"
Luật Sư Nghèo PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Luật Sư Nghèo PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
1.
Người đàn ông mang ủng cao su bước vào thang máy ngay sau tôi nhưng tôi không nhìn thấy ông trước. Mặc dù tôi có ngửi thấy mùi của ông một cái mùi hôi hám của thuốc lá trộn với mùi rượu rẻ tiền, mùi của một cuộc sống lang thang đã lâu không biết đến xà bông và nước sạch. Chỉ có tôi và ông khi thang máy đi lên, và khi rốt cuộc tôi cũng nhìn thấy đôi ủng đen bằng cao su, dơ dáy và quá khổ. Một cái vạt áo khoác sờn rách và te tua trên đầu gối ông. Dưới cái áo khoác là một đống áo cộm lên ở phía giữa, vì thế mà trông ông to tướng gần như là phì nộn. Nhưng mà không phải vì ăn uống tốt mà vì D.C. (quận Columbia) đang là giữa mùa đông, những người lang thang ở đây mặc bất cứ cái gì mà họ có, hay có vẻ là như thế.
Ông ta là người da đen và đã đứng tuổi – râu và tóc của ông đã ngả sang màu xám tro và chắc là không biết đến dao cạo và xà bông hàng năm rồi. Ồng nhìn thẳng về phía trước qua cặp kính dày hoàn toàn không biết có tôi trên đời này, và làm cho tôi ngạc nhiên trong một giây là cớ sao tôi lại phải để tâm đến ông kia chứ.
Ông không phải là người ở đây. Cao ốc này không phải là chỗ của ông, thang máy này không phải nơi ông có thể bước chân vào, đây không phải chỗ mà ông có đủ khả năng để ở. Nhiều luật sư làm việc trong tám tầng lầu này trong những giờ căng thẳng vẫn còn xa lạ đối với tôi dù tôi đã làm ở đây 7 năm rồi.
Lại một tên ma cô nào đó dạt vào đây vì mùa đông. Chuyện này vẫn thường xảy ra ở trung tâm, nhưng làm sao ông ta có thể lọt vào đây, chúng tôi có bảo vệ để ngăn chặn chuyện này mà.
Chúng tôi dừng lại ở lầu 6, và lần đầu tiên tôi nhận ra là ông ta không hề ấn nút. Ông ta chỉ đi theo tôi. Tôi bước ra thật nhanh và trong khi tôi tiến về phòng đợi lát cẩm thạch sang trọng của Công ty Drake & Sweeney, tôi liếc nhanh qua vai quan sát ông đang đứng ngoài thang máy, chẳng nhìn vào đâu cả và không thèm chú ý gì đến tôi.
Bà Devier một trong những người tiếp tân giỏi chịu đựng của chúng tôi chào đón tôi với một cái nhìn khinh khỉnh kiểu cách.
"Để ý thang máy đấy," tôi nói.
"Tại sao?"
"Một thằng lang thang ngoài phố. Bà phải gọi cho cảnh vệ ngay." "Những người này..." bà ta nói với cái giọng lai Pháp.
"Lấy một ít thuốc tẩy uế luôn."
Tôi bỏ đi cởi áo khoác ngoài ra và quên luôn người đàn ông mang ủng cao su nọ. Có một cuộc họp không nghỉ cho tới tận chiều đang chờ tôi, một hội nghị quan trọng với những người quan trọng. Tôi rẽ vào phòng, định nói gì đó với Polly, thư kí của tôi thì tôi nghe thấy tiếng súng đầu tiên.
Bà Devier đứng ngay sau quầy, kinh hoàng tê cứng nhìn vào họng súng dễ sợ dài thòng trong tay của ông bạn ma cà bông nọ. Bởi vì tôi là người đầu tiên chạy đến giúp bà cho nên họng súng cũng lịch sự chĩa luôn vào tôi và làm tôi cứng người vì sợ.
"Đừng bắn," tôi nói, hai tay đưa lên trời. Tôi đã xem khá đủ nhũng bộ phim hành động để biết chính xác phải làm gì trong những trường hợp này.
"Câm miệng," ông ta lẩm bẩm với một giọng chắc nịch.
Có nhiều giọng nói vang lên ngoài hành lang phía sau lưng tôi. Một ai đó hét lên: "Hắn có súng!" Và sau đó những tiếng nói lao xao tắt dần, lịm hẳn khi mà các bạn đồng nghiệp của tôi, chạy bắn ra cửa sau. Tôi gần như có thể thấy họ muốn nhảy qua cửa sổ luôn.
Ngay ở phía tay trái của tôi là một cái cửa gỗ đồ sộ, mở vào một phòng họp lớn lúc này ngẫu nhiên có 8 luật sư ở bộ phận tố tụng. Tám vị luật sư cao ngạo chẳng coi ai ra gì và cũng chẳng hề sợ gì trên đời này hết đang tiêu phí thời giờ vàng ngọc của họ để ăn sống nuốt tươi kẻ khác. Người ghê gớm nhất là một "sát thủ" ưa gây gổ tên là Rafter, và hắn ta giật mạnh cánh cửa la lên: "Chuyện chó gì thế này?" lập tức họng súng chuyển từ tôi sang hắn, và người đàn ông mang ủng cao su làm đúng cái điều mà hắn ta muốn.
"Bỏ súng xuống," Rafter ra lệnh từ lối đi và chưa đến một giây sau một phát súng nổ vang khu tiếp tân, một phát nữa chui thẳng lên trần ở ngay trên đầu Rafter biến hắn trở lại một người phàm tham sống sợ chết. Xoay khẩu súng sang phía tôi, ông ta gật đầu và tôi vâng lời, bước vào phòng họp ngay sau Rafter. Cái cuối cùng tôi nhìn thấy bên ngoài là bà Dever run lẩy bẩy bên bàn, hoàn toàn hồn xiêu phách lạc,
ống nghe lủng lẳng trước ngực, đôi giày cao gót xếp ngay ngắn cạnh giỏ giấy vụn của bà.
Người đàn ông với đôi ủng cao su, đóng cửa lại sau lưng, từ từ vung khẩu súng lên để cho tất cả 8 luật sư có thể chiêm ngưỡng nó. Cử chỉ này có vẻ được việc lắm; thông điệp chết chóc của nó còn dễ nhận thấy hơn cái mùi nồng nặc của chủ nhân nó.
Trong phòng sừng sững một chiếc bàn dài chất đầy những giấy tờ và tài liệu mà chỉ vài giây trước đây còn cực kì quan trọng. Một dãy cửa sổ trông xuống bãi gửi xe. Hai cánh cửa mở ra ngoài hành lang.
"Quay lưng vào tường," ông nói dùng khẩu súng như một cây đũa chỉ huy hữu hiệu. Sau đó ông ta dí nó vào đầu tôi ra lệnh: "Khoá cửa lại."
Và tôi làm theo lệnh.
Không một lời từ phía 8 luật sư kia trong khi họ giật lùi về phía sau. Không một lời từ miệng tôi trong khi tôi nhanh chóng khóa cửa lại sau đó nhìn ông tìm sự biểu đồng tình.
Vì một lí do nào đó, tôi cứ nghĩ mãi đến chuyện xảy ra ở bưu điện và tất cả phát súng kinh khủng ở đó, một nhân viên bất mãn trở về sau bữa ăn trưa với một khẩu súng và lia một phát cho về chầu trời cả 15 đồng nghiệp của hắn. Tôi nghĩ đến một vụ thảm sát ở một khu vui chơi – và một vụ thảm sát khác ở một cửa hàng thức ăn nhanh.
Mà nạn nhân lại là những đứa trẻ vô tội, nếu không thì cũng là những công dân đàng hoàng. Còn chúng tôi thì lại là một lũ luật sư!
Nhả ra những tiếng cằn nhằn cáu kỉnh và vung vẩy khẩu súng, ông ta sắp 8 luật sư thành một hàng quay lưng vào tường, và khi việc sắp đặt đã vừa ý, ông quay sang chú ý đến tôi. Ông ta muốn gì? Ông ta có cật vấn điều gì không? Nếu thế thì chắc chắn ông sẽ rất hài lòng. Tôi không nhìn thấy mắt của ông ta, vì cặp kiếng mát dày cộp, nhưng ông ta có thể nhìn thấy tôi. Khẩu súng đang chĩa vào mắt tôi. Ông ta cởi chiếc áo khoác cáu bẩn, cuộn lại như thể nó quý hoá lắm rồi đặt lên giữa bàn. Cái mùi khó chịu ban nãy trong thang máy lại bốc lên nhưng bây giờ nó không còn quan trọng nữa. Ông đứng ở một đầu bàn, cởi đến lớp thứ hai, một chiếc áo khoác len dày sù sụ màu xám.
Dày vì một lí do. Bên trong áo, quấn ngang người ông là những sợi dây điện đỏ, rõ ràng là mìn dưới đôi mắt không có kinh nghiệm của tôi. Dây điện giống như những sợi mì ống đủ màu cuốn hai đầu những cái que, và một tờ giấy thiếc kết chúng lại với nhau.
Phản ứng đầu tiên của tôi là giật bắn người lên, vùng vẫy chân tay bò ra ngoài cửa, hi vọng một dịp may, hi vọng một phát súng bắn trượt khi tôi mò tìm ổ khoá, sau đó lại một phát trượt nữa khi tôi phóng qua ngưỡng cửa ra ngoài. Nhưng mà tôi run như dẽ, máu tôi đông đặc lại. Có tiếng thở hào hển và tiếng rên nho nhỏ từ 8 luật sư đang đứng áp lưng vào tường, và điều đó quây rầy kẻ bắt giữ chúng tôi. "Làm ơn giữ yên lặng," ông ta nói với cái giọng kiên nhẫn của một ông thầy. Sự bình tĩnh của ông ta làm cho tôi sợ cuống lên. Ông ta kiểm tra lại mấy sợi mì ông quấn quanh bụng, sau đó lôi từ trong một cái túi của cái quần rộng thùng thình ra một cuộn dây nilon màu vàng và một con dao bấm.
Với cái nhìn thăm dò cẩn thận, ông vung vẩy khẩu súng trước các khuôn mặt cắt không còn hột máu đang đứng phía trước ông và nói: "Tôi không muốn làm ai bị thương đâu."
Thật là nhẹ cả người khi nghe điều đó nhưng khó mà tin được. Tôi đếm những cái que màu đỏ – 12 cái cả thảy – tôi chắc chắn nó làm cho tất cả chết không kịp ngáp.
Khẩu súng lại chĩa về phía tôi. "Anh," ông ta nói, "trói những người này lại."
Rafter chắc là đã cảm thấy quá đủ rồi. Hắn bước lên một bước và nói: "Xem này ông bạn, chính xác là ông muốn gì vậy?"
Phát đạn thứ ba sượt qua đầu hắn ghim vào trần nhà và nằm gọn ơ trên đó. Nó vang lên như một khẩu canon và tiếng bà Devier hay một phụ nữ nào đó ré lên trong phòng đợi. Rafter chúi xuống và trong lúc hắn ta cố gượng dậy thì cái cùi chỏ mập mạp của Umstead thúc ngay vào ngực hắn, đưa hắn trở lại vị trí đứng dựa tường ban đầu.
"Im mồm đi." Umstaed nói với hàm răng nghiến chặt.
"Đừng có gọi tôi là ông bạn nghe chưa." Người đàn ông nói và từ ông bạn này ngay lập tức bị loại bỏ.
"Vậy ông muốn chúng tôi gọi ông là gì?" Tôi hỏi, cảm thấy rằng tôi đang trở thành thủ lĩnh của những 10 con tin này. Tôi nói với một vẻ nhẹ nhàng và tôn trọng hết sức. Ông ta đánh giá cao sự kính trọng của tôi.
"Mister," ông ta đáp. Mister là tuyệt đối tốt với tất cả chúng tôi. Điện thoại reng và tôi nghĩ trong vòng 1 phần 10 giây là ông ta sẽ bắn nó. Thay vì thế ông ta khoát tay và tôi đem nó lại đặt trên bàn ngay trước mặt ông. Nhấc ống nghe lên bằng tay trái, tay phải ông vẫn giữ khẩu súng và nó vẫn chĩa vào Rafter.
Nếu chúng tôi có bất cứ một hành động gì thì Rafter sẽ là con cừu tế thần đầu tiên. Tám người cho một.
"Xin chào," Mister nói. Ông ta chỉ nghe một lát sau đó cúp máy. Ông ta thận trọng lùi đến một cái ghế ở một đầu bàn và ngồi xuống.
"Cầm lấy sợi dây đi," ông bảo tôi.
Ông ta muốn tất cả tám người đều bị trói dính với nhau ở cổ tay. Tôi cắt sợi dây, và buộc lại cố hết sức không nhìn vào mặt đồng nghiệp trong lúc tôi đẩy họ đến gần cái chết. Tôi có thể cảm thấy họng súng sau lưng mình. Ông ta muốn họ bị trói thật chặt, và tôi làm bộ xiết chặt hết cỡ trong lúc tôi cố gắng để dây lỏng như tôi có thể làm được.
Rafter làu bàu gì đó trong họng và tôi muốn tát vào mặt hắn. Umstead gồng cổ tay lên vì thế sợi dây gần như lỏng tuột trên tay anh trong khi tôi trói anh xong. Malamud toát mồ hôi hột và thở rất gấp. Ông lớn tuổi nhất là người chung vốn duy nhất trong những con tin, hai năm trước ông đã trải qua một cơn bệnh tim.
Tôi không thể không nhìn Barry Nuzzo, một trong những người bạn của tôi. Chúng tôi cùng tuổi 32 và gia nhập công ty cùng một năm. Anh học ở Princeton, tôi ở Yale. Cả hai bà vợ của chúng tôi đều quê ở Providence. Cuộc hôn nhân của anh tốt đẹp – ba đứa con trong 4 năm. Còn cuộc hôn nhân của tôi thì đang trong giai đoạn cuối cùng của một thời gian dài tan vỡ.
Mắt chúng tôi gặp nhau và chúng tôi cùng nghĩ về bọn trẻ. Tôi cảm thấy may mắn là tôi chưa có con.
Nhũng tiếng còi hú vang lên và Mister bảo tôi hạ kín rèm trên năm cái cửa sổ lớn. Tôi làm theo chỉ thị một cách có phương pháp, căng mắt nhìn xuống bãi đậu xe phía dưới làm như nếu có ai đó nhìn thấy là có thể cứu được mạng tôi. Một chiếc xe
cảnh sát trống rỗng đậu phía dưới, đèn vẫn nhấp nháy liên hồi, cảnh sát chắc chắn đã ở trong tòa nhà.
Và chúng tôi thì ở đây, chín thằng da trắng và Mister.
Theo thống kê mới nhất, Drake & Sweeney có 800 luật sư ở các văn phòng của nó trên khắp thế giới. Một nửa số luật sư này ở D.C. trong tòa nhà mà Mister đang khủng bố này. Mister lệnh cho tôi gọi cho "sếp" thông báo rằng ông ta có vũ trang và cài khắp người 12 dây mìn. Tôi gọi cho Rudolph, người chung vốn phụ trách bộ phận của tôi, chuyên về luật chống độc quyền, và truyền đạt lại thông điệp trên.
"Cậu không sao chứ, Mike?" ông hỏi tôi. Chúng tôi đang ở Mister với cái loa điện thoại được mở hết cỡ.
"Tốt lắm," tôi nói. "Làm ơn hãy làm theo bất cứ những gì ông ta muốn." "Ông ta muốn gì?"
"Tôi cũng chưa biết nữa."
Mister vẫy khẩu súng lên và cuộc trao đổi kết thúc.
Tránh khỏi họng súng tôi bước lại đứng gần cái bàn họp, cách Mister hơn một mét. Ông ta bỗng có một thói quen bứt rứt là nghịch nghịch những cái que đỏ trước ngực một cách lơ đãng.
Ông ta nhìn xuống và gẩy nhẹ vào một cái que đỏ. "Cái que đỏ này này, tôi chỉ cần kéo mạnh một cái là tất cả đi đời." Cặp kính mát nhìn tôi trong khi ông kết thúc lời đe dọa. Tôi cảm thấy phải nói một cái gì đó.
"Tại sao ông lại phải làm thế?" tôi hỏi, mở một cuộc đối thoại một cách tuyệt vọng.
"Tôi chẳng muốn thế đâu, nhưng sao lại không chứ?"
Tôi ngạc nhiên trước cách ăn nói của ông ta, một nhịp điệu chính xác chẳng có gì vội vã, và mỗi âm được phát ra với cùng một cao độ. Ông ta là một gã lang thang đầu đường xó chợ, nhưng hẳn đã có những ngày tốt đẹp.
"Tại sao ông lại muốn giết chúng tôi?" Tôi hỏi.
"Tôi sẽ không tranh luận với anh," ông tuyên bố. Không một câu hỏi nào nữa thưa quan tòa.
Bởi vì tôi là luật sư và sống dựa vào chiếc đồng hồ, tôi liếc nhìn đồng hồ để bất cứ điều gì xảy ra có thể được thuật lại một cách chính xác, nếu như chúng tôi có cơ may sống sót. Bây giờ là một giờ hai mươi phút chiều. Mister thích mọi người giữ yên lặng, vì thế chúng tôi chịu đựng những khoảnh khắc rạn nứt cả hệ thần kinh kéo dài hàng chục phút.
Tôi không tin rằng chúng tôi sẽ chết. Có vẻ như là không có một động cơ, một lí do nào để giết chúng tôi. Tôi chắc rằng không một ai trong chúng tôi từng gặp ông ta. Tôi nhớ lại việc xảy ra trong thang máy, trên thực tế dường như ông ta không biết là phải đi đâu. Ông ta chỉ là một thằng điên khủng bố những con tin, một điều mà đáng buồn thay đã làm cho việc giết người trở thành cơm bữa trong cuộc sống hôm nay.
Nó chính là một kiểu thảm sát vô nghĩa sẽ chiếm hàng tít lớn nhất trên trang nhất trong vòng 24 giờ và làm cho mọi người lắc đầu. Sau đó thì câu chuyện đùa về những luật sư đã nghẻo sẽ bắt đầu.
Tôi có thể nhìn thấy bản tin và nghe những gì nhà báo bình luận, nhưng tôi từ chối tin vào điều đó. Tôi nghe những giọng nói lao xao trong phòng đợi, tiếng còi xa xa và tiếng máy bộ đàm của cảnh sát cọt kẹt đâu đó dưới lối đi.
"Bữa trưa anh ăn gì?" Mister hỏi tôi, giọng ông phá vỡ sự yên lặng. Quá ngạc nhiên để nghĩ đến chuyện nói dối, tôi do dự một giây rồi nói: "Gà chiên ở Caesar."
"Một mình hả?"
"Không, tôi gặp một người bạn." Anh. ấy là một người bạn học từ trường luật ở Philly.
"Hết bao nhiêu tiền cho cả hai người?"
“Ba mươi đô."
Ông ta không thích điều này. "Ba mươi đô cho hai người." Ông lặp lại, lắc đầu, rồi nhìn về phía 8 người kia. Nếu ông ta cật vấn họ tôi mong họ chuẩn bị sẵn 14 việc nói dối. ở đây có nhiều cái dạ dày thật sự đấy, 30 đô không đủ thỏa mãn sự háu đói của họ đâu.
"Anh có biết tôi ăn gì không?"
"Không."
"Tôi ăn súp. Súp và bánh xốp ở một trại tị nạn. Súp miễn phí và tôi rất sung sướng được ăn. Anh có thể nuôi 100 người bạn của tôi với 30 đô ấy, anh biết không?"
Tôi gật đầu một cách thận trọng như thể bất thình lình tôi nhận ra tội lỗi ghê gớm của mình.
"Thu hết ví, tiền, đồng hồ, và đồ trang sức mang lại đây," ông nói, lại vung khẩu súng lên lần nữa.
"Tôi có thể hỏi tại sao không?"
"Không."
Tôi đặt ví, đồng hồ và tiền mặt lên bàn, và bắt đầu thò tay móc túi những người bạn đồng nghiệp.
"Đó là để cho những người bà con ngoài kia," Mister nói và tất cả chúng tôi thở hắt ra.
Ông ta bảo tôi đặt tất cả của cải cướp được vào trong cặp táp khóa lại và gọi cho "sếp" lần nữa. Rudolph trả lời ngay sau hồi chuông đầu tiên. Tôi có thể mường tượng thấy trưởng nhóm cảnh sát đặc nhiệm đang cắm trại ở ngay phòng ông.
"Rudolph, đây là Mike. Tôi đang bên ống nghe."
"Phải, Mike. Cậu có sao không?"
"Không sao. Người này muốn tôi mở cái cửa ở gần khu tiếp tân và đặt cái cặp đen này ở lối đi. Sau đó tôi sẽ đóng cửa và khóa lại hiểu chứ?"
"Hiểu."
Với một khẩu súng sau lưng tôi chậm chạp bưởc ra cửa, thảy chiếc cặp táp ra ngoài hành lang. Tôi chẳng nhìn thấy ai cả.
Có rất ít điều khiến cho một luật sư ở một công ty lớn xao lãng niềm vui kiếm tiền. Ngủ là một, dù hầu hết chúng tôi rất ít ngủ. Ăn thì thực sự kích thích việc kiếm
tiền đấy, nhất là bữa ăn trưa mà khách hàng phải thanh toán. Trong khi từng phút chậm chạp trôi qua tôi thấy mình đang băn khoăn một nỗi là làm sao mà 400 luật sư còn lại trong tòa nhà này có thể cố gắng kiếm tiền trong lúc chờ đợi vụ bắt cóc con tin kết thúc. Tôi có thể nhìn thấy họ thoát ra khỏi đây, trong bãi đậu xe, hầu hết ngồi trên xe cho khỏi lạnh, tán chuyện qua điện thoại cầm tay, phí điện thoại do người khác trả. Công ty sẽ không thể để thua trận này tôi nghĩ vậy.
Một số trong những thằng cắt cổ dưới kia chẳng thèm quan tâm chuyện sẽ kết thúc ra sao. Chúng chỉ vội vã lên và muốn kết thúc cho rồi.
Mister có vẻ như thiếp đi một giây, cằm của ông trễ xuống và hơi thở trở nên nặng nề hơn. Rafter làu bàu để thu hút sự chú ý của tôi, sau đó hất đầu sang một bên như ý muốn nhắc tôi phải hành động. Chết nỗi Mister cầm súng tay phải và nếu ông ta thực sự ngủ thì ông ta sẽ làm một việc chết người với cái que đỏ ông ta nắm chặt trong tay.
Và Rafter muốn tôi thành một người anh hùng. Mặc dù hắn ta rất bần tiện và là một trong những luật sư giỏi nhất của công ty, hắn vẫn chưa phải là người hùn vốn. Hắn không cùng trong một bộ phận với tôi và chúng tôi không phải trong quân đội. Tôi chẳng nhận lệnh từ ai hết.
"Năm ngoái anh kiếm được bao nhiêu tiền?" Mister chợt thức dậy, hỏi tôi với giọng rất rõ ràng. Một lần nữa tôi lại giật mình. "Tôi, để, ờ, coi nào."
"Đừng có nói láo."
"120.000 đô."
Ông ta cũng chẳng thích điều đó nốt. "Anh cho đi bao nhiêu tiền?" "Cho đi?"
"Phải. Làm từ thiện ấy."
"Ô tôi không nhớ. Vợ tôi lo việc quản lí tiền bạc và những chuyện như thế." Tất cả 8 luật sư dường như cứng người lại ngay lập tức.
Mister không thích câu trả lời của tôi, và ông ta không phủ nhận điều đó. "Ai điền phiếu nộp thuế cho anh?"
"Ông muốn nói đến Sở thuế quốc nội IRS phải không?"
"Phải, chính thế."
"Nó được bộ phận thuế ở lầu hai phụ trách."
"Cũng trong tòa nhà này à?"
"Vâng."
"Thế thì lấy lên đây cho tôi. Lấy cho tôi báo cáo về thuế của mỗi người ở đây."
Tôi nhìn vào mặt mọi người, một vài người như muốn nói: "Cứ làm theo lời y và giết tụi tôi đi." Tôi chắc là do dự hơi lâu vì Mister hét lên: "Làm ngay đi!" ông ta vung vẩy khẩu súng khi ông hét lên.
Tôi gọi cho Rudolph, người cũng tỏ ra do dự vậy nên tôi hét trả lại: "Hãy fax ngay lên đây. Năm ngoái thôi."
