y nguyên, không sứt mẻ được”. (Ngô ngôn túc dụng hĩ. Xả ngôn cách tư giả, thị do xả hoạch nhi quấn túc dã. Dĩ kì ngôn phi ngô ngôn giả, thị do dĩ noãn đầu thạch dã. Tận thiên hạ chi noãn, kì thạch do thị dã, bất khả hủy dã[22]). Tự tín tới mức đó thì tất nhiên bất chấp dư luận. Trên bước đường bôn ba, thầy trò Khổng tử mấy lần gặp một số ẩn sĩ và bị họ chê là không biết thời, thời loạn rồi không cứu vãn được nữa mà đi tìm minh quân làm gì nữa cho phí sức, Không tử ngậm ngùi than: “Nếu thiên hạ mà hữu đạo (không loạn) thì Khâu này cần gì phải sửa đổi” (Vi tử – 6). Còn Tử Lộ (học trò của Khổng tử) thì bảo: “Người quân tử ra làm quan là để thi hành cái nghĩa trung quân ái quốc, chứ đạo mà không làm được thì ai cũng biết rồi” (Vi tử – 7). Tử Lộ muốn nói: cứ làm được đến đâu thì làm cho hết bổn phận mình. Hai ông đó nhận những lời chê của các ẩn sĩ là đúng nên có giọng buồn, nhưng vẫn không bỏ chủ trương của mình. Cao Thạch tử, một môn đệ của Mặc tử, tinh thần không già dặn bằng Tử Lộ, còn ngại bị người ta chê. Ông ta do Mặc tử giới thiệu được vua Vệ cho làm quan khanh, bổng lộc rất hậu. Cao ba lần vào chầu, đều trình bày hết những điều mình muốn nói nhưng không điều nào được vua Vệ thi hành cả, bèn bỏ đi, qua Tề, thưa với Mặc tử: - Vua Vệ vì thầy mà cho con làm quan khanh, đãi lộc rất hậu. Con ba lần vào chầu, nói hết những điều con muốn nói nhưng không điều nào được thi hành cả, vì vậy mà con bỏ đi. Vua Vệ không cho con là khùng chứ? Mặc tử đáp: ế - Bỏ đi mà hợp đạo thì dù mang tiếng là khùng, có hại gì đâu? (Khứ chi cẩu đạo, thụ cuồng hà thương?[23]). Xưa ông Chu công Đán chê Quản Thúc[24] mà từ chức tam công, qua đất Thương Yên ở phía Đông, ai cũng cho là khùng, nhưng đời sau khen đức của ông, nêu danh ông lên, tới bây gìơ vẫn còn trọng ông. Vả lại Địch này nghe rằng làm điều nghĩa thì đừng tránh lời chê, tìm lời khen (Địch văn chi, vi nghĩa phi tị huỷ tựu dự[25]). Bỏ đi mà hợp đạo thì dù mang tiếng là khùng, có hại gì đâu? Cao Thạch thưa: - Thạch con bỏ đi, đâu dám trái đạo. Xưa thầy có dạy con: “Thiên hạ vô đạo thì kẽ sĩ có đức nhân không ở địa vị có lộc hậu”. (Thiên hạ vô đạo, nhân sĩ bất xử hậu yên[26]). Mặc khen là bỏ lộc mà theo nghĩa, mới thấy có một người là Cao Thạch tử (Canh Trụ – 13). Truyện dưới đây (Canh Trụ – 6) còn thú vị hơn nữa. Chính Mặc tử bị Vu Mã tử chê là khùng. Vì “thầy làm việc nghĩa, tôi chưa thấy ai phục thầy, cũng chưa thấy quỉ thần ban phúc cho thầy, mà thầy vẫn cứ làm”. Mặc tử không đáp, chỉ hỏi lại một câu: - Ví dụ ông có hai người giúp việc, một người trước mặt không thì làm việc, vắng mặt ông thì không làm, còn người kia dù có mặt hay vắng mặt ông cũng làm, thì ông quí người nào? Vu Mã tử đáp: - Tôi quí người có mặt hay vắng mặt tôi cũng làm việc. Mặc tử bảo: - Vậy ông cũng quí người mắc tật khùng rồi đấy. Mặc tử trong truyện đó thật nhanh trí và có tài ăn nói. Chúng ta có thể tưởng tượng nụ cười mỉa mai của ông khi nói câu cuối đó. Ông đã chẳng sợ bị chê là khùng mà còn tự hào cho rằng mình khùng vì khùng như ông mới đáng quí. Hai đức kể trên – không ham quyền vị, danh lợi mà sống đạm bạc, với tự tín coi thường dư luận – thì nhiều người có thể bằng Mặc tử ế ổ được; đến đức nhiệt tâm cứu đời, tận tuỵ vì nhân loại thì cổ kim Đông Tây không thể có được người thứ hai. Ít nhất là ông đã ba lần ráng cứu cho dân tộc Trung Hoa khỏi cái nạn đâm chém nhau và ông đã thành công hai lần: thuyết phục được Lỗ Dương Văn Quân đừng đánh Trịnh và Sở Huệ vương đừng đánh Tống. (Lần thuyết vua Tề có lẽ ông đã thất bại). Li kì nhất là lần thuyết Sở Huệ vương. Người nào đã chép truyện đó thành một thiên riêng[27], là nhận thấy giá trị đặc biệt của nó. Nó dài nhất, hay nhất, không thể sắp chung với các truyện khác được. Chỉ một mình nó cũng đủ miêu tả tư cách cùng tài năng của Mặc tử. Ông chủ trương ngôn hành hợp nhất. Ở trên chúng tôi đã dẫn câu: “chính giả, khẩu ngôn chi, thân tất hành chi” của ông trong bài Công Mạnh 24. Ông đả đảo sự đánh chiếm nước khác, cho là bất nghĩa; cho nên hay tin nước Sở sắp đánh chiếm nước Tống, ông phải tới thuyết phục ngăn cản, cho dù cách xa hàng nghìn dặm. Và ông lên đường lên đường ngay, đi luôn mười ngày đêm không nghỉ, tới nỗi quần rách, giày rách, hở chân ra, khó tưởng tượng có người chịu cực khổ nổi như vậy. Ông thuyết Công Thâu Ban trước chứ không yết kiến vua Sở vội, vì ông biết Ban chủ mưu, nếu Ban chịu bỏ, không dùng thang mây thì vua Sở sẽ không còn muốn đánh Tống nữa. Nhưng gặp Ban, ông không nói tới thang mây vội mà xin Ban giúp một việc, giết giùm một kẻ thù cho mình. Dĩ nhiên, Ban không chịu làm việc bất nghĩa đó. Gài bẫy xong rồi, Mặc tử mới tấn công tới tấp, buộc Ban ba tội: bất nhân vì giúp một nước lớn đánh một nước nhỏ vô tội; bất trung vì không biết can ngăn vua, để vua làm một việc mình biết là không phải; mâu thuẫn với bản thân vì không chịu giết một người mà tính chuyện giết nhiều người. Ban không cãi lại, trút trách nhiệm lên vua Sở. Tức thì Mặc tử vô yết kiến vua Sở, cũng dùng lại thuật gài bẫy lần nữa, đưa một thí dụ người giàu có mà ăn trộm của người nghèo, hỏi vua Sở như vậy có phải là mắc tật ăn trộm không. Vua Sở nhận là phải. Lúc đó Mặc tử mới buộc tội ba quan khanh của Sở là quân gian, có tật ăn trộm ố ố ể nước Tống vì Sở giàu mà Tống nghèo. Chúng ta để ý: Mặc tử trút tội lên ba quan khanh mà làm bộ cho rằng vua Sở không có ý đánh Tống vì biết việc đó hại cho điều nghĩa. Ông hiểu tâm lí bọn vua chúa, không muốn làm cho họ xấu hổ, nên không nói thẳng, mắng thẳng vào mặt vua như Mạnh tử (coi thiên Lương Huệ vương thượng và hạ trong Mạnh tử). Vì vậy vua Sở đã không giận mà còn khen “hay”; nhưng rồi lại đổ lỗi cho Công Thâu Ban. Mặc tử lại trở về để thuyết phục Ban. Lần này ông không đem nhân nghĩa mà đem thực tế ra thuyết phục. Ông đã chuẩn bị kĩ, tìm cách phá chiến thuật của Ban, bày trận trên mặt bàn, dùng cái đai tượng trưng cho thành, thẻ tre tượng trưng cho binh khí. Ban dùng hết các kiểu máy để đánh thành, ông phá được hết các máy đó. Ban chịu thua, nhưng nảy ra cái ý muốn giết ông, để không còn ai phá được kế hoạch của mình. Mặc tử cũng đã tiên liệu được điều đó, nên trước khi đi lại Sở, ông đã sai một bọn môn đệ ba trăm người dưới sự điều khiển của Cầm Li Hoạt, dùng những khí giới chống thang mây để bảo vệ thành trì cho Tống. Vậy dù Mặc tử có bị Sở ám sát thì vẫn còn môn đệ của ông. Lúc đó vua Sở mới chịu bỏ việc đánh Tống. Chúng ta thấy ông nhiệt tâm cứu đời: - Nói thì làm, làm cho kì được, không kể gian lao. - Trước khi làm thì chuẩn bị, xếp đặt kĩ, phòng trước mọi việc xảy ra để kịp thời đối phó. - Kiên nhẫn, thuyết một lần không được thì thuyết ba lần. - Hiểu tâm lí người đối thoại, đón trước ý của họ, dồn họ vào chỗ bí để họ phải bỏ ý của họ mà chấp nhận ý của mình. Đức nhiệt tâm của ông cũng thể hiện rõ trong bài Quí nghĩa 2: Một người quen cũ ở Tề khuyên ông thôi đi đừng làm điều nghĩa nữa cho khổ thân vì thiên hạ loạn quá rồi, không ai làm điều nghĩa cả. Ông đáp: “Gia đình nọ có mười người con, một người cày ruộng còn chín người ở không thì người cày ruộng đó không thể không làm gấp lên được. Tại sao? Tại số người ăn thì đông mà số người cày ruộng ề ế thì ít. Thiên hạ ngày nay không làm điều nghĩa thì bác nên khuyến khích, chứ sao lại ngăn tôi?”. So lời đó của Mặc tử với thầy trò Khổng tử sau khi gặp các ẩn sĩ (đã dẫn ở trên), chúng ta thấy nhiệt tâm của Mặc hơn hẳn hai nhà kia. Sinh sau Khổng tử, sống trong một thời đại loạn hơn thời của Khổng, mà ông không hề chán nản, trái lại càng hăng hái hơn, sự khó khăn trong công việc chỉ kích thích ông thêm thôi. Không hiểu nếu sống vào cuối thời Chiến Quốc như Tuân tử hay Hàn Phi, phải mục kích những cuộc chém giết rùng rợn, những mưu mô quỉ quyệt, những sự phản bội trắng trợn, ông sẽ hăng hái tới đâu nữa. Cứ thấy việc phải làm là Mặc tử làm, dù không được ai khen, không được quỉ thần biết tới thì cũng cứ làm. (Canh Trụ – 6 đã dẫn ở trên). Hơn nữa, dù không có kết quả, chỉ nội cái ý tốt muốn làm điều nghĩa cũng đáng khen rồi, như trong bài Canh Trụ – 4 ông trả lời Vu Mã tử: Lần đó Vu Mã tử trách ông: - “Thầy gồm yêu thiên hạ mà chưa thấy có lợi gì cho thiên hạ; tôi không yêu thiên hạ mà chưa thấy có hại gì cho thiên hạ, chưa thấy kết quả mà sao thầy đã tự cho mình là phải mà chê tôi?”. Mặc tử hỏi vặn lại: - Nay có người nổi lửa lên, một người xách nước lại tưới cho tắt, một người thêm lửa vào, kết quả chưa thấy, nhưng ông quí người nào? Vu Mã tử đáp: - Tôi quí cái ý muốn của người xách nước tưới và chê cái ý muốn của người thêm lửa vào. Mặc tử bảo: - Tôi cũng cho ý của tôi là phải mà chê ý của ông”. Vì nhiệt tâm cứu đời, ông đi đâu cũng thuyết phục thiên hạ làm điều nghĩa, mở đường cho các biện sĩ đời sau, từ Mạnh tử tới Tô Tần, Trương Nghi; dĩ nhiên tư cách của ông khác hẳn họ Tô, Trương, và chỉ có Mạnh tử có thể ví được với ông thôi. Mặc tử bị ế ằ người đương thời chê là hiếu biện (Mạnh tử – Đằng Văn công hạ – 9), ông cũng bị chê là nói quá nhiều. Lần nào ông cũng nhanh trí, chỉ hỏi vặn lại một câu (như truyện đã kể trên), hoặc dùng ngay lời của kẻ đối thoại để đập lại, có khi dùng cả hai thuật đó, như trong bài Công Mạnh 2: Công Mạnh tử bảo ông: - “Mình làm điều thiện thì ai mà không biết? Như người đồng cốt giỏi, không ra khỏi nhà cũng dư gạo ngon (người ta đem cúng hoặc tạ ơn), người đàn bà đẹp không ra khỏi nhà, người ta cũng tranh nhau cầu thân. Còn như mình hành động mà tự khoe thì chẳng ai dùng mình. Nay thầy đi thuyết phục mọi người, sao mà khó nhọc như vậy? Ông đáp: - Đời này loạn, số người cầu đàn bà đẹp thì nhiều, cho nên đàn bà đẹp không ra khỏi nhà, nhiều người cũng tìm tới; còn số người cầu người hiền thì ít, không gắng thuyết phục người ta, tất người ta không biết”. Câu đó đủ bác bỏ lời nông nổi của Công Mạnh tử rồi, nhưng ông lại hỏi vặn thêm: - Vả lại có hai người bói (bằng cỏ thi) đều giỏi cả, một người đi khắp nơi để bói cho người ta, một người không ra khỏi nhà thì người nào được nhiều gạo hơn? Công Mạnh tử đáp: - Người đi bói cho người ta được nhiều gạo hơn. Mặc tử kết: - Vậy, đức nhân, nghĩa ngang nhau, người đi thuyết phục mọi người thì công làm điều thiện tất cũng nhiều hơn, thế thì tại sao lại không đi thuyết phục? Chẳng những riêng bọn sĩ hay quân tử không ưa ông, ngay hạng ẩn sĩ cũng hiểu lầm ông nữa. Trong thiên Lỗ vấn có hai bài 12 và 13 chép lời Mặc tử đáp Ngô Lự. Ngô Lự ở miền Nam Bỉ nước Lỗ, noi gương vua Vũ, tự làm đồ gốm và cấy lấy ruộng mà ăn, hai lần chê Mặc tử là ham thuyết quá, sao không lẳng lặng làm điều nghĩa. Hai ầ ề ầ lần, ông đều đáp đại khái như nhau, nhưng lần sau, lời lẽ gọn hơn, ông bảo: - Thí dụ trong thiên hạ không ai biết cày ruộng (Ông lấy ngay nghề của Ngô Lự làm thí dụ). Dạy cho thiên hạ cày ruộng với không dạy mà riêng tự mình cày ruộng thì cách nào kết quả nhiều hơn? Ngô Lự đáp: - Dạy người ta cày thì kết quả nhiều hơn. - Thí dụ đánh một nước bất nghĩa. Đánh trống thúc quan sĩ tiến lên với không đánh trống thúc quân mà riêng mình tự xông lên chiến đấu thì cách nào kết quả nhiều hơn? - Đánh trống thúc quân thì kết quả nhiều hơn. Rồi Mặc tử kết: - Trong thiên hạ, hạng dân thường và kẻ sĩ đi bộ (chưa hiển đạt) ít biết điều nghĩa, dạy điều nghĩa cho thiên hạ thì kết quả cũng nhiều hơn, vậy thì tại sao không dùng lời để thuyết? Nếu dân chúng được cổ động mà tiến về việc nghĩa