"
Lý Thường Kiệt Lịch Sử Ngoại Giao Và Tông Giáo Triều Lý PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lý Thường Kiệt Lịch Sử Ngoại Giao Và Tông Giáo Triều Lý PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Lý Thường Kiệt
Hoàng Xuân Hãn
Tựa
Từ đời Tần, mỗi lúc có một họ thống nhất Trung-Hoa, họ ấy liền nghĩ đến việc chiếm các nước nhỏ chung quanh. Tần có Nhâm Hiêu, Triệu Đà; Hán có Lộ Bác-Đức, đều đã đạt mục-đích là diệt họ đang cầm quyền ở đất Việt. Sau, trong khoảng độc-lập hoàn-toàn trở lại ở nước ta, những cuộc xâm-lăng bắt đầu từ đời Tống. Dưới triều Tống Thái-tông, tướng Tống tưởng lấy nước ta dễ, đã khinh cử, nên thất-bại hoàn toàn bởi tay Lê Hoàn.
Lần thứ hai, dưới triều Tống Thần-tông, thế vua Tống và tể tướng Vương An Thạch rất to, nên sự xuất quân được dự-bị một cách cẩn-thận và đầy đủ: quân hơn mười vạn, sửa soạn một năm, tướng tá tinh nhuệ, kế-hoạch định rõ từng chi tiết.
Đáng lẽ nước ta lúc ấy bị đổi thành châu quận của Tống. May ! đương thời, có một vĩ-nhân cầm quyền, có đủ óc chính-trị, biết kết-thúc nhân tâm, có cao-tài lợi-dụng thời-cơ, có kinh nghiệm điều binh, khiển tướng.
Bậc ấy là Lý Thường-Kiệt.
Bằng một trận tấn công chớp-nhoáng, Thường-Kiệt phá các căn-cứ địch , trước khi Tống khởi việc động binh; rồi rút về, cương quyết cố-thủ trên sông, ngăn cản xâm lăng xuống đồng bằng. Khí hậu nóng, lam chướng độc, địa thế
hiểm, thêm vào sự bất-lực của tướng Tống, sự bất-hòa giữa các kẻ cầm quyền chung quanh Tống Thần-tông, đã khiến cho trận tấn-công vĩ-đại của Tống đã phải ngừng trước cửa Thăng-long, gần nơi lăng-tẩm nhà Lý và trước cánh đồng phì-nhiêu ở trung-nguyên nước ta.
Thường Kiệt hiểu thời-cơ, chịu tạm nhường về thể-diện, khiến Tống lui quân và ta bảo toàn binh lực. Sau đó, Thường Kiệt biết dùng ngoại-giao dựa vào binh lực ấy làm hậu thuẫn, mà đòi được đất đã mất. Cuối cùng không những Tống không giám dòm ngó cõi ta, mà bắc-thùy nước Việt lại được khuếch trương và củng-cố.
Đó là một kỳ-công của Lý Thường-Kiệt.
Nhưng còn một kỳ-công khác, đương-thời không kém việc trên, mà đối với vận-mệnh tương-lai nước ta, lại còn to hơn nữa. Ấy là việc đánh Chiêm-thành.
Tuy trước thế-kỷ thứ 11, Chiêm-thành đã bị quân Trung-quốc hay quân ta đánh thua nhiều trận, nhưng dân Chiêm vẫn là dân thiện chiến và hiếu chiến. Vùng Thanh, Nghệ nước ta luôn luôn bị đe dọa, và Thăng-long cũng dễ bị phục-kích từ bể đánh vào. Cho nên Lý Thánh-Tông đã có cuộc đánh Chiêm. Lý Thường Kiệt làm nguyên-soái.
Đặc-điểm là, không phải như mọi lần, chiến-tranh chỉ có mục-đích phá thành, giết chúa. Trái lại, vua Chiêm được tha mà ta được ba châu cực-bắc của Chiêm. Bước đầu của cuộc nam-tiến của dân-tộc ta là từ đó. Ta lại đẩy xa, về phương nam, những căn-cứ khởi-công của Chiêm; khiến cho đời sau, lúc thế nước ta suy, quân Chiêm không đủ sức thôn-tính nước ta được.
Khuếch-trương và củng-cố biên-thùy miền nam, miền bắc đã rồi, Thường-Kiệt còn phủ-dụ dân miền thượng-du ở vùng Thanh-hóa; khiến cho thanh-thế nước ta trong triều Lý Thánh-Tông và Nhân-Tông đã đến tột bực, và các đời sau được yên ở mặt tây.
Đối với một anh-hùng dân-tộc bậc nhất trong lịch-sử nước ta, sử sách ta tuy có ghi công, nhưng chép sự-nghiệp một cách sơ-sài và sai-lạc. Lại thêm các văn phụ-họa: làm cho ngày nay chúng ta rất mơ-hồ về đoạn sử oanh-liệt nhất của tiền nhân.
***
Trong hồi năm 1943, vì tránh nạn máy bay oanh-tạc Hà-nội, tôi đã phải theo trường học vào Thanh-hóa. Trong khi nhàn rỗi, tôi đã để ý tìm tòi cổ-tích, mà tôi biết có nhiều ở trong vùng. Tôi đã may-mắn tìm thấy bốn tấm bia còn rõ
chữ, trong đó có bia ghi công Lý Thường-Kiệt đối với các chùa. Tôi đã sắp công bố sự phát-giác kia liền. Nhưng tôi nghĩ đối với các vũ-công của Lý Thường-Kiệt, sử-sách há lại không có đâu chép kỹ càng, để ta có thể soạn một sách kể lại toàn sự nghiệp sao?
Sau khi tìm-tòi cẩn-thận, tôi đã thấy một bộ sách đời Tống để lại, là Tục Tư-trị Thông-giám Trường-biên. Tuy nay đã mất lỗ mỗ vài phần, nhưng trong năm trăm hai mươi quyển còn nguyên, ta có thể lượm lặt những sự có liên-quan đến việc bang-giao Tống Lý.
Nhờ đó ta biết được một cách tường tận việc Lý Thường-Kiệt đánh Tống, việc Tống xâm-lăng nước ta, việc ta điều đình đòi đất. Những chi-tiết vụn-vặt rất nhiều, khiến ta có thể sống lại, hằng ngày, những phút vua tôi nhà Tống lo việc đánh nước ta, và nhờ đó, biết công lao của Lý Thường-Kiệt.
Tham-khảo với các sách cũ khác, soạn bởi người Tống hay người ta, tôi đã dọn xong quyển sách này. Tuy nhan đề Lý Thường-Kiệt, nhưng thật ra là sử bang-giao với Tống của nước ta về thế-kỷ thứ 11, trong triều Lý.
Chắc có độc-giả sẽ trách sự chênh lệc trong cách chép chuyện Tống và chuyện Lý: chuyện Tống kỹ-càng mà chuyện Lý đơn-sơ. Tác-giả cũng lấy điều ấy làm ân hận. Nhưng lỗi là tại dân-tộc ta, hoặc đã ít biên chép việc đương-thời để di
truyền lại đời sau, hoặc không biết giữ những vết-tích xưa: cho nên nay rất hiếm tài-liệu của ta về việc ta. Tôi cũng biết rằng, muốn tránh sự chênh-lệch, còn có thể bớt phần nói đến các việc Tống. Nhưng những việc vụn vặt ấy, trải qua chín trăm năm còn truyền lại, khiến ta như còn thấy trước mắt; há ta lại bỏ qua mà không công-bố sao? Vả chăng, tôi đã ước-lược đi nhiều, và chỉ giữ đại-cương hay chọn những chi-tiết, nó càng rõ-ràng bao nhiêu, lại làm ta đoán được bấy nhiêu hành-động của người nước ta, mà sử ta không biết bảo tồn.
Những việc tôi kể trong sách, hoàn-toàn có chứng và được dẫn chứng. Cũng trong các hạng chứng, tôi chỉ để ý đến chứng chính-xác mà thôi.
Không bịa-đặt, không tây-vị, hết sức rõ ràng; đó là những chuẩn-thằng tôi đã theo, trong khi viết cuốn sách này.
***
Tuy sách chưa được hoàn-bị, vì cuộc chiến-tranh, giành độc-lập của dân-tộc ta, không cho tôi những phương-tiện khảo cứu thêm; nhưng chính cuộc tranh đấu ấy đã giục tôi vội đưa bản thảo hiến độc-giả.
Mong ai nấy thấy rằng lòng dũng-cảm, chí quật-cường của dân-tộc ta ngày nay có cỗi rễ rất xa xăm.
Mong ai nấy nhận thấy một cách rõ-ràng, cụ-thể, sự nguy-hiểm của một cuộc ngoại-xâm, nhận thấy sự lo việc nước không phải chỉ ở đầu lưỡi, mà cần hết cả lòng hi-sinh, trí sáng-suốt để xếp-đặt, tính toán.
Đọc xong đoạn sử này, độc-giả sẽ thấy, cách đây ngót nghìn năm, cha ông ta đã đủ tài-năng nghị-lực để gây dựng, tổ-chức và gìn-giữ khoảnh đất gốc-cỗi của tổ -quốc ta ngày nay; độc-giả sẽ nhận thấy huyết-quản của chiến-sĩ bây
giờ vẫn chan-hòa máu nóng của tổ-tiên, máu nóng mà không lẽ có người không mang một dọt. Dẫu trong nhất-thời, có kẻ lỡ-lầm làm hại nước, hoặc con dân một nước có ý tưởng dị-đồng, trước nạn bại-vong, dọt máu ấy cũng đủ gây nên chí quật-cường, lòng tương-ái.
Vẫn biết sống về tương lai; nhưng dĩ-vãng là gương nên ngắm lại.
Vẫn biết tương lai là thế giới đại-đồng; nhưng trước lúc ấy, nước mình phải là một nước thật.
Vẫn biết chớ vin vào phân-tranh đời trước mà gây oán-thù đời sau, nhưng biết rõ sự tranh-đấu đời xưa, sẽ làm cho các nước càng kính nể nhau thêm, và mới hiểu vì sao mà phải cộng tác ngang hàng.
Đó là những ý-tưởng và nguyện-vọng của tác-giả, trong khi viết bài tựa này. Tưởng cũng không lạc-đề đối với vấn đề Lý Thường-Kiệt.
Viết tại Hà-nội tháng 5 năm Kỷ-Sửu
(1949)
HOÀNG -XUÂN-HÃN
PHÀM LỆ
1°/ Chép thời điểm. - Thời điểm, gồm ngày, tháng, năm. Trong sách này, chép theo lịch dùng đương thời, ngày và năm theo lối giáp tí và niên hiệu. Khi có việc nào quan trọng, tôi có đổi ngày tháng ra dương lịch. Còn năm, thì khi nào cũng chú thích năm tây. Tôi đã dùng một phép riêng để đổi ngày mà tôi đã giải trong báo Khoa học số 19 và 20. Các chữ viết tắt như sau :
Về Can, có 10
: G (giáp), A (ất), B (bính), Đ (đinh), M (mậu), K (kỷ), C (canh), T (tân), N (nhâ
m), Q (quí).
Về Chi, có 12 : Ty (tí), Su (sửu), Da (dần),
Ma (mão), Th (thìn), Ti (tị), Ng (ngọ), Vi (mùi, hay
vị), Ta (thân), Zu (dậu), Tu (tuất), Ho (hợi).
Về Giáp tí, có 60 : Ví dụ : A. Ma (ất mão).
Về Thời điểm. - Ví dụ : 20-12 năm A. Ma (Đ. Vi, DL 28-1-1076) phải đọc ngày 20 tháng chạp năm Ất Mão, là ngày Đinh mùi, Dương lịch là 28 tháng giêng năm 1076.
2°/ Chép chứng. - Khi nào chứng là một sách, thì tên sách viết hoàn toàn hay viết tắt (theo bảng sau), bên cạnh có chữ số là số mục quyển trong sách ấy ; nếu muốn biên số trương ở một bản nào thì sẽ có một sổ xiên rồi sau đề số tờ và theo sau có chữ a (là mặt trước) hay b (là mặt sau).
Chỉ có khi nào chứng dùng sách TB thì mới ghi trương như thế và lấy ở bản khắc của Đàm Chung-Lân.
Ví dụ :
TTh 9 : sách Tốc-thủy kỷ văn quyển 9.
TB 273 3a : sách Tục Tư-trị thông-giám trường biên quyển 273, tờ 3, mặt trước.
TS : Tống sử
Khi dẫn chứng bằng sách Toàn-thư, Việt-Sử-lược, tôi chỉ dẫn năm mà thôi. Vì biết năm thì tìm trong các sách ấy rất dễ. Thỉnh thoảng có dẫn số quyển và số trương trong sách TT (bản in đời Nguyễn), nhưng cũng ít khi.
Khi dẫn chứng tự lấy trong sách Lý Thường-Kiệt này, thì chỉ ghi số mục chương, số mục đoạn, hay số mục chú thích. Ví dụ :
(IV/ 3): Chương IV, đoạn 3 trong sách này.
(V/cth 2): chương V, chú thích 2.
3°/ Chép tên đất và tên người. - Chép tên đất và tên người thì chữ đầu tên viết hoa. Nếu tên có nhiều âm, sẽ theo lệ sau :
Về tên đất, chỉ có âm đầu có chữ hoa. Những âm sau đều chữ thường, nhưng các âm đều nối nhau bằng cái gạch ngắn.
Về tên người, phải chia ra hai khúc : Họ và tên. Họ thường có một âm, tự nhiên viết hoa. Nhưng có họ gồm hai âm, như Tư-mã; trong trường hợp ấy, chỉ âm đầu viết hoa và hai âm nối nhau bằng cái gạch con. Tên. Hoặc có một âm thì viết hoa là lẽ thường; hoặc có hai âm (chữ đệm và huý), thì hai âm đều viết hoa và có gạch nối giữa. Còn từ họ đến tên, thì không có gạch nối. Khi nào gọi tắt thì dùng tên gồm chữ đệm và chữ húy. Ví dụ : An-Thạch, Thường-Kiệt.
4°/ Bản đồ.- Các bản đồ đều ở cuối sách. Lúc giở, bản đồ hiện ra ngoài, để tiện cho sự vừa đọc vừa tra.
5°/ Chữ Nho .- Xem các bảng chỉ ở cuối sách.
BẢNG VIẾT TẮT CÁC TÊN TÀI LIỆU
Dẫn chứng
Trong sách này, mỗi lúc chép chuyện gì lấy ở một tài liệu nào thì cuối đoạn ấy, có dẫn chứng bằng cách viết tắt tên tài liệu ấy vào trong hai vòng đơn. Trong bảng dưới này, cột đầu là tên viết tắt. Sau có tên tài liệu. Rồi, nếu biết tác giả, thì ghi tên bằng chữ xiên. Cuối là ghi tài liệu ấy viết vào thời đại nào.
ANCL An-nam chí-lược. Lê Tắc (Trần)
ANCN An-nam chí-nguyên. Cao Hùng-Trưng (Minh)
B Le bouddhisme en Annam. Trần Văn-Giáp
BA Bia chùa Báo-ân(Lý)
BM Tục-tư-trị thông-giám trường-biên bản-mạt. Dương Trọng Lương (Tống) CM Khâm-định Việt-sử thông-giám cương mục (Nguyễn) CN Chinh nam nhất tống văn-tư. Quách Quì (Tống)
ĐĐSL Đông-đô sự lược. Vương Xưng (Tống)
ĐHBL Đông-hiên bút lục. Ngụy Thái ( Tống) ĐKĐD Đồng-khánh địa-dư (Nguyễn)
ĐNNTC Đại-nam nhất-thống-chí (Nguyễn)
ĐP Đàm phố. Tôn Thăng (Tống)
HN Bia chùa Hưng-nghiêm (Lý)
HVDĐC Hoàng-Việt dư-địa-chí. Phan Huy-Chú (Nguyễn) KL Kê lặc. Trang Xước (Tống)
LNĐĐ Lĩnh-ngoại đai đáp. Chu Khứ-Phi (Tống) LX Bia chùa Linh-xứng. Hải-chiếu đại-sư Pháp-Bảo (Lý) MC Mộ-chí
: Quách Quì. Phạm Tổ-Vũ (Tống)
Triệu Tiết . Phạm Bách-Lộc (Tống)
Yên Đạt. Tăng Bố (Tống)
Lưu Khánh-Đàm (Lý)
Lưu Khánh-Ba (Lý)
MKBĐ Mộng-khê bút đàm. Thẩm Hoạt (Tống) NBS Thần phổ Lý Thường-Kiệt. Nhữ Bá-Sĩ (Nguyễn) NL Nhật-lục (Tống)
NTDT Nhị Trình di-thư. Trình Di và Trình Hạo (Tống) PBTL Phủ-biên tạp-lục. Lê Quí-Đôn (Lê)
QHNHC Quế-hải Ngu-hành-chí. Phạm Thành-Đại (Tống)
SK Đại-Việt sử-ký (Nguyễn Tây Sơn)
SNDKT Bia chùa Sùng-nghiêm-diên-thánh. Hải-chiếu đại-sư Pháp-Bảo (Lý) STCT Sở thụ chiếu trát tăng tu. Quách Quì (Tống)
STDL Bia tháp Sùng-thiện-diên-linh. Nguyễn Công-Bật (Lý) TB Tục-tư-trị thông giám trường-biên. Lý Đào (Tống) TCK Thời-chính-kỷ (Tống)
THY Tống hội-yếu (Tống)
TĐ Tùng-đàm. (Thái Thao (Tống)
TL Thực-lục : Tống Thần-Tông (Chu-bản và Mặc-bản) Tống Triết-Tông (Tống)
TNDĐC Thiên-Nam dư-địa-chí (Lê)
TNTC Thiên-Nam tứ-chí (Lê)
TS Tống-sử (Nguyên)
TS 14, 15Thần-tông kỷ
TS 290 Quách Quì truyện, Địch Thanh truyện
TS 325 Dư Tĩnh truyện
TS 332 Triệu Tiết truyện. Lý Sư-Trung truyện. Lục Sằn truyện
TS 334 Thẩm Khỉ truyện. Lưu Di truyện. Tiêu Chú truyện. Hùng Bản truyện. Đào Bật truyện.
TS 349 Yên Đạt truyện. Diêu Tự truyện
TS 350 Hòa Mân truyện. Khúc Chẩn truyện.
TS 446 Tô Giàm truyện.
TS 488 Giao-chỉ truyện.
TS 489 Chiêm-thành truyện.
TS 495 Quảng-nguyên-châu man truyện. Nùng thị.
TT Đại-Việt sử-ký toàn-thư. Ngô Sĩ-Liên (Lê)
TTh Tốc-thủy kỷ-văn. Tư-mã Quang (Tống)
TUTA Thiền-uyển tập-anh ngự-lục (Trần)
ƯTĐDC Ức-trai dư-địa-chí (Lê)
VĐLN Vân-đài loại-ngữ. Lê Quí-Đôn (Lê)
VĐUL Việt-điện u-linh. Lý Tế-Xuyên (Trần)
VKT Việt-kiệu-thư. Lý Văn-Phượng (Minh)
VSL Việt-sử-lược (Trần)
Bảng đối-chiếu các đời vua Lý Tống
Bảng đối-chiếu lịch Đông, Tây
Phần thứ nhất – Bại Chiêm Phá Tống
CHƯƠNG NHẤT – GỐC TÍCH
1. Gốc tích
Lý Thường-Kiệt quê phường Thái-hòa, ở trong thành Thăng-long, phía hữu (VĐUL) nghĩa là phía tây (HVDĐ). Thái-hòa cũng là tên một núi nhỏ ở phía tây trong thành Thăng-long, bây giờ, ở phía nam đê Bách-thảo, gần chỗ rẽ xuống trường đua ngựa. Lý Thường-Kiệt có nhà ở gần núi ấy.
Tuy là họ Lý, nhưng ông không phải là người hoàng tộc. Theo bia NBS, có chỗ chép tên húy ông là Tuấn, và nói Thường-Kiệt chỉ là tự mà thôi. Nhữ Bá-Sĩ bàn rằng có lẽ ngày xuất thân mới dùng tự làm tên.
Cha, tên An-Ngữ, sung chức Sùng-ban-lang-tướng1 ở triều Lý. (VĐUL)
Mẹ, họ Hàn. Năm 20 tuổi sinh Thường-Kiệt. Ấy vào năm Thuận-thiên thứ 10 (1019) đời Lý Thái-Tổ. Sau lại sinh Lý Thường-Hiến, mà có chỗ cũng gọi là Thường-Hiển. (NBS)
Khoảng niên hiệu Thiên-thành, đời Lý Thái-Tông, cha đi tuần biên địa, ở Tượng-châu, thuộc Thanh-hoá, bị bệnh rồi mất vào năm Tân-mùi (1031). Thường-Kiệt bấy giờ mười ba tuổi, đêm ngày thương khóc không dứt. (NBS)
Chồng cô, là Tạ Đức thấy thế, đem lòng thương và dỗ dành. Nhân đó hỏi ông về chí hướng. Ông trả lời : ” Về văn học, biết chữ để ký tên là đủ. Về vũ học, muốn theo Vệ Thanh, Hoắc Khứ2, lo đi xa vạn dặm để lập công, lấy được ấn phong hầu, để làm vẻ vang cho cha mẹ. Đó là sở nguyện “. Tạ Đức khen là có chí khí, bèn gả cháu gái tên là Thuần Khanh cho ông, và dạy cho học các sách binh thư họ Tôn, họ Ngô.
Thường-Kiệt đêm ngày học tập. Đêm đọc sách, ngày tập bắn cung, cưỡi ngựa, lập doanh, bày trận. Các phép binh thư đều thông hiểu cả. Tạ Đức lại khuyên đọc sách nho. Thường-Kiệt rất chịu gắng công học tập, nên chóng thành tài.
Đoạn trên này, chép theo bia NBS, là một bia mới dựng đời Tự-Đức. Chắc rằng Nhữ Bá-Sĩ chép theo thần phổ. Thần phổ phần nhiều là lời chép tục truyền hay lời bịa đặt, ta không thể hoàn toàn tin những chi tiết quá rõ ràng chép trong thần phổ. Nhưng sự giáo dục Thường-Kiệt kể trên đây là hợp với những điều ta còn biết về đời nhà Lý.
Từ lúc nhà Đinh mở nước, các vua đều lấy vũ công mà gây dựng cơ đồ. Đến Lý Công-Uẩn, xuất thân cũng là tay vũ tướng. Cho nên triều đình và xã hội bấy giờ chuộng vũ. Thanh niên thì lấy nghề làm tướng là vinh. Hễ mỗi khi có giặc dã nổi lên, tuy tại nơi rất xa lánh, vua cũng thân chinh, hoặc sai hoàng tử đi cầm quân. Lý Thường-Kiệt con một vũ tướng, được dạy nghề vũ, thích nghề vũ ; sự ấy là lẽ dĩ nhiên.
Còn về nho học, bấy giờ chưa thịnh. Phần vì óc thượng vũ, phần vì tục mộ Phật và dị đoan rất mạnh ở dân gian cũng như trong cung điện, cho nên nho học, từ đời Hán đưa vào, tuy bấy giờ vẫn được duy trì, nhưng phải đợi đến năm 1070 mới dựng Văn-miếu, và năm 1075 mới có khoa thi nho3. Trước năm 1040, Lý Thường-Kiệt học sách nho, là một việc đáng được chú ý và ghi chép.
Năm ông 18 tuổi (1036), mẹ mất. Hai anh em lo đủ mọi lễ tống táng. Trong khi cúng tế, hễ có việc gì, cũng tự tay mình làm. (NBS)
Lúc hết tang, nhờ phụ ấm, Thường-Kiệt được bổ chức Kỵ mã hiệu-úy, tức là một sĩ quan nhỏ về đội quân cưỡi ngựa.
2. Vào cấm đình
Năm lên 23 tuổi, là năm Tân-tị (1041), niên hiệu Càn-phù hữu-đạo đời Lý Thái-Tông, ông được bổ vào ngạch thị vệ để hầu vua, và sung chức Hoàng môn chỉ-hậu. Chức này là một chức hoạn quan.
Như trên đã nói, ông cưới vợ mấy năm về trước. Thế thì, vì lẽ gì ông lại tĩnh thân để làm hoạn quan ? Về việc này có nhiều thuyết.
Bia LX, dựng đời Lý, chỉ nói tóm tắt rằng : ” Lúc ông còn nhược quán, được cử vào cấm thát hầu vua Thái-Tông hoàng đế “. Hai chữ nhược quán nghĩa là tuổi vào khoảng hai mươi, gần đúng như lời bia NBS. Sách VĐUL, đời Trần, chép rằng : ” Vì ông có dáng mặt đẹp, nên mới tĩnh thân mà sung vào chức Hoàng môn chỉ-hậu “. Theo hai sử liệu xưa trên, thì ông tự yếm mà làm hoạn quan.
Nhưng bia NBS có kể lại rằng : ” Về việc này, có hai thuyết. Một thuyết : lúc vua Lý Thái-Tông đánh bắt được Nùng Trí-Cao rồi lại thả ra (1041), ông nhất thiết can ; vua cho là thất lễ, bèn phạt bắt tĩnh thân. Sau khi ông trở về nhà,
vua lại triệu vào hầu cận. ” Thuyết thứ hai là thuyết đã thấy ở sách VĐUL ; rằng : Vua thấy mặt mũi đẹp đẽ, cho ông tiền ba vạn, bảo tự yếm.
Lý Thường-Kiệt đã tự yếm ; đó là một sự thật, vì tuy thần tích có nói ông đã lấy vợ, mà sau, sử ta cũng như sách Mộng-khê-bút-đàm của người Tống đều nói ông là một hoạn quan. Thuyết nói ông vì can vua mà bị nhục hình, thì chắc sai. Việc bắt tha Nùng Trí-Cao là vào tháng 11 năm Tân-tị, 1041.Và cũng năm ấy ông được vào cấm thát. Không lẽ trong hai tháng cuối năm, mà ông bị phạt nặng rồi được cất lên cao như thế. Vả không lẽ vua vừa tha và phong hầu cho một nghịch thần, mà lại bắt tự yếm một người tôi trung, trẻ tuổi.
Thuyết sau có lý hơn. Hoạn quan xưa nay nhiều quyền thế, vì thường ngày ở cạnh vua. Nhất là từ đời Đường, hoạn quan lại càng được thế. Khi trước, tuy được vua tin nghe, nhưng hoạn quan cũng thường chỉ hành động trong cung thất. Từ đời Đường, thì được công nhiên cầm chính quyền hay làm đại tướng. Vì những lẽ ấy, đời sau lắm kẻ tự tĩnh thân để được chọn. Đối với Lý Thường
Kiệt, có đặc biệt hơn là được vua ban tiền và sai làm. Ông nghe lời. Bấy giờ ông 23 tuổi. Không biết bà vợ ra sao, hay là lúc ấy đã mất rồi. Không sách nào nói đến.
Ông vào cấm thát. ” Chưa được một kỷ (12 năm), tiếng nổi nội đình ” (Bia LX). Được thăng nhiều lần, lên đến chức Đô-tri, ông coi tất cả mọi việc trong cung. (VĐUL và bia NBS)
Năm Lý Thánh-Tông lên ngôi (1054, ông 36 tuổi), vì đã có công phù dực, ông được thăng chức Bổng-hành-quân-hiệu-úy, tức là một chức vũ quan cao cấp. ” Hàng ngày, ông hầu cận bên vua, hiến việc tốt, can việc xấu, giúp vua hết mọi cách. Vì cần lao giúp rập, nên được cất lên chức Kiểm-hiệu-thái-bảo (Bia LX), tức là một chức tại triều rất cao4.
3.- Kinh phỏng Thanh nghệ
Sách VĐUL (NBS cũng chép) chép rằng : ” gặp lúc trong nước, ở cõi tây nam, dân nổi lên chống các thuộc lại, dân Man Lào lại hay tới quấy rối. Vua thấy ông siêng năng, cẩn thận, khoan hồng bèn sai ông làm Kinh-phỏng-sứ vào thanh tra vùng Thanh-hoá, Nghệ-an, và trao quyền tiện nghi hành sự. Ông
phủ dụ dân khôn khéo, nên tất cả năm châu, sáu huyện, ba nguồn, hai mươi bốn động đều qui phục và được yên ổn “.5
Ấy là lần thứ nhất ông lập vũ công.
Về việc loạn này, trong sách TT không thấy chép. Duy chỉ sách VSL có biên rằng : ” năm 1061, Ngũ-huyện-giang ở Ái-châu6 nổi loạn “. Ngũ-huyện-giang là tên một vùng thuộc lộ Thanh-hoá. Đời Tiền-Lê và đời Lý thường dùng tên sông mà gọi đất có sông ấy, ví dụ Bắc-giang-lộ, Đà-giang-lộ. Theo hai bia đời Lý, bia HN và mộ chí Lưu Khánh-Đàm7, Ngũ-huyện-giang chắc ở Thanh-hoá, là sông Mã ngày nay. Vả TT chép đời Lê và Lý dân Lữ-long nổi loạn, tức là dân Mường vùng Cẩm-thủy ngày nay. Ý chừng Lý Thường-Kiệt vào kinh phỏng Ái châu là để dẹp loạn Mường và đúng năm 1061 ấy. Bấy giờ ông 43 tuổi.