Chúng tôi sững sờ nhìn máy fax ở góc phòng trong vòng 15 phút, sợ rằng Mister có thể hành hình chúng tôi nếu những tờ khai thuế theo mẫu 1040 của chúng tôi không tới lẹ lẹ một chút.
2.
Được chỉ định như là thư kí của nhóm, tôi ngồi vào chỗ mà Mister chỉ bằng cây súng trong lúc ông chộp lấy những tờ fax. Các bạn đồng nghiệp của tôi đã đứng gần hai tiếng, lưng tựa vào tường vẫn bị trói dính vào nhau, rất khó cử động; họ bắt đầu có vẻ lừ đừ mệt mỏi và trông rất tội nghiệp.
Nhưng sự khó chịu của họ mới chỉ bắt đầu tăng lên một cách có ý nghĩa. "Anh trước," Mister nói với tôi. "Tên anh là gì?
"Michael Brock," tôi trả lời thật lịch sự. Rất vui được gặp ông.
"Anh kiếm được bao nhiêu tiền năm ngoái?"
"Như tôi đã nói với ông. 120.000 đô chưa đóng thuế."
"Anh cho đi bao nhiêu?"
Tôi chắc rằng tôi có thể nói láo. Tôi không phải là luật sư về thuế, nhưng tôi tin rằng tôi có thể làm xiếc với câu hỏi này. Tôi lấy tờ kê khai của tôi và mất một lúc để đọc qua những tờ giấy này. Claire kiếm được 31.000 đô với tư cách là bác sĩ nội trú năm thứ hai, vì thế chúng tôi kiếm được kha khá. Nhưng chúng tôi phải trả thuế tất cả 53.000 đô – gồm có thuế lợi tức liên bang và ti tỉ những loại thuế khác – và sau khi trả nợ tiền vay đi học thời sinh viên, tiền học phí cho Claire, 2.400 đô tiền thuê một căn hộ sang trọng ở Georgetown, tiền thế chấp bắt buộc cho hai chiếc xe đời mới, và một lô những chi phí thông thường khác phục vụ một cuộc sống tiện nghi, chúng tôi chỉ còn số vốn đầu tư sinh lời là 24.000 đô một năm.
Mister nghe tôi một cách kiên nhẫn. Trong thực tế sự kiên nhẫn của ông ta bắt đầu làm tôi lo ngại. Tôi đồ rằng những thành viên của đội đặc nhiệm đang bò trong ống thông hơi, trèo trên những ngọn cây mọc gần đấy, chạy trên các mái nhà của tòa nhà bên cạnh, quan sát thiết kế của tòa nhà này, làm tất cả những gì mà bạn thấy trên TV với một mục tiêu là ghim một viên đạn vào sọ ông ta, và dường nhưng chính ông cũng biết điều đó. Ông ta chấp nhận số phận và sẵn sàng chết. Nhưng còn tất cả chúng tôi thì sao?
Ông ta tiếp tục nghịch nghịch cái que màu đỏ và làm cho tim tôi đập đến trên 100 nhịp.
"Tôi hiến 1.000 đô cho Yale," tôi nói, "và 2.000 đô cho United Way tại đây." "Anh đưa cho người nghèo bao nhiêu?"
Tôi không biết là Yale có dùng số tiền này cho sinh viên nghèo không. "Vâng United Way rải số tiền này khắp thành phố, và tôi tin rằng một phần lớn số tiền này sẽ được đưa đi giúp người nghèo."
"Anh đã cho người đói bao nhiêu tiền?"
"Tôi trả thuế 53.000 đô, và một số lớn trong đó là vào phúc lợi xã hội như là trợ cấp y tế, trợ cấp cho những trẻ em nghèo, đại loại như vậy."
"Anh làm tất cả những điều này một cách tự nguyện với tất cả tâm hồn của mình chứ?"
"Tôi không phàn nàn gì hết", tôi nói dối như tất cả mọi người.
"Anh đã đói bao giờ chưa?"
Ông ta thích những câu trả lời đơn giản, và sự thông minh hài hước của tôi chẳng có tác dụng gì.
"Không," tôi đáp, "chưa bao giờ."
"Anh đã bao giờ ngủ trong tuyết chưa?"
"Chưa."
"Anh làm ra rất nhiều tiền, vậy mà anh quá tham lam keo kiệt để có thể cho tôi vài đồng lẻ trên lối đi." Ông ta vung súng chỉ những người còn lại. "Tất cả các anh, các anh bước qua chỗ tôi ngồi ăn xin. Các anh tiêu cho một bữa cà phê sang trọng còn nhiều hơn những bữa ăn của tôi. Tại sao các anh không giúp người nghèo, người ốm, người không cửa không nhà? Các anh giàu quá mà."
Tôi bắt gặp mình đang nhìn những con người tham lam này cùng với Mister, và đó chẳng phải là điều đẹp đẽ gì. Hầu hết mọi người đều nhìn xuống chân mình. Chỉ có Rafter là nhìn xuống bàn họp, nghĩ về những gì hiện ra trong đầu tất cả chúng tôi khi chúng tôi bước qua mặt Mister ở D.C. này: Nếu tôi cho ông tiền lẻ thì ông sẽ (1) nốc đẫy rượu vào, (2) chỉ có nài thêm nữa thôi, (3) sẽ không bao giờ rời lề đường đó.
Im lặng nữa. Một chiếc trực thăng xà quần gần đó, và tôi có thể hình dung họ đã sắp đặt như thế nào ở bãi đậu xe. Theo chỉ thị của Mister, điện thoại đã bị gác, vì thế mà chẳng có liên hệ với bên ngoài. Ông ta chẳng có mong muốn trao đổi hay thương lượng gì hết. Ông ta đã có cử tọa trong phòng họp này.
"Ai trong số này kiếm được nhiều tiền nhất?" ông ta hỏi tôi.
Chỉ có Malamud là người hùn vốn, và tôi xáo những tờ giấy cho đến khi tìm thấy tờ phiếu của ông ta.
"Chắc là tôi," Malamud nói.
"Tên ông là gì?"
"Nate Malamud."
Tôi đọc qua bản kê khai của Malamud. Thật là một khoảnh khắc hiếm hoi được ghé mắt nhìn những chi tiết bí mật trong bản kê thu nhập của một người hùn vốn, nhưng tôi chẳng vui vẻ gì về chuyện đó hết.
Ôi niềm vui của bản thống kê thu nhập. Thưa ông, ông muốn biết gì? Tổng số ư? Tổng số đã được điều chỉnh ư? Phần phải chịu thuế ư? Thu nhập từ lương và phụ cấp? Hay thu nhập từ việc kinh doanh và đầu tư?
Lương công ty trả cho Malamud một tháng là 50.000 đô, và tiền thưởng hàng năm của ông ta, một điều mà tất cả chúng tôi đều mơ ước, là 510.000 đô. Năm ngoái là một năm bội thu tất cả chúng tôi đều biết thế. Ông là một trong nhiều người hùn vốn có số thu nhập trên một triệu đô một năm.
Tôi quyết định chơi thật an toàn. Có nhiều khoản thu nhập được giấu ở phần sau của bản thông kê – tiền cho thuê những cơ sở vật chất, cổ tức, và những công cuộc kinh doanh nhỏ - nhung tôi sợ rằng Mister có thể chộp lấy bản thông kê và đánh vật với những con số.
"Một triệu mốt," tôi đáp bớt đi hai trăm ngàn đô.
Mister ngẫm nghĩ con số đó trong một lúc. "Ông làm ra hàng triệu đô," Mister nói với Malamud, người thậm chí chẳng hề xấu hổ về điều đó.
"Vâng."
"Ông đã cho người đói và người không cửa không nhà bao nhiêu?"
Tôi có thể dò xét được ông ta biến báo như thế nào.
"Tôi không nhớ chính xác, vợ chồng tôi làm từ thiện rất nhiều. Tôi nhớ có một khoản 5.000 đô cho vào Quĩ Greater D.C. Fund, nơi này như tôi biết phân phối tiền cho những người cần. Chúng tôi làm từ thiện nhiều lắm. Chúng tôi rất vui khi làm như vậy."
"Tôi chắc là ông rất vui rồi,” Mister nói với một vẻ hài hước đầu tiên.
Ông ta không cho phép chúng tôi giải thích là chúng tôi đã hào phóng như thế nào. Ông ta chỉ cần những sự thật trần trụi. Ông hướng đẫn tôi kê tên 9 người và bên cạnh tên là cột tổng thu nhập năm ngoái và tổng số tiền làm từ thiện.
Việc này cũng phải mất một lúc, tôi không biết là nên làm vội vã hay cứ từ từ. Liệu ông ta có giết tất cả chúng tôi khi ông ta không thích những con tính này không? Có lẽ là tôi chẳng nên vội vã làm gì. Thật rõ ràng là những người giàu có chúng tôi đã cho không đi rất ít. Cũng lúc đó tôi hiểu rằng tình huống này càng kéo dài bao nhiêu thì cuộc giải cứu càng trở nên điên rồ bấy nhiêu.
Ông ta không hề nói gì đến việc thịt tất cả những con tin. Ông ta không nói gì đến việc giải phóng bạn bè ông ta ra khỏi tù. Ông ta có vẻ không muốn gì hết, thật thế.
Tôi cứ thong thả. Malaxnud dẫn đầu, kế đó là Colbum, một luật sư làm việc năm thứ ba có tổng thu nhập là 86.000 đô. Tôi nản chí khi khám phá ra là anh bạn tôi Barry Nuzzo thu nhập nhiều hơn tôi 11.000. Chúng tôi sẽ thảo luận về chuyện này sau.
"Nếu ông muốn biết thì con số tổng thu nhập của chúng tôi là 3 triệu đô một năm," tôi nói với Mister người hình như chợt thiếp đi tay vẫn giữ cái que màu đỏ.
Ông chậm rãi lắc đầu: "Và bao nhiêu tiền cho người nghèo?"
"Tổng số tiền đóng góp cho người nghèo là 180.000 đô."
"Tôi không muốn tổng số đóng góp. Đừng có đổ đồng tôi và những người của tôi vào một bọn với các người như trong một dàn nhạc giao hưởng, trong tất cả các câu lạc bộ đẹp đẽ của bọn da trắng các người nơi các người uống rượu xin và bán đấu giá bút tích rồi bố thí một vài đồng cho lũ hướng đạo sinh. Tôi đang nói về thức ăn. Thức ăn cho những người đói sống ở đây, trong cùng một thành phố với các ông đây này. Thức ăn cho trẻ nhỏ. Ngay tại đây này. Ngay trong thành phố này, nơi với bọn các
người kiếm tiền bạc triệu, chúng tôi có những đứa trẻ sơ sinh khóc suốt đêm, khóc vì đói. Bao nhiêu tiền cho thức ăn nào?"
Ông nhìn tôi, tôi nhìn xuống tờ giấy trước mặt, tôi không thể nói dối.
Ông tiếp tục. "Bọn này có những bếp ăn từ thiện ở khắp thành phố, nơi những người nghèo và những người không cửa không nhà có thể kiếm chút gì bỏ vào miệng. Bọn các người đưa bao nhiêu tiền cho những bếp ăn này? Có không?"
"Không trực tiếp," tôi nói, "nhưng một số cơ sở từ thiện –”
"Im mồm," và ông ta lại vung súng lên."Thế còn những trại cho người vô gia cư. Chỗ chúng tôi ngủ nhiệt độ là 10 độ1*. Có bao nhiêu cái trại như thế trong những tờ giấy này?"
Đầu tôi chịu không nghĩ ra được điều gì. "Không," tôi nói nhẹ nhàng.
Ông nhảy lên làm hết thảy chúng tôi giật mình kinh sợ, những cái que màu đỏ rung rinh trong miếng giấy thiếc. Ông đá cái ghế lùi lại. "Thế còn các trại tế bần. Chúng tôi có một số nhà thương thí nho nhỏ nơi các bác sĩ – những người đứng đắn tốt bụng, từng kiếm được khôi tiền đấy – đến đây và cống hiến thời gian của họ cho những người bệnh. Họ chẳng được trả lương gì hết. Chính phủ đã từng giúp trả tiền thuê mặt bằng, tiền mua thuốc và dụng cụ y tế. Nhưng bây giờ khi Newt nắm quyền điều hành thì tiền bạc đi đâu mất. Các anh đã công hiến vào những nhà thương này bao nhiêu?"
Rafter nhìn tôi như thể muốn tôi làm một cái gì đó như là bất thình lình nhìn thấy một cái gì đó trong đông giấy tờ và kêu lên. "Ô, nhìn này! Chúng tôi đã cống nộp vào các bếp ăn từ thiện và các nhà thương thí nửa triệu đô."
Đó chính là cái điều mà Rafter sẽ làm nhưng không phải tôi. Tôi không muốn xơi một viên đạn. Mister thông minh hơn cái vẻ bên ngoài nhiều.
Tôi chúi đầu vào mớ giấy tờ trong lúc Mister đến bên cửa sổ, nhìn qua khe rèm. "Cớm ở khắp mọi nơi," ông ta nói, đủ cho chúng tôi nghe thấy. "Và rất nhiều xe cứu thương."
Sau đó ông ta quên đi cảnh tượng bên dưới, lê bước đến một đầu bàn đi tiếp cho đến khi ông đến gần các con tin. Họ quan sát từng cử chỉ của ông, với một sự chú ý đặc biệt đến một tiếng nổ. Ông từ từ nâng khẩu súng lên nhắm ngay vào mũi Colburn, chỉ cách khoảng hơn một mét.
"Anh cho các nhà thương bao nhiêu tiền?"
"Không," Colburn nói nhắm chặt mắt lại, sẵn sàng khóc òa lên. Trái tim tôi cúng lại trong lồng ngực, tôi nín thở.
"Bao nhiêu tiền cho bếp ăn từ thiện?"
"Không."
"Bao nhiêu tiền cho cho trại tị nạn của những người vô gia cư?"
"Không."
Thay vì bắn Colburn, ông nhắm vào Nuzzo và lặp lại ba câu hỏi trên. Nuzzo trả lời tương tự và ông từ từ chuyển xuống cuối hàng người, dí súng vào mũi họ, hỏi ngần ấy câu và nhận được bằng ấy câu trả lời giống nhau. Ông không bắn Rafter, thật không may cho chúng tôi quá.
"Ba triệu đô," ông nói vẻ kinh tởm, "và không một xu cho những người bệnh và những người đói khát. Các anh là những kẻ khốn khổ thảm hại."
Chúng tôi cảm thấy khốn khổ thật. Và tôi nhận thấy là ông sẽ không giết chúng tôi. Làm cách nào mà một gã ma cà bông ngoài phố có thể có mìn? Ai dạy ông ta cách cài mìn chứ?
Khi trời tối ông nói ông đói và bảo tôi gọi điện cho sếp và gọi món súp từ Methodist Mission giữa đường L và đường 17, vùng Đông Bắc. Ở đây họ cho nhiều rau trong nước súp, Mister nói và bánh mì thì không quá cứng như ở các nơi khác.
"Bếp từ thiện này có mang súp đến không?" Rudolph hỏi với giọng ngỡ ngàng. Giọng của ông vọng lên trong phòng từ cái loa.
"Hãy làm thế đi Rudolph.” Tôi sủa vào máy, "và làm cho đủ 10 người ăn." Mister bảo tôi cúp máy và lại gác ống nghe lên.
Tôi có thể nhìn thấy bạn bè tôi và cả một tiểu đội cảnh sát bay ngang qua thành phố, trong giờ cao điểm nhất đến một hội thánh nhỏ yên tĩnh nơi những người vô gia cư rách rưới nhất đang cúi người trên tô súp, họ sẽ tự hỏi không biết chuyện quái quỷ gì xảy ra thế này. Mười phần súp cùng với bánh mì.
Mister lại ra đứng bên cửa sổ khi chúng tôi nghe tiếng máy bay lên thẳng một lần nữa. Ông ghé mắt nhòm và quay lại gãi gãi râu suy nghĩ về tình thế này. Không hiểu chiến lược của họ là gì mà dùng đến cả máy bay thế này, có thể là để chuyển những người bị thương.
Umstead bồn chồn không yên cả giờ rồi, thật là không may cho Rafter và Malamud những người bị trói chung với anh ta. Cuối cùng anh ta không thể chịu được nữa.
"Ô xin lỗi ông, ơ nhưng, nhưng mà tôi ơ không thể chịu được nữa. Tôi muốn đi toilet."
Mister vẫn gãi râu. "Toilet hả, mà cái gì kia chứ."
"Tôi muốn đi tiểu thưa ngài," Umstead nói khổ sở như một học sinh lớp 3. "Tôi không thể nhịn lâu hơn nữa."
Mister nhìn quanh phòng thấy một cái bình sứ đặt một cách vô tư trên bàn uống cà phê. Với một cái vẫy nữa ông ra lệnh cho tôi cởi trói cho Umstead.
"Toilet kia kìa." Mister nói.
Umstead bỏ hoa tươi ra khỏi bàn và quay lưng lại chúng tôi anh ta mất một lúc để xả bầu tâm sự trong khi chúng tôi cắm mặt xuống sàn nhà. Khi anh ta xong xuôi, Mister bảo chúng tôi khiêng cái bàn họp đến gần cửa sổ. Bàn dài 5 mét bằng gỗ óc chó chắc nịch như tất cả những đồ gỗ ở Drake & Sweeney, và chúng tôi mỗi người một đầu bàn lặc lè khênh chiếc bàn đi độ gần ba mét cho đến khi Mister bảo dừng lại. Ông bảo tôi trói tay Rafter và Malamud lại với nhau để cho Umstead được tự do. Tôi sẽ không bao giờ hiểu được tại sao ông làm vậy.
Tiếp đó ông bảo bảy con tin bị trói còn lại ngồi lên bàn lưng tựa vào tường. Không ai dám mở miệng hỏi tại sao nhưng tôi đoán ông muốn dùng họ làm bia đỡ đạn từ bên ngoài. Sau này tôi được biết rằng cảnh sát đã cho 28 những người bắn tỉa núp ở tòa nhà bên cạnh. Có lẽ Mister đã nhìn thấy họ.
Sau khi đã đứng suốt 5 giờ, Rafter và mọi người khoan khoái được duỗi dài chân ra. Umstead và tôi được bảo ngồi trên ghế, Mister thì ngồi ở cuối bàn. Chúng tôi đợi.
Cuộc sống trên phố phường chắc là dạy cho người ta lòng kiên nhẫn, ông ta xem ra có vẻ hài lòng ngồi yên lặng một lúc thật lâu, cặp mắt giấu sau cặp kính và
mái đầu im phăng phắc.
"Ai tiến hành việc đuổi người thuê nhà?" Ông hỏi không nhằm vào một người cụ thể nào, ông để cho một vài phút trôi qua trước khi lặp lại một lần nữa.
Chúng tôi nhìn nhau bối rối chẳng hiểu là ông ta nói cái gì nữa. Ông rõ ràng là đang nhìn vào một điểm trên bàn cách chân phải của Colburn không xa.
"Các người không những không thèm quan tâm đến những người vô gia cư, các người còn tiếp tay trong việc tống cổ họ ra ngoài đường nữa."
Chúng tôi tất nhiên là giữ im lặng, cũng là một kiểu thôi mà. Nếu ông ta muốn chất chồng tội lỗi lên chúng tôi bằng cách nói thế thì chúng tôi hoàn toàn ngoan ngoãn chấp nhận.
Đồ ăn được mang tới vài phút trước 7 giờ. Một tiếng gõ mạnh lên cánh cửa. Mister bảo tôi gọi điện thoại thông báo với cảnh sát rằng chỉ cần ông ta nhìn hay nghe thấy có người ở bên ngoài ông ta sẽ giết ngay một người trong chúng tôi. Tôi giải thích cặn kẽ với Rudolph về điều này, nhấn mạnh rằng mọi cô gắng giải cứu là không cần thiết. Chúng tôi đang thương lượng.
Rudolph nói là ông hiểu chuyện đó.
Umstead bước ra cửa, mở khóa và nhìn Mister đợi chỉ thị. Mister đi ngay sau Umstead, với khẩu súng chỉ cách đầu anh ta không đầy nửa mét.
"Từ từ mở cửa ra."
Tôi đứng sau Mister hơn một mét khi cửa mở. Thức ăn để trên một chiếc xe đẩy nhỏ, một loại xe mà các phụ tá luật sư thường dùng để chở một lượng khổng lồ giấy tờ mà chúng tôi sản xuất ra. Tôi có thể nhìn thấy bốn thố bằng plastic lớn đựng súp và một bịch giấy nâu đựng đầy bánh mì. Tôi không biết là có gì để uống không. Chúng tôi sẽ không bao giờ biết điều này.
Umstead bước một bước ra ngoài cửa chộp lấy cái xe đẩy, và đang chuẩn bị đẩy nó trở vào phòng họp thì một phát súng xé không khí vang lên. Một cảnh sát bắn tỉa núp sau một cái bàn nhỏ gần quầy tiếp tân của bà Devier, cách đấy chưa đầy 20 mét, đã có được một đường ngắm rất tốt. Khi Umstead cúi xuống kéo chiếc xe, đầu của Mister nhô ra trong giây lát và người bắn tỉa đã nổ súng.
Mister ngã vật ra sau không thốt lên được một tiếng, còn mặt tôi ngay lập tức phủ đầy máu và chất dịch lầy nhầy. Tôi nghĩ là tôi cũng bị trúng đạn luôn và tôi nhớ là đã kêu lên vì đau đớn. Umstead la hét đâu đó trong hành lang. Bẩy người kia bò lổm ngổm như nhũng con chó bị dội nước sôi, tất cả đều la hét và cố sống cố chết chạy ra cửa, người này giằng tay người kia. Tôi khuỵu xuống, bịt chặt lấy mắt chờ mìn nổ, sau đó tôi phóng ra cửa bên kia, tránh xa cảnh hỗn loạn trên. Tôi mở khóa, tông thật mạnh ra ngoài và hình ảnh cuối cùng của Mister mà tôi nhìn thấy là ông nằm ngay đơ trên một tấm thảm phương Đông đắt tiền của chúng tôi. Hai tay ông bỏ thõng hai bên mình, chẳng đụng tới được những cái que màu đỏ.
Hành lang bỗng đầy những cảnh sát đặc nhiệm, tất cả đều đội mũ bảo hiểm và mặc áo chống đạn, nhiều người bò ra từ chỗ nấp. Trông họ lờ mờ. Họ túm lấy chúng tôi và mang chúng tôi qua khu vực tiếp tân ra thang máy.
"Ông có bị thương không?"
Tôi trả lời không biết, mặt tôi đầy những máu và một chất gì đó lầy nhầy mà sau này các bác sĩ nói là chất dịch não.
3.
Ở tầng một, khoảng an toàn, cách xa Mister là gia đình và bè bạn đang đợi chúng tôi. Hàng chục đồng nghiệp và cộng sự tụ tập trong các phòng làm việc hoặc ở hành lang chờ chúng tôi được phóng thích. Một tiếng reo hò vang lên khi họ trong thấy chúng tôi.
Bởi vì người tôi đầy máu họ mang tôi vào một phòng tập nhỏ ở dưới tầng hầm. Đó là phòng tập của công ty nhưng chẳng mấy khi các luật sư để mắt đến. Chúng tôi quá bận rộn không thể nghĩ đến chuyện tập tành, và bất cứ ai bị bắt gặp đang tập luyện thì hầu như chắc chắn bị giao thêm công tác.
Ngay lập tức tôi được vây quanh bởi các nhân viên y tế, chẳng có ai trong số đó là vợ tôi. Một khi tôi đã cam đoan là máu trên người không phải là máu của tôi, họ yên tâm ngay và tiến hành một cuộc kiểm tra thông thường. Huyết áp có tăng và mạch đập như điên. Họ cho tôi một viên thuốc.
Điều mà tôi thực sự cần là tắm. Họ bắt tôi nằm trên một cái bàn khoảng 10 phút trong lúc họ kiểm tra huyết áp. "Tôi có bị sốc không?" tôi hỏi.
"Có lẽ không."
Tôi cũng cảm thấy như vậy. Mà Claire ở đâu nhỉ? Trong vòng 6 tiếng đồng hồ tôi ở ngay trước mũi súng, tính mạng treo trên sợi tóc nàng cũng chẳng nóng lòng muốn gặp tôi cùng với toàn bộ người thân của những con tin còn lại.
