" Lúc Biết Xuyên Không Thì Đã Muộn PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lúc Biết Xuyên Không Thì Đã Muộn PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo [Cảm hứng lịch sử] LÚC BIẾT XUYÊN KHÔNG THÌ Đà MUỘN! by mattienratngon Category: Historical Fiction Genre: camhunglichsu Language: Tiếng Việt Status: In-Progress Published: 2021-06-16 Updated: 2024-07-06 Packaged: 2024-09-05 14:59:32 Chapters: 157 Words: 219,688 Publisher: www.wattpad.com Summary: [Đà XUẤT BẢN] �� Thể loại: Cảm hứng lịch sử Việt Nam, Hài hước, Yếu tố Y học… �� Giới thiệu truyện: Trăm tính vạn tính nàng cũng không tính được vì say rượu mà xuyên không, rơi vào Đại Cồ Việt 1000 năm về trước. Trong cái rủi có cái xui, giữa thời kỳ loạn lạc binh biến, nơi nàng mở mắt tỉnh dậy lại chính là doanh trại quân đội. Con đường sống duy nhất là phải giả trai chịu kiếp nô bộc, làm đủ mọi việc chỉ mong yên thân. Một lần uống say, cả đời lầm lỡ, đã xuyên không thì chớ còn đắc tội với hôn quân tàn bạo nhất lịch sử. Oan gia ngõ hẹp, có duyên ắt phải trùng phùng. (Truyện đăng tải online là bản thô, chưa qua chỉnh sửa) �� Lưu ý: 1. Truyện lấy cảm hứng từ lịch sử và các nhân vật, sự kiện có thật tuy nhiên các tình tiết trong truyện đều là hư cấu, vui lòng không đánh đồng với chính sử, truyện không có giá trị tham khảo về mặt lịch sử. 2. Truyện có các yếu tố về Y học cổ truyền đã được tham vấn bởi bác sĩ và tài liệu có liên quan song KHÔNG tự áp dụng khi chưa có chỉ dẫn chuyên môn, truyện KHÔNG có giá trị tham khảo về mặt y học. ▪️ Trong quá trình viết dù đã cố gắng tìm hiểu và tham khảo tài liệu nhưng thu thập tài liệu chưa đủ, đối chiếu chưa rành, khó tránh sai sót. Nếu có bất kỳ chi tiết nào khiến bạn cảm thấy chưa hài lòng, hãy liên hệ trực tiếp với tác giả để thảo luận nhé. Trân trọng! �� Đặc biệt cảm ơn: - Bác sĩ Phạm Nhật Cường, Bác sĩ Hoàn Lê, Bác sĩ Doãn Trung Kiên cố vấn y học. - Bạn Lê Quý Hiển tư vấn các chi tiết chính trị, lịch sử. - Em Lê Thành Chung hỗ tr Language: Tiếng Việt Read Count: 352,371 Chương 1: Lần sau đừng say rượu! Mẹ tôi dạy rằng: “Con gái không nên rượu chè, không nên lên bar pub(1)”. Mẹ tôi cũng dạy rằng: “Con gái chớ nên về khuya, chớ nên đi một mình”. Vậy mà trong một đêm tôi phạm tất cả các điều mẹ dạy. Cá không ăn muối cá ươn, con mà cãi mẹ trăm đường có điều bất thường xảy ra không lường được! Gần nửa đêm, tôi lảo đảo bước ra khỏi một quán quen sau khi không còn phân biệt nổi đâu là đường đâu là giường. Những kẻ không còn đủ tỉnh táo thường thì hiếm khi biết được mình về nhà bằng cách nào nhưng lần này tôi biết! Ban nãy cậu em bartender(2) khả ái đã giúp tôi gọi Grab và hộ tống đến tận cửa nhưng đương nhiên, cuộc đời nào có dễ dàng đến vậy. Tôi thích thử thách: thử thách bartender bằng việc trốn đi ngay khi cậu ta nhặt giùm túi xách còn thử thách chính bản thân mình bằng việc lạc trong lối ra rối như mớ bòng bong này. Dường như sợ hidden bar(3) chưa đủ “hidden”(4), ông chủ quán khéo chọn một con ngõ bé tẻo teo, tối om đã thế đèn đường khi còn lúc tắt. Tôi ngẩng đầu lên nhìn ánh sáng leo lét chớp nháy liên tục, miệng lẩm nhẩm ông chủ keo kiệt không chịu thay đi. Làm dịch vụ như vậy là kém, như vậy là thất bại. Khách từ quán rượu ra mấy ai còn nhìn rõ đường đâu mà chơi khó nhau thế này? Đến đây điện tắt hẳn, tôi hít vào một hơi, dằn xuống cảm giác buồn nôn như sóng chiều đang dâng lên đến tận họng, tiếp tục dò dẫm trong bóng tối. Mình không say! Say chỉ là thứ cảm giác đánh lừa não bộ! Vừa xong thì bao nhiêu cocktail cuộn từ dạ dày rồi quay ngược trở ra đằng miệng, phun xuống đất như vòi rồng. Tửu lượng của tôi là sáu ly cocktail, không hơn. Vậy mà hôm nay tôi chỉ uống vừa vặn số đó và thêm… xem nào, tôi xoè tay ra đếm. Kỳ lạ, chỉ thêm có năm shot nữa mà sao bàn tay mình lại có mọc ra tận hai ngón cái? Tôi quệt ngang miệng, đứng dậy ngật ngưỡng lần mò ra đường lớn đợi xe. Hay là kệ mình cứ nằm đây ăn vạ, biết đâu chỉ một lúc nữa cậu bé bartender kia sẽ tìm thấy tôi nhỉ? Nghĩ là làm, tôi đi đại tới một tảng đá lớn ven đường, thẳng cẳng ngả lưng, ngửa mặt lên trời, hai mắt nhắm nghiền. Trong khoảng không gian tối mịt lặng như tờ, tôi nghe rõ những tiếng còi xe vọng lại từ phía xa, tản dần rồi ngưng hẳn. Trời về thu, càng về khuya đêm càng lạnh, sương càng dày. Màn đêm đen đặc bao trùm lấy cả Hà Nội, hoạ hoằn lắm mới có ánh sáng từ cửa sổ nhà ai chiếu lại, rực lên rồi chớp tắt. Bên ngoài vẫn tiếng còi xe ồn ã, bên trong tôi chỉ thấy thinh lặng. Rượu dù đổ vào bao nhiêu cũng không khoả lấp được những trống rỗng trong lòng. Tôi xắn tay, lần mò vào bên trong mấy lớp áo tìm chiếc điện thoại. Ánh sáng mờ mờ hắt lại, pin báo đỏ rực, tôi chửi thề thành tiếng: “Mẹ nó, sắp hết pin.” Thường thì tôi sẽ cố gắng không uống say vì biết sẽ chẳng ai đón mình. Tôi cần đủ tỉnh táo để đứng dậy, gọi xe về nhà. Chỉ có điều là hôm nay khác, rất khác. Tôi nằm im bất động, hai mắt lim dim, dỏng tai lắng nghe cánh cửa sổ nhà ai chưa đóng phát ra tiếng cót két như rên rỉ, nghe âm thanh xào xạc của những chiếc lá thu khô cong, ồn ào rơi xuống mặt đường trơn nhẵn, và ở một ngóc ngách nào đó không rõ vọng lại tiếng rên rì rầm của gió lạnh đầu mùa. Tôi thở dài, đặt hai tay lên ngực, tất cả buồn bã tới mức cứ như thể thời gian trên khắp tinh cầu này đang chảy trôi chậm lại còn tôi là kẻ cô đơn cuối cùng lạc lối ở thế gian này. “Grab lâu thế?” - Tôi thều thào, rưng rức như sắp khóc. Nước mắt còn chưa kịp rơi xuống thì đã bị một tiếng động tựa như trời long đất lở làm cho sợ đến mức ngưng hẳn. “Ầm! Ầm! Ầm!” - Những tiếng động lớn cực đại liên tiếp dội xuống khiến ngay cả tảng đá tôi đang nằm cũng rung lắc dữ dội. Tay tôi bấu chặt, gắng để mình không bị hất tung xuống. Bầu trời như tách ra hai nửa, từ khoảng trống ấy một tia sáng trắng rạch trời giáng xuống, ban đầu chỉ lờ mờ như nắng mai nhưng dần giãn nở liên tục cho đến khi trở thành một luồng sáng khổng lồ nuốt chửng mọi thứ xung quanh. Ánh sáng trắng chói loà tựa như tất thảy đèn cao áp tựu chung về một điểm rồi nhằm thẳng đồng tử của tôi mà chiếu vào. Tôi dùng cả hai tay che mắt lại, đôi con ngươi nhưng nhức giần giật, nếu cứ tiếp tục thế này chỉ chẳng mấy chốc sẽ mù mất. Giữa lúc này xung quanh tôi vọng lại tiếng “vi vi” quỷ dị, tựa như đang đứng sát ngay gần những trụ điện cao thế. Chẳng rõ tiếng động đó bắt đầu từ đâu, tôi bỉ biết thêm chừng khoảng mười giây nữa thì tiếng “vi vi” đó tản dần, thay thế bằng tiếng “lộc cộc” nện trên nền đất rất rõ. Tiếng động này thì tôi biết, hẳn là động vật móng guốc. Là xe bò hay xe trâu gì đó ư? Ánh sáng kia nhạt dần rồi trở nên dễ chịu, tôi nheo mắt gắng gượng mở ra. Ban đầu còn gặp ảo ảnh, bóng người mờ nhoè tách làm đôi rồi dần dần, dần dần chập làm một. Trước mặt tôi là đàn ông tóc búi cao, cưỡi con ngựa lớn đen tuyền, tay cầm một cây thương dài lăm lăm tiến tới. Tôi khẽ rùng mình, sao lại có một kẻ cưỡi ngựa đi lại giữa thành phố thế này? Luật an toàn giao thông đã cấm từ đời nào. Tên này nửa đêm nửa hôm định dở trò gì không biết? Người kia gần như áp sát, tôi hơi chột dạ ngồi lùi về phía sau. Tôi lùi một phân người đàn ông lại tiến gần thêm dăm bảy bước. Càng kỳ lạ hơn người đó tới gần bao nhiêu thì những tiếng “vi vi” quỷ dị kia càng rõ. Khó để nhận biết được âm thanh đó là gì và từ đâu đến, chỉ biết rằng chúng như xuyên qua màng nhĩ, đi thẳng lên não khiến quang cảnh xung quanh trở nên hỗn loạn. Lẽ nào những thứ này đều là ảo ảnh do tôi tưởng tượng ra? Hoặc là thật sự có một kẻ điên khùng như thế này? Hắn ta định làm gì tôi? Hay tôi nên làm gì hắn ta trước? Nếu cứ chờ mãi thì không biết chừng có gì bất trắc xảy ra. Tôi mà phải sợ à? Nghĩ tới đây tôi đứng bật dậy, nhanh nhẹn cúi xuống nhặt chiếc giày cao gót của mình, lấy đà rồi lao đến với 99% hơi men là 1% sức lực, ném thẳng vào bóng người kia. Có thể trúng, có thể không nhưng tiếng “hự” của hắn tôi nghe thấy hẳn là thật. Trước cả khi tôi kịp bỏ chạy khỏi “hiện trường gây án” luồng sáng trắng lần nữa xuất hiện nhấn chìm tôi vào bên trong cùng những tiếng “vi vi”. Cơn buồn nôn cuồn cuộn lên như sóng triều, tôi lảo đảo, hai chân vô lực, cả người ngã sóng soài trên nền đất. Trước giây phút hoàn toàn mất ý thức, tôi nhìn thấy bóng người đen kia đã đứng trước mặt mình, ghì dây cương ngựa. Luồng sáng và âm thanh kỳ lạ biến mất, tôi nhắm mắt, tất cả chìm về với màn đêm cùng sự tĩnh lặng tuyệt đối. *** “Lạnh quá.” Tôi khẽ cựa người, chóp mũi lạnh đến mức tê dại mất cảm giác. Cố gắng nằm nép sâu vào lớp chăn lông dày nhưng chỉ cần tôi cựa quậy một chút thôi cũng khiến từng đường gân thớ thịt như bị đóng băng. Tôi thử thở nhẹ, nhân trung ngay lập tức cảm nhận hơi lạnh phà vào. Chà, điều hoà ở đây bật nhỏ nhỉ! Họ cất điều khiển ở đâu vậy nhỉ? Tôi quơ tay tìm nhưng rõ ràng là không thể tìm thấy thứ muốn tìm đâu, chỉ nắm vào một vật vô cùng chắc, lạnh như kim loại. Tôi buông ra, rùng mình một cái toan trở người. Kết quả của việc say rượu là dù nằm im mà tôi vẫn cảm giác mình như đang bị vắt ngang qua một vật gì đó, cao, ấm, lắc lư. Đầu óc ngày càng quay mòng mòng, bỗng chốc “chiếc giường” đó đột ngột khựng lại, tâm trí mơ hồ của tôi tạm thời được trả về chế độ bình thường. Tôi ngóc đầu dậy rồi dụi mắt mấy bận, nhìn về phía trước. Để xem nào, một đám lông đen bờm xờm, một cái đầu cao cao, hai cái tai hình tam giác đang dỏng lên nghe ngóng. Tôi ho khan, trong lòng rộn lên một cảm giác kinh hãi khó tả. Ngựa? Tôi đang nằm trên một con ngựa? Tệ hơn cả việc thức dậy trên lưng ngựa là gì? Là con ngựa đấy đang bị vây bởi một đàn sói hoang dễ đến mười mấy con. Con nào con nấy lông bờm xờm xám ngoét, răng nanh nhọn nhe ra đầy hung dữ. Chúng chắn ngang đường, gầm gừ thị uy, thủ thế sẵn sàng như chuẩn bị đồng loạt nhảy bổ vào xé tôi ra làm trăm mảnh. Tay nhanh hơn não, tôi nắm lấy cổ con ngựa mà rú lên một tiếng kinh hãi. Con ngựa giật mình liền ngay tức khắc lồng lên. Đầu óc tôi lần nữa đảo điên, chỉ nghe bên tai tiếng giày thúc vào hông ngựa. Con ngựa lấy đà, nhún một cái rồi phi thẳng về phía trước. Tôi thất kinh bấu chặt lấy chân ai. Người đó cầm một cây thương sáng quắc, chẳng nói chẳng rằng nhằm con sói to nhất đang lao đến cắt mà cổ. Đúng một giây im lặng, đàn sói dần giãn ra, gầm gừ. Bất chợt thêm một con nữa liều mình lao đến, chết trân chịu trận nhưng người đàn ông kia điềm nhiên vung tay, cây thương xiên thẳng vào họng nó. Máu phun ra thành dòng tưới ướt mặt đất, vấy cả một mảng lên mặt tôi. Thêm dăm bảy con nữa tiến lên, người đàn ông tuốt gươm rồi thúc ngựa xông vào giữa bầy sói. Chỉ trong chớp mắt cả mặt đất đã phủ kín những khối lông màu xám bất động, đẫm máu. Cuối cùng đàn sói tru lên thảm thiết rồi thi nhau chạy sâu vào rừng. Tôi đã nhận ra được điều bất ổn tiếp theo: Tại sao tôi ở trong rừng thế này? Khung cảnh chuyển liên tục tựa như trong một giấc mơ. Chỉ vừa mới đây tôi còn ở trong thành phố uống cocktail sao bây giờ lại thành ra ở giữa nơi rừng thiêng nước độc thế này? Đáng sợ hơn nữa là kẻ phía sau dường như chẳng xa lạ mấy với việc chém giết. Giữa nơi thanh vắng chỉ có mình tôi và hắn, có khi chết mất xác lúc nào không hay. Nhân lúc hắn ta lơ là tôi nhanh chóng tuột xuống khỏi lưng ngựa rồi chạy trối chết. Mà thực ra tôi có nên chạy không? Hắn ta đáng sợ hơn hay lũ sói trực chờ ăn thịt đáng sợ hơn? Như đoán được tôi sẽ trốn nên hắn ta chỉ thong dong cưỡi ngựa lại gần, tay cầm cây thương còn ướt đẫm máu tươi. Tôi giật lùi, giật lùi. Nắng mai khuất sau đôi vai rộng của hắn, không thấy mặt mũi chỉ thấy bóng người cao lớn đổ dài trên mặt đất, trùm lên thân hình bé nhỏ của tôi. Dù cố cách mấy tôi cũng chẳng thể nhìn rõ được khuôn mặt của hắn, chỉ cơ hồ đôi mắt vừa sắc lạnh vừa đen thẫm. Cả trảng rừng phút chốc rơi vào trong tịch mịch. Chim thôi hót và ong bướm thôi vo ve. Một lần nữa người đàn ông vung cây thương sáng loà, thẳng tay chém xuống. Lũ quạ đập cánh tán loạn, nối nhau bay vút lên trời cao. Trước giây phút định mệnh đó, dạ dày tôi co bóp liên tục khiến toàn thân đau tới không thể nào chịu đựng nổi. Tôi gục xuống đất, lần thứ hai liên tiếp ngất đi không hay biết gì nữa. *** “Giấc mơ sống động” có lẽ là một trong những trải nghiệm vừa khó khăn vừa thú vị. Chúng có khả năng biến những giấc mơ đẹp trở nên vừa chân thực vừa chi tiết nhưng cũng có khả năng biến những cơn ác mộng trở nên kinh khủng gấp nhiều lần. Đừng nói là mơ thấy bị chó sói tấn công, cho dù mơ thấy cá sấu hay rồng phun lửa tôi cũng đã từng gặp qua, mà còn chân thực đến độ có thể nhìn rõ cả từng cái vẩy, cái móng chân và cảm nhận được độ sợ hãi, mệt mỏi khi chạy trốn gấp cả ngàn lần thực tại. Chí ít thì lần này tôi cũng được người khác “cứu”, miễn cưỡng một chút có khi hắn ta cầm thương để đâm tôi không biết chừng. Tôi cựa người, yên tâm biết mấy vì lần này không còn vắt vẻo trên thân ngựa nữa. Giường của tôi lúc nào cũng êm ái với đệm dày và hoa thơm nức. Đệm dày và hoa thơm nức? Đến đây bỗng phát giác có điều lạ thường, tôi trở người thêm đôi ba bận nữa, giường này cực kỳ cứng, khẽ cử động cũng nghe tiếng nan giường cọt kẹt. Hơn nữa cũng thiếu đi mùi hoa thơm trưng phòng như thường lệ, chỉ ngửi ra mùi đất đặc quánh. Xác nhận không phải giường của mình tôi hoảng loạn mở choàng mắt, ngồi bật dậy. Khung cảnh hoàn toàn xa lạ: tôi nằm trong một túp lều vải, gió thổi phần phật làm bốn góc lều trực chờ hất tung bất cứ lúc nào. Tôi cúi xuống nhìn rồi trộm thở phào, quần áo trên người vẫn nguyên si chỉ có điều đôi dép cao gót đã biến mất. Tình hình không có tệ nhất mà chỉ có tệ hơn, đầu đau như búa bổ. Dù tôi tự hỏi bản thân trăm nghìn lần cũng đành chịu chết chẳng biết nơi này là nơi nào. Tôi thở dài, bước xuống nền đất vừa trơn vừa lạnh. Mười đầu ngón chân hồng hào bấu chặt vào đất vì sợ ngã. Thôi thì đâu còn có đó, còn an toàn xem như đã là may mắn. Muốn biết mình đang ở đâu chỉ cần ra ngoài là rõ ngay. Tôi uể oải đi về phía cửa, vén tấm rèm màu nâu bạc phếch lên. Một khung cảnh kỳ lạ nằm ngoài sức tưởng tượng sà vào tầm mắt. Tôi thất kinh buông rèm, quay lưng đi thẳng vào trong. “Điên rồi! Mình điên rồi” - Rõ ràng là tôi bị ảo giác, hoặc say quá vẫn chưa tỉnh nổi. “Này thì cocktail!” “Này thì shooter!” “Này thì chưa say!” Cứ mỗi cái “này thì” tôi lại véo thật đau vào đùi của mình. Hoặc biết đâu đây là “mơ trong mơ” - những cơn ác mộng nối tiếp nhau còn tôi thì vẫn chưa tỉnh? Mãi cho tới khi bị chính mình véo đau đến mức đứng không vững tôi mới hít sâu vào một hơi, mon men lại gần vén lều ra lần nữa. Khung cảnh hùng tráng làm tôi ngây ngốc: núi tiếp núi trải ra tận chân trời. Nổi bật lên trên đó là những hàng rào phân định ranh giới, những túp lều san sát tiếp giáp nhau cho đến khi chỉ còn là một chấm đen nhỏ mờ không rõ hình hài. Từng đàn từng đàn ngựa trắng đen đủ loại, bộ lông bóng mượt thảnh thơi đi lại. Ở giữa sân một nhóm đàn ông cả trăm người chỉ mặc một chiếc áo mỏng, đi chân đất múa may cất lên những tiếng “hây” “ha” kỳ quái. Tôi bước về phía trước hai bước để nhìn rõ hơn, vô tình va phải hơn chục người đang xếp hàng dọc, mặc giáp sáng choang, tay lăm lăm cây giáo. Người đứng đầu nhìn tôi một cái, tôi ngây ngô gật đầu ra chiều xin lỗi. Đám người kia không để ý nhiều liền khẩn trương bước đi. Họ đội những cái mũ kỳ lạ bằng da, đầu bằng. Nơi này giống như một nơi bị bỏ bùa, thuộc về một nền văn minh nào đó xa xôi hoặc một thế giới mà tôi chưa từng biết đến. Mùi hương của cỏ cây khắp nơi hòa trộn với mùi ngựa, mùi mồ hôi của đàn ông, mùi dầu cháy, mùi gỗ, mùi lành lạnh của những bông tuyết chưa tan… tất cả khiến tôi choáng váng. Tôi cứ đứng im như thế rất lâu, rất lâu cho đến khi tưởng như hai chân mình đã chôn chặt vào nền đất. Phải chăng đây là một trò đùa? Một đoàn phim cổ trang hay là tôi đã bị bắt cóc? Bị bán qua biên giới mổ nội tạng? Tôi thoáng rùng mình rồi vội vã đặt tay lên bụng. May quá chiếc bụng bé xinh của tôi vẫn nguyên vẹn, vậy là hai quả thận hẳn là vẫn ở trong. Không giấu nổi nụ cười mãn nguyện, tôi vuốt nhè nhẹ vào bụng mình. “Hắn đây rồi, giải hắn tới gặp Đô chỉ huy sứ!