"
Luật Im Lặng - Mario Puzo PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Luật Im Lặng - Mario Puzo PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Tên eBook: Luật Im Lặng Tác giả: Mario Puzo
Thể loại: Sách hay, Tiểu thuyết, Xã hội đen, Văn học Italya
Người dịch: Lương Lê Giang Nhà phát hành: Minh Lâm Khối lượng: 400.00 gam
Kích thước: 13x19 cm
Ngày phát hành: 09/2001
Số trang: 480
Nguồn: vnthuquan.net
Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook -
www.dtv-ebook.com
Giới thiệu:
OMERTÀ (Luật im lặng) là luật danh dự của người Sicily cấm tố giác những hành động tội lỗi của những người liên quan. Luật im lặng của người Sicil (Ý) là nền tảng cho lòng trung thành của tổ chức Mafia từ nhiều thế kỷ qua, nhưng giờ đây nó đang dần trở thành di tích mang tính
biểu trưng cho dĩ vãng. Lòng trung thành có thể im lặng nhưng tiền lại biết nói.
Tại New York - Một ông Trùm đã về hưu - Trùm Aprile bị ám sát và không ai lên tiếng. Cháu trai ông ta: Astorre và giámđốc FBI New York: Cilke cùng tham gia điều tra vụ án. Nhưng sự im lặng cứ lan rộng ra như căn bệnh truyền nhiễm. Các băng đảng đối địch im lặng, các ông chủ nhà băng im lặng, rồi cả tòa án cũng imlặng.
Để rồi khi tiền bắt đầu lên tiếng...
Kẻ nào có thể ra lệnh giết ông Trùm Aprile và vì mục đích gì ? Một cuộc trả thù cho cái chết của ông Trùm diễn ra do
Astorre thực hiện diễn ra ra sao, xin mời bạn tìm đọc truyện Luật im lặng sẽ rõ.
Luật im lặng
Mở đầu
1967
Luật im lặng (Omertà) Là luật danh dự của người Sicily cấm tố giác những hành động tội tõi của những người liên quan.
World Book Dictionary
Tại làng Castellammare del Golfo trông ra Địa Trung Hải u ám, ông Trùmđang hấp hối. Vincenzo Zeno nổi tiếng trọng danh dự, luôn được mọi người gần xe yêu mến bởi sự phân xử công bằng và
sự giúp đỡ dành cho những ai cần được giúp đỡ, và cả việc trừng phạt không khoan nhượng với những ai đáng bị trừng phạt.
Quanh lão đang có ba trong số những thuộc hạ cũ, những người đã giúp lão đạt tới quyền lực và vị trí của mình: Raymonde Aprile đến từ Sicily và New York, Octavious Biauco đến từ Palermo, và Bentino Craxxi đến từ Chicago. Cả ba đều biết ơn lão vì ân huệ cuối cùng này.
Trùm Zeno là kẻ cuối cùng trong số các ông trùm mafia chính thống suốt đời tuân thủ các tập tục cũ. Lão bòn rút thuế đánh vào tất cả các hoạt động kinh doanh, nhưng không dính đến ma túy, đĩ điếmhay các tội lỗi bất kỳ nào khác. Chẳng
khi nào một kẻ bần hàn tới nhà lão xin tiền phải ra về tay không. Lão sửa lại những bất công của pháp luật- tòa thượng thẩm ở Sicily có thể đưa ra phán quyết của mình, nhưng nếu bạn đúng, TrùmZeno sẽ phủ quyết phán quyết đó bằng sức mạnh ý chí của chính lão và bằng cả vũ lực nếu cần.