Tôi tắm nước nóng thật lâu. Tôi gội đầu ba lần với loại dầu mạnh có mùi thơm ngát. Sau đó tôi đứng im tận hưởng một cảm xúc vĩnh cửu. Thời gian ngùng lại. Chẳng có gì có ý nghĩa hết. Tôi còn sống, tôi đang thở và người tôi còn phảng phất hơi nước sau khi tắm.
Tôi mặc một bộ đồ thể thao sạch sẽ của ai đó quá rộng đối với tôi, và quay trở lại cái bàn để kiểm tra huyết áp lần nữa. Polly, thư kí của tôi bước vào và ôm tôi thật chặt. Tôi mới cần một vòng ôm làm sao chứ. Nước mắt chạy vòng quanh trên mặt cô.
"Claire đâu?" tôi hỏi cô.
"Đang liên lạc. Tôi cố gắng gọi cho chị ấy ở bệnh viện."
Polly biết rằng cuộc hôn nhân của chúng tôi cũng chẳng còn được mấy nả.
"Anh không sao chứ?" cô hỏi.
"Không sao."
Tôi cám ơn các bác sĩ và rời khỏi phòng tập thể thao. Rudolph gặp tôi ở ngoài sảnh và ôm tôi một cách .vụng về. Ông dùng chữ chúc mừng như thể tôi vừa hoàn thành xong một công việc gì đó.
"Không ai mong cậu làm việc ngày mai đâu." Ông nói. Chẳng lẽ ông nghĩ một ngày nghỉ việc có thể chữa chạy được mọi vấn đề của tôi sao?
"Tôi còn chưa nghĩ đến ngày mai," tôi nói.
"Cậu cần phải nghỉ ngơi," ông nói thêm cứ như bác sĩ còn chưa nghĩ đến việc đó ấy.
Tôi muốn nói chuyện với Barry Nuzzo nhưng những con tin khác đã rời khỏi rồi. Không một ai bị thương, chỉ một vài vết trói còn để lại trên cổ tay.
Với một con số thiệt hại đến mức tối thiểu, và với những gã trai lành lặn tươi cười, sự cố ở Drake & Sweeney nhanh chóng qua đi. Hầu hết các luật sư và các nhân viên đứng chờ một cách nôn nóng ở dưới lầu một, cách xa khỏi Mister và những dây mìn của ông ta. Polly cầm áo khoác của tôi và tôi mặc ra ngoài bộ đồ thể thao thùng thình. Đôi giày đế phẳng của tôi trông kì cục lắm nhưng tôi không quan tâm.
"Ở ngoài có các nhà báo đấy," Polly nói.
Ồ phải rồi, các phương tiện thông tin đại chúng. Thật là một câu chuyện động trời chứ! Không phải chuyện tầm phào nào đâu nhé mà là chuyện cả một lũ luật sư bị một thằng điên ngoài phố bắt làm con tin nhé.
Nhưng mà họ cũng chẳng kiếm được bài báo nào, phải không? Các luật sư đã thoát nạn, thằng cha khùng xơi một viên đạn, mìn xịt ngòi khi chủ nhân của nó ngã xuống sàn. ôi nếu như mà có những chuyện khác nhỉ! Một phát súng rồi một quả bom nổ, những chùm tia sáng trắng lóe lên từ sau những cửa sổ nghiêng ngả, chân tay người vương vãi trên đường phố, và tất cả sẽ được truyền hình trực tiếp một cách thật đầy đủ trên kênh 9 cho bản tin nóng buổi tối.
"Để em đưa anh về nhà nhé," Polly nói, "nào đi theo em." Tôi rất biết ơn nếu như có ai bảo tôi phải làm gì.
Đầu óc tôi trở nên chậm chạp và mụ mẫm, một cái hộp trống rỗng chẳng hề suy nghĩ được gì sất.
Chúng tôi rời khỏi tòa nhà bằng cửa nội bộ. Không khí bên ngoài lạnh và tươi mát, và tôi hít đầy lồng ngực cái không khí ngọt ngào tươi mát đó cho đến khi tôi cảm thấy đau ở ngực. Trong lúc Polly chạy đi lấy xe tôi đứng ở một góc tòa nhà quan sát ngã tư trước mặt. Có nhiều xe cảnh sát, xe cứu thương, xe tải của truyền hình, thậm chí cả xe cứu hỏa. Họ đang thu xếp và bỏ đi. Một trong những chiếc xe cứu thương đậu quay đít về tòa nhà, không nghi ngờ gì là đang đợi để mang xác của Mister đi.
Tôi còn sống! Tôi còn sống! Tôi nói đi nói lại điều đó, lần đầu tiên mỉm cười. Tôi còn sông! Tôi nhắm mắt lại, thốt ra một lời cầu nguyện tạ ơn ngắn ngủi nhưng chân thành.
Những âm thanh của phố phường bắt đầu trở lại. Chúng tôi ngồi im lặng trong xe, Polly sau tay lái, chầm chậm lái xe đi chờ tôi nói một cái gì đó, chợt tôi nghe như có tiếng bóp cò của người lính bắn tỉa. Sau cái tiếng động của nó là sự tháo chạy toán loạn khi những con tin khác bò trên bàn tháo chạy ra ngoài cửa.
Tôi đã chứng kiến những gì? Tôi đã liếc về phía bàn họp nơi mà bảy người ngồi nhìn chăm chăm ra cửa, rồi tôi ở sau lưng Mister khi ông này giương cao súng dí vào gáy Umstead. Tôi đã ở ngay sau lưng ông khi ông bị bắn. Cái gì sẽ xảy ra nếu như viên đạn đi qua người Mister rồi lại xuyên vào tôi? Đạn có thể xuyên qua tường, cửa và cả người nữa.
"Ông ta không định giết chúng tôi," tôi nói chỉ vừa đủ nghe.
Polly nhẹ cả người khi nghe tôi nói. "Vậy thì ông ta định làm gì?" "Không biết."
"Ông ta muốn gì?"
"Ông ta chẳng hề nói ra. Thật lạ lùng khi chúng tôi nói với nhau rất ít. Chúng tôi ngồi suốt mấy tiếng đồng hồ chỉ để nhìn nhau."
"Tại sao ông ta không chịu nói chuyện với cảnh sát?"
"Ai mà biết được. Đó là sai lầm lớn nhất của ông ta. Nếu ông ta chịu cho tôi nói điện thoại tôi có thể thuyết phục được cảnh sát là ông ta không định giết chúng tôi."
"Anh không đổ lỗi cho cảnh sát đấy chứ?"
"Không, nhớ nhắc tôi viết thư cảm ơn họ."
"Mai anh đi làm không?"
"Chứ tôi còn làm gì khác được nữa?"
"Tôi nghĩ là anh cần nghỉ một ngày."
"Tôi muốn nghỉ một năm. Một ngày chẳng có ích gì."
Căn hộ của chúng tôi nằm trên lầu ba ở một dãy nhà nằm trên đường P ở Georgetown. Polly dừng xe ở trước vạch cấm. Tôi cảm ơn cô và ra khỏi xe, và tôi có thể nhìn vào khung cửa sổ tối om để nói rằng Claire không có nhà.
Tôi gặp nàng một tuần sau khi tôi chuyển đến D.C. Tôi vừa tốt nghiệp Yale và có một công việc ngon lành ở một công ty giàu có, một tương lai xán lạn đang ở phía trước giống như 50 bạn học cùng lớp của tôi. Nàng thì vừa lấy bằng tốt nghiệp về khoa học chính trị tại American University. Ông nội nàng từng là thống đốc bang Rhode Island, và gia đình nàng có truyền thống rất lâu đời.
Drake & Sweeney như mọi công ty lớn khác, huấn luyện lính mới như người ta dạy dỗ tân binh trong quân đội. Tôi làm 15 giờ một ngày và 6 ngày một tuần, và chỉ đến Chủ nhật chúng tôi mới có thời gian hò hẹn. Các đêm Chủ nhật tôi nghỉ lại văn phòng. Chúng tôi nghĩ rằng nếu cưới nhau chúng tôi sẽ có nhiều thời gian bên nhau hơn. Ít nhất thì chúng tôi cũng chia sẻ cái giường, nhưng thật ra phần lớn thời gian bên nhau chúng tôi dành để ngủ.
Đám cưới rất thịnh soạn, kì trăng mật ngắn ngủi, và khi mà những ham muốn xác thịt ban đầu đã được thỏa mãn tôi trở lại làm việc 90 giờ một tuần. Tháng thứ ba sau khi cưới chúng tôi có đến một mạch 18 ngày không có chuyện chăn gối. Ấy là theo tính toán của nàng.
Nàng rất nhiệt tình trong vài tháng đầu, sau đó nàng trở nên mệt mỏi vì cứ bị bỏ quên. Tôi không trách nàng nhưng những luật sư trẻ không than phiền trong các thánh đường ở Drake & Sweeney. Mỗi thế hệ có chưa đến 10% luật sư trở thành người hùn vốn, vì thế mà cuộc chạy đua là rất khốc liệt. Phần thưởng thì cực lớn, ít nhất là một triệu một năm. Làm thật nhiều giờ, kiếm thật nhiều tiền còn quan trọng
hơn là làm cho một người vợ hạnh phúc. Li dị như cơm bữa. Tôi chẳng mơ đến việc đề nghị Rudolph bớt việc cho tôi.
Vào cuối năm đầu tiên chung sống, Claire rất bất hạnh, và chúng tôi bắt đầu cãi nhau.
Nàng quyết định đi học trường y. Mệt mỏi vì cứ ngồi một mình cả ngày xem TV nàng cho rằng nàng cũng cỏ thể trở thành một người sinh ra cho sự nghiệp như tôi. Tôi cho rằng đấy là một ý định tuyệt vời. Nó làm cho tôi không cảm thấy mình có lỗi lắm lắm nữa.
Sau bốn năm làm việc ở công ty, người ta bắt đầu đưa ra những gợi ý về cơ hội để trở thành người chung vốn trong công ty. Những gợi ý được đưa ra rồi so sánh trong nhiều ứng cử viên. Rõ ràng là tôi đang gần đến mục tiêu, chỉ cần tôi phải cố gắng nhiều hơn nữa.
Claire rõ ràng là bắt đầu ít ở nhà hơn là tôi nữa và cả hai chúng tôi càng ngày càng trượt dần vào thói quen ngu ngốc của những người lúc nào cũng chỉ biết đến công việc. Chúng tôi thôi không cãi cọ với nhau nữa chỉ đơn giản là ngày càng trở nên xa lạ với nhau. Nàng có những người bạn riêng và có những mối quan tâm riêng, tôi cũng thế. Thật may mắn là chúng tôi đã không mắc sai lầm trong việc phòng tránh thai.
Ước gì tôi có thể làm khác đi. Chúng tôi từng yêu nhau và đã để tình yêu trôi qua.
Khi tôi về đến càn nhà tôi om, lần đầu tiên trong nhiều năm nay tôi thấy cần có Claire. Khi mà bạn mặt đối mặt với cái chết bạn sẽ cần có một ai đó để nghe bạn nói về nó biết bao. Bạn cần cảm thấy là mình cần thiết, cần được âu yếm, cần được nói với người quan tâm tới bạn.
Tôi pha một li Votka với đá, và ngồi ở ghế sofa trong phòng khách nhỏ. Tôi bực bội và phiền muộn lắm bởi vì tôi cô đơn quá, sau đó thì tâm trí của tôi lại trở về sáu giờ mà tôi phải trải qua với Mister.
Hai li Votka nữa và tôi nghe thấy tiếng chân Claire ngoài cửa. Nàng mở khóa và gọi: "Michael."
Tôi chẳng nói một lời bởi vì tôi vẫn còn đang ở một tâm trạng xấu lắm. Nàng bước vào phòng, dừng lại khi nhìn thấy tôi. "Anh không sao chứ?" Nàng hỏi với một mối quan tâm thành thực.
"Anh ổn thôi," tôi nói nhẹ nhàng.
Nàng bỏ giỏ xách xuống cởi áo ngoài và rụt rè đi đến bên ghế sofa. "Em ở đâu từ bấy đến giờ?"
"Trong bệnh viện."
"Tất nhiên rồi," tôi nói và làm một ngụm rượu to. "Ồ anh đã có một ngày kinh khủng."
"Em biết tất cả những chuyện đó, Michael."
"Em biết?"
"Tất nhiên là em biết."
"Vậy thì em chui vào chỗ quái nào vậy?"
"Trong bệnh viện."
"Chín đứa chúng tôi bị bắt làm con tin trong 6 tiếng liền bởi một thằng điên. Tám gia đình chờ đợi ở phía dưới vì họ còn quan tâm đến sự an nguy của người thân. May mắn là chúng tôi đã thoát và tôi phải về nhà bằng xe của cô thư kí."
"Em không thể đến được."
"Tất nhiên là em không thể đến được. Sao mà tôi có thể vô lí thế nhỉ!"
Nàng ngồi xuống một cái ghế gần chiếc sofa. Chúng tôi nhìn nhau. "Họ buộc tất cả chúng em phải ở lại bệnh viện," nàng bắt đầu giọng lạnh lùng. "Chúng tôi biết đây là một cuộc bắt cóc con tin, và có thể có người bị thương. Đó là một chuyện bình thường trong những trường hợp này – người ta thông báo đến các bệnh viện và mọi người đều phải sẵn sàng."
Một ngụm to nữa, tôi cố nghĩ ra một cái gì cay độc để nói.
"Em không thể giúp gì anh ở văn phòng,” nàng tiếp tục, "em phải đợi trong bệnh viện."
"Sao em không gọi điện thoại?"
"Em đã cố gọi. Đường dây lúc nào cũng bận, cuối cùng thì em cũng gặp được một cảnh sát, nhưng ông ta cúp máy."
"Mọi chuyện xong xuôi đã hai tiếng rồi. Nãy giờ em ở đâu?"
"Trong phòng giải phẫu. Chúng em mất một đứa trẻ trong phòng mổ; nó bị đụng xe."
"Anh xin lỗi," tôi nói. Tôi đã không bao giờ hiểu được làm sao các bác sĩ đối mặt với quá nhiều đau đớn và cái chết như vậy được. Mister chỉ là cái xác chết thứ hai mà tôi được nhìn tận mắt.
"Em cũng xin lỗi," nàng nói thế và đi vào trong bếp rồi trở ra với một li rượu trong tay. Chúng tôi ngồi trong tranh tối tranh sáng một lúc. Bởi vì chúng tôi chẳng thường xuyên nói chuyện với nhau cho nên chẳng dễ gì tìm ra được chuyện để nói.
"Anh có muốn nói gì về chuyện ấy không?" nàng hỏi.
"Không, không phải lúc này.” Và tôi thật sự khổng muốn. Rượu cùng với tác dụng của thuốc làm cho đầu tôi nặng chình chịch. Tôi nghĩ đến Mister, ông ta mới thanh thản và bình tĩnh làm sao, cho dù ông ta vung khẩu súng và quấn mìn ngang bụng. Ồng ta vẫn hoàn toàn bình thản trước hàng giờ yên lặng.
Yên lặng là cái mà tôi cần. Ngày mai tôi sẽ nói.
4.
Hóa chất tác dụng trong tôi cho đến tận 4 giờ sáng hôm sau. Khi tôi thức dậy tôi như ngửi thấy mùi hăng hắc của chất nhầy trong não của Mister còn vương trong mũi tôi. Tôi bàng hoàng cả người một lúc trong bóng tôi. Tôi dụi mắt mũi và trở mình trên ghế sofa cho đến khi tôi nghe thấy có tiếng cục cựa. Claire ngủ trên một chiếc ghế cạnh tôi.
"Không sao", nàng dịu dàng nói và chạm vào vai tôi, "chỉ là một giấc mơ xấu thôi."
"Em lấy cho anh chút nước được không?" tôi hỏi và nàng đi vào bếp.
Chúng tôi nói chuyện trong một tiếng. Tôi kể cho hàng nghe tất cả những gì mà tôi có thể nhớ được về sự cố trên. Nàng ngồi sát bên tôi, xoa xoa vào đầu gối tôi, tay cầm li nước và lắng nghe rất chăm chú. Chúng tôi đã nói chuyện với nhau rất ít trong những năm qua.
Nàng có ca trực lúc 7 giờ, vì thế chúng tôi cùng làm bữa sáng, bánh quế và thịt nướng. Chúng tôi ngồi ăn ở quầy ăn, có một chiếc TV nhỏ trước mặt. Bản tin vào lúc 6 giờ sáng được bắt đầu bằng tấn kịch bắt cóc. Có một vài máy quay phim trong suốt quá trình diễn ra vụ bắt giữ con tin, đám đông hỗn loạn bên ngoài, mấy người bạn bị bắt giữ cùng với tôi vội vã đi ra ngoài, khi mọi chuyện đã qua. Ít nhất có một máy bay trực thăng mà chúng tôi nghe thấy tiếng là của hãng thông tấn, và nó hạ ống kính xuống quay ngay màn cửa xếp. Trên màn hình Mister hiện lên một vài giây lúc ông ta ghé mắt nhìn ra ngoài.
Tên ông ta là DeVon Hardy, 45 tuổi, cựu chiến binh ở Việt Nam có một tiền án hình sự nhỏ. Một bức ảnh chụp Mister, do cảnh sát chụp sau lần ông ta bị bắt vì ăn trộm, hiện lên trên màn phía sau phát thanh viên. Trông chẳng giống Mister tí nào – không râu không kính và còn trẻ hơn nhiều. Ông được mô tả như một người vô gia cư có tiền sử nghiện hút. Không được biết về động cơ của vụ bắt cóc. Không có người thân đến liên hệ.
Không có một lời bình luận nào từ phía công ty tôi, và câu chuyện xẹp xuống.
Sau đó là bản tin thời tiết. Dự báo tuyết sẽ rơi nhiều vào chiều và tối nay. Đã là ngày thứ 12 của tháng Hai, và có dự đoán là sẽ có bão tuyết.
Claire chở tôi đến sở làm vào lúc 6 giờ 45, và tôi chẳng hề ngạc nhiên khi thấy chiếc Lexus của tôi đậu chung với vài chiếc xe nhập khẩu khác. Bãi xe không bao giờ trống, luôn có những người ngủ lại trong văn phòng.
Tôi hứa sẽ gọi lại cho nàng vào giữa giờ buổi sáng, chúng tôi sẽ cố thu xếp ăn trưa với nhau ở trong bệnh viện. Nàng không muốn tôi lo nghĩ gì ít nhất là trong vòng một hai ngày.
Tôi phải làm gì nhỉ? Nằm trên ghế sofa và uống thuốc ư? Tôi được mọi người chờ đợi làm gì nào? Mọi ý kiến dường như nhất trí là tôi cần một ngày nghỉ, sau đó tôi lại trở về với nhịp độ công việc nghẹt thở của mình.
Tôi chào hai nhân viên an ninh đầy tinh thần cảnh giác ở tiền sảnh. Ba trong số bốn thang máy đang mở cửa và tôi cần phải lựa chọn. Tôi bước vào cái thang máy mà tôi và Mister đã bước vào ngày hôm qua, và mọi chuyện lại từ từ trở lại.
Hàng trăm câu hỏi được đặt ra: Tại sao ông ta lại chọn tòa nhà của chúng tôi? Công ty của chúng tôi? Ông ta đã ở đâu trước khi bước vào tiền sảnh? Nhân viên bảo vệ ở đâu trong khi có ai đó lảng vảng ở đàng trước? Tại sao lại là tôi? Hàng trăm luật sư ra vào nơi này cả ngày cơ mà. Tại sao lại là lầu sáu?
Và ông ta theo đuổi cái gì? Tôi không tin là Mister dấn thân vào những chuyện cực kì nguy hiểm, quấn đầy người dây mìn và liều cả mạng sống của mình chỉ để sỉ vả và hành hạ một lũ luật sư giàu có vì thiếu quan tâm đến người khác.
Câu hỏi của ông, "Ai tiến hành việc đuổi người thuê nhà?" không được trả lời. Nhưng mà chuyện ấy sẽ không kéo dài lâu đâu.
Thang máy dừng lại, tôi bước ra ngoài và lần này thì chẳng có ai bước theo tôi. Bà Devier vẫn lim dim ngủ gật vào giờ này ở chỗ nào đó, và lầu sáu vẫn hoàn toàn yên lặng. Tôi dừng lại trước quầy của bà, nhìn vào hai cái cửa của phòng họp. Tôi từ từ mở cái gần nhất, cái cửa mà Umstead đứng khi viên đạn sượt qua đầu anh ta ghim vào đầu Mister. Tôi hít một hơi dài và bật đèn lên.
Chẳng có gì thay đổi hết. Bàn và ghế vẫn được xếp sắp một cách hoàn hảo. Chiếc thảm phương Đông tuyệt đẹp mà Mister nằm chết trên đó đã được thay bằng một chiếc khác thậm chí còn đẹp hơn. Các bức tường được phủ một lớp sơn mới. Thậm chí vết đạn bắn lên trần phía trên đầu Rafter cũng biến mất. Những ông chủ ở Drake & Sweeney đã chỉ thị làm tất cả vào đêm trước để chắc chắn là biến cố hôm qua không còn dấu vết gì và không bao giờ tái hiện. Phòng họp thu hút những đôi
mắt tò mò và chắc chắn chẳng có gì để xem cả. Nó có thể làm cho người ta xao lãng công việc trong một vài phút. Đơn giản là không được để lại bất cứ một dấu tích nào của một gã ma cô ngoài đường trong văn phòng toàn bích của chúng tôi.
Đó là một công việc thu dọn vô cảm lạnh lẽo, và đáng buồn thay tôi hiểu cái lí do nằm đàng sau việc đó. Tôi là một trong những thằng da trắng giàu có. Tôi chờ đợi cái gì, một đài tưởng niệm ư? Một vòng hoa do những bạn bè lang thang ngoài phố của Mister đem tới ư?
Tôi cũng chẳng biết tôi chờ đợi cái gì nữa, nhưng mùi sơn mới khiến tôi buồn nôn.
Trên bàn làm việc của tôi ở một chỗ bất di bất dịch là hai tờ báo The Wall Street Journal và The Washington Post. Tôi từng biết tên người đã đưa báo vào đây nhưng rồi cái tên đã bị lãng quên từ lâu. Trên trang nhất của Post ở mục Metro, dưới nếp gấp là cũng cái ảnh chụp Mister ở đồn cảnh sát và một câu chuyện dài về thảm kịch ngày hôm qua.
Tôi đọc lướt qua bởi vì tôi nghĩ mình biết nhiều hơn bất cứ nhà báo nào. Nhưng tôi cũng biết thêm được vài điều. Những que màu đỏ không phải là mìn. Mister đã lấy một vài cây cán chổi, cưa thành từng khúc rồi cuộn những tấm giấy màu xung quanh, và làm cho chúng tôi một phen bở vía. Súng tự động, cỡ 44, là khẩu súng ăn cắp.
Vì đây là tờ Post cho nên nó đề cập đến DeVon Hardy nhiều hơn là nạn nhân của ông ta, mặc dù nói một cách công bằng tôi cảm thấy hài lòng hơn khi không có một phát ngôn nào đề cập đến phía chúng tôi.
Theo một cái ông Mordecai Green nào đó, giám đốc Cơ sở luật từ thiện trên đường 14 thì DeVon Hardy đã làm lao công nhiều năm ở National Arboretum. Ông mất việc vì chính sách cắt giảm ngân sách của chính phủ. Mấy tháng nằm tù vì tội ăn cắp, sau đó thì bị ném ra ngoài phố. Ông ta cũng phải chống chọi với rượu và ma túy và thường bị bắt vì chôm chỉa trong siêu thị. Cơ sở của Green nhiều lần đại diện cho ông ta. Nếu ông ta có người thân thì luật sư của ông cũng chẳng biết gì về điều đó cả.
Về động cơ của vụ bắt cóc, Green biết không nhiều. Ông nói rằng Mister mới bị đuổi ra khỏi một nhà kho cũ mà ông ta đã chiếm cứ.
Cuộc trục xuất là hợp pháp và được thực hiện bởi các luật sư. Tôi có nghĩ đến một trong hàng ngàn công ty đã tông cổ Mister ra ngoài đường.
Cơ sở luật từ thiện trên đường 14 dựa trên những nguồn vốn từ thiện và chỉ làm việc cho những người vô gia cư, theo Green cho biết. "Khi chúng tôi có tiền trợ cấp của chính phủ chúng tôi có bảy luật sư, hiện nay chỉ còn có hai," ông nói.
Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi tờ Journal chẳng đề cập gì đến câu chuyện ngày hôm qua. Nếu một trong chín luật sư của công ty giàu có thứ năm trên toàn quốc này bị giết hoặc chỉ bị thương nhẹ thôi, thì nó ngay lập tức đưa tin đó lên trang nhất.
Cảm ơn Chúa là chuyện này đã không xấu hơn. Giờ đây tôi ngồi bên bàn làm việc, đọc báo buổi sáng, một việc nhỏ trong nhiều việc phải làm. Tôi cũng có thể đã là một cái xác theo sau Mister lắm chứ.
Polly đến phòng tôi một vài phút trước 8 giờ với một nụ cười tươi rói và một dĩa bánh nhà làm. Cô chẳng ngạc nhiên khi thấy tôi đi làm.
Thực ra thì tất cả 9 con tin hôm qua đều đi làm, hầu hết còn đến sớm nữa. Sẽ là một bằng chứng rõ ràng về sự yếu kém nếu như phải ở nhà để vợ nuông chiều.
"Arthur đang ở đầu dây," Polly thông báo. Công ty chúng tôi có ít nhất 10 Arthur, nhưng chỉ có một người mà cái tên Arthur có thể được phát lên ở khắp tòa nhà này mà không cần kèm theo họ. Arthur Jacobs là người hùn vốn thâm niên, là tổng giám đốc điều hành, là động lực, một người mà chúng tôi kính phục và ngưỡng mộ thật sự. Nếu như công ty có một trái tim và một linh hồn thì đó là Arthur. Trong bảy năm qua tôi chỉ được nói chuyện với ông có ba lần.
Tôi nói với ông là tôi khỏe, ông ngợi khen tôi về sự lanh trí và lòng quả cảm của tôi trong vụ căng thẳng ngày hôm qua, làm cho tôi cảm tưởng rằng tôi là một anh hùng.
Tôi tự hỏi ông biết mọi việc như thế nào. Chắc chắn là ông sẽ nói chuyện với Malamud trước tiên, và theo cách ấy xuống những người thấp hơn. Thế là những câu chuyện bắt đầu và rồi đến những chuyện đùa. Umstead và cái bình hoa chắc chắn là gây nên những trận cười vỡ bụng.
Arthur muốn gặp những con tin ngày hôm qua vào lúc 10 giờ, ở phòng họp, để quay video về cuộc trò chuyện.
"Để làm gì ạ?" tôi hỏi.
"Mấy tay ở bộ phận tố tụng cho rằng đó là một ý hay," giọng của ông âm vang, khỏe khoắn mặc dù ông đã ở cái tuổi 80. "Gia đình hắn có thể kiện cảnh sát."
"Tất nhiên rồi." Tôi nói.
"Và họ có thể kiện cả chúng ta. Người ta kiện bất cứ cái gì, anh biết đấy."
Ơn Chúa, tôi gần như thốt lên. Nếu không có những vụ kiện thì chúng ta biết làm gì đây?
Tôi cảm ơn sự quan tâm của ông, và ông bỏ máy gọi cho những người khác.
Nhưng mà cuộc "thăm hỏi" thì bắt đầu từ lúc 9 giờ, những người mau mồm miệng và thích những chuyện tầm phào nấn ná trong phòng tôi, bầy tỏ lòng quan tâm sâu sắc đến tôi nhưng chính là thèm biết về các chi tiết đến chết đi. Tôi có cả đông việc phải làm nhưng tôi không thể nhúc nhắc tay chân được. Trong khoảng yên tĩnh giữa hai cuộc thăm viếng, tôi ngồi như hoá đá, nhìn trân trân vào những chồng hồ sơ đang chờ tôi nghiên cứu. Tay tôi không thể vươn ra chạm tới những tập hồ sơ này.
Có cái gì không giống trước nữa. Công việc không còn quan trọng. Bàn làm việc của tôi không phải là chuyện sinh tử nữa. Tôi đã nhìn thấy cái chết, gần như cảm nhận được nó nữa, và tôi thật ngây thơ khi nghĩ rằng mình có thể đơn giản rũ bỏ nó, và quay trở lại cuộc sống bình thường như không hề có chuyện gì xảy ra.
Tôi nghĩ về DeVon Hardy với những cái que màu đỏ và những sợi dây đủ màu chạy mọi hướng. Ông ta đã mất nhiều thời gian để chế ra trò chơi của mình và lập kế hoạch tấn công chúng tôi. Ông ta ăn trộm một khẩu súng, tìm ra công ty của chúng tôi và gây ra một sai lầm khủng khiếp trả giá bằng tính mạng của ông ta, vậy mà không ai, không một người nào làm việc chung với tôi mảy may nghĩ đến ông ta.
Cuối cùng tôi rời khỏi phòng. Người ta kéo tới mỗi lúc một đông hơn và tôi sẽ phải tán chuyện với những người mà tôi không thể chịu được. Hai phóng viên gọi tới. Tôi nói với Polly rằng tôi có việc phải ra ngoài, và cô ta nhắc tôi nhớ đến cuộc họp với Arthur. Tôi đến chỗ xe của tôi, mở máy. Tôi mở luôn máy sưởi và ngồi một lúc
lâu tự hỏi xem tôi có nên tham gia buổi họp mặt này không. Nếu tôi không đến Arthur sẽ giận lắm. Không có ai dám bỏ một cuộc họp với Arthur.
Tôi lái xe đi. Đó là một dịp hiếm hoi để làm một điều gì thật ngu ngốc. Tôi đang bị chấn động mạnh. Tôi cần phải ra ngoài một chút. Arthur và cả công ty cũng phải cho tôi một chút xả hơi chứ.
Tôi lái xe về hướng Georgetown, nhưng không biết đi đâu. Mây đen xà thấp, những người bộ hành bước gấp trên các lề đường; xe cào tuyết sắp chạy qua. Tôi lái xe qua một người người ăn xin ở đường M, và tự hỏi không biết người này có biết Mister không. Những người không cửa không nhà sẽ đi đâu trong những cơn bão tuyết?
Tôi gọi điện đến bệnh viện và được biết rằng vợ tôi đang thực hiện một ca mổ cấp cứu kéo dài vài giờ. Quá đủ cho bữa ăn trưa lãng mạn của vợ chồng tôi trong căn tin của bệnh viện.
Tôi quay đầu xe và đi về phía Tây bắc, qua Logan Circle vào những khu vực nghèo nàn hơn cho đến khi tôi tìm thấy Cơ sở luật từ thiện trên đường 14. Nó nằm ngay ngã tư giữa đường 14 và đường Q. Tôi đậu xe ở lề đường, chắc chắn là mình sẽ không còn được thấy lại chiếc Lexus của tôi nữa.
Cơ sở này chiếm một nửa ngôi nhà kiểu Victoria ba tầng bằng gạch đỏ, đã từng có những ngày vẻ vang. Các ô cửa sổ ở tầng trên cùng đã bị bịt lại bằng gỗ dán cũ kĩ. Cạnh nó là một cửa hàng giặt tự động xấu xí, những ngôi nhà xiêu vẹo cách đấy không xa. Cổng ra vào được che bởi một mái vòm màu vàng và tôi không biết là nên gõ cửa hay là cứ tự tiện đẩy cửa bước vào. Cửa không khóa, tôi từ từ xoay nắm đấm và bước vào một thế giới khác.
Nó cũng là một loại văn phòng luật sư nhưng khác một trời một vực với những phòng làm việc lát gỗ đào hoa tâm và cẩm thạch của Drake & Sweeney. Căn phòng lớn trước mặt tôi có kê bốn chiếc bàn bằng kim loại, cái nào cũng chất chồng hồ sơ xếp cao khoảng ba tấc. Nhiều tập hồ sơ nữa bày lộn xộn trên một chiếc thảm mòn xơ xác cạnh những chiếc bàn này. Những chiếc giỏ rác cũng chất đầy giấy, nhiều giấy tờ nữa vứt rải rác trên sàn nhà. Một bức tường kê kín những cái tủ đủ màu. Máy chữ và điện thoại thì cũng 10 năm có lẻ. Một chiếc giá sách bằng gỗ xập xệ. Một bức chân dung lớn của Martin Luther King treo xộc xệch ở bức tường đối diện. Một vài phòng làm việc nhỏ hơn có cửa nối với phòng trước.
Nó rất bận rộn và rất dơ bẩn, tôi ngây người ra vì kinh ngạc.
Một người đàn bà gốc Latinh dữ tợn, ngừng đánh máy sau khi đã quan sát tôi một lát. "Anh tìm ai?" bà ta hỏi. Đó là một câu để đuổi khách nhiều hơn là một lời đề nghị. Một tiếp tân ở Drake & Sweeney sẽ bị đuổi tức khắc nếu như đưa ra một lời chào như vậy.
Bà ta là Sofia Mendoza theo cái biển tên gắn ở một bên bàn làm việc, và tôi nhanh chóng hiểu ra rằng bà ta không chỉ là một tiếp tân. Một tiếng gầm vang lên từ một trong những chiếc phòng ở bên cạnh làm tôi giật mình mà không làm Sofia bối rối.
"Tôi muốn gặp ông Mordecai Green," tôi lịch sự nói, cùng lúc đó ông ta xuất hiện với một tiếng gầm, sầm sập bước ra khỏi phòng làm việc để ra phòng chính. Sàn nhà rung chuyển dưới mỗi bước chân của ông ta. Ông gọi một ai đó tên là Abraham.
Sofia gật đầu với ông, quên ngay tôi và trở về với việc đánh máy. Green là một người da đen khổng lồ cao ít nhất cũng khoảng 1 mét chín với một thân hình kềnh càng đồ sộ. Ông khoảng ngoài 50, có một bộ râu xám và mang một cặp kính tròn có gọng màu đỏ. Ông nhìn tôi một cái, chẳng nói gì lại kêu tướng lên cái tên Abraham trong khi cứ tiếp tục đi lại làm sàn nhà kêu cót két. Ông biến vào một trong những căn phòng, vài phút sau lại xuất hiện không có ai là Abraham theo sau cả.
Lại nhìn tôi lần nữa hổi: "Tôi giúp gì được ông đây?"
Tôi bước lên một bước, tự giới thiệu.
"Rất vui được gặp ông," ông nói thế nhưng mà chỉ vì phép xã giao bắt buộc thôi. "Ông cần gì?"
"DeVon Hardy."
Ông nhìn tôi vài giây sau đó liếc mắt về phía Sofia, bà này đang ngập trong công việc. Ông gật đầu về phía phòng làm việc của ông và tôi đi theo ông vào một căn phòng vuông chằn chặn diện tích khoảng bốn nhân bốn mét chẳng hề có cửa sổ và mỗi một tấc vuông đều phủ đầy những tập hồ sơ màu nâu và những cuốn sách luật rách te tua.
Tôi đưa cho ông tấm cạc của Drake & Sweeney có đóng khung vàng, ông ta ngắm nó với một cái chau mày. Sau đó ông trả lại tôi và nói. "Đi "vi hành" hả?"
"Không," tôi đáp, lấy lại tấm cạc.
"Vậy thì làm gì?"
"Tôi đến vì một chuyện khác. Viên đạn của ông Hardy suýt nữa thì xuyên qua người tôi đấy."
"Anh ở cùng một phòng với ông ta hả?"
"Phải."
Ông ta hít một hơi sâu và cái cau mày biến mất. Ông chỉ vào cái ghế duy nhất bên cạnh tôi và bảo. "Ngồi xuống đi, nhưng coi chừng anh sẽ bị dơ đó."
Chúng tôi cùng ngồi xuống, đầu gối của tôi chạm vào bàn làm việc của ông, hai tay tôi thọc sâu trong túi áo khoác. Một chiếc máy điều hòa kêu rọt rẹt sau lưng ông. Chúng tôi nhìn nhau sau đó lại nhìn đi chỗ khác. Vì là tôi tự tôi chui đầu đến, tôi phải nói một cái gì đó. Nhưng ông lại nói trước.
"Chắc anh trải qua một ngày tồi tệ hả?" Cái giọng lệnh vỡ của ông hạ thấp xuống gần như là trìu mến.
"Không đến nỗi tệ như là với ông Hardy. Tôi đọc tên ông trên báo nên mới tìm đến đây."
"Tôi không chắc tôi có làm gì được không."
"Ông có nghĩ là gia đình ông ta sẽ kiện không? Nếu thế thì tôi sẽ ra về ngay."
"Không có gia đình, chẳng có kiện tụng gì đâu. Tôi cũng có thể gây om xòm chút đỉnh. Tôi nghĩ rằng tên cớm bắn ông ta là người đa trắng, vì thế tôi có thể moi vài đồng từ thành phố, chắc chắn là một cuộc dàn xếp những chuyện vặt. Nhưng mà cũng chẳng ăn thua gì." Ông phẩy tay qua bàn. "Chúa cũng biết là tôi có đủ việc phải làm rồi."
"Tôi không nhìn thấy tay cớm đó," tôi nói, lần đầu tiên nhận ra điều đó. "Quên chuyện kiện cáo đi. Đấy là lí do anh ở đây sao?"
"Tôi cũng không biết tại sao tôi ở đây. Tôi đi làm sáng nay như không có chuyện gì xảy ra, nhưng tôi không sao bình thường lại được. Tôi lái xe một vòng. Và tôi ở đây."
Ông chậm rãi lắc đầu, như thể cố gắng hiểu điều tôi nói. "Cà phê chứ?" "Không, cảm ơn. Ông biết rõ Hardy chứ?"
"Có. Ông ta thường xuyên ghé đây."
"Bây giờ ông ta ở đâu?"
"Tất nhiên là trong nhà xác thành phố ở bệnh viện trung tâm."
"Nếu không có gia đình thì chuyện chôn cất làm sao?"
"Thành phố sẽ lo cho những người không có thân quyến. Trong những cuốn sách, người ta gọi là một đám tang của kẻ cùng khốn. Có một nghĩa trang ở gần Sân vận động RFK, người ta chôn cất những người này ở đấy. Cậu sẽ ngạc nhiên trước con số những người chết như vậy."
"Chắn hẳn rồi."
"Thực ra thì cậu sẽ ngạc nhiên về mỗi khía cạnh trong cuộc sống của những người vô gia cư."
Một cú hích nhẹ nhưng tôi chẳng có tâm trạng nào đáp lại.
"Ông có biết là ông ấy có bị AIDS không?"
Ông ngửa đầu ra sau nhìn lên trần nhà, lẩm nhẩm cái gì đó trong vài giây. "Tại sao anh quan tâm đến chuyện đó vậy?"
"Tôi đứng ngay sau lưng ông ta. Gáy ông ta vỡ tung ra. Máu tưới đầy mặt tôi. Thế đấy."
Với điều này tôi vượt qua cái đường biên ngăn cách một gã tồi tệ với một người da trắng trung bình.
"Tôi không nghĩ ông ta mắc bệnh AIDS."
"Họ có kiểm tra những người này khi họ chết không?"
"Những người vô gia cư á?"
"Phải."
"Trong phần lớn các trường hợp, thì có. Tuy vậy DeVon chết vì chuyện khác."
"Ông có thể biết được không?"
Ông nhún vai và có vẻ thoải mái hơn. "Chắc được," ông nói với vẻ miễn cưỡng, và lôi một cái bút ra khỏi túi. "Đó là lí do anh tới đây? Lo lắng vì bệnh AIDS?"
"Đó là một trong những lí do. Ông không phiền chứ?"
"Không."
Abraham bước vào, một người đàn ông bé nhỏ dề bị kích động, tuổi trạc 40. Những đặc điểm của một luật sư quan tâm đến những vấn đề sống còn của nhân loại in đậm nét trong con người ông ta. Do Thái, râu đen, kính gọng sừng, áo khoác cà tàng, quần kaki nhàu nát, áo len dơ hầy, và cái phong thái của một người muốn cứu cả thế giới. Ông ta chẳng chào tôi mà Mordecai thì cũng không phải là một người chú ý đến những phép xã giao thông thường. "Người ta dự đoán là tuyết sẽ đổ xuống như trút ấy," Green nói với ông ta. "Chúng ta cần chắc ăn là tất cả những trại cứu trợ đều mở cửa."
"Tôi sẽ lo vụ này." Abraham đáp rồi lập tức rời khỏi phòng.
"Tôi biết ông rất bận." Tôi nói.
"Đó là tất cả những gì anh muốn biết hả? Một xét nghiệm máu?" "Vâng chắc thế. Ông có ý kiến gì về động cơ hành động của ông ta không?"
Ông bỏ cặp kiếng đỏ ra lau bằng một miếng giấy, sau đó thì dụi mắt. "Ông ta có vấn đề về thần kinh như mọi người vô giá cư khác. Anh sống nhiều năm ngoài đường phố, chìm trong những cơn say, bập vào ma tuý, ngủ ngoài trời mùa đông, bị cớm xua đuổi hàng ngày, rồi thì anh cũng phát điên lên thôi. Hơn nữa ông ta cũng có lí do nữa."
"Vụ trục xuất."
"Phải. Một vài tháng trước đây ông ta dọn đến một khu nhà kho bỏ hoang ở góc đường New York và Florida. Có một ai đó đã quăng lên một vài tấm gỗ dán, chia ra từng ngăn và làm thành những căn hộ nhỏ. Chẳng phải là một chốn tồi mà những người vô gia cư có thể dung thân – một mái nhà, buồng vệ sinh và nước. Một trăm đô một tháng trả cho một tên giang hồ nào đó đã sửa chỗ này và tuyên bố là của hắn."
"Thật vậy sao?"
"Tôi nghĩ thế." Ông nói, lấy ra một tập hồ sơ mỏng, trong một đông hồ sơ trên bàn, và thật là kì diệu nó đúng là cái mà ông cần. Ông đọc mục lục của nó một lúc. "Ở đây có một điểm làm cho mọi việc trở nên rắc rối hơn. Cái khu nhà kho đó tháng trước đã được một rông ty kinh doanh địa ốc lớn tên là RiverOaks mua lại."
"Và RiverOaks đã đuổi mọi người đi."
"Phải."
"Thật là kì quặc, vậy là RiverOaks có thể là một khách hàng của công ty chúng tôi."
"Đúng, rất kì cục."
"Tại sao mọi việc lại trở nên phức tạp?"
"Tôi nghe nói lại là họ đã không có thông báo trước khi đuổi người. Những người ở đây kêu ca là họ có trả tiền cho một gã ma cô nào đó và như vậy họ không phải là những kẻ chiếm nhà bất hợp pháp. Họ là những người thuê nhà, do đó muốn đuổi phải theo đúng thủ tục."
"Với dân chiếm ngụ bất hợp pháp thì không cần thông báo trước sao?"
"Không và chuyện này xảy ra luôn ấy. Những người này lại chuyển đến một khu nhà bỏ hoang nào đó, nhưng trong phần lớn trường hợp chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Vì thế mà họ nghĩ họ là chủ. Chủ nhân thật sự nếu muốn thì có thể đuổi họ thẳng cánh mà không cần thông báo. Họ chẳng có quyền gì sất."
"Làm cách nào mà Hardy tìm đường đến được công ty của tôi?"
"Ai mà biết được. Dù vậy ông ta đâu có ngu. Điên điên nhưng không ngu." "Ông có biết cái gã ma cô ấy không?"
"Biết chứ. Hoàn toàn không đáng tin cậy."
"Ông nói là khu nhà kho ấy ở đâu?"
"Không còn nữa. Họ đã ủi nó tuần trước."
Tôi đã làm phiền ông khá đủ rồi. Ông liếc nhìn đồng hồ của ông, tôi liếc vào tay tôi. Chúng tôi đưa cho nhau số điện thoại và hứa sẽ liên lạc với nhau.
Mordecai Green là một người nhiệt tình, từ tâm và nguyện làm việc trên đường phố để bảo vệ đông đảo khách hàng vô danh của ông. Quan điểm về luật pháp của ông đòi hỏi nhiều về một tấm lòng hơn là tôi có thể hình dung được.
Lúc ra ngoài tôi lờ Sofia đi bởi vì rõ ràng bà ta làm như không có tôi trên đời này. Chiếc Lexus của tôi vẫn đậu ở bên ngoài, trên mui có phủ một lớp tuyết dày.
5.
Tôi phóng ngang qua thành phế giữa lúc tuyết rơi rất dày. Tôi không thể nhớ được lần cuối cùng tôi chạy trên như bay để không trễ một buổi họp là bao giờ. Tôi ấm áp và khô ráo trong chiếc xe xịn của mình, và tôi chỉ đơn giản làm một việc là trôi theo dòng xe cộ. Chẳng có nơi nào để đi cả.
Công ty chắc là phải rối bời lên một lúc, vì Arthur phát cáu lên với tôi; và chắc là tôi phải chịu đựng cái cảnh hàng trăm người cứ ghé vào phòng tôi, tất cả sẽ đều bắt đầu một cách giả tạo: "Anh làm sao vậy?"
Điện thoại trên xe tôi vang lên. Đó là Polly đang vô cùng hoảng sợ. "Anh ở đâu vậy?"
"Ai muốn biết nào?"
"Nhiều người lắm. Arthur là một này. Rồi Rudolph. Một nhà báo khác lại gọi đến. Có một vài khách hàng cần anh tư vấn. Và Claire gọi từ bệnh viện."
"Cô ấy cần gì?"
"Chị ấy lo lắng như mọi người."
"Tôi không sao cả, Polly. Nói với mọi người là tôi đang ở phòng khám của bác sĩ."
"Vậy hả?"
"Chưa. Nhưng tôi sẽ đến đấy. Arthur nói sao?"
"Ông không gọi, nhưng mà Rudolph gọi. Họ đợi anh đấy."
"Cứ để cho họ đợi."
Một chút im lặng rồi rất chậm rãi cô ta hỏi: "Bao giờ thì anh có thể ghé qua?"
"Không biết. Tôi cho là cho đến khi bác sĩ cho tôi về. Sao cô không về nhà cho rồi? Đang có bão tuyết đấy. Tôi sẽ gọi cho cô ngày mai." Và tôi cúp máy.
Căn hộ của tôi là nơi mà tôi ít khi nhìn thấy trong ánh sáng ban ngày. Và tôi không thể chịu được cái ý nghĩ là ngồi trước lò sưởi mà nhìn tuyết rơi. Nếu tôi chui
vào một quán bar nào đó thì tôi sẽ chẳng còn biết đường về nữa.
Thế là tôi cứ lái xe đi. Tôi trôi theo dòng xe trong khi những người khác vội vã chạy về ngoại ô Maryland và Virginia. Tôi nhởn nhơ phóng xe qua những con đường vắng vẻ quay trở lại thành phố. Tôi tìm thấy cái nghĩa địa ở gần RFK nơi người ta chôn những cái xác vô thừa nhận, và tôi cũng đi ngang qua Methodist Mission trên đường 17 nơi mà người ta đã làm ra những tô súp chưa kịp ăn tối hôm qua. Tôi phóng qua những khu vực khác nhau trong thành phố mà tôi chưa bao giờ tới gần mà có lẽ sẽ không bao giờ đi ngang qua.
Vào lúc 4 giờ chiều, thành phố hầu như trống rỗng. Bầu trời đen kịt và tuyết rất nặng hạt. Một lớp tuyết vài phân phủ trên mặt đất và người ta dự đoán là sẽ còn nhiều tuyết hơn nữa.
Tất nhiên một cơn bão tuyết sẽ không bao giờ khiến Drake & Sweeney phải đóng cửa hết. Tôi biết các luật sư ở đây thích làm việc nửa đêm và những ngày Chủ nhật vì chuông điện thoại không reo. Nhưng bão tuyết quả có cho chúng tôi phút thư giãn nhẹ nhàng khỏi ách nặng nề lao khổ của những cuộc họp không giải lao và những cuộc nói chuyện về công việc.
Một cảnh vệ ở tiền sảnh thông báo cho tôi biết là các thư kí và hầu hết nhân viên đã được cho phép về nhà vào lúc 3 giờ. Tôi lại bước vào thang máy của Mister.
Xếp thành hàng ngay ngắn giữa bàn làm việc của tôi là hàng chục những tờ nhắn điện thoại màu hồng, chẳng cái nào làm tôi chú ý cả. Tôi bước đến chỗ máy vi tính và bắt đầu mở file có danh sách các khách hàng của chúng tôi.
RiverOaks là một công ty liên doanh ở Delaware, thành lập năm 1977, trụ sở chính ở Hagerstown, Maryland. Nó được coi sóc riêng nên chẳng có mấy thông tin về tài chính. Luật sư của nó là N. Braden Chance, một cái tên lạ hoắc.