CHÚ Ý : Con số cuối mỗi chú thích là số mục của đoạn cần chú thích trong chương này. Ví dụ (5)…3. Nghĩa là chú thích (5) ở đoạn 3 trên. CHƯƠNG II – ĐÁNH CHIÊM THÀNH
1. Duyên cớ
Đầu đời Lý, Chiêm-thành là một nước phồn thịnh, địa giới từ vùng Bình-thuận đến vùng Quảng-bình ngày nay. Ở cực bắc có châu Bố-chánh, ở phía nam núi Hoành-sơn, giáp địa phận Hoan-châu thuộc nước ta.
Vùng biên giới ấy không khi nào được yên hẳn. Châu Hoan và châu Ái bị quân Chiêm quấy nhiễu luôn. Các vua ta thường thường phải sai quân đi chinh phạt.
Ngay sau khi Đinh Tiên-Hoàng mới nhất thống sơn hà, mà nước đã bị quấy. Nguyên là, Đinh Bộ-Lĩnh đã diệt mười hai sứ quân, mà trong số ấy có Ngô Nhật-Khánh. Nhật-Khánh là dòng dõi Ngô Quyền. Bấy giờ y còn trẻ. Vua Đinh lấy mẹ y làm hậu, đem em gái y gả cho con giai mình là Liễn, và gả con gái mình cho Nhật-Khánh. Tuy nhiên, Nhật-Khánh vẫn oán ; bèn chạy vào Chiêm thành. Cuối năm Kỷ-mão (979), Nhật-Khánh đưa hơn nghìn thuyền Chiêm về
đánh kinh đô Hoa-lư. Chẳng may, khi vào cửa bể Đại-ác và Tiểu-khang (thuộc hải phận Ninh-bình Nam-định ngày nay. Đại-ác nay là Đại-an, tức là cửa Đáy, Tiểu-khang thuộc huyện Yên-mô), thuyền bị bão chìm. Quân Chiêm tan và Nhật-Khánh cũng bị chết. (TT)
Sau khi Lê Hoàn lên ngôi, sai sứ sang giao hiếu với Chiêm-thành (982). Hai sứ là Từ Mục và Ngô Tử-Canh đều bị Chiêm giữ lại. Vua Lê mang quân vào đánh, phá thành trì, hủy tông miếu, giết chúa và bắt vô số dân đưa về. (TT)
Đó là cuộc nam phạt đầu tiên trong lịch sử độc lập của các vua ta. Chiêm thành, vì đó, phải kinh sợ, nhún nhường. Có lúc vua Lê không chịu nhận sứ Chiêm, chúa Chiêm phải sai cháu là Chế Cai sang cống để tạ tội (994). Tuy vậy, năm 997 Chiêm lại ngấp nghé ở biên thùy. (TT)
Sau khi Lý Công-Uẩn lên ngôi, Chiêm-thành chịu cống. Năm 1011, có cống sư tử (có lẽ là tên cá sấu, xem II/4), nhưng năm 1020, vua Lý Thái-Tổ đã phải sai con là Khai-thiên-vương và tướng Đào Thạc phụ vào đánh đất Bố-chánh. (TT)
Chiêm-thành qua một hồi nội loạn ; các con cháu hoàng tộc tranh ngôi nhau. Cho nên nam thùy ta cũng được tạm yên. Thỉnh thoảng phái nào thua lại còn đem đồ đảng sang nước ta xin phụ, nhu con vua Chiêm sang năm 1039, và năm 1040 dân Bố-chánh kéo nhau hàng trăm tới ở nước ta. (TS 489)
Trong khoảng 16 năm, Chiêm-thành không hề cống hiến gì ta nữa. Mùa hè năm 1043, lại còn tới quấy ở ven bể. Vì thế, năm 1044, vua Lý Thái-Tông mới có cuộc thân chinh. Chuyến ấy, quân ta vào sâu trong nước, giết chúa là Sạ Đẩu, bắt 30 voi, 5000 nguời, và chém giết đến ba vạn người. Tháng bảy năm ấy, vua Lý kéo vào kinh đô, bắt cung nhân, nhạc nữ rất nhiều. (TT)
Sau cuộc đại bại này, Chiêm-thành rất kính nể ta ; và theo lệ cống hiến đều đều. Lúc hiến voi trắng, lúc hiến tê trắng, lúc sang mừng vua Thánh-Tông mới lên ngôi. Sách TT và nhất là sách VSL chép rất rõ ràng8.
Sau khi cống vua ta một con tê trắng vào năm 1065 (VSL), Chiêm-thành không sai sứ sang ta nữa. Thật ra, sách TT có chép rằng ” năm 1068, Chiêm thành hiến voi trắng, nhưng sau lại nhiễu biên giới “. Nhưng chắc TT lầm, vì một lẽ việc ấy không thấy chép ở VSL là sách chép rất đầy đủ về các việc Chiêm-thành cống vua ta, và lẽ nữa là còn có nhiều chứng cớ khác tỏ rằng từ năm 1065, Chiêm-thành tuyệt giao với ta9. Những chứng ấy, sau sẽ rõ.
Chứng đầu là lời bia LX nói rõ rằng : ” kịp đến khi nước Phật-thệ (tức là Chiêm-thành) hỗn phép không tới chầu, quân nhà vua rầm rộ kéo sang đánh “. Chứng thứ hai là sau khi khải hoàn, vua Lý dâng biểu sang vua Tống nói rằng : ” Chiêm-thành đã lâu không tới cống, tôi tự đem quân sang đánh, bắt được chúa nó về ” (TS 488). Hai tài liệu xưa ấy chứng rằng trong bốn năm (1065-1069) Chiêm-thành không tới cống vua Lý, và ta vin vào cớ này để đánh nước ấy.
Nguyên nhân sự chiến tranh Chiêm-Việt là sâu xa hơn, chứ không phải vì cớ trên mà thôi.
Một mặt, Lý Thánh-Tông là vua ta đầu tiên có óc lập một đế quốc, có danh ngang với một nước thiên tử. Vua đặt quốc hiệu Đại-Việt (1054), tôn các vua trước là Thái-Tổ, Thái-Tông, (TS 488 và LNDV 2), coi các nước nhỏ là chư hầu, và muốn ngăn cấm Chiêm-thành thần phục Tống.
Một mặt, Chiêm-thành trước bị Lý Thái-Tông đánh phá kinh đô, giết chúa, bắt dân, tự nhiên đã trở nên thâm thù với ta. Chiêm-thành lẩn lút sang thần phục Tống và tìm cách dựa thế Tống để trả thù ta. Năm Tống Hoàng-Hựu thứ 7 (1035), Quảng-tây an-vũ-sứ tâu rằng : ” Chiêm-thành vốn không hay tập binh. Ở gần Giao-chỉ, thường hay bị lấn. Nay Chiêm-thành soạn sửa quân bị đe åchống Giao-chỉ ” (TS 489)
Từ lúc Rudravarman III, mà sử ta gọi Chế-Củ, (TT) hay là Đệ-Củ (VSL), lên ngôi vào khoảng cuối năm 1061, chí báo thù của Chiêm lại càng mạnh. TS 489 chép rằng ” vừa mới lên ngôi, Dang-pu-sơ-li Lu-đa-ban-ma-đê-ba (Yan Pu Cri Rudravarmandra, theo Le Royaume du Champa của Maspéro) tổ chức vũ bị, luyện tập binh lính. Lại sai sứ sang Tống cống phương vật và xin mua ngựa. Vua Tống ban cho một con ngựa bạch và cho phép mua lừa ở Quảng châu “.
Xem thế thì ta cũng không lấy gì làm lạ rằng Rudravarman III không chịu cống vua Lý nữa, và vua Lý Thánh-Tông nhân đó đánh Chiêm-thành. Xét chính sách triều Lý, sau này, ta sẽ thấy rằng các vua Lý có định tâm lấn nước Tống để mở bờ cõi miền bắc. Đối với Chiêm-thành hèn yếu hơn Tống vạn bội, chắc rằng vua Lý Thánh-Tông cũng muốn xâm chiếm đất đai.
2. Sửa soạn
Đối với một cuộc hành binh vĩ đại như cuộc này, sử ta chép rất sơ lược. Hình như đời Lê Thánh-Tông, đoạn sử này, của Lê Văn-Hưu để lại, đã bị thiếu sót, hay là Ngô Sĩ-Liên biên Đại-Việt Sử-ký Toàn-thư tự ý ước lược đi ? Sách TT chỉ nói qua một vài câu, không ghi chi tiết gì cả. May còn có sách Việt-sử-lược từ đời Trần y nguyên còn lại, chép khá rõ ràng.
Theo TT, quân ta có 5 vạn. Quân ấy không phải có sẵn cả. Phần lớn huy động dân thường.
Theo Chu Khứ-Phi (LNĐĐ 2) và Ngô Thì-Sĩ (SK3), khoảng đầu đời Lý, binh chế theo phép quân phủ vệ đời Đường và quân cấm sương đời Tống. Mục đích đầu là bảo vệ nhà vua ở kinh đô, chống những việc đảo chính cướp ngôi. Binh dùng về việc này là hạng binh tốt nhất, gọi là thân quân ; tên riêng là thắng quân hoặc cấm quân. Cấm quân họp thành một vệ, gọi là cấm vệ, Cấm-vệ chia ra 10 quân, mỗi quân gồm 200 người. Cả thẩy gồm 2.000 người, đóng chung quanh kinh thành, thường ngày túc trực. Lúc vua đi đâu xa, thì đi theo. Theo lệ nhà Lê, cấm quân đều có khắc ba chữ Thiên-tử-binh trên trán. Năm 1028, đời Lý Thái-Tông, có 10 quân cấm vệ, đặt tên là Quảng-thánh, Quảng-
vũ, Ngự-long, Bổng-nhật, Đằng-hải, mỗi hiệu đều có tả quân, hữu quân. Đời Lý Thánh-Tông, lại thêm lên 6 quân nữa. Cấm-vệ bấy giờ gồm có 16 quân, cộng 3.200 tên. Tên quân cũng đặt lại như sau (1059) : Ngự-long, Vũ-thắng, Long-dực, Thần-điện, Bổng-thánh, Bảo-thắng, Hùng-lược, Vạn-tiếp ; Mỗi hiệu cũng chia làm tả hữu.
Vì lần này, vua Thánh-Tông thân chinh, nên 3.200 cấm binh này chắc ở trong số 5 vạn nói trên.
Mục đích thứ hai của lính là giữ cuộc trị an trong nước và chống cuộc ngoại xâm. Về việc này, dùng lính hạng nhì như loại sương quân ở Tống. Quân này không có số nhất định (ANCL). Người dân nào đến tuổi cũng phải đăng lính, nhưng vẫn được ỏ nhà cày bừa, mỗi tháng mới phải đi phen một kỳ ngắn. ” Lúc chinh phạt, thì cất quân ấy giao cho các tướng. Nếu quân không đủ thì lấy dân đinh mà dùng. Việc xong rồi lại trở về cầy ruộng ” (SK). Trong khi phải đi phen, sương quân đóng ở các châu, huyện, để phòng bị khi có dụng binh. Hạng lính này, ngày thường, ít tập tành. Nhưng được số đông. Chắc trong số 5 vạn quân kia, sương quân chiếm phần lớn.
Số 5 vạn chép ở TT có thật hay không ? Nước ta dân số bấy giờ bao nhiêu, không thể biết được. Nhưng theo sự ta có thể chống lại 10 vạn quân Tống mấy năm về sau, thì chắc ta có hơn 5 vạn quân. Và phép kiểm điểm dân đinh bấy giờ rất ngặt, cách nuôi lính bấy giờ rất kiệm. Dân không trốn được, nuôi lính không tốn ; cho nên cất một đạo quân năm vạn chắc là dễ dàng10.
Đường giao thông bằng bộ vào Chiêm-thành gặp trở ngại. Theo lời sứ Chiêm tâu với vua Tống (1074), thì từ kinh đô Chiêm đến kinh đô Giao-chỉ phải đi 40 ngày và toàn đường núi (TS 489). Cho nên cuộc hành quân này chắc chắn chỉ dùng đường thủy. Mà thủy quân ta, từ trận Bạch-đằng đời Ngô Quyền, đã lập được nhiều chiến công.
Bắt đầu từ tháng năm năm trước, Mậu-thìn (1068), vua Lý sai sửa chữa và đóng thêm chiến hạm (VSL).
Tục ta đời xưa rất tin về điềm lành dư, nhận đó là ý trời tỏ cho biết trước sự thắng lợi hay thất bại của một việc mình dự bị làm ; hay nó tỏ ý trời muốn xui hay ngăn mình làm một việc gì. Nhất về đời Lý, óc dị đoan lại càng mạnh. Sử gia để ý đến tất cả những sự vụn vặt, nhưng khác thường. Sử nhà Lý trong VSL, sách khôngbị đời Lê sửa bỏ bằng cách nho hoá theo Khổng-giáo, còn chép rất nhiều những việc như voi trắng, sẻ trắng, rùa sáu chân, cau chín buồng. Chuyện rồng hiện thì nhiều lắm. Không biết bấy giờ có con vật gì (kỳ đà chăng ?) người ta cho là rồng, mà sử chép rồng hiện khắp nơi.
Tháng tám năm Mậu-thìn (1068), long chu (thuyền vua), đậu ở bến, vô cố dời đi ba thước (VSL). Đó là điềm vua sắp đi đánh xa, và là điềm hay. Tháng chín, rồng vàng hiện ở hai chiếc thuyền bể lớn là Vĩnh-xuân và Thanh-lãn. (VSL)
3. Xuất quân. Trận Nhật-lệ
Cuối năm Mậu-thìn (1068), thủy quân đã dự bị sẵn sàng. Đợi ra giêng, thuận gió bắc, sẽ xuất quân. Đến tháng hè, thuận gió nồm, quân sẽ trở về. Vua thân chinh sẽ chừng trong năm tháng.
Ngày Mậu-tuất tháng hai năm Kỷ-dậu là ngày dương lịch 24 tháng hai 106911 vua Lý Thánh-Tông hạ chiếu thân chinh Chiêm-thành (VSL). Quân có 5 vạn (TT). Lý Thường-Kiệt được chọn làm đại tướng quân và đi tiền phong (VĐUL và bia NBS), kiêm chức nguyên soái (VSL). Ông xin cho em, là Thường-Hiến đi theo ; Hiến được trao chức tán kỵ vũ uý (bia NBS).
Số quân năm vạn kia chắc hoàn toàn đi đường thủy. Nếu mỗi mành chở được 250 quân và lương thực, thì phải chừng 200 chiếc. Lúc Lý Thái-Tông đánh Chiêm-thành (1044), đã sai đóng vài trăm chiến thuyền. Vậy, chuyến này chắc cũng có số thuyền ấy.
Từ đời Lý Thái-Tông, có đặt lệ tuyên thệ. Mỗi đầu năm, hay mỗi lúc có việc quan hệ, các triều thần hội lại, hoặc ở đền thờ vọng thần Đồng-cổ, hoặc ở sân Long-trì, rồi cùng phát lời thề : ” Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần minh giết chết ”12 Lần này, vua sắp đi vắng kinh đô lâu. Sự biến rất có thể xẩy ra trong nước. Kẻ có lòng tranh ngôi, sẽ có cơ hội rất thuận tiện. Vì vậy, ngày Đinh-mùi (DL 5-3) quần thần phải hội tại Long-trì để tuyên thệ.
Ba ngày sau, ngày Canh-tuất (DL 8-3 VSL chép Canh-dần, chắc lầm), vua xuống thuyền xuất quân, giao quyền bính lại cho Ỷ-Lan nguyên phi (TT) và thái sư Lý Đạo-Thành13.
Thuyền xuôi dòng sông Lô (Nhị-hà), qua Lý-nhân-hành-cung (vùng Nam xương), rẽ xuống phía Nam, rồi ra cửa Đại-an. Cửa Đại-an nay trên sông Đáy, cách bể chừng 20 cây số, thuộc địa phận làng Quần-liêu, huyện Đại-an, tỉnh Nam-định. Cửa ấy hồi cận đại cũng có tên cửa Liêu-hải. Từ Lý về trước, cửa này là chỗ các thuyền mành qua lại để đi từ các sông nước ta ra bể vào Nam14.
Bảy ngày sau khi dời khỏi Thăng-long, thuyền đến Nghệ-an ; vào ngày Đinh-tị (DL 15-3). Từ đó đến cửa Nam-giới, thuyền đi mất ba ngày. Cửa Nam-giới, nay gọi là cửa Sót, ở phía Nam núi Hồng-lĩnh, thuộc phủ Thạch-ha, tỉnh Hà tĩnh. Bờ Nam cửa có núi, nay còn tên núi Nam-giới. từ Lý về trước, cửa này là cửa bể lớn cuối cùng ở vùng nam nước ta, trước các cửa nước Chiêm-thành. Có lẽ tên Nam-giới (bờ cõi phía Nam) lấy nghĩa ở sự ấy. Cửa này can hệ, vì lẽ, lúc bấy giờ quân Chiêm thường vào nước ta bằng chỗ đó, và từ Nghệ-an đi vào có con sông nhỏ dọc theo phía núi Hồng-lĩnh rồi ra cửa ấy. Đời sau lúc Lê Thánh-Tông đi đánh Chiêm-thành cũng qua sông ấy15. Có lẽ Lý Thánh-Tông cũng dùng đường này. Thật ra thuyền thường đi khoảng này, dài chừng 50 cây số, chỉ mất một ngày. Nhưng sông hẹp, chiến thuyền lớn, đi chậm hơn. Vả chắc quân có đóng nghỉ lại Nghệ-an. Sách VSL chép : ” lúc tới Nghệ-an, rồng vàng hiện ở thuyền Kim-phượng, ” một thuyền riêng của Lý Thánh-Tông. Ngày Canh-thân (DL 18-3), tới Nam-giới, ” rồng ” lại hiện ở thuyền ấy.
Năm ngày sau (A. Su, DL 23-3), quân đến cửa Nhật-lệ là cửa Đông-hải ngày nay. Đây là cửa bể thứ ba của Chiêm-thành, kể từ núi Hoành-sơn vào. Cửa đầu nhỏ, là cửa Di-luân hay cửa Ròn. Cửa thứ hai rộng nhưng cạn, là cửa Bố chánh hay cửa Gianh. Hai cửa này không quan hệ lắm về việc phòng thủ.
Địa thế nuớc Chiêm-thành rất đặc biệt : một giải đất hẹp và dài, chẹt giữa bể đại dương và núi cao ngất. Phía bắc, có núi Hoành-sơn và sông Bố-chánh (sông Gianh) ngăn cản đường từ Giao-chỉ vào. Giải đất hẹp ấy lại bị nhiều dãy núi chắn ngang đến bờ bể. Ngoài núi Hoành-sơn ở cực bắc, có núi Hải-vân ở phía nam Thuận-hoá, núi Thạch-tân ở phía nam Quảng-ngãi, núi Đại-lãnh ở phía nam Phù-yên. Các dãy núi ” xương sườn ” ấy ngăn thành mấy cánh đồng : Bình-Trị-Huế, Nam-Ngãi, Bình-Phú, Khánh-Thuận. Dân Chàm chỉ ở các đồng bằng ấy, và hình như giao thông với nhau chỉ toàn đường bể. Đường Thiên-lý bấy giờ chưa có. Vì thế, vua Chiêm chỉ để ít quân phòng thủ ở Bố-chánh, và thủy quân tập trung ở cửa Nhật-lệ. Đại quân đóng giữ Kinh-đô và cánh đồng Bình-định ngày nay.
Lúc thuyền quân ta tới Nhật-lệ, thủy quân Chàm chặn đánh. Lý Thánh-Tông sai tướng đại-liêu-ban Hoàng Kiện tiến đánh. Quân Chiêm thua. Sách VSL chép việc ấy, không nói gì thêm. Nhưng thấy sau này, quân ta tiến xuống miền nam không bị ai ngăn cản, thì ta đoán rằng thủy quân Chiêm bị tan vỡ ở đây.
Quân ta không đổ bộ ở Nhật-lệ, vì mục đích vua Lý là phá Kinh-thành và bắt chúa. Cho nên thuyền quân lại thẳng xuống phương nam. Thuyền dọc theo bờ bể, vượt khỏi những đồi cát trắng mà ta còn thấy ngày nay. Bốn ngày sau qua khỏi khoảng cát Đại-tràng-sa16. Ấy vào ngày Kỷ-tị tháng hai (DL 27-3).
Ngày hôm sau (C.Ng, DL 28-3), thuyền đến cửa Tư-dung. Cửa này nay gọi là Tư-hiền. Xưa cửa rất sâu (ĐNNTC), thông với phá Hà-trung (Cầu Hải ở địa đồ Đông-Dương), và là cửa vào các phá và sông thuộc xứ Ô Lý (Thuận-hoá), vì bấy giờ chưa có cửa Thuận-an. Phá Hà-trung sâu và kín17
Thủy quân Chiêm đã bị phá. Cho nên thuyền ta vào nghỉ ở Tư-dung không bị cản trở gì. Rồi Thánh-Tông lại theo bờ bể xuống miền nam.
Thuyền đi được ba ngày, có ” rồng ” hiện ở ngự chu là thuyền Cảnh-thắng. Sáu ngày khi dời bỏ cửa Tư-dung, quân ta tới cửa çri Bonei (Sơ-li-po-nai) nhằm vào ngày Bính-tý18 đầu tháng ba (DL 3-4). Cửa Sơ-li-po-nai ở đâu ? Maspéro Le Royaume du champa) diễn ra çri Bonei, nhưng không nói địa điểm nào. VSL chép bằng hán tự đọc theo tiếng ta là Thi-lị-bì-nại. Ta biết rằng cửa bể lớn Qui-nhân tên xưa là Thi-nại. Lấy nghĩa, thì tên ấy không có nghĩa. Chắc là phiên âm tiếng Chàm. So sánh tên ấy với tên Thi-lị-bì-nại, thì ta có thể chắc rằng hai tên chỉ là một. Chỉ vì theo thói ta hay rút ngắn các tiếng dài để gọi cho tiện, cho nên cửa Thi-lị-bì-nại thành ra cửa Thi-nại. Và tính ngày đường thì từ Tư-dung đi sáu ngày đến Qui-nhân là phải. Từ Thăng-long đến çri Bonei, đã đi hết 26 ngày19.
VSL chép rằng lúc ngự thuyền tới đó, có hai con chim cùng bay theo, trông như muốn dẫn đường. Những điềm dọc đường đều là điềm tốt.
4. Trận Tu-mao
Thành Phật-thệ, kinh đô Chiêm-thành đời bấy giờ, ở vào địa phận tỉnh Bình định ngày nay. Tên Chàm là Vijaya ; sau có tên Chà-bàn ta thường chép lầm ra Đồ-bàn20. Vijaya ở phía bắc thành Bình-định bây giờ, bên nam sông Khu cương hay Hà-giao (Bản đồ họa-đồ-vụ Đông-dương), ở chính giữa một cánh đồng phì nhiêu hình thoi mỗi đường nối góc dài chừng 30 cây số. Ba phía, bắc, tây, nam, đều có núi cao che chở. Chỉ miền Đông là trực tiếp với nước, tại vũng Nước-mặn (vịnh Qui-nhân ngày nay).Vũng chạy dài từ bắc chí nam dài 20 cây số và thông với bể bằng cửa Thi-nại, hẹp và sâu. Muốn tới thành Vijaya, chỉ có do phía đông là dễ dàng. Sông Khu-cương chảy vào vũng Nước- mặn, góc cực bắc. Nhưng sông cạn, thuyền lớn khó vào. Vì thế mỗi lúc quân ta tới đánh Vijaya, đều đưa thuyền vào cửa Thi-nại rồi đổ bộ ở ven bờ vũng Nước-mặn.
VSL chép rằng quân ta đổ bộ, tiến lên đóng ở bờ sông Tu-mao, thấy tướng Chàm là Bố-bì-đà-la bày trận trên bờ sông. Quân ta xông tới đánh, giết tướng Bố-bì-đà-la. ” Quân Chàm chết nhiều không kể xiết “. Sông Tu-mao nói trên đây là sông nào ? Theo địa thế mà đoán, ta có thể ngờ là nhánh cực nam của hạ lưu sông Tam-huyện, mà sách ĐKĐD gọi là sông Tân-an. Có ba dòng sông chắn ngang đường tới Đồ-bàn ; sông này ở trước nhất. Theo bia NBS, khi gặp quân Chiêm, hai anh em Thường-Kiệt và Thường-Hiến chia quân làm hai cánh, đánh tạt ngang, chém được ba vạn người. Có lẽ đó cũng là trận sông Tu-mao, mà công trong trận đầu tiên này thật về Thường-Kiệt.
Trong Ức-trai dư-địa-chí, có kể chuyện rằng : ” Lý Thường-Kiệt kéo đại quân tới sông Phan-định. Sông Phan-định tiếp với phủ Hoài-nhân (gồm địa hạt thuộc tỉnh Bình-định từ Quảng-ngãi đến sông Khu-cương). Sông có nhiều sư tử (tức là cá sấu). ” Sư tử ” khuất phục được các thú khác ; tê, tượng đều phải sợ. Sông Phan-định có ba đoàn sư tử. Nó ở dưới nước, vẫy đuôi làm dợn sóng đổ thuyền. Lúc Lý Thường-Kiệt đánh Chiêm, đại quân kéo đến sông ấy, vì sợ ” sư tử “, quân không qua sông dễ dàng được “. Theo đó, sông Phan-định có thể cũng là sông Tu-mao21.
Qua khỏi sông Tu-mao, còn phải vượt hai sông khác mới tới Vijaya.
Nghe tin quân mình thua ở sông Tu-mao, Rudravarman III, đang đêm, đem vợ con bỏ thành chạy trốn về phía nam (VSL). Cũng đêm ấy quân ta kéo tới gần thành Vijaya. Lúc quân ta đến bến Đồng-la, (có lẽ trên sông Thạch-yển là sông chắn thứ ba, gần phía nam thành), người trong thành ra hàng. (VSL)
Vua Lý Thánh-Tông vào thành. Nhưng vua Chiêm đã trốn thoát. 5. Bắt vua Chiêm
Lý Thường-Kiệt đem quân đuổi theo xuống miền nam. Tháng tư quân ta đuổi đến biên giới nước Chân-Lạp (VSL). Bấy giờ Chiêm-thành gồm có vùng Phan rang, Phan-thiết ngày nay. Phan-rang, tên Chàm là Pandurango lại là một thành phố lớn. Có lẽ vua Chiêm đã chạy đến đó. Chân-lạp vốn là một cừu quốc với Chiêm (LNĐV). Vua Chiêm không giám chạy qua đó ; cùng thế phải ra đầu hàng. ” Lý Thường-Kiệt bắt được Đệ-Củ ở biên giới Chân-Lạp ” (VSL) và cầm tù cả thảy 5 vạn quân (NBS).
Cuộc đuổi bắt vua Chiêm kéo dài ngót một tháng, từ đầu tháng ba đến tháng tư.
Thế là Chiêm-thành bị đại bại. Tuy Lý Thánh-Tông tự cầm quân, nhưng công chiến thắng hoàn toàn về Lý Thường-Kiệt, từ trận đầu đến trận cuối. Việc hành quân kể lại trên đây, phần lớn lấy ở sách VSL. Còn sách chính sử ta là Đại-Việt sử ký toàn thư thì không những không chép những chi tiết trên, mà lại chép chuyện hoàn toàn khác. Sách ấy nói rằng : ” Vua đánh Chiêm lâu không thắng, bèn quay trở về. Về tới châu Cư-liên, nghe nói ở trong nước, bà Nguyên-phi (Ỷ-Lan) coi nội trị giỏi, khiến dân tâm hoà hiệp, cõi nước yên lặng. Vua tự than rằng : ” Kẻ kia là đàn bà, còn giỏi như vậy. Ta là đàn ông, há lại vụng về sao ? ” Rồi vua quay trở lại đánh ; bèn thắng “. Trong đoạn trên, có hai việc : một là thất lợi đầu tiên của quân ta, hai là vua Lý Thánh-Tông rút quân về rồi trở lại.