thì cái nghĩa của tôi cũng chẳng tiến thêm nhiều ư? Mặc tử luôn luôn dùng những ví dụ cụ thể như vậy để so sánh rồi đặt câu hỏi để kẻ đối thoại dễ hiểu và không cãi được. Ông quả là có tài thuyết phục thiên hạ. Nhờ tư cách rất cao và tài thuyết phục đó mà ảnh hưởng của ông rất lớn, ngang với ảnh hưởng của đạo Khổng trong suốt thời Chiến Quốc. Mạnh tử sống sau ông khoảng một trăm năm phải nhận rằng học thuyết của ông và của Dương Chu lan tràn thiên hạ, khi bàn bạc, người nào không theo Dương thì theo Mặc. Một trăm năm sau nữa, ảnh hưởng của Dương dường như không còn, trái lại đạo Mặc vẫn còn là một học thuyết danh tiếng nhất, ngang với học thuyết của Nho (Lời của Hàn Phi trong Hiển học). Học thuyết của ông bị nhiều người đả, người đả nhiều nhất là Mạnh tử. Mạnh bảo: “Họ Dương vị ngã, như vậy là không có vua, họ Mặc kiêm ái, như vậy là không có cha. Không cha, không vua tức là cầm thú (Dương thị vị ngã, thị vô quân dã; Mặc thị kiêm ái, thị vô phụ dã. Vô phụ, vô quân thị cầm thú dã – Đằng Văn công hạ – 9); nhưng chính Mạnh tử cũng nhận rằng ông hi sinh cho thiên hạ, “dù trán mòn, lỏng gót mà có lợi cho thiên hạ thì cũng làm” (ma đính phóng trủng[28] lợi thiên hạ vi chi – Cáo tử hạ). Lời đó là chê mà chính là một lời khen. Sách Trang tử, thiên Thiên hạ, tuy chê thầy trò Mặc tử: “Dụng tâm của Mặc tử và Cầm Li Hoạt tốt nhưng thực hành thì sai. Họ khiến cho những người đời sau theo học đạo của họ ganh đua nhau lao khổ tới nỗi đùi teo, ống chân rụng hết lông. Như vậy khá hơn loạn, nhưng chưa được là trị”. Nhưng cũng phải khen Mặc tử là “người tốt trong thiên hạ, không tìm được người nào khác như ông ấy. Chịu cực khổ, dù cho thân thể khô đét, ông ấy cũng không bỏ việc giúp đời. Thật là bậc sĩ có tài năng”. (Mặc tử chân thiên hạ chi hảo dã, tương cầu chi bất đắc dã, tuy khô cảo bất xả dã, tài sĩ dã phù). Vì nhiệt tâm quá, nên Mặc tử sống khắc khổ và bắt môn sinh cũng phải chịu khắc khổ như mình. Chỉ có mỗi một lần ông khen môn sinh, Thạch Tử Cao, là biết trọng nghĩa hơn bổng lộc (Canh Trụ 13, đã dẫn ở trên); còn ba lần khác, ông chê môn sinh. Bài Quí nghĩa 15, ông vạch cái lỗi ham bổng lộc của một đệ tử đang làm quan ở nước Vệ mà bỏ về chỉ vì vua Vệ hứa ban cho một ngàn bồn lúa mà sau chỉ phát cho có năm trăm bồn; một lần nữa, ông không cho Thắng Xước làm quan nữa vì coi bổng lộc trong hơn điều nghĩa. Mặc tử bắt đệ tử phải làm việc cật lực, rầy họ khi họ không làm vừa ý ông, khiến Canh Trụ – một đệ tử của ông – có lần đã phản kháng, bảo: “Con không hơn người khác sao?”; nhưng rồi ông lại ôn tồn giảng giải, vuốt ve Canh Trụ: “Ta muốn lên núi Thái Hàng, có một xe thắng ngựa kí (loài ngựa giỏi) với một xe thắng cừu, thì anh đánh xe nào?” Canh Trụ đáp: “Đánh xe thắng con ngựa kí” – “Tại sao vậy?” – “Tại con ngựa kí mới đủ sức leo núi” – “Ta cũng cho là anh đủ sức làm việc đó”. Được thầy cho mình vào hàng ngựa kí, Canh Trụ tất hãnh diện và phấn khởi. Vậy đối với đệ tử, Mặc tử nghiêm trang mà ôn tồn, công bằng (hiểu tâm lí và tài năng của họ) nhưng không thân mật với họ như cha con. Đọc bộ Mặc tử chúng ta không thấy thầy trò họ trò chuyện với nhau như thầy trò Khổng tử trong Luận ngữ. Mặc không khóc thương một môn đệ nào, không giận dữ với họ như cha giận con, mà môn đệ cơ ồ ế ế ồ ố ế ế hồ không quyến luyến với ông như Nhan Hồi, Tử Cống quyến luyến với Khổng tử. Ông coi học trò của ông chỉ như những đảng viên dưới quyền ông thôi. Về phương diện đó, chúng ta quí Khổng tử hơn ông nhiều. Trong thiên Quí nghĩa 6, ông khuyên chúng ta: “Phải trừ bỏ sáu sự thiên lệch đi, khi làm thinh thì suy nghĩ, khi nói thì phải răng mình, khi cử động thì phải để làm việc, ba cái đó thay nhau mà dùng thì thành thánh nhân. Phải trừ bỏ mừng, giận, vui, buồn, yêu, ghét mà dùng nhân nghĩa: tay chân, miệng mũi, tai dùng vào việc nghĩa thì thành thánh nhân” (Tất khứ lục tịch. Mặc tắc tư, ngôn tắc hối, động tắc sự. Sử tam giả đại ngự, tất vị thánh nhân. Tất khử hỉ, khứ nộ khử lạc, khử bi, khử ái, khử ố, nhi dụng nhân nghĩa: thủ, túc, khẩu tị, nhĩ tòng sự ư nghĩa, tất vị thánh nhân[29]). Giọng sao mà giống giọng Hàn Phi sau này thế. Rõ ràng là con người nhiều lí trí mà sợ tình cảm. Hàn Phi chắc đã đọc Mặc tử nên mới khuyên các vua chúa nên khử hiếu, khử ố thì mới trị được bề tôi mà thành một minh quân. (Hàn Phi tử thiên Nhị bính). Có lẽ vì ông quá ham cứu đời, quá nóng nảy làm điều nghĩa nên không muốn bận tâm vì tình cảm và đôi khi có những hành động không cận nhân tình. Như lần một môn đệ của ông vì chiến đấu mà chết. Cha người đó lại phiền trách ông. Ông đáp: “Ông muốn tôi dạy con ông. Nó học thành tài, chiến đấu mà chết, thì ông lại oán giận, như vậy không khác gì muốn có thóc, mua được rồi thì lại oán giận, chẳng cũng ngược lí ư?” (Lỗ vấn 11). Có lẽ ngược lí đấy, nhưng Mặc tử không hiểu được tình cha thương con mà cũng đòi hỏi ở người cha đó quá nhiều: có phải ai cũng nhận như ông hi sinh để bênh vực cho một nước yếu không phải là nước mình, là một việc nghĩa cao cả đâu. Giá Mặc tử giảng giải rồi an ủi người đó thì phải hơn. Lần dưới đây Mặc tử còn đáng trách hơn nữa. Ông thấy một thanh niên cường tráng thông minh, dụ dỗ anh ta theo học mình và hứa sẽ cho làm quan. Anh ta nghe lời, học được một năm, xin ra làm quan. Ông đáp: “Không giới thiệu cho anh làm quan! Anh đã đọc sách Lỗ ngữ không? Một nhà nọ ở nước Lỗ có năm anh em. Cha chết, người ấ ố con trưởng ham rượu và không lo việc chôn cất với các em, bốn người em bảo: “Anh lo việc chôn cất cha với chúng em, chúng em sẽ mua rượu cho uống”. Được khuyến khích như vậy người anh lo việc chôn cất. Chôn cất xong, hắn đòi bốn em mua rượu cho mình. Bốn người em đáp: “Tụi em không mua rượu cho anh! Anh chôn cất cha, chúng tôi cũng chôn cất cha, cha là cha chung chứ đâu phải của riêng chúng tôi. Anh không chôn cất cha thì người ta cười anh, cho nên chúng tôi mới khuyến khích anh chôn cất”. Nay anh làm việc nghĩa, ta cũng làm việc nghĩa, đâu phải việc nghĩa của riêng ta. Anh không học thì người ta cười anh, cho nên ta mới khuyến khích anh học”. Lừa gạt đệ tử như vậy dù là việc nghĩa, là điều không nên. Người ta có thể ngờ rằng ông không từ một phương tiện nào, miễn đạt được cứu cánh. CHƯƠNG IV BỘ MẶC TỬ Các triết gia cuối đời Xuân Thu và đầu đời Chiến Quốc thích giảng đạo hơn viết sách vì viết sách hồi đó là công việc khó nhọc (phải dùng sơn làm mực, lưỡi dao làm bút, thẻ tre làm giấy), mà lại ít người biết chữ, phổ biến tư tưởng bằng cách đó không được rộng rãi, công hiệu. Thêm một lẽ nữa, họ cho công việc cứu đời là quan trọng, chỉ khi nào thấy đời không dùng mình, mới lui về quê hương, bất đắc dĩ trứ tác để lưu lại học thuyết của mình cho đời sau, như trường hợp Khổng tử và Mạnh tử. Mặc tử, như trên chúng tôi đã nói, nhiệt tâm hơn Khổng, Mạnh, không bao giờ tỏ ý chán nản, nghĩ tới việc bỏ cuộc, về vườn nghĩ ngơi, mà có thể đã bôn ba khắp nơi truyền đạo cho tới khi chết, cho nên không nghĩ tới việc viết sách. Bộ Mặc tử không phải do ông viết mà do các đệ tử và người đời sau ghi chép. Theo Nghệ văn chí trong bộ Hán thư thì bộ đó đời Hán gồm 71 thiên[30]. Qua đời Tống, bộ Trung hưng quán các thư mục ghi là còn 61 thiên. Vậy là từ Hán tới Tống đã mất 10 thiên. Bản hiện lưu hành chỉ còn có 53 thiên (chia làm 15 quyển), thế là mất thêm 8 thiên nữa, có lẽ là từ sau khi nhà Tống dời xuống phương Nam. Năm mươi ba thiên đó, hai học giả Lương Khải Siêu và Hồ Thích chia làm năm “tổ” hoặc vì nội dung, hoặc vì thể tài (hình thức) có điểm giống nhau. Tổ I gồm 7 thiên: 1- Thân sĩ 亲⼠ 2- Tu thân 修⾝ 3- Sở nhiễm 所染 4- Pháp nghi 法仪 5- Thất hoạn 七患 6- Từ quá 辞过 7- Tam biện 三辩 ề ầ ế Về tác giả ba thiên đầu, ý kiến các học giả còn phân vân. Phương Thụ Sở cho rằng thiên 1 Thân sĩ có xen vài tư tưởng của Đạo gia, như “giếng ngọt thì mau cạn, cây tốt thì mau bị đốn”, “thịnh quá thì khó giữ” (mau suy), có thể là do một người trong Đạo gia nguỵ tạo; nhưng đại thể thì thiên đó diễn cái ý tôn hiền trọng sĩ trong thiên Thượng hiền, cho nên không thể bảo là tư tưởng của Đạo gia được, vì vậy Uông Trung trong Mặc tử tự ngờ là Nho gia nguỵ tạo, còn La Căn Trạch trong Chu tử khảo sách khẳng định là của Mặc gia thời sau viết. Thiên 2 Tu thân, Uông Trung cũng cho là của Nho gia vì giọng như giọng nhà Nho mà vấn đề tu thân là vấn đề quan trọng của đạo Nho. La Căn Trạch bảo Mặc gia cũng trọng tu thân vậy. Chứng cứ là bài Lỗ vấn 12, Mặc tử nói với Ngô Lự: “Kẻ sĩ đi bộ dùng lời của tôi thì đức hạnh tất sẽ sửa chữa”; nhất là bài Quí nghĩa 11, Mặc tử bảo: “Người quân tử ở đời muốn thành nghĩa, mà có ai giúp họ sửa mình thì họ giận, có khác gì muốn xây bức tường, có người lại tiếp tay cho thì giận, há chẳng ngược đạo ư?”. Vả lại trong thiên hai[31] có câu: “Người quân tử khi ra bày trận thế, nhưng gốc làm phải có dũng khí; trong việc chôn cất phải theo lễ, nhưng gốc là tấm lòng sầu bi; kẻ sĩ tuy phải học, nhưng cái gốc là đức hạnh”. Hai mục sau, bảo là chủ trương của Nho giáo hay của Mặc đều được, như mục đầu thì rõ là chủ trương của Mặc vì Mặc trọng cả văn lẫn võ, còn Nho trọng văn mà khinh võ. Xét chung thì trong Tu thân tư tưởng của Mặc nhiều hơn của Nho, nên La Căn Trạch cũng cho là của Mặc gia thời sau viết. Thiên 3 Sở nhiễm chép: Thầy Mặc tử than thở vì thấy tơ sống nhuộm màu vàng thì ra vàng, nhuộm màu xanh thì ra xanh. Có học giả căn cứ vào đó, cho rằng thiên đó luận về tính người, và phải xuất hiện sau khi các triết gia Tiên Tần đã bàn nhiều về vấn đề đó. Do đó Lương Khải Siêu bảo thiên 3 cũng nguỵ tạo nữa. La Căn Trạch nhận rằng nó không phải của môn sinh Mặc tử viết, nhưng chắc chắn là của Mặc gia đời sau viết chứ không phải của Nho gia nguỵ tạo vì Nho gia ghét Mặc, ngay ắ ắ ầ Mặc tử cũng ít khi Nho gia nhắc tới, đâu thèm nhắc tới Cầm tử, học trò của Mặc, như trong thiên đó. Tóm lại ba thiên đầu chứa vài tư tưởng của Đạo gia và vài tư tưởng chung của Nho và Mặc, nên một số học giả cho là của Đạo gia và Nho gia nguỵ tạo; nhưng La Căn Trạch bảo đều là của Mặc gia đời sau viết. Chúng tôi nghĩ Đạo gia và Mặc gia chủ trương ngược hẳn (một bên vô vi, một bên cực hữu vi), còn Nho gia vì oán ghét Mặc gia, mắng là bọn “không cha”; như vậy Đạo gia và Nho gia nào mà nguỵ tạo những thiên chứa tư tưởng của Mặc gia đó tất không phải là Đạo gia và Nho gia chân chính, mà trái lại đã bị ảnh hưởng đậm của Mặc rồi; coi họ là Mặc gia đời sau (chịu ít nhiều ảnh hưởng của Nho, Lão) như La Căn Trạch có phần hợp lí hơn. Về bốn thiên sau, ý kiến của các học giả tương đối nhất trí. Ai cũng nhận rằng cả bốn thiên đều diễn thêm những tư tưởng của Mặc tử. Thiên 4 Pháp nghi diễn những “dư nghĩa” (ý nghĩa thừa) của các thiên Thiên chí, hai thiên 5 Thất hoạn, 6 Từ quá; còn thiên 7 Tam biện thì diễn dư nghĩa của thiên Phi nhạc[32]. Đúng như Lương Khải Siêu nói, bốn thiên ấy tóm tắt những điểm chính của đạo Mặc. Vì vậy La Căn Trạch và Phương Thụ Sở đều cho là của Mặc gia đời sau viết (giữa hay cuối đời Chiến Quốc). Chỉ có Tiền Mục xét “văn khí” trong bốn thiên đó, ngờ là của người đời Tây Hán, nhưng La Căn Trạch chê Tiền Mục là nói vu vơ (sách đã dẫn – tr.172). Tổ II gồm 24 thiên: Tổ này lớn nhất (gồm 33 thiên, mất 9, còn 24), quan trọng nhất vì do môn đệ của Mặc tử chép lời giảng của ông, (có thể là chép trong khi Mặc còn sống), cho nên đáng tin nhất. Tổ này còn có thêm hai đặc điểm này nữa: - Các thiên trong tổ I không dùng những chữ “Tử Mặc tử” (Thầy Mặc tử) mà hầu hết các chương trong tổ II này (chỉ trừ thiên Phi công thượng và thiên Phi Nho hạ). - Tổ II gồm đề: Thượng hiền, Thượng đồng, Kiêm ái v.v… mà đề nào cũng gồm ba thiên: thượng, trung, hạ. Dưới đây là các thiên đánh số tiếp theo 7 thiên trong tổ I: 8-9-10- Thượng hiền /尚賢/[33] thượng, trung, hạ. 11-12-13- Thượng đồng /尚同/ thượng, trung, hạ. 14-15-16- Kiêm ái /兼愛/ thượng, trung, hạ. 17-18-19- Phi công /⾮攻/ thượng, trung, hạ. 20-21- Tiết dụng /節⽤/ thượng, trung, (mất hạ). 