(6)” Thấy có người chủ động bắt chuyện tôi vui ra mặt. May quá vẫn là tiếng Việt thân thương, vậy ra tôi còn ở trong địa phận nước nhà, bớt phải lo đi một phần. Tôi nhìn hai người đàn ông một béo một gầy, ăn mặc có vẻ giống lính tráng trước mặt mình, tỏ ra vô cùng nhã nhặn: “Chào anh, cho tôi hỏi một chút đây đâu vậy? Hiện tại tôi đang vội quá phải đi ngay, hai anh có thể chỉ cho tôi lối ra không?” Dường như lời tôi nói có chỗ nào chưa ổn. Hai người kia nhìn nhau như thể tôi nói bằng thứ ngôn ngữ gì kỳ lạ lắm, cuối cùng một trong hai nhếch mép: “Ô hô, lại còn giả điên!” Tôi nghiêng đầu, dù rất cố gắng nhưng những chuyện đang xảy ra càng lúc càng kỳ lạ. Dù cho hai người họ tỏ rõ vẻ đối địch tôi vẫn kiên nhẫn: “Xin lỗi, cảm phiền hai anh nhưng…” Không để nói hết câu, tên béo dùng tay đập mạnh một cái vào vai tôi, kế đó chĩa mũi giáo vào mặt rồi quát lớn: “Lắm lời! Đi!” Cơn đau truyền từ lưng đến làm toàn thân tôi cứng đờ. Trong ánh nắng mũi giáo của chúng sáng quắc lên, vừa sắc vừa nhọn như thể chỉ cần tôi sơ sẩy chút thôi thì sẽ phải trả một cái giá rất đắt. Tôi giơ tay lên trời chứng minh mình vô hại. Có thể chúng đang đùa nhưng cũng có thể đây là sự thật song sinh mạng chỉ có một, tôi không muốn liều lĩnh đánh cược. Hai tên lính điệu tôi đi một quãng khá xa. Nơi này giống như doanh trại, dễ có tới mấy trăm lều to nhỏ san sát nối tiếp nhau. Binh lính nhiều vô kể, nhóm tập luyện binh đao, nhóm thi nhau vật lộn, lại có mấy người bắn cung day dùng gậy gộc. Đi thêm một quãng nữa tới một trong hai lều lớn thì chúng dừng lại, quỳ phục xuống nói lớn vào trong: “Bẩm Đô chỉ huy sứ, đã áp giải phạm nhân tới!” Phạm nhân? Tôi quay qua nhìn phía sau, chẳng có ai cả. Vậy ra rõ ràng chúng nói về mình. Bên trong lều có tiếng đàn ông rất trầm: “Cho vào.” Tôi ưỡn ngực thẳng lưng đi theo chúng vào trong lều. Bên trên có người đàn ông chừng hai lăm, ba mươi tuổi đang ngồi đọc sách. Tôi đi vào song y còn chẳng buồn ngẩng đầu lên, chỉ buông một câu lạnh lùng: “Ngươi từ đâu đến?” “Hà Nội.” - Tôi trả lời cụt lủn. Rất rõ ràng, nếu anh ta thiện chí và tôn trọng thì tôi cũng sẽ lễ độ mà trả lời, còn như bây giờ tại sao tôi cần phải dài dòng với kẻ bất lịch sự kia chứ? Câu nói của tôi còn chưa kiến tên Đô Đô gì kia bực mình nhưng đã thành công chọc giận tên lính béo múp. Hắn thét vào mặt tôi hai từ “Hỗn xược” rồi đạp tôi ngã dúi dụi trên nền đất. Người bên trên buông quyển sách ra, phẩy tay, ngay lập tức hai tên lính cúi chào, đi giật lùi rồi lỉnh ra bên ngoài. Lúc này trong lều chỉ còn lại tôi và hắn. Tôi đứng dậy, chỉnh trang lại quần áo rồi chắp tay sau lưng, nhìn quanh lều một lượt. Lều này khá rộng, khắp nơi được trưng bằng đồ đồng sáng rực. Ở góc phòng treo một bộ giáp tương đối đồ sộ, còn có cả kiếm và một tấm bản đồ trông như được thuộc bằng da. Tôi trỏ bộ giáp sắt, gật gù: “Các anh đầu tư thế? Chương trình này chiếu trên kênh nào vậy?” Người kia không trả lời tôi mà chỉ chăm chăm đọc sách. Tôi đi đến gần, tay gõ gõ lên mặt bàn của y: “Hình như các anh đùa hơi quá rồi, tôi rất bận và cũng không có nhu cầu quay phim gì cả. Bây giờ thì tôi phải về, không có thời gian đùa cợt nữa. Tất cả những đoạn phim đã quay nãy giờ anh giữ lấy cũng được.” Đến lúc này người đàn ông mới thôi đọc sách, anh ta ngẩng lên nhìn tôi tỏ vẻ vừa nghi ngại vừa dò xét. Trên khuôn mặt vuông chữ điền, một vết sẹo dài chạy thẳng từ trán xuống má trái tựa như vết chém. Ánh mắt heo hút lạnh lùng đến đáng sợ. Mặt anh ta vuông chữ điền, cằm hơi bạnh ra. Anh ta gằn từng tiếng: “Nguyên quán?” “Tôi có nói rồi, tôi đến từ Hà Nội.” - Tỏ ra bình tĩnh vậy thôi nhưng tim tôi đang đánh lô tô trong lồng ngực. Dáng người anh ta cao lớn, vạm vỡ hơn hẳn đám lính, cũng coi như hạc trong bầy gà. Từ phong thái đến cử chỉ, điệu bộ đều toát ra ba chữ “con nhà võ”. Nếu tình hình cứ căng thẳng thế này mà anh ta chỉ cần phật ý, kẹp cổ tôi một cái thì kiếp này cũng xin chấm dứt tại đây. Thôi thì lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói biết đâu được về. Lúc này người kia đẩy tách trà sang một bên, hai tay đặt trên bàn bỗng cuộn chặt: “Hà Nội là nơi nào?” Đúng rồi, kịch bản là phải thế. Hay là đây là chương trình kiểm tra kiến thức lịch sử nhỉ? Tôi hắng giọng: “Hà Nội là thủ đô của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.” Tên Chỉ huy sứ kia lạnh lùng rút từ hông ra một con dao nhỏ, lẳng lặng đặt lên bàn. “Thấy con dao này chứ?” - Tôi gật đầu, y tiếp lời - “Nếu còn nói nhảm nữa ta sẽ cắt lưỡi. Nói! Ngươi là người của ai?” “Người của ai cái gì? Đã bảo tôi là người Việt Nam, chả là người của ai cả.” - Sợ quá hoá giận, đã nói bao nhiêu lần rồi, có phải lúc để đùa đâu mà cứ lằng nhằng mãi thế chứ! “Việt Nam?” - Anh ta hỏi lại. Tôi gật đầu, bĩu môi, khoanh tay trước ngực: “Trả lời anh nốt lần này thôi nhé! Việt Nam là nước nằm trên bán đảo Đông Dương, khai sinh năm 1945 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình lịch sử. Nước tôi đã có hơn 1000 năm chống đô hộ phương Bắc, đánh bại đế quốc Pháp và Mỹ.” “Hơn 1000 năm?” Người đàn ông kia tỏ vẻ nghi ngại. Qua ngữ khí tôi cũng không chắc anh ta hiểu những gì mình nói nhưng mà hình như có cái gì đó bất thường ở đây. Cuối cùng thì “con ma men” đã rời đi để trả lại độc lập - tự do suy nghĩ cho bộ não nhỏ bé của tôi. Mất hai mươi giây đầu óc trống rỗng, những nơron thần kinh của một sinh viên tốt nghiệp loại ưu trường Ngoại Thương của tôi mới bắt đầu chậm chạp làm việc. Hàng loạt dữ kiện thoát khỏi men say, đổ về cùng một lúc ồ ạt như thác chảy: “Cho trường hợp đặc biệt. Giả sử kẻ đứng đầu là kẻ thông minh nhất. Biết rằng hắn cũng nói tiếng Việt nhưng không biết Việt Nam. Xung quanh có lều trại, ngựa, binh lính, trang phục kỳ lạ, giáo… Điều kiện bổ sung: Không khí trong lành không bụi mịn. Lời tôi nói lúc hắn hiểu lúc không. Hỏi: Đây là đâu?” Tôi sợ hãi với ý tưởng vừa nảy ra trong đầu, giật lùi liên tục mấy bước rồi ngồi thụp xuống đất còn nhanh và mạnh hơn lúc bị đạp. Hai mắt tôi mờ đi, xung quanh chỉ thấy hoạ tiết chim hạc viền quanh trại. Người ngồi phía trên như biết như không, cười khẽ để lộ hàm răng nhuộm đen nhánh, từ từ vươn tay ra lấy một miếng trầu têm cánh phượng. Tôi chết trân, không kìm được lắp bắp hỏi lại: “Xin hỏi đây là năm nào?” Người kia cười nhạt: “Ứng Thiên năm thứ mười hai.” Tim tôi như vừa chạm mạnh vào lồng ngực. Chuyện quái quỷ gì đây? Ứng Thiên là cái gì? Cách gọi này… chẳng phải là từ thời cổ đại hay sao? Giây phút này tôi không thể bình tĩnh được nữa, oà ra nức nở: “Trời ơi răng đen…en… Trời…ơi… huhu. Ai trả tôi về nhà. Tại sao tôi lại xuyên không thế này?” ______ Chú thích: (1) pub: viết tắt của cụm từ public house là một nơi kinh doanh chuyên các thức uống chứa cồn như bia, rượu,…và cả thức uống không chứa cồn, phục vụ kèm thức ăn nhẹ để mọi người gặp gỡ, ăn uống và trò chuyện trong không gian âm nhạc nhẹ nhàng. (2) bartender: thuật ngữ dành cho người làm nghề pha chế đồ uống, thức uống chứa cồn. (3) hidden bar (hay speakeasy bar): một dạng quán bar bí mật, nơi mà khách hàng biết đến quán bằng những lời giới thiệu truyền miệng, và mặc nhiên sẽ không thể vào được nếu không có người hướng dẫn. (4) hidden: ẩn giấu, giấu kín (5) shot: một shot có nghĩa là một lượng nhỏ của rượu mạnh được rót thẳng vào ly shot. (6)Đô chỉ suy sứ: Trưởng quan (võ quan) giữ việc chinh phạt. Lời tác giả: - Chỉ huy: Đơn vị quân đội. Mỗi chỉ huy định binh ngạch 500 người. Thống binh quan là Chỉ huy sứ và Phó chỉ huy sứ. Thời Tống Chỉ huy là đơn vị phổ biến nhất và quan trọng nhất. Chương 2: Trọn kiếp nô tài Đợi tôi hoảng loạn khóc xong mặt trời cũng đã xế bóng, tên Đô chỉ huy sứ kia vẫn ngồi phía trên chăm chú đọc sách, xem tôi như cái bóng tự khóc tự lăn lộn một mình trên đất suốt nửa ngày. Thấy tôi từ thút thít chuyển sang im bặt, hắn hỏi: “Ngươi là người của Ngự Bắc Vương hay Trung Quốc Vương? Đã nhận bao nhiêu tiền?” Tôi ngơ ngác nhất thời không hiểu ra, chỉ biết giương đôi mắt đẫm nước nhìn y rồi hỏi lại: “Tiền nào cơ?” Chỉ huy sứ như đoán trước được câu trả lời, hắn đặt quyển sách xuống, đứng dậy đi thẳng đến trước mặt tôi, rút dao, kề vào cổ. Tất cả hành động nhuần nhuyễn tự nhiên như đã làm cả trăm ngàn lần. Tôi thất kinh, hai môi mím chặt đến thở cũng không dám. “Nói hay chết?” “Đại nhân soi xét, tôi là dân lành bị lạc. Trung Quốc Vương hay Lào Vương, Thái Lan Vương tôi không quen ai cả!” - Tôi rưng rưng lén lấy gấu áo lên lau nước mắt. Thật sự trong trường hợp này có trăm cái miệng cũng không thể nào minh oan được. Đô chỉ huy sứ không đáp, kiếm của hắn vẫn đặt trên cổ tôi. Tôi làm sao mà hiểu được chuyện gì đang xảy ra? Cú sốc tâm lý quá mạnh khiến tất cả hiểu biết của tôi về loài người, về vũ trụ, về thời gian đều sụp đổ. Chỉ mới tối qua thôi tôi vẫn còn là một cô gái ngồi uống cocktail nhàn nhã, hôm nay đã bị lạc đến thời cổ đại này đây. Tạm khoan nói có phải xuyên không hay không, chỉ tính riêng việc bị vây bởi chó sói, bị kề kiếm vào cổ đã đủ trở thành dấu ấn đặc sắc nhất trong đời. Tôi ngước nhìn Đô chỉ huy sứ bằng đôi mắt ầng ậng nước: “Có trăm cái miệng tôi cũng không giải thích được nhưng chỉ xin anh tin một lần, tôi bị lạc. Các anh vừa đông vừa khoẻ như vậy người ta phái tôi tay không tấc sắt đến làm gì?” Y nhìn dò xét, hồi lâu thu dao về, lạnh giọng: “Người đâu!” “Có, thưa Đô chỉ huy sứ!” Hắn phẩy tay: “Sáng mai bịt mắt rồi dẫn hắn thả ở bìa rừng, trông chừng cho đến khi tự bơi qua sông Mã Phù về trại Phù Lan.” “Rõ!” Hai tên lính một béo một gầy ngay lập tức thi hành mệnh lệnh, kéo mạnh tôi về phía cửa. Tôi cun cút đi theo nhưng chỉ thấy tương lai mịt mờ, càng lúc mọi chuyện càng rối như mớ bòng bong. Tên béo huých vao tên gầy, cợt nhả: “Số hắn cũng khá, ít nhất còn gặp Đô chỉ huy sứ, nếu là chúa thượng giờ này đã thành mồi cho cá dưới sông rồi.” Tôi nghe hắn nói nói nhưng điểm đi điểm lại vẫn chưa thấy mình may mắn chỗ nào, thút thít: “Sáng mai ta lại bị ném ở bìa rừng, lại bị sói đuổi rồi còn bị các ngươi bắt bơi qua sông, chết ở đây còn sướng.” “Đúng là biết một mà không biết hai.” - Tên lính tròn vo tiếp lời - “Nếu thực sự muốn lấy cái mạng quèn của ngươi thì Đô chỉ huy sứ chỉ cần xuống một đao là xong chuyện. Đúng là đồ đàn ông nhát cáy.” y Đàn ông? Đàn ông nào? Đàn ông gì? Tôi lao đến bên một vật tựa như cái chum nước, vội vàng soi bóng mình. Hình ảnh phản chiếu bê tha đến mức chính tôi còn cảm thấy sững sờ. Mái tóc được cột cao, búi gọn nay đã bù xù như tổ quạ. Son đỏ lem một vệt dài từ miệng lên tận má. Hai mắt đen thùi lùi những mascara. Tôi điều chỉnh lại một chút nhưng lúc này mới phát giác giọng khản đặc như đàn ông không rõ do khóc nhiều hay do trúng gió sau khi uống rượu. Trên mình vẫn mặc một chiếc áo khoác đen dài đến gần gót chân. Nhìn sang bên thì hai tên này cũng để tóc búi cao, nhận nhầm cũng là điều dễ hiểu. Tôi không có ý định cho chúng biết giới tính thật của mình. Nơi này thiện ác chưa rõ huống hồ còn toàn đàn ông, ngộ nhỡ có điều gì xảy ra thân gái như tôi lúc đấy có hối cũng không kịp. Tỏ vẻ xu nịnh hết mức, tôi quay sang ngọt nhạt: “Ôi hai tráng sĩ, hai anh cho tôi hỏi đây là thời vua nào vậy?” “Hỗn xược!” - Tên béo nói mà như thét vào mặt tôi - “Tên của chúa thượng mà ngươi cũng dám hỏi. Có tin ta cắt lưỡi ngươi không?” Chúa thượng? Hoá ra thời này gọi vua là chúa thượng. Ai mà biết được không được hỏi tên vua cơ chứ? Tôi ngậm ngùi cúi đầu, tính đến thời điểm hiện tại những gì tôi biết về nơi này quả thật quá ít mà xem chừng cặp đôi béo - gầy này cũng đừng hòng mà khai thác được thông tin. Tôi mím môi, ngoan ngoãn đi theo chúng. Vòng vèo một hồi đến chuồng ngựa, tên béo dừng lại: “Vào kia!” Tôi trỏ mặt mình rồi chỉ vào trong: “Tôi ở trong chuồng ngựa á?” “Còn muốn cái gì nữa?” - Tên gầy miệng nói tay cột chặt tôi vào thân cây trong một khoang trống, rào ngăn với đàn ngựa bởi một hàng cọc tre. “Nội gián còn dám đòi hỏi à?” - Tên béo cười khẩy, bồi thêm cho tôi một cú trời giáng rồi nhặt một hòn đá bên cạnh, hắn ném vào đầu con ngựa gần nhất khiến cả đàn lồng lên, tiếng hí đinh tai nhức óc. Bấy giờ hắn ta gật đầu ra chiều hài lòng, chắp tay sau lưng thủng thẳng rời đi. Hoàng hôn rơi xuống trên những mái lều. Cái lạnh vỡ ra rồi chảy xuống khoảng đất chuyển sang màu xám ngoét. Khắp cả doanh trại đầy những tiếng vọng, tiếng người và nhìn ra xa xa, xuyên qua những phên tre dính đầy mạng nhện, nơi những bụi lau vượt qua giá lạnh đã nhô cao gần che khuất tầm ngắm, những binh lính xếp từng hàng dài thật dài, người lấm lem đất bụi rời khỏi thao trường quay về lều. Doanh trại bắt đầu sáng lên bởi vô số ánh nến, ánh đuốc lập lờ. Cánh cửa chuồng ngựa không khép chặt, phát ra tiếng cót két tựa tiếng thở dài. Gió dội về từ trên ngọn núi phía xa, những chiếc lều phần phật như rên rỉ, và ở khắp nơi trong doanh trại thấm đẫm màu đỏ của ánh tịch dương buồn bã, mặc cho lớp lớp binh lính vẫn nườm nượp lại qua. Tôi khẽ chớp mắt, trong lòng trống rỗng vô định. Tôi tưởng như mọi bi thương của cuộc đời đều dừng chân tại khoảnh khắc này, vòng qua mọi ngóc ngách trong doanh trại, cứ như thể định mệnh đã sắp đặt sẵn rằng những khổ đau từng được cảm nhận ở đây, những giọt máu đã rơi trên mảnh đất này, đều lẩn lút như những linh hồn bị lãng quên trong những nơi sâu kín nhất và bây giờ thức tỉnh, ngồi bên cạnh thì thầm cùng tôi những lời than vãn mệt nhọc. Tôi ngồi im lắng nghe tất cả tựa như thấy quá khứ từ trăm năm, ngàn năm, những điều chỉ còn trong sách vở, thấy những con người mà đến sau này, thời kỳ của tôi có lẽ chỉ còn là những nấm mồ chìm sâu dưới vài tấc đất, hoặc cũng có thể là tro bùn chẳng còn ai hay biết. Giá như đây chỉ là một cơn ác mộng, tỉnh dậy tôi có thể về nhà, lại đi