Về việc đầu, hình như có sự thiệt. Hoặc đó là vì tướng Chiêm, Bố-bì-đà-la, cản quân ta trên sông Tu-mao, hoặc là vì sông nhiều cá sấu mà quân ta không giám qua. Lẽ hợp hơn cả là vì vua Chiêm trốn thoát, chạy xa vào miền nam hiểm trở, quân ta khó lòng đuổi kịp và bắt được ; vua ta cho là chưa đạt được chủ đích. Rồi sử gia cho là ” đánh lâu không thắng “. Còn việc thứ hai cũng có thể xẩy ra. Nhưng không rõ châu Cư-liên ở đâu, thuộc nước ta hay nước Chiêm ? Và nếu vua Lý có trở về thật, thì chắc về đường thủy. Sử nói vua về đến châu Cư-liên, ấy muốn nói về đến hải phận châu ấy. Hiểu như thế, ta có thể nghĩ rằng hoặc giả sau khi lấy được Vijaya, vua Lý Thánh-Tông sai Lý Thường-Kiệt đem quân đuổi bắt vua Chiêm. Vua đợi mãi thấy chưa bắt được. Sợ vắng mặt lâu, trong nước nhà, dân sự không yên, nên đưa một phần quân về trước. Nhưng về dọc đường, được tin bà Nguyên-phi trị dân yên ổn, vua lại trở lại, đợi bắt được vua Chiêm. Nếu sự có thật, thì ta không hiểu vì lẽ gì VSL, là sách chép kỹ về việc đánh Chiêm-thành lần này lại không chép chuyện ấy.
6. Khải hoàn. Tha vua Chiêm
Sau khi bắt được Rudravarman III, vua Lý đãi yến quần thần tại điện vua Chiêm. Bấy giờ là tháng năm. Muốn tỏ sự hân hoan ” vua thân hành múa khiên và đánh cầu22 trước bệ “. (VSL)
Vua lại sai kiểm số tất cả các nhà trong và ngoài thành. Cả thẩy có hơn 2 560 khu. Đều sai đốt hết. (VSL)
Tháng ấy (tháng năm), vua kéo quân về, đem theo Rudravarman III. Ngày Quí-tị (DL 19-6), thuyền về đến cửa Tư-minh23. VSL chép rằng đêm ấy ” rồng ” hiện ở ngự thuyền. Bấy giờ là mùa hè, gió nồm thổi mạnh, thuyền về rất thuận. Ngày Kỷ-tị tháng sáu (có lẽ là Kỷ-hợi, DL 25-6), quân vượt bể, ” rồng vàng hiện ở thuyền Kim-phượng “. Ngày Mậu-thân (DL 4-7) qua các núi Lỗi-lỗi lớn và bé ở ngoài cửa bể Bố-chánh (Cửa bể sông Gianh, ở phía bắc Quảng Bình) thuyền vua đụng phải đá bị vỡ.24
Ngày Tân-dậu (DL 17-7) vua về đến Thăng-long, dừng thuyền ở bến Triều đông, trên sông Lô (Nhị-hà).
Cuộc rước vua về cung rất là long trọng. VSL còn ghi những chi tiết nhắc cho ta biết sự huy hoàng xán lạn của cuộc tiếp rước một vị vua viễn chinh khải hoàn. Các quan hữu tư sắp đặt binh lính nghiêm trang, nghi vệ rực rỡ. Vua lên bờ, ngự trên chiếc báu xa (xe nạm ngọc). Quần thần đều cỡi ngựa. Dắt vua Chiêm-thành theo sau. Vua Chiêm-thành mình mặc áo vải trắng, đầu đội mũ làm bằng cây gai. Tay trói sau lưng, có giây vải quyến buộc. Năm tên lính hiệu Vũ-đô dắt đi. Các đảng thuộc cũng bị trói dắt theo sau.
Tháng bảy, vua làm lễ tâu việc thắng trận ở Thái-miếu (VSL).
Cuối năm, sai Quách Sĩ-An và Đào Tông-Nguyên sang sứ Tống, để báo tin thắng trận. Lời biểu có câu : ” Nước Chiêm-thành đã lâu không tới cống. Tôi tự đem quân đánh, đã bắt được chúa nó về “. Vua Tống tuy không bằng lòng, nhưng cũng phải nhận sự Chiêm-thành là một phiên quốc của ta. Bèn ban cho chánh sứ Sĩ-An chức lục trạch và phó sứ Tông-Nguyên chức nội điện sùng ban. (TS 488)
Thế là vua Lý Thánh-Tông đã thỏa lòng tự lập : sau khi xưng Đế, lập được vũ công xứng đáng với danh hiệu ấy. Vua bèn đổi niên hiệu Thiên-huống báu tượng (trời cho voi quí) ra Thần-vũ để ghi vũ công lớn lao ấy.
Rudravarman III xin dâng đất chuộc tội. Vua Lý bằng lòng. Ba châu Bố-chánh, Địa-lý, Ma-linh thuộc Chiêm-thành từ đó nhập về nước ta. Nay là địa phận Quảng-bình và phía bắc Quảng-trị25.
Rudravarman III được tha về nước.
Vua Lý bèn thưởng quân công cho tướng sĩ. Ban cho Lý Thường-Kiệt chức tước sau này : Phụ-quốc Thái phó, dao-thụ Nam-bình tiết-độ-sứ, Phụ-quốc thượng tướng-quân, Thượng-trụ-quốc, Khai-quốc-công, Thiên-tử nghĩa nam (bia NBS
và VĐUL). Chức thái phó là thứ ba trong hàng tể chấp (I, cth 4) ; Tiết độ sứ là thứ hai trong hàng tướng ; tước là Thượng-trụ-quốc Khai-quốc-công. Đặc biệt là vua nhận ông làm con nuôi, tức là vào hàng vương ; và tuy ông ở triều, nhưng được giao cho coi binh lính ở vùng Nam-bình, có lẽ là ba châu mới giành được. Ông bấy giờ 51 tuổi.
Chẳng bao lâu vua lại trao ông chức Thái-úy, Đồng trung-thư môn-hạ bình chương-sự26 là chức thứ hai trong triều. Ông giúp vua trông nom quốc chính.
” Dân sự vì đó được nhờ “. (bia LX)
Đứng đầu triều có Thái sư Lý Đạo-Thành, đã giữ chức ấy từ năm Thánh-Tông lên ngôi (1054). Đạo-Thành và Thường-Kiệt giúp vua trong hai năm. Trong nước rất được yên ổn. Mùa hè năm Canh-tuất (1070) gặp trời đại hạn, lấy lúa, tiền, vải ở kho phát chẩn cho dân nghèo. Về hình luật, định số tiền cho tội nhân có thể nạp để chuộc tội (năm Tân-hợi 1071). Về tạo tác, mùa xuân năm Canh-tuất (1070), dựng điện Tử-thần. Về tôn giáo và giáo dục, bấy giờ là lúc Nho-giáo được chính thức tôn sùng : tháng tám năm ấy, vua sai dựng Văn miếu, tô tượng Khổng-tử. Chu-công và Tứ-phối, vẽ tượng 72 hiền để thờ trong miếu ; lại cho Hoàng Thái-tử tới đó học tập (TT). Có lẽ, ấy cũng có ảnh hưởng ít nhiều của sự Thường-Kiệt khi bé có đọc sách nho.
Tuy vậy, Phật-giáo cũng không bị sao lãng. Tháng chín năm ấy, dựng chùa Nhị-thiên-vương ở góc đông nam thành, vua viết bia chữ Phật27 cao một trượng sáu thước, để lại tại chùa Tiên-du (Phật-tích, Bắc-ninh ngày nay).
Thanh thế nước ta bấy giờ rất lớn. Tống phải kiêng nể. Vua Tống luôn luôn dặn biên thần đừng gây sự với ta. Còn Chiêm-thành, thì kính sợ và thần phục, năm Tân-hợi (1071), sư Chiêm tới cống (TT).
7. Kết quả
Về việc đánh Chiêm-thành, bia chùa Linh-xứng chỉ chép rằng : ” Kịp đến lúc Phật-thệ28 hỗn phép không tới chầu, quân nhà vua rầm rộ sang đánh. Ông có tài thao lược hơn người đời, vào trong cung giúp vua lo toan mưu kế, đặt binh luật để đi đánh dẹp. Hoàn-vương (tức vua Chiêm) bỏ thành chạy trốn, nhưng lại tự mình hiến thân chịu chém. Ông bèn bắt lấy, rồi đem quân khải hoàn. Vua luận công, gia thưởng và ban trật cho ông “.
Tuy tóm tắt nhưng đó cũng đủ chứng rằng trong cuộc nam phạt, Lý Thường Kiệt vừa làm tham mưu, vừa làm thống soái. Ông đã có công lấy thành, bắt chúa Chiêm, cho nên nước ta mới được nhường khoảnh đất ba châu phía nam dãy Hoành-sơn. Trong cuộc nam tiến của dân tộc Việt-Nam, Lý Thường-Kiệt có công đệ nhất, vì đã mở đường cho các đời Trần, Hồ, Lê, Nguyễn sau. Trước đó, tuy Lê Đại-Hành, Lý Thái-Tông cũng có đánh Chiêm-thành, nhưng mỗi lúc chỉ bắt người, lấy của rồi về, chứ không hề nghĩ tới mở mang bờ cõi.29
CHƯƠNG III – CẦM QUYỀN BÍNH
1. Văn võ phân tranh
Tháng giêng năm Nhâm-tý, Thần-vũ thứ tư, vua Lý Thánh-tông mất. Ấy vào ngày Canh-dần (DL 1-2-1072), thọ 50 tuổi. Hoàng thái tử Càn-đức lên ngôi ; Tức là Lý Nhân-tông.
Càn-đức là con Ỷ-lan nguyên phi. Sinh năm Bính-ngọ vào tháng giêng (1066). Bấy giờ mới bảy tuổi. Quyền bính ở trong tay Lý Đạo-Thành và Hoàng thái
hậu Thượng-Dương họ Dương.
Mẹ Càn-đức, tuy được phong làm Hoàng thái phi, nhưng không được tham dự chính quyền. Thái phi nguyên là Ỷ-lan phu nhân, một cô gái nhà quê. Nhân khi vua Thánh-tông hiếm con, đi cầu tự ở chùa làng Siêu-loại, gặp Ỷ-lan trong vườn dâu ; vua để ý tới, đem về cung30. Vì sau sinh con trai, nên được tôn làm nguyên phi. Khi Thánh-tông vắng mặt ở kinh (1069), Thái phi đã được thay vua cầm quyền. Thái tử còn trẻ; lẽ ra trước khi mất, vua cha phải phó thác cho một đại thần. Nhưng sử không chép vua Thánh-tông ủy quyền phụ chánh cho ai. Ta xem đó, nghi rằng vua mất một cách nhanh chóng, không kịp di chúc điều đó. Cho nên trong cung cấm có chuyện cạnh tranh. TT còn chép rằng : tháng chạp năm trước, vua mệt. Chiếu cho quan hữu ti rằng có ai vào lầm nhà dành cho quan chức đô tả hữu, thì sẽ phạt 80 trượng. Ý chừng là để đề phòng sự cướp quyền.
Phe Thượng-Dương thái hậu được Lý Đạo-Thành ủng hộ, nên Thái hậu được cầm quyền và Lý Đạo-Thành làm phụ chánh. (TT và VSL)
Lý Đạo-Thành là một bậc lão thần. Vua Thánh-tông lúc mới lên ngôi, đã chọn ông làm thái sư (1054, VSL). Ông ở ngôi tể tướng trong 18 năm. Nay vua còn trẻ, chức phụ chánh về ông là phải. Ông lại là một nhà nho học ; ông theo lẽ thường, tôn Thượng-Dương thái hậu lên chấp chính. Đó là một cớ xung đột giữa ông và Ỷ-lan thái phi. Là một văn quan, mộ nho, mộ phật, chắc ông chuộng hoà bình, trái với Lý Thường-Kiệt là một vũ tướng đương tuổi còn hăng hái (54 tuổi).
Thường-Kiệt vẫn giữ chức thái uý, cầm binh quyền, nhưng đứng sau thái sư Đạo-Thành. Đã có xung đột giữa hai người, thì chẳng bao lâu ắt có cuộc biến.
VSL chép rằng : ” ngày mồng 8 tháng tư năm ấy, (TT chép năm ấy là năm Thái-ninh năm đầu, còn VSL chép năm ấy vẫn để niên hiệu Thần-vũ) sau khi làm lễ tắm tượng Phật, nhân ngày Phật đản, vua Nhân-tông chọn quan đại liêu Nguyễn Thường-Kiệt làm kiểm hiệu thái úy, và Nguyễn Nhật-Thành làm binh bộ thị lang “. Họ Nguyễn đây là họ Lý mà đời Trần kiêng húy (tổ nhà vua là Trần Lý) mà đổi ra. Nhật-Thành chắc là Đạo-Thành. Chữ Đạo hình như vì húy nên đời Trần cũng hay đổi (XV/1).
Theo đó, bốn tháng sau khi Nhân-tông lên ngôi, phe Thường-Kiệt đắc thắng. Thường-Kiệt được cất lên làm tể chấp, còn Lý Đạo-Thành bị giáng xuống chức thị lang.
Đó là kết quả của sự Nguyên-thái-phi vận động ở trong. Cho nên ta không lấy làm lạ rằng năm sau, có cuộc Thái-phi ép Thái-hậu tự tử, để giành lấy chính quyền.
TT và VSL đều chép rằng : Thái-phi tính hay ghen, thấy mình là sinh mẫu mà không được dự chính, bèn nói với vua rằng : ” Mẹ già đã khó nhọc nuôi nấng con, mới có ngày nay. Bây giờ được phú quí, thì người khác giành mất chỗ. Họ sẽ đặt mẹ già vào chỗ nào ? ” Vua bèn giam Thái-hậu và 72 thị nữ vào cung
Thượng-dương (cung riêng của Thái-hậu), rồi ép phải chết theo vua Lý Thánh tông. (VSL chép 72 người, TT chép 76. Tục truyền cũng 72, và nói vì vậy, sau này Ỷ-Lan dựng 72 ngôi chùa để chuộc tội).
Còn Lý Đạo-Thành phải giáng chức, làm tả gián nghị đại phu, ra coi châu Nghệ-an (TT). Đạo-Thành ra đó lập viện Địa-tạng, trong ấy để tượng Phật và vị hiệu vua Lý Thánh-tông để thờ. Lý Thường-Kiệt chuyên cầm quyền bính cùng Thái-phi, mà bấy giờ cũng tôn lên làm Linh-nhân Hoàng thái hậu. (TT)
Tuy các sử không đâu chép, nhưng trong việc khuynh đảo Thượng-dương thái hậu, chắc Thường-Kiệt có một phần trách nhiệm. Sử chỉ đổ lỗi cho Ỷ-Lan xui con, và cho Nhân-tông, vì nhỏ tuổi, nghe lời mẹ. Nhưng thật ra, vua mới tám tuổi ; Thượng-dương lại cầm quyền. Nếu không có một đại thần, cầm quân đội trong tay, giúp, thì làm sao ép được Thái-hậu tự tử ? Còn Lý Đạo-Thành, theo như lời bàn của Ngô Sĩ-Liên (TT), chắc đã phản kháng việc ấy, nên mới bị biếm ra Nghệ-an, và mới ôm hận, mang theo thần vị vua Thánh-tông để thờ. Đạo-Thành làm thế để tỏ lòng uất ức.
Một sự đáng làm ta chú ý đến, là trong TT không hề nói đến Thường-Kiệt trong khoảng đầu đời Nhân-tông. Nhưng nhiều sách khác của người Tống nói rõ địa vị của ông ; và, như ta đã thấy trên, VSL, là sách viết tự đời Trần, và chưa từng bị sửa chữa lại, cũng nói rõ ông được làm thủ tướng. Chính bia LX cũng nói rõ rằng : ” Lúc đầu thời Thái-ninh, vua ta nay là Minh-hiếu Hoàng đế, cầm vận nước lên ngôi. Vì ông (Thường-Kiệt) có tài, văn ngang Y-Doãn, vũ sánh Hoắc-Quang, nên vua giao coi việc dại chính và phó xã tắc cho ông ”31. VĐUL cũng nói : ” Lúc Nhân-tông lên ngôi, trao cho ông chức Phụ-quốc thái úy “, ấy cũng hợp với VSL. Các sách Tống nói rõ ràng hơn. Sách MKBĐ (Quyển 2) rằng : ” Nhật-tôn (Thánh-tông) mất. Càn-đức lên, lấy hoạn quan Lý Thượng-Cát và mẹ Lê thị Yến-loan thái phi cùng coi việc nước “.Người Tống chép theo âm, nhưng ta cũng nhận thấy tên Lý Thường-Kiệt và Ỷ-lan thái hậu. Sách LNĐĐ cũng nói : ” Nhật-tôn mất, con là Càn-đức lên, tự gọi là Minh vương. Quyền về tay bầy tôi. Đại thần Thượng-Cát cầm đầu “. Sách TB (279/11a) cũng chép tên Lý Thượng-Cát ấy. Cho đến bia NBS, của Nhữ Bá-Sĩ dựng đời Tự-đức, mà cũng chép : ” Lúc Nhân-tông lên ngôi, Lý Thượng-Cát dự chính “. NBS tưởng Thượng-Cát và Thường-Kiệt là hai người.
Những chứng cớ trên làm ta không thể nghi ngờ rằng, hoặc trước, hoặc sau khi Thượng-dương Thái-hậu mất, Thường-Kiệt cầm hết quyền bính trong tay : văn và vũ. Vả, vì đó, Thường-Kiệt đã a phụ Ỷ-lan trong việc tranh giành ngôi thứ với Hoàng Thái-hậu, và trong việc bức tử 72 nhân mạng.
Đó là một vết đen trong sử xán lạn của Lý Thường-Kiệt. Nhưng ông là võ tướng ; trong trận đánh Chiêm, cũng như sau này, trong các trận đánh Tống, ông còn hi sinh biết bao là nhân mạng nữa, gấp trăm ngàn lần sự bức sát này.
Muốn gỡ tội ít nhiều cho Ỷ-lan, và có lẽ cho ông, ta nhận đời Lý còn giữ tục bắt các cung nhân chết theo vua. Xem như sau khi Ỷ-lan mất (1117), có ba
thị nữ chết theo, (TT và VSL) và sau khi vua Lý Nhân-tông mất (1127) cũng có cung nữ lên đàn lửa để chết theo vua. (TT)
Trên kia đã nói, sách TT không hề nói đến chuyện Lý Thường-Kiệt cầm quyền tể tướng. Chắc rằng, đời sau, khi Lê Văn-Hưu, hay Ngô Sĩ-Liên viết sử, Khổng học đã thịnh, kẻ học giả đã dùng sử học làm một khoa luân lý ; cho nên tự sửa chữa các việc cũ theo ý ấy. Thường-Kiệt là một hoạn thần, mà hoạn thần xưa nay không được nho thần trọng. Nho thần lấy khoa cử xuất thân, coi hoạn thần như là đầy tớ trong cung. Vả từ cuối đời Hán về sau, các hoạn thần đã lạm dụng sự gần gũi cung cấm mà tiếm quyền, cho nên đời sau rất ghét hoạn quan cầm quyền bính . Có lẽ Lý Thường-Kiệt cũng bị ghét lây. Sử gia cho ông không đáng chức tể tướng, cho nên tước khử sự ấy trong sử cũ mà không chép lại.
2. Liên kết nhân tâm
Vua gia phong cho ông chức Đôn-quốc thái-úy, Đại-tướng-quân, Đại-tư-đồ và ban cho hiệu Thượng-phụ-công. Thế là ông coi việc văn, việc vũ, và kiêm cả chức cấm quan. ” Ông bấy giờ, trong thì cầm đại chính, ngoài thì coi sư lữ. Dốc một lòng lấy sự yên xã tắc làm vui. Trong ngoài đều được yên ổn ” (NBS). Bấy giờ ông 55 tuổi (năm 1073).
Sự yên ổn ấy chỉ có bề ngoài. Thật ra, ở biên thùy có nhiều triệu chứng chiến tranh. Năm sau (Giáp dần 1074) Chiêm-thành lại bắt đầu quấy biên cảnh (TT) và dọc biên giới miền bắc, Tống cũng sửa soạn việc động binh.
Có lẽ, vì thế, Lý Thường-Kiệt lo toan đoàn kết trong nước để kết thúc nhân tâm. Việc đầu tiên là xóa sự hiềm khích gây ra vì chuyện Thượng-dương thái hậu. Năm ấy (Giáp-dần 1074), mời Lý Đạo-Thành từ Nghệ-an trở về, giữ chức Thái-phó, bình-chương quân quốc trọng sự, hiệp tác với Thuờng-Kiệt coi việc dân và quân trong nước, để cho Thường-Kiệt rảnh tay sắp đặt việc chống Tống, và thay ông trong khi phải xuất ngoại cầm quân.
Lý Đạo-Thànhlà một bậc lão thành, được sĩ phu ngưỡng vọng. Việc ông bị biếm vào Nghệ-an chắc đã gây mầm chia rẽ lớn ở triều.
Bấy giờ, bên triều Tống, cũng có việc hai phái tân cựu cạnh tranh. Tân và cựu, không phải chỉ trong phương pháp (VI/3), nhưng ở cả cá nhân. Phái tân có thủ lĩnh Vương An-Thạch ; trong phái ấy, người đều còn trẻ. Phái cựu gồm hầu hết các lão thần. Thấy Vương An-Thạch và đồng phái đều còn ít tuổi mà lên cầm quyền, phái cũ không bằng lòng, cho nên sự xung đột về chủ nghĩa lại tăng kịch liệt.
Chắc rằng, ở nước ta cũng chịu ảnh hưởng của cuộc xung đột ấy. Vua còn trẻ, đáng lẽ các lão thần phụ chính. Mà bây giờ, quyền lại vào tay một vũ tướng mới hơn 50, thêm là một hoạn quan. Phái già chắc bất mãn. Muốn lấy lòng phái ấy, Thường-Kiệt tất phải hậu đãi các lão thần. Vì vậy mới có việc mời Lý Đạo-Thành trở về dự chính, và việc vua hạ chiếu cho phép những công thần 80 tuổi, mỗi khi vào chầu, được chống gậy và ngồi ghế. (TT)
Việc thứ hai, là tôn kẻ học giả, để chiêu dụ hiền tài. Từ trước, tuy có lập Văn miếu (1071), tuy có dùng nho quan, nhưng chưa hề có mở khoa thi để khuyến khích và tuyển nhân tài. Năm Ất-mão (1075), vào tháng hai, vua hạ chiếu tuyển các nhà minh-kinh bác- học, chọn kẻ hiểu sách Kinh, học rộng, và mở khoa thi Nho đầu tiên ở nước ta. Lê Văn-Thịnh đậu khoa ấy, và được vào dạy vua Nhân-tông bấy giờ lên 10 tuổi. Trong các việc này, chắc Lý Đạo Thành có ảnh hưởng lớn. Thế cũng đủ tỏ rằng hai nhà họ Lý kia đã thành thật đồng tâm cộng sự. Nhờ sự hoà hảo trong triều, mà sau này, tuy Tống tìm phương chia rẽ các đại thần để dễ bại quân ta, nhưng Tống sẽ hoàn toàn thất bại.
Ta sẽ thấy vũ công của Lý Thường-Kiệt trong năm sắp tới rất to. Mà xem việc trên đây, ta cũng thấy về chính trị, ông cũng là tay rất giỏi.
Bia BA có câu :”Vua nhỏ có thể phó thác cho ông.” Đó là thêm một chứng nữa rằng Thường-Kiệt được sung chức phụ chính.1.
CHƯƠNG IV : CHÍNH-SÁCH BẮC-CƯƠNG TRIỀU LÝ
1. Cương vực Đại Việt
Đời Lý ở nước ta là đồng thời với nhà Tống bên Trung-quốc.
Nhân bên Trung-quốc, có cuộc phân tranh đời Ngũ-đại, cho nên ở miền Nam, dân Giao-chỉ đã có cơ tự lập. Từ khi Khúc Thừa-Mỹ (919), Ngô-Quyền (939) chiếm cứ được đất, đánh lui quân Nam-Hán, thì trung nguyên xứ Bắc-kỳ bây giờ, đã do tay người Giao-chỉ tự quản trị. Nhưng công ấy không bởi một người, cho nên quyền chưa được tập trung. Kịp khi Ngô Xương-Văn mất, các tướng tá tranh giành nhau. Nhưng sự tranh giành ấy cũng không ra ngoài trung nguyên.
Đến khi nhà Đinh nhất thống sơn hà (968), thì bên bắc, nhà Tống cũng vừa mới lâïp (963). Hai nước còn bận việc trị an những nơi gần căn cứ mình, cho nên chưa nghĩ đến việc biên thùy. Nhưng khi nghe tướng Tống đã vượt xuống Lĩnh-nam, vào vùng Lưỡng-Quảng (970), thì Đinh liền sai sứ sang Tống xin
giao hiếu (973, TB 14/6a), và Tống cũng nhận cho ta tự trị và phong cho Đinh Bộ-Lĩnh làm An-nam quận-vương.
Tiếng rằng tự trị, thật ra thì Tống chẳng có quyền thực tế gì ở nước ta. Chỉ có điều là ta thỉnh thoảng phải sang cống phương vật và chịu Tống phong cho chức tước theo lệ chư hầu.
Sở dĩ Tống chưa muốn chiếm lại nước ta như đời Đường là vì còn bận việc nơi khác (VI/1). Cuối đời Đinh, cha con vua Đinh bị nạn (979), tướng là Lê Hoàn có ý chiếm ngôi. Tống, bấy giờ trong nước đã gần yên, nhân cơ hội định chiếm lại Giao-chỉ. Lấy cớ đánh Hoàn, Tống sai quân sang xâm lấn nước ta. Đó là mở cuộc bang giao khó khăn ở hai nước (980). Nhờ Hoàn đánh bại thủy quân Tống ở sông Bạch-đằng, giết đại tướng Hầu Nhân-Bảo ở Chi-lăng (giáp giới Bắc-giang và Lạng-sơn) và phá tan lục quân của Thẩm Khâm-Tộ ở Tây-Kết (tháng ba năm Tân-tị 981), nước ta tránh khỏi ách Tống. Vua Tống phải nhận Lê Hoàn làm chủ ở nước ta (986).
Phía bắc, Lê Hoàn đánh lui quân Tống, phía nam đại phá quân Chiêm. Nước ta nhờ đó thành có cơ đồ khá vững vàng. Nhưng khoảng đất Hoàn cai trị không quá vùng trung nguyên32. Còn miền thượng du thì hình như chưa ràng buộc gì cả. Tuy nhiên, biên giới miền đông bắc đã rõ ràng; và trên hai đường thông lộ lớn, từ châu Vĩnh-an ở vùng Hải-ninh, Mông-cái, đến Khâm-châu (Kintcheou) và từ huyện Quang-lang, là Ôn-châu, ở phía nam Lạng-sơn, đến Ung-châu (Nanning), thì hai nước kiểm soát cẩn thận33. Biên thần Tống thường thám thính tình hình nước ta, nhưng Tống còn bận việc bắc cương đối với Liêu (vùng Bắc-bình và Mãn-châu), Hạ (vùng Thiểm-tây), cho nên chưa muốn gây hấn với ta. Dẫu có khi dân ta sang quấy (995) mà Tống cũng làm ngơ34. Đến lúc Lê Hoàn mất, các con tranh nhau ngôi, quan Tống xin đem quân sang đánh ta (1006). Nhưng vua Chân-tông vẫn không bằng lòng. Vua nói rằng :”Hoàn đã trung thành, ta không nên nhân y chết mà đánh. Vả núi sông Giao chỉ hiểm trở, thủy thổ độc dữ. Có lấy được cũng vô ích”35 (TS.488 và TB 63/8b)
Sau đó, vua Tống lại bằng lòng cho Lý Công-Uẩn nối nhà Lê. Tính rộng rãi của Tống Chân-tông đã tỏ rõ trong câu trả lời cho tả hữu về việc Công-Uẩn tranh ngôi Lê :”Lê Hoàn bất nghĩa mà được nước. Lý Công-Uẩn bắt chước, rất là đáng ghét; Nhưng man tục như thế, không nên trách.” (TS 488)
Từ lúc Lý lập nước (1009), ngoài việc các vương toan cướp ngôi Thái-tông, bên trong không có sự cạnh tranh khác. Cho nên các vua Lý rất chú ý đến việc biên cương phương nam và phương bắc.
Về phương nam, biên giới đã rõ ràng, vì có dãy núi Hoành-sơn ngăn đôi hai nước Chiêm và Việt. Dân Chàm cũng như dân ta, sinh nhai về cày cấy. Gần biên giới chung, dân ta và dân Chàm sống trên h ai đồng bằng châu Hoan và Bố-chánh cách nhau xa, nên ít sinh sự xâm lấn lẫn nhau, trừ phi những vụ giặc bể Chàm vào cướp ven bể rồi bỏ đi mà thôi.