Không một chàng Sở Khanh nào có thể quất ngựa truy phong sau khi đã tòm temcon gái của một nông dân nghèo, nếu đã được Trùm Zeno thuyết phục tiến tới hôn nhân. Không một nhà băng nào đang tâmxiết nợ một nông dân thất cơ lỡ vận nếu đã được Trùm Zeno nói chuyện phải quấy. Không một chàng trai trẻ nào khao khát học lên đại học lại bị chối bỏ chỉ vì
thiếu tiền hay gặp hoàn cảnh khó khăn nào khác. Nếu người ta có quan hệ với cosca (1) của lão thì mọi mơ ước đều trở thành hiện thực. Luật lệ từ Roma không chạm tới được những truyền thống của Sicily. Ở đây Trùm Zeno chính là luật lệ. Nhưng bây giờ ông Trùm đang sang tuổi tám mươi, và vài năm qua quyền lực của lão đã bắt đầu suy yếu. Lão có nhược điểm là kết hôn với một cô gái trẻ đẹp. Cô nàng đã đúc cho lão một bé trai kháu khỉnh. Nàng chết khi sinh nở, còn chú nhóc thì giờ đã lên hai. Lão đang phải cân nhắc về tương lai của nó vì biết rằng phút lâm chung đang đến gần, và rằng thiếu lão thì cái cosca này sẽ bị các cosca mạnh hơn của bọn Corleone và
Clericuzio nghiền nát.
Bây giờ lão cảm ơn ba anh bạn bồ tèo vì sự giúp đỡ và lòng kính trọng mà họ đã thể hiện khi vượt ngàn trùng tới đây để nghe lời trăng trối của lão. Rồi lão nói với cả ba rằng lão muốn thằng con bé bỏng của lão, Astorre, được đưa đến một nơi an toàn, được nuôi dạy trong những hoàn cảnh khác nhưng phải bảo đảmtruyền thống của một người trọng danh dự như chính lão.
- Ta có thể chết với lương tâm thanh thản, lão nói, tuy nhiên đám bạn bồ tèo của lão biết tỏng sinh thời lão đã làmhàng trăm người mất mạng, nếu ta thấy con ta tới được nơi an toàn. Trong thằng bé mới hai tuổi đầu này ta thấy trái tim
và tâm hồn của một Mafioso(2) chính thống, một phẩm chất hiếm hoi và hầu như đã mất.
Lão nói với họ rằng sẽ chọn một trong số họ làm giám hộ cho đứa con đặc biệt của lão, và với trọng trách này, sẽ có những phần thưởng lớn.
- Chuyện này đến lạ, Trùm Zeno nói, nhìn đăm đăm qua đôi mắt mờ đục. Theo tục lệ, đứa con cả phải là một mafioso thực thụ. Nhưng với ta, phải đến khi vào tuổi tám mươi ta mới có thể biến ước mơ thành hiện thực. Ta không phải là một người mê tín, nhưng nếu phải, ta tin rằng thằng bé được sinh ra từ chính mảnh đất Sicily này. Mắt nó xanh như quả ô liu trên những cây tốt nhất của ta. Nó có tính
nhạy cảm của người Sicily – lãng mạn, say mê âm nhạc, vui vẻ. Tuy nhiên, nếu kẻ nào xúc phạm nó, nó sẽ không quên, dù còn nhỏ tuổi. Nhưng nó phải được chỉ bảo.
- Vậy ngài muốn gì ở chúng tôi, thưa Don Zeno? Craxxi hỏi. Tôi sẽ rất vui được mang cậu nhà đi và nuôi nấng cậu ấy như con đẻ.
Bianco tức tối lườm Craxxi, Tôi biết cậu bé từ lúc cậu ấy được sinh ra. Cậu ấy quen thuộc với tôi. Tôi sẽ coi cậu ấy như con tôi.
- Thế còn chú, Raymonde? Trùm Zeno hỏi.
Aprile đáp
- Nếu ngài chọn tôi thì con ngài là con
tôi.
Ông Trùm cân nhắc cả ba, tất cả đều là những người bạn quý giá. Dù mỗi người mỗi vẻ Craxxi thông minh nhất, Branco chắc chắn có tham vọng và năng động nhất. Aprile tự chủ hơn, gần gũi với lão hơn. Nhưng y là kẻ nhẫn tâm.
Ngay cả trong phút lâm chung Trùm Zeno vẫn hiểu rằng người cần cho cậu bé chính là Aprile. Y sẽ hưởng lợi nhiều nhất qua tình yêu con trẻ, và bảo đảm y sẽ dạy con trai lão học được cách tồn tại trong cái thế giới phản trắc của chúng.
Trùm Zeno im lặng một lúc lâu. Cuối cùng lão nói,
- Raymonde, chú sẽ là cha nó. Ta có thể ra đi thanh thản được rồi.