22- Tiết táng /節葬/ hạ (mất thượng, trung). 23-24-25- Thiên chí /天志/ thượng, trung, hạ. 26- Minh quỉ /明⻤/ hạ (mất thượng, trung). 27- Phi nhạc /⾮樂/ thượng (mất trung, hạ). 28-28-30- Phi mạng /⾮命/ thượng, trung, hạ. 31- Phi nho /⾮儒/ hạ (mất thượng trung). Theo Hàn Phi thì sau khi Mặc tử mất, Mặc học chia làm ba phái: phái của họ Tương Lí, phái của họ Tương Phu và phái của họ Đặng Lăng (Hàn Phi tử – Thiên Hiển học). Một số học giả đời Thanh như Du Việt và Lương Khải Siêu căn cứ vào thuyết đó mà đoán rằng mỗi đề tài trong tổ này sở dĩ chia làm ba thiên, ý và lời đại đồng tiểu dị, là do ba phái chép riêng lời của Mặc tử, rồi người đời sau thu thập hết cho đủ. Các thiên thượng, trung, hạ khác nhau nhiều về dài ngắn: xin coi bảng so sánh số chữ của mỗi thiên dưới đây do La Căn Trạch căn cứ vào bản đời Gia Tĩnh nhà Minh mà lập và cho in trong Chu tử khảo sách (tr.179). Trong đó đại khái giống bảng của Vệ Tụ Hiền do Phương Thụ Sở dẫn trong Mặc học nguyên lưu – trang 45, chỉ khác: Chúng ta nhận thấy có vài ba thiên trung nhiều chữ hơn thiên hạ, ngược lại cũng có vài ba thiên hạ nhiều nhiều chữ hơn thiên trung; nhưng hết thảy các thiên thượng đều ngắn hơn thiên trung, hạ rất nhiều (số chữ có khi chỉ bằng một phần ba, một phần tư), trừ thiên Phi mạng thượng là số chữ cao hơn hai thiên kia: có thể cổ nhân đã lầm: trung mà gọi là thượng chăng? Dài ngắn khác nhau thì tất nhiên ngôn luận trong các thiên cũng khác nhau. Chẳng hạn so sánh ba thiên Kiêm ái (coi phần dịch), chúng ta sẽ thấy thiên thượng chỉ diễn cái ý: loạn do không yêu nhau, người nào cũng chỉ nghĩ tới cái lợi riêng của mình mà ra; vậy muốn cho hết loạn thì phải kiêm ái, tức gồm yêu mọi người như yêu bản thân mình. Thiên trung cũng diễn ý đó, nhưng còn bác thêm lời những người không tin rằng có thể thi hành được thuyết kiêm ái vì nó khó quá, không thể làm được. Thiên hạ cũng diễn ý loạn do không yêu nhau mà ra; nhưng còn giảng thêm cái lợi của kiêm ái: tai mắt của mọi người sẽ thành tai mắt của mình, người già và trẻ em được nuôi nấng, săn sóc…; sau cùng bác lời của những người cho rằng thuyết kiêm ái không dùng được vì nó khó quá (như thiên trung), vì chọn kẻ sĩ kiêm ái thì được chứ làm sao chọn được vua kiêm ái, lại thêm nếu kiêm ái, coi cha mẹ người như cha mẹ mình, tức coi cha mẹ mình như người ngoài, như vậy là bất hiếu. Danh từ cũng có khi khác. Như ba tiêu chuẩn để nói năng, bàn luận, Phi mạng trung gọi là “tam biến”, Phi mạng hạ gọi là “tam pháp”; tiêu chuẩn thứ nhất, Phi mạng trung gọi là bản, Phi mạng hạ gọi là khảo. Xét kĩ thì những điểm khác nhau đó chỉ là đại đồng tiểu dị không sao tránh được khi ba người cùng thuật lại những tư tưởng mà Mặc tử có thể phô diễn trong những hoàn cảnh khác nhau, vào những thời khác nhau. Chúng ta có thể tin rằng những thiên trong tổ II này, trừ thiên Phi nho, ghi đúng những điểm cốt yếu trong học thuyết Mặc tử, và những thiện thượng do một người viết, những thiên trung, hạ cũng vậy, mà viết sau khi Mặc tử mất không lâu, còn ý kiến của Du Việt và Lương Khải Siêu chúng tôi dẫn ở trên (các thiên do ba phái Tương Lí, Tương Phu, Đặng Lăng chép) thì chỉ đáng gọi là giả thuyết thôi. Chúng tôi nói “trừ thiên Phi nho”, vì thiên này là thiên duy nhất trong tổ II mà ý kiến của các học giả chưa được nhất trí. Tất Nguyên, Lương Khải Siêu và Hồ Thích thấy đề tài Phi nho chỉ còn có một thiên hạ mà thiên này không gọi Mặc tử là thầy (Tử Mặc tử) nên ngờ là nguỵ thư. Tôn Di Nhượng cũng nghĩ vậy và còn đưa ra một lí do nữa: Mặc tử “Phi nho” chứ không “phi Khổng” (chê Khổng tử) mà trong thiên có nhiều lời chê Khổng tử, vậy không đáng tin. Uông Trung và La Căn Trạch nghĩ khác, bảo bài 15 thiên Công Mạnh chép lời Mặc tử cho đạo Nho có bốn chủ trương đủ làm mất thiên hạ: cho Trời là không sáng suốt, quỉ thần không thiêng; chôn cất hậu hĩ, để tang lâu; thích ca nhạc; tin có số mạng. Lời chê tuy đúng nhưng cũng thật là nặng. Mà đã chê Nho, thì tất nhiên là chê Khổng; phân biệt chê Nho và chê Khổng là điều gượng ép, vô lí. Vậy thiên 32 cũng là do một môn đệ ghi chép lời của thầy nữa. Ai cũng nhận rằng các thiên thượng, trung, hạ đều do môn đệ Mặc tử viết, nhưng thiên nào viết trước, thiên nào viết sau, thì chúng ta ế ế không biết được. Phương Thụ Sở bảo các thiên thượng viết sau vì gọn hơn. Lí lẽ đó chưa đủ vững. Tổ III gồm 6 thiên: 32-33- Kinh /經/ thượng, hạ 34-35- Kinh thuyết /經說/ thượng, hạ 36- Đại thủ /⼤取/ 37- Tiểu thủ /⼩取/ Sáu thiên đó không liên quan gì tới triết học chính trị của Mặc tử, mà do phái Biệt Mặc đời sau viết, cho nên chúng tôi để lại xét riêng trong một phần sau. Tổ IV gồm 5 thiên: 38- Canh Trụ /耕柱/ 39- Quí Nghĩa /貴義/ 40- Công Mạnh /公孟/ 41- Lỗ vấn /魯問/ 42- Công Thâu /公輸/ Năm thiên này do Mặc gia đời sau chép những cố sự mà họ nghe được về ngôn luận và hành vi của Mặc tử. Một số có thể là học trò của học trò Mặc tử, vì có bài tác giả gọi học trò của Mặc tử là “tử” (thầy), như Canh Trụ tử, Cao Thạch tử (Thiên Canh Trụ 1, 13); có bài tác giả còn gọi Cầm Hoạt Li, một môn đệ của Mặc tử là Tử Cầm tử nữa (Canh Trụ 13). Thể tài giống Luận ngữ, đọc cũng thú và bổ ích gần như Luận ngữ. Nhiều bài cho ta biết thêm về đời sống, tư cách và tư tưởng của Mặc tử. Đặc biệt là thiên Công Thâu (chỉ có ít bài), nghệ thuật chép truyện rất cao, đáng coi là áng văn bất hủ thời Chiến Quốc. Chúng tôi đã phân tích bài đó trong Chương III. Sau cùng, tổ V gồm 11 thiên: 43- Bị thành môn /備城⾨/ 44- Bị cao lâm /備⾼臨/ 45- Bị thê /備梯/ 46- Bị mộc[34] 47- Bị đột /備突/ 48- Bị huyệt /備⽳/ 49- Bị nghi phục[35] 50- Nghinh địch từ /迎敵祠/ 51- Kì Xí /旗幟/ 52- Hiệu lệnh /號令/ 53- Tạp thủ /襍守/ Mười một thiên này đều chép phép phòng bị quân địch. Chúng ta đã biết Mặc tử giỏi về thuật phòng ngự, đã chế tạo một số vũ khí, và đã chỉ cho nhóm Cầm Hoạt Li cách giữ thành Tống. Một số Mạc gia đời sau có thể đã chép lại những thuật đó thành 11 thiên trong tổ V. Nhưng có học giả[36] cho rằng 11 thiên đó là do người đời Hán nguỵ tạo. La Căn Trạch ở cuối bài Mặc tử thám nguyên (sách đã dẫn) bảo sẽ khảo riêng về niên đại trứ tác các thiên đó, nhưng chúng tôi không kiếm ra được; nên không biết ý kiến của ông ra sao. Tóm lại, muốn tìm hiểu triết lí chính trị Mặc tử, chúng ta cần phải đọc trước hết những thiên trong tổ II do học trò của ông viết sau khi ông mất không lâu (trừ thiên Phi nho hạ); rồi tới thêm những thiên trong tổ I, nhưng phải khéo nhận định tư tưởng nào thật của Mặc, tư tưởng nào chịu ảnh hưởng của Nho, Lão. Còn tổ III của phái Biệt Mặc, không liên quan gì tới học thuyết của Mặc, phải xét riêng, tổ V là một loại binh thư, càng phải để riêng nữa. Đó là ý kiến chung của những nhà viết về Mặc tử. Đường Kính Cảo cũng nghĩ như vậy, cho nên trong cuốn Mặc tử chỉ trích bốn thiên quan trọng trong tổ II và cả năm thiên trong tổ IV. CHƯƠNG V NGÔN NGỮ CỦA MẶC TỬ Chúng tôi không xét văn bản của Mặc tử vì Mặc tử không hề viết sách hoặc viết mà không hề lưu lại; cũng không xét văn bộ trong bộ Mặc tử vì bộ đó do nhiều người viết mà họ có thể sống cách nhau vài thế kỉ, cho nên có tổ văn nhuần nhã như tổ IV (đặc biệt là thiên Công Thâu), hoặc tổ I (bốn thiên 4-7); có tổ văn rất cô động, tới mức khó hiểu như tổ III (Kinh thượng, hạ, Đại thủ, Tiểu thủ); bút pháp khác xa tổ II. Vì vậy chúng tôi chỉ có thể phân tích ngôn ngữ của Mặc tử thôi. Ngôn ngữ đó đã được môn đệ Mặc tử ghi lại một cách trung thực trong tổ II (trừ thiên Phi Nho hạ). Chúng ta thử so sánh với đoạn đầu hai thiên Kiêm ái thượng và trung, sẽ thấy mức trung thực ra sao. Thượng: a/ Bậc thánh nhân trị thiên hạ, tất phải biết loạn do đâu mà phát ra thì mới trị được (…) Thử xét loạn do đâu mà phát. Phát ở chỗ không yêu nhau (…) b/ Con chỉ yêu mình mà không yêu cha cho nên mới làm thiệt hại cho cha để lợi cho mình; em chỉ yêu mình mà không yêu anh, cho nên mới làm thiệt hại cho anh để lợi cho mình; bề tôi chỉ yêu mình mà không yêu vua nên mới làm thiệt hại cho vua để lợi cho mình, như vậy gọi là loạn; (…) kẻ cướp chỉ yêu thân mình mà không yêu thân người, cho nên mới làm thiệt hại thân người để lợi cho thân mình; (…) các quan đại phu chỉ yêu mình mà không yêu nhà khác, cho nên mới làm loạn nhà khác để lợi cho mình; các chư hầu chỉ yêu nước mình mà không yêu nước khác, cho nên mới đánh chiếm nước khác để lợi cho nước mình. c/ Các việc loạn trong thiên hạ (…) xét nguyên do từ đầu đều do không yêu nhau mà ra cả. Trung: a/ Người nhân sở dĩ làm việc là để gây cái lợi cho thiên hạ, trừ cái hại cho thiên hạ (…) Cái hại do đâu mà ra?… Do không yêu nhau mà ra (…) ầ ấ b/ (…) Chư hầu không yêu nhau thì tất đem quân đánh nhau ở ngoài đồng; chủ nhà (ở đây trỏ các quan đại phu) không yêu nhau thì tất cướp lẫn nhau; người nọ không yêu người kia tất làm hại lẫn nhau, vua tôi không yêu nhau thì vua không huệ (gia ân cho dân), tôi không trung; cha con không yêu nhau thì cha không từ, con không hiếu; anh em không yêu nhau thì không hoà thuận; người trong thiên hạ không yêu nhau thì người mạnh tất áp chế người yếu, người giàu tất khinh khi kẻ nghèo, người sang tất ngạo mạn người hèn, người khôn lanh tất lừa gạt kẻ ngu. c/ Những tai hoạ, tranh cướp, oán hận trong thiên hạ sở dĩ nổi lên đều do không yêu nhau mà ra, cho nên bậc nhân giả chê cái đó. Chúng ta thấy đoạn mở a/ và đoạn kết c/ gần y hệt nhau, còn đoạn giữa b/, những thí dụ đưa ra cũng giống nhau, chỉ khác thứ tự ngược nhau mà thôi: Thiên thượng nói tới cha con trước rồi tới anh em, vua tôi, các người trong thiên hạ, các quan đại phu, sau cùng tới các vua chư hầu. Thiên trung nói tới các vua chư hầu rồi tới các quan đại phu, vua tôi, cha con, anh em, người trong thiên hạ. Chúng ta nên để ý: Mặc tử giảng về thuyết kiêm ái không phải chỉ một lần mà rất nhiều lần trong suốt đời ông, và tác giả hai thiên đó có thể tuổi tác khác nhau, nghe giảng vào hai lần cách nhau có thể tới hàng chục năm; nghe xong không chắc họ đã ghi lại ngay mà đợi khi thầy mất rồi mới ghi (nghĩa là có thể hàng chục năm sau); mà lời ghi chép của họ giống nhau như vậy thì phải nói là trung thực rất mực rồi. Thời đó ít dùng chữ viết nên kí tính người ta tốt. Một giáo sư ngày nay, năm năm trước giảng về Mặc tử cho một lớp sinh viên, năm năm sau cũng giảng bài đó cho một lớp khác, nếu không cầm “cua” cũ mà đọc thì lời giảng hai lần đó chưa chắc đã giống nhau như vậy. Cho nên chúng ta có thể căn cứ vào các thiên trong tổ II để biết ngôn ngữ, lối diễn thuyết của Mặc tử, mà không sợ lầm. Đầu thiên Ngoại trừ thuyết tả thượng, Hàn Phi chép một cố sự lí thú về việc một vua Sở (có lẽ là Sở Uy vương) chê lời lẽ của Mặc tử ố rườm, mà không văn nhã, tô chuốc. “Vua Sở hỏi Điền Cưu (một Mặc gia sống sau Mặc tử khoảng 100 năm): - Mặc tử là một học giả nổi danh, suốt đời tận lực làm việc, đáng khen lắm, nhưng lời nói rườm mà không nhã, tại sao vậy? Điền Cưu đáp: - Xưa Tần bá (Tần