Tôi tìm hiểu những thông tin về ông ta trong những cơ sở dữ liệu mênh mông của công ty. Chance là một người chung vốn của bộ phận nhà đất trong công ty chúng tôi, nằm dưới lầu 4. Bốn mươi bốn tuổi, có gia đình, học luật ở Duke, học trước đại học ở Gettysburg, một bản tóm tắt đầy ấn tượng nhưng có thể đoán trước được.
Với 800 luật sư hăm dọa và kiện tụng hàng ngày, chúng tôi có 36.000 hồ sơ sống. Để chắc chắn rằng văn phòng công ty ở New York không kiện một trong những khách hàng của chúng tôi tại Chicago, mỗi một hồ sơ mới ngay lập tức phải được đưa vào cơ sở dữ liệu của toàn công ty. Mỗi một luật sư, một thư kí, một phụ tá
luật sư đều có một máy tính cá nhân, và như vậy có thể khai thác được thông tin chính của tất cả các hồ sơ. Nếu như một trong những luật sư lo về di chúc ở Palm Beach giải quyết một vụ bất động sản cho một khách hàng giàu có nào đó thì tôi có thể, nếu như tôi muốn, có một vài chìa khóa mở ra và biết được nhiều điều cơ bản liên quan đến vụ này.
Có 42 hồ sơ về RiverOaks hầu hết là những vụ giao dịch về nhà đất mà công ty này đã mua. Chance là luật sư phụ trách những tập hồ sơ này. Có 4 vụ trục xuất, 3 vụ thực hiện vào năm ngoái. Như vậy bước đầu cuộc tìm kiếm diễn ra rất dễ dàng.
Ngày 31 tháng Giêng, công ty này mua một khu đất ở đại lộ Florida. Bên bán là TAG. Ngày 4 tháng Hai khách hàng của chúng tôi đuổi một số người chiếm ngụ bất hợp pháp trong khu nhà kho này – một trong số đó bây giờ tôi đã biết là Mister – DeVon Hardy, người bị trục xuất và bằng một cách nào đó truy ra được các luật sư.
Tôi copy lại tên và số hồ sơ rồi bươn bả xuống lầu 4.
Chẳng có ai gia nhập một công ty luật bề thế chỉ với một mục đích là trở thành một luật sư lo vụ nhà đất. Nó còn lâu mới là một mảnh đất béo bở để người ta xây lên danh tiếng. Tố tụng mới là điều lúc nào cũng được ưa thích, và các thầy kiện bao giờ cũng được tôn sùng trong giới luật sư hay ít nhất thì cũng ở trong công ty này.
Một vài lĩnh vực dính đến các công ty cũng thu hút những tài năng sáng chói nhất –những vụ sáp nhập và mua lại công ty vẫn còn nóng, chứng khoán cũng là một lãnh vực được yêu thích. Công việc của tôi – một luật sư chống độc quyền cũng được đánh giá rất cao. Luật về thuế hết sức phức tạp, nhưng những người lo về việc này rất được ngưỡng mộ. Những mối quan hệ với chính phủ (vận động hành lang) bị coi như hủi, nhưng lại kiếm được rất nhiều tiền đến nỗi mỗi công ty đều có những luật sư lo liệu vụ này.
Nhưng chẳng có ai có tham vọng trở thành luật sư nhà đất cả. Tôi không biết mọi việc xảy ra như thế nào. Họ co cụm với nhau, không nghi ngờ gì là chỉ lo đọc những văn tự cầm cố, và được toàn thể công ty đối xử như những luật sư thấp kém.
Ở Drake & Sweeney, mỗi luật sư giữ hồ sơ mới nhất của mình trong phòng làm việc và thường khoá kĩ. Chỉ những hồ sơ đã giải quyết xong thì mới thuộc quyền quản lí của công ty. Không một luật sư nào bị buộc phải đưa hồ sơ mình quản lí cho một người khác, trừ khi điều này được chính một trong những viên chức cấp cao, hoặc là một thành viên của hội đồng quản trị của công ty yêu cầu.
Cái hồ sơ trục xuất người vẫn nằm trong danh sách những hồ sơ hiện hành, và nhất là sau cái màn xảy ra với Mister tôi dám chắc là nó được bảo vệ cẩn mật.
Tôi trông thấy một phụ tá luật sư đang sao chép hồ sơ tại bàn làm việc của anh ta gần một cái tủ bảo mật, và tôi nhờ anh ta chỉ cho tôi phòng làm việc của Braden Chance. Anh ta chỉ về phía cái cửa đang mở ở bên kia hành lang.
Tôi ngạc nhiên khi thấy Chance vẫn ngồi bên bàn làm việc, tạo ra ấn tượng về một luật sư vô cùng bận rộn. Ông ta lấy làm khó chịu về sự quấy rầy của tôi, mà như thế là phải thôi. Theo nghi thức xã giao chuẩn mực tôi phải gọi điện trước và dàn xếp một cuộc gặp mặt. Nhưng tôi chẳng quan tâm gì đến nhũng nghi thức ấy hết.
Ông ta không mời tôi ngồi còn tôi thì tự tiện kiếm chỗ ngồi và điều đó làm cho ông ta khó chịu hơn.
"Anh là một trong những con tin à?" Ông ta mào đầu với vẻ hơi bứt rứt. "Phải."
"Chắc là kinh khủng lắm."
"Tất cả đã qua rồi. Cái người với khẩu súng, mồ ma ông Hardy ấy, đã bị đuổi khỏi nhà kho hôm 4 tháng Hai. Đó là một trong những cuộc trục xuất của chúng ta phải không?"
"Đúng thế," ông ta độp lại. Chính vì thái độ đề phòng của ông mà tôi nghi rằng hồ sơ này đã được cất giấu trong ngày hôm nay. Ông ta chắc chắn là đã kiểm tra lại cùng với Arthur và giới quyền lực trong công ty. "Có chuyện gì không?" ông ta vặc lại.
"Ông ta có phải là người ở bất hợp pháp không?"
"Chính thế. Cả lũ đó là những kẻ chiếm nhà bất hợp pháp. Khách hàng của chúng tôi đã cố gắng giải quyết vụ này."
"Ông có chắc là ông ta đã chiếm nhà đó không?"
Cằm ông ta trễ xuống và đôi mắt thì đỏ nọc lên. Sau đó ông ta hít một hơi rồi nói. "Anh muốn gì?"
"Tôi có thể xem hồ sơ vụ này không?"
"Không. Đó không phải là việc của anh."
"Có thể chứ."
"Ai là thủ trưởng của anh?" Ông ta giật mạnh cây bút trong tay xuống như thể có thể lôi tên cái người phụ trách tôi ra khỏi cây bút đó.
"Rudolph Mayes."
Ông ta viết cái tên đó bằng nét bút to cồ. "Tôi bận lắm, phiền anh ra về cho tôi nhờ."
"Tại sao tôi lại không thể xem qua tập hồ sơ đó?" "Tại vì nó là của tôi và tôi nói không. Hiểu chưa?"
"Có thể có chuyện gì không đàng hoàng chứ gì."
"Nó đủ đàng hoàng đối với anh đấy. Sao anh không biến cho rồi?" ông ta đứng dậy, tay ông ta run rẩy khi ông ta chỉ ra cửa. Tôi cười khẩy và rời khỏi.
Người phụ tá nghe thấy hết mọi chuyện và chúng tôi trao cho nhau những cái nhìn bối rối khi tôi đi ngang qua bàn anh ta. "Đồ con lừa," anh ta nói khẽ, hầu như không mở miệng.
Tôi lại mỉm cười, gật đầu biểu đồng tình. Một con lừa và một thằng ngu. Nếu Chance tỏ ra dễ chịu và giải thích rằng Arthur hoặc là một ai đó trong ban giám đốc ra lệnh là hồ sơ này phải được niêm phong lại thì tôi sẽ chẳng nghi ngờ gì. Giờ thì rõ như ban ngày là có một điều gì đó trong tập hồ sơ này.
Có được nó sẽ là một thử thách đấy.
Với tất cả những máy điện thoại mà tôi và Claire sở hữu – trong túi, trong ví, và trong xe hơi, đó là không nói đến một vài cái máy nhắn tin – vấn đề giao tiếp giữa chúng tôi lẽ ra phải hết sức đơn giản. Nhưng mà chẳng có gì đơn giản trong cuộc sống chung của chúng tôi. Chúng tôi gặp nhau lúc 9 giờ tối. Nàng mệt nhoài sau một ngày làm việc bận rộn nữa của nàng, một ngày rõ ràng là tất bật và hiệu quả hơn bất cứ ngày nào của tôi. Đó là một trò chơi mà chúng tôi tham gia không chút mắc cỡ nào – công việc của tôi quan trọng hơn bởi vì tôi là bác sĩ/ luật sư.
Nhưng mà tôi chán trò này rồi. Tôi có thể nói cho nàng hài lòng rằng cuộc chạm trán của tôi với cái chết đã để lại những di chứng nặng nề, rằng tôi đã bỏ văn phòng đi lang thang. Chẳng có nghi ngờ gì nữa bây giờ thì một ngày làm việc của nàng hiệu quả hơn tôi nhiều.
Mục đích của nàng là trở thành một nữ phẫu thuật gia giỏi nhất về não, một người mổ não giỏi đến mức ngay cả cánh mày râu cũng phải tìm đến khi đã mất hết hi vọng. Nàng là một sinh viên xuất sắc, đầy quyết tâm, được trời phú cho một nghị lực phi thường. Nàng sẽ chôn vùi bọn đàn ông, như nàng đã chôn vùi tôi, một vận động viên maratông có hạng từ cái trường đua của Drake & Sweeney. Cuộc đua đã trở nên cũ rồi.
Nàng lái một chiếc xe thể thao hiệu Miata, không phải loại xe hai cầu, và tôi lo lắng cho nàng những khi thời tiết xấu. Nàng có thể xong việc trong một tiếng nữa, và tôi cũng phải mất cỡ đó lái xe đến bệnh viện Georgetown. Tôi sẽ đến bệnh viện đón nàng và chúng tôi sẽ cố tìm một nhà hàng nào đó. Nếu không thì mua đồ ăn ở một nhà hàng người Hoa, chuyện chúng tôi thường làm.
Tôi sắp đặt giấy tờ và vật dụng trên bàn làm việc, cẩn thận lờ đi cái hàng ngay ngắn gồm 10 tập hồ sơ cần giải quyết trên bàn. Bao giờ tôi cũng chỉ để 10 tập hồ sơ trên bàn, một phương pháp mà tôi học được của Rudolph, và ngày nào tôi cũng dành thời gian cho từng tập. Kiếm tiền là một yếu tố". Mười hồ sơ hàng đầu đó luôn bao gồm những khách hàng giàu có nhất, bất kể là vấn đề pháp lí của họ căng thẳng đến thế nào. Đó là một điều nữa tôi học được của Rudolph.
Người ta mong tôi làm 2.500 giờ một năm. Như vậy là 50 giờ một tuần, 50 tuần một năm. Giá trung bình một giờ làm việc của tôi là 300 đô. Tôi kiếm được cho công ty yêu dấu của tôi tổng số tiền là 750.000 đô. Họ trả cho tôi 120.000 trong số đó cộng với 30.000 phúc lợi hàng năm và bổ 200.000 đô vào tổng chi phí. Những người chung vốn giữ phần còn lại, chia nhau hàng năm dựa trên một công thức cực kì phức tạp thường dẫn đến những cuộc đấu đá.
Ít có một người chung vốn nào kiếm dưới một triệu đô một năm, có một số người kiếm trên 2 triệu một năm. Và một khi tôi đã trở thành một người chung vốn thì sẽ được ăn chia suốt đời. Vì thế nếu tôi trở thành một người chung vốn vào năm tôi 35 tuổi, tôi cứ việc thẳng tiến trên con đường của mình, tôi sẽ có 30 năm với những thu nhập huy hoàng và của cải khổng lồ.
Đó chính là giấc mơ giữ chúng tôi bên bàn làm việc bất kể ngày đêm.
Tôi đang thảo ra những con số, một cái điều mà tôi luôn luôn làm và cũng là điều mà tôi cho rằng mọi luật 66 sư trong công ty đều làm, thì chuông điện thoại reng. Mordecai Green đang ở đầu dây.
"Chào ông Brock," ông nói với vẻ lịch sự, giọng ông nghe rất rõ trong khi chung quanh thì rất ồn ào.
"Tôi nghe đây. Xin cứ gọi tôi là Michael."
"Tốt lắm. Nghe này, tôi đã gọi điện thoại đến một số nơi, và cậu không có gì phải lo lắng hết. Kết quả thử máu âm tính."
"Cảm ơn."
"Không có chi."
"Tôi nghĩ cậu muốn biết sớm."
"Cảm ơn," tôi lại nói và nghe thấy những tiếng ồn ào sau lưng ông. "Ông đang ở đâu vậy?"
"Tại một cái trại cho người vô gia cư. Bão tuyết dồn họ đến đây chúng tôi không kịp phục vụ thức ăn cho họ, vì thế mà chúng tôi phải huy động tất cả mọi người. Tôi phải đi đây."
Bàn làm việc bằng gỗ đào hoa tâm loại quý, thảm Ba Tư, ghế được bọc bằng một loại da đỏ đắt tiền, đồ điện tử là những đồ mới nhất hiện nay, và trong lúc tôi ngắm nghía lại căn phòng đẹp đẽ được phân cho tôi, tôi ngạc nhiên tự hỏi, lần đầu tiên sau bao nhiêu năm qua, là càn phòng này giá trị bao nhiêu. Có phải là chúng tôi chỉ thuần tuý chạy theo đồng tiền? Tại sao chúng tôi phải làm việc cực nhọc như thế, để mua một tấm thảm đắt tiền hơn; một chiếc bàn cổ hơn chăng?
Trong sự ấm áp, và tiện nghi của căn phòng đẹp đẽ của mình, tôi nghĩ đến Mordecai Green, lúc này đang tình nguyện phục vụ trong một cái trại bận rộn, phục vụ đồ ăn cho những người đói và lạnh, hẳn nhiên là với nụ cười ấm áp và những lời tốt đẹp.
Cả hai chúng tôi cùng tốt nghiệp trường luật, cả hai chúng tôi cùng trải qua kì sát hạch của luật sư đoàn, cả hai đều thông thạo trong những chuyện kiện tụng. Chúng tôi làm một công việc có cùng bản chất. Tôi giúp những khách hàng của tôi
nuốt chửng đối thủ của họ để họ có thể cộng thêm nhiều con số không vào số tài khoản của họ, và nhờ vậy mà tôi trở nên giàu có hơn. Ông giúp khách hàng của ông kiếm miếng ăn và tìm được một cái giường ấm.
Tôi nhìn vào những con số mà tôi viết ngoáy ra tờ giấy – số tiền kiếm được, những năm tháng theo đuổi, và con đường dẫn đến sự giàu có – và tôi cảm thấy buồn cho mình. Một sự tham lam trơ trẽn đáng xấu hổ.
Chuông điện thoại làm tôi giật cả mình.
"Tại sao anh lại ngồi ở văn phòng?" Claire hỏi, mỗi từ đều vang lên chậm rãi vì chúng đều phủ đầy băng giá. Tôi nhìn đồng hồ, không tin vào mắt mình. "Anh à ừm có một khách hàng gọi điện đến từ West Coast. Ở đấy không có bão tuyết."
Tôi nghĩ rằng câu nói dối này tôi đã nói trước đây rồi. Không thành vấn đề. "Em đang đợi anh đấy, Michael. Em phải đi bộ về chăng?"
"Đừng, anh sẽ tới ngay lập tức."
Tôi đã tùng buộc nàng phải chờ đợi. Đó là một phần của cuộc chơi, chúng tôi đều quá bận không thể làm gì ngay lập tức được. Tôi chạy ra khỏi tòa nhà đi vào trong cơn bão tuyết, chẳng mấy quan tâm đến việc một đêm nữa lại hỏng mất rồi.
6.
Tuyết cuối cùng cũng ngừng rơi. Claire và tôi ngồi uống cà phê bên cửa sổ trong bếp. Tôi ngồi đọc báo trong ánh sáng của một ngày mới. Người ta cố gắng để sân bay quốc tế vẫn hoạt động.
"Chúng mình đi Florida đi," tôi nói. "Ngay bây giờ."
Nàng mệt mỏi nhìn tôi. "Florida?"
"Phải đấy, mình đi Bahamas. Mình có thể đến đấy đầu giờ chiều." "Không được."
"Được mà. Anh sẽ nghỉ việc vài ngày và - ."
"Tại sao?"
"Tại vì anh đang bị rối loạn, và theo thông lệ nếu như em bị khủng hoảng thì em sẽ được nghỉ mấy ngày."
"Anh bị khủng hoảng."
"Đúng thế. Đó là một điều gì vui ra phết, thật đấy. Người ta cho em một khoảng không để thở, đối xử với em thật tốt, hôn cả mông của em ấy chứ. Sao không tranh thủ dịp này."
Khuôn mặt nàng đanh lại, và nàng nói. "Em không đi được."
Và thế là chấm hết mọi chuyện. Chỉ là một cơn ngẫu hứng, mà nàng thì có quá nhiều nghĩa vụ. Thật là một việc độc ác khi yêu cầu nàng như thế, tôi nghĩ trong lúc quay lại đọc báo, nhưng tôi không cảm thấy quá khổ sở về điều đó. Nàng chẳng bao giờ chịu tác động của tôi trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Nàng bỗng trở nên hối hả – những cuộc hẹn, những giờ lên lớp, những việc phải chạy, cuộc sống của một bác sĩ phẫu thuật trẻ đầy tham vọng mà. Nàng tắm, thay đồ, và sẵn sàng đi làm. Tôi đánh xe đưa nàng đến bệnh viện. Chúng tôi chẳng nói gì trong khi xe tôi chạy qua lớp tuyết đóng trên mặt đường.
"Anh sẽ đi Memphis trong vài ngày," tôi nói giọng thản nhiên hết sức khi chúng tôi đi đến cổng bệnh viện trên đường Resevoir.
Ồ
"Ồ thế hả," nàng hỏi, không có một phản ứng rõ ràng nào.
"Anh muốn gặp bố mẹ. Gần một năm rồi, và bây giờ là lúc thích hợp. Anh không thích tuyết. Anh chẳng có tâm trạng tốt để làm việc. Khủng hoảng mà, em biết đấy."
"Vậy thì gọi cho em nhé," nàng nói và mở cửa xe. Rồi nàng đóng lại – không hôn, không chào, không quan tâm. Tôi nhìn theo nàng vội vã đi bên lề, rồi biến vào trong tòa nhà.
Thế là hết. Sao mà tôi ghét phải nói điều này với mẹ tôi thế.
*
Bố mẹ tôi ngoài sáu mươi, cả hai đều khỏe mạnh và cố gắng vui hưởng tuổi già sau khi nghỉ hưu. Cha tôi làm phi công trong 30 năm. Mẹ tôi đã từng quản lí một ngân hàng. Họ làm việc cật lực, tiết kiệm được nhiều tiền, và cung cấp một cuộc sống khá giả tiện nghi cho chúng tôi, hai anh lớn và tôi được gửi đến những trường tư tốt nhất khi chúng tôi đến tuổi đến trường.
Cha mẹ tôi đúng mực, sống theo lôi cổ, yêu nước, không có những thói quen xấu, và tận tụy với nhau hết mực. Cha mẹ tôi đi nhà thờ vào mỗi ngày Chủ nhật, tham gia diễu hành vào ngày Quốc khánh, đến câu lạc bộ tuần một lần, và đi du lịch mỗi khi thấy thích.
Họ vẫn còn rầu rĩ vì chuyện li dị của anh trai Warner của tôi ba năm trước. Anh là luật sư ở Atlanta, đã cưới người mà anh yêu từ ngày còn đi học đại học, một cô gái ở Memphis, chỗ quen biết của gia đình chúng tôi. Sau khi hai đứa trẻ ra đời, cuộc hôn nhân trở nên xấu đi. Chị dâu tôi có được quyền nuôi con và chuyển đến Portland. Cha mẹ tôi chỉ có thể gặp cháu nội, mỗi năm một lần nếu như mọi chuyện đều suôn sẻ. Đó là một đề tài mà tôi không bao giờ tham gia.
Tôi thuê một cái xe ở sân bay Memphis rồi lái về phía Đông, ra vùng ngoại ô trải dài, khu vực mà người da trắng sinh sống. Người da đen sống ở trung tâm, người da trắng sống ở vùng ven. Thỉnh thoảng người da đen lại lấn ra ngoài vùng đệm và người da trắng lại chuyển đến vùng khác, xa hơn. Memphis chạy về hướng đông nơi các cuộc đua diễn ra.
Cha mẹ tôi sống trong một sân golf, trong một nhà kính mới tinh, được thiết kế sao cho tất cả các cửa sổ đều trông ra đường golf. Tôi ghét ngôi nhà này vì các đường
golf lúc nào cũng nhộn nhịp. Tuy vậy tôi chẳng bao giờ để lộ ra điều đó.
Tôi đã gọi về nhà từ phi trường cho nên mẹ tôi nôn nóng chờ đón tôi. Cha tôi thì đang ở đâu đó trên sân golf.
"Trông con có vẻ mệt đấy," mẹ tôi nói sau khi ôm hôn tôi. Đó là lời chào thông thường của mẹ.
"Cảm ơn mẹ, trông mẹ tuyệt lắm." Mà đấy không phải lời khen nịnh. Mẹ tôi thon thả và rám nắng nhờ những buổi chơi golf và tắm nắng thường xuyên ở câu lạc bộ.
Bà pha trà đá và chúng tôi ngồi uống ở dưới hàng hiên, nơi chúng tôi có thể nhìn thấy những thành viên câu lạc bộ hưu trí, vụt qua trên đường golf trên chiếc xe của họ.
"Có chuyện gì không ổn vậy?" bà hỏi chưa đầy một phút sau và trong khi tôi chưa kịp uống một ngụm nước.
"Chẳng có gì, con ổn mà."
"Claire đâu? Các con chẳng bao giờ gọi cho mấy thằng già này. Hai tháng nay mẹ đã không nghe nó gọi điện."
"Claire cũng khỏe mẹ ạ. Chúng tôi vẫn sống, khỏe mạnh và làm việc như điên." "Các con có đủ thời gian cho nhau không?"
"Không."
"Các con có dành thời gian cho nhau không?"
"Không nhiều ạ."
Bà cau mày, trong đôi mắt bà tràn ngập mối quan tâm mẫu tử. "Các con có chuyện gì trục trặc à?" bà hỏi ở thế tấn công.
"Vâng ạ."
"Mẹ biết, mẹ biết mà. Mẹ có thể nghe trong giọng nói của con qua điện thoại là có gì đó không ổn. Chắc các con cũng không thoát khỏi một vụ li dị. Các con đã cố gắng hòa giải chưa?"
"Chưa ạ. Mọi việc đến một cách từ từ."
"Sao vậy hả? Nó là một đứa rất tuyệt mà, Michael. Con hãy làm tất cả cho cuộc sống gia đình của con đi."
"Chúng con đã cố gắng mẹ ạ. Nhưng quả là rất khó."
"Ngoại tình hả? Hay là ma túy? Hay là rượu chè? Hay là bài bạc? Có vướng vào bất kì chuyện tồi tệ ấy không?"
"Không ạ. Chỉ là hai người rẽ sang hai đường mà thôi. Con làm 80 giờ một tuần, cô ấy cũng là 80 giờ một tuần."
"Vậy thì hãy dừng lại đi. Tiền không phải là tất cả." Giọng bà vỡ ra vì nghẹn ngào và tôi nhìn thấy những giọt lệ trong mắt bà.
"Con rất tiếc mẹ ạ. Ít nhất thì chúng con cũng không có con."
Bà cắn môi, cố tỏ ra mạnh mẽ nhưng bà đang chết đắng trong lòng. Và tôi biết chính xác điều bà đang nghĩ: hai đứa rồi, đứa nọ tiếp đứa kia. Bà coi chuyện li dị của tôi như một thất bại của chính bà, cũng giống như bà đã đau khổ với chuyện li dị của Warner. Bà sẽ tìm cách đổ lỗi cho mình.