Đám tang thật xứng với một ông Trùm. Tất cả các trùm cosca ở Sicily đều đến bày tỏ lòng kính trọng của mình, thêmvào đó còn có văn phòng bộ trưởng từ Roma, các chủ nhân của latifundia đồ sộ, và hàng trăm thần dân của cái cosca rộng lớn của lão. Trên đỉnh xe tang là cậu bé lên hai Astorre Zeno, một đứa bé có đôi mắt nẩy lửa mặc áo dài đen, đội mũ trùmđen, uy nghi như một hoàng đế La mã.
Đức hồng y giáo chủ Palermo chủ trì tang lễ cất tiếng ca tụng
Khi ốm đau cũng như khi khỏe mạnh, khi bất bạnh cũng như khi tuyệt vọng, Don Zeno vẫn là một người bạn đích thực của tất cả mọi người. Rồi cha ngân nga
những lời cuối cùng của Trùm Zeno, con gửi gắm mình cho Chúa. Người sẽ tha thứ cho những tội lỗi của con vì con đã sám hối từng ngày để xứng đáng được người soi xét.
Và thế là Astorre Zeno được Raymonde Aprle đưa sang Mỹ và trở thành thành viên trong gia đình Aprile
Chương 1
Khi hai anh em sinh đôi nhà Sturzo, Franky và Stace, quẹo vào con đường dẫn tới nhà Heskow, chúng thấy bốn thiếu niên cao lêu đêu đang chơi bóng rổ trên sân bóng nhỏ cạnh nhà. Franky và Stace xuống xe, một chiếc buick to đùng, và Heskow bước ra đón chúng. Y là đứa
cao lớn, hình trái lê. Mái tóc thưa của y khoanh tròn gọn ghẽ trên đỉnh cái đầu hói, còn cặp mắt xanh ty hý của y long lanh.
- Thật đúng lúc, y nói, Tao muốn tụi mày gặp một người.
Trận đấu bóng tạm dừng. Heskow nói đầy hãnh diện,
- Đây là Jocko, con trai tao. Đứa cao nhất trong đám thiếu niên chìa bàn tay to bè về phía Franky.
- Ê, Franky nói, Đấu với bọn tao một hiệp chứ?
Jocko nhìn hai ông khách. Họ cao khoảng sáu bộ và có vẻ khỏe mạnh. Cả hai mặc sơmi cổ lọ hiệu Ralph Lauren một màu đỏ, một màu xanh, quần kaki và giày đế
cao su. Họ là những kẻ dễ gần, bảnh trai, khuôn mặt cương nghị toát lên vẻ tự tin lịch thiệp. Rõ đây là hai anh em nhưng Jocko không biết hai ông khách này là anh em sinh đôi. Cậu đoán họ mới ngoài bốn mươi.
- Được ạ, Jocko đáp với vẻ hồn nhiên con trẻ.
Stace cười toe toét,
- Hay lắm. Bọn tao vừa vượt qua ba ngàn dặm nên cũng cần thư giãn chút đỉnh.
Jocko ra hiệu cho các bạn, tất cả đều cao trên mét tám và nói:
- Chúng nó về bên cháu, đấu với ba người bên các chú. Vì cậu là người chơi tốt hơn nên cậu nghĩ chia phe như thế này
sẽ cho những người bạn của cha cậu một cơ hội.
- Nương tay thôi nhé, John Heskow bảo bọn trẻ.
- Các chú ấy chỉ là những anh già đang tiêu phí thì giờ vào những việc với vẩn thôi.
Lúc đó là giữa chiều một ngày tháng 12 và không khí lạnh đủ để cần hâm lại bầu nhiệt huyết. Ánh mặt trời Long Island lạnh lẽo, vàng nhạt hắt xuống từ những mái vòm thủy tinh và những bức tường của dãy nhà trồng hoa của Heskow, lĩnh vực kinh doanh bề ngoài của y.
Đám bạn của Jocko phấn chấn thi đấu làm vui lòng cánh người lớn. Nhưng bất thình lình Franky và Stace lao vèo qua
đám trẻ để ném bóng vào rổ. Jocko kinh ngạc về tốc độ của hai gã. Thế rồi chúng lại không ném rổ mà chuyền trái bóng cho cậu. Những vị này không ném trật đâu. Đây có lẽ là một cử chỉ thân thiện.