Mục công) gả con gái cho công tử nước Tấn (Trùng Nhĩ), trang sức cho cô dâu, đưa theo bảy chục thiếu nữ bận áo gấm làm nàng hầu. Tới Tấn, người Tấn yêu những người thiếp đó mà coi thường con gái Tần bá. Như vậy có thể bảo là khéo gả các nàng thiếp[37] mà không khéo gả con gái. Nước Sở có người bán hạt châu qua nước Trịnh, làm cái hộp bằng gỗ mộc lan, xông bằng quế, tiêu cho thơm, điểm xuyết bằng châu ngọc, trang sức bằng ngọc mai khôi (một loại ngọc màu đỏ), lót bằng lông chim trả. Người nước Trịnh mua cái hộp mà trả lại châu. Như vậy có thể bảo là khéo bán cái hộp mà không khéo bán hạt châu. Ngày nay người ta thảo luận đều thích dùng lời khéo léo, văn hoa, bậc vua chúa thấy cái văn hoa mà quên rằng những lời đó vô dụng. Thuyết của Mặc tử truyền lại đạo của tiên vương, luận lời của thánh nhân để tuyên cáo cho mọi người. Nếu dùng những lời văn nhã thì sợ người ta chỉ nhớ tới cái văn hoa mà quên cái hữu dụng của học thuyết, như vậy tức là lấy văn hoa làm hại cái hữu dụng, không khác việc người nước Sở bán hạt châu, Tần bá gả con gái. Vì vậy mà lời của Mặc Tử rườm mà không văn nhã”. Lời nhận định của ông vua Sở đó đúng. Chúng tôi xin dẫn đoạn đầu trong thiên Phi công thượng mà các nhà viết văn học sử Trung Quốc thường coi là tiêu biểu cho “văn” nghị luận của Mặc tử: “Nay có một kẻ vào vườn người ta hái trộm đào, mận, ai nghe thấy cũng chê, nhà cầm quyền biết được thì trừng phạt. Tại sao vậy? Tại kẻ ấy lấy của người làm lợi cho mình. Đến khi cướp gà, chó, heo của người ta thì việc bất nghĩa còn nặng hơn vào vườn hái trộm đào, mận. Tại sao vậy? Tại làm thiệt hại cho người ta nhiều hơn, tội nặng hơn. Đến khi vào chuồng bò chuồng ngựa bắt bò bắt ngựa của ấ ấ ề người ta thì việc bất nhân, bất nghĩa nhiều hơn, tội nặng hơn là cướp gà, chó, heo của người ta. Tại sao vậy? Tại làm hại cho người ta nhiều hơn. Làm hại cho người ta nhiều hơn thì sự bất nhân nhiều hơn, tội nặng hơn. Đến khi giết người vô tôi để lột áo vải áo da, lấy ngọn mác thanh kiếm của người ta thì việc bất nghĩa còn nặng hơn vào chuồng bò chuồng ngựa của người ta. Tại sao vậy? Tại làm hại người ta nhiều hơn. Làm hại nhiều hơn thì sự bất nghĩa nhiều hơn, tội nặng hơn. Những việc đó, các bậc quân tử trong thiên hạ đều biết là quấy mà chê, bảo là bất nghĩa; nay các việc đại bất nghĩa là đánh chiếm nước người lại không biết chê là quấy, còn khen nữa, bảo là nghĩa. Như vậy có thể bảo là phân biệt được nghĩa với bất nghĩa không?…”[38] Bảo là rườm quá thì quả thật đoạn đó quá rườm, mà đoạn sau, cho tới hết thiên thì cũng vậy. Có thể rút đi tám phần mười mà vẫn diễn được ý, chẳng hạn: “Các bậc quân tử trong thiên hạ chê việc ăn trộm đào mận, cướp gà chó là bất nghĩa mà trừng trị; vậy mà cái việc đại bất nghĩa là đánh chiếm nước người thì đã không chê, lại còn khen là nghĩa, như vậy là không phân biệt được nghĩa với bất nghĩa”. Lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong văn học Trung Quốc thời Tiên Tần, chúng ta gặp một lối văn nghị luận như vậy. Nhưng chúng ta nên tìm hiểu vì đâu có lối “văn” đó và công dụng của nó ra sao. Chúng ta đã biết Mặc tử không viết văn, ông chỉ diễn giảng cho môn sinh hoặc diễn thuyết cho công chúng. Vậy đoạn trên phải là ngữ ngôn (langage parlé) chứ không phải là văn ngôn (langage écrit); vì môn sinh ghi lại đúng, đời sau gom thành sách, nên gọi là “văn”. Nói là để thuyết phục; muốn thuyết phục được người nghe thì lời nói phải sáng sửa, (họ không có thì giờ suy nghĩ); phải dùng những thí dụ cụ thể mọi người đều thấy, tránh những cái trừu tượng; lại phải lập đi lập lại cho người ta nhớ; và đặt những câu hỏi để gợi ý cho thính giả, khiến thính giả tích cực dự vào cuộc đàm luận, nhờ vậy mà không chán. ấ ể Mặc tử đã dùng tất cả những thuật đó trong đoạn kể trên. Chủ ý của ông là mạt sát thói đánh chiếm nước khác của các vua chúa, cho nó là đại bất nghĩa. Ông không lí thuyết trừu tượng gì cả, đột ngột đưa ngay ra một thí dụ cụ thể ai cũng biết, là việc hái trộm đào mận. Rồi tới thí dụ thứ nhì là cướp gà, chó, heo; thí dụ thứ ba: bắt bò, ngựa; thí dụ thứ tư: giết một người vô tội để cướp áo và khí giới. Bốn thí dụ đó trình bày theo một tuần tự tiệm tăng, từ nhẹ tới nặng. Cứ sau mỗi thí dụ ông lại hỏi thính giả: Tại sao việc đó đáng chê? Rồi ông tự đáp: Tại làm hại cho người để làm lợi cho mình. Ông lập lại bốn lần câu hỏi, đập vào óc thính giả, khiến độc giả nhớ rằng hễ bất nghĩa nhiều hơn thì tội nặng hơn. Cuối cùng ông mới đưa ra việc đánh nước người, việc bất nghĩa nặng nhất mà các vua chúa đã không chê, lại còn khen. Lời thật sáng sủa, nghe tới đâu hiểu tới đấy, mà cũng nhớ tới đấy[39]. Vậy điều mà vua Sở chê là rườm, chính là chỗ dụng ý, chính là sở trường của Mặc tử, nhờ nó ông thuyết phục được thiên hạ, có nhiều môn sinh, khiến Mạnh tử phải nhận rằng học thuyết của ông lan tràn thiên hạ. Đọc những thiên trong tổ II (trừ thiên Phi Nho hạ) chúng ta thấy Mặc tử luôn luôn dùng thuật thuyết đó, và có lúc chúng ta cũng thấy chán, nhưng hạng bình dân thời ông nghe vài ba lần giảng về Phi công, Kiêm ái, Tiết dụng… thì nhất định là phải mê ông… Ông là chính trị gia duy nhất biết nói trước công chúng. Mà thuật lập lại và đặt câu hỏi của ông cũng là của các giáo chủ như Thích Ca, Ki Tô… Vua Sở còn chê lời ông không văn nhã. Cũng đúng nữa. Và đây cũng là một nét độc đáo, một sở trường của ông. Ông sinh trong giới bình dân, có ngôn ngữ bình dân; muốn thuyết phục bình dân, ông càng phải dùng những tiếng thông tục vì vậy mà kém văn nhã. Trong tổ II, nhất là các thiên Thượng hiền, Phi công, Tiết táng, Phi nhạc, chúng ta thường gặp những chữ 唯⽏ (duy vô), 虽⽏ (tuy vô) [40] không có nghĩa gì cả. Thí dụ[41]: /古者聖⼈”唯⽏”得贤⼈⽽使之 (Cổ giả thánh nhân[42]“duy vô” đắc hiền nhân nhi sử chi) / (Thượng hiền trung). /賢⼈”唯⽏”得明君⽽事之 (Hiền nhân “duy vô” đắc minh quân nhi sự chi)/ (n.t) /今師徒”唯⽏”興起,冬⾏恐寒,夏⾏恐暑 (Kim sư đồ “duy vô” hưng khởi, đông hành khủng hàn, hạ hành khủng thử)/ (Phi công trung) /今”唯⽏”以厚葬久喪者為政 (Kim “duy vô” dĩ hậu táng cửu tang giả vi chính)/ (Tiết táng hạ) /今王公⼤⼈,”雖無”造為樂器,以為事乎國家 (Kim vương công đại nhân, “tuy vô” tạo vi nhạc khí, dĩ vi sự hồ quốc gia)/ (Phi nhạc thượng) Những chữ đó, các nhà hiệu đính thời xưa không hiểu nghĩa, đoán là chép sai, sửa lại là (quán) hoặc (vụ), nhưng không ổn, mãi sau mới có người[43] đoán được rằng chỉ là những tiếng thông tục thời Mặc tử, không có nghĩa gì cả, bộ Mặc tử dùng chúng lần đầu tiên để cho lời nói có giọng bình dân; rồi bộ Quản tử cũng dùng theo. (Coi Phương Thụ Sở – sách đã dẫn – tr.48). Cho những chữ đó chỉ thêm ngữ khí chứ không có nghĩa thì những câu chữ Hán chúng tôi dẫn ở trên hoá ra sáng sủa: Các thánh vương đời xưa được người hiền để sai bảo. Các hiền nhân được minh quân để thờ. Nay dấy binh vào mùa đông thì sộ lạnh, vào mùa hè thì sợ nóng. Nay theo chính sách ma chay hậu hĩ, để tang lâu… Nay các vương công đại nhân chế tạo nhạc khí để dùng trong nước… Ngoài ra, những chữ 可⽽ /khả nhi/[44] cũng thường thấy và có lẽ cũng chỉ là những tiếng thông tục không có nghĩa gì cả. Như: /使天下之為善者可⽽勸也,為暴者可⽽沮也。然則此尚賢者 也,與堯舜禹湯⽂武之道同矣 Sử thiên hạ chi vi thiện giả khả nhi khuyến dã, vi bạo giả khả nhi tự dã. Nhiên tắc thử thượng hiền giả dã, dữ Nghiêu Thuấn Vũ Thang Văn Vũ chi đạo đồng hĩ/[45] (Thượng hiền hạ) - Đạo của vua Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ khuyến khích những người làm điều thiện trong thiên hạ, ngăn cản những người làm điều tàn bạo trong thiên hạ. …[焉⽽]得罪,將惡避逃之[46] /Yên nhi đắc tội, tương ố tị đào chi/ …mắc tội thì trốn đi đâu được. Lại thêm, khi dẫn sách cổ, Mặc tử cũng thêm một vài chữ cho dễ hiểu hoặc hợp với ngôn ngữ đương thời. Phương Thụ Sở đưa ra thì dụ: Thiên Phi công trung, dẫn câu này trong Kinh Thi: ⿂⽔不務,陸將何及乎! /Ngư thủy bất vụ, lục tương hà cập hồ!/ Thiên Kiêm ái hạ dẫn một câu trong Tiểu nhã (Kinh Thi): 君⼦之所履,⼩⼈之所視 /Quân tử chi sở lí, tiểu nhân chi sở thị/ Một câu trong Đại nhã (Kinh Thi): ⽆⾔⽽不雠,⽆德⽽不报 /Vô ngôn nhi bất thù, vô đức nhi bất báo/ Những chữ 乎 /hồ/, 之 /chi/, ⽽ /nhi/ trong ba câu đó đều do Mặc tử thêm, như vậy là đổi thơ ra thành văn xuôi. Chữ 也 /dã/[47] trong những câu dưới đây cũng vậy: ⼩⼈⾒姦巧,乃聞不⾔也 /Tiểu nhân kiến gian xảo, nãi văn bất ngôn dã/ (Thiên Thái thệ, dẫn trong thiên Thượng đồng hạ) 予⾮爾⽥野葆⼠之欲也,予共⾏天之罰也 /Dư phi nhĩ điền dã bảo sĩ chi dục dã, dư cộng hành thiên chi phạt dã/ (Thiên Vũ thệ, dẫn trong thiên Minh quỉ hạ). Vậy Mặc tử dùng những lời thông tục, nhiều ví dụ cụ thể và lặp đi lập lại nhiều câu, không ngại rườm, mục đích là để “truyền cái đạo của tiên vương… mà tuyên cáo cho mọi người” như Điền Cưu nói. Ô ể Ông không dùng những lời văn nhã, có thể là vì sợ người ta chỉ “nhớ cái văn hoa mà quên cái hữu dụng”, nhưng trước hết là để giới bình dân hiểu ông, có vậy học thuyết của ông mới truyền bá rộng được. PHẦN NHÌ HỌC THUYẾT MẶC TỬ CHƯƠNG I UYÊN NGUYÊN Trong thiên Hiển học, Hàn Phi bảo: “Khổng tử và Mặc tử đều xưng tụng Nghiêu, Thuấn mà chủ trương khác nhau, và đều tự cho là chân truyền của Nghiêu, Thuấn. Nghiêu, Thuấn không thể sống lại thì ai là người quyết định được học thuyết nào mới thực là của Nghiêu, Thuấn”. Tư Mã Đàm, cha Tư Mã Thiên, theo bài Tự tự[48] trong bộ Sử kí, không bảo rằng Mặc tử tự cho là chân truyền của Nghiêu, Thuấn nhưng cũng đồng ý là Mặc tử trọng Nghiêu, Thuấn, khen hai ông ấy là sống giản dị, cực khổ nữa: nhà lợp bằng cỏ tranh không xén, cột rui bằng gỗ không đẽo, ăn cơm gạo xấu với canh rau lê, rau hoắc, mùa đông mặc áo da hươu, da nai, mùa hè bận áo vải thô, chết thì dùng quan tài bằng gỗ đồng (một thứ gỗ xấu) dày ba tấc. Đọc bộ Mặc tử chúng ta không thấy chỗ nào Mặc tử tự cho mình là “chân truyền” của Nghiêu, Thuấn. Ông còn nhắc tới Nghiêu, Thuấn sáu bảy lần, một lần trong thiên Tiết táng hạ, bảo hai ông ấy khi chết đều chôn cất giản dị, liệm bằng ba bộ áo, quan tài bằng gỗ dó[49], cột bằng dây sắn, hạ huyệt rồi đắp đất chứ không đắp nấm. Theo truyền thuyết, vua Nghiêu trị vì 100 năm, từ 2357 đến 2257, rồi nhường ngôi cho vua Thuấn chứ không truyền lại cho con. Vua Thuấn trị vì từ 2255 đến 2207, rồi nhường ngôi cho vua Vũ (nhà Hạ) chứ không truyền ngôi cho con. Hai ông ấy rất thương dân, rất bình dân, được dân coi như cha. Và dân tộc Trung Hoa từ thời Tiên Tần đến thời Thanh, đều coi thời thịnh trị của Nghiêu, Thuấn là hoàng kim thời đại của họ. Truyền thuyết đó đáng tin đến mức nào, chưa ai quyết đoán được; có thể hai ông ấy chỉ là tù trưởng của một bộ lạc lớn thời mà Trung Hoa mới biết canh tác, theo chế độ thị tộc, chưa thành một quốc gia, mà việc “truyền hiền” chứ không “truyền tử” chỉ là tục chung của các bộ lạc chứ không phải là “đức lớn” của Nghiêu, Thuấn: khi họ chết thì lựa người nào có tài, có công lớn hơn cả, đưa lên thay họ, họ không có quyền truyền ngôi cho ai hết[50]. Mà thời đó, dân tộc Trung Hoa còn dã man, mới qua cái giai đoạn ăn lông ở lỗ, cho nên Nghiêu, Thuấn tất phải sống cực khổ như vậy, đâu có gì đáng khen. Và nếu chỉ vì Mặc tử khen Nghiêu, Thuấn mà bảo học thuyết của ông bắt nguồn từ đạo Nghiêu, Thuấn thì cũng có thể bảo các triết gia khác đời Tiên Tần, từ Khổng, Mạnh, tới Lão, Trang, Liệt tử, và cả Hàn Phi nữa cũng bắt nguồn từ Nghiêu, Thuấn vì chính Hàn Phi cũng có lần khen hai ông vua đó. Cuối đời Xuân Thu và đời Chiến Quốc, nông nghiệp và công nghiệp phát triển mạnh, nên xã hội biến chuyển dữ dội về kinh tế cũng như về phong tục, văn