Còn về phương bắc, ngoài hai dân tộc Hoa và Việt, có nhiều dân tộc khác mà cả hai nước đều gọi là Man (Thổ, Nùng, Mán…), chiếm miền rừng núi rất rộng ở giữa hai bình nguyên lớn : triền sông Lô (Nhị-hà) ở ta và triền sông Uất (Nanning) ở Tống. Từ miền Cao-bằng bây giờ sang đông, biên giới đã khá rõ ràng. Theo LNĐĐ và các sử, thì đến vùng Đông-khê, không khác lắm. Từ đó ra biển, bắc ngạn sông Kỳ-cùng thuộc về Tống, gồm có châu Tây-bình, Lộc-châu và huyện Thanh-Viễn. Rồi tới chỗ gần bể, phần đất nước ta còn ăn vào tỉnh Quảng-đông đến gần vịnh châu Khâm36. Còn về phía tây Cao-bằng, dân Man ở thành từng động, không hẳn thuộc về ai; cho nên biên giới có thể nói là chưa có. Nhưng ảnh hưởng Lý cũng tới vùng Bảo-lạc và miền Yên-bái ngày nay.
Biên-hạt Tống giáp nước ta gồm có các đất sau :
Đất KHÂM-CHÂU giáp với châu Vĩnh-an (tên cũ là Triều-dương, năm 1023 mới đổi), tức là vùng Hải-ninh, Mông-cái bây giờ.
Từ đó sang phía tây, hai nước cách nhau bằng một con sông nhỏ, là sông Kỳ cùng ngày nay. Các đất, kể từ đông sang tây, gồm năm trại : Thiên-long, Cổ vạn, Vĩnh-bình, Thái-bình, Hoành-sơn. Năm trại ấy đều thuộc Ung-châu.
Trại THIÊN-LONG giáp giới Khâm-châu, và có lẽvới phần tây châu Vĩnh-an. Trại CỔ-VẠN gồm đất TƯ-LĂNG và giáp châu Tô-mậu ở nước ta.
Trại VĨNH-BÌNH gồm phần đất các châu TƯ-MINH, BẰNG-TƯỜNG, một phần TƯ-LĂNG và phần đất ở bắc ngạn sông Ô-bì (Kỳ-cùng thuộc Lạng-sơn). Đất gần sông có châu TÂY-BÌNH (vùng Đồng-đăng và phố Lạng-sơn) và châu Lộc (vùng Lộc-bình ngày nay). Trại Vĩnh-bình tiếp đất với các châu sau này ở nước ta : Tô-mậu (vùng Na-dương, Đình-lập, An-châu), huyện Quang-lang (vùng Ôn-châu ngày nay), và châu Văn (vùng nam châu Văn-uyên và châu Văn quang, tức Phố Bình-gia trong địa đồ Đông-dương). Huyện Quang-lang và châu Văn thuộc châu Lạng.
Trại THÁI-BÌNH, địa phận rộng, gồm có đất châu An-bình, châu Đống (Thượng-đống và Hạ-đống), châu Long, đều ở phía đông những đất châu Thất-nguyên, châu Môn (Đông-khê), châu Tư-lang (Thượng và Hạ-lang) và châu Quảng-nguyên (Quảng-uyên) thuộc nước ta. Đến đời Lý Nhân-tông, châu Thất-nguyên (Thất-khê ngày nay) tuy thuộc quyền Lý, nhưng thỉnh thoảng cũng còn theo Tống (VII/3).
Trại HOÀNH-SƠN gồm phần đất giữa biên thùy Cao-bằng ngày nay và Hữu giang. Những động giáp châu Quảng-nguyên ở đất ta là Hạ-lôi, Ôn-nhuận (bay giờ là Hồ-nhuận).
Nhìn biên giới Tống-Việt trên bản đồ, ta sẽ thấy chỉ chừng một phần tư biên giới Trung-Việt ngày nay là khá định; nghĩa là ảnh hưởng Lý và Tống tiếp xúc thực sự. Còn dư, về phía tây, đều thuộc những bộ lạc hầu như độc lập. Ai mạnh, kẻ nấy cai quản.
Đường biên giới hình một đường cung, một phần tư vòng tròn, tâm ở Ung châu, một bán kính chỉ xuống phía nam, một bán kính chỉ sang phía tây. Cái địa thế đất ta ôm đất Ung-châu là cái cớ quan trọng trong việc biên dân thuộc ta hay quấy Ung-châu, và giúp thắng lợi cho cuộc tấn công vào thành Ung châu của Lý Thường-Kiệt sau này.
2. Dân vùng biên-giới
Hai bên biên giới, từ Bảo-lạc đến châu Vĩnh-an, giáp Khâm-châu, sinh tụ nhiều dân tộc riêng biệt, không phải Việt mà cũng không phải Trung-hoa. Cả hai nước Tầu và ta đều gọi chúng bằng tên chung : Man-dân. Thật ra, Man-dân gồm nhiều giống khác nhau, có lẽ từ đời Tống, Lý, đến nay không thay đổi mấy. Theo các sách và sử, ta sẽ phân biệt các dân ấy bằng họ.
Ở cực đông, có họ Hoàng ở hai mé biên giới, tại động Như-tích và châu Vĩnh an. Họ Hoàng nhỏ nhưng đã từng làm châu-mục ở Vĩnh-an.
Họ Vi là một họ lớn, chiếm vùng Tư-lăng, Lộc-châu, Tây-bình ở Tống và châu Tô-mậu ở ta. Các động trưởng ở vùng này đều họ Vi. Họ Vi và ba họ khác, Nùng, Hoàng, Chu, là bốn họ mà Tống sử (TS 495), nhận là dân khê động vùng Tả-giang và Hữu-giang.
Tả-giang và Hữu-giang là hai nguồn sông Tây-giang ở Lưỡng-Quảng. Hữu giang phát nguyên từ Vân-nam, chảy xuống qua Quảng-tây, theo hướng đông nam. Tả-giang phát nguyên từ chỗ giáp giới tỉnh Cao-bằng và Vân-nam, chảy qua Cao-bằng, rồi theo chiều đông bắc, qua Quảng-tây và hợp với Hữu-giang ở phía tây thành Ung-châu. Sông Ô-bì (Kỳ-cùng) là một nhánh của Tả-giang.
Các họ Nùng, Hoàng, Chu, vân vân, ở trong triền hai sông ấy. Họ Nùng phần lớn ở bốn châu : An-bình, Vũ-lặc, Tư-lãng, Thất-nguyên thuộc Tả-giang và ở Quảng-nguyên, tức là trên đất Cao-bằng và đất phía đông biên giới Cao-bằng ngày nay. Họ Hoàng ở về phía tây, thuộc Hữu-giang, nhất là ở bốn châu An đức, Qui-lạc, Lộ-thành, Điền-châu, tức là phía bắc và tây bắc biên giới Cao bằng. (LNĐĐ và QHNHC)
Sự phân biệt bằng địa điểm như thếkhông tuyệt đối đúng. Thật ra, các họ ở lẫn nhau. Họ Nùng ở các châu phía tây đạo Đặc-ma (thuộc Vân-nam), và họ Hoàng cũng ở phía đông đất Quảng-nguyên.
Hai đạo Tả và Hữu-giang gồm từ 50 đến 60 động (TS, QHNHC). Tù trưởng các động ấy khi trước đều tự lập. Đời Đường có viên kinh lược Ung-châu, là Từ Thân-Hậu, chiêu dụ; nên mới theo Đường.
Từ khi Tống lập nước, quan Tống coi Quế-châu, hay là coi Ung-châu, đã tìm cách thu phục các khê động ấy. Nhưng thật ra cũng chỉ có các động, gần các đồn binh Tống, theo. Còn các động ở xa, thì hoặc tự lập, hoặc chỉ nộp cống ít
nhiều lấy lệ, hoặc đã theo Lý. Các châu Vạn-nhai (Vũ-nhai ở Thái-nguyên ngày nay) Vũ-lặc, (ở Cao-bằng) Quảng-nguyên, đều nộp cống cho vua Lý.
Nước ta nhỏ, nên đường đất từ kinh đô đến các khê động ấy không xa. Lý kiểm soát vùng tây Tả-giang dễ dàng hơn quan Tống đóng ở Ung-châu. Sử ta còn chép rõ các việc vua Lý hay các hoàng tử dẹp loạn ở vùng ấy37. Nhưng cũng có bộ lạc, thỉnh thoảng bất bình vì một việc gì, đều bỏ đất này qua đất khác. Vì thế, cuơng giới ở vùng này còn lưu động. Vua Lý rất quan tâm mở cõi về vùng ấy.
Còn quan Tống, thì giữ thế thủ. Ấy bởi vì đối với Tống, đất nào cũng đã cho là thuộc mình rồi. Cho nên, quí hồ dân khê động không quấy rối vùng đồng ruộng dọc sông, quan Tống không cần hỏi đến. Muốn gìn giữ đất vùng xuôi, quan Tống đã đặt ra những trại, tức là đồn ở biên giới chia dân khê động với Hán-dân. Đối với Tả, Hữu-giang và nước ta, Tống đã đặt năm trại thuộc Ung châu : Hoành-sơn, Thái-bình, Vĩnh-bình, Cổ-vạn, Thiên-long, và hai trại thuộc Khâm-châu : Như-tích và Để-trạo.
Sau này ta sẽ thấy rằng, tất cả các việc lôi thôi giữa Lý và Tống đều bởi những cuộc xung đột giữa các dân khê động, hoặc tự ý tranh giành , hoặc tự triều đình Lý xui giục.
Nội trong các dân khê động trên đất Lý, họ Thân chiếm một địa vị đặc biệt. Mục sau (IV/4) sẽ nói rõ. Ấy là dân động Giáp, thuộc Lạng-châu.
Họ Thân ba đời làm phò mã dưới triều Lý. Nguyên họ Giáp, sau đổi ra Thân; chữ thân khác chữ giáp chỉ có thêm dài nét sổ lên phía trên.
Động Giáp chắc ở phần bắc tỉnh Bắc-giang ngày nay và phía nam ải Chi lăng38. Đất này là chỗ rất quan yếu. Nó chặn con đường lớn nhất từ Ung đến nước ta. Mà đối với trại Vĩnh-bình của Tống thì có các đèo ải rất hiểm thuộc huyện Quang-lang che chở. Muốn qua huyện ấy phải qua hai ải rất hiểm : ải Quyết-lý kề phía bắc Ôn-châu ngày nay và ải Giáp-khẩu, tức Chi-lăng ở phía nam Ôn-châu. Trong cuộc Lý Tống chiến tranh sau này, hai ải ấy sẽ có công dụng rất lớn.
3. Họ Nùng và châu Quảng-nguyên
Quảng-nguyên là địa phận Cao-bằng bây giờ. Nay châu Quảng-uyên là tên cũ đổi ra (theo ĐNNTC, cuối đời Hồng-đức đổi; nhưng có lẽ đời Mạc tránh tên húy Mạc Phúc-Nguyên). Tuy châu ở cách xa Thăng-long, ít ruộng, rừng núi hầu khắp, nhiều thú dữ, khí độc, nhưng sản vàng bạc. Vùng Ngân-sơn (nghĩa là núi bạc), NNNTC), xưa có lò vàng bạc. Phía tây, thông với vùng Tuyên-quang, Hà-giang ngày nay; chính đó có nhiều mỏ vàng, mỏ bạc, mỏ đồng, mỏ chì và thiếc (nhất là vùng Tụ-long, bị mất vào Trung-quốc từ hồi thuộc Pháp, nay ở vào hơn 20 cây số trong tỉnh Quảng-tây về phía tây bắc Hà-giang). Vùng này có giống Nùng (lấy họ Nùng), là một dân tộc đông và mạnh, ở rải rác từ Hữu giang và Tả-giang thuộc Quảng-tây cho đến châu Quảng-nguyên.
Trước khi Tống lập quốc, họ Nùng đã mạnh. Có Nùng Dân-Phú được vua Nam Hán phong làm thủ lĩnh mười châu ở Quảng-nguyên. Sau khi Tống Thái-tông
lên ngôi, Dân-Phú lại xin qui phụ (977) và được phong chức kiểm-hiệu tư không. (TB 18/4a và TS 495)
Đầu đời Lý, có Nùng Tồn-Phúc (theo TT, còn TS chép Toàn-Phúc) quê ở động Tượng-cần, châu Thạch-an thuộc Cao-bằng bây giờ (CM), làm thủ lĩnh châu Thảng-do (có lẽ ở miền Trung-thảng thuộc Cao-bằng). Tồn-Phúc giết em là Tồn-Lộc thủ lĩnh châu Vạn-nhai (Vũ-nhai ở Thái-nguyên bây giờ, CM) và em vợ là Đương-Đạo thủ lĩnh châu Vũ-lặc (ở Cao-bằng), thuộc Tả-giang (TS 495 và TTh 13). Tồn-Phúc nhờ các lò vàng, trở nên giàu có, chiêu tập dân các động chung quanh: tụ xưng đế, và không chịu cống vua Lý. Y bèn dời nhà ra chỗ đất gọi là nước Trường-sinh, xây thành, luyện binh; quyết chí độc lập. Theo ĐNNTC, thành Na-lữ, phía tây thành Cao-bằng, chính là kinh thành của họ Nùng ngày xưa. Có lẽ kinh đô nước Trường-sinh là ở đó.
Tháng hai năm Mậu-dần (1038), Lý Thái-tông tự cầm quân tới đánh, bắt được Tồn-Phúc và con cả là Trí-Thông; vợ là Ả-Nùng và con thứ là Trí-Cao chạy thoát qua động Lôi-hỏa. Trí-Cao bấy giờ mới 14 tuổi (theo Tiêu-Chú, lời dẫn của Tư Mã-Quang trong sách TTh 13)
Năm Tân-tị (1041), Ả-Nùng và Trí-Cao trở về chiếm lại châu Thảng-do, rồi đổi ra nước Đại-lịch. Lý Thái-tông sai quân đánh, bắt được Trí-Cao; nhưng thương tình cha và anh đã bị giết, cho nên tha cho về, và cấp thêm đâÙt ở vùng châu
Tư-lang (TT). Theo một thoại, Lý Thường-Kiệt (23 tuổi) cố can vua đừng tha vì sợ có hậu hoạn. Nhưng vua không nghe. (I/2)
Rồi hai năm sau (1043) vua lại sai sứ đến tận nơi phong hàm thái-bảo. (TT)
Thế mà năm Mậu-tý (1048), Trí-Cao lại làm phản. Tiêu-chú (TTh 13) nói Trí Cao thông với người xung quanh vua Lý, định cướp nước (có lẽ cướp vùng Quảng-nguyên). Vua sai tướng đánh. Trí-Cao thua chạy sang đất Tống; cướp châu An-đức ở phía bắc vùng Bảo-lạc ngày nay. Trí-Cao lại lập nước, đặt tên Nam-thiên-quốc, lấy hiệu Cảnh-thụy, và xin phục dịch Tống (TB, TT, TTh, TS). Nhưng Tống sợ mất lòng vua Lý, nên khước từ. Trí-Cao chạy tới Văn-thôn thuộc Hữu-giang (TT 13), ở đó do thám tình hình Ung-châu. Bấy giờ có Ky Mân làm quan Tống bị biếm, phải đi tuần thú ở Ung. Mân muốn lập công, bèn đưa quân đi tuần sâu vào man địa gần nơi Trí-Cao đóng. Bị Trí-Cao bắt, Mân nói dối rằng được triều mệnh sai tới chiêu dụ. Trí-Cao mừng, sai bộ hạ đi theo Mân về Ung, dâng biểu cầu phong. Lại dâng vật báu : ngà voi, vàng, bạc. Vua Tống lại từ khước, viện lẽ Trí-Cao thuộc nước ta.
Trí-Cao rất tức giận. Trong bị ta đánh, ngoài bị Tống từ. Mới định tâm nổi loạn. Lại có tiến sĩ Hoàng Sư-Mật thường qua lại Quảng-nguyên buôn vàng, trở nên quen thuộc. Sư-Mật vốn người Quảng-châu. Y tỏ bày tình hình trong hạt mình cho Trí-Cao nghe và nhận làm mưu chủ. Sauk khi kết đảng với bộ hạ của viên coi châu Ung, Trí-Cao ngầm đốt sào huyệt mình, rồi hội quân mà nói rằng :
“Của cải chúng ta, tích trữ cả đời, nay bị thiên tai, đã hoá ra tro. Chúng ta
không còn kế gì sinh sống nữa. Chỉ có cách đánh lấy Ung-châu để tự lập”. Quân chúng đều nghe theo. (TS 495)
Tháng tư năm Hoàng-hữu thứ tư (Nhâm-thìn, 1052), Trí-Cao đem 5000 quân, dọc sông Hữu-giang mà xuống miền đông, lấy trại Hoành-sơn (Điền-châu bây giờ) vào tháng tư; rồi xuôi sông Uất, xuống đánh thành Ung. Vì có nội công, Ung mất ngày mồng một tháng năm (A-Tị, DL 31-5-1052, TB 172/12a).
Trí-Cao đặt quốc hiệu Đại-nam Tự xưng Nhân-huệ hoàng đế, cải nguyên Khải lịch, rồi dọc theo sông Tầm, xuống sông Tây mà tiến tới Quảng-châu. Các châu lị không có thành trì; quân Tống lại hèn nhát. Còn quân Cao-Trí là quân vong mạng, cho nên đến đâu được đó. Các châu dọc sông đều lần lượt mất. Trong khoảng mười ngày, Trí-Cao phá các châu Hoành (9-5), Quí (12-5), Củng (16-5, nay là Bình-nam), Tầm, Đằng (17-5), Ngô (17-5, nay là Thương-ngô), Phong (17-5), Khang (18-5, nay là Đức-khánh), Đoan (19-5, nay là Triệu khánh). Vừa trong hai tuần, mà từ Ung-châu, quân Cao-Trí đã đến Quảng châu (22-5). Quân và tướng Tống đều sợ hãi. May có Vương-Hãn đóng thành chống lại. Trí-Cao đánh suốt ngày đêm, trong 57 ngày, không hạ được (TS 495); bèn rút quân lui. Ấy là ngày 18 tháng bảy (N. Tu, DL 16-8-1052; TB 173/1b).
Trong các trận, Trí-Cao giết hơn 3000 tướng tá Tống, bắt hàng vạn người. Qua đâu đốt phá đó. Vua Tống rất lo. Bèn sai các quan sở tại là bọn nho thần Dư Tĩnh, Dương Điền, Tôn Miễn ra dẹp, nhưng không ngăn nổi thế giặc.
Vua Lý Thái-tông rất quan tâm đến việc Trí-Cao đánh bại Tống. Thấy quân Tống bị đại bại, biết binh lực Tống ở miền nam rất kém, vua muốn nhân cơ hội, thử thách. Bèn xin đem hai vạn quân đi đường bể tới Khâm-châu tiếp viện (TT). Vua Tống chưa giám bằng lòng. Dư Tĩnh nói rằng :”Trí-Cao là nghịch thần của Giao-chỉ. Ta nên nhận lời cho Giao-chỉ xuất quân; chớ trái ý tốt của nó”. Rồi nhiều lần, Tĩnh dâng sớ về bàn. Cuối, Tĩnh tâu :”Ung-châu và Giao chỉ tiếp đất. Nay nếu ta không nhận lời, Giao-chỉ giận, sẽ giúp Trí-Cao”. Vua Tống bèn ưng thuận cho phép Tĩnh tự liệu. (ĐĐSL 75)
Nhưng ngày Canh-ngọ tháng 9 (DL 23-10), tướng Tống là Địch Thanh được chuẩn lời tình nguyện đi đánh Trí-Cao (TB 173/11b). Địch Thanh là một vũ tướng có nhiều mưu kế. Thanh sợ trúng mưu ta, nên tâu cùng vua Tống rằng :”Mượn binh ngài dẹp giặc trong, không lợi cho ta đâu. Chỉ vì một Trí-Cao mà sức Lưỡng-châu không chống chế nổi, đến phải mượn quân ngoài; thì hoặc giả quân ấy nhân đó làm loạn, ta lấy gì để ngăn ?”. Vua Tống bèn hạ chiếu ngăn không cho quân Lý vào cõi; (Đ. Vi tháng giêng năm Quí-tị, DL 28-1-1053; TB 174/1a)
Sau khi rút khỏi Quảng-châu, Trí-Cao tới dánh Hạ-châu, nhưng cũng không phá được, bèn rút về phía tây. Dọc đường, Trí-Cao đánh bại nhiều tướng Tống, rồi kéo đánh Tân-châu. Dư Tĩnh bỏ chạy về Ung. Lần lượt Tân (DL 30-10- 1052) và Ung (DL 6-11-1052) đều mất. Tĩnh sai tướng Trần Thự đem một vạn
quân đón giặc. Thự chù chừ, nên bị thua to ở trạm Kim-thành, trên đường Tân tới Ung. Ấy là ngày mồng một tháng chạp (N. Ta; DL 24-12-1052; TB 173/18a).
Tháng giêng năm Quí-tị (1053), Địch Thanh đến Tân-châu, hội chư tướng. Vì các tướng đều có ý khinh Thanh, nên Thanh ra lệnh chém Trần Thự. Ai nay đều khiếp. Trước đó, Thanh cầm quân ở vùng Diên-Phu chống Hạ (vùng Thiểm-tây). Thanh đem nhiều quân kỵ ở vùng ấy theo xuống. Có kẻ bảo Trí Cao phải chặn ải Côn-lôn, trong núi trên đường Tân-Ung, đừng để Thanh xuống đồng bằng, vì ở đồng bằng dùng kỵ binh rất lợi. Nhưng Địch Thanh muốn hành quân gấp, nên không đợi lương thực tới, ra lệnh biện tại chỗ lương thực ăn mười ngày. Trí-Cao tưởng là Thanh còn đóng quân lại nghỉ, nên không nghe lời bày mưu; lại còn nhân ngày thượng nguyên (rằm tháng giêng) trương đèn đặt hội. Thanh cho quân tiến gấp qua ải Côn-lôn, thẳng tới thành Ung. Đang đêm, Địch Thanh mặc áo thường, lẩn vào tiền quân mà vượt ải. (TB 174/2b)
Trí-Cao được tin báo, lật đật đem quân chặn lại. Hai quân gặp nhau ở phố Qui nhân. Ấy là ngày 17 tháng giêng (M.Ng, DL 8-2-1053). Thanh cho bộ binh ra trước, dấu kỵ binh ở sau. Còn Trí-Cao thì, trái lại, cho quân kiêu dũng cầm trường thương ra trước, để quân hèn ốm ở sau. Lúc giáp trận, quân tiền phong Tống thua. Nhưng Thanh nghiêm hiệu lệnh; các tướng sĩ không dám lùi. Rồi Thanh trèo lên cồn cao, cầm cờ ngũ sắc, ra hiệu cho kỵ binh hai cánh đổ ra, đánh vào sau quân kiêu dũng của Trí-Cao. Quân tả tiến sang hữu, quân hữu tiến sang tả. Rồi tả lại về tả, hữu lại về hữu (TS, TB), cắt quân địch làm hai đoạn. Quân Trí-Cao tan vỡ, chết mất hơn ba nghìn.
Trí-Cao rút quân về thành. Đang đêm, đốt thành bỏ chạy. Quân Thanh đuổi đến Điền-châu, nhưng không kịp nữa. (TTh)
Trí-Cao đem tàn quân về đóng ở trại Đặc-ma (phủ Quảng-nam, miền đông Vân-nam) đồ tâm trở lại Ung-châu. Một mặt, Trí-Cao kết thân với thủ lĩnh trại ấy là Nùng Hạ-Thành để mua ngựa và mộ quân, vì Đặc-ma là nơi sản xuất rất nhiều ngựa tốt. Một mặt sai Lương Châu tới nước ta xin quân giúp. (VSL)
Ý chừng vua Lý Thái-tông cũng muốn tiếp tục thử thách sức Tống, và muốn trả thù sự vua Tống đã không giữ lời hứa cho quân mình tới Khâm-châu (TT). Bèn sai viên chỉ huy Vũ Nhĩ đem quân đi giúp (VSL và TT). Nhưng sau khi thấy Trí-Cao đã thua và thế Địch Thanh mạnh, Lý lại thôi không phái quân đi nữa.
Hai năm sau, Dư Tĩnh cho quân vào Đặc-ma, bắt được mẹ, em và con Trí-Cao. Còn Trí-Cao, thì chạy vào nước Đại-lý (thuộc Vân-nam ngày nay, phía tây Côn-minh); rồi chết ở đó.
4. Phủ-dụ
Trên đây lược kể lại chuyện Nùng Trí-Cao. Ta thấy rõ rằng hồi bấy giờ, biên giới miền bắc nước ta thật là chưa định, mà Tống cũng thường bỏ không phòng bị. Vua Lý, trái lại rất có chủ kiến muốn nhân sự bất định ấy mà bành trướng lãnh thổ về phía Bắc. Muốn vậy, hoặc chỉ cần phủ dụ man dân, hoặc uy hiếp chúng để chúng theo mình; vì hễ chúng theo tức thì lãnh thổ chúng cũng sáp nhập về mình. Đến lúc người Tống biết ra, thì thường đã chậm rồi. Nếu không muốn sinh sự, Tống ắt phải nhận. Nói tóm lại, đối với man dân ở bắc thùy, Lý đã dùng chính sách chiêu dụ hoặc uy hiếp để đi đến chính sách “làm trước cãi sau” đối với Tống.
Mà thật vậy, khác những triều khác, các vua Lý đã không chia rẽ hoa, di, và đã lợi dụng sự hôn nhân để kết thúc các dân tộc biên thùy. Các sách sử VSL và TT còn chép nhiều việc vua gả công chúa cho châu mục, nghĩa là người miền núi cầm đầu một châu.
Trong các châu ở biên giới, Lạng-châu là quan trọng hơn cả, vì ở gần kinh kỳ, vừa ở trên đường bộ từ Tống sang ta. Lạng-châu tức là nay thuộc vùng Bắc giang và phần nam Lạng-sơn. Lạng-châu có động Giáp, rất to; chúa động thuộc họ Giáp , sau đổi ra họ Thân, đã nhiều đời làm phò mã. Động Giáp ở phía nam ải Chi-lăng39. Sách MKBD chép rõ rằng :”Giáp động là một bộ lạc lớn. Chủ động tên Giáp Thừa-Quí, lấy con Lý Công-Uẩn rồi đổi ra họ Thân. Con Thừa-Quí là Thiệu-thái lại lấy con gái Đức-chính (Thái-tông). Con Thiệu thái là Cảnh-long lại lấy con Nhật-tôn (Thánh-tông)”
Tống sử cũng chép Giáp Thừa-Quí lấy con gái Lý Công-Uẩn (TS 488). Xem như vậy, đủ biết họ Giáp này đã có thanh thế từ trước. Chắc từ đời Lê, đã mạnh, mới có sự Lý Thái-tổ kén phò mã trong họ như vậy. Có lẽ muốn xóa vết tích man động nên đã đổi họ ra Thân.
Con Thừa-Quí là Thiệu-Thái, nối cha làm châu mục Lạng-châu. Năm Kỷ-tị (1029), vua Lý Thái-tông gả công chúa Bình-dương cho Thân Thiệu-Thái (TT và VSL).
Con Thiệu-Thái và công chúa Bình-dương là Thân Cảnh-Nguyên (VSL 1059), hay Đạo-Nguyên (VSL 1066), hay Cảnh-Long ( MKBD 2), hay Cảnh-Phúc (TB 279/11a), cũng được kén lấy công chúa Thiên-thành năm Bính-ngọ, 1066, đời Lý Thánh-tông.
Nhờ vậy họ Thân đã rất trung thành với nhà Lý, và là một phên giậu rất kiên cố ở trên đường sang Tống. Trong những cuộc dụng binh đối Tống, họ Thân sẽ có công nhiều.
Năm Bính-tý (1036), vua Thái-tông lại gả công chúa Kim-thành (theo TT; VSL chép Khánh-thành) cho châu mục Phong-châu (vùng Sơn-tây, Phú-thọ bây giờ) tên là Lê Thuận-tông, và công chúa Trường-Ninh cho châu mục Thượng oai (có lẽ vùng Hòa-bình ngày nay) là Hà Thiện-Lãm.
Vua Thái-tông lại chọn con gái Đào Đại-Di ở châu Chân-đăng (vùng Hưng hóa) đưa về cung làm hoàng phi (1033, TT). Vua Thánh-tông gả con nuôi là
công chúa Ngọc-Kiều (7) cho châu mục Chân-đăng họ Lê (TUTA và TT).
Nhờ chính sách ấy, lòng dân miền trung du tây và bắc đều qui hướng về nhà vua.
Cho đến Nùng Trí-Cao, tuy cha con đã phản lại ta, mà vua Thánh-tông không những tha cho, lại còn hậu đãi nữa40.
5. Chinh phạt
Tuy vậy, ở vùng thượng du, uy quyền trung ương có khi bị các tù trưởng khinh miệt. Hoặc chúng không nạp thuế, hoặc chúng tự lập một nước nhỏ, hoặc chúng theo lời dụ dỗ của quan Tống, mà bỏ ta theo Tống.