làm mỗi sáng, đổ xăng ở đầu ngõ, ăn một chiếc bánh mì nóng hổi, xem một chương trình yêu thích và cắm hoa ly thơm nức đầu giường. Tôi tựa đầu vào cột, ngửa mặt lên nhìn buổi chiều tàn. Chỉ trong một chớp mắt những điều vô lý đến mức bất công xảy ra mà tôi chẳng thể hỏi “Tại sao?”, chỉ có thể cố gắng hết sức để biết “Bằng cách nào?” mình mới có thể vượt qua được. Trong chuồng chật chội, ngựa tiếp ngựa san sát bên nhau. Phân ngựa hôi thối, muỗi chích không ngừng. Tôi im lặng trong tiếng vo ve, không ngờ một ngày lại dài đến như vậy. *** Quá nửa đêm, tôi bị đánh thức bởi tiếng động phía sau chuồng ngựa. Chuồng ngựa xây sát vách núi, cửa hướng ra sông, phía bắc chỉ có một kho trữ cỏ, phía nam phải đi xa lắm lắm mới tới được vọng gác gần nhất. Vậy tiếng động kia từ đâu ra? Tôi vờ như nhắm mắt, tiếng chân người chạy rầm rập càng lúc càng rõ. Với số lượng này dễ có đến cả trăm người. Tôi hé mắt trông ra thì là một đám người không mặc quần áo lính, từ đầu đến chân ăn vận đen một màu. Chúng che mặt, hông mang kiếm, từ sườn núi phía sau chuồng ngựa lẻn vào. Đám người kia mau chóng vượt qua hàng rào, nhảy vào phía bên trong. Thấy tình hình có vẻ bất thường nhưng tôi vẫn kiên trì giả ngủ. Dò la trước đã, đằng nào tôi cũng đang bị nhốt ở đây, biết đâu được đám người này sẽ là phao cứu sinh của tôi? Chúng áp sát một trại nhỏ, có đám bốn binh lính vừa từ trong trại bước ra đã bị chúng kéo lại, một đao cắt cổ. Tôi hoảng hồn ngồi thu mình lại, gắng để tiếng hét đang nghẹn ứ ở họng không bật ra bên ngoài. Khoảnh khắc này tôi biết rất rõ chỉ cần sơ sẩy một chút thôi thì người tiếp theo gặp nạn sẽ là mình. Cũng coi như trong cái rủi có cái may, chẳng ai ngờ đến ở nơi chuồng ngựa hôi thối này còn có sự tồn tại của tôi nữa. Đợi chúng tiến về phía trại chính tôi liền mau chóng ngồi xuống, ra sức dùng chân khều kìm cắt móng ngựa lại gần. Tên lính gầy trói tôi là một nhẽ, tôi đã tính toán cách cởi được từ chiều nhưng biết dù có cởi trói cũng chẳng có nơi để đi nên đành mặc kệ. Nếu giờ này g g ặ ệ g y tôi còn ngồi im phó mặc cho trời thì chỉ e điểm đến tiếp theo sẽ là âm tào địa phủ. Tôi vươn mình, ra sức dùng chân kéo kìm cắt móng ngựa lại gần, khéo léo chuyền lên để có thể cắt được dây. Kim cắt móng ngựa vừa to vừa nặng, hơn nữa lưỡi cũng rất cùn. Tôi loay hoay tới lui không thể cắt được nên đành ra sức chà mạnh liên tiếp, hết lượt này tới lượt khác. Cổ tay chịu ma sát liên tục ban đầu chỉ nóng lên, bỏng rát nhưng dần dần trầy trụa rớm máu. Tới khi dây thừng ướt đẫm máu tươi tôi mới thành công giải thoát cho chính mình. Vừa lúc này đám người mặc đồ đen đã lỉnh vào trong một đoạn khá xa. Học theo tên béo ban chiều, tôi quay lại nhặt một viên đá, nhằm con ngựa gần nhất mà ném thật mạnh, thẳng chân đạp thêm hàng rào tre một cái. Con ngựa đang ngủ bị động liền lập tức hí vang, lồng lên. Con này nối tiếp con kia, cả chuồng ngựa hỗn loạn không kể xiết. Tôi chạy tới bên cây đuốc cắm trước lối ra, ném xuống cái ổ bằng cỏ mình vừa nằm. Cỏ khô bắt vào lửa dữ, phừng phừng cháy lên. Làm ầm ĩ tới mức này tôi không tin lính tráng trên vọng gác không nhìn thấy. Về phần mình tôi lùi phía sau, trốn vào góc khuất. Nếu đám người mặc đồ đen kia có phát giác cùng lắm cũng chỉ nghĩ là do ngựa làm hoặc tai nạn do ai đó bất cẩn bằng không tôi sẽ sớm quy tiên. Quả đúng như kỳ vọng, lính gác phía Nam đã phát giác bất thường trong chuồng ngựa, nhanh chóng đánh thanh la ầm ĩ. Một đám người kẻ cầm chậu, kẻ cầm xô lao ra ngoài, vừa vặn giáp mặt với lũ mặc áo đen kia. Hai bên ngỡ ngàng trong giây lát rồi tiếng gươm đao va vào nhau xủng xoảng, tiếng người chạy rầm rập, tiếng thanh la truyền từ vọng Nam sang vọng Bắc, nối tiếp vọng phía Tây rồi phía Đông. Cả doanh trại phút chốc sáng bừng ánh đuốc. “Tên Đô đô gì kia nữa, phải báo cho hắn!” - Tôi lẩm nhẩm, chạy vụt đi. Trong tưởng tượng của tôi hắn ta là người cực kỳ lợi hại. Người đứng đầu ắt có cách riêng trị đám mai phục này. Nửa đêm nửa hôm không biết có còn kịp hay không, binh lính xem ra đã ngủ hết. Hắn ta chắc là người tốt, ít nhất còn tha cho tôi. Để mạng sống của mình rơi vào tay đám áo đen kia chưa biết chừng tôi sẽ bị cắt cổ như bốn binh lính vừa nãy. Tôi chạy mà hai đầu gối như va vào nhau lộp cộp. Đường từ trại này tới trại kia mất một quãng xa, sức kiệt, bụng đói, phía đằng xa tiếng người ngã xuống mặt đất bịch bịch liên hồi. Mùi máu tanh nồng nặc trong không khí, càng lúc càng đậm, quyện chặt với mùi dầu bốc ra từ những bó đuốc làm cảm giác buồn nôn lại càng dữ dội hơn bao giờ hết. Lều lớn đã ở rất gần, phía trước có một đám người giáp sắt sáng loà. Người cao vượt trội nhất dù có đứng nghiêng tôi vẫn có thể nhận ra được nhờ vết sẹo dài trên má trái. “Chỉ huy sứ, có kẻ…” - Còn chưa kịp nói hết câu, đột nhiên tôi cảm thấy có một dòng chất lỏng ấm nóng bắn lên mặt mình. Tôi đưa tay quệt ngang, cả bàn tay nhuốm máu đỏ thẫm. Phía bên dưới có một vật lăn lông lốc rồi dừng lại. Tôi cúi xuống nhìn, mười đầu ngón chân vừa hay chạm vào một cái đầu người với hai mắt còn mở trừng trừng, vết cắt ngọt đến mức nhìn thấy cả cuống họng. Tôi lùi lại ba bước, máu nóng loang ra chạm vào ngón chân tê dại vì lạnh. Tới lúc này phòng tuyến tâm lý cuối cùng của tôi bị đạp đổ. Hai đầu gối không ai đánh mà trở nên vô lực. Tôi ngồi sụp xuống đất, lắp bắp - “Có… kẻ đột nhập…” Lúc này xuất hiện một người mặc giáp, đầu bạc quá nửa đi tới bên chỉ huy, cung kính: “Bẩm Đô chỉ huy sứ, chúng định đốt kho lương.” Liền ngay sau đó một tên lính dáng người tròn vo bị giải đến, quỳ phủ phục trước mặt. Tôi nhận ra hắn ta, hắn chính là tên đã áp giải tôi hồi chiều. Tới đây người đầu bạc kia tiếp lời: “Hắn ta chính là nội gián đã chỉ đường.” Đô chỉ huy sứ tỏ vẻ hài lòng, y phẩy tay, trầm giọng: “Giải hắn xuống, dọn dẹp đi.” - Đám người nhận mệnh ngay lập tức thi hành. Y quay sang nhìn tôi, bảo - “Còn ngươi, theo ta vào trại.” Phải tới lần thứ ba đứng dậy tôi mới có thể vững vàng bước vào trong. Nghĩ lại những hình ảnh bát nháo sáng nay của tôi với y rồi mường tượng cảnh giết người ban nãy, dọc sống lưng tôi như có một luồng khí lạnh lan toả khiến tứ chi cứng nhắc, toàn thân vô lực. Kiếp này coi như bỏ ở đây. Xin hãy đâm tôi một nhát, chí ít cũng không bộ phận nào bị tách rời. “Là ngươi đã đốt chuồng ngựa?” - Giọng y lạnh tanh. Tôi sợ hãi quỳ phủ phục xuống, bắt trước một câu trong phim kiếm hiệp: “Đại nhân minh xét, chỉ vì bất đắc dĩ thôi.” Đô chỉ huy sứ kia ngồi phía trên, tay cầm chiếc khăn lau gạt qua lưỡi kiếm. Vết máu bị lau đi, thanh kiếm sáng đến nhức mắt. Tôi lắp bắp giải trình: “Tôi chỉ đốt cái ổ cỏ mình nằm hơn nữa đã nhìn trước ngó sau, không có thiệt hại gì hết. Đại nhân tha tội, tôi trốn khỏi đó cũng chỉ vì bất đắc dĩ. Tôi không phải nội gián!” “Ta biết.” - Y gật đầu. Tôi ngạc nhiên ngẩng lên. Y biết cái gì cơ? Biết tôi không phải nội gián á? Đô chỉ huy sứ trỏ cái ghế bên dưới, tiếp lời - “Ngồi đi!” Nhìn điệu bộ điềm nhiên của y tôi đoán rằng việc này sớm đã nằm trong dự liệu hoặc rất có thể, ngay từ giây phút đầu tôi xuất hiện tên Đô chỉ huy sứ này đã tỏ tường tất cả. Hắn ta giam tôi phải chăng chỉ thuận nước đẩy thuyền hòng bắt được nội gián thật? Tôi ngồi trên ghế hai tay bấu chặt với nhau. Trong phim những kẻ thông minh quá thường sẽ chết sớm. Mồm miệng nhanh nhảu cũng chả có lợi gì trong mấy trường hợp này. Tốt hơn hết phải giả vờ ngu. Chết thì cũng không đáng sợ lắm nhưng chết dưới đao kiếm, bị chặt đầu cắt cổ như vừa nãy quả là vượt quá sức chịu đựng của tôi. “Bây giờ đã có thể nói cho ta ngươi từ đâu đến chưa?” Tôi gãi đầu, trả lời thế nào cho hắn đẹp lòng đây? Sáng nay câu trả lời của tôi đã bị cảnh cáo tận mấy lần. Nghĩ đi nghĩ lại tôi hít vào một hơi, lí nhí: “Bẩm..m…m, rất xa. Nơi xa đến mức người không thể đặt chân tới được.” “Thế giờ nếu ta thả ngươi đi, ngươi sẽ về nhà bằng cách nào?” Tôi ngồi bần thần trên ghế, nhìn ra ngoài cửa, mất một lúc lâu mới có thể đáp nhát gừng từng tiếng: “Tôi không biết.” Y đặt kiếm lên bàn, nhìn tôi: “Vậy bây giờ ngươi ở đâu?” “Không có nơi nào.” - Tôi thành thật. Đến đây hai mắt ngân ngấn nước chỉ trực khóc. Đô chỉ huy sứ có vẻ đăm chiêu. Y nâng chén trà lên rồi đặt trở lại bàn, vẫy tay ý gọi tôi tới gần: “Phàm giết cốt giết người có tội lớn, thưởng cốt thưởng ở người có công nhỏ(1). Ngươi cũng là kẻ thông minh nhanh nhẹn, xem như có công tố giác phản tặc. Bên cạnh ta vừa hay thiếu một thư đồng, xem như bù đắp cho việc ta đã mượn ngươi làm mồi dụ nội gián.” Tôi không biết mình đã giúp được gì cho y nhưng quả thật lời đề nghị kia khiến tôi phải nghiêm túc suy nghĩ. Nếu bây giờ thả tôi ra khỏi trại, tôi lại lạc giữa rừng, lại bị chó sói đuổi hoặc hổ báo cáo chồn đe doạ, thêm nữa sống giữa thời cổ đại này cũng không biết làm cách nào kiếm cơm ăn. Thà rằng cứ ở đây, trên đầu có một chủ nhân cũng không phải sợ đói sợ rét, cùng lắm xui rủi thì bị chặt đầu thôi. Tôi đã toan hồ hởi chấp nhận ngay “thương vụ bạc tỷ” này thì chợt khựng lại. Ồ không, là một sinh viên ưu tú sao tôi lại có thể dễ dàng để “nhà tuyển dụng” được hời ngay từ lần ra giá đầu tiên? Thử nghĩ xem, ngay từ đầu y đã biết tôi chỉ là một người dân thiện lương sa cơ lỡ vận vậy mà nỡ lòng đày ải tôi phải chịu khổ chịu sở. Nếu bây giờ tôi đồng ý ngay thì lại dễ dàng cho hắn quá. Nghĩ đến đây tôi xoay người, chớp mắt đã đổi sang bộ dạng thảm thương, miệng rên rỉ: “Ôi… Đau quá!” - Tôi lặng lẽ chấm hai giọt nước mắt trong tưởng tượng - “Được trở thành thư đồng cho người dù đôi tay này đang bị thương cũng không hề hấn gì.” Tôi cố tình giơ giơ bàn tay chằng chịt vết hằn dây thừng, vết cứa đến bật máu tươi lên trước mặt Đô chỉ huy sứ. Y chau mày, tôi lại cúi xuống bóp bóp thêm đôi chân trần trầy xước: “Dù bị kiếm chém dao đâm cũng nguyện dùng tấm thân tàn tạ này che chắn.” Y có vẻ nhẫn nhịn lắm khi nghe mấy lời ỉ ôi của tôi, cuối cùng xua tay: “Được rồi, ban cho ngươi một đôi hài mới, hai bộ y phục, ngày mai có thể tới kho lĩnh thưởng. Ngoài ra việc thường ngày trong trại nếu không hiểu hãy đi hỏi Bạch Vỹ ở lều lớn.” Tôi gật gật đầu, mặt vẫn ủ ê. Rõ ràng rằng bản thân tên Đô chỉ huy sứ này cũng có cảm giác tội lỗi với tôi, chèo kéo thêm được gì tôi sẽ tận dụng nốt. “Còn muốn gì nữa nói mau đi.” Tôi ôm bụng: “Từ sáng đến giờ tôi chưa được ăn gì cả.” Y chỉ tay lên đĩa bánh để trước mặt, tôi hớn hở chạy đến bưng ngay cả đĩa ăn ngấu nghiến không nề hà phép tắc gì cả. Đã một ngày rồi tôi chưa có gì vào bụng, dù có bị xử tội ngay bây giờ thì tôi có chết cũng phải làm một con ma no. Miệng nhai nhồm nhoàm, tay bốc bánh, tôi hỏi: “Dạ bẩm Đô chỉ huy sứ, người tên gì vậy ạ?” Y quắc mắt nhìn, tôi sợ hãi phát run, suýt chút nữa nghẹn: “Chiều nay tôi chỉ hỏi tên vua thôi mà đã bị tẩn cho một trận. Tôi chỉ nghĩ thành thư đồng thì nên biết tên đại nhân, đại nhân không nói cũng không sao ạ.” “Lịch Vũ.” - Y không ngẩng đầu lên, trả lời hai từ gọn lỏn. Tôi gật đầu liên hồi, giả vờ rất vô ý hỏi thêm: “Đô chỉ huy sứ, trong trại này có phụ nữ không?” “Không có!” “Tại sao lại không?” - Dứt lời tôi mới biết mình vừa hỏi ngu liền nín thinh. Lịch Vũ dường như cũng đồng ý với điều đấy, không thèm đáp lời. Tôi lí nhí hỏi thêm - “Nếu có phụ nữ vào thì sao ạ” “Lập tức giết không tha.” - Lịch Vũ dùng giọng đều đều trả lời. Y gấp quyển sách vửa dở ra lại, ngước lên nhìn tôi - “Mà sao ngươi lại hỏi chuyện này?” Tôi cười ha ha vờ lơ đi, trong lòng thầm cảm ơn trời đất vì khuôn mặt lem nhem, tóc tai bù xù, quần áo thùng thình mà tạm thời chưa ai nhận ra tôi là con gái. Vậy thì con đường sống duy nhất hiện tại là tôi phải giả trai, sống với thân phận thư đồng của tên Lịch Vũ này rồi. Thôi thì giấu được ngày nào hay ngày nấy, thuyền đến đầu cầu ắt sẽ thẳng! Thấy tôi bỗng dưng im lặng Lịch Vũ hỏi: “Ngươi tên gì, bao nhiêu tuổi?” Tôi nheo mắt, cố gắng nghĩ cho mình một cái tên thật đàn ông nhưng vô ích. Không biết ở thời cổ đại này người ta đặt tên như thế nào nhỉ? Nếu tôi nói linh tinh liệu có giấu đầu hở đuôi không? Tôi lắc đầu, giả bộ bày ra vẻ mặt buồn bã nhất có thể: “Tên tôi rất xấu, người gọi tôi là gì cũng được. Tôi 18 tuổi.” Lịch Vũ suy tư một hồi, rót một chén trà để lên bàn, đẩy về phía tôi đang gần như mắc nghẹn vì nhai quá nhiều bánh. “Ngươi ngang bướng như vậy, gọi ngươi là Đam (2) đi.” _______ Chú thích: (1) Phỏng theo sách “Võ kinh” - Trích “Binh thư yếu lược” (Phụ: Hổ Trướng Khu Cơ). (2) Đam: (Phương ngữ) cua đồng. Chương 3: À, thì ra ngươi chọn cái chết Lấy sông Mã Phù làm ranh giới, Phù Lan được chia ra hai nửa: nửa hữu ngạn là nơi binh lính triều đình đóng quân, nửa tả ngạn là căn cứ điểm của quân phản tặc. Ngự Bắc Vương giữ trại Phù Lan cấu kết cùng Trung Quốc Vương giữ trại Càn Đà, dấy binh tạo phản. Cả hai đóng chặt cổng thành cố thủ, Lịch Vũ kia nhận mệnh chúa thượng đã vây bắt nơi này nhiều tháng ròng. Nếu như chỉ là trận chiến bình thường thì có lẽ đã sớm kết thúc xong xuôi. Nghe đâu trong trại Phù Lan còn có dân lành sinh sống, chỉ e nếu tấn công sẽ lạm sát người vô tội, dân chúng ly tán lầm than nên quân triều đình vẫn cứ ám binh bất động thế này. Thành bị vây chặt nội bất xuất, ngoại bất nhập. Lương thực có hạn, người dân cũng không thể đi ra ngoài đổi chác, mua bán. Thoáng chốc mùa đông đã ập tới, tôi nghe phong thanh từ đám binh lính cách đây vài ngày tuyết còn phủ trắng xoá núi Mã Phù. Dù giờ đây tuyết đã tan nhưng tình hình thiếu lương thực trong thành vẫn chưa được giải quyết. Quân phản tặc đột nhập doanh trại triều đình vừa cướp vừa đốt kho lương. Song để tìm được chính xác vị trí mà đốt đâu phải chuyện dễ dàng? Chúng đã dám làm ắt hẳn có nội gián chỉ điểm. Duyên trời run rủi, tôi lại xuyên không về vừa vặn buổi sáng hôm đấy, nghiễm nhiên trở thành đối tượng đứng mũi chịu sào nhằm đánh lạc hướng nội gián thực sự. Phù Lan vào độ giữa đông. Sáng sớm mây mù từ đỉnh núi tràn xuống, che khuất đường khuất lối, áng chừng người cách người chưa đến ba bước chân đã không thể nhìn rõ mặt. Các lều san sát nối tiếp nhau đã vắng bóng người, binh lính đổ ra thao trường luyện tập từ lúc mặt trời còn chưa lên. Trên các vọng gác đuốc vẫn cháy phừng phừng, dễ thường ánh đuốc còn sáng hơn cả nắng mai. Tin tôi trở thành thư đồng của Đô chỉ huy sứ đã được thông báo với toàn doanh trại vào tối qua, do đó việc đi lại hôm nay cũng thuận lợi hơn nhiều. Nếu bị lính đi tuần chặn hỏi tôi chỉ cần báo danh là sẽ được cho qua. Tôi cũng cẩn thận quan sát cách binh lính ăn vận, nói chuyện với nhau. Đa phần mọi người đều cắt tóc ngắn, cá biệt có vài trường hợp để đầu trọc. Những người trông có chức sắc thường để tóc dài hơn, hoặc búi hoặc cột cao đơn giản. Tôi đánh vật cả buổi sáng với mớ tóc dài của mình nhưng dù có làm thế nào thì trông vẫn quá nữ tính. May thay lúc thử búi củ hành thì lại vừa vặn, cột thêm đoạn vải đỏ để cố định nữa là hoàn hảo. Y phục được ban gồm áo khoác trần bông tương đối dày, áo mặc