hóa nên các triết gia tiết xã hội ổn định, đời sống nhàn nhã, ít phải lo lắng của thời bộ lạc, cũng như ngày nay nhiều người Âu chán đời sống ồn ào, bận rộn, bất ổn của thời đại kĩ nghệ mà nhớ tiếc thời còn văn minh nông nghiệp. Vì vậy mà Mặc tử thỉnh thoảng nhắc tới Nghiêu, Thuấn, thế thôi, chứ không thể bảo ông là đệ tử xa của Nghiêu, Thuấn, những người sống trước ông trên dưới hai ngàn năm được. Thuyết của Hàn Phi và Tư Mã Đàm phải bỏ. Thuyết thứ nhì do tác giả thiên Thiên hạ trong bộ Trang tử đưa ra, rồi Hoài Nam tử trong Yếu lược huấn chấp nhận; và nhiều học giả ngày nay (như Liu Wu Chi[51] trong La philosophie de Confucius – Payot – 1963) cũng tán đồng. Tác giả thiên đó[52] viết: “Mặc tử bênh vực đạo của mình, bảo: “Thời xưa vua Vũ trị lụt, khai thông sông rạch, khiến cho nước chảy ra bốn cõi rợ và khắp chín châu Trung Quốc. Thời đó có ba trăm con sông lớn, ba ngàn chi lưu, còn rạch nhỏ thì vô số. Vua Vũ đích thân cầm sọt, cầm cuốc để khai thông cho nước các sông nhỏ theo dòng chảy ra sông lớn, cực khổ đến nỗi đùi teo lại, ống chân không còn một sợi lông, xông pha gió mưa để dựng nước. Ông là bậc đại thánh mà lao khổ phục dịch cho thiên hạ như vậy đấy”. Mặc tử nói như vậy, cho nên Mặc gia đời sau nhiều người mặc áo bằng da và vải thô, đi giày dép bằng gỗ hoặc cỏ, làm việc suốt ngày đêm không nghỉ, cho sống khắc khổ là lí tưởng tối cao, bảo: “Không vậy thì không phải là theo đạo vua Vũ, không đáng là môn đồ Mặc tử”. ế ố ầ Thế là chúng ta lùi xuống được mười năm, gần đời Mặc tử được một chút vì cũng theo truyền thuyết, vua Vũ được vua Thuấn truyền ngôi và làm thiên tử từ 2205 tới 2197. Ông Vũ đó sống vào thời hồng thuỷ, không biết có đồng thời với ông già Noé không, nhưng có công với dân tộc Trung Hoa hơn Noé với người phương Tây nhiều vì Noé chỉ đóng một chiếc thuyền để cứu một số người và một số loài vật còn Vũ đã có công trị thuỷ tám năm, ba lần đi qua nhà mà không vào (Mạnh tử – Đằng Văn Công thượng – bài 4). Mặc tử cũng có mười lần nhắc tới ông; ngay trong thiên Tiết táng hạ, sau khi khen Nghiêu, Thuấn, cũng khen ông là khi mất, chỉ liệm bằng ba bộ áo, quan tài bằng gỗ vông dày ba tấc, cột bằng dây sắn, y như Nghiêu, Thuấn. Lại thêm, Mặc tử đã noi gương vua Vũ, cực khổ phục dịch thiên hạ, có phần nhiều hơn, suốt đời chứ không phải tám năm, tới “mòn trán lỏng gót” chứ không chỉ teo ống chân mà thôi. Nhưng bấy nhiêu cũng chưa đủ cho ta kết luận rằng học thuyết của Mặc tử bắt nguồn từ vua Vũ. Thuyết thứ hai này cũng y hệt thuyết thứ nhất, không thể chấp nhận được. Thuyết thứ ba trong Lữ thị Xuân Thu, kéo lui được khoảng ngàn rưỡi năm, xuống đời Hoàn vương nhà Chu, nhưng như ở đầu chương II phần I chúng tôi đã nói, thuyết đó không thể tin được, vì có điểm mâu thuẫn về niên đại. Tới đời Thanh, xuất hiện thêm một thuyết nữa của Uông Trung. Đại khái, theo Phương Thụ Sở (sách đã dẫn – tr.73) thì Mặc tử khi nhắc đến đời Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ, nhưng không theo một đời nào cả. Nghiêu, Thuấn, Vũ có phép chôn cất của họ, Mặc có phép chôn cất của mình (đắp nấm chứ không đắp bằng huyệt rồi thôi, nhưng nấm nhỏ, hễ nhận được mộ là đủ) vừa giản tiện vừa tỏ được lòng hiếu, có lợi cho cả người chết lẫn người sống, nhất là phải tránh xa hoa quá mức của đời Chu (coi chương sau). Nghĩa là Mặc tử tìm hiểu, suy nghĩ, có chủ trương riêng, chứ không theo ai hết. Thuyết này có lí hơn cả. Như trên chúng tôi đã nói, Mặc tử sinh ở nước Lỗ, có lẽ sau khi Khổng tử mất, chắc chắn biết được đạo Khổng (ông thường dẫn Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Xuân Thu); nhưng thời đại của ông loạn hơn, bọn cần quyền tàn nhẫn, xa xỉ hơn, bình dân cực khổ hơn, ế ố ổ ổ ề chiến tranh tàn khốc hơn thời Khổng tử, mà ông khác Khổng tử về giai cấp – ông là tiện nhân, Khổng tử là quí tộc sa sút – về tính tình: nhiệt tâm hơn, bồng bột hơn, cương quyết hơn, cho nên một mặt chịu ảnh hưởng của Khổng, một mặt chê đạo Nho, muốn cải cách nó, sáng tạo ra một đạo mới; giống Nho ở chỗ tôn quân, trọng hiền, đề cao đạo đức và sự tu thân; mà chống Nho ở chỗ ghét những lễ nghi phiền phức, xa xỉ, ghét ca nhạc, không tin có số mạng; ông mở đường cho Lão tử (Lão tử sinh sau ông khoảng nửa thế kỉ), chủ trương bình đẳng giữa các giai cấp và trở về lối sống bình dị của thời cổ (Lão tiến xa hơn ông, muốn trở về đời sống nguyên thuỷ); mở đường cả cho các pháp gia thời sau nữa, vì ông trọng tinh thần thực dụng, trọng quyền lực, trọng sự lao động, và bắt người dưới phải thống nhất tư tưởng với người trên. Sau cùng, điểm này lạ lùng nhất: ông thành lập gần như được một tôn giáo, một đạo quân chuyên đi cứu các nước yếu bị các nước lớn uy hiếp. Trước ông có một học thuyết nào tương tự như vậy đâu, mà rốn công đi tìm uyên nguyên của nó từ thời Nghiêu, Thuấn, Vũ. Trong phần này chúng tôi sẽ phân tích những tư tưởng chính trị cùng kinh tế của ông. CHƯƠNG II LỢI VÀ NGHĨA Từ xưa tới nay, hễ nhắc tới Mặc tử thì ai cũng nghĩ ngay đến thuyết kiêm ái: mọi người đều yêu nhau như chính bản thân mình, không phân biệt người và ta: kiêm ái là gốc, còn “tôn thiên” (tôn kính trời), “minh quỉ” (tin có quỉ thần), “tiết dụng” (bớt tiêu xài), “phi nhạc” (chê nhạc là vô ích, có hại), “phi công” (mạt sát sự đánh chiếm nước người)… chỉ là những chi nhánh thôi. Cứu loạn cho thiên hạ là mục đích của tất cả triết gia Trung Hoa thời Tiên Tần. Chế độ phong kiến Trung Hoa rất đặc biệt, không nơi nào có. Vua nhà Chu làm thiên tử, phong tước cho các công thần, thân thích. Có bốn bậc: công, hầu, bá, tử với nam cùng một bậc. Tuỳ tước cao thấp mà cấp đất để dựng nước (thời đó gọi là bang, từ đời Hán, kiêng tên Lưu Bang mới gọi là quốc): đất của công, hầu vuông vức trăm dặm; đất của các bá bảy chục dặm, các tử và nam năm chục dặm (theo nguyên tắc đất của thiên tử ngàn dặm). Binh lực cũng được qui định: công, hầu có ngàn cổ chiến xa (mỗi chiến xa có bốn ngựa, một người đánh xe, một quân cầm thương, một quân bắn cung), dưới nữa thì có trăm chiến xa (thiên tử có vạn chiến xa). Hết thảy các nước đó đều là chư hầu. Họ có bổn phận trung thành với thiên tử, đúng kì hạn phải triều cống thiên tử. Ngược lại các thiên tử có bổn phận che chở, giúp đỡ, giải quyết những xung đột giữa các chư hầu vì họ không được gây chiến với nhau. Cứ năm năm một lần thiên tử đi thăm họ, xem xét chính tích của họ, tình hình trong xứ: đời sống của dân chúng, lễ nhạc, giáo hoá, phong tục. Nhờ chế độ đó mà Trung Hoa đã thống nhất đời Chu, cho nên trong Kinh Thi (thiên Bắc Sơn, tập Tiểu Nhã) có câu: “Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ, suất thổ chi tân, mạc phi vương thần”[53]. Khắp gầm trời không đâu không phải đất của nhà vua, khắp mặt đất bến nước, không người nào không phải là bề tôi của vua. (Coi bài Đông Chu 10 – Chiến Quốc sách – Lá Bối 1973). Cho nên quan niệm “quốc gia” của chúng ta ngày nay, thời Chiến Quốc người Trung Hoa không có. Khổng tử, Mặc tử sinh trưởng ở Lỗ, Mạnh tử ở Trâu, sát Lỗ, mà đều không coi Lỗ, Trâu là “quốc gia” ế ề của mình, nếu không được vua dùng mình, thì không ngại gì qua Tề, Tống, Vệ… để tìm một ông vua khác, và khi đã làm quan một nước nào thì cũng nhắm mục đích phục vụ cho cả thiên hạ. Chữ thiên hạ của Trung Hoa trỏ họ và tất cả những dân tộc mà họ tiếp xúc thời đó, có nghĩa tương tự như thế giới ngày nay. Vậy Mặc tử không phải là triết gia đầu tiên muốn thống nhất Trung Hoa. Các triết gia khác cũng muốn vậy, và để thực hiện ý tưởng chung đó, mỗi nhà có một chủ trương riêng. Chủ trương của Mặc tử có nhiều điểm khác đời (chúng tôi sẽ lần lượt xét trong phần này); theo chúng tôi, điểm đặc biệt nhất – là ông can đảm nói hoài đến lợi, trong khi các triết gia khác, đặc biệt là Nho gia, rất ít nói tới, có khi khinh bỉ không thèm nói tới nữa. Lật bộ Luận ngữ, chúng tôi chỉ thấy chữ lợi xuất hiện hai lần[54]: Thiên Tử Lộ, bài 17, Khổng tử khuyên Tử Hạ trong việc trị nước: “Vô dục tốc, vô kiến tiểu lợi. Dục tốc tắc bất đạt; kiến tiểu lợi tắc đại sự bất thành”[55]. (Đừng muốn cho mau xong, đừng ham lợi nhỏ. Muốn[56] cho mau xong thì công việc không được chu đáo; ham cái lợi nhỏ thì việc lớn không thành). Và thiên Lí nhân, bài 16: “Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi”[57]. (Bậc quân tử tinh tường về việc nghĩa, kẻ tiểu nhân rành rẽ về việc lợi). Còn bộ Mạnh tử thì ngay ở trang đầu, chúng ta đã thấy Mạnh tử trách Lương Huệ vương là chỉ nghĩ đến lợi, không nghĩ đến nhân nghĩa: “Vương hà tất viết lợi? Diệc hữu nhân nghĩa nhi dĩ hĩ”[58]. – Lương Huệ vương thượng, bài 1. Trong những thiên tiếp theo, ông còn mạt sát lợi nhiều hơn nữa để đề cao nhân, nghĩa. Còn hơn Khổng tử, ông tách lợi với nghĩa ra, hai chữ đó chống nhau, hễ có lợi thì không có nghĩa, lợi làm hại cho nghĩa. Mặc tử trái lại, nói đến lợi không biết mấy chục lần: Thiên Phi mệnh hạ, ông bảo hễ nói năng, bàn luận thì theo ba tiêu chuẩn quan trọng nhất là xem điều mình nói có lợi cho vạn dân không. ế Thiên Tiết dụng thượng: “Thánh nhân trị nước, khi ra lệnh làm một việc gì, khiến dân dùng của cải, thì xem xét việc đó có ích không rồi mới làm, vì vậy mà không phí của cải, không mệt sức dân lại lợi được nhiều”. Thiên Phi nhạc thượng: “Người nhân làm việc gì tất là mong lấy cái lợi, trừ cái hại trong thiên hạ, mà lấy điều dưới đây làm phép tắc cho thiên hạ: cái gì lợi cho người thì làm, không lợi thì ngưng” (Nhân giả chi sự, tất vụ cầu hưng thiên hạ chi lợi, trừ thiên hạ chi hại, tương dĩ vi pháp hồ thiên hạ, lợi nhân hồ tức vi, bất lợi nhân hồ tức chỉ[59]). Thiên Kiêm ái trung, lời cũng y hệt vậy: “Người nhân sở dĩ làm việc là để gây cái lợi, trừ cái hại cho thiên hạ” (Nhân nhân chi sở dĩ vi sự giả, tất hưng thiên hạ chi lợi, trừ khử thiên hạ chi hại[60]). Trong hai câu cuối mới dẫn, ông đồng hoá lợi với nhân: người nhân làm người làm lợi cho thiên hạ. Vì vậy hễ nói đến kiêm ái (nhân) thì ông thường kèm theo “giao tương lợi” (gồm yêu nhau, làm lợi lẫn cho nhau). Trong thiên Thiên chí[61], ông đồng hoá lợi với nghĩa nữa: “Nghĩa là cái gì chính đáng. Sao biết nghĩa là chính đáng? Thiên hạ có lợi thì trị, vô nghĩa thì loạn. Ta lấy đó mà biết rằng nghĩa là cái gì chính đáng” (Nghĩa giả chính giả. Hà dĩ tri nghĩa chi vi chính giả? Thiên hạ hữu lợi tắc trị, vô nghĩa tắc loạn. Ngã dĩ thủ tri nghĩa chi vi chính dã[62]). Độc giả nhận thấy ông không phân biệt nghĩa và lợi cho nên mới nói: hữu lợi tắc trị, vô nghĩa tắc loạn. Mạnh tử tất nói khác: hữu lợi tắc trị, vô nghĩa tắc loạn. Mặc tử cũng trọng nhân, nghĩa như Khổng, Mạnh. “Kiêm ái” của ông tức là “nhân” sửa đổi, mở rộng ra; còn nghĩa thì cũng như Mạnh tử, ông quí nó hơn mạng người. Mạnh tử bảo: “Sống thì ta cũng muốn, mà nghĩa thì ta cũng mộ. Nếu không được cả hai một lượt thì ta đành bỏ mạng sống mà giữ lấy nghĩa” (Cáo tử thượng – 10). Mặc tử bảo: “Mọi sự không gì quí bằng nghĩa. Nay thử bảo một người: “Tôi cho ông mũ và giày mà chặt tay chân ông, ông chịu ấ không?” Người đó tất không chịu. Tại sao? Tại mũ giày không quí bằng tay chân. Lại bảo: “Tôi cho ông cả thiên hạ mà giết ông, ông chịu không? Người đó tất không chịu. Tại sao? Tại thiên hạ không quí bằng thân thể mình. (Nhưng người ta) tranh nhau một lời mà giết nhau, thế là quí nghĩa hơn thân thể (sinh mạng). Cho nên tôi bảo: “Mọi sự không gì quí hơn nghĩa”. Lí luận của Mặc tử không đúng. Tranh nhau một lời mà giết nhau, chưa