Các vua quan triều Lý, tuy chịu ảnh hưởng đạo Phật, thường tỏ thái độ khoan hồng; nhưng về chính trị , họ rất tin rằng muốn ràng buộc các phiên thần, phải dùng cả uy lẫn đức. Xem như việc đời Lý Thái-tông, khi Chiêm-thành không tới cống, vua hỏi quần thần :”Tiên đế mất đã mười sáu năm, mà không có một sứ Chiêm-thành nào tới cả, vì sao vậy ? Ấy vì Trẫm không gia uy đức sao, hay vì nó cậy có sông núi hiêm trở ?” Các quan trả lời :”Chúng tôi cho rằng tuy Bệ-hạ có gia đức, nhưng uy chưa trương rộng. Ấy vì cớ đó. Từ khi Bệ-hạ lên ngôi, nó trái mệnh không tới chầu. Tuy Bệ-hạ thi bố đức huệ để tỏ lòng yêu, nhưng chưa từng trương vũ uy mà đánh nó. Không phải làm như vậy mà kẻ ở xa sợ”. (TT)
Cũng vì lẽ ấy, mỗi khi có biên biến, các vua thường sai đại tướng, hoặc các hoàng tử đánh dẹp. Nhiều lần vua tự thân chinh (9). Chuyện họ Nùng vừa kể trên là một bằng chứng. Vùng thường hay có biến nhiều nhất là vùng Tuyên quang, Thái-nguyên, Bắc-cạn, Cao-bằng ngày nay. Nhưng các châu ở vùng Đà-giang và Thao-giang cũng có lần phải dẹp.
Với hai chính sách đức và uy, nhà Lý đã kết thúc được dân vùng bắc thùy. Nhờ vậy, cương vực được mở mang dần dần sang địa phận Tả và Hữu-giang; và lúc Tống định tiêu diệt nước ta, quân các phiên trấn đã giúp ta được phần lớn.
CHƯƠNG V : BANG GIAO LÝ TỐNG
1. Giao-thông
Giao-chỉ tiếp đất với Tống, dọc theo biên thùy đầy núi rừng hiểm trở. Đường giao thông bằng bộ khó khăn. Đường bể dễ dàng hơn nhiều, vì các cửa bể Khâm, Liêm cách biên giới chung chỉ một vài ngày. Vả từ cửa sông Bạch-đằng đến châu Vĩnh-an giáp hải phận Khâm-châu, có rất nhiều đảo (ở vùng Hạ-long và vịnh Đàm-hà ngày nay). Những đảo lớn, như đảo Cát-bà, Vân-hải, Kế-bào (tên ở địa đồ Đông-dương ngày nay) và vô số đảo nhỏ ngăn một giải nước khá yên lặng trước bờ bể; người ta và Trung-hoa vẫn coi giải nước ấy là một con sông, nối Bạch-đằng với Khâm-châu (Thủy-kinh chú). Sách TB (288/13b) có nói đến sông Đông-kênh (kênh ở phía đông), có lẽ chỉ giải nước này (XI/5).
Theo sách LNĐĐ đời Tống, đường thủy từ Khâm-châu vào nước ta như sau : từ Khâm-châu, thuyền đi hướng tây-nam, một ngày đến châu Vĩnh-an; theo trại Đại-bàn (đảo Kế-bào ngày nay) thuộc Ngọc-sơn tới Vĩnh-thái, Vạn-xuân (vùng Vạn-kiếp, sông Lục-đầu), liền tới Thăng-long, thuyền đi mất năm ngày.
Còn đường bộ từ Ung-châu tới Thăng-long, thì đường tiện nhất là đường ngày nay còn dùng : đường qua Ninh-minh, Bằng-tường, Lạng-sơn, Bắc-giang và Bắc-ninh (tên ngày nay). Theo LNĐĐ, đời Tống, đường ấy từ trại Vĩnh-bình thẳng xuống phía nam, vào huyện Quang-lang thuộc Giao-chỉ. Đường qua hai con sông nhỏ Ô-bì và Đào-hoa, đến sông Nam-định, tức là sông Phú-lương. Theo địa thế thì ba sông ấy tức là sông Kỳ-cùng, sông Thương và sông Cầu ngày nay41. Đường đi bốn ngày đến Thăng-long. Đó là đường Quách-Quì đem quân Tống xâm ta.
Ở phía tây đường chính lộ ấy, còn có hai đường. Một đường từ trại Thái-bình vào, qua sông La thuộc động Đan-đặc thì tới Lạng-châu. Đường ấy đi mất sáu ngày mới tới Thăng-long. Một đường từ trại Ôn-nhuận thuộc đạo Hữu-giang vào địa phận Cao-bằng ngày nay. Tức là đường Cao-bằng, Bắc-cạn, Thái nguyên. LNĐĐ chỉ nói rằng đường ấy quanh co, chứ không nói đi mất mấy ngày. Nhưng theo lời Triệu Tiết (TB 279/21b), từ Cao-bằng đến Thăng-long có mười hai trạm, tức là đi mất mười hai ngày.
Các đường giao thông này từ đời Đường đã từng dùng. Đến đời Tống, đã có lúc sao lục lại. Năm 1046, khu-mật-viện kiểm các đường thủy lục dùng từ đời Đường vào Giao-chỉ. Cả thảy có mười sáu chỗ. (TB 158). Mười sáu chỗ ấy gồm phần lớn những ải khó đi. Chỉ có bốn đường kể trên là quan hệ. Từ năm 1006, Thiệu Dục sau khi đi sứ Giao-chỉ về đã hiến các bản đồ vẽ bốn đường thủy lục từ Ung vào Giao-chỉ (ĐĐSL 112 và TB 63). Chắc là bốn đường kể trên.42
2. Giao-dịch
Ngoài sự bang giao chính thức bằng các sứ bộ, hai nước Tống Lý có sự giao dịch hằng ngày ở biên thùy. Trên những chỗ đường thông lộ lớn, qua biên giới, sự buôn bán khá thịnh, và có tổ chức.
Tống, cũng như Lý, sợ người ngoài giả mạo vào buôn bán để do thám. Cho nên lúc thường, tuy cho đi lại thông thương, nhưng chỉ được tụ họp tại một nơi nhất định, gọi là bạc-dịch-trưởng (chợ quốc tế).
Một nơi quan trọng thuộc trại Vĩnh-bình. Sách LNĐĐ chép :”trại Vĩnh-bình kề Giao-chỉ, chỉ cách bằng một sông con mà thôi. Phía bắc sông có trạm Giao-chỉ (ở đất Tống). Phía nam sông có đình Nghi-hòa. Đều là chỗ buôn bán trao đổi, do chúa trại Vĩnh-bình cai quản. Người Giao-chỉ đem các vật quí (vì đường bộ
khó chở) như các thứ hương, ngà, sừng tê, vàng, bạc, tiền, đến đổi lấy các thứ vải, vóc. Chỉ có muối là hàng nặng. Muối chỉ dùng đổi lấy vải thường mà thôi. Muối đóng thành sọt, mỗi sọt 25 cân. Vải dệt ở huyện Vũ-duyên, khổ hẹp”. Có lẽ trạm này là chợ Kỳ-lừa ngày nay.
Trên biên giới Sác-nam-giang (thuộc trại Cổ-vạn) và châu Tô-mậu, cũng có một “bạc-dịch-trường” nhỏ. Thường, thổ dân hai bên tới buôn bán ở đó.
Một “bạc-dịch-trường” quan trọng khác ở trại Hoành-sơn, vì đó là chỗ tụ tập các nhà buôn ở xa đến, từ Quảng-nguyên (Cao-bằng) và từ các đạo Đặc-ma, nước Đại-lý (Vân-nam). Châu Quảng-nguyên sản xuất nhiều vàng, bạc, đồng, chu-sa, diêm-tiêu. Ấy là những hóa vật rất được chuộng. Các nhà lái buôn lớn, quê ở Quảng-châu, cũng tới đó cất hàng Quảng-nguyên. (Xem chuyện Nùng Trí-Cao, IV/3).
Bạc-dịnh-trường lớn nhất gần biên thùy ta là ở Khâm-châu. Trường ấy ở ngoài thành, tại trạm Giang-đông. Người nước ta đi thuyền đến đó buôn bán. Lái buôn hạng nhỏ có các phường chài, đem cá, sò đến đổi lấy vải; có hàng xén tới mua giấy bút, gạo vải. Sự buôn nhỏ ấy, hằng ngày vẫn có, không cần xin phép riêng.
Đến như việc buôn to, thì phải có viên coi châu Vĩnh-an ở nước ta thông điệp cho viên coi Khâm-châu trước, rồi kẻ phú thương mới được đem hàng hóa vào. Cũng có lúc, chính phủ ta sai sứ tới Khâm-châu buôn bán. Các hàng của ta có : vàng, bạc, tiền đồng, trầm hương, thục hương, sinh hương, trân châu, ngà voi, sừng tê. Về mặt Tống, các đại thương ở vùng Thục (Tứ-xuyên) một năm tới một lần, đem gấm Thục tới đổi lấy hương chở về Thục. Buôn như vậy rất to, mỗi lần trao đổi có hàng nghìn quan tiền.
Trên đây chép theo Chu Khứ-Phi (LNĐĐ) là người đã chứng kiến những sự giao dịch ấy (Sách chép xong năm 1188). Khứ-Phi còn nói rõ cách buôn bán bấy giờ, chẳng khác ngày nay bao nhiêu. Hai bên đem hàng mà cả cùng nhau. Hồi lâu mới định giá. Lúc định giá rồi, thì không được thương nghị với ai nữa. Đó là một lệ ai cũng theo. Lời Khứ-Phi nói :”giá người mà cả đầu đã định, thì trời đất cũng không bằng”, nghĩa là ai trả cao bao nhiêu, cũng không được bán; vì lúc ngả giá, phải nhờ quan cân hương và giao gấm. Hình như các hàng ấy phải để sẵn ở công sở. Quan thuế đánh hàng Tống mà thôi, cứ một quan tiền thu ba mươi đồng.
Lúc hai nhà buôn gặp nhau, mời nhau uống rượu làm vui; lâu rồi mới nói đến buôn bán. Trong lúc mà cả, những tùy tùng trả thêm dần dần đến lúc giá gần bằng nhau, rồi đến ngang nhau. Người Tống thường găng giá. Họ sai người nhà làm nhà ở, buôn bán lặt vặt để cấp; rồi họ ở đó mãi, cứ ngâm giá cho người ta mỏi mệt, phải bán rẻ. LNĐĐ chép tiếp : “Nhưng phú thương kia (Việt) ngoan cố, nó không nhúc nhích, cầm vững giá lâu, làm cho ta khốn đốn”.
Theo Khứ-Phi, người Giao vốn thực thà. Chắc vì vậy, người Tống cân hàng một cách gian trá, tuy rằng Khứ-Phi chép trái lại. Cho nên Lý đã ba lần sai sứ sang Khâm-châu để thử lại cân. Vì hay bị lừa, nên người nước ta cũng trở nên dối trá. Khứ-Phi nói tiếp : “Gần đây, người Vĩnh-an rất gian giả. Vì nhà buôn ta (Tống) bán cho chúng thuốc giả, chúng đúc lẫn đồng vào vàng bạc; hương thì
tẩm muối cho nó chìm (để giả trầm hương) hoặc đổ chì vào những lổ hổng trong hương. Nhà buôn ta đều bị lừa”.
Nói tóm lại, đời Tống Lý, hai nước giao dịch nhiều; không những chỉ giữa dân biên thùy mà thôi, mà cả đến những cự phú từ phương xa cũng dự. Hàng hoá như ngà, hương, đạt tới miền kinh đô và Thục; và hàng tơ, vải, gấm, giấy của Tống được dùng ở xứ ta.
Chắc từ đời bắc thuộc đến Đinh, Lê, sự buôn bán ở biên thùy đã có rồi. Sử chép rằng : năm 1009 Lê Chí-Trung (Ngọa-triều) xin buôn bán với Ung-châu (TB 72/19b). Lại chép : năm 1012, Lý Công-Uẩn xin cho thuyền tới Ung-châu buôn bán. Vua Tống Chân-Tông chỉ bằng lòng, theo lệ cũ, cho tới buôn bán ở Quảng-châu và ở trại Như-Hồng (Khâm-châu) mà thôi.
Sự giao dịch với Tống có lợi nhiều cho nước ta, về nhu cầu của dân cũng như về quốc dụng. Vả đó cũng tiện cho việc do thám tình hình trong nước Tống. Sau này quan Tống cấm ta sang buôn bán, và vì đó ít nhiều mà đã có cuộc Lý Tống chiến tranh.
Còn ở nước ta, ngoài những trạm biên thùy như trạm Nghi-hòa ở huyện Quang-lang đã nói trên, có một trường bạc-dịch lớn lập ở Vân-đồn. Đảo Vân đồn ở trong nhóm đảo mà bản đồ Đông-dương đề : đảo “De la Table”. Ấy là đảo lớn ở ngoài hết nhóm ấy. Hình dài, hướng đông bắc tây nam. Phía nam đảo ấy có một đảo nhỏ ngăn thành một lối vào, gọi là cửa Vân-đồn. Đời xưa, đó là một căn cứ hải quân quan trọng, và cũng là một hải cảng duy nhất mở cho thuyền ngoại quốc đến buôn bán. Sách TT chép rằng : năm Kỷ-tị 1149, có thuyền ba ngoại quốc Qua-oa (Java), Lô-lạc (?) và Tiêm-la tới Hải-đông (miền Quảng-yên) xin ở lại buôn bán. Vua Lý Anh-tông bèn lập những trang ở trên các đảo, đặt tên là Vân-đồn, để mua bán châu, báu, hàng hóa và dâng phương vật”.
Tuy năm 1149 mới đặt lệ, nhưng trước đó đã có ngoại quốc đến buôn bán rồi. Có lẽ Vân-đồn là nơi thuyền từng ghé mà LNĐĐ đã gọi là Đồn-sơn. Ngày nay, một nhà khảo cổ Nhật-bản có tìm thấy ở đó nhiều tiền đời Tống và các mảnh sứ đời Tống. Xem vậy thì các thuyền Tống cũng từng ghé buôn ở đó. (Sách
An-nam mậu-dịch-cảng Vân-đồn).
Địa vị Vân-đồn rất lợi. Người ngoại quốc ở trên đảo ấy không thể thám thính trong nước ta một cách dễ dàng. Mà ở đó bể lặng, nước sâu, thông với Khâm, Liêm, Quảng ở Tống, và với các nước miền đông và nam, rất tiện.
3. Tu-cống
Từ khi quân Tống bị thất bại bởi tay Lê-Hoàn, nước ta được nhận là phiên quốc. Lại nhờ các vua Tống trước đời Thần-tông khá hiền từ nhu nhược, cho nên dẫu trong nước ta có lúc biến, mà quân Tống cũng không lợi dụng thời cơ.
Từ lúc Lý lên ngôi, ta cố giữ lễ phiên thần để kết tình hòa hảo. Hơn hết các triều đại khác, đời Lý đã luôn luôn sai phái bộ đi cống. Không quản đường sá
khó khăn, nhiều lần ta đem cả đàn voi, tê, đến tận kinh đô Tống, gần Khai phong, ở sát sông Hoàng-hà. Mỗi lúc ở triều Tống có việc vua thăng hà hay đăng cực, ta có sứ sang điếu hay sang mừng. Mỗi lúc ở triều ta có việc tang hay hỉ, cũng có sứ ta sang Tống báo tin, hay cầu phong. Mỗi lúc được phong, vua ta lại sai sứ sang tạ ơn.
Ngoài sự bang giao theo điển nghi một phiên thần đối với nước thiên tử, vua Lý thường sai sứ sang xin kinh Phật. Bấy giờ đạo Phật rất thịnh ở nước ta, mà các tàng viện, tự quán, chắc vì loạn lạc, không còn đủ kinh dùng. Sự đồng tông giáo là một cớ đểâ gây tình hòa hảo.
Sau đây, sẽ kê các phái bộ cống sứ của triều Lý sang Tống, trước khi có việc Lý Tống chiến tranh. Bản kê lập theo TT, VSL, TB và TS. Khi nào sử ta và sử Tàu chép tên và năm hơi khác nhau, tôi theo sử ta. (Một phái bộ thường gồm hai sứ : tên đầu là chánh, tên sau là phó).
Xét qua bản thống kê trên, ta thấy trong khoảng 63 năm, các vua Lý đã sai hơn 23 bộ sang cống vua Tống. Mỗi lúc sứ ta tới, vua Tống rất ưu đãi, ban chức tước cho sứ, và nhân đó gia phong cho vua Lý, từ tước quận vương đến tước vương, và tăng lệ thực-ấp và mỹ tự công thần.43
Sứ ta vào nước Tống hoặc bằng đường Khâm-châu, hoặc bằng đường Vĩnh bình. Mỗi lúc đem voi cống thì đi đường Vĩnh-bình. Quan Tống, Chu Khứ-Phi, còn cho ta biết một vài chi tiết về việc cống.
Trước lúc sứ ta tới biên giới, có phái bộ tới trước xin phép cho sứ tới kinh (ở gần Khai-phong ngày nay). Phải có trả lời của triều đình Tống ưng thuận mới được đi. Mỗi phái bộ ta gồm có đến năm mươi người, có lúc đến trăm người. Nhưng số người được đến kinh cũng phải tùy Tống chấp nhận.
Ngoài các tê, tượng, những cống vật thường rất quí. Sau lúc Tống đã phải dời kinh xuống phía nam, vua Lý vẫn cống hiến rất hậu. Năm 1156, Lý Quốc đem cống đồ kim khí nặng hơn 1200 cân, nạm châu báu nặng phần nửa. Lại thêm hạt trân châu đựng trong bình vàng (3 hạt lớn như quả cà, 6 hạt lớn như hạt mít và 50 hạt lớn như hạt táo). Lại thêm 1000 cân hương trầm, 50 đôi lông thúy, 850 tấm đoạn mầu vàng thắm, hoa rồng cuốn, 6 ngựa vua cỡi đủ cả yên cương, 8 ngựa thường, 5 voi. Phái bộ gồm 100 người. (LNĐĐ 2)
Xem đó biết đời Lý, nước ta giàu biết là bao nhiêu. Những lần khác, tuy cống lễ không hậu như trên, nhưng các đồ vàng, bạc, ngà và hương trầm, cũng trị giá đến vài ba vạn quan. Muốn biết giá trị một lễ như vậy, ta có thể so sánh
với tiền ban cho các nhân viên phái bộ dọc đường, mỗi ngày 10 đồng tiền ngoài gạo !
Sứ bộ được ưu đãi dọc đường và lúc tới kinh, vua Tống ân cần phủ dụ.
Sứ thần được chọn trong các hàng quan cao cấp biết ứng đối, biết làm thơ. Khứ-Phi còn ghi một câu thơ của Lý Bang-Chính. Sau khi vua Tống đổi tên nước Giao-chỉ ra nước An-nam (1164), Bang-Chính về; dọc đường có đề thơ ở
một bưu-đình. Trong thơ có câu “Thử khứ ưu thành tứ quốc-danh” (Đi lần này thành công lớn là được ban tên nước).
Đáp lễ lại, vua Tống ít sai sứ đến Thăng-long. Chỉ lúc ở nước ta, có quốc tang và tự quân lên ngôi, vua Tống thường sai một viên quan ở Quảng-tây tới điếu ai và phong vua mới : như năm 1029, viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây Vương
Duy-Chính (TS và TB 107) tới tế Lý Thái-tổ và phong Lý Đức-Chính (Thái tông); năm 1055, viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây Khang-Vệ (TB 231) tới điếu Lý Thánh-tông và phong Lý Càn-Đức (Nhân-tông).
4. Biên-sự buổi đầu
Tuy giữ đạo phiên-thần tu-cống, nhưng các vua Lý gìn giữ cẩn thận bắc thùy. Mỗi lúc các biên-lại Tống dụ thổ dân, lấn đất đai, vua Lý liền phản kháng. Khi thì sai quan sang biện bác, khi thì sai tướng sang chống cự. Có lúc tướng ta giết quan Tống, đốt đồn trại Tống, mà chung qui, Tống cũng phải làm ngơ.
Sau này, ta sẽ kể những chuyện lớn đã xảy ra trên biên thùy, trong 40 năm đầu triều Lý, nó tỏ rõ những mối bất hòa giữa Lý và Tống,và nó chứng tỏ rõ tính cách hoạt động của chính sách bắc thùy của các vua Lý.
Năm 1022, đời Lý Thái-tổ, các dân Đại-nguyên-lịch thuộc Khâm-châu, và châu Như-hồng tới quấy trấn Triều-dương (Hải-ninh, Quảng-yên). Vua sai Dực thánh-vương đi đánh. Vương đem quân vào sâu trong đất Khâm-châu, đốt phá trại Như-hồng, rồi mới trở về (TT). Trại Như-hồng ở liền phía đông biên giới ta, và bên cạnh có động Như-tích. Ngày nay dộng Như-tích còn ở khoảng giữa Tonghing (Đông-hưng) và Kintcheou (Khâm-châu). Năm1028, có việc gì bất bình ở biên giới, phò mã Thân Thừa-Quí đem quân vào đất Tống. Trại chúa châu Thất-nguyên (Thất-khê) Lý-Tự bị chết. Thừa Quí bắt dân Tống đem về. Viên coi Ung-châu bàn hòa. Lý Thái-tổ ưng thuận. (TB 106)
Năm 1034, đời Lý Thái-tông, có dân ta là bọn Trần Công-Vĩnh đưa hơn 600 người vào theo Tống. Thái-tông sai hơn 1000 quân tới biên giới đuổi bắt. Vua Tống Nhân-tông sợ sinh sự, hạ chiếu trả bọn đào vong ấy cho ta, nhưng dặn đừng giết chúng. (TS 488 và TB 114/16b)
Hai năm sau (1036), lại xẩy ra một việc lôi thôi rất lớn. Số là dân ở các châu giáp đất Tống như Lạng, Môn, Tô-mậu, Quảng-nguyên, động Đại-phát, huyện Đan-ba (TS 488), và các châu Đô-kim,Thường-tân, Bình-nguyên (TT) đều nổi lên đánh Tống, quấy các châu Tư-lăng, Tây-bình,Thạch-tây thuộc Ung-châu. Chúng cướp dân gian, gia súc và đốt nhà cửa, rồi rút lui (TS 488 và 495). Cầm đầu là họ Thân ở động Giáp. Dân động ấy kéo cướp châu Tư-lăng và động Bằng-tường, và giết tướng coi trấn Đăng-uyển (TB 118/4b theo Thực lục). Về việc này, vua Tống cũng chỉ bàn hòa. Hai bên cho rằng duyên cớ bởi man dân có đứa sinh sự mà thôi. Thật ra đó là triệu chứng cuộc họ Nùng nổi loạn sau này.
Năm 1050, viên coi Ung-châu lại dụ hơn 3000 dân cùng các tù trưởng Vi Thiệu-Tự, Vi Thiệu-Khâm ở châu Tô-mậu. Lý Thái-tông đòi lại, vua Tống liền trả và dặn ta phải ước-thúc biên-dân, kẻo chúng xâm phạm nhau. (TS 488)
Sau cuộc loạn Nùng Trí-Cao (1052-1053), Tống mới quan tâm đến biên-cảnh phía nam; cắt quan canh phòng cẩn mật, và có ý dòm ngó nước ta. Vì vậy, sự xích mích ở biên giới càng sinh nhiều và mạnh.
5. Can-thiệp trực-tiếp
Chính sách bắc thùy triều Lý trong 40 năm bắt đầu có kết quả. Tuy Tống vẫn coi châu Quảng-nguyên, như thuộc châu Ung của mình, nhưng thật đã hoàn toàn theo vua Lý. (TS 495)
Viên coi Ung-châu là Tiêu Chú cũng phải tâu về triều rằng :”Giao-chỉ tuy có triều cống, thật thì ngầm ngấm họa tâm, thường dùng cách tâm-thực mà lấn vương thổ. Ví dụ, về đời Thiên-thành (1023-1031), quan ta là Trịnh Thiên-Ích có trách Giao-chỉ tự tiện thu thuế ở động Vân-hà (vậy khi ấy Vân-hà thuộc Tống, có lẽ ở vùng Lạng-sơn, hoặc là sau đổi ra Vân-mịch, tức phố Van-mit trên địa đồ Đông-dương); thế mà nay động Vân-hà đã ở sâu vào đất Giao-chỉ vài trăm dặm. Ấy thật vì, năm này qua năm khác, nó lấn dần cho đến ngày nay…” (TS 334 và TB 150/15b)
Tiêu Chú là một viên biên-quan đời Tống, am hiểu tình hình nước ta vào bực nhất. Chú là một nhà nho học có tiếng, xuất thân tiến sĩ, mà lại rất thích việc binh. Coi huyện Phiên-ngu (Quảng-châu ngày nay) lúc Trí-Cao tới đánh. Trong lúc các quan to đều hoang mang sơ hãi, Chú đã lập kế hoạch du kích quân Nùng. Chú lại vào các man động kết thúc dân chúng. Sau khi Trí-Cao thua chạy về đạo Đặc-ma, Chú đã thân hành đem quân đến nơi do thám và bắt được mẹ và con Trí-Cao. Chú lại sai người vào tận nước Đại-lý tìm Trí-Cao nữa. (TS 334)
Đối với Giao-chỉ, không những mục đích Chú lấy lợi thu phục lại Quảng nguyên (TS 334 và TB 150), mà Chú còn tham vọng đánh lấy đất Lý nữa. Nối lời tâu trên, Chú nói :”Tôi nay đã rõ chỗ quan yếu, thấu chỗ lợi hại. Nếu không đánh bây giờ mà lấy Giao-chỉ đi, thì sau sẽ có điều lo cho Trung-quốc”.
Lời tâu ấy thật là xác đáng và tiên tri. Từ năm Trí-Cao bị thua (1053), Tiêu Chú được coi Ung-châu, tức là chỗ cuống họng vào đất nước ta. Một mặt, Chú xin về triều để bày tỏ phương lược; một mặt, ngầm thi hành ý định; lấy lợi nhử dân Quảng-nguyên, bảo ngầm chúng soạn binh giáp, trữ lương tiền, tuyển lính mán, dạy cỡi ngựa, bắn cung; dung nạp dư đảng của Nùng Trí-Cao và chiêu tập các du sĩ. (TS 334 và TB 150)
Nhưng những quan trên Chú, như Lý Sư-Trung, Tiêu Cố, coi giữ Quảng-tây, cho Chú hay sinh chuyện, nên thường gạt bỏ lời trình của Chú.
Với chính sách mưu chiến của Tiêu Chú, sự xích mích giữa Tống và Lý ngày càng nhiều. Cho nên những biên sự, ngày trước chỉ vì biên lại gây nên, sắp trở
thành việc xung đột lớn giữa hai nước.
6. Việc động Tư-lẫm
Lý Thánh-tông biết rõ ý định của Chú, đã phản ứng lại một cách mạnh bạo hơn. Nhiều việc bất hòa xẩy ra ở vùng biên thùy, có tính cách quyết liệt hơn trước. Sau đây sẽ kể vài ba.
Năm 1057, sứ ta là Mai Nguyên-Thanh (VSL) đem hai “kỳ lân” qua Quảng châu, định cống vua Tống. Nói đến kỳ lân, đời xưa ở Á-đông, là một việc rất quan hệ. Người Trung-quốc tin rằng chỉ khi có thánh nhân ra đời và gặp vận thì kỳ lân mới hiện. Đến như Khổng-tử ra đời không gặp vận, kỳ lân có hiện cũng chỉ là kỳ lân què ! Vì lẽ ấy, các quan Tống cãi nhau sôi nổi về việc kỳ lân của Giao-chỉ cống. Sách TB còn chép rõ hình dáng con vật ấy :”Hình như trâu, mình có da dày từng mảnh như giáp, đầu mũi có sừng; hay ăn cỏ, quả, dưa. Cho ăn thì phải lấy gậy đánh nó mới ăn”. Ta đoán đó là con tê giác. Nhưng triều đình Tống bàn cãi nhau mãi. Sau Tư Mã-Quang phải nói nửa chừng rằng :”Giả sử đó là kỳ lân thật, thì hiện không gặp thời là điềm dở; mà nếu đó không phải là lân mà ta nhận, thì các nước phương xa sẽ cười ta” (TT và TTh). Vua Tống bèn bảo gọi vật ấy là “thú lạ” mà thôi (TB 187) và để lại Quảng châu.