lót màu trắng, áo gì nữa không biết, lại thêm áo cổ tròn và quần, mỗi thứ hai cái; giày được một đôi. Có thể do đương độ giá rét hoặc cũng có thể do văn hoá mà thời kỳ này trang phục tương đối rườm rà. So với những bộ phim cổ trang tôi thường thấy trên tivi cũng không quá khác biệt. Đánh vật cả buổi sáng cuối cùng việc ăn mặc cũng coi như tươm tất. Giờ tôi phải đi tìm người có tên Bạch Vỹ. Vỹ biết việc hầu hạ, Lịch Vũ nói nếu tôi cần gì có thể hỏi anh ta. Đương nhiên từ nhỏ tới lớn tôi nào biết hầu hạ ai bao giờ? Đằng nào cũng phải làm chẳng thà làm sớm, ít nhất còn quen việc, may ra không bị Đô chỉ huy sứ kia ghét bỏ mà đá ra khỏi doanh trại. Bạch Vỹ ở trong lều lớn hướng chính Đông, rộng ít nhất gấp ba lần lều của Lịch Vũ. Trước cửa có mấy mươi người cao to như hộ pháp, võ bị đầy đủ, cầm giáo cầm kiếm đứng gác rất uy phong, trên trán họ đều khắc ba chữ gì đấy đọc không hiểu. Tôi mon men đi lại gần, nhìn trước nhìn sau. Thấy điệu bộ lấc láo như cáo vào chuồng gà của tôi, lại pha chút hèn mọn, ngay lập tức hai binh lính rút gươm, quát lớn: “Ngươi là ai? Tới đây có chuyện gì?” Tôi giơ hai tay lên tỏ vẻ vô hại, cười thảo mai: “Các anh bình tĩnh. Tôi là thư đồng của Đô chỉ huy sứ, tới đây để tìm Bạch Vỹ.” Một trong hai hạ kiếm xuống, trán nhăn tít lại: “Đô chỉ huy sứ có thư đồng từ lúc nào?” “Vừa tối hôm qua thôi.” - Tôi hi hi ha ha, bình tĩnh rút tấm thẻ bài bằng gỗ trong ngực áo đưa ra. May mà Lịch Vũ còn chuẩn bị trước thứ này, sơ sẩy một cái với đám binh lính mất mạng như chơi. Tên lính kia liếc qua thẻ bài, hất hàm: “Lần sau tìm Bạch Vỹ thì báo danh rồi đứng chờ ở phía bên kia.” Tôi gật đầu lia lịa ra chiều đã hiểu, vừa lúc này từ phía đằng xa có một cậu trai trẻ chừng mười tám đôi mươi đi tới. Cậu ta tới gần một bước sương mù lại giãn ra vài phần, nắng bừng lên trên gương mặt thanh tú. Đôi môi anh đào chúm chím, làn da trắng mịn, nụ cười tươi rói khiến cảm giác lạnh buốt giữa những ngày tuyết tan cũng vơi đi quá nửa. Tên lính gác cửa ngay lập tức đổi giọng, ngọt nhạt: “Bạch Vỹ ngươi xem, có thư đồng của Đô chỉ huy sứ tới tìm này.” Tôi nhe răng cười sượng trân thay lời chào, Bạch Vỹ nhìn tôi một lượt, ánh mắt vừa thăm dò vừa phán xét. Cuối cùng Bạch Vỹ chủ động bước tới, đưa cái thau đồng mình đang cầm cho tôi, điệu bộ mềm mỏng mà giọng điệu cứng rắn: “Đi theo ta.” *** Bạch Vỹ nói qua loa, đại để việc của thư đồng thường là lo giấy mực, sắp xếp thư trai(1) hay những việc vặt vãnh trong ngày, đấy là đối với môn sinh(2) hay những người đọc sách. Ở đây là doanh trại, trong trại không có người hầu. Tôi là thư đồng đương nhiên sẽ kiêm luôn ti tỉ thứ việc mà gia nhân thường làm. Lúc đấy tôi không hề ý thức được rằng bản thân Bạch Vỹ cũng là người hầu, vậy hà cớ gì y xuất hiện ở đây? Chúng tôi đi một quãng khá xa, Bạch Vỹ dẫn đường chỉ những khu được phép ra vào, những nơi cơ mật mà kẻ dưới tuyệt nhiên đừng hòng bén mảng đến nếu không có lệnh. Tới một đoạn đường chằng chịt ổ gà, đất nhão ra như bùn, Vỹ nhìn đôi hài của tôi, ngạc nhiên: “Đô chỉ huy sứ cho ngươi cả hài cơ à?” Tôi nhìn xuống chân mình, bước tới bước lui vài vòng: “Sao? Có vấn đề gì à?” Bạch Vỹ bĩu môi: “Không biết vừa đến đã dùng chiêu trò gì, Đô chỉ huy sứ đúng là quá hào phóng mà!” “Ngươi cũng đi mà? Sao lại nói ta?” - Tôi tròn mắt. “Ngươi còn dám so bì? Ta theo hầu chúa thượng từ khi mới lên năm.” Tôi gật đầu lấy lệ, làm sao so được cơ chứ? Nhưng kể ra đúng là hơi kỳ lạ, dù mùa đông rét mướt đi chăng nữa thì đa số người trong doanh đều đi chân trần. Tôi tính hỏi nhưng hình như hơi khiếm nhã. Mà ai quan tâm làm gì chứ? Tên Lịch Vũ kia đã cho thì tôi cứ nhận. Hỏi vớ vẩn linh tinh y lại cắt phần luôn không biết chừng. “Vậy ngươi bao nhiêu tuổi?” “18.” - Bạch Vỹ trả lời đầy kiêu ngạo, y lắc lắc cái đầu bé xinh. Tôi cười thành tiếng, tí nữa thì bò cả ra trên mặt đất. Chuyện là hôm qua tôi cũng lừa Lịch Vũ rằng mình mới 18 tuổi mà thực ra đã là 23, Lịch Vũ có vẻ rất tin tưởng. Trả lời đúng tuổi thật có khi lại bị hỏi chuyện vợ con, lơ ngơ sẽ bại lộ việc tôi là con gái. Nói gì thì nói Bạch Vỹ cũng là chàng trai xinh đẹp nhất mà tôi từng gặp. Phải dùng từ “xinh đẹp” cho một người đàn ông bởi lẽ y da đỏ môi hồng, hai mắt lúng liếng. Đi cạnh Bạch Vỹ tôi cũng yên hẳn. Vỹ hầu cận chúa thượng mà mi thanh mục tú(3) nhường ấy thì trong trại xuất hiện thêm thư đồng ẻo lả như tôi cũng bớt đi vài phần điều tiếng. Vỹ là người quảng giao, trò chuyện khéo léo tôi cũng tạm thời biết thêm được chút thông tin có giá trị. Lần này tôi không ngu ngốc phạm huý vua nữa, hỏi sang tên của phản tặc cho đơn giản. Ngự Bắc Vương tên thật là Lê Long Cân, Trung Quốc Vương là Lê Long Kính, khả năng cao vua mang họ Lê. Kế đó hiện tại tên nước là Đại Cồ Việt. Quốc hiệu này chỉ tồn tại vào thời Đinh hoặc Tiền Lê. Kết hợp cả hai dữ liệu và dùng phép loại trừ, kết quả cuối cùng chắc chắn là thời Tiền Lê rồi! Băn khoăn này vừa được gỡ bỏ thì băn khoăn khác lại ập tới. Đây là triều đại như thế nào? Bao nhiêu vua? Vua hiện tại là ai? Chiến tranh hay thái bình? Tôi nhớ loáng thoáng có chuyện gì đó lớn lắm liên quan đến cái tên Đại Cồ Việt mà nhất thời không nhớ ra được. Vốn hiểu biết eo hẹp thì đã đành đằng này số vua trong lịch sử nước nhà tôi biết chắc đếm không quá hai bàn tay. Nếu biết trước sẽ xuyên không, chắc chắn tôi sẽ dành nửa đời trước của mình để học hành lịch sử thật tử tế! *** Giữa trưa trời quang mây tạnh. Sương mù tan bớt và mặt đất cũng khô ráo hơn. Tôi lần theo tiếng kẻng đi xuống bếp nhận phần ăn về cho Đô chỉ huy sứ. Người cai quản việc bếp núc là Phùng, cỡ hơn ba mươi tuổi, dáng người mập mạp cục mịch. Phùng mặc áo xám, quần đen, ống tay áo rộng thùng thình xắn lên đến gần vai, buộc túm lại. “Tôi là Đam, thư đồng của Chỉ huy sứ. Tôi đến đây lấy đồ ăn cho người.” Phùng nhìn tôi không đáp, chỉ về khay đồng để sẵn. Cơm canh đầy đủ còn ấm nóng, khói bay nghi ngút. Tôi khịt mũi, quay sang hỏi: “Anh Phùng, phần ăn của tôi lấy ở đâu?” Phùng chỉ ra trại bên ngoài, nơi quân lính đang xếp hàng dài: “Ăn cùng binh lính.” Tôi gật đầu, lưỡng lự nhìn về hướng cả trăm cả ngàn tên đàn ông rồi lại nhìn mình, tự thấy nghèn nghẹn ở cổ. Xem ra những bữa ăn sau này khá khó nuốt. Tôi phải mau nghĩ cách bằng không nếu cứ chạm mặt chan chát với họ ngày một thì cây kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra. Tôi liếc nhìn, ngay cạnh khay đồng của Lịch Vũ còn có một khay khác bằng bạc, có vẻ nhiều hơn đôi ba món nhưng nhìn chung cũng đơn giản. Khác với những bữa ăn xa hoa của tướng lĩnh vẫn thường thấy trên phim ảnh, Lịch Vũ chỉ có một đĩa cá kho, một bát canh lớn, một bát cơm trắng với một quả lê. Không rõ là do tình hình tiền tuyến khó khăn hay do phim ảnh lừa dối mà ngay cả Chỉ huy sứ cũng ăn uống “đạm bạc” khác xa với tưởng tượng. Nhân lúc bê khay đồng về lều lớn, tôi ngó nghiêng qua nơi đang phát cơm cho lính tráng. Á à, phải xem họ sẽ cho mình ăn cái gì đã chứ. Bắt đầu từ cơm trắng thì ít mà độn với đủ thứ ngũ cốc thì nhiều. Những miếng thịt luộc thái mỏng dính tưởng chừng như một ngọn gió nhẹ nhàng thổi qua cũng đủ cuốn hết đi cùng với niềm tin mong manh của tôi. Được cái đang ở nơi rừng núi, dù giữa mùa đông rau xanh xem chừng cũng chẳng thiếu. Nhìn lại mâm cơm của Đô chỉ huy sứ kia tự dưng tôi thấy đúng là đối đãi đặc biệt dành cho VVIP(4). Trong phút chốc tay tôi trở nên vô lực, hỡi cao xanh ơi nếu chỉ ăn như kia mà còn bắt phải lao động vất vả cực nhọc như người hầu, thân yếu liễu đào tơ như tôi lấy đâu ra năng lượng chứ? Tôi lảo đảo bước đi, còn chưa được ăn đã thấy đói, lòng buồn thương trống rỗng. Sống mà không được ăn ngon thì cuộc sống đã mất đi bảy phần ý nghĩa. Ước chừng khoảng dăm kiếp người, nghìn trùng sương gió, cuối cùng tôi cũng lết được tấm thân tàn tạ cùng cái khay đồng nặng trịch về đến lều lớn. Phàm những kẻ ác ắt gặp quả báo. Bấy giờ tôi mới thấy ăn năn hối hận vì những lần đi cafe gọi cappuccino vẽ hình con mèo mà ngồi tận tầng bốn. Có lẽ những lúc đấy các bạn nhân viên oán hận tôi ra sao thì tôi đang oán hận tên Lịch Vũ y như vậy. Đầu tiên là chỉ tính riêng cái khay đã phải đến cả mấy cân, kế đó còn mang đi xa, mang đi nhanh, mang thật khéo để không đổ canh. Vừa tới cửa lều thì tôi đã kiệt quệ. Đúng lúc hai lính canh chặn lại, buông một câu lạnh lùng làm đóng băng trái tim tôi. “Chờ ở ngoài!” “Chờ… ở ngoài?” - Tôi lắp bắp hỏi lại. Nhìn xung quanh không có chỗ nào có thể đặt tạm cái khay để nghỉ tay một chốc, nếu cứ tiếp tục thế này thì sẽ bị chuột rút mất. - “Có chuyện gì vậy?” “Chúa thượng đang nghị sự với Đô chỉ huy sứ.” Chúa thượng? Chúa thượng chẳng phải là vua đấy sao? Tôi hít vào một hơi sâu, trống ngực đánh thùm thụp, trong đầu như vừa có một công tắc bật lên, lần lượt trình chiếu đủ các kịch bản phim cung đấu, những màn khóc lóc, đấu trí cực căng thẳng của các hậu phi. Lần xuyên không này coi như tôi gặp may lớn, ít nhất cũng có thể thấy được thứ đáng nhìn nhất Đại Cồ Việt này. Thử nói xem chúa thượng là ai cơ chứ? Người đứng đầu cả một quốc gia nhất định sẽ cực kỳ bệ vệ, uy phong! Tôi gật đầu, tự tán thành với chính mình. Phải tỏ ra thật ngoan ngoãn, tốt nhất đừng gây chú ý gì. Vừa lúc này có bóng người từ trong lều đi ra. Hai tên lính đột ngột cúi mặt quỳ phục xuống đất. Thấy tôi vẫn đứng trân trân một trong hai kéo tôi xuống, ấn đầu thỏ thẻ: “Cúi mặt!” Kế hoạch nhìn trộm chúa thượng đổ bể. Chúa thượng bước môt bước tôi lại cúi đầu thấp hơn vài phần. Y mặc áo đỏ, gấu áo viền đen, thắt lưng nạm bạch ngọc. Tôi cúi càng sát đất, người đó đi hài màu đen, chỉ vàng óng ánh, toàn thân toát ra mùi trầm nhàn nhạt. Tôi lo lắng đến quên thở, sợ nhỡ bị phát hiện điều gì bất thường thì chỉ e tôi sẽ chết bất đắc kỳ tử. Quả thực may mắn, chúa thượng đi thẳng về lều lớn phía Đông mà chẳng hề phát giác. Tôi thở phào, nhìn theo bóng lưng, có vẻ như người này này còn rất trẻ. Dáng người y cao lớn, vai rộng vả lại còn có vẻ rất… quen mắt? “Sao còn chưa mang đồ ăn vào?” - Tên lính đứng dậy trước đá vào chân tôi. Tôi ậm ừ, khệ nệ mang khay đồ ăn vào. Lịch Vũ đang ngồi trầm ngâm, trên bàn trải một tấm bản đồ lớn bằng da thuộc. Thấy tôi y gập bản đồ lại, đẩy sang một bên. Tôi toe toét: “Đô chỉ huy sứ, đến giờ ăn cơm rồi.” Lịch Vũ nhíu mày, tôi biết ngay mình nói lỡ lời. Ở thời kỳ cổ đại cách dùng từ hay nói chuyện có nhiều thứ khác biệt, nếu tôi cứ quen miệng như vậy thì sớm thôi sẽ bị phát giác điều bất thường. “Đô chỉ huy sứ, mời dùng bữa.” - Tôi sửa lại, cẩn thận đặt khay đồ ăn vào giữa rồi lui xuống bên dưới đứng chờ. “Đã nhận quần áo mới rồi?” “Dạ vâng!” - Tôi gật đầu lia lịa. “Ngày mai có một buổi cung khảo của binh lính, ta cần chuẩn bị sớm hơn thường lệ. Canh năm ngươi hãy qua đây hầu.” Canh năm là mấy giờ tôi còn chưa biết thì làm sao giúp Lịch Vũ chuẩn bị được nhỉ? Lòng băn khoăn là vậy nhưng chẳng dại gì mà hỏi lại y. Chỉ cần nghe qua ngữ điệu của Lịch Vũ thì có vẻ buổi cung khảo kia rất quan trọng, vậy thì cứ dậy thật sớm là xong. Nhân lúc trông Lịch Vũ có vẻ dễ chịu, tôi nhỏ nhẹ: “Chỉ huy sứ, người có thể cho Đam hỏi một câu không ạ?” Lịch Vũ im lặng, không phản đối tức là đồng ý, tôi liền mau miệng hỏi: “Là ai sáng hôm đó đã đưa Đam về trại ạ?” Lịch Vũ chẳng buồn ngẩng đầu lên, chỉ đáp lại ba từ cụt lủn: “Ta không biết.” Tôi đăm chiêu. Thế này thì chết dở. Ngày hôm đó tôi say quá nên nào có nhìn rõ, càng không nhớ chuyện gì đã xảy ra. Xuyên không thì thôi đi nhưng lúc đấy trên tay tôi vẫn cầm điện thoại. Nếu rơi ở thời hiện đại thì không nói làm gì nhưng lỡ mà tôi có tuột mất trong lúc lưu lạc ở đây thì phiền lắm. Chẳng may sau này các nhà khảo cổ tìm thấy hiện vật này thì sẽ trở thành tin chấn động địa cầu, huyên náo năm châu. Cách tốt nhất bây giờ vẫn là phải tìm ra người đã mang tôi về, hỏi cho ra nhẽ chuyện đầu đuôi hôm đó. Tôi liếc Lịch Vũ, y nhìn đĩa cá trên bàn mà sắc mặt sa sầm lại. Thôi chết, hỏng bét! Hẳn là lỗi của tôi. Mới nãy vẫn còn đang vui vui vẻ vẻ cơ mà. Vừa đi làm ngày đầu tiên mà để sếp đuổi việc thì coi như cuộc sống ở Đại Cồ Việt này của tôi cũng chấm dứt. Tôi nhanh nhảu chạy lại, lao tới bên vồ lấy đĩa cá trắm trên bàn. “Đô chỉ huy sứ bình tĩnh, để Đam nhặt xương cho người!” *** Chiều dần buông xuống. Những đám mây nhỏ nhoi vô định vội vã trôi trên bầu trời nhuộm một màu đỏ sẫm tuyệt đẹp của hoàng hôn. Một ngày đông nắng ấm hiếm hoi. Ráng chiều bao trùm lên bóng lều cô tịch. Sâu trong rừng già, cạnh những thân cây khẳng khiu trơ lá, điểm xuyết cạnh vòm cây lá nhuộm vàng ủ ê là những hàng hoàng đàn xanh sẫm rậm dày vẫn mạnh mẽ vươn lên. Khói bếp chờn vờn quyện vào làn mây bàng bạc từ đỉnh núi lan xuống. Đó đây bập bùng những ánh đuốc hồng, và rộn ràng tiếng ngựa dong từ bãi cỏ trở về, phủ phê sau một ngày nhẩn nha gặm cỏ. Một buổi chiều đẹp nhưng buồn đến lạ kỳ, buồn rầu đến rơi nước mắt vì đã hai ngày trôi qua mà tôi chưa được tắm. Đói cho sạch rách cho thơm nức, chứ chịu cảnh toàn thân hôi hám thế này áng chừng chưa tới bình minh ngày mai tôi chắc chắn sẽ phát điên. Bí mật quan sát, hôm nay trời hửng nắng ấm áp hơn thường lệ, binh lính trong trại từ thao trường về đổ ra sông Mã Phù đi tắm, tụ tập thành từ nhóm nhỏ từ dăm bảy đến cả chục người. Đương nhiên thân gái e thẹn như tôi nếu cứ thế tồng ngồng chạy ra hoà cùng đám người kia thì không ổn! Vậy là bộ não tội nghiệp lại phải ra sức làm việc, bày mưu tính kế. Tắm trong lều? Không ổn! Làm gì có nước? Tắm đêm? Tôi sợ đột quỵ. Hơn nữa còn bị lính canh phòng gô cổ như chơi. Nơi nguy hiểm nhất là nơi an toàn nhất! Nhân lúc nhập nhoạng tối ai ai cũng bận bịu tôi phải ra tay ngay. Buổi chiều tôi đã lén xuống bếp xin được một ít sả, một ít hương nhu bọc vào trong miếng vải nhỏ để thay cho sữa tắm. Mùi rượu trên người nồng thế này mà chỉ “tắm chay” với nước lã thì chẳng thấm vào đâu. Chẳng ngờ ngay khi vừa từ bếp đi ra tôi đã thấy Bạch Vỹ điệu bộ lén lút đi về phía núi sau trại lớn, trèo qua mấy mỏm đá, lòng vòng lên gần phía rừng nên đã lẳng lặng đi theo. Hoá ra ở đó có một con suối nhỏ trong vắt, vắng bóng người. Chẳng biết Vỹ làm gì ở đấy còn tôi vô cùng đắc chí. Hiếm có khi nào kể từ lúc tới Đại Cồ Việt mà lại có chuyện thuận lợi đến nhường này. Con suối chảy quanh co, nằm khuất hẳn sau một rặng chuối rừng cao lừng lững. Độ này đang giữa đông, chuối rừng nở hoa đỏ thẫm, hình dáng như búp sen, tựa lửa thắp lên giữa đại ngàn. Tôi trút bỏ quần áo, thử nhúng chân vào nước kiểm tra nhiệt độ. Nước trong nhưng lạnh, mất một lúc để cơ thể làm quen. Nếu tôi ước nước ấm hơn chút có phải là quá tham lam rồi không? Dù sao tìm được nơi vừa kín đáo vừa thoải mái như thế này thì nằm ngoài tầm mong đợi. Tôi vui vẻ sà xuống nước, thoải mái vừa vùng vẫy vừa ngửa cổ lên ngắm nhìn một mảnh trăng non tuyệt đẹp. “Ai đấy?” - Tiếng đàn ông từ phía bên kia suối vọng lại làm tôi thất kinh, tưởng chừng tim đã rớt ra khỏi lồng ngực. Cố gắng