Các cậu bé bắt đầu sử dụng chiều cao của mình để vượt qua phe người lớn, nhưng lạ thay chúng chỉ có được vài lần đập bóng. Cuối cùng, một trong số các cậu bé mất tự chủ đã tặng Franky một củi trỏ ra trò vào giữa mặt. Ngay lập tức cu cậu lăn ra đất. Chứng kiến từ đầu, Jocko vẫn không biết việc này xảy ra như thế nào. Nhưng rồi Stace đập trái bóng vào đầu ông em nói:
- Thôi nào, chơi đi, mày ngu quá. Franky đỡ chú nhóc đứng lên, vỗ vào
mông chú làm lành
- Này, tao xin lỗi. Cả bọn chơi khoảng hơn năm phút nữa thì bỏ cuộc.
Heskow mang soda ra sân bóng cho cả bọn. Các chú nhóc vậy quanh Franky, kẻ có tài năng siêu phàm và đã chứng tỏ những kỹ năng nhà nghề trên sân. Franky ôm chặt cậu bé gã vừa hạ đo ván. Gã hiện nguyên hình là một kẻ bông lơn, khuôn mặt xương xẩu của gã trở nên dễ chịu.
- Cho phép tao dành cho tụi mày vài lời khuyên của một người lớn tuổi, gã nói, Đừng khi nào dẫn bóng khi tụi mày có thể chuyền. Đừng bỏ cuộc khi tụi mày đang bị dẫn điểm, và đừng bao giờ đi chơi với một ả đàn bà có hơn hai cái
mồm.
Bọn trẻ phá lên cười.
Franky và Stace bắt tay chúng, cảm ơn chúng vì cuộc chơi rồi theo gót Heskow vào một căn nhà màu xanh xinh xắn. Jocko gọi với theo,
- Này, các chú cừ thật đấy!
Trong nhà, Heskow dẫn hai gã lên lầu, về phòng của chúng. Căn phòng có cánh cửa nặng nề và ổ khóa chắc chắn. Cả hai ngó nghiêng quan sát trong lúc Heskow để chúng vào và khóa trái cửa lại.
Căn phòng rất rộng, như cả một căn hộ, có phòng tắm riêng, hai giường đơn – Heskow biết hai anh em này thích ngủ chung phòng. Ở góc tường kê chiếc hòmlớn gắn đai thép với ổ khóa tổ bố bằng
kim loại. Heskow dùng chìa khóa mở hòm rồi đẩy bật nắp hòm lên. Lộ ra trước mắt vài khẩu súng ngắn, súng tự động, hộp đạn. Trông y như các khối hình học màu đen.
- Được chứ? Heskow hỏi.
- Tao không thấy nòng giảm thanh, Franky nói.
- Tụi mày đâu có cần đến nòng giảmthanh cho việc này.
- Tốt thôi, Stace nói, Tao cũng ghét ba cái thứ giảm thanh đó lắm. Có nó tao đếch làm nên trò trống gì.
- OK, Heskow nói. Tắm táp rồi nghỉ ngơi đi. Tao sẽ tống tiễn lũ nhóc và nấu bữa khuya. Ê, tụi mày thấy thằng con tao thế nào hả?
- Một thằng bảnh đấy, Franky nhận xét. - Tụi mày có khoái cái cách nó chơi bóng không? Heskow hỏi với một niềmtự hào không giấu giếm, nó càng làm y giống với một quả lê chín hơn.
- Một thằng đặc biệt, Franky nói. - Stace, mày nghĩ sao?, Heskow hỏi. - Rất đặc biệt, Stace trả lời.
- Nó được một suất học bổng tại Villanova, Heskow khoe, NBA cơ đấy.
Lát sau, khi quay xuống phòng khách, hai anh em Sturzo thấy Heskow đang ngồi chờ chúng. Y đã chuẩn bị mót thịt bê rán với nấm và salad trộn. Một chai vang đỏ để trên một bàn ăn dọn cho ba người.