Chắc rằng việc Tống từ khước “kỳ lân” này không làm cho vua Lý hài lòng. Vả Tiêu Chú đem quân đi tuần các khê động gần biên giới ta, có ý đe dọa. Vua Tống phải hạ chiếu răn cấm (tháng 7 năm M.Tu 1058). Lý Sư-Trung, làm đề điểm hình ngục Quảng-tây cũng lo toan chỉnh đốn hành chính, binh lương và giao thông ở miền Ung-châu. Sư-Trung nói :”Vùng Lĩnh-nam không tiện phái lính thú đến đó. Xin mộ thổ đinh, nhà nào bốn năm đinh thì chọn một, mà cắt phiên nhau, tới lúc ngoài mùa làm ruộng, họp lại tập tành”. Trong vùng Quảng-tây mộ được hơn bốn vạn người. Sư-Trung lại cho thông thương buôn bán, lập lại các chợ Ung-châu, đào sâu kênh Linh-cừ nối Hồ-nam với Quảng tây.
Được những tin ấy, tháng hai năm sau (K.Zu 1059, theo TS và TB 188; TT chép tháng ba) vua Lý Thánh-tông sai quân đóng miền đông bắc, từ châu Vĩnh-an vào địa phận Khâm-châu, và từ châu Tô-mậu vào trại Cổ-vạn (TB
188/4b và 190/1a). Sử ta chỉ nói qua rằng : ” Ta diễu quân rồi rút về. Làm thế vì người Tống tráo trở ” (TT). Các sách Tống chép rõ quân ta đánh Cổ-vạn, giết viên quản-câu Lý Duy-Tân (TB 190/1a), và đánh động Tư-lẫm ở phía tây thành Khâm-châu. (TB 188/4b)
Ngày G.Tu, Tiêu Chú trình :”Giao-chỉ cướp các động Tư-lẫm, Cổ-vạn, Chiêm lãng, bắt dân và gia súc mười bảy thôn, nhiều không kể xiết. Tôi muốn hạ lệnh cho Quảng-châu giữ sứ giả Giao-chỉ, không cho nó đem tiến thú lạ, đợi đòi chúng trả người và vật bị cướp đã. Nếu chúng không nghe, tôi muốn lập tức đưa quân đánh sâu vào đất chúng.”
Vua Tống sai Tiêu Cố, Tống Hàm và Lý Sư-Trung, là ba quan coi lộ Quảng-tây, cùng Tiêu Chú xét việc mà xử trí (TB 189/5b). Tháng 9 năm ấy, Sư-Trung tâu :”Viên coi Ung-châu là Tiêu Chú muốn đánh Giao-chỉ. Sợ người nước ấy nghe mà không yên. Xin cấm Chú không được sinh biên sự”. Vua Tống nghe lời tâu, nên chuyện ta đánh Tư-lẫm không thành chuyện to.
7. Việc châu Tây-bình. Thân Thiệu-Thái
Trong lúc ấy, lại xẩy ra một việc khác ở châu Tây-bình, giáp Lạng-châu. Nguyên có dân ta chạy trốn đến đó. Viên coi quân ở đó, là Vi Huệ-Chính, dấu đi. Vua Lý Thánh-tông sai quân vào đòi lại. Quân ta do châu mục Lạng-châu phò mã Thân Thiệu-Thái, dẫn từ động Giáp kéo vào huyện Như-ngao, thuộc châu Tây-bình (TS). Vua Tống hạ lệnh cho Ung-châu đem quân dẹp (TB 191/16a). Viên đô giám tuần kiểm Tống Sĩ-Nghiêu đem quân cự lại. Quân ta rút lui. Sĩ-Nghiêu đem quân vượt biên giới động Giáp, bị quân ta đánh, giết và bắt được nhiều tên. Việc này xẩy ra năm 1059, có lẽ đồng thời với việc Tư-lẫm nói trên. Sang năm sau (1060, TB 192/16a) Thân Thiệu-Thái lại kéo quân vào đánh, giết Tống Sĩ-Nghiêu và vài tướng nhỏ : Lý Đức-Dụng, Tả Minh, Hà Nhuận, Trần Bật (TB 194/10a). Việc tâu về triều, vua Tống hạ chiếu sai Tiêu Cố đem quân tới Ung-châu, hợp cùng Tống Hàm, Lý Sư-Trung ngăn đánh.
Quân Thiệu-Thái đã qua châu Tây-bình và đánh vào trại Vĩnh-bình (TB 192/2b); làm chấn động cả Ung-châu (theo lời Dư Tĩnh). Ti chuyển vận Quảng-tây xin đem các quân lộ Kinh-Hồ-bắc, chừng 3000 tên, giỏi nghề thương và mộc, đến đánh. Vua Tống lại bảo phải kiểm điểm quân mà thay kẻ già yếu; ý chừng muốn đánh to.
Quân ta vẫn tiến, bắt chỉ huy sứ Dương Lữ-Tài (VSL, còn TT chép Dương Bảo Tài), dân đinh và gia súc nhiều vô kể.
Viên coi Quế-châu là Tiêu Cố, và viên coi Ung-châu, là Tiêu Chú, đều bị cách chức, vì đình thần kết tội “đã không xét công việc các biên lại, để chúng gây sự, làm hại cho quan quân.” (Tháng 11, TB 192/12b)
Tháng chạp năm ấy (1060) quân Lý cũng chưa lui. Lại thêm quân vùng châu Tô-mậu cũng kéo vào Ung-châu họp cùng quân động Giáp. (TB 192/17b, 18b)
Tống liền sai viên lại bộ thị lang Dư Tĩnh làm an phủ-sứ, xuống họp cùng Lý Sư-Trung mà bàn việc đánh dẹp. (TS 320)
Dư Tĩnh muốn xui Chiêm-thành họp sức, rồi đem quân Quảng-nam-tây-lộ tấn công (TS 488). Nhưng có lẽ chưa thi hành được. Sử ta chép : Dư Tĩnh đánh không được, bèn dùng phép ôn hoà mà điều đình. (TT)
Một mặt, Lý Sư-Trung tâu về triều kể tội Tiêu Chú đã hà hiếp man dân, bắt dân tìm vàng riêng cho mình, để đến nổi mất lòng dân. Một mặt, Dư Tĩnh nhận rằng lỗi bởi các viên coi biên trại tham công, sinh sự, và hẹn với quan ta họp nhau để thương nghị. Trong Tống-sử (TS 320 và ĐĐSL 75) nói Dư Tĩnh đến nơi, gọi viên dụng sự Giao-chỉ, Phi Gia-Hữu, mà trách hỏi. Nhưng theo lời
Dư Tĩnh tâu vua Tống, thì chính Tĩnh đã dùng chước bàn hoà trước. (TB 193/7a)
Vua Lý Thánh-tông sai Phi Gia-Hữu (TS và TT; còn VSL chép lầm ra họ Bùi) tới thương nghị. Tĩnh yêu cầu trả lại Dương Lữ-Tài và dân đinh mà Thân Thiệu Thái đã bắt. Gia-Hữu cũng bàn hòa, và trả lời :”Việc này xẩy ra là vì dân gần biên giới cướp nhau, rồi vô ý phạm đến quan quân. Tôi sẽ đòi chúng để tra hỏi, và sẽ trừng trị. Còn những kẻ chúng bắt, tôi sẽ trả lại” (TS). Sách ĐĐSL quyển 75 chép Gia Hữu nói :”Tội chúng đáng chết, tôi xin về bắt những đứa thủ phạm đến nộp”.
Được lời, Tĩnh rất mừng, bèn hậu tạ Gia-Hữu (TS). Sử ta nói Dư Tĩnh hối lộ Gia-Hữu rất nhiều để xin lại tướng Lữ-Tài. Cuối cùng, vua Lý không bằng lòng trả (TT, VSL). Nhưng cũng bắt năm người giải tới biên giới Khâm-châu mà chém. (ĐĐSL 75)
8. Việc động Lôi-hỏa. Nùng Tông-Đán
Sau khi Nùng Trí-Cao bị bại trận. Họ Nùng còn có bọn Nùng Tôn-Đán là kiệt hiệu hơn cả. Tông-Đán coi vùng động Lôi hỏa về phía tây bắc Cao-bằng ngày nay (TB 185/8b chép Hỏa-động), Tông-Đán tụ họp con là Nhật-Tân và dư đảng của Nùng Trí-Cao, căn cứ vào chỗ hiểm mà chống với quân Tống. Đối với vua Lý, Tông-Đán vẫn được coi như là phiên thần nối dòng Trí-Cao.
Trong đời Lý Thánh-tông, vào năm 1057, Tông-Đán đem quân vào đánh đất Tống thuộc Ung-châu. Tiêu Chú, coi Ung-châu, muốn đưa quân động-đinh đánh. Nhưng quan trên là Tiêu Cố, coi Quế-châu, không ưng và muốn chiêu hàng. Viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây là Vương Hãn cũng bàn rằng :”Tông-Đán giữ vùng núi rậm, nếu nó đặt phục binh đón quân ta, thì quân ta chưa chắc dã thắng nổi. Đánh sẽ chỉ làm tăng biên hoạn mà thôi”. Hãn bèn một mình đem quân tới gần động Lôi-hỏa; sai người triệu con Tông-Đán là Nhật-Tân mà khuyên rằng :”Cha mày, trong thì bị Giao-chỉ thù, ngoài thì bị cácquan biên thần ít thưởng cho. Mày về bảo cha mày nên chọn đường có lợi mà đi”. Sách TB (185/8b) chép luôn :”Sau đó, hai cha con Tông-Đán hàng. Việc ở miền nam mới yên.” Tông-Đán được ban chức trung vũ tướng-quân, Nhật-Tân chức tam-ban tá-chức và được coi châu Ôn-nhuận (TB ở đây chép Ôn-mẫn, vì tự dạng hai chữ, nhuận, mẫn, gần nhau). Tuy sách Thần-tông Thực-lục cho công chiêu dụ Tông-Đán là của Vương Hãn, nhưng Tống-sử và mộ-chí Tiêu Cố (do Vương An-Thạch viết) thì nói đó là công của Tiêu Cố.
Tuy vậy, Tông-Đán vẫn không theo Tống. Cho nên, năm 1060, lúc quân ta do Thân Thiệu-Thái lĩnh, kéo vào châu Tây-bình đánh quân Tống, Vương Hãn bấy giờ coi Đàm châu, lại khuyên nên dè Nùng Tông-Đán và nên chiêu dụ nó. (TB 192/12b)
Năm 1062, Tông-Đán và con đem các động thuộc mình, là Lôi-hỏa và Kế-thành, nộp cho Tống, và xin tới ở Lạc-châu. Tống nhận đất, bổ Tông-Đán coi châu Thuận-an (là vùng Lôi-hỏa, Kế-thành mới được đổi ra tên ấy) và bổ Nhật-Tân coi việc thuế ở Ung-châu. (TS 495)
Như vậy, cha con Tông-Đán vẫn giữ đất cũ, là đất mà ta vẫn coi thuộc ta. Cho nên chúng không lấy làm yên tâm, vì sợ vua Lý Thánh-tông đánh. Vả chăng động Lôi-hỏa bên cạnh Quảng-nguyên, mà bấy giờ Lưu Kỷ quản. Lưu Kỷ cũng làmột tướng kiệt-hiệt, lại làm chức quan sát cho vua Lý. Tông-Đán lại càng lo.
“Năm Trị-bình (1064), Tông-Đán có sự hiềm khích với Lý Nhật-Tôn (Thánh-tông) và Lưu Kỷ, nên sợ chúng đe dọa. Viên coi Quế-châu là Lục Sằn biết vâïy, sai người đến dụ. Tông-Đán bèn bỏ châu mình vào nội địa, và được ban chức
hữu-thiên-ngưu-vệ-tướng-quân”. (TS 495)
Sự phản bội của tụi Nùng Tông-Đán lần này làm Lý mất một vùng đất khá lớn ở phía tây bắc châu Quảng-nguyên. Những tên đất mà Tông-Đán nộp Tống, mỗi sách chép một khác: vả trong một sách, cũng mỗi nơi chép một khác. Nhưng có lẽ đất ấy gồm nhiều động. Vả lúc nhận đất rồi, Tống lại đặt tên mới. Những động hay châu ấy có thể tóm tắt như sau; động Lôi-hỏa (hay Hỏa), động Kế-thành, châu Ôn-nhuận. Có lẽ các đất này thành châu Thuận-an. Về sau, lúc vua Lý xin Tống trả đất đã bị thổ tù nộp Tống, lại nói đến các động Vật-ác, mà TB (349/7b) nói là Tông-Đán đã nộp và Tống đổi ra làm châu Thuận-an.
Vua Lý Thánh-tông sai sứ sang đòi đất và dân (TS 488). Sứ giả là Lê Thuận-Tông (TS 332), nguyên châu mục Phong châu, được kén phò mã đời Lý Thái-tông (1036, IV/4) lấy công chúa Kim-Thành. Sứ tới Quế-châu, gặp Lục Sằn. Tỏ
thái độ quả quyết, Thuận-Tông đòi Sằn trả Tông-Đán và các động.
Lục Sằn cũng là một viên xuất thân tiến sĩ như Tiêu Chú, và cũng am hiểu việc biên giới giữa Tống và ta. Trước đó Sằn coi Quí-châu, đã tình nguyện xin tới Quế, vì nhận thấy rằng Ung chỉ cách Quế có 18 trạm, mà vũ bị ở đó không sẵn sàng. Vua Tống bằng lòng. Tống-sử (TS 332) chép nối :”Từ khi giặc Nùng yên, người Giao-chỉ càng kiêu căng, các thú thần thường chịu nhịn cho qua. Sằn tới Ung, họp động trưởng ở bốn mươi lăm động thuộc Tả và Hữu-giang, biên tên được năm vạn thổ đinh, đặt các tướng lại, cấp cho ấn. Thanh thế Tống nổi lại trong vùng khê-động. Sứ Giao là Lê Thuận-Tông tới, kiêu ngạo như cũ. Sằn nhún nhường mời tới, giảng dụ phải kính lẽ phải, làm sứ phải sợ mà trở về”.
Sự thật thì Sằn tâu về triều việc sứ ta tới. Vua Tống Anh tông mới lên ngôi, hỏi ý kiến các đình thần. Tể tướng Hàn Kỳ bàn rằng :”Xứ Giao-châu, rừng núi hiểm trở, khí hậu ẩm độc. Nếu có lấy cũng không giữ được, chỉ nên vỗ về chúng mà thôi” (TS và TB 203/12a). Vua Tống Anh-tông bèn trả hai châu (Lôi-hỏa và Ôn-nhuận ?) lại cho vua Lý. (TS 332)
Nhưng cha con Tống-Đán vẫn theo Tống. Mười lăm năm sau (1073), viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây là Ôn Cảo xin gia hàm cho chúng. Tống Thần-tông ban cho hàm cung-bị-khố phó-sứ. Tông-Đán được làm đô-giám Quế-châu. (TB 244/3b)
Về đại thể, Tống Lý vẫ giao hiếu cùng nhau. Lý vẫn cống hiến, Tống vẫn gia phong. Sứ Lý sang mừng Anh-tông lên ngôi (1064). Anh-tông sai sứ đem các di vật của Tống Nhân-tông sang tặng vua Lý, và gia phong chức đồng trung-thư môn-hạ bình-chương-sự. (TS hình-pháp chí). Trong mười năm liền, không hề xẩy ra biên sự.
9. Kết luận
Ở
Ở triều Tống, trong đời Chân-tông, Nhân-tông, và Anh-tông, có nhiều người chủ việc đánh ta. Nhưng bấy giờ, vua Tống thích hòa bình, các đại thần đều là người nho học, không ham gây họa chiến tranh. Vả việc bắc thùy Tống cũng đã khó khăn lắm. Cho nên, với việc quân Tống bị nhục bởi tay Thân Thiệu-Thái mà Tống cũng không gây sự; và đến việc Nùng Tông-Đán, Tống cũng không làm già. Sau đó ta lấn dần đất Tống. Năm 1074 Thẩm Khỉ tâu rằng năm trước ta đã chiếm mất châu Thất-nguyên. (VI/7)
Tuy nhiên, phái chủ chiến vẫn không thôi. Năm 1064, khi sứ ta tới kinh đô Tống, có nội thị là Lý Kế-Hòa đe dọa sứ ta rằng :”Lúc Thân Thiệu-Thái vào cướp Quảng-nam Tây-lộ, ta đã nhiều lần xin đánh xứ ngươi. Nhưng triều đình cho rằng Thiệu-Thái là đứa ngông cuồng. Vả nước ngươi đã sai sứ tạ tội. Cho nên triều đình chưa cất quân mà thôi”. (TS 488)
Những người chủ chiến ấy sắp có cơ hội sau này. Chính là sau lúc Tống Thần-tông lên ngôi (1067), và Vương An Thạnh được chấp chính (1069).
CHƯƠNG VI : VƯƠNG AN-THẠCH VỚI ĐẠI VIỆT
1. Chính-sách tân-pháp
Tống là một nước từ địa vị nhỏ ở trung tâm nước Trung-hoa, đã trở nên một đế quốc, bằng cách dùng vũ lực thôn tính các nước bày-vai. Cuộc bành trướng bắt đầu năm 963. Hướng về phương nam và tây, đánh lấy Kinh-nam (vùng Hồ-nam), Vũ-bình, Hậu-thục (Tứ-xuyên), Nam-hán (Quảng đông); dụ hàng Nam-Đường (Giang-tây), Ngô, Việt (Chiết giang) và Mân (Phúc-kiến). Còn về mặt bắc, Tống gặp nhiều khó khăn, vì ở kề Vạn-lý trường thành có những nước Liêu và Hạ rất mạnh44 không muốn để Tống lấn lên cạnh nước
mình. Cho nên Tống Thái-tổ đã thất bại trong việc đánh Bắc-Hán (vùng Hà-bắc). Phải đợi đến khi Thái-tông lên ngôi, nước này mới bị nhập vào đất Tống (979).
Nước Tống gồm địa giới Trung-quốc bây giờ, trừ vùng Bắc bình, Sơn-tây, Cam-túc, Tây-cương, Quí-châu, tây phần Quảng-tây và Vân-nam.
Thấy tiến về nam dễ, Thái-tông đã quyết đánh ta, và đã bị thất bại hoàn toàn năm 981 (IV/1) vì tay Lê Hoàn. Từ đó về sau, tâm trí vua Tống phải luôn luôn quay về hai nước Liêu, Hạ ở miền bắc. Trong khoảng gần trăm năm, nước ta được khỏi họa xâm lăng.
Năm 1068, một vua trẻ lên ngôi nhà Tống. Ấy là Tống Thần-tông. Thấy các triều trước, Chân-tông, Nhân-tông và Anh-tông nhu nhược, chỉ bo bo giữ chốn kinh kỳ yên ổn, chứ không quản gì đến quốc nhục ở các biên thùy; trong triều, các nho thần chỉ chăm về từ chương và chỉ bàn suông về đạo đức, lấy sự dân yên làm quí. Cho nên Thần-tông có chí quật cường.
Bấy giờ có một nho thần là Vương An-Thạch cao tài kinh tế. Tuy chức còn nhỏ, nhưng Thần-tông gọi về gần kinh để hỏi ý kiến (tháng 9 năm Đ.Vi 1067) rồi cất lên làm tể tướng (1069). An-Thạch lập kế hoạch làm dân bớt bị quấy, thêm giàu; làm quốc quỹ dồi dào, làm binh lực nước mạnh. Các phương sách y đề cử và ban ra để thi hành, đối với đương thời, đều có tính cách đại-cách-mạng. Cho nên bấy giờ gọi các phép ấy là tân-pháp.
Làm tiện và lợi cho dân thì có phép mộ-dịch, quân-thâu, nông-điền, thủy-lợi. Mộ-dịch là bỏ lệ bắt làm xâu, mà tùy theo nghèo giàu nạp tiền để thuê người làm thay. Quân thâu là trong việc thuế-cống, có thể lấy chỗ gần thay chỗ xa, lấy cái đắt thay cái rẻ, để thâu cho đều. Nông-điền,
thủy-lợi là phép mở mang ruộng cày, lấy nước vào ruộng. Phép mộ-dịch, cũng chép là miễn-dịch, hay trợ-dịch.
Làm lợi cho dân và cho công quỹ thì có các phép : thanh miêu, thị-dịch, phương-quân-điền. Thanh-miêu là lúc còn xanh, nhà nước cho dân vay tiền trước; đến lúc gặt phải trả vốn và lời 2 hoặc 3 phân (phần mười). Thị-dịch là lập công vụ mua hàng khi rẻ, rồi phát cho các nhà buôn, bán lấy lãi, hoặc để cho dân gian lúc cần tiền có thể tới cầm-cố đồ vật với một lợi tức phải chăng. Phương-quân-điền, hay phương điền là đạc-điền theo từng khoảnh vuông để định thuế-lệ.
Làm mạnh cho nước thì có phép bảo-giáp và bảo-mã. Bảo giáp là bỏ bớt cấm binh, tức là lính mộ phải trả tiền tốn, mà dùng dân-binh. Họp mười nhà thành một bảo, có bảo trưởng coi; mười đại-bảo thành một đô-bảo có đô-bảo trưởng coi. Nhà nào hai đinh, thì bắt một để vào bảo. Không cấm khí giới như trước; trái lại sai các bảo tập vũ-nghệ. Phép bảo-mã là phát ngựa cho các bảo và tư gia tình nguyện nuôi, hoặc nhận cấp tiền để tự mua lấy. Mỗi nhà được một hay hai con. Hàng năm có quan khám nghiệm. Lúc hữu sự thì bảo-đinh phải ra lính và các ngựa phải nộp quan.
Đại để các phép ấy rất tài tình và cũng gần như các phép mà ngày nay cả thế giới dùng. Bấy giờ thì rất mới. Tuy bị phái cũ bài xích, các phép đều được thi hành, và chẳng bao lâu có ảnh hưởng rất khả quan.
2. Phòng-thủ nam-thùy
Quảng-nam là vùng ở cực nam nước Tống; gồm hai lộ : Quảng-nam-tây-lộ và Quảng-nam-đông-lộ. Gọi tắt là Quảng-tây và Quảng-đông. Quảng-tây bấy giờ ra tận bờ biển : Liêm-châu và Khâm-châu đều thuộc Quảng-tây. Cho nên nước Đại-Việt đời Lý hoàn toàn tiếp đất Quảng-tây.
Sau khi Nùng Trí-Cao đánh phá Quảng-nam, Tống đã chia tây-lộ làm ba : Ung, Nghi, Dung. Được ít lâu lại trở lại chế độ cũ (LNĐĐ/1).
Chức quan cai quản việc quân ở lộ là kinh-lược an-phủ-sứ, đóng ở Quế-châu. Lệ thường là viên coi Quế-châu kiêm chức ấy : người ta gọi bằng quan tri Quế-châu, hay quan kinh lược-sứ. Về việc lương thực, tài chính, có chức chuyển-vận sứ. Hai chức trên, không bên nào phụ thuộc bên nào, và đều theo mệnh lệnh trung ương.
Danh hiệu châu rất phức tạp. Vì từ đời Hán đặt ra danh hiệu ấy. Đời sau, lúc thì đổi ra quận, lúc lại đặt lại. Cho nên đời Tống, tiếng châu chỉ một khu vực hoặc to hoặc nhỏ; ví dụ : Quế-châu quản Liêm-châu mà Liêm-châu lại có lúc quản Khâm-châu.
UNG-CHÂUlà châu thuộc Quảng-tây và tiếp đất nước ta. Viên coi Ung-châu thuộc viên coi Quế-châu. Viên ấy kiêm chức an-phủ đô-giám, coi tất cả việc binh lương, luyện tập, phòng ngự ở biên thùy. Dọc theo các trại giữ những khê động, như năm trại giáp Đại-Việt (IV/1), các chủ trại đều kiêm chức tuần-kiểm để huấn luyện giáp-đinh và bắt trộm cướp (LNĐĐ/1). Những chủ trại có chức tuần-phòng-sứ hoặc là đô-giám(LNĐĐ/3).
Về quân, thì Ung-châu gồm hai đoàn, gọi là hai “tướng”. Mỗi tướng có 5 000 quân. Giữ biên thùy Đại-Việt, có một tướng, chia làm hai phần : 2 000 đóng ở thành Ung, 3 000 chia đóng năm trại : Hoành-sơn, Thái-bình, Vĩnh-bình, Cổ-vạn, Thiên-long.
Về mặt KHÂM-CHÂU, có đặt viên phòng-biên-tuần-sứ cai quản đoàn quân gọi là Đằng-hải, hợp với quân của hai viên tuần-kiểm, không quá 500 người, đóng ở hai trại : Như-tích giáp biên thùy châu Vĩnh-an và Để-trạo ở cửa sông Khâm châu.
Trên đây chỉ nói đến “quan quân” nghĩa là quân chính qui thuộc triều đình tuyển. Ngoài ra, còn có nhiều thứ quân địa phương, tức là dân quân : thổ-đinh (dân các châu), động đinh (dân các động). Theo thời, ở các trại, khi thì có quan quân, khi thì hoàn toàn để động-đinh phòng thủ.
Dân các động thường hay cướp nhau. Vậy nên, chúng đã tự tập vũ nghệ để tự vệ : hạng trai tráng tự vệ ấy gọi là điền tử-giáp, nghĩa là vừa cày vừa làm lính (LĐĐ/3)
Tất nhiên rằng khi các viên chức Tống không biết cai quản khê động, thì động đinh ấy trở thành những mối lo cho Tống ở biên thùy. Trái lại, lúc các viên coi Quế-châu, hay Ung châu quan tâm đến sự kết thúc chúng, thì chúng lại trở nên những quân lính, không những giữ biên thùy có công hiệu, mà chúng có thể thành quân tiền phong uy hiếp nước ta.
Từ khi Nùng Trí-Cao đã phá Quảng-nam, quân Tống đặt ra lệ cứ năm đinh bắt một, để làm thổ đinh, và cứ hai đinh bắt một để làm bảo-đinh.
Đến đời Hi-ninh thứ 6 (1073), Vương An-Thạch tổ chức lại, muốn theo lệ quân nghĩa-dũng ở Hà-bắc; đặt cấm binh giao cho viên kinh-lược hoàn toàn điều phát, và chỉ dành bảo đinh cho các châu huyện trông coi. (LNĐĐ/3)
Tống tổ chức quân khê động để toan vào đánh đất ta. Ta sẽ thấy rằng Tống sẽ thất bại trong các cuộc hành quân; mà lẽ chính cũng là vì do dự không lợi dụng triệt để các quân khê động ấy.
3. Chính-sách kiềm-chế
Lúc Thần-tông mới lên ngôi và lúc Vương An-Thạch mới chấp chính, ý tưởng đối với ta thế nào ? Sách TB nay đã mất khoảng ba năm đầu đời Hi-ninh (từ tháng 4 năm Đ.Zu 1067 đến tháng ba năm C.Ty 1070), làm ta không thể biết rõ. Nhưng đoạn sau còn nhắc lại đoạn mất, khiến ta đoán
rằng vua Tống và An-Thạch đã bàn đến việc Giao-chỉ. (TB 216/6a)
Lúc quốc-dụng được dồi dào, binh lực khá mạnh, vua Tống Thần-tống bèn nghĩ đến việcbiên cương.
Ở phía bắc, hai nước Liêu, Hạ vẫn mạnh và thường thường uy hiếp biên giới. Quân và tướng giỏi phần lớn đóng ở bắc thùy.
Tháng 11 năm M.Ta (1068), Vương Thiều hiến kế đánh nước Thổ-phồn ở phía tây nước Hạ, để cắt “cánh tay phải của nước này”. Vương An-Thạch khen là kỳ mưu. Vua cũng bằng lòng. Cho nên việc binh bắt đầu phát ở đó. Tuy lấy được Hi hà và Thần-tông khen An-Thạch, nhưng sau này cũng là mối lo cho Tống, dai dẳng đến năm 1073.
An-Thạch làm nội chính cách-mạnh, nên bị lắm kẻ thù oán, nhất là các lão thần. Cho nên kẻ đương thời cũng như các sử gia đời sau đều qui các tội thất bại nội chính cũng như ngoại giao cho An-Thạch. Vì thế xét đoán cho đích xác trách nhiệm vua Tống Thần-tông và Vương An-Thạch trong việc đánh nhau với nước ta, không phải dễ. Sự chắc chắn là cả hai người đều để ý đến các man dân miền khê động châu Ung và trong trí người Trung-quốc ở trung nguyên, thì dân ta cũng chỉ là một man dân mạnh mà thôi. Cả hai đều nghĩ sớm chầy gì cũng sẽ mở man bờ cõi miền Nam; vì “nếu thắng, thế Tống sẽ tăng, và các nước Liêu, Hạ sẽ phải kiêng nể”.
Nhưng trong khi bàn bạc về thời cơ thuận tiện, có chỗ dị đồng : lúc vua muốn gây sự thì An-Thạch lại can, lúc An Thạch muốn khởi binh thì vua lại dè dặt. Trong lúc ấy, các biên thần đều lo liệu sự kết thúc các man dân và tăng binh lực.