chắc đã vì quí nghĩa, mà nhiều khi chỉ vì hiếu thắng. Nhưng chúng ta nên nhớ là ông cho nghĩa quí hơn mọi sự ở đời (Vạn sự mạc quí ư nghĩa). Mặc tử đã đồng hoá lợi với nghĩa, coi lợi với nghĩa là một, mà lại cho nghĩa quí hơn mọi sự ở đời thì tất cũng coi lợi quí hơn mọi sự ở đời. Cái lợi đó tất không phải là tư lợi. Không một triết gia nào của Trung Hoa mà không mạt sát tư lợi – chúng tôi không kể các pháp gia. Thiên Kiêm ái thượng, khi xét nguồn gốc của loạn, Mặc bảo: “Các quan đại phu chỉ yêu nhà mình mà không yêu nhà khác, cho nên mới làm loạn nhà khác để lợi cho nhà mình; các vua chư hầu chỉ yêu nước mình mà không yêu nước khác, cho nên mới đánh chiếm nước khác để lợi cho nước mình. Các việc loạn trong thiên hạ đều như vậy mà thôi”. (Đại phu các ái kì gia, bất ái dị gia, cố loạn dị gia, dĩ lợi kì gia; chư hầu các ái kì quốc, bất ái dị quốc, cố công dị quốc, dĩ lợi kì quốc. Thiên hạ chi loạn vật, cụ thử nhi dĩ hĩ[63]). Đời sau, Mạnh tử cũng diễn ý đó, chỉ có lời là khác: “Nhà vua, tức Lương Huệ vương – hỏi: Có các gì làm lợi cho nước ta? Các quan đại phu cũng hỏi: Có cách gì làm lợi cho nhà ta? Kẻ sĩ và thường dân cũng hỏi: Có cách gì làm lợi cho thân ta? Trên dưới đều tranh nhau vì lợi mà nước sẽ nguy”. (Vương viết: Hà dĩ lợi ngô quốc? Đại phu viết: Hà dĩ lợi ngô gia? Sĩ thứ nhân viết: Hà dĩ lợi ngô thân? Thượng hạ giao chính lợi nhi quốc nguy hĩ[64]). Ngay việc một ông vua làm lợi cho nước, cho dân mà Mạnh tử cũng chê, y như Mặc tử. Cả hai đều muốn làm lợi cho khắp thiên hạ, chứ không phải cho riêng một nước nào, một dân tộc nào. Thiên Công tôn Sửu hạ, bài 12, Mạnh tử bảo một môn sinh là Cáo Tử: “Nếu nhà vua – Tề Tuyên vương – biết dùng thầy thì thầy sẽ làm cho nước Tề an cư lạc nghiệp mà toàn dân trong thiên hạ cũng được vui cảnh thái bình nữa”. Và ông rầu rầu nói với một đệ tử khác là Sung Ngu: “Trời chưa muốn thiên hạ được bình trị; nếu muốn thì ở thời này, ngoài ta ra còn ai giúp được?” (Thiên vị dục bình trị thiên hạ dã; như dục bình trị thiên hạ, đương kim chi thế, xả ngã kì thuỳ dã[65] – Công tôn Sửu hạ, 13). Mặc tử, thiên Phi công trung, chép rằng một người bênh vực chính sách đánh chiếm nước người, bảo bốn nước Sở, Ngô, Tề, Tấn nhờ chính sách đó mà mở rộng đất đai lên tới ngàn dặm, tăng số dân từ vài chục vạn lên mấy triệu người, Mặc tử đáp: “Tuy bốn năm nước được lợi đấy, tôi vẫn cho rằng như vậy không phải là theo đạo. Cũng tỉ như nghề dùng thuốc trị bệnh; nay có một y sĩ (…) trị bịnh cho thiên hạ, một vạn người dùng thuốc mà chỉ có bốn năm người được lợi (khỏi bịnh) thì tôi vẫn cho như vậy không phải là biết làm nghề thuốc”. Cái lợi cho thiên hạ đó, Mặc tử cho cũng là lợi cho Trời và quỉ thần. Ông bảo: Thuận ý Trời thì phải yêu lẫn nhau, làm lợi lẫn nhau (Thiên chí thượng), lại bảo: Quỉ thần muốn rằng người nào chức cao bổng hậu thì phải kính người hiền, có nhiều của thì phải chia cho người nghèo (Lỗ vấn – 16). Ý đó cũng là ý của Khổng giáo. Khổng, Mạnh luôn luôn khuyên các vua chúa theo ý dân, dân muốn gì thì vua chúa phải làm thoả mãn cái đó, vì dân muốn là trời muốn. Lời đó cơ hồ là truyền thống của Trung Hoa. Thiên Tiểu Nhã – Kinh Thi có bài: Lạc chi quân tử, dân chi phụ mẫu, Dân chi sở hiếu, hiếu chi, Dân chi sở ố, ố chi, Thử chi vị dân chi phụ mẫu. “Vui vẻ hoà thuận thay người quân tử ấy, thực đáng làm cha mẹ dân. Dân thích cái gì, ông thích cái đó. Dân ghét cái gì, ông ghét cái đó[66]. Như vậy nên bảo đáng làm cha mẹ dân”. Sở dĩ theo ý dân vì ý dân với ý trời là một: “Trời thương dân, dân muốn làm gì trời cũng theo” (Thiên căng vu dân, dân chi sở dục, thiên tất tòng chi). Cho nên muốn biết lòng trời thì cứ xét lòng dân: “Trời trông thấy tự ở dân ta trông thấy, trời nghe thấy tự ở dân ta nghe thấy” (Thiên thị tự ngã dân thị, thiên thính tự ngã dân thính – Thư – Thái thệ[67]). Tóm lại, Khổng và Mặc không khác nhau về chủ trương phải mưu cầu hạnh phúc cho thiên hạ, về quan niệm lợi cho dân tức là hợp ý trời, lợi cho trời (vì trời yêu dân, giúp dân). Họ chỉ khác nhau ở danh từ: Khổng giáo gọi là nghĩa thì Mặc giáo gọi là lợi. So sánh hai đoạn dưới đây, một của Mặc, một của Mạnh, ta thấy cùng là thuyết phục các vua chư hầu đừng đánh chiếm lẫn nhau, mà mỗi nhà có một giọng khác: một bên chỉ giảng về cái hại của chiến tranh, một bên chỉ giảng về nhân nghĩa. Mặc tử bảo: “Trị nước mà (đánh chiếm nước ngoài, nên phải) chiếm đạt vật dụng của dân làm mất cái lợi của dân quá nhiều, thế thì làm sao? Đáp: Vì ham cái danh thắng người và hám được lợi, cho nên làm (…) Xét cái danh thắng người thì nó không dùng được vào việc gì; xét cái lợi thì nó không bù được cái mất mát quá nhiều. Nay tấn công một lớp thành trong (chu vi) ba dặm, một lớp thành ngoài (chu vi) bảy dặm, không dùng khí giới cứng và sắc, không giết nhiều người thì làm sao mà thắng được? Giết người, nhiều thì hằng vạn, ít cũng hằng ngàn, rồi mới chiếm được lớp thành trong ba dặm, lớp thành ngoài bảy dặm; nay một nước có vạn cỗ xe thì số thành có trên ngàn, không vào cho xuể được, số đồng ruộng có trên vạn, không thể chiếm hết được; như vậy là đất đai (của người) có dư, mà binh sĩ (của mình) không đủ; bắt binh sĩ của mình chết hết, gây tai hoạ nghiêm khốc cho người trên kẻ dưới để tranh thành tức là khinh bỏ cái không đủ (binh sĩ của mình) mà trọng cái dư (đất đai của người), theo chính sách đó đâu phải là biết lo việc nước”. (Phi công trung). ế ố ế ế ầ ể Non một thế kỉ sau, Tống Hình đi yết kiến vua Sở và vua Tần để khuyên họ bãi binh, đừng đánh nhau, và cho Mạnh tử hay mình sẽ giảng cho họ rằng chiến tranh bất lợi cho cả hai nước, dùng như phép thuyết phục của Mặc tử. Mạnh tử gạt đi: “Nếu tiên sinh đem cái lợi nói với vua Tần và vua Sở mà hai vua ấy thích lợi, bãi binh thì… binh lính cũng thích lợi; rồi kẻ làm tôi vì tham lợi mà thờ vua, kẻ làm con vì tham lợi mà thờ cha, kẻ làm em vì tham lợi mà thờ anh. Như vậy, vua tôi, cha con, anh em rốt cuộc đều bỏ hết điều nhân, nghĩa, mà giao thiệp với nhau chỉ vì ham lợi mà thôi. Nước nhà như thế mà chẳng diệt vong, là điều chưa từng có. Còn như tiên sinh đem điều nhân và điều nghĩa nói với vua Tần và vua Sở, mà hai vua ấy ham nhân nghĩa, bãi binh thì… binh lính cũng thích nhân nghĩa; rồi kẻ làm tôi vì mộ nhân nghĩa mà thờ vua, kẻ làm con vì mộ nhân nghĩa mà thờ cha, kẻ làm em vì mộ nhân nghĩa mà thờ anh. Như vậy, vua tôi, cha con, anh em rốt cuộc đều bỏ tuyệt điều lợi mà giao thiệp với nhau chỉ vì ham nhân nghĩa mà thôi. Nước nhà như thế mà chẳng hưng vượng là điều chưa từng có. Hà tất phải nói chuyện lợi?”. (Cáo tử hạ – bài 14). Mặc dầu “lợi” hiểu theo Mặc tử – tức là lợi khắp thiên hạ, hợp ý với Trời và quỉ thần – lợi hiểu theo nghĩa đó thì không khác gì nghĩa. Nhưng tách lợi với nghĩa như Khổng giáo vẫn là phải. Chỉ lo bồi dưỡng lòng nghĩa thì thấy một việc hợp đạo, đáng làm, phải làm là mình làm liền, không tính toán gì cả: dù nó có hại trước mắt cũng cứ làm, ít nhất nó cũng có lợi cho tư cách, tâm hồn của mình và về lâu dài chắc chắn sẽ có lợi cho nhân quần, xã hội. Còn luôn luôn nghĩ tới lợi thì dù cái lợi đó cao thượng, nhưng vẫn còn là tính toán hơn thiệt. Về điểm đó, Khổng lí tưởng mà Mặc thực tiễn. Mặc thực tiễn hơn Khổng vì ông ở trong giai cấp tiện nhân, giai cấp này đại đa số thời đó không được học, không hiểu được những cái cao xa như “nghĩa” mà dễ hiểu những cái thiết thực như “lợi”. Lời Khổng tử thật đúng: “Quân tử (tức giới quí tộc, có học, có đạo đức) dụ ư nghĩa; tiểu nhân (tức giới bình dân, không được học) dụ ư lợi”. Không phải luôn luôn như vậy, nhưng đại đa số là vậy. ề ế ố Mặc tử chu du thiên hạ, truyền bá thuyết của mình, muốn cho bình dân theo, tất phải nói tới lợi nhiều hơn nói tới nghĩa. Chúng tôi còn ngờ Mặc tử, một trăm rưỡi năm trước Tuân tử, đã nghĩ rằng tính người vốn ác nữa. Trong bộ Đại cương triết học Trung Quốc – hạ[68], chúng tôi đã viết: “Trong thiên Sở nhiễm, Mặc tử thấy tơ nhuộm mà than rằng: nhuộm xanh thì hoá xanh, nhuộm vàng thì hoá vàng, cái chất của lụa mà thay đổi thì màu lụa cũng thay đổi; năm lần nhuộm vào thì đã có năm màu rồi; cho nên sự tiêm nhiễm không thể không thận trọng được. “Ông không nói đến tính, chỉ xét kết quả của sự tiêm nhiễm, nhưng hình như cho rằng tính vốn không thiện không ác, có thể hoá thiện mà cũng có thể hoá ác”. Lời suy đoán của chúng tôi hồi đó có phần sai. Chúng tôi căn cứ vào lời dưới đây trong thiên Thượng đồng thượng: “Cổ giả dân thuỷ sinh, vị hữu hình chính chi thì… thiên hạ bách tính giai dĩ thuỷ hoả độc dược tương khuy hại”[69]: “Thời xưa khi loài người mới sinh, chưa có chính trị hình pháp… thì dân chúng trong thiên hạ đều dùng nước, lửa, thuốc độc để hại lẫn nhau” mà ngờ rằng Mặc tử đã ngầm cho rằng tính người vốn ác, không khác thuyết của Tuân tử trăm rưỡi năm sau là bao. Thêm một chứng cớ nữa: thiên Kiêm ái thượng, Mặc tử bảo: “Thử xét loạn do đâu mà phát. Phát ở chỗ không yêu nhau (…) con chỉ yêu mình mà không yêu cha, cho nên mới làm thiệt hại cho cha để lợi cho mình; em chỉ yêu mình mà không yêu anh, cho nên mới làm thiệt hại cho anh để lợi cho mình; bề tôi chỉ yêu mình mà không yêu vua nên mới làm thiệt hại cho vua để lợi cho mình, như vậy gọi là loạn (…) Cha chỉ tự yêu mình mà không yêu con, cho nên mới làm hại cho con để lợi cho mình; anh chỉ tự yêu mình mà không yêu em nên mới làm hại cho em để lợi cho mình; vua chỉ tự yêu mình mà không yêu bề tôi, cho nên mới làm hại bề tôi để làm lợi cho mình”. (Đương sát loạn hà khởi. Khởi bất tương ái. Tử tự ái, bất ái phụ, cố khuy phụ nhi tự lợi; đệ tự ái, bất ái huynh, cố khuy huynh nhi tự ầ ấ ố lợi; thần tự ái, bất ái quân, cố khuy quân nhi tự lợi, thử sở vị loạn dã (…) Phụ tự ái dã, bất ái tử, cố khuy tử nhi tự lợi; huynh tự ái dã, bất ái đệ, cố khuy đệ nhi tự lợi; quân tự ái dã, bất ái thần, cố khuy thần nhi tự lợi[70]). Xin độc giả so sánh đoạn đó với câu dưới đây của Tuân tử trong thiên Tính ác: “Tính con người sinh ra là đã hiếu lợi, thuận theo tính đó thì thành ra tranh đoạt lẫn nhau mà sự từ nhượng không có…” (Nhân chi tính, sinh nhi hữu hiếu lợi yên, thuận thị, cố tranh đoạt sinh nhi từ nhượng vô yên). Rõ ràng là một ý. Mặc tử bảo: “Dân có ba điều lo: đói không có gì ăn, lạnh không có gì mặc, mệt không được nghỉ, ba cái đó là những điều lo lớn của dân” (Dân hữu tam hoạn, cơ giả bất đắc thực, hàn giả bất đắc y, lao giả bất đắc tức, tam giả dân cự hoạn dã[71]. – Phi nhạc thượng). Còn Tuân tử viết: “Cái tính con người là đói thì muốn ăn, mệt thì muốn nghỉ” (Nhân chi tính, cơ nhi dục bão, lao nhi dục hưu, thử nhân chi tính tình dã[72]). Vậy thì Tuân tử có thể mượn ý của Mặc tử mà lập nên thuyết tính ác; và sở dĩ Mặc tử nói nhiều đến lợi, đồng hoá lợi với nhân nghĩa có thể vì ông cho rằng bản tính con người hiếu lợi, nói đến lợi người ta dễ nghe hơn, mà muốn sửa tính ham tư lợi đó thì nên giảng cho họ rằng cái lợi cá nhân ở trong cái lợi của toàn thể xã hội, ở trong đạo kiêm ái (coi thuyết kiêm ái trong chương sau). Chính vì Mặc đặc biệt chú trọng tới cái lợi của mọi người nên Phùng Hữu Lan trong sách đã dẫn, trang 115, cho rằng chủ nghĩa của Mặc tử là chủ nghĩa công lợi /功利/. Người Trung Hoa dùng danh từ công lợi chủ nghĩa để dịch tiếng utilitarianism của Anh (Từ Hải – bộ tử – tr.417). Thuyết Utilitarianism mà Bentham (triết gia Anh 1748-1832) (Trung Hoa phiên âm là Biên Sấm[73]) là đại diện chính, chủ trương