giảm sự tồn tại của mình đến mức nhỏ nhất, tôi đứng im nghe ngóng tình hình. Bây giờ nên đứng im hay tôi phải làm gì khác? Trong tình trạng trần như nhộng thế này tôi sẽ chết vì xấu hổ trước khi bị chặt đầu. Tôi hít sâu một hơi, cố gắng động não, cuối cùng như bao tình tiết trên phim truyền hình, tôi “Meo” một tiếng giả mèo. Lại thêm chừng mười giây im lặng, người bên kia gằn giọng: “Mèo rừng sao chỉ kêu một tiếng?” “Meo meo.” - Tôi lập tức sửa sai. Giá như tôi đủ tỉnh táo để biết rằng dù mèo rừng hay mèo nhà, nó kêu mấy tiếng là việc của nó. Đến khi biết mình dính bẫy tôi một mạch hụp sâu xuống nước rồi bơi vào bờ ôm lấy quần áo, ra sức mặc vào. “Ai?” - Phía bên kia lặp lại câu hỏi, xem chừng đã mất hết kiên nhẫn. “Ngươi là ai mà hỏi ta là ai?” - Tôi cứng giọng, không nhìn thấy người hỏi mình mà chỉ biết có tiếng nói vọng lại từ phía đầu nguồn. Hai bên ngăn cách với nhau bởi một đám lau trắng rậm dày. Tôi nấp càng lúc càng sâu, lẩn vào khúc quanh của con suối. Trời ơi sao vận xui cứ đổ vào đầu tôi thế này? Tôi chỉ muốn an bình tắm một cái cho sạch sẽ cũng không được hay sao? “Suối này mà ngươi cũng dám tắm?” - Hắn hỏi bằng giọng mỉa mai. Tôi vừa hối hả mặc đồ vừa gào to lên: “Ta sợ gì mà không tắm? Ngươi tắm được thì ta cũng tắm được. Suối là của chung làm như của mình nhà ngươi không bằng?” “Ngươi mau sang đây cho ta!” - Người kia lạnh giọng. Đầu tôi bắt đầu nảy số, khẽ nhếch miệng cười, giọng điệu vờ vịt: “Ta chưa mặc quần áo, hay cứ để như vậy sang gặp ngươi?” “Lưu manh!” - Bên kia chửi một tiếng rồi im bặt. Thật dễ bị lừa, tôi cười khẩy. Mặc xong quần áo nghiêm chỉnh, tôi chầm chậm tiến gần vén mấy cây cỏ voi cao ngồng, thong thả đi về phía suối bên đó. Ái chà chà, tôi thảnh thơi tiến lại gần, một tay làm bộ đang vuốt râu, một tay giấu phía sau lưng. Còn tưởng ai đáng sợ lắm nhưng hoá ra chỉ là một chàng trai trẻ cỡ mười tám đôi mươi, dáng người to lớn, vai cuồn cuộn, tóc búi cao. Trên ngực và lưng y chằng chịt những hình xăm mà tôi nhìn chẳng rõ, chỉ cơ hồ thấy thân thể rất đẹp, rất cường tráng. Tôi tiến lại gần người kia trừng trừng nhìn lại. Lông mày rậm, đôi mắt đen sáng, ngũ quan hài hoà, rất hợp ý tôi. “Cũng không tệ nhỉ?” - Tôi vừa cười nói vừa giả lả lại gần. Nếu có một chiếc gương soi bây giờ, chắc chắn trông tôi sẽ có điệu bộ của một tên sở khanh đang trêu ghẹo gái nhà lành. Nói gì thì gì, đàn ông trong doanh trại so với những anh gymer tôi thường gặp cơ bắp có thể ít hơn một chút nhưng khí chất đều bất phàm không thể trộn lẫn. Người kia nhìn vẻ bỉ ổi của tôi, giọng lạnh tanh: “Còn không mau quỳ xuống?” “Quỳ à?” - Tôi cười ha hả. Trông tôi hiền lành nhưng không phải loại người dễ bị bắt nạt. Vẫn với điệu bộ tiểu nhân đắc ý tôi áp sát y mà không hề có ý định dừng lại. “Hỗn xược! Ngươi có biết ta là ai không?” - Tên trai trẻ kia vẻ mặt căng thẳng nhìn tôi. Tôi lắc lắc đầu tỏ vẻ vô hại: “Thế ngươi biết ta là ai không?” Người kia im lặng không đáp. Hê hê, bí rồi chứ gì? Dù sao hắn cũng không biết tôi là ai, tôi nhanh như chớp ném hòn đá lớn giấu sau lưng xuống suối. “TỦM” một tiếng lớn, nước bắn tung toé khắp nơi. Tôi cười phá lên rồi lủi đi thật nhanh như cơn gió. Người kia nhất thời không phản ứng kịp, đến khi tôi chạy đến giữa con dốc mới nghe tiếng hắn gầm lớn: “Đừng để ta gặp lại ngươi!” Gì chứ tôi cũng không có ý định gặp lại hắn. Tiểu nhân đắc ý, ném đá giấu tay tôi là số một! *** Mặt trời lặn thì quân lính trên thành đánh một hồi ba tiếng trống thu không(5), mọi công việc trong ngày sẽ tạm dừng. Áng chừng khoảng bảy giờ tối trong trại sẽ đánh thêm hồi trống nữa, lúc này được xem là canh một. Thời kỳ cổ đại thì mỗi ngày có mười hai canh giờ, tính trung bình thì một canh bằng hai tiếng. Nếu lấy bảy giờ làm mốc thì canh năm mà Lịch Vũ nói sẽ vào khoảng ba đến năm giờ sáng. Gà chưa gáy tôi đã dậy, tất tả dọn dẹp bưng nước, chuẩn bị giáp, cung, kiếm mang đến tận bàn, hầu Lịch Vũ mặc. Hẳn là chỉ khi nào quan trọng lắm mấy bộ giáp này mới được sử dụng. Khoan nói đến tính an toàn, tôi vừa khiêng vừa ôm, loay hoay mãi mới có thể giúp y mặc bộ áo giáp nặng trịch kia lên người. Bình thường Lịch Vũ vốn đã rất cao, phong độ, nay khoác thêm chiến bào, hông đeo kiếm, ánh mắt vừa chính trực vừa kiên định, khí thế bức người khiến tôi không nhịn được mà thầm tán thưởng trong lòng. Mặt trời vừa mọc tôi lẽo đẽo theo Lịch Vũ ra thao trường. Bấy giờ binh lính đã đứng chật như nêm, hàng lối thẳng tắp. Quân nhân cho dù là thời kỳ nào đi chăng nữa thì tác phong cũng luôn chuẩn chỉ. Lịch Vũ đi trước, tôi đi sau năm bước, hai tay chắp trước ngực đúng chuẩn người hầu ngoan ngoãn lễ độ trong phim ảnh. Thao trường là một khoảng đất rộng mênh mông, thường thì chỗ này là nơi tập trận của binh lính nay được sắp xếp gọn gàng, chuẩn bị cho kỳ cung khảo. Đóng quân vây thành lâu, tránh để việc võ bị bị mai một, thi thoảng những kỳ tổng tập trận hoặc đấu kiếm, đấu võ vẫn được tổ chức. Kỳ này thi bắn cung, ấy là cung khảo. Lịch Vũ ngồi chưa ấm chỗ thì một người tay cầm chiêng, hông giắt cái cờ đỏ bước lên phía trước, gõ boong boong liền ba tiếng, lập tức toàn quân quỳ xuống thi lễ. Tôi dáo dác nhìn trước ngó sau. Đô chỉ huy sứ đã ở đây, lẽ nào còn có người khác đến? Liền đó từ xa xuất hiện một đoàn người che lọng tía vô cùng khoa trương. Cậu trai cầm chiếc lọng cao nhất kia chẳng phải chính là Bạch Vỹ hay sao? Chà chà, để xem nào, nếu Bạch Vỹ ở đây thì chẳng lẽ người dẫn đầu kia… là chúa thượng? Trong nắng đông nhàn nhạt, người đứng đầu Đại Cồ Việt mặc một chiếc áo đỏ, kế sau là quân tuỳ tùng xếp hàng dài. Dáng người y cao lớn, tuổi chắc chỉ vừa đôi mươi, nước da nâu bánh mật, nổi bật lên trên tất cả là đôi mắt đen sắc lạnh, kiêu ngạo. Chúa thượng tiến tới gần, tôi nuốt nước bọt, không phải vì y quá điển trai mà hình như trông rất quen mắt. Đến khi chúa thượng chỉ còn cách chưa đến mười bước chân, yên vị trên chiếc ghế rồng tôi mới len lén nhìn trộm. Ngay khoảnh khắc đôi mắt ngây thơ của tôi bắt gặp cái nhìn lạnh lùng, kiêu ngạo kia thì bầu trời trước mặt như sụp đổ. Tôi xây xẩm mặt mày, lảo đảo mấy bước. Tôi nhìn chúa thượng, chúa thượng nhìn tôi, bốn mắt nhìn nhau vừa vặn lại chính là đôi mắt của người đàn ông bên bờ suối bị tôi trêu ghẹo. “Cũng không tệ nhỉ?” - Y nhắc lại tròn trĩnh đúng bốn từ hôm qua kèm theo một nụ cười độc địa. Tôi không nghe gì hết, chỉ thấy “Đoàng! Đoàng! Đoàng!” bên tai. Ngực đột ngột đau nhói như vừa bị ai thụi vào, chỉ hận không phun ra được một ngụm máu tươi. Đời là bể khổ, qua được bể khổ thì tôi cũng qua đời. ______ Chú thích: (1) thư trai: Buồng học. Phòng đọc sách. (2) môn sinh: Người học trò. (3) mi thanh mục tú: Lông mày dài nhỏ, mắt đẹp, chỉ diện mạo đẹp đẽ. (4) VVIP - (very very important person): nhân vật/ người cực kỳ quan trọng, quan trọng hơn cả VIP. (5) thu không: Hiệu chuông hoặc trống báo hiệu soát xét không có kẻ gian hoặc việc lạ trong thành khi trời gần tối. Chương 4: Tiểu nhị, dâng trà Trên thao trường có một trụ gỗ cao vút, đỉnh gắn lá cờ đỏ sậm, dễ thường đứng dưới mặt đất vào một ngày nắng oi chẳng thể nhìn ra được. Người cầm chiêng bước lên trước gõ “boong boong” ba tiếng, rút cây cờ hiệu giắt bên hông ra rồi phất mạnh. Liền đó một binh lính cúi đầu thấp, dâng lên cây cung hai đầu bọc vàng, thân gỗ vân đều như sóng nước, màu hung hung đỏ, bóng loáng. Chỉ cần nhìn liếc qua cũng biết đây chắc chắn là thượng phẩm. Vị chúa thượng với đôi mắt sắc lạnh kia nhẹ nhàng đứng dậy, lướt tay qua những mũi tên nhọn hoắt, sáng bóng. Thoắt cái tên đã được giương lên, dây cung căng đến cực độ, mũi tên chĩa thẳng về phía tôi. Nếu biết trước người tối qua là vua tôi sẽ vừa dập đầu vừa bò lùi chứ không dám cả gan trêu người. Tôi lấm lét nhìn mũi tên đang nhằm giữa mặt mình mà sợ đến mức hai đầu gối nhũn ra, cả người mềm oặt, run rẩy. Tôi bám chặt vào ghế của Lịch Vũ, vừa đứng vững đã tuột xuống vì bàn tay ướt rịn mồ hôi. Lịch Vũ phát giác ra điều bất thường, nghiêng người về phía sau hỏi nhỏ: “Đam, có chuyện gì?” “Dạ bẩm..m…” - Tôi hít sâu vào một hơi những mong bình tĩnh hơn nhưng vô ích. Hai hàm răng va vào nhau nghe rõ những tiếng lộp cộp - “Hôm qua… Đam có lỡ dại trêu một người mà không biết đó là… chúa thượng.” - Lời cuối bật ra khỏi môi cùng tiếng nấc nghẹn ngào. Tôi biết rất rõ ràng, cuộc đời này có lẽ cũng chỉ đến đây là chấm dứt. Lịch Vũ hơi sững lại, thở dài: “Giữa ba quân(1) chúa thượng sẽ không vội giết ngươi. Chí ít còn sống thêm được một lúc nữa.” Câu nói kia chẳng những chẳng có giá trị an ủi gì mà còn khiến trái tim non nớt của tôi thấp thỏm lo sợ hơn vạn phần. Tên Đô chỉ huy sứ này đích thị là chẳng tốt đẹp gì cho cam nhưng ít nhất y nói đúng. Vị chúa thượng kia vốn đang chĩa thẳng cung về phía tôi, bấy giờ mũi tên dần nhích lên, hướng về phía bầu trời cao vời vợi. Tôi chưa kịp định thần thì nghe “vút” một tiếng, tất cả mọi thứ như ảo ảnh vụt qua. Mũi tên lao đi, găm thẳng vào giữa ngọn cờ đang phần phật bay trong gió. Cả ngàn quân lính trầm trồ, thao trường ngập tiếng ngợi khen. Chúa thượng chỉ tay về phía trụ, nói lớn: “Người hạ được tên đó xuống được ban Thiết Mao Cung.” Vừa dứt lời binh sĩ như được tiếp thêm hào khí, tiếng hô vang lại càng to, rõ hơn bao giờ hết. Người cầm chiêng tiến lên phía trước, gõ liên tiếp ba tiếng “boong, boong, boong” báo hiệu kỳ cung khảo chính thức bắt đầu. *** Lần cung khảo này gồm tất thảy bốn vòng, ngoài việc để kiểm tra đốc thúc binh lính còn là dịp để khích lệ lòng quân. Có nhiều loại hồng tâm được chuẩn bị sẵn, tương ứng với mỗi vòng. Hai vòng đầu là hồng tâm tĩnh, vòng thứ ba là hồng tâm động. Hồng tâm động được treo thành một hàng hai mươi lăm cái, tổng cộng hai hàng, đầu dây có người kéo di chuyển liên tục. Mỗi binh lính được ban hai ống, mỗi ống có hai bó, mỗi bó có mười tên. Vòng thi đầu tiên là yêu cầu căn bản nhất của binh lính, bắt buộc phải trúng được tối thiểu mười lăm trên hai mươi hồng tâm, những người đạt yêu cầu coi như đủ tư cách để chính thức dự thi cung khảo. Cả doanh trại từ trên xuống dưới phải tới mấy ngàn người song đây có vẻ như là kỳ thi dành riêng cho đội quân tinh nhuệ. Vòng một chỉ chưa tới trăm người, cũng ít ai bị điểm liệt. Hai vòng thi đầu diễn ra tương đối nhanh. Một phần là vì vòng sơ khảo nên không quá khó khăn, một phần vì tác phong của nhà binh ai nấy đều nhanh nhẹn. Sang đầu giờ Thìn đã chỉ còn mười người xuất sắc nhất ở lại. Bấy giờ mũi tên bắn hỏng rơi xuống kín đen khắp mặt đất. Người nào người nấy nhễ nhại mồ hôi, dù cho tiết trời Phù Lan lúc này vẫn lạnh căm căm đến cắt da cắt thịt. Chỉ cần tinh mắt một chút đều có thể nhận ra mấy người kia dù có tỏ vẻ oai phong đến mấy thì bàn tay vẫn đang run lên bần bật. Đương nhiên không phải do lo sợ, tôi cho là vậy. Chí ít thì đám binh lính đấy đâu có phạm phải tội lỗi tày trời như tôi? Nhưng chung quy lại phải bắn tên liên tục suốt mấy canh giờ trong tiết trời khắc nghiệt, việc kéo căng dây cung cộng với thao tác bắn tên chắc chắn đã khiến không ít người khốn đốn. Chỉ tính riêng vòng hai đã có tới tận ba binh lính tứa máu tươi ướt cả bàn tay trong lúc thi đấu. Với tình hình như vậy thì việc bắn trúng hồng tâm động ở vòng thi thứ ba khó càng thêm khó. Xem ra vị chúa thượng kia không đơn giản. Khả năng để tôi đối phó với một người vừa có quyền thế lại vừa có thực lực như y chắc chắn là con số âm. Tôi hít vào một hơi sâu, đứng lùi mấy bước nấp sau Lịch Vũ, cố gắng để giảm sự tồn tại của mình đến mức thấp nhất. Trước mặt tôi Lịch Vũ nghiêm túc nghị sự cùng chúa thượng, toàn là những ngôn từ khó hiểu mà dù có dỏng hai tai lên tôi cũng hoàn toàn mù đặc. Chỉ biết rằng chốc chốc họ nhìn về hướng mấy thí sinh đang lũ lượt thể hiện, biểu cảm vô cùng khó đoán. Ở vòng thi thứ ba, hồng tâm được cố định vào dây thừng, móc nối với hệ thống tương tự như ròng rọc. Đầu dây có lính kéo hồng tâm di chuyển liên tục từ trái qua phải rồi đảo chiều liên tục, không theo quy tắc hay chu kỳ nào cụ thể. Để chiến thắng thì những người dự thi kia không chỉ cần có thị lực tốt mà khả năng chính xác cũng phải cực cao. Đám chục người đàn ông cao lớn lực lưỡng ra sức thể hiện. Dáng đứng bắn cung ai nấy đều uy vũ(2) hiên ngang. Những mũi tên xé toạc gió sương, vun vút bay trong tầng không mờ mịt. Tên trượt khỏi hồng tâm, lao xa một đoạn nữa rồi rơi xuống đất. Lính đứng bên phất cờ báo lần bắn hỏng, một lần rồi một lần, tim tôi như vừa bị bóp nghẹt. Qua thêm lúc lâu nữa, thao trường im phăng phắc, chẳng ai dám ho he thảo luận hay dô hò gì thêm nữa. Mãi cho đến khi nhóm ba người cuối cùng tiến lên, ngay lần bắn đầu tiên đã lần lượt trúng hồng tâm động, tiếng reo vỡ ra như tiếng mưa mùa hạ, rào rào xối xả tưới ướt đẫm những nỗi mong chờ cạn khô. Quả thực ba người đấy là người tài, không chỉ trúng hồng tâm động mà còn đều xếp đầu bảng trong vòng thi thứ ba. Cũng vì lẽ đó họ đương nhiên trở thành tốp thí sinh cuối cùng tiến vào vòng thi cuối. Bấy nhiêu vòng cung khảo nhẽ ra là xong rồi, vòng này chẳng qua là tìm ra người xuất chúng nhất, tôi cho là vậy. Hạ được lá cờ trên đỉnh cột kia xuống mới coi như là trạng nguyên của kỳ cung khảo. Tôi ngẩng đầu lên cao, cao mãi, nhìn lá cờ bé tẻo teo trên đỉnh cột, không nhịn được nữa mà lắc đầu ngán ngẩm. Trúng được mục tiêu bé như con kiến kia thì mới là lạ. Nghĩ đến đây tôi quay sang, trộm nhìn vị chúa thượng kia một cái. Chỉ với mũi tên đầu tiên và duy nhất y đã có thể bắt trúng, đòi hỏi cao với kẻ dưới không phải không có tư cách. Tôi nhớ lại hành động mình bị cung tên chĩa vào đột nhiên cảm giác bất an trỗi dậy, quay sang thỏ thẻ hỏi Lịch Vũ: “Bẩm Đô chỉ huy sứ, nếu không có ai bắn trúng thì sao?” “Thì chúa thượng hôm nay rất không vui, ngươi nên lo cho cái đầu của mình đi!” Tôi nín thít, mồ hôi vã ra như tắm. Chợt thấy cảm giác rờn rợn phía sau gáy, tôi run run quay đầu nhìn. Ánh mắt ngây thơ hồn nhiên của tôi vô tình va phải cái nhìn sắc lạnh tựa diều hâu săn mồi của vị ngồi phía trên, ngay lập tức tứ chi của tôi căng cứng, đầu rụt vào như một con rùa. Tôi cúi gằm mặt, cả người xây xẩm rồi từ từ mềm oặt ra như cọng bún. Tôi cố tỏ ra can trường, đứng thẳng nhìn về phía trước. Lạy tất cả các đấng tối cao dù tôi không theo đạo, chỉ mong lần này, lần này thôi sẽ có người bắn trúng. Nếu được vậy tôi nguyện đánh đổi măn mắn cả đời của mình, không dám mưu cầu gì hơn nữa. Nhưng có vẻ lời khẩn cầu của kẻ hèn mọn này chẳng thể thấu trời xanh. Trước lúc vòng thi cuối cùng bắt đầu thì các ống tên được dâng lên. Mỗi ống vỏn vẹn ba mũi tên, thân màu đen lông vũ nhuộm đỏ, đựng trong một ống tre già to bằng bắp chân. Thôi thì dù khó song tôi biết tiễn pháp của mấy người đứng bên dưới cũng không hề tầm thường. Nổi bật nhất là người có mái đầu bạc trắng kia, anh ta họ La tên Đạc, đứng đầu vòng thi hồng tâm động. Kế đến là một ông chú già khằn(3) cỡ bốn mươi tên Lê Sương và người đàn ông đen như cột nhà cháy, tên