Tháng 7 năm C.Tu (1070), An-Thạch bàn với vua việc lấy dân binh thay mộ binh, có nói :”Ở Quảng-Nam thú binh
chết nhiều, cần phải dùng gấp dân quân” (TB 213/6b)
Bấy giờ ý Tống Thần-tông đã quyết. Nhưng binh lực chưa sẵn. Vả An-Thạch cũng mới bắt đầu thí nghiệm các tân pháp, còn phải đối chọi với biết bao là kẻ ghen ghét oán thù. Cho nên triều đình Tống chỉ tìm cách kiềm chế phương nam. Tống sợ thất bại, chưa giám gây sự. Tháng 10 năm ấy, viên coi Quế-châu là Phan Bội tâu : “Tưởng Thánh-Du, coi việc văn tự về khê động Ung-châu, vừa tới nhậm chức mà đã lập tức nói muốn đánh lấy Giao-chỉ. Sợ sẽ sinh sự, xin đổi y”. Vua nghe theo. (TB 216/a)
Nhưng vua Tống vẫn muốn dời kinh lược từ Quế-châu xuống Ung-châu, để phòng bị sự “Giao-chỉ phản trắc”. Sau lại bảo đợi sứ vua Lý sang đến nơi sẽ hay (TB 216/6b). Tô Giám, một viên có công trong cuộc chống Nùng Trí-Cao và ở lâu vùng Lưỡng-Quảng, rất am hiểu tình thế nước ta, được bổ coi Ung-châu (tháng 10 năm C.Tu 1070, TB 216/6b). Tháng chạp, sứ ta là Lý Kế-Nguyên tới, quan Tống ngăn không cho tới Biện-kinh (kinh đô ở gần Khai-phong, tỉnh Hà-nam) và đòi ta phải trả trước dân Tống, mà ta đã bắt. (TB 218/12b)
Đồng thời, Tống tăng số quân ở Quảng-đông và Quảng-tây thêm 1200 tên.
Cuối năm C.Tu (1070) tình thế giữa Tống với Lý coi chừng đã quá găng. Viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây là Đỗ Kỷ dâng sớ nói rất rõ ràng về nội tình nước ta, kể rõ núi sông, đường sá, binh dân. Vua đưa cho Vương An-Thạch xem, và định giao cho viện khu mật giữ làm tài liệu. An-Thạch hiểu ý Thần-tông muốn đánh Giao-chỉ, liền can. An-Thạch nói :”… Vua đã ngỏ ý từ trước là phải làm nước giàu, dân yên. Đó là phúc cho dân. Còn việc ngoài vạn dặm, trước đã bàn rằng không thể không xét tới, như đã xét đến sự bọn Ôn Cảo lấy làm lo cho các châu Khâm, Liêm. Nhưng đến như sai biên thần đi dỗ Giao-chỉ, thì không nên. Làm như vậy, trước là sẽ
trái với lời dặn của Bệ-hạ từ trước, sau lại làm Giao-chỉ sinh nghi”.
Chữ dỗ mà An-Thạch dùng đây nghĩa là đem binh tới ép. Rồi An-Thạch dẫn tích nhà Tần dỗ Nghĩa-Cừ mà thành ra Nghĩa Cừ biết mà làm phản. Y nói tiếp :”Tôi sợ nếu dùng kế Ôn Cảo, thì chẳng may Giao-chỉ biết ra, dự bị trước; sẽ có sự khó khăn ở biên”. An-Thạch khuyên Thần-tông theo vua Anh-tông, lấy trí, dũng, nhân, nghĩa mà trị dân, thì không cần đánh cũng phục được.
Đọc qua lời tâu dài này, ta thấy An-Thạch còn bị các triều thần khác bài xích. An-Thạch sợ thất bại trong việc mở biên cương, nên can vua :”Như vậy, việc chưa bắt đầu mà kẻ trí giả đã biết trước sẽ không thành”. Y nhân đó ám chỉ những triều thần khác. Trong kết luận, có câu :” Sự đáng lo trong nước, không phải ở biên thùy, mà ở triều đình; không ở triều đình, mà ở lòng vua…”(tháng 11 năm C.Tu, 1070; TB 217/13b).
4. Chính-sách hòa-hoãn. Tiêu Chú
Tuy vậy, kẻ hiến kế đánh ta vẫn dâng thư về triều. Có kẻ nói rằng :”Giao-chỉ bị thua ở Chiêm-thàng (muốn nói việc năm 1069, II), quân không còn nổi một vạn. Có thể tính ngày đánh lấy được”. Sách TB đoán rằng đó là lời Phan Bội, coi Quế-châu bấy giờ, vì tuy Bội đã hặc người khác về việc muốn đánh nước ta, nhưng cũng đã bày tỏ ý kiến là có thể lấy nước ta được. (TB 219/4b)
Vả chăng, từ khi bị truất chức coi Ung-châu (tháng 11 năm C.Ta 1060; V/5) vì đã khiêu khích nước ta, Tiêu Chú vẫn muốn lăm le phục chức. Theo lời Ngụy Thái, lúc Thần-tông lên ngôi và Vương An-Thạch chấp chính, Chú đoán rằng triều đình vừa có ý mở biên cương; bèn đánh tiếng rằng:”Trước đây tôi đã ở Ung-châu lâu, tôi biết rằng Giao chỉ có thể lấy được”. Triều đình lật đật gọi Chú, cho phục
chức và bổ coi Quế-châu, lại sai kiêm các chức kinh-lược, an-phủ-sứ Quảng-tây (ĐHBL 8)
Thật ra, tháng giêng năm T.Ho (1071), Tiêu Chú45 có chỉ bổ coi việc quân mã ở vùng Hà-đông, là vùng còn đánh nhau với Hạ. Chú không muốn đi, bèn nói : “Tôi vốn là thư sinh, thạo nghề phủ dụ, nhưng kém nghề chiến đấu; sợ không cán nổi việc ở đó”. Lại nhân có kẻ nói Giao-chỉ có thể lấy được, vua Tống sai Chú coi Quế-châu (TB 219/4b). Xem đó ta thấy rằng triều đình Tống càng ngày càng quan tâm đến nước ta.
Vùng nam Ngũ-lĩnh có tiếng là khí nóng, nước độc. Cácquan lại bị chết nhiều, và ít kẻ bằng lòng nhậm chức ở đó. Cho nên viện khu mật tâu xin hậu đãi những người đi Quảng nam, “như thế thì người ta mới vui đi, và chốn xa không thiếu chính quan” (tháng 10 năm T.Ho 1071. TB 227/6b). Trái lại,Chú thích đi.
Lúc Chú tới Quế-châu, các tù trưởng xa gần, từ đạo Đặc-ma tới châu Điền-đống đều kéo nhau tới yết kiến. Chú đều mời mọc ân cần, hỏi han hình thế sông núi, tình trạng nhân dân mà Chú đã từng quen biết mười năm trước. Ai nấy đều bằng lòng. “Cho nên Lý Càn-Đức (Nhân-tông) động tĩnh thế nào, Chú đều biết rõ” (TB 242/13b và TS 334). Chú thấy trong khoảng mười năm, nước ta đã giàu mạnh lên nhiều; ta đã đại thắng Chiêm-thành và đã mở mang bờ cõi nam và bắc. Chú là một người rất thức thời, nên đã hiểu rằng phải kiêng dè kính nễ nước ta, và sợ ta đánh lại. Cho nên “khi có kẻ hiến kế đánh Giao-châu, Chú đốt thư đi”. (TB 242/14a)
Trong lúc ấy, quân ta cũng không ở yên. Lưu Kỷ ở Quảng nguyên đem hơn 200 quân thổ đinh dẫn quân Lý vào châu Qui-hóa, tức là đất Nùng Tông-Đán và con mới nộp Tống (V/6). Ti kinh-lược Quảng-tây tâu về triều. Tống Thần-tông phê rằng :”Gần đây, đã nhiều lần thám báo rằng giặc
Quảng-nguyên tụ tập. Cuối cùng tin không đúng. Khiến dân khê động ở không yên. Sợ tin đó là giặc giảo-hoạt cố ý hư truyền ra, để làm náo động nhân tình, rồi nhân đó, hiếp bức dân chúng theo nó. Đó là việc mà bọn Hoàng Trọng-Khanh, Lư Báo đã làm. Nếu để lâu không xử trí, thì sự lý không tiện. Vậy, kíp sai Tiêu Chú tới đó mà xử trí, chớ để thành chuyện to lớn.” (tháng 11 T.Ho 1071;TB 288/1a).
Thánh 5 năm sau (N.Ty, 1072), Tiêu Chú xin ước-thúc dân các khê động, và nói :”Mỗi khi nghe báo có giặc qua địa hạt mình, mà các tri châu không lập tức tới đánh bắt, thì xin đem quân pháp trị tội”. Ý Tiêu Chú là cốt bắt buộc các quan địa phương canh phòng cẩn mật. Nhưng vua Tống nói với các phụ thần rằng :”Khi báo có giặc, chưa biết thật hay không, lại không biết giặc nhiều hay ít. Nếu thế lực các châu không đủ, thì đánh bắt làm sao được, mà lấy quân pháp trị tội người ta. Nên sai ti kinh-lược xét kỹ và giảm tội.” (TB 233/21b)
Tiêu Chú ở Quế-châu hai năm, lăng nhăng không được việc gì. (ĐHBL 8)
5. Chính-sách khiêu-khích. Thẩm Khỉ
Sự thật là Tiêu Chú hiểu rõ thế lực nước ta bấy giờ rất thịnh, nên mới chù chừ, không muốn mưu sự đánh ta. Triều đình Tống cũng chưa giám quyết
Nhưng sang năm N.Ty (1072), tình thế biến chuyển. Tháng giêng, vua Lý Thánh-tông mất. Vua Nhân-tông còn bé. Thái hậu Thượng-dương và thái phi Ỷ-lan tranh quyền nhau. Phe Lý Thường-Kiệt và Lý Đạo-Thành hiềm kỵ nhau (III/1)
Tống Thần-tông và nhất là Vương An-Thạch bắt đầu quyết tâm sửa soạn cuộc nam chinh.
Tháng 8, có lệnh chung bãi bỏ các viên câu-đương công-sự ở các ti kinh-lược và an-phủ, nhưng trừ tỉnh Quảng-tây; “vì Ô
Ôn Cảo bấy giờ giữ chức ấy, vả lại vừa có ý đánh Giao-chỉ” (TB 237/23b). Lệnh đặt bảo-giáp ở các lộ đã ban ra. Tháng giêng năm Q.Su (1073), Hứa Ngạn-Tiên là viên coi việc ấy ở Lưỡng-Quảng tâu :”Đã sai các huyện-lệnh lập bảo-giáp để thay các thứ lính đã đặt từ trước.” (TB 242/3b)
Tống Thần-tông triệu Tiêu Chú về hỏi tình hình Giao-chỉ và sách-lược chinh phạt (ĐHBL). Chú cho việc ấy khó. Vua ngạc nhiên, nhắc lại câu người ta nói : Giao-chỉ bị thua ở Chiêm-thành, quân không còn nổi một vạn; có thể tính ngày lấy được (VI/). Chú tâu :”Xưa, tôi cũng có ý ấy. Bấy giờ quân khê động một người có thể địch mười; khí giới sắc và cứng; người thân tín thì tay chỉ, miệng bảo, là điều khiển được. Nay, hai điều ấy không như trước : binh giáp không sẵn sàng, người tin chết quá nửa. Mà người Giao-chỉ lại sinh-tụ, giáo-hối đã mười lăm năm rồi. Bây giờ, nói quân Giao không đầy một vạn thì sợ sai”. TB (219/4b) chép câu trả lời vào lúc ban đầu, khi Chú mới tới Quế-châu, chắc là lầm. (TS 334)
Vua và Vương An-Thạch không bằng lòng. Có viên hình-bộ lang-trung, là Thẩm Khỉ, nói quả quyết rằng :”Giao-chỉ là đồ hèn mọn, không lý gì không lấy được”. Vì thế vua chọn Khỉ thay Chú coi Quế-châu và kiêm chức Quảng-tây kinh-lược sứ (tháng 2 năm Q.Su 1073; TB 242/14a).
Khỉ liền xin :”Từ nay nếu ở Quảng-tây có biên sự, sẽ theo lệ Thiểm-tây, để ti kinh-lược được xử trí rồi tâu sau”. Vua bằng lòng. Khỉ lại sai người ra ngoài biên giới để lo liệu công việc. Vua hỏi An-Thạch :”trả lời làm sao ?”. An-Thạch xin y lời.
Vua cũng bằng lòng (tháng 4 Q.Su, 1073; TB 244/3b). Ít ngày sau, lại giao thêm cho Khỉ công việc lương thảo (TB 244/7b).
Thoạt tiên, Khỉ muốn tổ chức tây bắc Quảng-tây, để cho yên đường tiếp tế hạt mình. Cho nên, đặt các doanh trại ở các
châu Dung, Nghi. Đem quân đánh trại Vương-khẩu, binh lính bị chết nhiều (ĐHBL 8).
Thế mà Khỉ tâu dối về triều rằng các man dân theo mình. Rồi tự xây thành, đắp lũy. Làm dân vùng Nghi, Dung oán. Dân các động nổi lên, chém giết quan quân (theo lời Tống Thần-tông, TB 272/2a)
Tháng 4 (Q.Su, 1073), Khỉ xin lấy động-đinh trong năm mươi mốt động thuộc Ung-châu để kết thành bảo giáp, và sai quan dạy và kiểm tra. Vua Tống không những bằng lòng, mà còn cấp tiền cho để thi hành (TB 244/8b). Khỉ sai người vào các khê động, kiểm điểm dân đinh, lập thành bảo-ngũ, phát các trận đồ dạy chúng tập. Sau đó lại bắt các thuyền dọc bờ biển, thường dùng chở muối, để tập thủy chiến. Sợ người nước ta biết những hành động ấy, Khỉ ra lệnh cấm ta không được sang buôn bán ở đất Tống. (TS 334)
Quan Tống hết sức dụ dỗ các tù trưởng. Tháng 4 năm Quí Sửu 1073, Ôn Cảo xin tăng hàm cho tụi Nùng Tôn-Đán (V/8) và Nùng Trí-Hội (VI/7) là tụi đã bỏ Lý theo Tống. Tông Đán được chức đô-giám Quế-châu, Trí-Hội coi châu Quí-hóa; và cả hai được thăng hàm cung-bị-khố phó-sứ (TB 244/3b). Thẩm Khỉ lại sai người dụ Lưu Kỷ ở Quảng-nguyên. Ngày 15 tháng 10 năm Q.Su (1073), Khỉ tâu :”Lưu Kỷ ở Giao-chỉ muốn theo ta. Nếu không nhận, sợ nó làm loạn như Nùng Trí-Cao”. (TB 247/22a)
Cũng vào khoảng cuối năm ấy (Q.Su 1073), có bọn Nùng Thiện-Mỹ ở châu Ân-tình (vùng châu Cảm-hóa thuộc Bắc Kạn, giáp châu Thất-khê, còn có làng Ân-tình, chính là đó, xem ĐKĐD), nghe lời Thẩm Khỉ dỗ, đưa bảy trăm bộ hạ vào xin theo Tống (TB 259/13b). Viên đô-tuần-kiểm là Tiết Cử nhận (TB 251/1a). Thẩm Khỉ tâu rằng :”Viên coi châu Ân tình là Nùng Thiện-Mỹ và hơn 600 gia thuộc xin quy phục
Trung-quốc. Tôi xét thấy Thiện-Mỹ vốn người Trung-quốc, quản động Hạ-thôn thuộc châu Thất-nguyên. Năm trước, động ấy bị Giao-chỉ chiếm mất, và đổi tên ra Ân-tình. Nay vì Giao-chỉ bắt thuế nặng nề, nên tụi Thiện-Mỹ xin quy phục ta, kẻo nếu chúng không nộp thuế cho Giao-chỉ, thì e bị giết”. (TB 259/13b)
Tháng ba năm G.Dn (1074), viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây tố cáo việc ấy (TB 251/1a). Vua Tống bảo xét, và dặn rằng :”Chúng nó đã quy-ninh, thì nên cứu giúp”. (TB 259/13b)
6. Chính-sách do-dự
Tuy Tống Thần-tông đã quyết ý đánh ta, nhưng biên thùy miền bắc còn lôi thôi. Việc đánh Thổ-phồn (Hi-hà, vùng Cam-túc) còn dai dẳng, nước Liêu còn đòi nhường đất. Cho nên bề ngoài, đối với ta, Tống còn dè dặt.
Sau khi Lý Thánh-tông mất, Tống đã sai viên chuyển-vận sứ Quảng-tây là Khang Vệ sang điếu (tháng 3, N.Tý 1072, TB 231/4a). Tháng ba năm sau (Q.Su 1073), sứ ta là Lý Hoài-Tố tới cống, vua Tống phong vua Lý Nhân-tông tước Giao-chỉ quận-vương.
Khi Khỉ xin nhận Lưu Kỷ hàng (tháng 10, Q.Su 1073, VI/5), vua Tống hỏi ý Vương An-Thạch rằng :”Ta nghỉ rằng chưa có thể nhận Lưu Kỷ được. Nhận Lưu Kỷ, chắc rằng Giao-chỉ giành lại”. An-Thạch nói :”Nghe nói Ôn Cảo từ Quảng-tây đã về. Xin đợi Cảo đến nơi, sẽ thương lượng”. (TB 247/22a)
Thẩm Khỉ tới coi Quế-châu được một năm rồi, mà trong hạt Quảng-tây xẩy nhiều vụ lôi thôi. Triều đình Tống sợ Khỉ gây chuyện với ta không đúng cơ hội. Vua Tống và An-Thạch đã trở nên không thích Khỉ. Nhân bàn chuyện Lưu Kỷ, vua
Tống nói :”Việc Giao-chỉ có thể làm xong được. Nhưng sợ Khỉ không làm nổi”. An-Thạch trả lời :”Khỉ tự cho dễ làm xong. Nhưng việc binh rất khó. Sợ Khỉ chưa dễ đã làm
xong” (tháng 10, Q.Su 1073, TS 247/22a). Lúc ti chuyển vận tâu hặc Khỉ không ngăn kẻ dưới nhận Nùng Thiện-Mỹ, vua Tống phê :” Ở Hi-hà còn đương đụng binh chưa xong,
mà phương nam Thẩm Khỉ đã làm xằng, dấu việc gây sự với man dân. Nếu không xử trí cho êm, thì có thể gây nên họa lớn cho Trung-quốc. Thật là không được. Phải lập tức bãi Khỉ, trị Khỉ tội đã tự tiện chiêu nạp man dân. Thế để cho trong ngoài được yên”. Rồi ngày mồng một tháng ba năm Giáp-dần (1074), lấy Lưu Di thay Thẩm Khỉ. Giao cho Lưu Di công việc ước-thúc man dân, như đã giao cho Khỉ trước,và sai Di xét việc Khỉ nhận Nùng Thiện-Mỹ nữa. (TB 251/1a).46
Xem vậy, đủ rõ rằng chính sách dè dặt của Tống Thần-tông và Vương An-Thạch đối với ta, trong năm Quí Sửu (1073), chỉ bởi thời cơ chưa thuận mà thôi. Chứ ý định đánh ta đã quyết, và vua tôi Tống đều đồng lòng. Sự bãi Khỉ không chứng sự bỏ ý định ấy. Trái lại, theo lời Ngụy Thái trong ĐHBL, “tuy Khỉ tìm gây trăm mối chiến tranh, nhưng không trùng cơ hội. Triều đình nghĩ rằng Khỉ có ý chù chừ, cho nên đổi đi coi Đàm-châu”.
Kỳ thật thì cả Tống Thần-tông và Vương An-Thạch đều điều khiển Khỉ soạn sửa đánh ta. Và cả hai người, lúc đầu, đều ưa Khỉ. Khi chọn Khỉ thay Tiêu Chú, có viên khu-mật nói :”Lúc Khỉ làm chuyển-vận-sứ Thiểm-tây, lính Khánh-châu nổi loạn kéo tới thành Tràng-an, Khỉ đóng cửa thành không giám ra ; người ta nghi Khỉ dát”. Vua Tống bênh Khỉ, nói :”Giặc tới dưới thành, mà trong thành khôngcó người giữ, sao lại không đóng thành ? Đó không phải là lỗi”. An Thạchcũng nói Khỉ không có lỗi đáng kể, và vì Khỉ tính trực, nên nhiều người ghét mà thôi (TB 242/14a). Sau này khi Tống bị thua, đáng lẽ Khỉ bị tội chết. May sẽ có An-Thạch cứu cho (theo lời Trần Quán, ở đồng thời. TB 244/4b).
Tóm lại, Thẩm Khỉ được lệnh Tống Thần-tông và Vương An Thạch dự bị đánh nước ta. Nhưng Khỉ đã hành động vụng về. Vua và An-Thạch cho là bất lực, cho nên mới bãiKhỉ (tháng 3 năm Giáp-dần 1074).
Vả ở triều Tống, thế An-Thạch cũng đã bị lung lay gần đỗ. Chích sách cách mạng của An-Thạch tuy được vua thích, và đã có hiệu quả hay, nhưngvây cánh An-Thạch là tụi còn trẻ, thừa hành có kẻ lạm quyền; cho nên các đại thần phe cũ và dân gian rất oán. Bắc thùy nước Tống lại đang lâm vào cảnh khốn đốn.Không những Thổ-phồn quấy nhiễu, mà thế lực nước Liêu càng tăng, ép Tống phải nhiều lần nhượng bộ. Bấy giờ Liêu lại sai sứ sang yêu cầu Tống nhượng thêm đất ở vùng Phần-thủy-lĩnh. Vì vậy tuy được vua che chở, An Thạch cũng tự ý rút lui, để cho người đồng đảng cầm quyền. Ấy là vào tháng tư năm Giáp-dần 1074.
7. Tình-hình nghiêm-trọng. An-Thạch trở lại
Ở nước ta, Lý Thường-Kiệt lên cầm quyền đã được hai năm. Ông cũng rất lo lắng vì chính sách khiêu khích của Vương An-Thạch. Lại thêm năm Tống Hi-ninh thứ 6 (1073), có người Tống quê châu Bạch (LNĐĐ), tên Từ Bá-Tường, viết thư báo tin Tống soạn sửa đánh ta, và xui ta nên đánh Tống trước (TB 288/7a). Thường-Kiệt đã tụ tập nhiều quân ở biên giới, và lộ vẻ muốn vào đánh đất Tống.
Tháng ba năm ấy (Giáp-dần 1074), vua Tống hạ chiếu nói rằng :”Quảng-tây nhiều lần nói tin thám tử báo rằng Giao chỉ tụ binh, muốn phạm vào đất ta. Sợ rằng biên thần không biết lường sức chúng, mà đưa quân xa thành trại, để đánh lại. Vậy nên, phải gấp báo cho viên coi Ung-châu là Tô Giàm, dặn nếu quân man giám phạm đến Ung-châu, thì phải kiềm quân cố thủ; chớ có tham lập công mà khinh địch” (TB 251/6a).
Lúc ấy, Lưu Di đến thay Thẩm Khỉ. Triều đình ra lệnh phải chiêu tập phủ dụ cho yên lòng dân. Di xin hoãn thuế cho khê động vì hạn hán (TB 257/10a) và mộ quân cày đồn điền (TB 256/2a).
Nhưng, ở Biện-kinh, sau mười tháng vắng mặt, Vương An Thạch lại được triệu về chấp chính. Bấy giờ là tháng hai năm Ất-mão 1075. Việc bắc thùy rất bối rối. An-Thạch chủ trương nhượng đất cho Liêu. An-Thạch nói :”Muốn lấy thì phải cho đi đã”. Tống Thần-tông nghe lời, và cắt 700 dặm đất Hà-đông biếu nước Liêu. Bắc thùy tạm yên, vua tôi Tống lại quay về biên thùy Đại-Việt.
Ý Vương An-Thạch vẫn là đánh lấy nước yếu để dọa nước mạnh. Lưu Di được lệng tăng cường binh lực. Tháng 6 năm ấy (1074), có chiếu cho Quảng-tây chỉ dụng thổ đinh, thay lính thương-thủ : cứ ba đinh bắt một và nếu chỗ nào từ trước chưa có thương thủ, thổ đinh hay châu quân, thì đừng đặt thêm. Lưu Di tâu rằng. ” Nay tiếp tin từ xứ man báo về, tôi sợ chúng sắp vào cướp, thủ-ngự ứng-viện sẽ không kịp. Nếu theo lệ mới, thì chỉ mộ được bảy phần mười số cũ. Vậy xin theo lệ cũ.” (TB 254/10a).
Rồi Di theo chính sách Thẩm Khỉ, sai các quan lại vào các khê động kiểm điểm thổ dân, bắt chúng tập trận. Di đóng chiến hạm, dùng thuyền muối để tập thủy binh, y như Khỉ trước. Di cũng cấm người nước ta sang buôn bán để tránh
sự thám thính (TS 334 và TB 271/7a). Những thuế má vùng Tả và Hữu giang thì thu bằng thóc gạo, để tích trữ quân lương (TB 253/4a).47
Tố Giàm coi Ung-châu, thấy quân ta tụ tập ở biên giới, rất lo. Bèn viết thư báo với Di rằng :”Phải bỏ ba việc đang làm : tập lính, đóng tàu và cấm chợ, để cho người Giao-chỉ, nếu có cất quân, không còn có danh nghĩa nữa”. Di không nghe,
viết thư hặc Giàm, trách Giàm bàn nhảm, và cấm không được nói đến biên sự nữa48. (TB 271/7a).
Tình thế càng ngày càng găng. Trước đó vài tháng, vào tháng giêng năm Ất-mão (1075), Lý Thường-Kiệt xui vua Nhân-Tông gửi biểu tới triều Tống đòi lại tụi Thiện-Mỹ. Lời biểu rằng :”Thủ lĩnh châu Ân-tình, tên Ma Thái-Dật là người châu Định-biên ở đất tôi (Bắc-cạn ngày nay). Nó đã dời sang châu Ân-tình và nay đổi tên Nùng Thiện-Mỹ. Nó và 700 bộ thuộc đã trốn sang Trung-thổ. Vậy xin xét rõ căn do”. Vua Tống bảo xét (TB 259/13a). Không thấy Tống trả lời, ta dâng biểu đòi trả tụi dân ấy. Lưu Di không chịu chuyển biểu (TB 272/2a). Cuối cùng, vua Tống không bằng lòng trả Nùng Thiện-Mỹ (TB 259/13a). Ta cũng đành tạm chịu, nhưng chỉ đợi cơ hội phục thù49.
Ý định chiến tranh bên Tống đã rỏ ràng. Quân giữ biên thùy ta cũng sẵn sàng chống lại.
Châu Quảng-nguyên là một yếu địa. Tướng cầm quân ở đó là Lưu Kỷ. Lưu Kỷ nối Nùng Trí-Cao. Sau khi Trí-Cao thất bại, bộ hạ y là tụi Hoàng Trọng-Khanh, Lư Báo, về theo Kỷ (MKBD). Ta đã thấy Kỷ có lần vào châu Quí-Hóa và Thẩm Khỉ đã có lần muốn dụ y (VI, 4). Kỷ làm quan-sát-viên ở Quảng-nguyên (TB 279/11a), thường qua các khê động mua ngựa. Có con Nùng Trí-Cao là Trí-Hội ở châu Quí-hóa, cản đường. Trí-Hội bấy giờ đã qui phụ Tống. Kỷ đem 3.000 quân sang đánh đất châu Ung. Trí-Hội và con là Tiến-An chống lại. Kỷ lui quân về (TB 263/7a).
Việc này chỉ là một cuộc xung đột địa phương, giữa hai biên tướng. Nhưng Tống muốn nhân cơ hội, gây thanh thế ở nam thùy một cách khôn ngoan. Lưu Di được tin Kỷ và Trí-Hội đánh nhau, tâu về triều. Di nói :”Thật ra Trí-Hội chưa theo ta hẳn. Nên để hai bên đánh nhau như thế, thua được đều có lợi cho triều đình.” Vua Tống Thần-tông không bằng lòng,
trả lời :”Sao lại nói như thế ? Nếu ta không dung kẻ theo ta, thì kẻ theo ta đắc chí. Bày phương kế như vậy là bậy !” An Thạch cũng đồng ý, nói :”Quả thực như lời Hoàng-thượng ! Nếu thật Trí-Hội chưa theo hẳn ta như lời Di nói, thì nên nhân cơ hội này mà mua chuộc nó. Vả nay, Càn-Đức còn bé; nếu Lưu Kỷ đánh được Trí-Hội, rồi quay lấy Giao-chỉ, thì đó sẽ là cái họa cho ta. Ta nên giúp Trí-Hội để chế lại Lưu Kỷ, làm cho nó không rỗi tay mưu đánh Giao-chỉ. Thế thì mới lợi cho ta”(TB 263/7b).