Tôi không cần sự thương hại. Để chuyển sang một đề tài thú vị hơn tôi kể cho bà nghe vụ Mister, và để bà khỏi bận lòng, tôi giảm bớt những tình tiết nguy hiểm đi. Nếu câu chuyện này xuất hiện trên báo ở Memphis thì cha mẹ tôi đã bỏ qua bài báo này.
"Con không sao chứ?" bà hỏi, hoảng kinh.
"Tất nhiên rồi. Đạn đã sượt qua con và con đang ở đây."
"Ồ, tạ ơn Chúa. Mẹ muốn nói là con không bị tổn thương về mặt tinh thần chứ?"
"Không mẹ ạ. Con vẫn nguyên vẹn. Chẳng sứt mẻ gì. Công ty cho con nghỉ vài ngày thế là con về với mẹ."
"Ôi con đáng thương của mẹ. Chuyện Claire và lại còn chuyện này nữa chứ."
"Con ổn mà. Đêm qua chỗ con tuyết rơi nhiều lắm, vì vậy mà rời khỏi đó ít ngày thật tốt."
"Claire sẽ an toàn chứ?"
"An toàn như bất cứ ai ở D.C.. Cô ấy sống trong bệnh viện, chỗ tốt nhất ở trong thành phố đấy."
"Mẹ lo cho các con biết bao. Mẹ đọc những bản thống kê tội phạm, con biết đấy. Thật là một thành phố nguy hiểm."
"Cũng gần nguy hiểm như ở Memphis này."
Chúng tôi nhìn quả bóng lăn đến gần hàng hiên và đợi chủ nhân của nó xuất hiện. Một người phụ nữ to khỏe nhảy ra khỏi chiếc xe và lom khom trên quả bóng một giây rồi vụt hỏng quả bóng.
Mẹ tôi bỏ đi lấy thêm trà và để lau mắt.
Tôi không biết là cha mẹ tôi cho chuyện gì là tồi nhất trong những cái tin mà tôi đem đến trong cuộc viếng thăm này. Mẹ tôi muốn chúng tôi có những gia đình vững vàng với nhiều con cháu. Ba tôi muốn những thằng con trai của ông nhanh chóng thăng tiến và tận hưởng phần thưởng dành cho những cố gắng miệt mài của chúng.
Vào cuối buổi chiều thì hai cha con tôi đã chơi được 9 lỗ. Ông phát banh, tôi uống bia và lái xe. Trò chơi này còn chưa mê hoặc được tôi. Hai li bia lạnh nữa và tôi sẵn sàng mở rộng cõi lòng ra với ông. Tôi đã kể lại chuyện về Mister trong bữa trưa, vì thế mà ông nghĩ rằng tôi chỉ xả hơi vài ngày, lấy lại sức lực trước khi trở lại đấu trường.
"Con mệt mỏi vì làm việc cho những công ty lớn rồi ba ạ," tôi nói trong khi chúng tôi ngồi bên điểm phát bóng thứ ba đợi cho hai đôi phía trước phát bóng. Tôi rất hồi hộp và vì thế mà tôi thấy bứt rứt. Đây là cuộc đời của tôi, không phải của ông.
"Điều đó có nghĩa gì?"
"Có nghĩa là con mệt mỏi với những gì con đang làm."
"Chào mừng con về với cuộc đời thực. Con nghĩ là những người làm việc trong nhà máy không mệt mỏi sao? ít nhất thì con cũng có nhiều tiền."
Sau đó ông phát bóng, gần như là nốc ao. Thêm hai lỗ nữa, và trong khi chúng tôi lê bước trong cỏ tìm bóng, ông hỏi: "Con định tìm việc mới sao?"
"Con đang nghĩ về điều đó."
"Con sẽ đi đâu?"
"Con còn chưa biết nữa. Bây giờ còn sớm quá. Con còn chưa tìm ra một chỗ nào khác."
"Vậy thì nếu con chưa tìm thì làm sao con biết được cỏ ở chỗ khác xanh hơn?" Ông nhặt bóng lên và bỏ đi.
Tôi lái xe một mình trên con đường hẹp rải sỏi trong khi ông chạy bộ đi tìm quả bóng mới phát và tôi tự hỏi làm thế nào mà người cha tóc bạc này làm tôi sợ đến thế. Ông đã thúc đẩy những đứa con trai của mình lao vào đời tìm kiếm những mục tiêu, lao động hết mình, phấn đấu để trở thành một ông lớn, mà tất cả mọi mục đích đều hướng đến chuyện làm thật nhiều tiền và sống một giấc mơ Mỹ. Ông chắc chắn đã cung cấp cho chúng tôi tất cả cho những gì chúng tôi mà cần.
Giống như các anh tôi, tôi không ra đời với những ý thức xã hội. Chúng tôi đi lễ nhà thờ bởi vì Kinh thánh đề nghị điều đó rất ráo riết. Chúng tôi đóng thuế cho chính phủ bởi vì luật pháp đòi phải như vậy. Chắc chắn là ở đâu đó trong những chuyện này có một cái điều gì đó tốt đẹp và chúng tôi đã có những thứ đó. Chính trị thuộc về những người sẵn sàng chơi trò này, và hơn nữa chẳng có đồng tiền nào được tạo ra bởi những người trung thực. Chúng tôi được dạy dỗ phải có hiệu suất cao, và chúng tôi càng thành công bao nhiêu thì xã hội càng thu lợi bấy nhiêu, theo một cách nào đó. Xác định mục đích, làm việc hết sức mình, chơi đúng luật và trở nên giàu có.
Ba tôi nhìn lại một lần nữa cái lỗ thứ năm, đổ lỗi cho sự cẩu thả của ông và trèo lên xe.
"Có thể là con không tìm một đồng cỏ xanh hơn đâu." Tôi nói.
"Tại sao con không nói thẳng ra là con muốn gì đi?" ông hỏi, và như thường lệ tôi cảm thấy mình quá yếu đuối khi không dám đối mặt với vấn đề này một cách can đảm hơn.
"Con đang nghĩ đến chuyện làm việc công ích."
"Là chuyện quái quỷ gì vậy?"
"Là khi mà ba làm việc vì lợi ích của xã hội chứ không phải là vì kiếm thật nhiều tiền."
"Thì ra con là thế đấy, một người theo đảng Dân chủ hả? Con đã ở Washington quá lâu rồi."
"Có rất nhiều đảng viên đảng Cộng hòa ở D.C.. Trong thực tế họ nắm quyền lực."
Chúng tôi lái xe đến điểm phát bóng kế tiếp trong im lặng. Cha tôi là một người chơi golf rất cừ nhưng mà những cú phát bóng của ông càng ngày càng tệ. Tôi đã làm ông không tập trung được.
Lại lội qua một bãi đất. Ông nói tiếp. "Vậy là một thằng nghiện rượu bị bắn vỡ sọ và thế là con muốn thay đổi cả xã hội. Phải vậy không?"
"Ông ta không phải là một thằng nghiện rượu. Ông ta đã tham chiến ở Việt Nam."
Ba tôi đã lái máy bay B 52 trong những năm đầu chiến tranh ở Việt Nam và điều này làm cho ông khựng lại. Nhưng nó chỉ diễn ra trong một giây. Ông rất cứng cựa. "Một trong những thằng như thế thôi, hử?"
Tôi không đáp. Trái bóng biến mất một cách vô hi vọng và ông cũng chẳng thèm tìm kiếm nữa. Ông chạy qua một đường golf khác, chơi rất tệ, rồi chúng tôi lại bỏ đi.
"Ba rất buồn khi thấy con phá hủy sự nghiệp tươi đẹp của con, con trai ạ. Con đã làm việc rất cừ, và con sẽ có chân trong hội đồng quản trị nay mai thôi."
"Có thể thế."
"Con cần nghỉ ngơi một thời gian, thế đấy."
Đó dường như là giải pháp của tất cả mọi người.
Tôi đưa cha mẹ tôi đi ăn tối ở một nhà hàng sang trọng. Chúng tôi cố hết sức né tránh đề tài về Claire, sự nghiệp của tôi, và những đứa cháu nội ít khi được gặp. Chúng tôi nói chuyện về những người bạn cũ và những người hàng xóm ngày xưa. Tôi lao vào những đề tài ấy mà chẳng có gì làm cho tôi quan tâm cả.
Tôi từ biệt cha mẹ vào trưa ngày thứ Sáu, bốn giờ trước chuyến bay của tôi. Và thế là tôi lại lao vào cuộc sống rối beng của tôi ở D.C..
7.
Tất nhiên là căn hộ vắng vẻ khi tôi về tới nhà vào tôi ngày thứ Sáu, nhưng có một điều mới mẻ. Đó là một mẩu giấy đặt trên quầy trong bếp. Theo gương tôi, Claire cũng về thăm nhà nàng vài ngày ở Providence. Không đưa ra lí do. Nàng bảo tôi gọi điện cho nàng khi về đến nhà.
Tôi gọi về nhà ông bà già vợ và làm ngắt quãng bữa ăn tối. Chúng tôi mất 5 phút chuyện phiếm về việc cả hai chúng tôi đều khỏe. Thời tiết ở Memphis rất đẹp và Providence cũng thế, hai bên gia đình đều khỏe và nàng sẽ về nhà vào chiều thứ Bảy. Tôi cúp máy, pha cà phê vừa uống vừa nhìn đăm đăm qua cửa sổ trong bếp nhìn dòng xe trôi qua đường P vẫn còn phủ tuyết trắng xóa. Nếu tuyết bắt đầu tan thì cũng chẳng rõ lắm.
Tôi cho rằng Claire đang nói với cha mẹ nàng cũng về cái câu chuyện không may mà tôi đã trút ra với cha mẹ mình. Có một điều thật đáng buồn và kì quặc dù không đáng ngạc nhiên chút nào khi chúng tôi có thể thành thực với cha mẹ mình trước khi đối mặt với nhau. Tôi cảm thấy mệt mỏi quá rồi, và nhìn nhận rằng chẳng bao lâu có thể là vào ngay sáng Chủ nhật này, chúng tôi sẽ ngồi lại với nhau ở đâu đó, có lẽ là ngay trong bàn ăn này mà đối diện với thực tế. Chúng tôi sẽ bày tỏ những cảm xúc và những nỗi lo sợ của chúng tôi, và như tôi chắc chắn, chúng tôi rằng sẽ hoạch định một tương lai sống không có nhau. Tôi biết là nàng muốn điều đó lắm, tôi chỉ không biết là nàng muốn như thế nào thôi.
Tôi thực tập nói to những điều mà tôi dự định sẽ nói với nàng cho đến khi nghe ra chúng có vẻ có sức thuyết phục rồi tôi bỏ ra ngoài đi dạo. Ngoài trời là 10 độ và gió rất rát, cái giá lạnh cắt da cắt thịt xuyên qua cả áo khoác của tôi. Tôi đi ngang qua những ngôi nhà đẹp, những dãy nhà ấm cúng tiện nghi, nơi tôi nhìn thấy những gia đình thật sự đang ăn uống, cười đùa và tận hưởng, hơi ấm không chỉ của lò sưởi và còn cả tình thân, rồi tôi xuôi xuống đường M, nơi có những hàng quán tràn ra ngoài lề đường. Thậm chí trong một đêm thứ Sáu rét mướt như đêm nay cũng vẫn nhộn nhịp như thường; các quán bar đầy người, người ta xếp hàng trong các nhà hàng, còn các quán cà phê thì đông nghẹt. Tôi đứng bên một cái cửa sổ của một hộp đêm lắng nghe một bản nhạc buồn trong khi tuyết phủ lên khuỷu tay, tôi ngắm nhìn những đôi bạn tình uống rượu và khiêu vũ. Lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy mình không thuộc vào lớp người trẻ nữa. Tôi mới 32 tuổi, nhưng mà trong bảy năm qua tôi đã làm việc hơn hầu hết những gì người ta làm trong lứa tuổi 20. Tôi mệt mỏi, chưa
già nhưng đã cảm thấy gánh nặng của tuổi trung niên trên vai, và tôi thừa nhận rằng tôi không còn phơi phới thanh xuân như lúc mới rời trường đại học. Nhũng cô gái ở đây sẽ không thèm liếc nhìn tôi đến lần thứ hai.
Tôi lạnh cóng và tuyết lại tiếp tục rơi. Tôi mua một cái bánh sandwich và mệt mỏi tìm đường về nhà. Tôi làm một li rượu mạnh, rồi nhóm lò sưởi lên, và tôi ngồi ăn trong bóng tối nhập nhoạng, hoàn toàn đơn độc.
Trước đây, sự vắng mặt của Claire vào cuối tuần cho tôi một cảm giác nhẹ nhõm vì thoát khỏi cảm giác áy náy khi tôi ở lại làm việc thêm trong cơ quan. Giờ đây ngồi bên đống lửa tôi cảm thấy ghê tởm cho cái ý nghĩ ấy. Drake & Sweeney sẽ đứng vững đầy tự hào sau khi tôi ra đi, và những khách hàng với những vấn đề tối nghiêm trọng của họ sẽ lại được chuyển giao cho một đội quân luật sư khác. Bộ phận của tôi sẽ chỉ hơi khựng lại một chút trên con đường đi tới của công ty, một cái vấp chẳng dễ gì nhận thấy. Công ty của tôi sẽ chỉ cần vài phút ổn định sau khi tôi ra đi.
Sau chín giờ một chút chuông điện thoại reo lên dứt tôi ra khỏi tâm trạng suy tư ủ dột. Đó là Mordecai Green, giọng ông ta oang oang trên điện thoại. "Cậu bận không?"
"Ồ không bận lắm đâu. Mà có chuyện gì không?"
"Rét như ở địa ngục ấy, tuyết lại đổ xuống nữa chứ, mà chúng tôi thì lại thiếu người. Cậu có thể giúp cho vài giờ được không?"
"Mà làm gì chứ?"
"Làm việc. Chúng tôi cần một số người. Các trại và các bếp ăn từ thiện chật cứng mà chúng tôi lại không có đủ người tình nguyện."
"Tôi không biết là tôi có biết làm gì không."
"Cậu biết trét bơ đậu phộng lên bánh mì không?"
"Biết."
"Thế thì cậu dư sức làm ở đây."
"Được, nhưng tôi phải đến đâu?"
"Ở cách văn phòng của chúng tôi chừng 10 khối nhà gì đó. Đến khu vực giữa đường 13 và đường Euclid, cậu sẽ trông thấy một ngôi nhà thờ màu vàng bên tay phải tên nó là Ebenezer Chritian Fellowship. Chúng tôi ở dưới tầng hầm."
Tôi ghi vội những chỉ dẫn vào giấy, mỗi một chữ một thêm run rẩy bởi vì chỗ mà Mordecai gọi tôi đến là vùng hoành hành của dân đầu gấu. Tôi muốn hỏi là tôi có nên mang theo súng. Tôi tự hỏi là liệu ông có súng không. Nhưng mà ông là người da đen còn tôi thì da trắng. À mà còn chiếc xe đắt giá của tôi thì sao?
"Cậu đến nhanh nhé," ông gầm gừ sau một chút im lặng.
"Được. Tôi sẽ có mặt trong vòng 20 phút," tôi gan dạ đáp, tim tôi đập thùm thụp trong lồng ngực.
Tôi thay quần jean, áo thể thao, và ủng đi bộ đường dài. Tôi bỏ thẻ tín dụng, và phần lớn tiền mặt ở nhà. Ở trên cùng tủ áo tôi tìm thấy một chiếc áo khoác len dày, dính sơn và cà phê, một kỉ vật còn lại từ ngày đi học, và khi tôi đứng trước gương tròng chiếc áo vào người tôi hi vọng là trông tôi không có vẻ có tiền. Nhưng mà không phải thế. Nếu một nghệ sĩ trẻ mặc nó chụp lên trang bìa của tờ Vanity Fair, nó lập tức trở thành mốt thời thượng ngay.
Tôi muốn mặc một chiếc áo chống đạn bên trong. Tôi sợ hãi, nhưng khi tôi khoá cửa và bước ra ngoài tuyết lạnh, lạ lùng làm sao tôi lại cảm thấy phấn khích.
Cảnh bắn súng và những cuộc tấn công của các báng tội phạm mà tôi dự đoán đã không xảy ra. Thời tiết làm cho đường phố yên tĩnh và an toàn, ít nhất là trong lúc này. Tôi tìm thấy nhà thờ và đậu xe ở một bãi trống bên kia đường. Trông nó giống như một giáo đường nhỏ, ít nhất cũng hàng trăm tuổi và chẳng có nghi ngờ gì là những giáo dân gốc cũng chẳng còn được bao nhiêu người lui tới.
Ớ một góc, tôi nhìn thấy mấy người tụm lại chờ đợi ở ngoài cửa. Tôi vượt qua họ, như thể tôi biết chính xác nơi tôi muốn đến, và tôi bước vào thế giới của những người không nhà. Mặc dù tôi cũng muốn xô đẩy như mọi người, giả vờ như đã từng chứng kiến cảnh này, và tôi có việc phải làm, nhưng tôi không thể nhúc nhích được. Tôi trố mắt ra vì ngạc nhiên trước cảnh bao nhiêu người nghèo chen chúc trong tầng hầm. Một số người nằm trên sàn cố chợp mắt, một số người ngồi thành từng nhóm. Một số người ngồi ăn bên những chiếc bàn dài, còn một số thì ngồi trên những chiếc ghế xếp. Dọc theo các bức tường không có một chỗ trông nào, người ta ngồi tựa lưng vào những bức tường nhọ nhem. Bọn trẻ con hoặc khóc lóc hoặc nhảy nhót chung quanh, trong khi những bà mẹ cố gắng giữ chúng bên cạnh mình. Những người
nghiện rượu nằm ngay như phỗng, ngáy o o. Những người tình nguyện chuyển cho họ chăn mền, và len lỏi trong đám người ngổn ngang để đưa cho họ những trái táo.
Bếp ở cuối nhà thờ, nơi rộn rã với những hoạt động nấu nướng và phục vụ. Tôi trông thấy Mordecai đứng trong bếp đang rót nước quả ra những cái li giấy và nói chuyện không ngừng. Một hàng người kiên nhẫn đợi trước những cái bàn phục vụ.
Căn phòng ấm cúng; hơi người, mùi thức ăn, mùi gas hòa trộn thành một cái mùi đậm đặc nhưng không đến nỗi khó chịu. Một người đàn ông độn không biết bao nhiêu áo quần trong người, giống như Mister đâm sầm vào tôi và đã đến lúc phải đi rồi.
Tôi đi đến chỗ Mordecai, ông này rất mừng khi trông thấy tôi. Chúng tôi bắt tay nhau như những người bạn cũ, ông giới thiệu tôi với hai người tình nguyện có những cái tên mà tôi chưa từng nghe thấy bao giờ.
“Trời như đang điên ấy," ông nói. "Một trận bão tuyết, rồi rét cắt da cắt thịt, chúng tôi làm việc suốt đêm. Mang bánh mì lại đây." Ông chỉ vào một khay đầy những lát bánh mì trắng. Tôi cầm lên và theo ông đến một cái bàn.
"Cũng khá phức tạp đấy. Cậu lấy bơ ở đây, mù tạt và nước sốt ở kia. Một nửa bánh sandwich chét mù tạt, một nửa thì phết nước sốt, cùng với một lát bơ, và hai lát bánh mì. Thỉnh thoảng có làm thêm một chục bánh với bơ đậu phộng nhe, cậu hiểu chứ?"
"Hiểu."
"Mà cậu hãy làm nhanh nhanh lên nhé." Ông đập vào vai tôi rồi biến mất.
Tôi vội vã làm một chục bánh sandwich, và cho rằng mình làm rất giỏi. Sau đó tôi làm chậm lại rồi quay sang quan sát mọi người trong khi họ đứng đợi thành hàng, mắt họ nhìn quanh quất nhưng vẫn hướng về phía đồ ăn ở phía trước. Tay họ cầm một cái đĩa bằng giấy, tô và muỗng bằng plastic, và một cái khăn giấy. Khi đến lượt chiếc tô sẽ đầy súp, một nửa cái bánh sandwich sẽ được đặt vào đĩa, thêm một quả táo, một cái kẹo và cuối cùng là một li nước táo.
Đa số mọi người lặng lẽ cảm ơn lúc người tình nguyện đưa cho họ nước trái cây, sau đó họ tản đi nâng niu trên tay những thứ đã nhận được. Ngay cả trẻ con cũng cẩn thận giữ gìn đồ ăn của chúng.
Hầu hết mọi người ăn một cách từ tốn, tận hưởng hơi nóng phả lên mặt, nhấm nháp hương vị của đồ án trong miệng. Những người khác thì ăn ngấu nghiến.
Ở gần chỗ tôi là một cái bếp gas lớn với 4 ngọn lửa trên đó 4 nồi súp to đang sôi sùng sục. Ở đầu bên kia là một chiếc bàn chất đầy cần tây, cà-rốt, hành, cà chua và những con gà nguyên con. Một người tình nguyện đang dùng một con dao lớn chặt chặt thái thái như cái máy, hai người nữa phục vụ quanh bếp. Một số người chuyển đồ ăn ra bàn, trong lúc này tôi là người làm bánh sandwich duy nhất.
"Chúng tôi cần một số bánh nữa, anh làm được không?"
Mordecai hỏi khi ông quay lại bếp. Ông cúi xuống lôi ra một chiếc bình cỡ chín mười lít đựng bơ đậu phộng.
"Tôi là chuyên gia đấy." Tôi đáp.
Ông nhìn tôi làm việc, hàng người đã ngắn dần, và ông muốn nói chuyện. "Tôi nghĩ ông là một luật sư chứ!" Tôi bắt đầu.
"Tôi là một con người trước khi là một luật sư. Có thể là cả hai cùng một lúc, ấy đừng có cho nhiều bơ quá. Chúng ta phải trở nên thành thạo."
"Thức ăn ở đâu mà có?"
"Ở ngân hàng thức ăn. Tất cả đều là đồ cứu trợ. Tối nay chúng tôi may mắn có thịt gà, thường thì chỉ có rau thôi. Thật là ngon lành."
"Bánh mì hơi cũ."
"Nhưng không mất tiền. Từ một cửa hàng bánh kẹo lớn, hàng tồn mà. Cậu có thể xơi một chiếc nếu muốn.”
"Cảm ơn nhưng tôi ăn rồi. Ông có ăn ở đây không?"
"Ít khi lắm." Phải rồi chỉ nhìn qua cũng đủ biết là ông không phải người duy trì chế độ ăn kiêng với rau và táo. Ông ngồi ở một đầu bàn và chăm chú nhìn đám đông. "Đây là lần đầu tiên cậu đến một nơi như thế này à?"
"Vâng."
"Từ gì đầu tiên xuất hiện trong óc cậu?"
"Vô vọng."
"Có thể đoán được, nhưng rồi cậu sẽ quen thôi."
"Có bao nhiêu người sống ở đây?"
"Không, đây chỉ là một cái trại cấp cứu thôi. Bếp thì hoạt động suốt ngày phục vụ bữa trưa và tối. Nhà thờ cũng chỉ đủ tử tế mở cửa vào những ngày thời tiết thật xấu thôi."
"Tôi sẽ cố gắng hiểu điều này. "Nếu vậy những người này sống ở đâu?"
"Một số người ở lậu. Họ sống trong những căn nhà bỏ hoang và họ là những kẻ may mắn. Số còn lại lang thang trên đường phố, ngủ trong công viên, trong trạm xe buýt, dưới hầm cầu. Họ vẫn có thể sinh tồn được nếu thời tiết còn có thể chịu đựng được chứ như tối hôm nay thì họ chết cóng mất."
"Vậy những cái trại này mở ra ở những đâu?"
"Ở khắp mọi nơi. Có 20 cái cả thảy. Một nửa do kinh phí của các tổ chức phi chính phủ, còn lại là của thành phố, vì chính sách cắt giảm ngân sách chẳng bao lâu sẽ đóng cửa 2 cái trong số này."
"Có bao nhiêu giường tất cả?"
"Năm ngàn, ít hay nhiều hơn một chút."
"Có bao nhiêu người vô gia cư?"
"Đó luôn luôn là một vấn đề bởi vì những người này không dễ quản lí. Có lẽ là 10.000 người."
"Mười ngàn?"
"Phải, đó là chỉ tính những người lang thang trên hè phố. Có thể còn khoảng 20.000 người tạm sống với gia đình hoặc bạn bè, họ mới chỉ mất nhà khoảng một hai tháng gì đó."
"Vậy là có ít nhất là 5.000 người lấy hè phố làm nhà." Tôi nhắc lại không khỏi sững sờ.