là Trần Chất đều suýt soát điểm nhau ở vòng thi vừa rồi. La Đạc tiến lên phía trước ba bước, đi liền phía sau là người cầm khay đựng ống tên. Ngay khi La Đạc vươn tay, lấy mũi tên với lông đuôi đỏ au như máu, một con rắn bất ngờ từ trong ống tre lao ra, chớp mắt đã lao tới ngoạm chặt lấy tay y. Cả thao trường sững sờ. Liền đấy người đứng bên cạnh tuốt kiếm, một đường chặt con rắn làm đôi, máu bắn thành vệt dài trên nền đất. Xung quanh nhốn nháo, binh lính chen dần lên phía trước để nhìn rõ sự vụ xảy ra. Người tên La Đạc kia ban đầu trông có vẻ không hề hấn gì nhưng rất nhanh, y lảo đảo rồi ngã vật ra đất, khuôn mặt hiện rõ sự đau đớn khôn tả. “Gọi quân y tới! Mau! Mau lên!” - Tiếng người bên dưới khẩn thiết. Nơi đây rừng thiêng nước độc, rắn rết chẳng phải là chuyện hiếm hoi gì song nếu khiến cho những chiến binh trở nên gấp gáp như vậy hẳn có nguyên do. Ý niệm duy nhất trong đầu tôi lúc này là người đàn ông kia phải sống. Tôi nhìn quanh, nhanh tay giật lấy ly trà trên tay Lịch Vũ. Hành động thất thố khiến không chỉ y mà cả những người xung quanh sửng sốt. Giờ phút này làm gì có chỗ cho lễ nghi quy tắc? Còn chần chờ chỉ e họ La kia không toàn mạng. Tôi chạy vụt đi trước khi bị ai khác cản lại, trong chớp mắt đã xuống tới thao trường. “Tất cả tránh ra!” - Tôi thét lớn, đám người thấy thư đồng của Đô chỉ huy sứ liền tự động rẽ sang hai bên. Tôi đặt tách trà bên cạnh, quỳ hẳn xuống, đưa tay lên ngực giữ La Đạc nằm im, nhỏ giọng trấn an - “Đừng sợ, anh có đau không?” Đạc gật đầu, tôi tiếp lời: “Nếu cử động mạnh độc sẽ lan nhanh hơn.” Nghe lời tôi Đạc thôi vật vã nhưng cắn môi thật chặt. Trên trán hằn rõ những đường gân xanh. Mái tóc bạc trắng của anh ta ướt rịn mồ hôi. Tôi cúi xuống thấp, cẩn trọng quan sát vết thương. Chỉ nhìn hình dáng để phân biệt các loại rắn, con nào độc con nào không với tôi mà nói quả thực rất khó khăn, dẫu vậy quan sát vết thương rắn để lại nhằm biết đường xử trí thì tôi biết. Với vết thương có hình chữ V mổ từ trên xuống, hai dấu răng còn rất rõ như thế này tôi khẳng định chắc chắn con rắn kia có độc! “Rắn độc. Rắn độc” -Tôi lẩm nhẩm chỉ đủ để bản thân nghe thấy, bàn tay đặt trên ngực La Đạc cũng run theo. Giữa tình thế ngàn cân treo sợi tóc, tôi với tay tháo dải khăn đỏ cột trên tóc thay garo(1), cố định ở phía trên vết cắn ngăn độc chảy vào tim. Nếu vẫn còn sống ở thời hiện đại thì chưa chắc tôi đã dám dùng cách này bởi lẽ khi được chuyển tới viện, bác sĩ tháo garô hay chính dây vải cột tóc kia sẽ khiến độc tố sẽ ùa ra, nhanh chóng lan đến tim gây nguy hiểm khôn lường. Đặt garo là biện pháp rủi ro cực lớn. Sơ sẩy chút ít thôi thì rất có thể tôi phải dùng mạng đổi mạng. La Đạc khò khè khó thở, cả tay và chân đều dần dần duỗi thẳng ra. Vết thương hơi sưng nề và bầm tím. “Mùi lạ quá… Lạ quá.” - Đạc cố gắng ra dấu chỉ vào miệng mình. Giọng nói ngắt quãng càng về sau càng không tròn vành rõ chữ. Miệng anh ta có vị lạ sao? Tôi hốt hoảng chẩn mạch, hỏi thêm: “Anh có ngứa không?” La Đạc dường như chẳng thể gắng gượng hơn được nữa, chỉ chớp mắt thay câu trả lời. Tôi lo lắng. Y có dấu hiệu khó nói, yếu chân tay. Hai mắt thì thấy y đã bắt đầu sụp mi, mờ mắt, miệng há không được. Hẳn con rắn kia thuộc họ rắn hổ, rắn hổ cắn sẽ gây ra các triệu chứng về thần kinh mà ở đây Đạc lại có đầy đủ cả. Lúc này bầu trời phía trên như vừa tối sầm lại, bóng người cao lớn phủ lên phía trước tôi. Tôi ngước mắt, hoá ra là chúa thượng cùng Lịch Vũ vừa vặn đi tới. “Đam! Ngươi làm gì đấy?” “Cứu người.” - Tôi đáp gọn lỏn, nhanh tay với xuống dưới tháo bỏ thắt lưng và nới lỏng cổ áo của Đạc ra. “Chờ quân y đến đi.” Dù vừa đến doanh trại song tôi biết rất rõ quân y ở lều ngay gần lều chúa thượng, nơi đó vốn cách xa thao trường. Dù có nhanh cách mấy chăng nữa thì bằng ấy thời gian chỉ e rằng cái mạng của La Đạc sẽ khó mà bảo toàn. “Không kịp mất.” - Tôi chẳng thèm đoái hoài lời Lịch Vũ nói, cẩn trọng dùng hai phần ba ly trà đổ vào vết thương. “Trà? Sao đổ trà vào? Ngươi biết mình đang làm gì không?” - Tên lính cầm chiêng hốt hoảng hỏi tôi. Tôi không trả lời mà đúng hơn cũng không có nghĩa vụ phải trả lời. Lúc này ưu tiên trước nhất là người bệnh. Tôi đảo mắt tìm xung quanh. Tôi cần một vận đủ nhọn, đủ sắc. Kiếm? Quá to. Phải vừa vặn để tôi có thể thực hiện hành động có tính chính xác cao, sạch sẽ, gọn gàng. “A! Chính là nó!” - Tôi reo lên khi thấy con dao chuôi bạc sáng loá giắt trên hông của người mặc áo đỏ. Tôi vươn tay giật lấy. Người đó ngỡ ngàng mất mấy giây rồi theo phản xạ giật lùi lại. Thật may là tôi đã nhanh tay hơn giành được con dao, mau mau chóng chóng rạch rộng vết cắn hình chữ thập (+) trên tay La Đạc. “Phải thật cẩn thận, cẩn thận…” - Tôi nín thở, niệm thần chú trong lòng. Vết rạch có độ sâu qua da đến cơ chảy máu là được, nếu không lỡ tay mạnh quá sẽ làm đứt dây thần kinh thì coi như người này không tàn cũng phế. Lúc này đám người vây xung quanh cũng thôi xì xào bàn tán, dường như nín thở dõi theo. Cứ mỗi một lúc mũi dao di xuống, da thịt tách làm đôi, máu tứa ra tôi lại nghe tiếng người hít sâu liên tục. Bạch Vỹ đứng bên dường như nhịn không nổi liền tiến lên phía trước, quát: “Y thuật cổ quái gì, mau đợi quân y đến! Ta chưa thấy ai dùng trà trị rắn cắn cả.” Máu đen rỉ ra, tôi lau mồ hôi trên trán mình, nhẹ giọng: “Trong trà chứa tanin giúp rửa sạch vết thương và tiêu giải một phần độc tính. Trong trường hợp dùng miệng hút chất độc thì trà sẽ làm sạch khoang miệng.” Dứt lời tôi cúi xuống hút máu độc trên tay La Đạc, nhanh đến mức không ai ở thao trường kịp cản. Máu tươi lọt vào khoang miệng, mùi tanh nồng xộc lên như muốn làm ngạt tất cả các giác quan. Tôi dằn lòng nhịn xuống cảm giác buồn nôn đang ngày một mãnh liệt, ngẩng đầu, nhổ ra một ngụm máu đen. “Đam, dừng lại, đợi quân y đến!” - Lịch Vũ can ngăn. Tôi bỏ ngoài tai mấy lời của “chủ nhân” mình, tiếp tục công việc dang dở. Tiễn Phật tiễn đến Tây Thiên. Dù sao cũng đã “nhúng chàm”, việc hút độc một lần với mười lần thì có gì khác nhau chứ? Biết vậy tôi chuyên tâm làm việc của mình. Mãi cho tới lần thứ bảy, thứ tám thì máu đen mới ngưng bớt, thay vào đó là máu đỏ tươi được nhổ ra. Thêm mấy bận nữa tôi mới yên tâm dừng lại, quay tìm tách trà nhưng không thấy. Lúc này từ phía sau có người đưa lên một tách trà đầy. Tôi không nghĩ ngợi gì nhanh nhảu nhận lấy, mau mau chóng chóng súc tráng miệng rồi nhổ ra, đưa tay trả cái tách rỗng về rồi lại xem xét một hồi, cúi sát xuống thì thầm: “Anh tên gì? Có thể nói cho tôi không?” Người kia đã tỉnh táo hơn chút ít, dùng giọng rất nhỏ đáp lại tôi: “La… Đạc.” Tôi gật đầu, xác nhận câu trả lời chính xác. Y đã có khả năng nhận thức, tay bắt mạch miệng hỏi thêm: “Đã đỡ hơn chưa?” La Đạc môi tím bầm, hai mắt sụp mi từ từ mở ra, gật đầu nhẹ không nói. Vừa vặn một binh lính đưa theo vị quân y già tay xách hộp thuốc rẽ đám đông tiến vào. Tôi nhanh nhảu tóm tắt lại sự việc: “La Đạc, nam, bị rắn độc cắn, nghi ngờ là rắn hổ. Tạm thời tôi đã rửa qua vết thương và hút chất độc ra, tình hình trước mắt tạm ổn. Nếu trong doanh trại không có sẵn thuốc trị bệnh người có thể sai người tìm cây sắn dây tươi, giã lấy nước uống. Phần bã đem bỏ chung cùng bốn, năm lá sắn dây nữa, giã nát ra rồi lấy đắp vào vết cắn kia.” Vị quân y nhìn tôi nửa hồ nghi nửa sửng sốt. Tôi toan đứng dậy để ông thế chỗ thì đột nhiên thấy toàn thân nôn nao khó thở, hai mí nặng trĩu không mở ra được. Lúc này chân trái đột ngột khuỵ xuống, cả người như vừa bị bỏ lên đu quay xoay liên tiếp mười ngàn năm trăm vòng, cứ thế đổ rạp. Tôi ngã lăn ra đất, trước lúc lịm đi chỉ mơ hồ thấy người phía sau lưng vẫn đang cầm tách trà ban nãy. Lúc này bộ não nhỏ bé của tôi bỗng dưng xuất hiện một câu thoại kinh điển trong phim Tàu. Tôi mấp máy môi: “Tiểu nhị, dâng trà”. Liền ngay sau đó tôi lịm hẳn đi. Bóng hình “tiểu nhị” kia sừng sững trước mắt duy chỉ có điều y phục sức vô cùng tráng lệ, hơn nữa còn là màu đỏ viền đen. Chú thích: (1) ba quân: ba đạo quân hoặc ba cánh quân lớn (tiền quân, trung quân và hậu quân, hoặc tả quân, trung quân và hữu quân); chỉ tất cả binh sĩ dưới quyền chỉ huy của một viên tướng, nói chung. (2) uy vũ: (威武) vẻ mạnh mẽ đáng nể sợ. (3) già khằn: (Phương ngữ) già đến mức người như khô tóp đi (hàm ý chê). (4) garo: là biện pháp cầm máu tạm thời bằng dây cao su hoặc dây vải xoắn chặt vào đoạn chi nhằm làm ngừng lưu thông máu từ phía trên xuống phía dưới của chi. Chương 5: Làm trâu làm ngựa Nhà tôi ba đời theo nghề bốc thuốc, đến đời bố tôi lấy mẹ thì là bác sĩ khoa ngoại. Một người là Phó giáo sư giảng dạy tại học viện y học, một người là bác sĩ ngày đêm túc trực bệnh viện trong những ca phẫu thuật không hồi kết. Có thể xem như tôi sinh ra trong một gia đình gia giáo có điều kiện song không rõ do xung đột về y học cổ truyền - y học hiện đại hay công việc bận rộn, tính cách không phù hợp mà năm tôi bảy tuổi, bố mẹ ly hôn. Mẹ tôi - người phụ nữ dành cả đời cho khoa học, với bà gần như nghiên cứu y học mới là điều quan trọng nhất. Ít lâu sau khi ly hôn, bà rời Việt Nam qua Nga sinh sống, giảng dạy và làm việc. Bà không đi thêm bước nữa nhưng cũng hiếm khi về thăm tôi. Đều đặn mỗi năm một lần, trước sinh nhật một tuần mẹ tôi sẽ bay về Việt Nam và ở lại trong sáu ngày. Đó cũng là dịp duy nhất trong năm tôi và mẹ trò chuyện với nhau. Những ngày còn lại nếu tôi nhớ mẹ ư? Đơn giản thôi, số nghiên cứu khoa học hay sách đề tên bà đủ cho tôi đọc đến mức có thể quên đi chính mình nữa là nỗi buồn tầm phào trẻ con kia. Cũng từ năm bảy tuổi những ngày không có ai trông nom chăm sóc, bố đưa theo tôi lên giảng đường. Thường thì tôi có một bài toán rất khó bố giao mà giải cả ngày chẳng xong, hoặc một thế trận cờ vua đi kiểu gì cũng bại. Những thứ đó dần già chẳng đủ sức giữ chân tôi. Tôi theo lên những lớp bố dạy, yên tĩnh ngồi một góc cuối phòng học. Gần như tất cả các trang giáo án, các bài thuốc, các nội dung giảng dạy của bố tôi đều thuộc không sót một chữ. Nếu chán quá tôi sẽ bỏ qua lớp khác, lại bắt đầu vòng lặp “lắng nghe” - “thuộc làu” - “tìm lớp khác”. Các giảng viên trong trường không ai không biết mặt tôi nhưng cũng chẳng ai buồn đuổi. Một phần vì quen biết bố, một phần vì tôi khá yên tĩnh mà so ra, so với một con ong con muỗi trong lớp có lẽ cũng chẳng chênh lệch nhiều. Bà nội mở một tiệm thuốc đông y lớn trong thành phố, đã truyền tới thời thứ ba. Tiệm thuốc theo gia đình từ suốt những ngày chống Pháp, chống Mỹ rồi đến lúc hoà bình lập lại, nức tiếng xa gần. Bà tôi là một người hồn hậu, người xa tới bốc thuốc thì khen ngợi, người ở gần bệnh liệt giường thì bà tới tận nơi, ai nấy nể trọng giữ lễ. Ngày bé tôi không có búp bê quần áo sặc sỡ, bố mẹ chỉ mua sách đủ loại. Những ngày nhàm chán tôi lẻn xuống tiệm thuốc của bà, len lén trộm kỷ tử, đại táo hay cam thảo ăn một mình. Cũng có khi giả vờ gõ cộc cộc vào từng ô thuốc, thử đoán xem là gì phía bên trong. Tôi đương nhiên biết thừa, chỉ có điều tưởng tượng ra có thêm một người không biết để chơi cùng thì sẽ vui hơn. Lớn thêm chút nữa tôi học được chút kỹ thuật bắt mạch. Khi chân bà yếu tôi cũng được phép đi theo, cùng bà tới thăm những bệnh nhân ốm nặng. Trong mắt mọi người tôi là đứa trẻ thông minh hiểu chuyện, tương lai nhất định kế nghiệp gia đình, chữa bệnh cứu người, hành y tích đức. Vốn dĩ tôi cũng nghĩ vậy. Năm tôi mười bảy tuổi, bố tôi gặp scandal(1) tình ái với sinh viên của mình. Điều quan trọng là cô gái kia chỉ hơn tôi đúng một tuổi. Khoảnh khắc nhận được tin ấy bầu trời trong mắt đứa trẻ mười bảy tuổi là tôi vỡ vụn. Tượng đài người cha vĩ đại trong bấy lâu nay nứt toác ra rồi đổ sụp xuống, phủ lên vạn vật xung quanh tôi một màu xám mịt mờ. Tôi xé giấy đăng ký dự thi vào Y học cổ truyền, lựa chọn một trường bất kỳ khối ngành Kinh tế. Cũng năm đấy tôi trở thành á khoa đầu vào Ngoại thương. Tôi hoàn thành chương trình học trong ba năm thay vì bốn năm tiêu chuẩn. Tôi dành hết thời gian trên trường, không về nhà, không gặp bố. Tất cả những tín chỉ có thể đăng ký tôi đều đăng ký hết, kể cả mùa hè, kể cả học vượt. Tôi trốn tránh mọi thứ mà thực lòng kể cả không trốn tránh, bố hay mẹ cũng chẳng bao giờ tìm đến tôi. Tôi hoàn toàn tự lập. Năm hai mươi ba tuổi, tôi đã chiến đấu với trầm cảm được năm năm. Một trong những lý do tôi thường xuyên ngất xỉu có thể tới từ tác dụng phụ của việc sử dụng thuốc an thần trong thời gian dài. Không một ai trong gia đình hay biết chuyện tôi đã đăng ký hiến toàn bộ tạng, kể cả tóc, chẳng mảy may buồn giữ lại bất kể thứ gì cho riêng mình. Điều duy nhất giữ tôi lại với cuộc sống là mỗi giây mỗi phút đều cố gắng để mình có thể sống hạnh phúc bên bà nội. Nhìn bà nội hiền từ mỉm cười, nhìn bà mỗi tối đều chờ tôi ở cửa về ăn cơm. Rồi cuối cùng bà cũng đi mất. Cái đêm tôi bị rơi vào khoảng thời gian vô định này, đêm mà tôi bước từ trong quán bar ra, vốn dĩ tôi đã chọn một bộ quần áo thật đẹp, cẩn thận ra salon làm tóc, tôi muốn mình ra đi với tư thế xinh đẹp nhất, rạng rỡ nhất, vậy mà mọi chuyện cuối cùng lại thành ra dở khóc dở cười như bây giờ. Người ta mong chờ gì ở một kẻ trầm cảm chứ? Phải chăng là kẻ ủ dột, lầm lũi, khóc than và nấp nơi góc phòng suốt cả một ngày? Tôi không nghĩ như vậy. Mỗi ngày đối với tôi đều là một thử thách. Tôi không có mục đích to lớn gì cho cuộc đời. Tôi cảm thấy rằng mình sống trên cuộc đời này, đến và dạo chơi quanh một vòng, tận hưởng tất cả những gì xinh đẹp nhất. Nếu một ngày chẳng còn điều gì tuyệt vời níu tôi ở lại nữa thì tôi sẽ rời đi, vậy thôi. Tôi bốc đồng và không e sợ, cũng chẳng mấy thiết tha cuộc sống của mình. Nếu phải chết, ừ thì cách ra đi bằng cách cứu sống một người khác thế này cũng được tính là ngầu đét so với dự tính ban đầu. Nhưng đời không bao giờ như tưởng tượng… *** “Đam! Đam!” Tôi nghe tiếng gọi liền he hé một mắt ra nhìn. Ánh dịu nhẹ chen vào giữa hai hàng mi, làm rõ dần gương mặt anh tuấn trước mắt. Một người đàn ông điển trai với vết sẹo chém dài trên má trái, là Đô chỉ huy sứ Lịch Vũ. Tôi khẽ cử động, toàn thân lần nữa lại dấy lên cảm giác quay cuồng, khó thở. Trong người như xuất hiện dòng điện chạy dọc sống lưng, kéo theo cơn đau từ gan bàn chân lên đến tận não. Tôi không nhịn được liền “a” lên một tiếng. Lịch Vũ cẩn trọng quan sát, phát hiện tôi có ý muốn ngồi dậy liền đỡ tôi, dùng giọng trầm trầm, bảo: “Không cần vội, từ từ, từ từ.” Tôi tựa lưng vào thành giường, thở hắt ra. Cả miệng khô khốc đến mức chẳng thể nói lời nào. Vừa lúc Bạch Vỹ đi từ ngoài tới, thấy Lịch Vũ đang đỡ tôi y chạy lại gần, mau miệng: “Đô chỉ huy sứ, để tôi.” Bạch Vỹ là người hầu cận bên cạnh chúa thượng, còn chưa đợi tôi nói lời nào đã biết lấy một bát nước cẩn thận bón từng muỗng. Bảo sao Vỹ được trọng dụng, thân tín suốt bao nhiêu năm trời. Thấy mọi người lo lắng cho mình tôi chỉ biết gắng gượng ngôig thẳng dậy, cười trừ: “Tôi khoẻ mà. La Đạc thế nào rồi?” “Còn dám hỏi