rằng luân lí là vấn đề “tạo nhiều hạnh phúc nhất cho nhiều người nhất”. Vui thích là hạnh phúc, vậy là tốt, đau khổ, ngược lại, là xấu. Hành vi nào tạo được vui thích được Bentham coi là thiện; nếu tạo đau khổ thì ông coi là ác. Vì vậy người ta bảo luân lí theo ông chỉ là một thứ “số học vui thích” (arithmétique des plaisires), nói cách khác, chỉ là một thứ tính toán xem hành vi nào nhiều vui thích thì lựa. Cho nên chúng tôi muốn dịch Utilitarianism là duy lạc chủ nghĩa. Sau, Stuart Mill, cũng người Anh, (1806-1873) sửa lại thuyết của Bentham trong cuốn Utilitarianism (1861), cho rằng hạnh phúc của mọi người với hạnh phúc của cá nhân là một, và ông phân biệt cái vui thích cao thượng với cái vui thích đê tiện. Như trên chúng tôi đã nói, tất cả các triết gia Trung Hoa (trừ Dương Chu), đều tìm cái lợi chung cho thiên hạ, chứ không riêng gì Mặc tử; mà không một triết gia nào cho việc tạo vui thích cho con người là tiêu chuẩn đạo đức, không một nhà nào chủ trương thoả mãn vui thích càng nhiều càng tốt, trái lại họ còn muốn tiết dục, có khi diệt dục nữa. Riêng Mặc tử, như chúng ta sẽ thấy trong các chương sau, chỉ mong thoả mãn những nhu cầu tự nhiên thiết yếu của con người là ăn, mặc, và nghỉ ngơi, và mạt sát những xa xỉ phẩm, cả âm nhạc nghệ thuật nữa. Như vậy thì thuyết mưu lợi lẫn cho nhau của ông khác xa thuyết utilitarianism của Bentham, Mill, vì ông đồng hoá lợi với nghĩa, chứ không đồng hoá vui thích với đạo đức và thuyết của ông khác thuyết của Bentham và Mill, mặc dầu cũng như họ, ông coi hạnh phúc của mọi người với hạnh phúc của cá nhân là một. Tới đời sau, phái Biệt Mặc định nghĩa lại chữ Lợi, mới làm cho chủ trương giao tương lợi của Mặc tử giống thuyết “công lợi” của Bentham và Mill (coi phần II, chương II). CHƯƠNG III THUYẾT KIÊM ÁI Mặc dầu sống đầu thời Chiến Quốc, các nước xâm chiếm nhau mỗi ngày mỗi nhiều, chiến tranh mỗi ngày một ác liệt: Sở diệt Ngô, Thái, Kỉ; Việt diệt Cử, Đàm; các nước nhỏ khác như Đại, Đằng trước sau đều bị các nước mạnh thôn tính. Trong mỗi nước, việc giết vua, chiếm ngôi cũng thường xảy ra, như nước Trịnh giết Ai công, ba họ Hàn, Nguỵ, Triệu làm loạn nước Tấn, họ Điền chuyên quyền ở Tề. Mặc tử thấy những cảnh đó, thấy nỗi khổ của dân chúng, cho rằng không gì hại bằng loạn. Mà theo ông loạn chỉ do lòng tự tư, tự lợi của con người, không yêu người khác mà chỉ yêu bản thân mình, làm hại người để lợi cho mình. Chương trên chúng tôi đã dẫn hai đoạn trong thiên Kiêm ái thượng mạt sát lòng ích kỉ hại nhân đó: ở trong nhà, cha con, anh em không thương yêu nhau, ai cũng nghĩ làm lợi cho mình, cho nên mới loạn; ở trong nước, nhà nào, người nào, cũng không yêu nhau, chỉ nghĩ lợi cho mình, cho nên mới loạn; trong thiên hạ, các nước chư hầu cũng không yêu nhau, chỉ nghĩ làm lợi cho mình, cho nên mới loạn. Đầu thiên Kiêm ái hạ, Mặc tử còn nói rõ hơn nữa: “Hiện nay cái hại lớn nhất cho thiên hạ là gì? Đáp: “Là nước lớn đánh chiếm nước nhỏ, nhà lớn làm loạn nhà nhỏ, người mạnh hiếp kẻ yếu, số đông tàn bạo với số ít, người khôn lừa gạt kẻ ngu, người sang ngạo mạn người hèn, đó là cái hại cho thiên hạ. Lại như làm vua mà không huệ (nhân ái, gia ân), làm bề tôi mà không trung, cha không từ, con không hiếu, đó cũng là cái hại cho thiên hạ nữa. Lại như bọn đê tiện ngày nay dùng dao nhọn, thuốc độc, nước, lửa để làm hại lẫn nhau, đó cũng là cái hại cho thiên hạ nữa”. Thái độ tự tư, tự lợi đó, Mặc gọi là “Biệt”: phân biệt mình với người, chỉ yêu mình mà không yêu người. Biệt là bậy, nó chia rẽ lẫn nhau, làm hại lớn cho thiên hạ. Phải thay cho bằng “Kiêm” là gồm, gồm yêu mọi người, coi ai cũng như mình, làm lợi cho mọi người. “Biệt” hại cho thiên hạ bao nhiêu thì “Kiêm” lợi cho thiên hạ bấy nhiêu: “Nếu thiên hạ đều gồm yêu lẫn nhau (kiêm tương ái), ai nấy đều yêu người như yêu thân mình thì còn kẻ bất hiếu nữa không? ấ ế ấ Coi cha anh và vua như thân mình thì còn kẻ bất hiếu, còn kẻ bất từ nữa không? Coi con em và bề tôi như thân mình thì làm gì còn kẻ bất từ? Cho nên bất hiếu, bất từ sẽ không còn nữa. Còn trộm cướp không? Đã coi nhà người như nhà mình thì còn ai ăn trộm nữa? Đã coi thân người như thân mình thì còn ai ăn cướp nữa? Cho nên sự ăn trộm với ăn cướp sẽ không còn nữa. Còn có đại phu làm loạn nhà nhau[74], vua chư hầu đánh chiếm nước nhau nữa không? Coi nhà người như nhà mình thì còn ai làm loạn nhà nhau? Coi nước người như nước mình thì còn ai đánh chiếm nước nhau? Cho nên cái nạn đại phu làm loạn nhà nhau, chư hầu đánh chiếm nước nhau sẽ không còn nữa. “Nếu thiên hạ gồm yêu lẫn nhau, nước nọ với nước kia không đánh chiếm lẫn nhau, nhà này với nhà kia không làm loạn lẫn nhau, trộm cướp không có; vua tôi, cha con đều hiếu từ, như thế thì thiên hạ trị”. (Nhược sử thiên hạ kiêm tương ái, ái nhân nhược ái kì thân, do hữu bất hiếu giả hồ? Thị phụ huynh dữ quân nhược kì thân, ố thi bất hiếu? Do hữu, bất từ, giả hồ? Thị tử đệ dữ thần nhược kì thân, ố thi bất từ? Cố bất hiếu, bất từ vô hữu. Do hữu đạo tặc hồ? Cố thị nhân chi thất nhược kì thất, thuỳ thiệt? Thị nhân thân nhược kì thân, thuỳ tặc? Cố đạo tặc vô hữu. Do hữu đại phu chi tương loạn gia, chư hầu chi tương công quốc giả hồ? Thị nhân gia nhược kì gia, thuỳ loạn? Thị nhân quốc nhược kì quốc, thuỳ công? Cố đại phu chi tương loạn gia, chư hầu chi tương công quốc giả vô hữu. Nhược sử thiên hạ kiêm tương ái, quốc dữ quốc bất tương công, gia dữ gia bất tương loạn, đạo tặc vô hữu, quân thần phụ tử gia năng hiếu từ, nhược thử tác thiên hạ trị[75]) – Kiêm ái thượng. Kiêm ái lợi cho gia đình, quốc gia, thiên hạ như vậy, mà cũng lợi cho cá nhân nữa, vì: “Ai cũng đem tai tinh mắt sáng của mình mà trông nghe cho nhau, đem tay chân khoẻ mạnh làm lụng cho nhau, mà kẻ đạo lí thì hết lòng dạy bảo lẫn nhau. Cho nên người già nua mà không có vợ con thì được săn sóc, nuôi nấng cho trọn tuổi trời; trẻ em không có cha mẹ thì có chỗ nương tựa, được nuôi tới lớn”… ồ ố ấ (Dĩ thông nhĩ minh mục tương vi thị thính hồ! Thị dĩ cố quăng tất cường tương vi động qui cử[76] hồ! Nhi hữu đạo tứ tương giáo hối. Thị dĩ lão nhi vô thê tử giả, hữu sở thị dưỡng dĩ chung kì thọ, ấu nhược cô đồng chi vô phụ mẫu giả, hữu sở phóng y dĩ trưởng kì thân hồ[77]). – Kiêm ái hạ. Thật là “lô gích”: loạn do tự tư tự lợi mà sanh, dẹp lòng tự tư tự lợi đi mà yêu mọi người như chính mình, làm lợi cho mọi người như cho chính mình thì tất hết loạn, mà làm lợi cho mọi người thì cũng là làm lợi cho cá nhân mình. Vậy mà nhiều “kẻ sĩ trong thiên hạ” lại chê bai thuyết của Mặc, khiến ông phải bực mình, không hiểu tại sao. Thiên Kiêm ái thượng chỉ trình bày vắn tắt thuyết đó thôi, hai thiên trung và hạ chép thêm những lời chê bai và những lời đáp của ông. Các kẻ sĩ trong thiên hạ đó vạch ra bốn nhược điểm: kiêm ái là việc khó làm; dùng không được; không hợp đạo làm con; không hợp tình người. a/ Khó làm Thiên Kiêm ái trung chép: “Những kẻ sĩ quân tử ngày nay bảo: “Phải, gồm yêu lẫn nhau thì tốt đấy, nhưng việc đó không thể làm được. Nó khó như xách núi Thái Sơn nhảy qua sông [Hoàng] Hà, sông Tể (một chi nhánh của sông Hoàng Hà) vậy”. Mặc tử đáp: “So sánh như vậy không đúng. Xách núi Thái Sơn mà nhảy qua sông Hà, sông Tể là việc cần có sức mạnh, [chân] nhanh, [tay] cứng, từ xưa tới nay chưa ai làm được. Còn việc yêu với nhau, làm lợi lẫn cho nhau thì khác hẳn, thánh vương đời xưa đã làm rồi đấy”. (Thị phi kì thí dã. Phù khiết Thái Sơn nhi việt Hà, Tế, khả vị tật[78] kính[79] hữu lực hĩ; tự cổ cập kim vị hữu năng hành chi giả dã. Huống hồ kiêm tương ái, giao tương lợi, tắc thử dữ dị; cổ giả thánh vương hành chi[80]). Rồi Mặc dẫn việc vua Vũ nhà Hạ trị thuỷ, trừ lụt, khơi sông, đắp đê làm lợi cho các rợ Yên, Đại, Hồ, Lạc ở phía Tây, cho dân Kí Châu ở phía Đông, cho các nước Sở, Việt ở phía Nam; việc vua Văn vương ề nhà Chu cai trị miền Tây, bênh vực các nước nhỏ, săn sóc các người già yếu, cô quả; việc vua Võ vương nhà Chu lựa người hiền giúp mình để cứu dân đời Thương Hạ. Mấy thánh vương đó đều gồm yêu thiên hạ. Trong Kiêm ái hạ, Mặc còn dẫn những lời trong Thương Thư (thiên Thái thệ và thiên Vũ thệ) chép về Văn vương, vua Vũ nhà Hạ. Có người lại bảo thánh vương làm được, nhưng kẻ sĩ và dân chúng khó làm được. Ông đáp: “Vì các bậc sĩ quân tử không biết cái lợi, hiểu các nguyên nhân đấy. Nay cái việc đánh thành, giao chiến ngoài đồng, tự giết thân mình để được danh tiếng, trăm họ trong thiên hạ đều cho là khó, mà khi ông vua đã thích thì dân chúng cũng làm được, huống hồ là việc yêu gồm lẫn nhau, làm lợi lẫn cho nhau, có khó gì đâu. Hễ yêu người thì người tất yêu lại mình, làm lợi cho người thì người tất làm lợi lại cho mình, hễ ghét người thì người tất ghét lại mình, hại người thì người tất hại lại mình. Chỉ vì người trên không dùng kiêm ái làm chính sách, cho nên kẻ sĩ không coi đó là nết của mình đấy thôi” (Thiên hạ chi sĩ quân tử, đặc bất thức kì lợi, biện kì cố dã. Kim nhược phù công thành dã chiến, sát thân vị danh, thử thiên hạ bách tính chi sở giai nan dã; cẩu quân duyệt chi, tắc sĩ chúng năng vi chi. Huống ư kiêm tương ái, giao tương lợi, tắc dữ thử dị. Phù ái nhân giả, nhân tất tòng nhi ái chi, lợi nhân giả, nhân tất tòng nhi lợi chi, ố nhân giả, nhân tất tòng nhi ố chi, hại nhân giả, nhân tất tòng chi hại chi. Thử hà nan chi hữu? Đặc thượng phất dĩ vi chính, sĩ bất dĩ vi hạnh cố dã[81]) – Kiêm ái trung. Mặc cũng lại dẫn việc xưa để chứng thực: Vua Văn công nước Tấn thích những kẻ sĩ bận áo xấu, cho nên bề tôi cũng bận áo xấu để bệ kiến và ngồi triều. Vua Linh vương nước Sở thích kẻ sĩ lưng thon, nên bề tôi chỉ ăn mỗi ngày một bữa, chưa đầy một năm, triều thần đều xanh xao. Vua Câu Tiễn nước Việt thích dũng sĩ, và bề tôi đều thành dũng sĩ, xô đẩy nhau, lăn xả vào cứu một chiếc thuyền bị cháy, đạp lửa mà chết có tới trăm người. Nhịn ăn, bận áo xấu, tự sát thân để được tiếng, những việc đó trăm họ đều cho là khó, vậy mà ễ vua thích thì dân chúng cũng làm được. Tóm lại hễ vua thích thì dân theo. b/ Không dùng được Có người lại bảo: “Đạo kiêm ái tốt thật, nhưng dùng được không?” Mặc tử đáp: “Nếu không dùng được thì ngay tôi đây cũng chê. Vả lại, đâu có cái gì tốt mà không thể dùng được bao giờ”. (Dụng nhi bất khả, tuy ngã diệc tương phi chi. Thả yên hữu thiện nhi bất khả dụng giả[82]) – Kiêm ái hạ. Chúng ta thấy Mặc có tinh thần thực tiễn; ông đưa ra một thí dụ cụ thể để chứng tỏ rằng thuyết của mình dùng được. Ông thí dụ có hai kẻ sĩ, một kẻ chủ trương “Biệt” – ông gọi là Biệt sĩ – không yêu thân bạn như thân mình, người thân của bạn như người thân của mình, thấy bạn đói rét cũng mặc, đau ốm không săn sóc cho mà chết cũng không chôn cho; một kẻ chủ trương “Kiêm” ngược lại, coi thân bạn như thân mình, người thân của bạn như người thân của mình, bạn đói rét thì giúp cơm giúp áo, bạn đau ốm thì săn sóc, thuốc thang, bạn chết thì chôn cất tử tế. Rồi ông nói: “Nay có người sắp ra trận không biết sống chết ra sao, hoặc sắp phải đi xa không biết bao giờ về, thì người đó gởi gấm nhà cửa, vợ con cho người bạn chủ trương “Biệt” hay người bạn chủ trương “Kiêm”? Tôi cho rằng trường hợp đó, dù là ngu phu ngu phụ, ngay cả kẻ chê đạo kiêm ái cũng sẽ gởi gấm gia đình cho người bạn chủ trương Kiêm”. Người bác bẻ ông hỏi vặn thêm: “Phải, chọn kẻ sĩ chủ trương Kiêm thì được chứ làm sao chọn vua chủ trương Kiêm được?” Câu hỏi đó quan trọng, nêu lên một vấn đề