Theo ý Vương An-Thạch, cũng như ý của người Tống đương thời, Lưu Kỷ là một tướng độc lập ở Quảng-nguyên, thanh thế không kém gì vua Lý. Cho nên mới có lý luận trên. Nhưng dựa vào lý luận của An-Thạch, thì tại sao Tống không dùng Kỷ đánh Lý Nhân-tông ? Ấy vì An-Thạch sợ Kỷ lấy được nước ta, rồi sẽ trở nên rất mạnh. Vua Tống cho lời An-Thạch là phải; hạ chiếu cấp bổng tiền cho Trí-Hội và ban cho con là Tiến-An chức tây-đầu cung-phụng (chiếu ngày A.Vi, 4-4n-AMa. DL 21-5-1075; TB 263/7a).
Vua Tống lại chiếu cho ti kinh lược Quảng-tây sai sứ thần vào các khê động mộ đinh tráng để làm thanh viện cho Trí Hội. Vua hẹn rằng hễ ai bắt hay giết được giặc, thì theo lệ thường thưởng cho mười tấm vải (TB 265/7b).
Lưu Di càng được nhịp sửa soạn chiến tranh. Chẳng bao lâu nữa, bức thế, Lý Thường-Kiệt phải tấn công trước.
CHƯƠNG VII : LÝ THƯỜNG-KIỆT TẤN-CÔNG TỐNG
1. Dự-bị tấn-công
Những việc xẩy ra đầu năm Ất-mão (1075) làm cho Lý Thường-Kiệt không còn nghi ngờ ý định của Vương An Thạch đối với ta.
Vả hai năm trước, có người Tống tên Từ Bá-Tường, quê châu Bạch thuộc Quảng-tây, đã cho người thầm thông với vua Lý. Bá-Tường nguyên đậu tiến sĩ, nhưng không được bổ làm quan. Y viết thư cho vua Lý (1073) nói rằng : ” Tiên-thế Đại-vương vốn người đất Mân50. Tôi nghe nói công khanh ở Giao-chỉ cũng nhiều người đất Mân. Bá-Tường này, tài lược không kém người, nhưng không được trọng dụng ở Trung quốc. Vậy xin giúp Đại-vương. Bá-Tường nghe rằng hiện nay Trung-quốc muốn cử binh đi diệt Giao-chỉ. Theo binh pháp dạy : Trước khi người có bụng cướp mình, thì chi bằng mình đánh trước. Lúc nào quân Đại-vương vào đánh, Bá Tường này xin làm nội ứng “.51 (TB 273/17a và TTh 13).
Sách VĐUL cũng chép rằng Lý Thường-Kiệt nghe tin người Tống muốn đem quân xuống rình nước ta, để gây việc binh. Ông lập tức tâu vua : ” Ngồi im đợi giặc, không bằng đem quân ra trước để chặn thế mạnh của giặc “.
Vì lẽ ấy, Lý Thường-Kiệt lại quyết tâm tấn công trước để phá tan mưu mô của Tống. Quân Tống vào đánh nước ta có thể đi theo hai đường chính : đường bộ lấy Ung-châu làm cứ điểm và đường thủy lấy các cửa bể Khâm và Liêm làm cứ điểm (V/1). Vậy nên Thường-Kiệt nhằm mục đích phá các thành ấy.
Khâm-châu chỉ cách châu Vĩnh-an ta chừng nửa ngày đến một hai ngày (LNĐĐ 1 và 2). Thủy quân ta tập trung rất dễ dàng ở cửa Đồn-sơn tại vịnh Hạ-long ngày nay, rồi len lỏi theo bờ biển sau núi đá, mà thình lình vào vịnh Khâm-châu.
Ung-châu, nay là Nam-ninh, ở trên sông Uất-giang, sau chỗ hai dòng Tả-giang và Hữu-giang họp lại. Những đường từ đất ta tới đó có nhiều : từ châu Quảng-nguyên vào, thì theo bờ sông Tả mà qua trại Thái-bình ; từ châu Tô-mậu vào, thì phải vượt núi, qua các đất Lộc-châu, Cổ-vạn, Tư-lăng và Thượng-tư ; đường chính từ châu Quang-lang vào, thì qua
các đất Tây-bình, Bằng-tường, Tư-minh và trại Vĩnh-bình. Các đường này đều khá gồ ghề và phải qua những đồn trại Tống. Nếu quân ta lấy được Khâm-châu, thì theo đường Khâm-châu thẳng lên Ung-châu là gần hơn cả (V/1).
Lý Thường-Kiệt tập trung quân hạ du ở Vĩnh-an và quân thượng du ở dọc biên thùy tại các châu Quảng-nguyên, Môn, Quang-lang và Tô-mậu.
2. Binh tướng
Như trên đã nói, đời Lý dùng dân quân ; khi hữu sự mới gọi dân ra lính (II/2). Trong trận đánh Tống, chắc rằng cấm binh phần lớn ở nhà, vì vua còn nhỏ tuổi, không xuất chinh. Quân tinh nhuệ là quân hạ du, tập trung ở miền đông, do Thường-Kiệt điều khiển. Còn miền bắc thì đã có thổ quân, do thủ lĩnh các châu đốc suất. Các thổ dân đi đường bộ, đưa cả vợ con đi theo. Sau trận, Vương An-Thạch có gọi kẻ lái buôn từ nước ta về, để dò hỏi ; người ấy trả lời rằng : ” Khi Giao-chỉ vào cướp, quân có sáu vạn, trong đó nhiều đàn bà, trẻ con. Man-dân kéo hết cả nhà theo, chỉ để một vài người ốm yếu ở nhà ”52 (TB 275/13b). Lời ấy chắc là nói các dân man động mà thôi. Còn quan quân, đã có qui củ.Vả đi đường thủy, chắc không thể đem người nhà đi theo nhiều được.
Hai đạo quân ấy có từ sáu vạn đến mười vạn53.
Lý Thường-Kiệt lĩnh thủy quân, từ Vĩnh-an đánh vào ven bể Quảng-đông (VSL). Đó là đại quân.
Còn các quân từ biên giới miền tây Quảng-tây kéo vào, có Tông Đản quản lĩnh (TT). Tông Đản là ai ? Sử ta không hề nói đến, ngoài việc cầm quân đánh thành Ung lần này. Tống-sử và Tống-thư cũng không đâu nói đến. Nhưng sách TB và các sách Tống, như TS 488 TS 495, có chép tên Nùng Tông-Đán, người châu Quảng-nguyên. Ta đã thấy Nùng
Tông-Đán đã theo Tống rồi bỏ Tống nhiều lần (xem V/8).Tháng 6 năm Bính-thìn (1076), ti An-nam tuyên-phủ tâu rằng : ” Đã sai đô-giám Quế-châu là Nùng Tông-Đán kiểm điểm đinh tráng Hữu-giang, để đánh Lưu Kỷ “. Vua bảo : ” Tuy Tông-Đán đã hiệu-thuận và là kẻ dũng mạnh, nhưng các con còn theo Lưu Kỷ. Ta sợ Tông-Đán cũng theo nốt. Vậy nên chọn các viên có mưu lược đi theo Tông-Đán “. (TB 276/1b).
Có lẽ Tông Đản ở sử ta là Nùng Tông-Đán ấy, hoặc là một con y. Chữ Nùng dùng đầu tiên có thể chỉ giống người Nùng mà thôi, chứ không phải hẳn là chỉ họ. Vì sự hai âm Đán và Đản rất gần, hai tên có thể là một chăng ?54
Các quân man động ấy đóng từ Quảng-nguyên đến châu Tô-mậu, trước các trại Hoành-sơn, Thái-bình, Vĩnh-bình, Cổ vạn, Thiên-long. Lưu Kỷ cầm quân vùng Quảng-nguyên. Có lẽ Tông Đản chỉ là một bộ tướng. Vùng Môn-châu có Hoàng Kim-Mãn, vùng Lạng-châu có phò mã Thân Cảnh-Phúc (IV/4) và vùng Tô-Mậu có Vi Thủ-An cầm quân.
Khí giới thì ngoài cung nỏ, trường thương mà hai bên đều dùng, ta có tên tẩm thuốc độc, và máy bắn đá.
Ta lại dùng nhiều voi để xung phong. Voi có thể do cả đường thủy và đường bộ tiến vào.
3. Khởi-công. Trận Khâm Liêm
Phần Lý Kỷ còn lại chép rất sơ sài về việc hành binh này. Ta không thể biết chi tiết cuộc tấn công của Lý Thường-Kiệt. Tống-sử và các Tống-thư chỉ chép rõ việc người Tống làm. Còn việc người ta, họa hoằn có một vài chi tiết. Sách TB cho ta biết thêm một vài việc. Nhờ những lời tâu của biên lại Tống, có ghi ngày tháng, nên ta có thể căn cứ vào đó mà đoán một cách khá tường tận những hồi biến chuyển của cuộc tấn công do Lý Thường-Kiệt chỉ huy.
Như đã nói trên, biên thùy ta giáp địa hạt Ung-châu có hình một góc tư vòng tròn, đường bán kính trung bình dài 150 cây số, mà trung tâm là thành Ung (IV/1). Ba đường chính đi tới Ung, đường Quảng-nguyên, đường Quang-lang và đường Tô-mậu đều xấp xỉ như nhau. Về phía đông, góc tư đường vòng tròn kia tiếp với bờ bể châu Khâm và châu Liêm. Đường từ Khâm đến Ung lại ngắn hơn cả, dài chừng 120 cây số ; quân đi mất độ năm ngày đường.
Lý Thường-Kiệt đã mưu tính chiến lược rõ ràng. Thổ binh đóng ngoài vòng biên giới sẽ lần lượt kéo vào chiếm đất Tống và, trong lúc đầu, quấy rối gần biên thùy mà thôi. Chủ ý là làm cho Tống lầm tưởng rằng quân ta sẽ do các đường bộ kéo vào đánh Ung. Thổ-binh ta sẽ phá những trại Hoành sơn, Thái-bình, Vĩnh-bình, Cổ-vạn, là những đồn che đỡ cho Ung. Trong lúc ấy, quân Tống ắt sẽ kéo xuống miền tây và tây-nam để cứu các trại ấy. Mặt đông nam châu Ung sẽ bỏ ngỏ, vì từ Ung đến Khâm là hoàn toàn đất Tống.
Lúc quân Tống trong hạt Ung-châu đã đổ xô vào phía tây và tây nam, Lý Thường-Kiệt liền đưa đại quân đi đường thủy, từ ch âu Vĩnh-an tới Khâm-châu và Liêm-châu. Đường đi đến Khâm chỉ mất chừng vài ngày. Đại quân đổ bộ ở Khâm, rồi tiến thẳng tới Ung. Như vậy, đại quân ta chỉ chừng bảy ngày đã từ đất nhà đến thẳng căn-cứ-địa Ung-châu.
Nếu quân Tống bỏ thành Ung để dời xuống cứu các trại biên thùy, thì thành Ung có thể mất liền. Nếu Tống để nhiều quân giữ thành Ung, thì các thổ binh ta sẽ tiến dễ dàng. Từ mọi bề, quân ta cùng kéo tới thành Ung, và thành này sẽ bị vây mấy mặt.
Chiến sách ấy đã thấy rõ ràng trong cuộc chuyển binh của ta vào cuối năm Ất-mão (1075).
Ta đã thấy rằng vào tháng tư nhuận, Lưu Kỷ ở Quảng nguyên dã đem 3.000 quân đánh nhau châu Qui-hóa làm
Tống phải động tâm và phải phái quân giúp viên coi châu ấy là Nùng Trí-Hội (VI/7)
Nhưng cuộc tấn công thật bắt đầu vào tháng chín. Ngày G.Tu, 15 tháng 9, 700 quân tới đánh trại Cổ-vạn (DL 27-10- 1075, TB 268/10b). Chắc là quân ấy từ châu Tô-mậu kéo vào. Tin này đến ngày 28 tháng 10 mới về đến kinh (B.Th, DL 8-12-1075 ; TB 269/23b), và đến ngày 11 tháng 11, triều đình Tống mới hay rằng Cổ-vạn đã mất, và ” Quảng nguyên có nhiều hương binh họp và soạn sửa vào cướp “. (K.Ti, DL 21-12-1075 ; TB 270/2b).
Tin từ biên giới về đến Biện-kinh mất một tháng rưỡi, cho nên các biến cố ở biên đang dồn dập, mà triều đình Tống vẫn tưởng rằng chỉ có những việc cướp nhỏ mà thôi. Vua
Tống dặn Lưu Di phải sai các tuần kiểm đề phòng cho nghiêm, không được khinh chiến (TB 269/23b). Khi nghe tin trại Cổ-vạn mất, vua lại bảo Lưu Di kê tên những người có chiến công và giúp đỡ những người có nhà bị cướp và bị đốt. (TB 270/2b)
Trong lúcấy thì có sao chổi hiện ; làm cho vua Tống càng lo. Ngàymồng 7 tháng 10 năm Ất-mão (DL 17-11-1075 ; TB 269/13a), sao chổi hiện ở chòm sao Chẩn. Ngày 8, đuôi dài ba thước (có lẽ cầm thước dơ thẳng tay, nhắm mà đo). Ngày 9, dài 5 thước. Ngày 10, dài 7 thước, trỏ xiên về sao Thái-hạt. Đêm 19 mới tắt (TB 269/18). Theo phép đối chiếu trên trời dưới đất, sao Chẩn là tinh phận phương nam. Theo sự tin của Á-đông, sao chổi là điềm sắp có binh đao, tật dịch. Theo các nhà chiêm tinh bấy giờ đoán, thì sắp có binh đao trên đất Giao-chỉ.
Riêng Vương An-Thạch là một nhà học giả rất có óc thực tế và không tin dị đoan (T Th13). Sử Tống còn trách An-Thạch để việc sao chổi hiện ba ngày không tâu vua (TB 271/15b). Ở nước ta, Thường-Kiệt có tin điềm lành dữ hay không ? Ta
không biết. Nhưng theo óc dị đoan đương thời, thì sao chổi hiện lần này55, chắc làm cho người nước ta càng tin rằng quân Tống sắp kéo vào đánh nước ta.
Trong khi bang giao Tống Lý đang gay go, sự sao chổi hiện, làm tăng lòng lo âu và nghi kị. Có lẽ vì đó, Lý Thường-Kiệt càng quyết tâm phát quân tấn công vào đất Tống.
Bộ binh ở tả-dực được lịnh xuất quân trước, tràn qua Vĩnh bình để đến Ung-châu (VSL). Quân các châu dọc biên giới kéo vào chiếm các trại Vĩnh-bình ; quân từ Lạng-châu vào
lấy những châu Tây-bình, châu Lộc. Quân Quảng-nguyên và châu Môn chiếm trại Hoành-sơn. Các tướng Tống chống cự rất hăng hái, nhưng đều bị bại. Chúa trại Hoành-sơn là Lâm Mậu-Thăng, viên quản-hạt Vĩnh-bình là Tô Tá, viên quản hạt Thái-bình là Ngũ Cử, và viên giám-áp trại Thái-bình là Quách Vĩnh-Nguyên đều tử trận. (TB 273/4b)
Lưu Di chưa biết nguy cơ đã đến, còn xin bốn vạn quan tiền để mua lương trữ ở Ung-châu. (23-10, T.Ho ; DL 3-12-1075, TB 269/21b)
Bấy giờ, biên giới Ung-châu rất bỏ ngỏ. Man dân sẵn oán quân Tống, quân lính ít được tập tành. Lưu Di đương thay lính, bỏ trát binh mà dùng quân thương trượng. Các tướng trễ nải. Quân ta tới đâu như là vào chỗ không người (VSL).
Trong khi ấy, đại quân Lý Thường-Kiệt đã cưỡi thuyền theo bờ bể, từ châu Vĩnh-an vào cửa bể Khâm-châu và Liêm châu (TB 271/1b). Bộ binh đóng gần biên giới Khâm-châu cũng kéo vào các trại Như-hồng, Như-tích và Để-trạo.
Quân Tống bị đánh bất ngờ, không chống cự. Ngày M.Dn, 20 tháng 11, Khâm-châu bị chiếm (DL 30-12-1075 ; TB 270/5a). Ba ngày sau, Liêm-châu cũng bị mất luôn (2-1- 1076 ; TB 270/8a)56
Những chúa trại chung quanh Khâm-châu đều bị giết : Ngũ Hoàn chúa trại Như-tích và Trương Thủ chúa trại Để-trạo đều chết. (TB 273/4b)
Viên coi Khâm-châu là Trần Vĩnh-Thái (theo LNĐĐ 10, còn TB 273/4b chép Trần Vĩnh-Linh). Truớc lúc quân ta tới, đã có kẻ nói hở chuyện cho người Tống biết rằng : Giao-chỉ sắp vào đánh úp Khâm-châu. Người Khâm mách với Vĩnh-Thái, nhưng y không tin. Chiến thuyền Lý thình lình vào bến rất gấp. Vĩnh-Thái vừa bày rượu uống. Có người báo tin quân Lý đã tới, nhưng Vĩnh-Thái vẫn không để ý đến.
Quân Lý đột nhập vào thành, bắt được Vĩnh-Thái và tất cả bộ hạ, không phải giao phong một hợp nào. Sách LNĐĐ chép chuyện trên, kể nối rằng : “Quân Giao-chỉ nói với Vĩnh-Thái : ” Chúng ta chỉ lấy của cải mà thôi, chứ không giết chúng mày đâu !”. Song khi lấy sạch của, lại đem giết hết. Sau đó, người Khâm-châu tô tượng thờ Vĩnh-Thái ở miếu Thành-hoàng, và tôn làm thần Chuyển-trí đại vương. Nhưng người đời sau vẫn cuời chê Vĩnh-Thái là ngu muội. Khi muốn chế nhạo ai là không thông tuệ, thì gọi nguời ấy là Trần Thừa-Chỉ ! ” Thừa Chỉ là hàm của Vĩnh-Thái, theo LNĐĐ 10 ; còn TB chép thừa chế.
Cùng với Vĩnh-Thái, còn có các viên giám-áp Văn Luơng, Ngô Phúc, viên tuần-kiểm Tưởng Cẩn, các viên chỉ-sứ Tống Đạo, Đinh Toại, viên giám-thuế Âu Duơng-Dẫn đều bị hại. (TB 273/4b)
Ở Liêm-châu quân Tống cũng thua rất nặng. Hình như ở đây, các quan Tống đuợc tin Khâm-châu mất, có phòng bị và chống cự ít nhiều. Tám nghìn thổ đinh bị ta bắt làm phu khiêng xuống thuyền đồ vật cướp đuợc, xong rồi đều bị giết (Thần-tông TL và VKT). Lỗ Khánh-Tôn coi Liêm-châu bị chết cùng nhiều bộ hạ : tri huyện Hợp-phố Lương Sở, giám-áp Chu Tông-Thích, chỉ-sứ Ngô Tông-Lập. (TB 273/4b)
Nói tóm lại, trong các trận mở đầu, Lý Thường-Kiệt đã lợi dụng được hai điều cốt yếu trong chiến lược xưa nay : triệt để dùng sở trường của mình là thủy quân, và rình chỗ bất ngờ mà đánh úp. Thắng lợi hoàn toàn đã về quân Lý, cũng là phải lẽ.
4. Tiến vào nội-địa
Chiếm xong hai hải cảng Khâm, Liêm, Thường-Kiệt liền đưa quân tiến vào nội địa.
Bấy giờ, Tống không còn quân để cản quân ta. Nhưng Thường-Kiệt sợ dân Tống oán thù và quấy đường tiếp tế ở hậu phương, cho nên ông phải tìm danh nghĩa cho cuộc hành quân.
Muốn phô trương danh nghĩa, Thường-Kiệt sai yết bảng dọc đường kể tội quan Tống. Lời lộ-bố nói rằng : ” Có những dân Giao-chỉ làm phản rồi trốn sang Trung-quốc. Các quan lại dung nạp và dấu đi. Ta đã khiến sứ sang tố giác các việc ấy, quan coi Quế-châu (Lưu Di) không chịu trả lời. Ta lại sai sứ vượt bể sang tố cáo với Quảng-châu, quan coi Quảng châu cũng không chịu báo. Vì vậy, quân ta tới đuổi bắt dân trốn ấy… “. Ông lại biện luận rằng mình chỉ tự thủ. Ông tuyên bố : ” Quan coi Quế-châu đã kiểm điểm dân các động và đã tuyên bố rõ rằng muốn sang đánh Giao-chỉ “.
Thường-Kiệt lại lợi dụng sự phân tranh trong triều đình Tống giữa hai phe tân và cựu, để chia rẽ quân dân địch. Trong các lộ-bố, có nói : ” Trung-quốc dùng các phép thanh-miêu, trợ-dịch, làm dân khốn khổ. Nay ta đây đem quân tới cứu “. (TTh 13 và TB 271/15b).
Người đời sau kể lại rằng ” dân Tống thấy lời tuyên cáo, đều vui mừng, đem trâu rượu khao quân ta. Từ đó, mỗi lúc dân Tống thấy hiệu cờ Thường-Kiệt đàng xa, thì nói đó là quân của cha họ Lý người nước Nam ; rồi cùng nhau bày hương
án bái phục bên đường. Nhờ đó mà uy thanh quân ta lan khắp ” (NBS). Bởi vậy, tiến quân vào nội địa càng thêm dễ dàng.
Trong lúc ấy, đạo quân Tông-Đản kéo tràn qua các trại ở phía tây. Trong tháng 11, Vĩnh-bình, Thái-bình, Thiên-long, Cổ-vạn đều mất (TB 271/7a). Ngày 10 tháng chạp, quân Tông-Đản kéo thẳng đến Ung-châu. Thành Ung bắt đầu bị vây. (Đ.Zu, DL 18-1-1076 ; TB 271/6b).
Đại quân ở Khâm và Liêm cũng tiến lên phía bắc. Đạo đổ bộ ở Khâm-châu kéo thẳng lên Ung-châu, như ta sẽ thấy sau. Còn đạo đổ bộ ở Liêm-châu tiến sang phía đông bắc, chiếm châu Bạch (ĐSL 8). Viên tuần-kiểm Thẩm Tông-Cổ bị chết (TB273/5a). Đạo quân ấy lại tiến lên Dung-châu.Viên đô tuần-kiểm các châu Bạch, Dung là Phan Nhược-Cóc và chỉ sứ châu Dung là Vương Đạt và Tào Quăng cũng đều tử trận (TB 274/3b). Hình như đạo quân ấy dừng ở khoảng này, để chặn quân từ phương đông tới cứu Ung-châu.
5. Phản-động của Vuơng An-Thạch
Tin tức bấy giờ chuyển chậm, vì dịch-trạm ở miền nam chưa tổ chức. Tuy Khâm-châu bị chiếm ngày 20 tháng 11, mà đến mồng 6 tháng sau, ti kinh-lược Quảng-tây đóng ở Quế châu mới được tin và tâu : ” Người Giao-chỉ họp quân thủy ở Triều-dương (tức là Vĩnh-an châu, hay làHải-ninh bây giờ. Sách TB 271/5b chép Hồ-dương, sai vì tự-dạng), sắp sửa đi hai đường vào cướp “. Đúng một tháng sau khi Khâm-châu bị mất, tin mới tới triều đình Tống (20 tháng chạp, Đ.Vi, DL 28-1-1076 ; TB 270/5a).
Ba ngày sau lại tiếp tin Liêm-châu cũng mất luôn.
Các tướng ở địa phương bối rối đã đành ; mà vua tôi Tống cũng rất đỗi hoang mang. Triều đình náo động.
Báo tin mất Khâm-châu, ti kinh-lược Quảng-nam tây-lộ xin viện binh : 20.000 quân, 3.000 ngựa và một tháng lương, tất cả lấy dọc đường từ kinh đến Quảng-tây. Lại xin chừng mười sứ thần theo quân, xin thêm khí giới, đồ dùng, và xin điều động các dân khê-động. Muốn điều khiển quân mau chóng, ti ấy cũng xin dời đến thành Tượng, gần phía bắc Ung-châu (TB 271/12a).
Ngày 20 tháng 12, được tin báo Khâm-châu mất, vua Tống Thần-tông liền hạ lệnh chuẩn bị các trạm, cấp đủ người và ngựa, để đem tin cho chóng. Lại sai Trương Thuật, Tạ Quí Thành tới ti kinh-lược Quảng-tây để chuẩn bị tướng-lệnh (TB 271/12a). Sợ quân ta thừa thế đi thuyền đến Quảng châu, vua Tống ra lệnh cho quan coi Quảng-châu phòng bị cẩn mật. Về mặt trận Quảng-tây, dặn các tướng phải cố thủ ở các thành và nơi hiểm yếu và chớ khinh địch. Lời chiếu nói rằng : ” Giao-chỉ chiếm Khâm-châu chưa lui. Sợ nó theo bờ bể dòm ngó Quảng-châu, nên phải lo giữ. Nay xét thấy quân các đồn ở Quảng-tây yếu và ít, mà lại phân tán ra. Nếu không cố thủ các thành, thì quân ta sẽ tan rã, và tiếng tăm giặc sẽ lan ra, làm tăng thế nó. Vậy chiếu cho Quảng tây, hãy bảo các tướng phải giữ thành, chớ có khinh-địch ” (TB 271/12a).
Hai ngày sau, lại có tin báo Liêm-châu cũng mất. Triều đình Tống càng thêm lo, hoang mang rất mực. Vua Tống liền hạ chiếu cho ti kinh-lược Quảng-tây, dặn rằng : ” Nếu xem chừng quân Giao-chỉ tới đâu mà không đủ quân giữ, thì chỉ giữ mấy chỗ hiểm mà thôi. Chỗ nào có tiền, vải, luơng thực, thì phải chở tháo đi, đừng để lọt vào tay giặc ” (TB 271/12b). Sau đó lại ra một lệnh trái ngược, nói rằng : ” Nếu quân bỏ thành đi chỗ khác, thì lo rằng dân rối sợ. Hãy bảo các quan ti đều phải trở lại thành mình ” (TB 271/13a).
Cũng ngày ấy (22 thánh chạp), vua Tống cách chức Lưu Di và sai Thạch Giám thay coi Quế-châu và làm kinh-lược-sứ
Quảng-tây. Cấp cho Quảng-tây 50.000 quan tiền và sai cáclộ chung quanh trữ lương thực để mộ quân57. Sai mộ 3.200 đinh tráng ở các châu Thú, Ung, Tân, và dặn nếu không đủ thì mộ thêm thổ dân để dùng. Vua Tống lại sai chọn trong các châu quận những người dân trai trẻ, khỏe mạnh, đảm dũng, đem tới Quế-châu ; cứ 500 người lập một chỉ huy, rồi dạy vũ nghệ, và đặt tên là quân Tân-đằng-hải (TB 271/13b). Vua Tống lại định đem quân Hà-bắc xuống miền nam để ti kinh-lược Quảng-tây dùng : đạo quân thứ 35 xuống Quế-châu, đạo quân thứ 19 xuống Đàm-châu (Tràng-sa bây giờ). Sai hai lộ Kinh, Hồ sắm 7.000 cung nỏ bằng gỗ để cấp cho Quảng-tây (TB 271/14a).
Ý vua Tống là vận động cấp tốc binh sĩ để ngăn quân ta tiến lên phía bắc. Đối với dân gian, vua Tống sai tồn-tuất cho nhà có người chết trận. Nếu có ai muốn chạy lánh nạn lên Lĩnh-bắc (vùng Hồ-nam), thì cũng dưa lên. (TB 271/13b).
Vương An-Thạch rất tức giận, khi được tin Lý Thường-Kiệt chỉ trích chính sách tân-pháp trong lời lộ-bố yết dọc đường. Bèn định sai tướng dem đại quân đi đánh đất ta. Ngày 25 tháng chạp (T. Ho, DL 2-2-1076 ; TB 271/15a), vua Tống Thần-tông chọn viên-ngoại-lang lại-bộ, hiện coi Diên-châu (Thiểm-tây), là Triệu Tiết, làm An-nam-đạo-hành-doanh mã-bộ-quân đô-tổng-quản, kinh-lược chiêu-thảo-sứvà kiêm chức Quảng-nam-tây-lộan-phủ-sứ. Vua lại sai hoạn quan Lý Hiến làm phó-an-phủ-sứ, và Yên Đạt (TS chép lầm ra Yên Quì vì tự dạng) làm phó-đô-tổng-quản, Ôn Cảo làm quản câu, coi việc kê-cứu thư từ. Rồi sai thảo một tờ chiếu đặc biệt, gọi là Thảo Giao-chỉ chiếu để ban ra một cách long trọng. Theo lời Tư-mã Quang, thì chính tay Vương An-Thạch thảo lời chiếu ấy, để trả thù lời lộ-bố của Lý Thường-Kiệt chỉ trích các tân pháp của y. Lời chiếu rằng :
” Chúa nước An-nam đời đời được phong tước vương, cho nên con cháu được ta thừa nhận và vỗ về. Tiên triều đã
"""