cho La Đạc. Anh ta bây giờ ít nhất còn khoẻ hơn ngươi!” Xác định được nỗi băn khoăn duy nhất của mình được giải toả, tôi thở phào thành tiếng. Đến lúc này tôi mới phát giác điều bất thường! Lều này là lều của tôi, ở hướng chính đông, dựa theo góc độ nắng hắt vào thì rất có thể… đã qua ngày mới rồi? Tôi thất kinh nhìn xuống bên dưới, may thay y phục trên người vẫn còn nguyên. Nhưng cho dù là vậy đi chăng nữa thì ai dám đảm bảo việc tôi là nữ chưa bị lật tẩy chứ? Tôi tự trấn an mình, giả vờ rất tự nhiên hỏi Bạch Vỹ: “Sau khi tôi ngất đi mọi chuyện là thế nào vậy?” “Ngươi hút độc xong thì ngã vật ra, chân tay dạng như hình chữ “Đại” (2). Sau đó quân y đã cho thuốc uống, ngươi ngủ liền hai ngày rưỡi rồi.” Bạch Vỹ xếp xếp chăn phía sau thành một nơi êm ả cho tôi dựa vào. Nếu tôi còn an toàn nằm ở đây vả lại chẳng ai đả động gì thì hẳn là thiên cơ chưa lộ. Thấy tình trạng tôi khá khẩm hơn, Lịch Vũ đứng dậy ra hiệu cho Vỹ chăm sóc tôi rồi toan rời đi. Thấy tôi len lén nhìn về phía lều lớn với vẻ mặt sợ sệt, y an ủi: “Vẫn lo lắng việc đắc tội với chúa thượng sao?” Thà đừng nhắc đến chứ một khi nói ra tôi lại càng sợ hãi, chỉ biết mím môi gật đầu. “Chúa thượng không nói rõ ngươi phạm tội gì, chỉ bảo tính tình cần rèn giũa lại. Dù gì cũng lấy công chuộc tội, tha cho ngươi một mạng.” Năm từ “tha cho ngươi một mạng” khiến hai khoé miệng đang trề xuống của tôi dần dần kéo lên rồi đổi thành một nụ cười tươi rạng rỡ. Dù trăm hoa đua nở lúc này cũng chẳng sánh bằng niềm hạnh phúc lớn lao kia. Tôi đã bảo rồi, người tốt như tôi làm gì có chuyện kết cục không có hậu chứ? Tôi còn chưa kịp đắc ý được mấy hồi, dường như không thể chịu đựng nổi bộ dạng toe toe toét toét kia nữa, Lịch Vũ tiếp lời: “Duy chỉ có điều chúa thượng thấy ngươi rảnh rỗi quá nên sinh chuyện, bảo sau khi khỏi bệnh thì phạt giữ ngựa hai tháng!” Tôi không tin vào tai mình,“Hả” một tiếng rõ to, cằm tưởng như rớt xuống tận đầu gối. “Đô chỉ huy sứ, khoan đã, tại sao Đam phải đi chăn ngựa?” - Dù biết rõ câu trả lời nhưng tôi vẫn ỉ ôi van vỉ. Chăn ngựa ư? Đời thuở nhà ai đã làm thư đồng cực khổ lắm rồi nay bỗng dưng bị giáng xuống thành chăn ngựa? “Đắc tội với chúa thượng mà ngươi vẫn còn cái mạng đi chăn ngựa, còn chưa cảm tạ trời đất hay sao?” - Bạch Vỹ xéo sắc đắp lời, ấn cả tô nước vào miệng tôi. Tôi nào dám trái thánh ý, chỉ là lần đầu tiên bị phạt ở thời phong kiến nên khó tránh cảm thấy bất công. Nếu lúc này còn cứ mặc cho nước chảy bèo trôi thì chỉ e sẽ ngày một bị đàn áp. Dùng vẻ ngoài lương thiện nhất có thể cùng đôi mắt ầng ậng nước, tôi hỏi Lịch Vũ: “Chuyện làm sai Đam tình nguyện chịu phạt, chỉ là không biết có thể vẫn hầu hạ người như thư đồng được không?” Lịch Vũ dừng một lúc nghĩ ngợi rồi gật đầu: “Vất vả cho ngươi.” Nhìn như thế nào thì cũng là một người hầu tận trung với chủ, chăm chỉ tháo vát, không quản nặng nhọc sẵn sàng một lúc gánh hai việc. Còn lâu nhé! Tôi thừa biết rằng nếu trở thành kẻ chăn ngựa thì cả đời này đừng mong có ngày ngóc đầu lên. Thà rằng trước mắt cứ chịu phạt, vất vả một chút biết đâu sau này có ngày trở mình? Làm thư đồng của Lịch Vũ đồ ăn ngon hơn, mặc đẹp hơn. Chưa kể y trong doanh trại này cũng coi như đức cao vọng trọng, nương nhờ y chỉ có lợi chứ không có hại. Kẻ thức thời mới là trang tuấn kiệt, khổ trước sướng sau thế mới giàu! *** Ba ngày sau tôi khỏi hẳn, chuyển xuống đi chăn ngựa. Công việc chân tay cũng giúp bộ não vốn nhỏ bé của tôi được thảnh thơi phần nào. Trăm hay không bằng tay quen, qua mươi mười lăm ngày tôi đã sắp thành một tay chăn ngựa thứ thiệt. Ở chuồng ngựa người cai quản chính là chú Túc và đôi ba người nữa phụ việc vặt linh tinh, đôi khi thêm cả lính tráng phạm tội thì đều ở đây phục dịch. Dù ở nơi tiền tuyến song chưa động binh đao, trên dưới toàn trại chỉ hăng say luyện tập chờ thời cơ tác chiến nên công việc của tôi cũng chẳng có gì đáng kể. Cho ngựa ăn, tắm cho ngựa, dọn chuồng, cắt móng… Đại để là thấy gì làm nấy nhưng được cái tôi dáng nhỏ con lại vừa ốm dậy, cũng coi như có công cứu người, bên trên là “ô dù” cự phách mang tên Lịch Vũ nên cũng chỉ được giao mấy việc đơn giản ít tốn sức. Những lúc rảnh rỗi thì tôi mê nhất là cắt bờm ngựa. Theo tiêu chuẩn thì phía trước cắt trên mắt, phía sau cắt ngắn còn độ ba phân là vừa đẹp nhưng như thế chẳng phải nhàm chán lắm sao? Làm gì có người “thợ cắt tóc” nào lại tự bó buộc khuôn khổ của cái đẹp chứ? Thế là tôi bắt đầu vận dụng khiếu thẩm mỹ của mình lên mấy con ngựa. Con nào lông dài tôi sẽ mạnh dạn để hai mái, con nào lông lệch thì triển khai theo tỉ lệ 7:3 hoặc mái chéo, nếu chẳng may hụt tay thì tôi sẽ nhanh trí sửa thành đầu cắt moi vô cùng phóng khoáng. Nếu có ai khác nhìn vào chắc cũng không hề biết việc xấu tôi làm, cùng lắm chắc chỉ nghĩ là một kẻ vụng về nhưng nhiệt huyết mà thôi. Ngoài việc cắt bờm tôi còn kiêm cắt cỏ. Ban ngày ngựa được thả ngoài bãi nhưng đang là lúc mùa đông, tuyết lại vừa tan hơn nữa đây còn là ngựa chiến, bất kể lúc nào tấn công trại Phù Lan thì ngựa chiến cũng phải ở trong thể trạng tốt nhất. Vì vậy vừa chăn ngựa tôi vừa phải dành thêm thời gian đi tìm cắt cỏ mang về. Lựa chọn số một là cỏ tương, bằng không thì có gì cắt nấy. Vốn chỉ biết học hành sách vở lại không phải con nhà nông, qua gần chục ngày tôi mới thành thục cách dùng cuốc và liềm. Dù trầy xước chút ít nhưng còn đủ mười ngón tay xem ra đã là thành công mỹ mãn. Ban ngày phụ việc ở trại, ban đêm tôi lại tới hầu Lịch Vũ đọc sách, dọn dẹp giặt giũ, mài mực giúp y. Mực viết thời đại này là mực Tàu, được đông đặc thành những thỏi mực, khi cần mực để viết thì bôi một chút nước lên đầu thỏi rồi chà đều tay trên nghiên mài. Thường thì Lịch Vũ đọc sách hay luyện chữ trong khoảng một canh giờ còn tôi có hai lựa chọn: hoặc là vừa mài mực vừa ngáp, hoặc ôm chân bàn ngủ luôn chừng nào Lịch Vũ cần gì sẽ gọi tôi sai bảo. Được cái dù vất vả nhưng tôi ít phải gặp gỡ giao lưu với ai, bình an mà sống, đúng là cuộc đời trong mơ. Chớp mắt đã mấy tháng trôi qua, Phù Lan bước sang mùa xuân, thời tiết ấm áp hơn hẳn. Như thường lệ tôi đứng cạnh Lịch Vũ mài mực, thi thoảng cắt bớt bấc nến cho đỡ cháy khét. Dưới ánh sáng vàng ươm như mật ngọt, Lịch Vũ chăm chú viết, nét mặt ôn hoà. Từ góc này không nhìn thấy vết sẹo lớn trên má trái mà chỉ có sống mũi cao thẳng tắp, Lịch Vũ trở nên đặc biệt hiền lành trầm tĩnh. Tôi nhìn ra xa xăm, bắt đầu hồi tưởng lại đêm đầu tiên tới trại, nhìn Lịch Vũ bây giờ rồi lại ghép với hình ảnh y một đao cắt đầu người không hề chớp mắt, bất giác toàn thân nổi da gà. “Đam, về lều đi. Hôm nay muộn rồi.” - Lịch Vũ thổi nhẹ tờ giấy cho mau khô, không ngẩng lên mà chỉ nhẹ nhàng bảo tôi. “Dạ…” - Tôi ngơ ngác đặt thỏi mực xuống. “Bẩm Đô chỉ huy sứ, hôm nay mới được nửa canh giờ.” Lịch Vũ đặt tờ giấy lên bàn, phẩy tay: “Mang vào đây cho ta một chậu nước ấm.” Tôi lui ra, lấy thau đồng rồi đổ nước sôi vào, cẩn thận pha thêm nước lạnh, nhúng thử tay kiểm tra, nhiệt độ ấm hoàn hảo mới đặt thêm một khăn khô bên cạnh rồi mang vào lều. Lịch Vũ đi xuống, tôi nhanh nhảu: “Để Đam giặt khăn cho người.” Lịch Vũ đi thẳng về phía này, ấn cả hai tay tôi vào chậu nước. Tôi hơi bất ngờ đến nỗi suýt bổ ngửa ra sau nhưng biết Lịch Vũ không có ác ý nên răm rắp nghe theo, ngồi xuống bên cạnh. Y bảo tôi ngâm tay hồi lâu trong nước ấm, cuối cùng đưa cái khăn khô cho tôi thấm tay vào, hỏi: “Công việc ở chuồng ngựa vất vả lắm sao?” Lúc này tôi mới hiểu ý. Hoá ra trong lúc mài mực Lịch Vũ đã thấy tay tôi chỗ nào cũng trầy xước rớm máu nên mới bảo đi lấy nước ấm ngâm tay. Tôi cười toe toét đáp lại: “Dạ bẩm không vất vả. Đam đã quen việc rồi ạ.” Lịch Vũ làm ngơ, đi vòng lên phía bàn lấy một chai thuốc bột màu trắng đục rồi đi lại phía tôi, giọng trầm trầm: “Chắc gia cảnh nhà ngươi cũng không tệ?” Tôi gật đầu: “Cũng xem như là có của ăn của để.” “Có bao nhiêu anh chị em?” “Chỉ có mình Đam ạ.” Lịch Vũ vừa đổ một ít thuốc, chấm chấm lên bàn tay cho tôi vừa ân cần hỏi: “Ngươi đến từ nơi nào của Đại Cồ Việt? Giọng nói của ngươi rất khác.” Tôi chần chừ hồi lâu, không biết trả lời sao cho phải. Nghĩ ngợi một lúc tôi nhỏ giọng đáp: “Đam là người của Đại Cồ Việt, đã, sẽ và luôn là con dân Đại Cồ Việt. Giọng nói lạ có lẽ là phương ngữ, nơi Đam sống cách rất xa nơi này mà thôi.” “Rất xa là bao xa?” - Lịch Vũ bôi thuốc lên những vết thương hở và cả những vết thương vừa lành của tôi, dùng giọng đều đều hỏi. Tôi phì cười: “Xa đến độ người sẽ chẳng bao giờ tưởng tượng ra.” Nét mặt Lịch Vũ giãn ra, y đùa: “Đại Cồ Việt này làm gì có nơi nào mà ta chưa từng đặt chân đến?” Hiếm khi thấy Lịch Vũ vui vẻ như vậy, tôi buột miệng: “Xa chứ. Đam đến từ Đại Cồ Việt của một nghìn năm sau.” Lịch Vũ bị bất ngờ, ban đầu chỉ tròn mắt nhìn tôi rồi cuối cùng phá lên cười thành tiếng. Thấy phản ứng của y cộng thêm cũng biết mình vừa trả lời rất ngớ ngẩn, tôi cũng ha hả cười theo một cách mất kiểm soát. Tự mình nói ra còn chẳng dám tin huống hồ người khác. Nhưng bát nước hắt đi rồi cũng không lấy lại được, tôi nhanh trí mượn nước đẩy thuyền, hỏi: “Haha…ha.. Vậy thì bây giờ thế này, người nói Đam nghe tên của chúa thượng, Đam sẽ kể cho người chuyện của tương lai.” “Muộn rồi, về ngủ đi.” - Lịch Vũ đậy nắp lọ thuốc, đứng lên toan quay đi. Tôi biết rõ nếu vụt mất cơ hội này thì chỉ e khó có ngày biết được mình đang sống ở thời vua nào bèn quả quyết: “Không! Xin người hãy tin Đam. Chuyện này sẽ là bí mật Đam mang xuống dưới mồ. Chỉ người và Đam biết, người thử nghe một lần xem sao?” Lịch Vũ cười mỉm: ị “Nói tên chúa thượng là phạm huý, vậy nếu ngươi chẳng có tin gì cho ta thì sao?” “Chỉ e rằng sau khi biết tên chúa thượng còn có nhiều chuyện hơn để người đe doạ Đam.” Vẻ mặt Lịch Vũ đầy hoài nghi nhưng cuối cùng y vẫn ngồi xuống, tiến gần sát với tôi, gằn từng tiếng bằng giọng rất nhỏ: “Vậy thì ta nói cho ngươi biết, chúa thượng(3) họ Lê, tên Long Đĩnh!” Vốn dĩ tôi còn đang vui mừng vì cuối cùng cũng biết mình đang sống ở thời kỳ nào nhưng ba từ “Lê Long Đĩnh” đã khiến cho nụ cười trở nên méo xệch rồi tắt hẳn. Lê Long Đĩnh… Lê Long Đĩnh chẳng phải là vị vua tàn ác nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử với tích róc mía trên đầu sư, là người sẽ chấm dứt triều đại Tiền Lê đấy sao? Triều đại Tiền Lê là hơn một nghìn năm trước. Tin nổi không? Trời ơi, là một nghìn năm! “Vậy hoá ra…” - tôi quay người sững sờ nhìn Lịch Vũ, môi run lắp bắp - “Lý Công Uẩn đang ở đâu?” Lịch Vũ chau mày, mặt biến sắc: “Ngươi biết Điện tiền quân?” Đại Việt Sử ký Toàn Thư chép: “Ngoạ Triều Hoàng Đế: Tên huý là Long Đĩnh, lại có tên là Chí Trung, con thứ năm của Đại Hành, ở ngôi 4 năm, thọ 24 tuổi (986- 1009) băng ở tẩm điện. Vua làm việc càn dỡ giết vua cướp ngôi, thích dâm đãng tàn bạo, muốn không mất nước sao được?” … “Vua tính hiếu sát, phàm người bị hành hình, hoặc sai lấy cỏ gianh quấn vào người mà đốt, để cho lửa cháy gần chết, hoặc sai kép hát người Tống là Liêu Thủ Tâm lấy dao ngắn dao cùn xẻo từng mảnh, để cho không được chết chóng. Người ấy đau đớn kêu gào thì Thủ Tâm nói đùa rằng: “Nó không quen chịu chết”. Vua cả cười. Phàm đánh trận, bắt được quân địch vua cho áp giải đến bờ sông. Lúc nước thủy triều rút xuống thì sai làm cái chuồng dưới nước, rồi đuổi tù binh vào trong chuồng. Khi nước thủy triều dâng lên, tù binh ngộp hơi thì hả miệng ra rồi uống nước mà chết. Lại bắt [tù nhân] treo lên cây cao rồi sai người ở dưới chặt cây. Có khi vua đi chơi ở sông Chi Ninh, sông có nhiều thuồng luồng, bèn trói người ở một bên ghe, rồi cho ghe qua lại ở giữa dòng nước, khiến cho thuồng luồng nó sát hại đi. Còn phàm những con vật (nuôi để cúng tế) đem cung cấp cho nhà bếp, trước tiên phải sai người khiên vào để tự tay vua đâm chết đã, rồi sau mới giao cho người nấu bếp. Lại khi, nhà vua đặt mía trên đầu bậc tu hành là đức Tăng thống Quách Mão mà róc, rồi giả vờ sút tay dao phập vào đầu Quách Mão chảy máu ra, vua cười rầm lên. Hoặc đêm đến vua sai làm thịt mèo để cho các tước vương xơi. Ăn xong vua đem đầu mèo bày ra, các tước vương đều mửa thốc mửa tháo. Mỗi khi đến buổi chầu thì sai những tên hề ra nói leo lẻo luôn mồm để làm khỏa lấp lời những ai bẩm bạch về việc gì. Lại thấy kẻ giữ cung làm món chả thì đến cùng người tranh nhau mà ăn…” Chú thích: (1) scandal: vụ bê bối. (2) Đại: (大) to, lớn. (3) chúa thượng: (主上) vua, thiên tử. Chú thích từ tác giả: Đây là cách gọi thời Đinh - Tiền Lê dựa trên sử liệu Toàn thư ghi chép lại. Có thể thấy rõ ở thời kỳ này vua được gọi là “chúa thượng”. Đại Việt sử ký toàn thư chép: Canh Thìn, [Thái Bình] năm thứ 11 [980], “Bấy giờ, Lạng Châu nghe tin quân Tống sắp kéo sang, liền làm tờ tâu báo về. Thái hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đi đánh giặc, lấy người ở Nam Sách Giang là Phạm Cư Lạng làm đại tướng quân. Khi [triều đình] đang bàn kế hoạch xuất quân, Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ, [10a] nói với mọi người rằng: ” Thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai biết cho? Chi bằng trước hãy tôn lập ông Thập đạo làm Thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn”. Quân sĩ nghe vậy đều hô “vạn tuế”. Chương 6: SỨ GIẢ hay sứ GIẢ Hoá ra là Lê Long Đĩnh. Hoá ra là Lý Công Uẩn… Cho dù Lịch sử không phải là thế mạnh song mấy ai ở tầm tuổi tôi có thể quên được năm ấy sự kiện kỷ niệm một ngàn năm Thăng Long Hà Nội đã diễn ra hoành tráng tới mức nào? Bây giờ Lý Công Uẩn vẫn đang là Tứ sương quân phó chỉ huy sứ, nghĩa là chỉ ít lâu nữa thôi ông ta sẽ lên nắm quyền, chấm dứt nhà Tiền Lê lập ra nhà Lý huy hoàng thịnh trị kéo dài hơn hai trăm năm. Nhưng chắc gì tôi đã có thể chờ đến ngày Lý Công Uẩn lên ngôi? Chỉ tính riêng việc Lê Long Đĩnh được ghi chép trong lịch sử tàn bạo đến mức nào đã khiến cho tôi hoảng loạn, tự hận chính bản thân mình đã ngông nghênh ngu ngốc dây vào ổ kiến lửa. Ừ thì tôi cũng không muốn sống lắm, nhưng thế không có nghĩa là tôi muốn bị người khác tra tấn tàn bạo. Ừ thì đúng là tôi đã từng muốn tự tử, nhưng nếu Lê Long Đĩnh kia lại muốn dóc mía trên đầu tôi thì sao? Phải làm thế nào bây giờ? Có khi nào y cũng nhốt tôi vào chuống gỗ rồi thả xuống nước để giao long cắn hại? Nhưng giao long là con gì mới được? “Đam! Đam!” - Lịch Vũ cất tiếng hỏi cắt ngang luồng suy nghĩ của tôi. Tôi cố gắng bình tĩnh lại dù hai tay và cả hai chân nữa đang thi nhau run lẩy bẩy. Tôi sượng sùng cười với Lịch Vũ: “Không! Đam chỉ vô tình nghe tiếng tăm của ngài ấy thôi. Ha… ha…ha…. người… sẽ không xem đó là thật chứ?” Lịch Vũ còn chưa trả lời thì bên ngoài vọng lên tiếng đàn ông vô cùng gấp gáp: “Cấp báo!” “Cho vào!” Một người đàn ông bạc nửa đầu rầm rập chạy vào. Tôi nhận ra ngay, y là La Đạc, người bị rắn cắn dạo trước. Giọng nói rõ ràng vả lại tác phong nhanh nhẹn như vậy hẳn Đạc đã khoẻ hẳn rồi. “Có chuyện gì?” - Lịch Vũ hỏi, nét vui vẻ đã biến mất hẳn, thay vào đó là sự nghiêm nghị lạnh lùng