Cả bọn ngồi vào bàn. Chúng là chỗ bạn
bè thân thiét và biết rõ về nhau. Heskow đã ly dị mười ba năm. Cô vợ cũ và Jocko sống cách đây vài dặm về phía tây, ở Babylon. Nhưng phần lớn thời gian Jocko ở đây, và Heskow là một người cha tận tụy hết lòng vì con.
- Tụi mày phải lên đường vào sáng mai, Heskow mở đầu. Nếu biết trước rằng sẽ đến hôm này thì sao đã tống thằng nhóc đi chỗ khác. Đến lúc mày phôn tới thì tao chịu, không thể xua nó và lũ bạn nó đi đâu được nữa.
- Không sao đâu, Franky nói. Nhằm nhò mẹ gì.
- Với lũ nhóc ngoài kia thì tụi mày cừ lắm. Song có lúc nào tụi mày tự hỏi liệu có chơi ngang ngửa được với cánh nhà
nghề không? Heskow nói.
- Không, Stace nói. Tui tao quá thấp, chỉ cao có 6 bộ. Những trái cà tím ấy quá to so với tụi tao
- Đừng có nói như thế trước mặt tụi nhóc, Heskow nói, ghê bỏ mẹ.
Heskow thư giãn, nhấm nháp từng ngụmrượu. Y lúc nào cũng thích làm việc với anh em Sturzo. Cả hai đều thích bông lơn, không đến nỗi xấu xa như phần lớn đám cặn bã mà y phải giao du. Chúng tận hưởng sự thanh thản trong cái thế giới phản ánh những lọc lừa giữa chúng với nhau. Chúng vững vàng và điều đó đemlại cho chúng một cảm giác thú vị.
Ba đứa ăn chậm rãi, uể oải. Heskow cầmchảo đổ thẳng thức ăn vào đĩa của bọn
chúng.
- Tao muốn hỏi, Fraky quay sang Heskow. Tại sao mày lại đổi tên hả? - Chuyện đó xưa rồi, Heskow nói. Tao đâu có xấu hổ khi là một người Italy. Nhưng tụi mày biết đấy, tao lại giống một thằng Đức chó chết. Tóc vàng hoe, mắt xanh và cả cái mũi này nữa. Việc tao mang một cái tên Italy đúng là đáng nghi còn gì.
Hai thằng anh em sinh đôi phì cười, tiếng cười thoải mái và cảm thông. Chúng lạ gì bụng cha nội này đầy cứt, nhưng chúng cóc cần.
Khi chúng ăn xong món salad trộn Heskow tiếp thêm cafe đặc và một đĩa bánh ngọt kiểu Italy. Y mời xì gà nhưng
hai thằng từ chối. Chúng chỉ hút Marlboros, loại này hợp với những cái mặt miền Tây đầy nếp nhăn của chúng. - Đến lúc bàn công việc rồi đấy”, Stace lên tiếng. Đây hẳn phải là một việc ra trò nếu không việc đéo gì tụi tao phải lái xe ba ngàn dặm đường? Tụi tao có thể đi máy bay cơ mà.
- Cũng không tệ đến thế, Franky nói. Tao khoái đi xe. Tụi mình được xem nước Mỹ, xem trực tiếp, sờ vào được. Tụi mình có một khoảng thời gian vui vẻ. Dân tỉnh lẻ thế mà hay ra phết.
- Hết sảy ấy chứ, Stace nói. Nhưng gì thì gì đó vẫn là một chuyến đi dài.
- Tao không muốn để lại bất kỳ một dấu vết nào tại phi trường, Heskow tiếp tục.
Đấy là nơi đầu tiên sẽ bị kiểm tra. Cớmsẽ được tăng cường đến đó. Các cha nội vẫn dè chừng cớm đấy chứ?
- Đừng có mà dọa tao. Stace vặc lại. Còn bây giờ mày nói đi, nó là thằng đéo nào?
- Trùm Raymonde Aprile, khi thốt ra cái tên đó Heskow gần như nghẹt thở trong món cafe đậm đặc của y.
Một không khí im lặng kéo dài, rồi Heskow lần đầu tiên nhận ra cái chết lạnh người mà hai thằng sinh đôi vừa để lộ.