căn bản về chính trị. Chúng ta đã biết, theo truyền thuyết thì trước vua Vũ nhà Hạ, Trung Hoa theo chế độ truyền hiền –ngôi vua truyền lại cho người hiền: Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn, Thuấn truyền ngôi cho Vũ, Thuấn và Vũ đều là những người hiền, có công lao với dân, được dân kính trọng, tin cậy, chứ không phải là con của Nghiêu hoặc của Thuấn; rồi từ vua Vũ trở đi, ngôi vua mới truyền tử – truyền cho con là Khải. Tới thời Mặc tử, chế độ truyền tử đó đã thi hành được trên ngàn rưỡi năm, chưa có dấu hiệu gì bị lung lay cả. Dân chúng may thì gặp ông ố ẳ ấ ấ vua tốt, chẳng may thì gặp ông vua xấu (mà hạng vua xấu thời nào cũng nhiều), vậy dân làm sao lựa được vua? Trong một chương sau (về ý trời) ông gián tiếp trả lời câu đó; và ở đây, thì Kiêm ái hạ, ông tránh né, chỉ đáp đại ý rằng ai cũng muốn lựa ông vua chủ trương Kiêm ái. Ông cũng đưa ra một thí dụ: có một ông vua chủ trương Kiêm – Kiêm vương – “đặt thân của vạn dân trước thân của mình”, săn sóc cho họ khỏi phải đói rét, và một ông vua chủ trương Biệt – Biệt vương – cho rằng không thể coi thân của vạn dân như thân của mình được “cái đó trái với tình người quá mà” (thử đại[83] phi thiên hạ chi tình dã), để cho dân đói rét, chết không cho cất cho, rồi ông hỏi gặp năm đói rét, có bệnh dịch thì nên chọn ông vua nào: tất nhiên là chọn ông chủ trương kiêm. c/ Không hợp đạo làm con Vì lo cho cha mẹ người như lo cho cha mẹ mình thì “không được lợi cho cha mẹ mình mà có hại cho đại hiếu”. Mặc đáp: Mình có yêu và có làm lợi cho cha mẹ người thì người mới đáp lại, yêu và làm lợi cho cha mẹ ta. Rồi ông dẫn tới thiên Đại nhã trong Kinh Thi: “Không một lời nào, một ân đức nào mà không được đền đáp; ném cho tôi một quả đào, tôi sẽ ném lại cho quả mận” (Vô ngôn nhi bất thụ[84] , vô đức nhi bất báo, đầu ngã dĩ đào, báo chi dĩ lí) – Kiêm ái hạ. Mặc tử có lí một phần, và Mạnh tử trong thiên Đằng văn Công hạ – bài 9, mắng ông: “Họ Mặc kiêm ái, tức là không cha, không cha… thì là cầm thú” (Mặc thị kiêm ái, thị vô phụ dã, vô phụ… thì cầm thú dã[85]). d/ Không hợp tình người Ở đoạn b/ – chúng tôi mới dẫn câu: “Thử đại phi thiên hạ chi tình dã” trong thiên Kiêm ái hạ. Câu đó chứng tỏ rằng Mặc tử biết có nhiều người cho đạo Kiêm ái của ông không hợp tình người, nhưng ông không đáp. Trong thiên Canh Trụ, bài 8, Vu Mã tử đặt hẳn vấn đề với ông một cách rất minh bạch. Vu bảo: ầ ồ “Tôi khác thầy, tôi không yêu gồm mọi người được. Tôi yêu người nước Trâu hơn người nước Việt, yêu người nước Lỗ hơn người nước Trâu, người làng tôi hơn người nước Lỗ, yêu người nhà tôi hơn người làng tôi, yêu cha mẹ tôi hơn người nhà tôi, tôi yêu thân tôi hơn cha mẹ tôi; càng gần thì tôi càng yêu. Ai đánh tôi thì tôi thấy đau, nếu người khác thì tôi không thấy đau. Căn cớ gì mà người làm cho tôi đau thì tôi không kháng cự, còn người không làm tôi đau, tôi lại kháng cự? Cho nên tôi có thể giết người để làm lợi cho tôi chứ tôi không thể giết tôi để làm lợi cho người”. Vu Mã Kì đưa ra hai điểm: 1- tình chung của con người là yêu mình hơn yêu người, yêu người thân hơn yêu người sơ; 2- tình của con người là tự tư tự lợi, ích kỉ. Mặc tử không đáp điểm 1, mà đáp điểm 2: “nếu cả thiên hạ theo thuyết của ông – tức thuyết tự tư tự lợi – thì cả thiên hạ sẽ muốn giết ông để thoả mãn lòng họ”, còn như “nếu cả thiên hạ đều không theo thuyết của ông thì cả thiên hạ [cũng] sẽ muốn giết ông vì cho ông là thi hành một thuyết chẳng lành. [Vậy] người theo ông muốn giết ông mà người không theo ông cũng muốn giết ông, thuyết của ông rốt cuộc chỉ gây hoạ cho thân ông thôi”. Về điểm 2 đó, Mặc tử có lí trên nguyên tắc: như chương trên chúng tôi đã nói, ông thấy bản tính con người chỉ là nghĩ tới mình, ông khuyên người ta phải yêu nhau, làm lợi cho nhau, diệt tính ích kỉ đó đi. Còn điểm 1 thì ông không đáp được. Đó chính là khuyết điểm của thuyết Kiêm ái[86]. So sánh đạo Nhân của Nho và đạo Kiêm ái của Mặc Thiên Công Mạnh, bài 15 Mặc tử nói chuyện với Trình tử, chê đạo Nho có bốn điểm làm mất thiên hạ: cho Trời là không sáng suốt, cho quỉ là không thiêng; chôn cất hậu hĩ, để tang lâu; thích đờn ca, múa hát; cho rằng có số mạng, trị loạn, yên nguy đều đã định trước, không sửa đổi được. Có lẽ vì những lời chê đó mà Mạnh tử bất bình, mạt sát Mặc tàn nhẫn, cho là quân “không cha”. Nhưng cũng thiên đó, bài 16, Mặc lại khen Khổng tử, khiến Trình tử ngạc nhiên, hỏi vặn: - Đã chê Nho sao còn khen Khổng tử? Mặc đáp: - Vì thuyết của ông ấy có chỗ đúng, không thể sửa đổi được (…), có chỗ đúng thì sao không khen? Trong bài không nói đúng ở chỗ nào, chúng ta chỉ biết một điều này: không khi nào Mặc chê đạo Nhân của Khổng tử cả, và trong hai thiên Kiêm ái trung và hạ, Mặc thường hay nêu gương kiêm ái của vua Vũ nhà Hạ, vua Văn, vua Võ nhà Chu, tức những người mà đạo Nho cho là thánh vương có lòng nhân, thương dân như con. Vậy có lẽ Mặc tử đã dùng thuyết Nhân của Khổng mà sửa lại thành thuyết Kiêm ái. Hàn Dũ đời Đường có lí khi bảo rằng Mặc tử tất dùng [học thuyết] của Khổng tử (Mặc tất dụng Khổng tử). Ôn lại thuyết “nhân” của Khổng tử, chúng ta thấy thuyết đó với thuyết kiêm ái có nhiều điểm giống nhau. Thiên Nhan Uyên, bài 21, một môn sinh là Phàn Trì hỏi thế nào là “nhân”, Khổng tử đáp “Ái nhân” (yêu người). Vậy nhân tức là ái rồi. Cũng thiên đó, bài 2, Trọng Cung hỏi thế nào là nhân, ông đáp: “Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân[87]“: điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người. Thiên Ung dã, bài 28, Tử Cống hỏi về nhân, ông đáp: “Người nhân, hễ mình muốn thành lập thì cũng lo thành lập cho người; mình muốn thông đạt, thì cũng cho người thông đạt; suy từ gần (tức lòng mình) để biết xa (tức lòng người). (Phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân, năng cận thủ thí[88]). Tóm lại là cái gì mình muốn thì làm cho người; cũng như Mặc nói “giao tương lợi” vậy. Thiên Vệ Linh công, bài 8, Khổng tử bảo: “Người có lòng nhân… có thể tự mình quyên sinh để giữ tròn đức nhân… sát thân để thành nhân”. Tinh thần hi sinh đó không khác tinh thần của Mặc tử. Đoạn trên, bài 28 thiên Ung dã cho ta thấy rõ hơn nữa Khổng và Mặc rất gần nhau: “Tử Cống hỏi: Như có người thi ân cho khắp dân gian, lại hay cứu giúp cho đại chúng, thì người ấy thế nào, có thể gọi là người nhân được không?” Khổng tử đáp: “Sao chỉ gọi là người nhân thôi? Phải ấ gọi là bậc thánh chứ. Vua Nghiêu, vua Thuấn cũng khó được như vậy”. (Tử Cống viết: Như hữu bác thí ư dân nhi năng tế chúng, hà như? Khả vị nhân hồ? Tử viết: Hà sự ư nhân? Tất dã thánh hồ. Nghiêu, Thuấn kì do bệnh chư![89]). “Bác thí ư dân” tức là lòng bác ái, nhà Nho cũng gọi là phiếm ái (Luận ngữ, Thuật nhi, bài 6), Mặc gia gọi là Kiêm ái. Mà Nghiêu, Thuấn là những mẫu người đức nhân cao, chung cho cả Nho lẫn Mặc. Tuy nhiên nhân và kiêm ái, xét kĩ vẫn có chỗ khác nhau. - a/ Nhân vẫn phân biệt mình và người, “do kỉ cập nhân”, lấy mình làm khởi điểm, mà khuếch sung lần lần tới người, từ người thân tới người sơ, từ gần tới xa, nghĩa là có đẳng cấp, như Vu Tử Kì trong bài 18 thiên Canh Trụ. Kiêm ái thì không phân biệt mình và người, coi ai cũng như mình, người thân của người cũng như người thân của mình, không có riêng tư, với mọi người cùng vui cùng khổ. Vì vậy mà Mạnh tử chê Mặc gia không có tình cha con, như cầm thú cả; và một môn sinh của Mặc tử, Di Chi, đồng thời với Mạnh tử, tìm cách sửa lại thuyết kiêm ái: Thiên Đằng Văn công thượng, bài 5, chép: [Di] Chi cho rằng kiêm ái không phân biệt đẳng cấp, nhưng bắt nguồn từ người thân: “Chi tắc dĩ vi ái vô sai đẳng, thư do thân thuỷ[90]“, nghĩa là ai cũng yêu ngang nhau cả, nhưng yêu cha mẹ mình trước đã. Từ đó Mặc học mới lập ra thuyết “luân liệt”. Thuyết này được chép trong thiên Đại thủ sách Mặc kinh: “Nghĩa đáng dày thì cho ta dày, đáng mỏng thì cho ta mỏng, như vậy gọi là “luân liệt”. Bậc đức hạnh, bậc vua và bậc trên, bậc lão trưởng, thân thích, đó đều là cái nghĩa đáng dày. Nên hậu với bậc già, không nên bạc với bọn trẻ (nghĩa là người già và trẻ con đáng giúp trước hết); bậc thân mà gần thì nên hậu, thân mà xa thì nên bạc hơn, thân thì nên đến cùng cực, bạc thì không nên đến cùng cực”. (Nghĩa khả hậu, hậu chi; nghĩa khả bạc, bạc chi, vị luân liệt. Đức hạnh, quân thượng, lão trưởng, thân thích giai sở hậu dã. Vị trưởng hậu, bất vị ấu bạc, thân hậu hậu, thân bạc bạc, thân chí, bạc bất chí[91]). ấ Nhưng cũng trong thiên Đại thủ đó lại nhấn mạnh: “Yêu thì không có hậu, bạc” – (Ái vô hậu bạc). Nghĩa là Đại thủ phân biệt ái và nghĩa: yêu thì yêu như nhau, không vì tư ý tư tình mà phân biệt hậu bạc, còn cái nghĩa – cái việc đáng làm, cái việc giúp đỡ – thì phân biệt hậu bạc. Như gặp trường hợp đói kém, cả tỉnh thiếu ăn, mình có dư lúa, họ hàng và người xa lạ tới xin, mình không thể tới giúp được thì mình giữ lại cho cha mẹ vợ con một số đã, còn dư sẽ giúp cho người trong họ, rồi mới tới người xa lạ, giúp người có đức hạnh trước rồi mới tới người kém đức hạnh. Như vậy là Mặc vì phương tiện không đủ đã phải hơi quay về Khổng học, nhưng cũng chỉ nhượng bộ Nho giáo tới đó thôi, còn thì vẫn giữ chủ trương rằng thương yêu thì phải đồng đều cả. Mạnh tử vẫn bác, bảo như vậy không hợp tình người. Ông nhắn Di Chi: “Trời sinh ra con người, khiến cho chỉ có một gốc mà thôi (tức cha mẹ và người trong dòng họ mình) mà Di tử dường như cho có hai gốc (cha mẹ, thân tộc và kẻ xa lạ), lầm ở chỗ đó” – Đằng Văn công thượng, bài 5. - Mặc gia không đáp, không nhượng bộ thêm nữa, vì nếu nhượng bộ thêm thì kiêm ái y hệt nhân mất rồi, còn khác gì đâu; vả lại Mặc muốn sửa tính người, tình người chứ đâu chỉ muốn hợp tình người. Do đó mà lòng hi sinh của Mặc gia cao hơn Nho gia: Dù chặt ngón tay, cánh tay mà có lợi cho thiên hạ thì cũng không do dự! (Đoạn chi đoạn uyển, lợi ư thiên hạ tương nhược, vô trạch dã, tử sinh lợi, nhược nhất vô trạch dã[92] – Đại thủ). Tinh thần đó thật vĩ đại. - Mặc tử ở trong giai cấp tiện nhân, muốn xoá bỏ mọi đẳng cấp, môn sinh đời sau sửa đổi thuyết của ông như vậy chưa chắc đã hợp ý ông. Có thể ông không hiểu rằng phải tổ chức lại xã hội, phải trở lại chế độ cộng sản nguyên thuỷ, diệt bỏ tư sản thì mới thi hành kiêm ái ở khắp nơi được; còn như xã hội Trung Hoa thời ông, cá nhân muốn kiêm ái thì phải đừng có gia đình, số người như vậy rất ít, ông cảm hoá được trên ba trăm môn sinh, khiến họ hi sinh như ông; đáng kể là tài; mà đạo ông truyền được vài trăm năm, tranh giành ảnh hưởng với Nho, đáng kể là lâu. ể ể ể Ngoài điểm quan trọng kể trên, kiêm ái còn khác nhân ở điểm sau này nữa. - b/ Bậc nhân chú trọng đến sự xúc tiến đạo đức của người khác, còn bậc kiêm giả chú trọng đến sự cứu giúp vật chất nhiều hơn. Khổng tử cho đức nhân gồm nhiều đức khác: lễ nghĩa, trung, thứ, hiếu, đễ, cả trí, dũng nữa…; ông muốn dạy ta cách xử thế, trau giồi tình cảm, còn Mặc hễ nói đến kiêm ái thì chỉ kèm theo ba chữ “giao tương lợi”, chỉ muốn dùng lí trí để thuyết phục ta tìm cái lợi cho mình trong cái lợi chung của mọi người. Khổng muốn bồi dưỡng cái phần “thiện” trong bản tính của ta, còn Mặc chỉ muốn diệt cái phần ác (ham tư lợi, vị kỉ, tranh giành nhau) trong bản tính của ta. Khổng trọng lí tưởng, Mặc trọng thực tiễn. Vì vậy mà trên hai ngàn năm nay ai cũng ngưỡng mộ tinh thần hi sinh vô bờ bến của Mặc, nhưng vẫn thích thuyết nhân của Khổng hơn thuyết kiêm ái của Mặc. """