đến đáng sợ. “Bẩm Đô chỉ huy sứ, giặc Cử Long(1) cướp phá, nay đã đến cửa biển Thần Đầu(2).” Lịch Vũ đăm chiêu, tay gõ nhịp nhịp xuống mặt bàn. La Đạc tiếp lời: “Còn một tin nữa.” Lịch Vũ phẩy tay ra hiệu cho Đạc nói tiếp. “Tin từ nội ứng trại Phù Lan gửi về, trong thành xuất hiện bệnh dịch, tình hình vô cùng nguy cấp!” “Bệnh gì?” La Đạc lắp bắp, thở không ra hơi: “Dạ..a thưa, là ma chẩn!” Tôi lẩm nhẩm lại cái tên “ma chẩn” trong miệng, nghe quen quá nhỉ? Đã lâu không đụng đến thuốc thang bệnh tật nên nhất thời không nhớ ra được đây là bệnh gì. Vừa vặn Bạch Vỹ tới, truyền chỉ chúa thượng cho vời Lịch Vũ đến nghị sự. Tôi biết chắc tin báo kia cũng đã tới tai Long Đĩnh nên dù không được truyền vẫn muốn đi theo thử vận may xem sao. Trong hoàn cảnh ngàn cân treo sợi miến như vậy để làm sao để hoá nguy thành an, vừa dẹp được giặc ở Thần Đầu vừa đối phó với người ở ẹp ợ g ặ p g trại Phù Lan thì rốt cục bạo chúa Lê Long Đĩnh sẽ làm như thế nào? Y đánh đàn! Lúc tôi theo chân Lịch Vũ bước vào thì đại khái cảnh trước mặt là như thế này: Long Đĩnh ngồi chơi cổ cầm, trước mặt để một lư trầm, sau lưng Bạch Vỹ đang dùng quạt lông ngỗng trắng muốt phe phẩy điệu bộ vô cùng thư thái. Nhìn cảnh nhàn nhã này tôi không nhịn được mà gật gù: Giữa chiến sự căng thẳng thế này còn đàn được, bảo sao không mất nước. Lịch Vũ thi lễ, tôi bắt trước quỳ rạp xuống theo. Lúc này Long Đĩnh ngừng tay ra hiệu cho chủ tớ chúng tôi đứng lên, ban ngồi cho Đô chỉ huy sứ. “Trẫm vừa nhận được mật hàm, trại Càn Đà(3) đã bị hạ, nội trong hai ngày nữa Trung Quốc Vương sẽ chạy đến trại Phù Lan(4).” “Bẩm chúa thượng, trại Phù Lan báo tin trong thành số người nhiễm ma chẩn đã quá nửa, hơn nữa Giặc Cử Long đã kéo đến cửa biển Thần Đầu.” Long Đĩnh chẳng có lấy nửa phần mảy may xao động. Khoé miệng y vẫn nhếch lên vừa như thách thức lại như hài lòng. Những ngón tay thon dài khẽ lướt trên dây đàn, gieo xuống những âm sắc vui vẻ. Long Đĩnh tiếp lời: “Giặc Cử Long không đáng ngại. Long Kính(5) là kẻ sĩ nay vạn bất đắc dĩ phải nương nhờ Long Cân(6). Tình hình trại Phù Lan cũng chẳng phải tốt đẹp gì để đèo bồng thêm kẻ khác. Chọn người tin tưởng làm sứ giả, sáng sớm mai khởi hành đưa tận tay mật chỉ này của trẫm cho Long Cân.” Long Đĩnh đưa một phong thư đã viết sẵn cho Lịch Vũ. Tôi thương thay cho kẻ đen đủi nào sẽ bị bắt đi làm sứ giả. Đã đến nơi hang hùm miệng gấu thì chớ, ở đấy bệnh dịch còn hoành hành. Một đi chưa chắc đã có đường về. “Cho vời La Đạc” - Lịch Vũ nói. Nghe Lịch Vũ gọi tên La Đạc tôi càng trở nên sầu não. Tuổi còn trẻ mà đã bạc trắng đầu, vừa bị rắn cắn khỏi nay lại làm sứ giả tới trại Phù Lan. Không biết ở trong doanh trại này y đã đắc tội với ai mà để ra nông nỗi này? La Đạc tiến vào, quỳ phục xuống đợi lệnh. “Ngày mai lúc mặt trời mọc, hãy chuẩn bị hai con ngựa tốt, ngươi hộ tống sứ giả đến trại Phù Lan.” “Tuân lệnh!” - La Đạc hô vang rõ ràng rành mạch từng chữ. Tôi vừa chấm dứt bài ca buồn não tiếc thương cho La Đạc thì bỗng thấy có điều gì đó không đúng lắm? Khoan đã, hình như người làm sứ giả không phải là La Đạc? Y chỉ “hộ tống” thôi ư? Não tôi tua thật chậm lại đoạn hội thoại ban nãy, bất thình lình Lịch Vũ quay lại, đoạn ấn phong thư vào tay tôi, vỗ vỗ đầy an ủi: “Đam, ngày mai ngươi vào thành trao tận tay Ngự Bắc Vương thư này.” Hai đầu gối tôi không ai đánh bỗng dưng khuỵ xuống, khoé miệng giật giật liên hồi. “Ai? Ai là sứ giả cơ?” *** Thế gian kẻ may mắn nhiều vô số kể, đen đủi như tôi được mấy người? Đáng kiếp cho tôi, yên lành không muốn lại bỗng dưng chạy đi hóng hớt làm gì? Tôi không hiểu và cũng không có cách nào g g g g g hiểu được tại sao Lịch Vũ lại đẩy tôi ra đứng mũi chịu sào? Lịch Vũ đã như vậy thì thôi đi, đằng này Long Đĩnh cũng rất vui vẻ hợp tác? Tôi chỉ là một tên chăn ngựa quèn sao bỗng dưng lại nhận “trọng trách” làm sứ giả cơ chứ? ” Đô chỉ huy sứ!” - Tôi chắn ngang đường Lịch Vũ đang trở về lều, hùng hùng hổ hổ chỉ hận không đấm y được một cái thật đau - “Tại sao người bắt Đam đi làm sứ giả?” Lịch Vũ nhìn tôi, nhướn mày: “Ngươi không hài lòng ư?” “Làm gì có chuyện? Ai chẳng biết Phù Lan nguy hiểm đến thế nào chứ?” - Tôi tức đến phát khóc. Lịch Vũ nhún vai: “Cũng hết cách. Quân lệnh như sơn, vả lại chúa thượng đã đồng ý, ngươi muốn cáo trạng hãy tìm người.” Cái gì mà tìm Lê Long Đĩnh? Tôi mà có lá gan đấy thì nói làm gì nữa? Trong trại này ai chẳng biết tôi là cái gai trong mắt chúa thượng. Phạm tội tày trời chưa chết chẳng qua đánh chó xấu mặt chủ, nể Lịch Vũ suốt bấy lâu mới tìm được cơ hội ra tay. Tôi giận quá hai chân giẫm thùm thụp trên mặt đất: “Đô chỉ huy sứ, không phải người từng nghi ngờ Đam là nội gián sao? Đừng dễ dàng tin người như thế chứ?” - Tôi ra sức thuyết phục. Lịch Vũ quay lại, ném cho tôi đúng 4 chữ: “Thanh giả tự thanh(7).” Tôi gào lên: “Không, không hề. Đam là kẻ lưu manh bỉ ổi nhất. Người đừng tin.” Lịch Vũ đang bước đi bỗng dừng lại, đoạn dùng giọng thật trầm mà bảo: “Nếu muốn sau này được sống yên ổn, ngươi nhất định phải tới trại Phù Lan!” Tôi khóc không thành tiếng, đành chỉ biết ngoan ngoãn gật đầu. Không đi thì bị chặt đầu. Bỏ trốn vào rừng thì bị thú dữ lăm le ăn thịt. Tới trại Phù Lan ít ra vẫn còn cơ may quay về. Thật sự là hoạ vô đơn chí, phúc bất trùng lai(8). *** Trời vừa tảng sáng, tôi thấp thỏm không yên ló đầu ra ngoài cửa lều. Mây hồng tựa một lớp chăn bông khổng lồ, vây chặt đỉnh núi, sà xuống là là mặt đất hoá thành lớp sương mù dày đặc bao quanh doanh trại. Khắp cánh rừng Phù Lan như vừa bừng tỉnh sau một đêm dài mộng mị, rợn ngợp những cành cây xám ngoét bắt đầu nhú chồi xanh mơn mởn. Từ mạn rừng, đâu đâu cũng mọc ra loài hoa dại tím biếc, ngát hương. Những cánh hoa rung rinh trong gió, vươn mình đầy kiêu hãnh đón nhận sương sớm tinh khôi đầu ngày. Cả khu rừng chuếnh choáng trước vẻ e lệ của chúng, trước những bông hoa thoảng hương và cả trước tiếng chim oanh lảnh lót. Cảnh thì đẹp nhưng trong lòng tôi vẫn không nén nổi bi thương. Bạch Vỹ mang đến cho tôi một bộ quần áo mới, một đôi hài và một cái mũ. Cái mũ có hai cánh như chuồn chuồn, trông thì vui mắt nhưng đi qua đi lại thì vướng hết bên nọ tới bên kia. Tay áo rộng thùng thình như thể nhét hai lần Đam vào vẫn thừa một khoảng rộng. Tôi thở dài thườn thượt, sửa soạn xong bèn đi bộ ra giưa thao trường. Bấy giờ La Đạc đã chờ sẵn ở đấy, y dúi vào tay tôi dây cương của con ngựa nâu. Tôi tròn mắt lắc đầu: “Cái gì đây?” “Thì ngựa của anh đó!” - La Đạc tỉnh bơ. “Trông tôi giống biết cưỡi ngựa à?” - Tôi dở khóc dở cười. Điệu bộ vừa ngu ngốc vừa đáng thương khiến cho Đạc nhảy dựng lên: “Cái gì, anh chăn ngựa mà không biết cưỡi ngựa?” - Dứt lời thì biết mình vừa thất thố, dù gì tôi cũng từng là ân nhân cứu mạng, Đạc thu lại vẻ bỡn cợt ban đầu, tỏ ra vô cùng cung kính với tôi. Tôi bĩu môi: “Thế anh mặc quần áo nhưng biết cách dệt vải phỏng?” Đạc im thin thít. Tôi mạnh miệng thế thôi nhưng cũng biết xấu hổ. Đường đường là thư đồng của Đô chỉ huy sứ mà mù chữ thì cũng thôi đi, nay chăn ngựa mấy tháng trời mà không biết cưỡi thì đúng là trò cười cho thiên hạ. Mà cười ai cơ chứ? Tôi chỉ là một tên hầu khố rách áo ôm, có cười người ta cũng cười vị Đô chỉ huy sứ chinh phạt tứ phương, lẫy lừng Đại Cồ Việt kia thôi. Tôi khịt mũi, đưa tay quệt ngang giả bộ bất cần. Ai bảo tôi xuyên không đến một nghìn năm trước làm gì? Nếu đổi lại tới thế kỷ hai mốt tôi chắc chắn sẽ thi triển kỹ năng đạp xe một bánh, bốc đầu, drift… cực cháy còn hơn ở rạp xiếc cho mà xem. Tôi và La Đạc khoanh tay bần thần nhìn hai con ngựa. Bài toán khó rồi đây. Nếu tôi cưỡi chung một ngựa với La Đạc thì mất hết uy nghiêm của sứ giả, vả lại nếu xui rủi bị y phát hiện ra mình là con gái thì coi như xong. Còn nếu không? Chẳng nhẽ Đạc cưỡi ngựa còn tôi đi bộ? Như thế thì tôi lại trở thành người hầu của La Đạc mất. Ừ thì đúng ở đây tôi là người hầu thật nhưng đã sang trại Phù Lan làm “sứ giả” cũng không nên để người ta khinh thường. “Còn chưa xuất phát à?” Lịch Vũ mặc viên lĩnh màu nâu, tay cầm bảo kiếm đi đến. Sáng sớm nào y cũng dậy rất sớm để luyện võ cho đến khi ướt đẫm mồ hôi. Lớp áo mỏng dán chặt vào những cơ bắp rắn chắc, trong lòng tôi như vừa đổ hai hàng lệ cảm thán. Đến lúc lâm nguy vẫn còn được nhìn thấy cảnh tượng đáng giá như vậy thì đúng là ông trời vẫn còn ưu ái tôi lắm. Bất chợt tôi cảm thấy thấy mũi mình có chất lỏng ấm ấm, Lịch Vũ tiến lại chạm vào nhân trung(9) tôi: “Ngươi chảy máu rồi.” Tôi hớt hải như kẻ trộm bị bắt quả tang, mau mau chóng chóng rút từ trong túi áo ra cái khăn tay bịt lại mũi. La Đạc đứng bên cạnh nhao nhao: “Chảy máu rồi, mau ngửa cổ lên.” Tôi phẩy tay: “Không nên ngửa cổ, máu chảy một chút rồi sẽ tự ngưng. Nếu ngửa cổ máu sẽ chảy ngược xuống cuống họng, từ đó chạy qua lỗ thông khí và có thể gây sặc máu.” La Đạc nghe tôi huyên thuyên một hồi có vẻ chẳng hiểu gì nhưng rút ra kết luận: “Nói được nhiều thế chắc chắn vẫn khoẻ.” Nhân lúc máu mũi vẫn đang ròng ròng tôi liền tranh thủ cơ hội, tỏ vẻ đáng thương trước mặt Lịch Vũ: “Đô chỉ huy sứ, người xem này Đam vừa không biết cưỡi ngựa, thân thể yếu ớt như thế làm sao mà có thể hoàn thành trọng trách được?” Lịch Vũ không thèm trả lời câu hỏi của tôi, quay đi bảo người gọi chú Túc mang đến một con lừa to nhất đàn. “Đây, không cưỡi ngựa được thì cưỡi lừa.” Tôi coi như hết hy vọng, rõ ràng cũng chẳng chèo kéo gì thêm từ tên Lịch Vũ mặt sắt này đành thử trèo lên lưng lừa, tự mình đi lại vài vòng quanh thao trường. Đúng là lừa tính thuần, dễ điều khiển hơn chiến mã rất nhiều. Xác nhận mọi việc ổn thoả, từ trên lưng lừa tôi lễ độ cúi chào Lịch Vũ rồi quay đi, trong lòng bỗng thấy có chút thê lương. *** La Đạc là một kẻ hướng ngoại, hiếm có khi nào trên đường mà y ngưng nói. Được cái tính tình La Đạc hoà đồng cởi mở, người đi đường cùng có tinh thần như thế tôi cũng được khích lệ ít nhiều. Tôi hỏi thăm qua gia cảnh, y kể qua, đại khái là nhiều đời theo nghiệp binh đao, bảy tuổi đã bắt đầu luyện võ bắn cung. Người tài lại có chí như vậy được trọng dụng dưới trướng Lịch Vũ cũng không lấy gì làm lạ. La Đạc dù vui vẻ nhưng vẫn rất trọng lễ tiết. Y coi tôi là ân nhân cứu mạng, đối xử rất kính trọng. Tôi không quen lắm, chẳng qua chỉ là người qua đường tiện tay cứu giúp, chẳng ngờ La Đạc lại là con trai duy nhất ba đời độc đinh. Coi như tôi không chỉ cứu La Đạc mà còn cứu cả dòng họ La khỏi cảnh tuyệt tự. “Ông trời có mắt, người tốt luôn gặp may mắn mà.” “Là sao cơ?” - Tôi quay sang hỏi La Đạc. “Anh tuy có thiếu sót nhưng được Đô chỉ huy sứ rất coi trọng. Trở thành thư đồng cho ngài ấy là mơ ước của biết bao người.” “Ờ…” - Tôi hờ hững đáp. Ai mơ ước thì mau đến làm hộ đi chứ tôi sắp chết ở trại Phù Lan rồi đây này. Bỗng dưng nhớ ra chuyện quan trọng tôi quay ngoắt sang hỏi Đạc - “Chức quan Đô chỉ huy sứ có to không?” “To! Ngài ấy thuộc hàng tam phẩm.” “Tam phẩm?” - Tôi há hốc miệng - “Còn trẻ như vậy mà đã làm đến chức tam phẩm ư?” La Đạc thủng thẳng đáp: “Ngài ấy có công lớn khi phò trợ chúa thượng lên ngôi. Mà anh biết trong doanh trại đồn gì không?” “Đồn gì?” - Tôi vừa ngẫm nghĩ lời La Đạc vừa cúi xuống lấy bình nước mang theo tu một ngụm. “Ha ha, mọi người đều bảo anh trông rất giống con gái.” Bị nói trúng tim đen tôi họ sặc sụa, nước chưa kịp nuốt vào đã phun ra thành dòng, ướt hết cả quần áo. Tôi cởi mũ trên đầu xuống, kẹp vào nách nói đoạn quay sang hỏi lại: “Anh… nói cái gì cơ?” “Thì bộ dạng của anh chẳng phải giống con gái lắm ư? Nếu hôm đó anh Đam không cứu tôi thì chắc mọi người vẫn còn đồn anh là nàng hầu của Đô chỉ huy sứ!” Mặt mũi tôi nóng phừng phừng. Phim ảnh toàn là thứ lừa người, nữ giả nam đều giấu được đến tập cuối mà sao tôi chỉ vừa tập đầu đã lộ tẩy thế này? Lấy lại bình tĩnh, tỏ ra thản thiên nhất có thể, tôi hỏi: “Tôi cứu anh với việc là trai hay gái thì liên quan gì?” “Đàn ông nông nổi giếng khơi, đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu. Bản lĩnh đấy của anh chúng tôi còn thua xa, nói gì đàn bà con gái.” “Cũng chỉ là chuyện thường” - Tôi thở dài. Ở thời đại này tốt nhất chẳng nên tranh luận về vấn đề trọng nam khinh nữ làm gì. “Hôm nay anh Đam còn làm sứ giả. Nếu không phải vấn đề tuổi tác, tôi đã nhận anh làm thầy.” “Ấy chết, đừng!” - Tôi ra sức xua tay. Chẳng nhẽ tôi phải nói toẹt ra là mình bị ép, tự nguyện anh dũng gì đâu! Tính ra việc làm “sứ giả” này cũng chỉ là hữu danh vô thực. Long Đĩnh chỉ cần một người đưa thư truyền tin đến trại Phù Lan. Tìm một người giỏi quá là không cần thiết, vừa là việc không khó khăn đến mức đấy, vừa là nếu tôi có bỏ mạng tại Phù Lan cũng chẳng thiệt hại gì. Suy cho cùng thì thư này chắc chắn không nhằm mục đích gì ngoài chia rẽ Ngự Bắc Vương Lê Long Cân cùng Trung Quốc Vương Lê Long Kính. Thử đặt giả thiết một chút, ngay từ ngày đầu tiên tôi xuất hiện đã bị nghi ngờ là nội gián. Mang tiếng trở thành thư đồng của Lịch Vũ nhưng tôi đồ rằng đấy chưa hẳn là ý đồ tốt đẹp, rất có thể chỉ là nước thử lòng, đấu trí giữa các bên. Giả sử rằng tôi là nội gián, sẽ có những trường hợp sau khiến cả Long Đĩnh lẫn Lịch Vũ đồng ý nước đi này: Một, tôi là nội gián của Ngự Bắc Vương. Vậy giờ nếu tìm một người đưa thư cho y còn ai phù hợp hơn ngoài tôi nữa? Vừa thực hiện nhiệm vụ của chúa thượng, vừa đường đường chính chính quay về báo tin với người chủ đích thực của mình. Hai, tôi là nội gián của Trung Quốc Vương. Trường hợp này thì càng không có gì phải lưu tâm. Trại Phù Lan đang một cổ hai tròng, vừa bị bao vây thiếu lương thực vừa xảy ra đại dịch, hơi đâu mà đèo bòng kẻ khác nữa? Giờ đây Trung Quốc Vương cầu cứu, thư kia nếu rơi vào tay y cũng chỉ có một mục đích duy nhất là chia rẽ hai vương đấy. Ếch nào chẳng là thịt, trong sự vụ này mèo nào cắn mỉu nào không quan trọng, quan trọng là kết quả cuối cùng. Còn nếu tôi không phải nội gián? Tôi chỉ là một người dân bình thường? Cả Lịch Vũ lẫn Long Đĩnh đều là kẻ cẩn trọng, tôi đồ rằng đây là phép thử lòng trung thành. Nghĩ cho kỹ thì đâu phải dễ dàng cứ như thế mà bước lên vị trí thư đồng thân tín của Đô chỉ huy sứ đâu? Nhưng nếu tôi bỏ mạng ở trại Phù lan, một đi không trở lại thì sao? Tôi thở dài, chỉ biết trách mình gây chuyện với ai không gây, lại đi tìm Lê Long Đĩnh, cũng đáng kiếp cho tôi phải làm tốt thí mạng lắm. Tôi ngồi vắt vẻo trên lưng lừa, trong lòng vừa buồn thương vừa ai oán. Xuyên không đến đây chưa biết đường về, ừ thì tôi cũng chẳng muốn sống hay tha thiết gì chuyện đấy nhưng có phải chết thế này thì nhạt nhẽo lắm không? “Này La Đạc, Lịch Vũ không biết chuyện mấy anh đồn về tôi trong doanh trại đấy chứ?” - Tôi đột nhiên nhớ ra, quay sang hỏi. Nét mặt La Đạc bỗng dưng rất khó coi như vừa nuốt phải một con ếch, y gãi đầu gãi tai: “Lần trước có một đám lính lỡ lời bị Đô Chỉ Huy Sứ tình cờ đi ngang qua nghe được.” - La Đạc hồi tưởng lại, vẻ mặt không mấy vui tươi. Nhìn qua có thể đoán ngay được đó là ký ức đau buồn. """