“Ít nhất là như vậy."
Một người tình nguyện đến hỏi thêm bánh sandwich. Với sự giúp đỡ của Mordecai, tôi làm thêm chục cái nữa. Sau đó chúng tôi dừng lại và bắt đầu quan sát đám đông. Cánh cửa mở ra một bà mẹ trẻ bồng một con nhỏ chậm chạp bước vào theo sau có 3 đứa lít nhít nữa. Một đứa nhỏ chân không giày, chỉ mang một đôi vớ len ngắn trông đã te tua. Một chiếc khăn tắm choàng qua cổ trùm xuống tận vai. Hai đứa kia ít ra thì cũng mang giày nhưng ăn mặc phong phanh. Đứa bé nhất hình như đang ngủ.
Người mẹ trông có vẻ đờ đẫn, và khi đã bước vào phòng rồi vẫn lúng túng không biết đi đâu. Không còn chỗ nào trên bàn ăn. Cô dắt díu bọn trẻ đi về phía bàn phân phát thức án. Hai người tình nguyện tươi cười tiến về phía họ. Một người dẫn họ về phía gần bếp và bắt đầu lấy đồ ăn cho họ, một người lấy chăn mền đắp cho họ.
Mordecai và tôi quan sát cảnh đó, tôi cố không nhìn chằm chằm nhưng ai thèm chú ý đến tôi chứ?
"Cô ta sẽ đi đâu sau khi bão tan?"
"Ai mà biết được, sao cậu không hỏi cô ấy?"
Ấy điều này sẽ làm tôi dấn sâu thêm mà tôi thì chưa sẵn sàng làm bẩn tay mình. Tôi thầm nghĩ.
"Cậu có tham gia luật sư đoàn ở D.C. không?"
"Cũng có, mà sao chứ?"
"Chỉ là tò mò thôi. Trong luật sư đoàn có nhiều người tình nguyện giúp đỡ những người vô gia cư."
Ông ta đang thả câu nhưng tôi đâu có dễ dàng bị mắc câu đến thế. "Tôi chỉ tham dự những vụ thật khó chơi thôi," tôi tự hào nói và về một khía cạnh nào đó tôi nói đúng. Bốn năm trước tôi giúp một trong những khách hàng của tôi tiến hành thủ tục kiện cho một tù nhân ở Texas. Công ty của tôi có chính sách cho một số luật sư làm công việc tư vấn không công cho tất cả các đối tác của nó với điều kiện việc làm này không ảnh hưởng gì đến lợi nhuận của công ty.
Chúng tôi vẫn tiếp tục quan sát bà mẹ trẻ với 4 đứa con nhỏ. Hai đứa trẻ mới chập chững biết đi ăn kẹo trước trong khi chờ tô súp nguội đi. Người mẹ trông như hóa đá hoặc quá mệt mỏi.
"Có một chỗ nào đó cho cô ta đến sống không?" Tôi hỏi.
"Chắc là không," ông thản nhiên đáp, đôi chân to tướng của ông đung đưa dưới gầm bàn. "Cho đến ngày hôm qua danh sách đăng kí cho một trại đã lên đến 500 người."
"Cho một trại thôi ư?"
"Phải, có một trại đặc biệt của thành phố chỉ mở cửa trong những ngày rét đậm. Có thể đó là cơ may duy nhất của cô ta. Nhưng tôi chắc rằng nó chật cứng tối nay. Rồi hội đồng thành phố lại đóng cửa khi thời tiết khá hơn."
Người phụ trách phải ra về và vì tôi là người tình nguyện đứng gần bếp nhất lại đang rảnh cho nên tôi bị huy động vào công việc. Trong khi Mordecai làm bánh thì tôi thái cần tây, cà-rốt và hành trong vòng một tiếng đồng hồ dưới con mắt giám sát sít sao của bà Dolly, một người của nhà thờ chịu trách nhiệm nấu ăn cho những người vô gia cư trong 11 năm qua. Đây là bếp của bà. Tôi có vinh dự lắm mới được lọt vào đây đấy, và tôi được bảo cho biết là cần tây thái quá to, lập tức chúng được thái nhỏ lại. Tạp dề của bà trắng tinh và không có lấy một vết bẩn, bà tự hào ghê gớm về công việc của mình.
"Có bao giờ bà trở nên quen thuộc với cảnh này không?" Tôi hỏi bà vào một lúc nào đó. Chúng tôi đang đứng gần bếp lửa, và bị cắt ngang bởi một cuộc cãi vã ở phía sau. Mordecai và một mục sư phải can thiệp, hòa bình mới được lập lại.
"Không bao giờ cưng à" bà nối lại câu chuyện, lau tay vào một chiếc khăn. "Nó bao giờ cũng làm tan vỡ trái tim tôi. Nhưng nói như một câu tục ngữ: Phúc cho kẻ nào mang miếng ăn đến cho kẻ khó. Chính điều này đã khiến cho tôi đứng vững được."
Bà quay đi khuấy nồi súp. "Gà đã sẵn sàng" bà nói hướng về phía tôi. "Thế là sao ạ?"
"Có nghĩa là cậu phải vớt gà ra, đổ nước luộc gà vào cái bình kia, chờ cho gà nguội rồi lóc thịt gà ra."
Lóc thịt gà cũng là cả một nghệ thuật nhất là dưới sự hướng dẫn của bà Dolly. Ngón tay tôi nóng dẫy gần như là phồng lên sau khi tôi hoàn thành nhiệm vụ.
8.
Mordecai đưa tôi lên một cái cầu thang tối om dẫn đến phòng chờ. "Bước cẩn thận đấy," ông thì thào nói với tôi trong khi chúng tôi đẩy cánh cửa bước vào điện chính. Ở đấy cũng rất tối vì rằng mọi người cố ngủ ở khắp nơi. Người ta nằm cuộn tròn trên ghế ngáy o o, người ta chui cả vào gầm ghế, các bà mẹ cố dỗ cho lũ trẻ nằm yên. Người ta chen chúc cả trên lối đi chỉ còn chừa lại một khoảng rất nhỏ cho chúng tôi len qua trong lúc chúng tôi đi về phía bục giảng đạo. Cả phòng áp mái dành cho ca đoàn cũng chật cứng.
"Không có nhiều nhà thờ làm như thế này đâu," ông thì thào trong lúc chúng tôi đứng bên cạnh bàn thờ quan sát các dãy ghế.
Tôi có thể hiểu được sự miễn cưỡng của họ. "Chuyện gì sẽ xảy ra vào ngày Chủ nhật?" tôi cũng thì thầm hỏi lại.
"Tùy thuộc vào thời tiết. Đức cha là một người của chúng tôi. Có trường hợp ông hủy bỏ buổi lễ thay vì đuổi những người này ra ngoài đường."
Tôi không biết "một người của chúng tôi" có nghĩa gì, tôi chỉ cảm thấy không muốn ở trong số đó thôi. Tôi nghe tiếng trần nhà kêu răng rắc và nhận ra là trên đầu mình có một cái ban công hình chữ U. Tôi ghé mắt chăm chú nhìn vào một đám người khác nằm xếp lớp trên những hàng ghế ở đây. Mordecai cũng nhìn chăm chăm.
"Có bao nhiêu người nhỉ?" tôi lẩm bẩm vẫn không đứt ra được ý nghĩ này. "Chúng tôi không đếm, chúng tôi chỉ lo chuyện ăn ngủ thôi."
Một trận gió ào tới luồn qua các cửa sổ. Ở đây lạnh hơn ở dưới tầng hầm. Chúng tôi nhón chân qua những thân hình nằm ngổn ngang, bỏ về qua cửa hông.
Lúc này là 11 giờ đêm. Tầng hầm vẫn đông nhưng hàng người chờ ăn súp đã vãn. "Đi theo tôi," ông nói.
Ông lấy một cái tô chìa ra cho một người tình nguyện và nói với một nụ cười: "Hãy cho tôi xem súp của chị ngon như thế nào?"
Chúng tôi ngồi giữa đám đồ đạc của những người vô gia cư và chiếc bàn xếp của họ chạm cả vào khuỷu tay của chúng tôi. Ông ta có thể ăn uống và trò chuyện
với họ giản dị như không nhưng tôi thì không thể. Tôi ngoáy ngoáy tô súp, kể ra thì nhờ bà Dolly nó ngon thật đấy nhưng tôi không thể nuốt trôi được vì cái sự thật là tôi, Micheal Brock, một gã da trắng giàu có sinh trưởng ở Memphis, thành danh từ Yale và Drake & Sweeney, lại ngồi giữa một đám cầu bơ cầu bất trong tầng hầm của một nhà thờ ở giữa vùng tây bắc D.C. này. Tôi có nhìn thấy một người da trắng, một gã say rượu ăn xong đã chuồn lẹ.
Tôi chắc rằng chiếc xe đẹp đẽ của tôi đã đi đời nhà ma và chính cái mạng tôi cũng chưa chắc giữ được chỉ 5 phút sau khi rời nhà thờ. Tôi thầm nghĩ phải bám chặt theo Mordecai, bất cứ khi nào và bằng cách nào khi ông quyết định ra về.
"Súp ngon đấy," ông nói, "nó rất khác nhau," ông giải thích thêm, "phụ thuộc vào những gì anh có. Mà cách nấu thì mỗi nơi một khác."
"Tôi ăn mì ở bàn ăn của Martha hôm nọ." Một người đàn ông tham gia vào câu chuyện, ông ta ngồi bên phải tôi, cùi chỏ của ông ta còn gần cái tô súp của tôi còn hơn là khuỷu tay của chính tôi.
"Mì hay là súp?" Mordecai hỏi với vẻ không tin một cách giễu cợt.
"Đúng mà. Khoảng một tháng được ăn mì một lần. Tất nhiên mọi người đều biết là khó mà chen chân vào đấy lắm."
Tôi không thể biết là anh ta nói đùa hay thật, nhưng tôi nhìn thấy một cái ánh tinh nghịch trong mắt anh ta. Cái ý nghĩ rằng một người vô gia cư thương tiếc cho việc mất một chỗ trong bếp ăn thân thuộc của anh ta đôi với tôi cũng thật khôi hài lắm. Khó khăn lắm mới tìm được một chỗ trên bàn ăn, bao nhiêu lần tôi được nghe câu nói đó từ miệng của bạn bè tôi ở Georgetown?
Mordecai mỉm cười: "Tên anh là gì?" Ông hỏi người đàn ông. Tôi nhận ra rằng ông luôn cần một cái tên đi kèm theo một khuôn mặt. Đối với ông những người này là một cái gì đó còn hơn là những nạn nhân, họ là người của ông.
Điều này cũng kích thích trí tò mò tự nhiên của tôi. Tôi cũng muốn biết làm thế nào mà một người bị ném ra ngoài đường. Điều gì đã phá vỡ hệ thống liên kết hùng mạnh của chúng tôi khiến cho có những người Mỹ trở nên nghèo đói đến mức phải ngủ dưới hầm cầu.
"Drano," ông ta đáp bốc những miếng cần tây lớn của tôi.
"Drano ư?" Mordecai hỏi lại.
"Drano," người đàn ông lặp lại.
"Họ của anh là gì?"
"Không có họ, quá nghèo mà."
"Ai đặt cho anh cái tên là Drano?"
"Mẹ tôi."
"Anh được mấy tuổi thì mẹ anh đặt cho cái tên này?"
"Khoảng 5 tuổi."
"Tại sao lại là Drano?"
"Mẹ tôi có một em bé không chịu im mồm lấy một phút, lúc nào cũng gào khóc không ai ngủ được với nó. Tôi cho nó ăn một ít Drano."
Tôi lắng nghe Drano. Anh ta vừa kể lại câu chuyện vừa khuấy tô súp của mình. Nó được kể đi kể lại nhiều lần và quá hoàn hảo, tôi không tin dù chỉ một từ trong câu chuyện đó. Nhưng những người khác lắng nghe anh ta chăm chú, và anh ta lấy làm khoái chí.
"Chuyện gì xảy ra với em bé đó." Mordecai hỏi muốn đùa giỡn với anh chàng này
"Chết rồi."
"Chắc đó là em trai của anh?"
"Không, đó là em gái tôi."
"Tôi biết, vậy là anh đã giết em anh."
"Vâng nhưng sau đó tất cả chúng tôi được ngủ yên.”
Mordecai nháy mắt với tôi làm như ông đã nghe loại chuyện này nhiều lần. "Anh sống ở đâu, Drano?" Tôi hỏi.
"Ở đây, D.C. này."
"Anh đang ngụ tại đâu?" Mordecai hỏi sửa lại cách nói của tôi.
"Ở chỗ này chỗ kia, có nhiều bà lớn muốn giữ tôi làm bạn với họ."
Hai người đàn ông bên cạnh Drano lấy đó làm thú vị, một người cười khúc khích, một người cười phá lên.
"Anh nhận thư ở đâu?" Mordecai hỏi.
"Ở bưu điện." Anh ta có sẵn câu trả lời cho mọi câu hỏi vì thế chúng tôi để anh ta yên.
Bà Dolly pha café cho những người tình nguyện, sau khi bà ta trở lại bếp. Những người không nhà đã bắt đầu ngủ.
Mordecai và tôi ngồi ở một đầu bàn trong gian nhà bếp tôi lờ mờ uống café và nhìn qua cửa sổ vào đám đông chen nhau ngủ. "Ông thường ở đến mấy giờ?" Tôi hỏi.
"Cũng còn tùy," ông nhún vai, "hàng trăm con người ngủ trong một nơi như thế này, nên thường có chuyện xảy ra. Đức cha sẽ yên tâm hơn nếu có tôi ở lại."
"Cả đêm ư?"
"Nhiều lần tôi ở lại suốt đêm.”
Tôi không định ngủ lại suốt đêm với những người này, và tôi cũng không muốn rời chôn này mà không có Mordecai.
"Khi nào cậu muốn về thì cứ tự nhiên nhé."
Ra về là giải pháp xấu nhất trong những khả năng lựa chọn rất hạn chế của tôi. Nửa đêm, một đêm thứ Sáu, ở khu vực nguy hiểm nhất ở D.C.. Da trắng, xe xịn. Dù có tuyết hay không tôi cũng không muốn liều mạng.
"Ông có gia đình không?" Tôi hỏi.
"Cô vợ tôi là thư kí của Sở Lao động. Ba con trai, một đứa học Đại học, một đang đi lính." Giọng ông chùng xuống trước khi ông ta nói đến đứa thứ ba. Mà tôi cũng không định hỏi tiếp.
"Và một đứa bị giết ngay trên đường phố năm ngoái. Bọn du đãng giết nó." "Tôi rất tiếc."
"Thế còn cậu thì sao?"
"Có vợ nhưng chưa có con."
Lần đầu tiên tôi nghĩ tới Claire sau mấy giờ đồng hồ. Nàng sẽ phản ứng như thế nào khi biết tôi ở đây? Cả hai chúng tôi đều không có giờ đành cho việc từ thiện.
Nàng hẳn sẽ làu bàu rằng tôi bị loạn trí hoặc là một cái gì tương tự như vậy. Tôi cóc cần.
"Vợ cậu làm gì?" Ông nôi lại câu chuyện.
"Bác sĩ phẫu thuật tại Georgetown."
"Chà vợ chồng cậu thật ngon lành ha. Chồng sẽ là người chung vốn của một công ty lớn. Vợ sẽ là một phẫu thuật gia. Lại một giấc mơ Mỹ nữa."
"Chắc thế."
Đức Cha từ đâu đó hiện ra và kéo Mordecai vào bếp vì một cuộc thảo luận riêng tư nào đó. Tôi bốc 4 cái kẹo ở một cái tô và đi đến góc nhà nơi người mẹ trẻ đang ngủ, đầu kê trên một chiếc gối, đứa bé nhất nằm gọn trên cánh tay mẹ. Hai đứa lớn hơn nằm im thin thít trong chăn. Nhưng đứa lớn nhất thức dậy. Tôi ngồi chồm hổm trước mặt nó, đưa ra một cái kẹo. Mắt sáng lên, nó cầm lấy cái kẹo. Tôi nhìn nó cắn từng miếng, rồi nó đưa tay ra xin cái nữa. Nó bé nhỏ và gầy gò chắc chưa đầy 4 tuổi. Đầu người mẹ gật sang một bên, và cô ta tỉnh dậy. Cô nhìn tôi với đôi mắt rầu rĩ, mệt mỏi, đoạn nhận ra tôi là kẻ đang chơi trò cho kẹo. Cô mỉm cười yếu ớt, rồi sửa lại cái gối.
"Tên cháu là gì?" Sau hai cái kẹo bây giờ chúng tôi đã là bạn thật rồi. "Ontario," nó trả lời chậm rãi và đơn giản.
"Cháu bao nhiêu tuổi?"
Nó đưa ra 4 ngón tay, gập lại một ngón, rồi sau đó lại giơ lên.
"Bốn tuổi à?" Tôi hỏi.
Nó gật đầu chìa tay ra xin thêm một cái kẹo nữa, tôi vui lòng đưa cho nó. Tôi có thể cho nó bất cứ thứ gì.
"Cháu sống ở đâu?"
"Trong một cái xe."
Cần một giây để hiểu tất cả những điều này. Tôi không biết phải hỏi gì tiếp theo. Nó chăm chú ăn không để ý gì đến việc nói chuyện. Tôi hỏi 3 câu, nó đã trả lời 3 câu một cách chân thực: họ sống trong một cái xe. Tôi muốn chạy lại chỗ Mordecai hỏi xem ông ta sẽ làm gì khi ông ta tìm thấy người sống trong một cái xe, nhưng tôi vẫn giữ một nụ cười trên môi với Ontario. Nó mỉm cười với tôi. Cuối cùng nó hỏi: "Chú có còn nước trái cây không?”
"Còn chứ," tôi nói và đi vào bếp lấy hai li nước.
Nó uống ực một li tôi đưa cho nó li thứ hai. "Hãy nói cháu cám ơn đi!"
"Cám ơn," nó nói và lại chìa tay ra lấy cái kẹo cuối cùng. Tôi tìm một cái ghế xếp và ngồi xuống bên cạnh Ontario, lưng dựa tường. Tầng hầm yên tĩnh vào lúc đó nhưng không phải cái im lặng thông thường ở phòng ngủ. Những người không được ngủ trên giường không bao giờ ngủ một cách bình thản. Thỉnh thoảng Mordecai vẫn len lỏi giữa mọi người để dàn xếp một chuyện bột phát nào đó. Ông ta to lớn và dữ tợn đến nỗi không ai dám đối chọi với quyền lực của ông.
No bụng, Ontario bắt đầu ngủ thiếp đi, mái đầu bé nhỏ của nó gối lên chân mẹ. Tôi xuống bếp rót một li café rồi trở lại cái góc của tôi.
Chợt đứa bé nhất thức dậy. Cái giọng oe oe đáng thương của nó vang lên to lạ lùng, và cả phòng dường như giật mình vì tiếng khóc. Người mẹ đờ đần, mệt mỏi, thất vọng vì bị đánh thức dậy. Cô dỗ nó nín, đặt nó lên vai đưa qua đưa lại. Nó còn khóc to hơn và làm cho những người khác càu nhàu.
Với một sự vô thức hoặc thiếu suy nghĩ hoàn toàn, tôi đưa tay ra đón đứa bé, mỉm cười với người mẹ khi tôi làm thế với cố gắng trấn an. Cô ta chẳng thèm quan tâm, còn cảm thấy nhẹ cả người khi thoát được nó một lúc.
Đứa bé nhẹ bỗng và điều tệ hại là nó ướt sũng. Tôi nhận ra điều đó khi tôi nhẹ nhàng đặt nó lên vai và bắt đầu vỗ vỗ vào lưng nó. Tôi đi vào bếp mong muốn chết gặp được Mordecai hoặc một người tình nguyện để nhờ giúp đỡ. Bà Dolly đã ra về cách đó một tiếng.
Trái với sự ngạc nhiên và phỏng đoán của tôi, đứa bé im bặt trong khi tôi đi đi lại lại trước bếp lò, vỗ về và tìm kiếm một cái khăn nào đó. Tay của tôi ướt sũng.
Tôi đang ở đâu đây? Tôi đang làm cái quái gì thế này? Bạn bè tôi sẽ nghĩ gì khi họ thấy tôi trong cái bếp tối om, bế một đứa trẻ cầu bơ cầu bất, thầm mong rằng cái tã chỉ ướt vì nó tè thôi?
Tôi không ngửi thấy mùi hôi nhưng tôi chắc chắn rằng tôi có cảm thấy rằng có rệp nhảy từ đầu nó sang đầu tôi. Cuối cùng thì ông bạn quý Mordecai cũng xuất hiện và bật điện lên. "Đứa nhỏ kháu khỉnh làm sao?" Ông nói.
"Ông có tã không?" tôi la lên.
"Chuyện lớn hay chuyện nhỏ đó," ông hỏi giọng vui vẻ và đi về phía những cái tủ.
"Tôi không biết nhưng nhanh lên."
Ông ta lôi ra một gói tã giấy và tôi đưa đứa nhỏ cho ông. Cái áo khoác của tôi ướt một vệt lớn trên vai trái. Với một sự khéo léo không ngờ, ông đặt đứa nhỏ lên bàn, cởi cái tã ướt ra, bây giờ mới rõ là một bé gái, lau cho nó sạch sẽ bằng một miếng vải mềm, quấn nó lại bằng một cái tã mới rồi bồng trả lại tôi. "Đây nó đây, tốt đẹp như mới sinh ra nhé" ông nói một cách tự hào.
"Đó là điều mà họ không dạy trong trường luật." Tôi nói và đón lấy đứa bé. Tôi đi đi lại lại khoảng một tiếng cho đến khi nó ngủ lại. Tôi cuốn nó trong chiếc áo khoác của tôi và nhẹ nhàng đặt xuống giữa mẹ nó và Ontario.
Lúc đó đã 3 giờ sáng ngày thứ Bảy và đến lúc tôi phải về. Lương tâm tôi đã đón nhận được quá nhiều điều trong một ngày. Mordecai tiễn tôi ra đường cảm ơn tôi đã đến, và hộ tống tôi phong phanh không áo khoác. Chiếc xe của tôi vẫn nằm yên chỗ cũ phủ một lớp tuyết mới.
Ông đứng trước cửa chờ cho xe của tôi phóng đi.
9.
Kể từ hôm xảy ra sự cố với Mister vào ngày thứ Ba tôi hầu như không làm được một giờ nào cho công ty Drake & Sweeney thân yêu của tôi. Tôi đã làm 200 giờ một tháng trong vòng 5 năm. Có nghĩa là 8 tiếng một ngày, 6 ngày một tuần cùng với một hai giờ có lẻ. Không một ngày lãng phí và số giờ quý báu thì không thể đếm được. Khi tôi cảm thấy mình bị tụt lại, mà điều này hiếm lắm, tôi lập tức làm 12 giờ
ngày thứ Bảy và cũng cỡ đó vào ngày Chủ nhật. Khi tôi cảm thấy mình không bị bỏ lại tôi làm bảy tám tiếng vào ngày thứ Bảy, thêm vài tiếng vào ngày Chủ nhật. Chẳng lấy gì làm lạ khi Claire đi học ở trường y. Khi tôi nằm nhìn chằm chằm lên khoảng trần nhà ở phòng ngủ vào cuối buổi sáng thứ Bảy, tôi gần như tê dại cả người với trạng thái không làm gì hết. Tôi không muốn đi làm. Tôi ghét cái ý nghĩ ấy. Tôi ớn cái sấp giấy nhắn tin màu hồng mà Polly xếp gọn gàng trên bàn tôi, những bản thông báo dự những cuộc họp cấp cao đòi hỏi tôi phải áo quần tề chỉnh, những câu chuyện phiếm tọc mạch từ những kẻ ngồi lê đôi mách và câu chào muốn thuở "Anh thế nào?" từ cả nhũng người thực sự quan tâm đến tôi cho đến những kẻ chẳng coi tôi là bạn. Dù vậy cái mà tôi sợ nhất là công việc. Thủ tục cho những vụ án về chống độc quyền mất nhiều thời gian và rất gian khổ, hồ sơ nhiều đến mức cần phải dùng đến hàng bao nhiêu thùng giấy để chứa, mà để làm gì cơ chứ? Một công ty bạc tỉ chống lại một công ty bạc tỉ. Một trăm luật sư vào cuộc, tất cả khởi động bằng những tờ giấy.
Tôi phải thừa nhận rằng tôi chưa bao giờ yêu thích công việc này, nó chỉ có ý nghĩa là một cứu cánh mà thôi. Tôi đã lao đầu vào nó với một tham vọng, sau đó trở thành một chuyên gia hàng đầu, một ngày kia người ta sẽ cần tôi. Có thể làm trong lãnh vực thuế hay là lao động hay là thủ tục tố tụng. Ai mà thích công việc của một luật sư chống độc quyền chứ?
Bằng một nỗ lực hết sức, tôi buộc mình phải ra khỏi giường và đi tắm một cái. Bữa sáng là một cái bánh sừng bò ở một tiệm bánh ngọt trên đường M, với một li café đặc tất cả đều án bằng một tay ở bên tay lái. Tôi tự hỏi không biết Ontario ăn gì trong bữa sáng, sau đó tôi tự nhủ tự hành hạ mình như thế là đủ rồi. Tôi có quyền ăn mà không cảm thấy mình có lỗi, nhưng thức ăn cũng đã hết cả ý nghĩa đối với tôi rồi.
Đài thông báo nhiệt độ cao nhất trong ngày là 20 thấp nhất là zero, sẽ không có tuyết trong vòng một tuần nữa.
Tôi đậu xe thật xa tòa nhà trước khi bị tháp tùng bởi một trong những bạn đồng nghiệp của tôi. Bruce đang trò chuyện với ai đó bước vội về phía thang máy trong khi tôi vừa bước vào và chào một cách nghiêm trọng." Chào, anh thế nào, anh bạn!"
"Khỏe, còn anh?" tôi đốp lại.
"Cũng tạm. Xem này chúng tôi đợi anh đến đấy."
Tôi gật đầu như thể sự giúp đỡ của anh ta là quan trọng lắm. May thay anh ta đi lên lầu 2 nhưng trước khi bước ra còn hạ cố vỗ vai tôi. "Cút đi cho rảnh, Bruce." Tôi nhủ thầm.
Tôi đã phải thật cố gắng, bước chân tôi nặng như chì lúc bước qua bàn làm việc của bà Devier và phòng họp. Tôi đi qua gian tiền sảnh lát đá hoa cương cho đến khi tôi đi đến phòng làm việc của mình và ngồi phịch xuống ghế da, mệt đứt hơi.
Polly có vài cách để lại những lời nhắn tin điện thoại. Nếu tôi cần trả lời vài cú điện thoại quan trọng hoặc nếu như cô ta hài lòng về những cố gắng của tôi cô ta sẽ để lại một hai tờ nhắn gần điện thoại. Tuy vậy nếu tôi không tỏ ra cố gắng và nếu điều này khiến cô ta không hài lòng thì cô ta sẽ chẳng làm gì hơn là để một đống trên bàn tôi, cả một biển giấy màu hồng sắp xếp theo trật tự thời gian.
Tôi đếm được 39 tờ nhắn cả thảy, có vài cái rất khẩn cấp, có vài cái từ hội đồng quản trị. Rudolph có vẻ đặc biệt khó chịu nếu căn cứ vào dấu hiệu của Polly. Tôi đọc một cách chậm chạp trong lúc tôi phân loại rồi gạt chúng sang một bên. Tôi điềm tĩnh uống hết li café, trong một sự thanh thản. Tôi ngồi bên bàn cầm li bằng cả hai tay nhìn chằm chằm vào hư vô chắc là trông giông như một người đứng cheo leo bên bờ vực thẳm, thì Rudolph bước vào. Một tên mật thám nào đó đã gọi cho ông ta; một phụ tá luật sư nào đó trông thấy hoặc có thể là Bruce trong thang máy. Có lẽ cả công ty cảnh giác với tôi. Không. Họ có bao nhiêu việc phải làm mà.
"Chào anh Mike!" Ông ta nói giọng dứt khoát, kéo ghế ngồi, vắt chéo chân chuẩn bị cho một cuộc nói chuyện quan trọng.
"Chào Rudy," tôi nói chưa bao giờ gọi ông ta như thế trước mặt. Chỉ có người vợ hiện thời của ông ta và những người chung vốn trong công ty gọi ông ta như thế.
"Anh chui ở đâu ra thế?" ông ta hỏi không một chút thương xót.
"Ở Memphis."
"Memphis?"
"Phải. Tôi cần thăm cha mẹ tôi, vả lại ở đấy có một bác sĩ tâm thần của gia đình chúng tôi."
"Bác sĩ tâm thần à?"
"Phải, ông ta khám cho tôi trong vài ngày."
"Khám cho cậu à?"
"Phải, một trong số những người oanh liệt lắm lắm ấy với những tấm thảm Ba Tư đắt tiền, cá hồi đen trong bữa ăn tối. 1.000 đô một ngày đấy."
"Cậu ở đấy 2 ngày à?"
"Phải." Tôi đáp, lời nói dối không làm bận lòng tôi, tôi cũng chẳng cảm thấy khó chịu bởi vì chuyện này chẳng là cái quái gì cả. Công ty có thể trở nên khắc nghiệt thậm chí độc ác khi nó muốn thế, và tôi cũng chẳng có tâm trạng nào nghe Rudolph quở mắng. Ông ta thừa lệnh của hội đồng quản trị, và ông ta sẽ phải báo cáo với họ ngay khi rời khỏi phòng tôi. Nếu tôi làm ông ta thoải mái, bản báo cáo sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn, bộ sậu bên trên sẽ thở dài nhẹ nhõm. Cuộc sống sẽ trở nên dễ dàng hơn, ít ra là trong một khoảng thời gian ngắn.
"Lẽ ra cậu phải gọi cho một ai đó." Ông ta nói giọng vẫn cứng rắn nhưng không còn chắc chắn như trước.
"Đúng thế Rudolph, tôi đã không gọi điện thoại." Giọng đau khổ của tôi đã làm ông ta dịu lại.
"Cậu ổn chứ?" sau một hồi im lặng ông ta hỏi.
"Tôi rất khỏe."
"Cậu khỏe ư?"
"Bác sĩ bảo tôi khỏe."
"100% chứ?"
"110%. Không có vấn đề gì hết. Tôi cần được nghỉ ngơi một thời gian, thế thôi. Tôi khỏe. Trở về với công việc với toàn bộ sức lực."
Đó là điều mà Rudolph muốn nghe, ông ta mỉm cười nhẹ nhõm và nói: "Chúng ta có nhiều việc phải làm lắm."
"Tôi hiểu và tôi không đợi được."
Ông ta gần như chạy ra khỏi phòng tôi. Ông ta sẽ chạy thẳng đến điện thoại báo cáo ngay với một trong những người nắm quyền điều khiển công ty. Tôi khóa cửa và tắt đèn rồi mất một giờ đau khổ ngồi phủ đầy giấy tờ và những bản tính toán trên bàn làm việc. Chẳng cái gì ra cái gì nhưng ít nhất thì tôi cũng đã ngồi làm việc kiếm
tiền theo giờ. Khi không chịu nổi nữa, tôi đứng dậy nhét những bản nhắn tin điện thoại đầy túi quần rồi chuồn, tôi biến luôn mà không bị bắt gặp.
Tôi dừng xe trước một cửa hàng lớn bán đồ hạ giá ở Massachusetts và mua một ít đồ, kẹo và đồ chơi cho con nít, xà bông tắm cho cả nhà, giày vớ các loại cho trẻ con, và một bịch lớn tã giấy. Tôi chưa bao giờ tiêu hết 200 đô mà lòng vui đến thế.
Tôi sẽ trả bất cứ cái gì cần thiết để có một chỗ ở ấm áp cho họ. Nếu chỉ là phòng trọ trong một tháng thì không có vấn đề gì. Họ sẽ mau chóng trở thành khách hàng của tôi. Tôi sẽ đe dọa, sẽ kiện tụng với một sự báo thù khủng khiếp cho đến khi họ có được một mái nhà thật sự. Tôi nóng lòng muốn kiện một ai đó.
Tôi đậu xe phía bên kia nhà thờ không còn sợ như đêm trước nhưng vẫn còn ớn thật sự. Tôi khôn ngoan để tất cả những gói đồ trên xe. Nếu tôi bước vào nhà thờ như một ông già Noel thì sẽ gây nên một cảnh náo loạn mất. Ý định của tôi là đem gia đình họ ra khỏi đây, đưa họ đến một nhà trọ, thuê cho họ một phòng, chắc chắn rằng họ được tắm rửa sạch sẽ được tẩy trùng cẩn thận, sau đó cho họ ăn đến no phè ra thì thôi, chú ý để họ được chăm sóc về mặt y tế cẩn thận, có thể mua cho họ giầy và quần áo ấm, rồi lại cho họ ăn lần nữa. Tôi không quan tâm đến việc chuyện đó sẽ làm tôi tốn bao nhiêu thời gian hoặc tiền bạc.
Mà tôi cũng chẳng quan tâm đến việc người ta có thể nghĩ rằng tôi là một thằng da trắng giàu có làm những chuyện như vậy để cứu chuộc tội lỗi của hắn.
Bà Dolly vui vẻ khi thấy tôi, bà cất tiếng chào và chỉ cho tôi một đống rau quả còn chưa lột vỏ. Dù vậy, thoạt đầu tôi cũng nhìn xem có Ontario và gia đình nó không, nhưng không thấy. Họ không ở chỗ hôm qua vì thế mà tôi đi loanh quanh trong tầng hầm. Bước qua và đi vòng quanh hàng chục người nằm ngổn ngang. Gia đình Ontario không ở trong điện thờ chính cũng như ở ngoài ban công.
Tôi tán chuyện với bà Dolly trong khi tôi gọt khoai tây. Bà vẫn nhớ gia đình hôm qua nhưng họ đã không còn ở đây khi bà quay lại vào lúc 9 giờ.
"Họ có thể đi đâu nhỉ?" Tôi băn khoăn.
"Ô cưng ơi nhũng người này như dân du mục ấy. Họ đi từ bếp này sang bếp khác, trại này sang trại khác. Có thể cô ta nghe đâu là có phô mai ở Brightwood, hoặc là người ta phát chăn mền ở đâu đấy. Cô ta có thể có một việc gì đó ở một cửa hàng McDonald nào đó, và cô ấy đi làm để bọn trẻ con cho bà chị trông nom. Cưng sẽ không bao giờ biết được. Họ chẳng bao giờ ở nguyên một chỗ."
Tôi thực sự nghi ngờ cái khả năng mẹ của Ontario có một việc làm nhưng tôi chẳng muốn cãi lại bà Dolly ngay trong bếp của bà.
Mordecai đến trong khi người ta xếp hàng chờ bữa ăn trưa. Tôi nhìn thấy ông trước khi ông nhìn thấy tôi và khi mắt chúng tôi gặp nhau khuôn mặt ông nở hoa.
Một người tình nguyện mới làm bánh sandwich, Mordecai và tôi đứng ở bàn phục vụ, nhúng cái muôi vào nồi súp và đổ vào những cái tô nhựa. Đó cũng là một nghệ thuật, quá nhiều nước người ta sẽ lườm anh ngay. Quá nhiều rau thì sẽ chẳng còn gì trong nồi nước súp. Mordecai đạt đến một kĩ thuật hoàn hảo trong những năm qua. Tôi nhận được vài cái lườm trước khi tôi có thể làm việc trôi chảy. Mordecai nói những lời dễ thương với những người mà chúng tôi trao cho tô súp: Xin chào, Chào buổi sáng, Anh (chị) thế nào? Rất vui khi được gặp ông (bà)... Một số người chào lại, có những người một mực không nhìn lên. Đúng giữa trưa, các cửa ra vào trở nên đông hơn và hàng người càng dài hơn. Nhiều người tình nguyện nữa xuất hiện và bếp ăn rào rào thứ âm thanh dễ chịu của tiếng va chạm bát đĩa và những con người hạnh phúc bận rộn với công việc của họ. Tôi vẫn ngóng tìm Ontario, ông già Noel xuất hiện mà những đứa trẻ của ông vẫn chưa thấy tăm hơi.
Chúng tôi đợi cho đến khi hàng người đã vãn hẳn, rồi múc mỗi người một tô. Các bàn đã đầy người vì thế chúng tôi ăn trong bếp, tựa lưng vào bồn rửa chén.
"Ông có nhớ vụ thay tã hôm qua không?" Tôi hỏi giữa hai miếng ăn. "Làm như tôi có thể quên ấy."
"Tôi không thấy họ hôm nay."
Ông nhai nhai và nghĩ trong vòng mấy giây: "Họ vẫn còn ở đây khi tôi rời đây sáng nay."
"Lúc mấy giờ?"
"6 giờ họ vẫn ngủ ở góc ấy đấy."
"Bây giờ họ đang ở đâu?"
"Cậu sẽ không bao giờ biết được."
"Thằng nhỏ bảo tôi rằng họ sống trong một cái xe."
"Cậu nói chuyện với nó hả?"
"Phải."
"Và bây giờ cậu muốn tìm nó phải không?"
"Phải."
"Đừng bận tâm đến điều đó."
Sau bữa trưa mặt trời lại ló ra và đám người bắt đầu di chuyển. Từng người từng người một họ đi đến bàn phục vụ lấy một trái táo hoặc một trái cam rồi rời tầng hầm.
"Những người vô gia cư này rất dễ bị kích động," Mordecai giải thích trong lúc chúng tôi quan sát họ, họ thích đi lang thang. Họ có những nghi thức, thói quen, những địa điểm ưa thích, bạn bè trên các đường phô và những việc phải làm nào đó. Rồi họ quay về công viên hay các ngõ hẻm đào từ trong tuyết ra."
"Lúc này bên ngoài là 20 độ. Sẽ gần zero tối nay."
"Họ sẽ quay về đây. Chờ đến tôi nơi này sẽ lại đông nghẹt. Chúng ta đi một vòng đi."
Chúng tôi qua chỗ bà Dolly, xin phép được ra ngoài một chút. Mordecai lái một chiếc Ford Taurus cũ mèm đậu ngay cạnh chiếc Lexus của tôi. "Cái này sẽ không thọ ở đây đâu, ông nói chỉ vào chiếc xe của tôi, nếu cậu định lui tới nơi này, tôi cho rằng cậu phải đổi xe khác thôi".
Tôi chả dám nghĩ đến việc chia tay chiếc xe tuyệt vời của tôi. Tôi cảm thấy gần như bị xúc phạm.
Chúng tôi chui vào chiếc Taurus và chiếc xe rời khỏi bãi. Trong vòng vài phút tôi đã biết rằng Mordecai là một tay lái xe rất liều mạng. Tôi định thắt chặt dây an toàn nhưng nó đã bị đứt. Ông không nhận thấy điều này.
Chúng tôi đi qua những đường phố nghèo vùng tây bắc Washington, qua những khối nhà, những dãy nhà vuông chằn chặn, qua những khu vực dữ dội đến nỗi không một tài xế lái xe cấp cứu nào chịu vào đây, qua những trường học mà dây thép gai buông tua tủa từ trên nóc xuống, vào cái vùng hiện nay đang nổi tiếng vì những vụ bạo loạn.
Mordecai là một hướng dẫn viên du lịch tuyệt vời. Mỗi một tấc đất ở đây đều là của ông, mỗi một góc phố đều có một câu chuyện để kể, mỗi một con đường đều có
một lịch sử. Chúng tôi đi qua nhiều trại và bếp ăn cho người nghèo. Ông biết tất cả các đầu bếp và các ông cha cố. Nhà thờ nào tốt nhà thờ nào không tốt với những nguyên tắc cứng nhắc. Những nhà thờ này không những khồng mở cửa cho những người vô gia cư mà còn khoá chặt cửa với họ nữa. Ông chỉ cho tôi trường luật ở Howard một cách rất tự hào. Ông học luật ở đây trong năm năm, học buổi tối còn ban ngày thì làm việc ở hai nơi, một nơi làm toàn bộ thời gian, một nơi bán thời gian. Ông chỉ cho tôi một dãy nhà bị cháy nơi mà những kẻ buôn ma tuý đã từng đóng ở đây. Con trai thứ ba của ông, Cassius, bị giết ngay ở lề đường đằng trước.
Khi chúng tôi đi đến gần văn phòng của ông, ông hỏi liệu ông có thể ghé qua một lát kiểm tra xem có thư không. Tôi chẳng có ý kiến gì. Tôi chỉ đi theo ông thôi mà.
Ngôi nhà tối mò, lạnh và trống trải. Ông bật điện lên và bắt đầu nói chuyện. "Chỗ chúng tôi có ba người. Tôi, Sofia Mendoza và Abraham Lebow. Sofia chỉ là một người làm công tác xã hội, nhưng hiểu biết của bà ta về luật đường phố còn nhiều hơn của cả tôi và Abraham cộng lại." Tôi đi theo ông quanh những chiếc bàn bừa bộn giấy tờ. "Đã từng có tới 7 luật sư làm việc ở đây, tin được không? Đó là lúc mà chúng tôi có được tiền của liên bang rót xuống cho những dịch vụ tư vấn luật pháp từ thiện. Bây giờ thì nhờ đảng Cộng hòa mà chúng tôi không có lấy một xu. Ở đây có ba văn phòng, cả ba cái đều ở bên phía này." Rồi ông chỉ khắp mọi hướng. "Nhiều chỗ còn trông lắm."
Có thể là chỉ thiếu về nhân sự, còn thì khó có thể bước qua nơi này mà không vấp phải những giỏ hồ sơ và hàng đống sách luật cũ.
"Ai làm chủ cơ sở này?"
"Quỹ Cohen Trust. Leonard Cohen là người sáng lập ra một hãng luật lớn ở New York. Ông chết vào năm 86, chắc cũng phải ngoài trăm tuổi. Ồng làm ra cả đống vàng và vào cuối đời ông quyết định chết cũng chẳng mang theo được gì. Vì thế ông bắt đầu làm một điều gì đó để lại cho đời, một trong những việc làm đó là xây dựng một quỹ uỷ thác giúp những luật sư nghèo làm việc cho những người vô gia cư. Đó là lí do ra đời của cơ sở này. Quỹ này có ba cơ sở – ở đây, New York và ở Newark. Tôi được tuyển vào làm ở đây năm 83 và trở thành giám đốc năm 84."
"Tất cả tiền vốn hoạt động của chỗ ông là đều từ một nguồn hả?"
"Gần như thế. năm ngoái tổ chức này cấp cho chúng tôi 110.000 đô. Năm trước nữa là 150.000 đô vì thế mà chúng tôi mất một luật sư. Một ngày một ít đi. Quỹ này
làm ăn kém vì thế mà ngày càng ăn vào vốn. Tôi nghi rằng chúng tôi chỉ tồn tại được 5 năm có thể là 3 năm."
"Các ông không làm ra tiền à?"
"Ô có chứ. Năm ngoái chúng tôi kiếm được 9.000 đô. Nhưng mà kiếm tiền cần có thời gian. Chúng tôi có thể tư vấn luật hoặc kiếm tiền. Sofia thì không hòa hợp với người khác, Abraham thì là một thằng ngốc cục cằn gàn dở từ New York đến. Tất cả chỉ trông vào tôi và tính cách quyến rũ của tôi thôi."
"Tổng chi phí là bao nhiêu?" tôi hỏi chỉ cho có chuyện thôi chứ không thật sự quan tâm. Hầu hết các tổ chức phi lợi nhuận đều cho đăng những báo cáo hàng năm về hoạt động và con số thu chi của mình.
"Hai ngàn một tháng. Sau khi chi những phí tổn và một khoản tiền bảo quản nhỏ, ba chúng tôi chia nhau 98.000 đô. Chia đều. Sofia cho rằng bà ta cũng là một người chung vốn toàn phần. Thành thực mà nói, chúng tôi sợ tranh luận với bà ta. Tôi mang về nhà cho vợ gần 30.000 đô, số tiền mà như tôi biết được gần bằng con số trung bình của một luật sư nghèo. Ồ chào mừng anh đến với đường phố."
Cuối cùng thì chúng tôi cũng vào đến phòng ông, và tôi ngồi đối diện với ông. "Ông có quên trả tiền cho hệ thống sưởi không đấy?" tôi hỏi, run lẩy bẩy vì lạnh.
"Chắc chắn rồi. Chúng tôi không làm việc nhiều vào cuối tuần mà. Tiết kiệm tiền. Chỗ này không thể làm lạnh đi hay nóng lên được."
Điều này sẽ chẳng bao giờ khiến bất cứ một ai ở Drake & Sweeney bận tâm. Đóng cửa vào ngày cuối tuần. Để tiết kiệm tiền. Và còn những cuộc hôn nhân nữa chứ.
"Và nếu chúng tôi để cho nơi này quá tiện nghi thì khách hàng sẽ không chịu đi cho. Vì thế mà nó phải lạnh vào mùa đông và nóng vào mùa hè thì mới có chỗ mà thở. Cậu uống cà phê nhé?"
"Không. Cảm ơn."
"Tôi chỉ nói đùa thôi, cậu biết đấy. Chúng tôi không làm điều gì để cho họ phải rời đây. Thời tiết chẳng có gì quan trọng ở đây cả. Khách hàng của chúng tôi đều lạnh và đói, thì tại sao chúng tôi lại quan tâm đến vấn đề này. Cậu có cảm thấy áy náy khi cậu ăn điểm tâm sáng nay không?"
"Có."
Ông tặng tôi nụ cười của một người có tuổi và khôn ngoan đã nhìn thấy trước mọi chuyện. "Điều này rất bình thường. Chúng tôi từng làm việc với rất nhiều luật sư trẻ từ những công ty lớn, những chàng trai tình nguyện như tôi vẫn gọi họ, và tất cả đều nói với tôi rằng họ ăn mất cả ngon trong những ngày đầu." Ông vỗ vào bụng mình. "Nhưng rồi cậu sẽ quen thôi."
"Những người tình nguyện này làm gì?" tôi hỏi. Tôi biết mình đang đến gần mồi câu, và Mordeccai biết điều mà tôi biết.
"Chúng tôi cử họ đến các trại. Họ gặp gỡ các khách hàng và chúng tôi hướng dẫn họ xử lí. Đa số các trường hợp này rất dễ giải quyết, chỉ cần một luật sư sủa vào máy điện thoại một kẻ quan liêu nào đó không chịu làm việc. Tem phiếu thực phẩm, tiền dành cho cựu chiến binh, trợ cấp nhà, bảo hiểm y tế, tiền trợ cấp nuôi con – khoảng 20% công việc của chúng tôi liên quan đến tiền trợ cấp các kiểu."
Tôi lắng nghe chăm chú, và ông có thể đọc được ý nghĩ củạ tôi. Ông bắt đầu thôi miên tôi.
"Cậu biết đấy Michael, những người vô gia cư không có tiếng nói trong cộng đồng. Không ai nghe họ, không ai quan tâm và họ cũng chẳng trông mong có người giúp đỡ . Vì thế mà khi họ cần dùng điện thoại để hỏi về những khoản trợ cấp dành cho họ, lời nói của họ chẳng có kí lô gì. Họ cứ phải chờ đợi, mãi mãi. Những cú điện thoại của họ chẳng bao giờ được trả lời. Họ không có một địa chỉ. Những tên cạo giấy chẳng thèm quan tâm tới họ. Và thế là họ phải bấu víu vào một ai đó mà họ trông mong sẽ giúp họ. Một người làm công tác xã hội có kinh nghiệm ít nhất cũng làm cho những tên quan liêu đó lắng nghe anh ta nói, có thể khiến hắn nhìn vào hồ sơ và trả lời một cú điện thoại. Nhưng mà nếu anh có một luật sư sủa nhặng xị vào máy điện thoại thì được việc đấy. Bọn quan liêu sẽ phải nhúc nhắc chân tay. Bộ máy sẽ chuyển động cho ra những giấy tờ cần thiết. Không có địa chỉ ư? Không thành vấn đề. Gửi chi phiếu cho tôi tôi sẽ chuyển đến cho khách hàng."
Giọng của ông cất cao lên, tay ông vung vẩy trong không khí. Và quan trọng hơn hết mọi chuyện khác Mordecai là một người có tài ăn nói hoàn hảo. Tôi cho rằng ông biết cách gây được ảnh hưởng tôt với một bồi thẩm đoàn.
"Có một chuyện rất buồn cười," ông nói tiếp. "Cách đây khoảng một tháng, một trong những khách hàng của chúng tôi đến văn phòng An sinh xã hội để xin một tờ khai xin trợ cấp, một chuyện hết sức thông thường thôi. Ông này 60 tuổi và bị chứng
"""