Franky hỏi nhỏ
- Mày bắt tụi tao đi ba ngàn dặm để lãnh cái án tử hình này sao?
Stace cười với Heskow và nói
- John, thật hân hạnh được biết mày. Bây giờ hãy trả thuế sát sinh để tụi tao còn lên đường. Cả hai anh em nhà Sturzo cười khằng khặc vì câu đùa đó, còn Heskow vẫn tỉnh bơ.
Một trong số những đứa bạn của Franky ở Los Angeles, một văn sĩ tự do, đã có lần giảng giải cho anh em gã rằng người ta không cần mua cả kho đạn. Để giết một mạng người chỉ cần trả một khoản lệ phí thỏa thuận là đủ. Anh em gã thấmnhuần thực tế đó. Chúng ra giá chỉ để nghe ngóng một thỏa thuận. Lần này, tính cả chi phí đi đường và cả hai đứa cùng tham gia, lệ phí giết mướn là hai mươi ngàn đô la.
Dẫu vậy, thuyết phục chúng nhận nhiệm
vụ đâu phải dễ.
- Lão Trùm về hưu ba năm rồi, Heskow nói. Tất cả các mối làm ăn cũ của lão đang nằm bóc lịch. Lão đâu còn quyền hành gì. Người duy nhất có thể gây rắc rối là Timmona Portella, nhưng ông ta sẽ không động tay. Thù lao của tụi mày là một triệu đô. Một nửa được trả khi xong việc, nửa còn lại được trả trong một năm. Nhưng trong năm đó tụi mày phải nằm yên. Bây giờ mọi việc đã xong. Tất cả những gì tụi mày phải làm chỉ là bóp cò.
- Một triệu đô, Stace thảng thốt. Đó là món tiền lớn.
- Khách hàng của tao biết đây là bước đi quan trọng để dập Trùm Aprile, Heskow
nói tiếp. Nó cần một sự trợ giúp tốt nhất. Những tay súng lạnh lùng và những cộng sự thầm lặng có đầu óc. Tụi mày đơn giản là những thằng cừ nhất.
Franky nói
- Cũng chẳng mấy thằng chấp nhận mạo hiểm.
- Ừ, Stace vào hùa. Mãy sẽ phải sống với nó suốt quãng đời còn lại của mày. Một thằng cứ lẵng nhẵng bám theo mày, đấy là chưa kể cớm và tụi FBI nữa.
- Tao hứa với tụi mày, Heskow nói CớmNew York sẽ chẳng ra khỏi nhà. Bọn FBI cũng không thèm động chân động tay. - Thế còn đám bồ cũ của lão Trùm ? Stace hỏi.
- Người chết không có bạn. Heskow
dừng lại một lát. Lúc về hưu lão đã cắt đứt mọi quan hệ. Có đếch gì mà phải lo. Franky quay sang Stace, chẳng buồn cười lắm sao, trong tất cả các hợp đồng của tụi mình người ta luôn nói chẳng có gì phải lo lắng cả.
Stace phá lên cười.
- Thì cái bọn nói câu đó có phải bóp cò súng đâu. John, mày là chỗ bạn bè, tụi tao tin mày. Nhưng nếu mày nhầm thì sao ? Ai cũng có thể nhầm lẫn. Sẽ ra sao nếu lão Trùm vẫn còn bạn bè cũ ? Mày biết lão phản kích thế nào rồi. Đừng hòng có khoan dung. Tụi tao sẽ bị đóng đinh, tụi tao không chỉ bị giết. Thêm nữa, gia đình tụi tao sẽ lên giàn thiêu tho luật của lão. Có nghĩa là thằng con mày không thể thi
đấu cho NBA ở dưới mồ được. Có lẽ tụi tao cần phải biết ai đang trả tiền cho vụ này.
Heskow nghiêng người qua phía chúng. Nước da trắng của y đỏ ửng cứ như thể y đang xấu hổ.
- Tao không thể nói với tụi mày được. Tụi mày biết thế mà. Tao chỉ là người mối lái. Và tao cũng đã nghĩ tới tất cả những điều cứt đái khác. Tụi mày nghĩ tao là một thằng chó chết ngu xuẩn hay sao ? Có đứa nào không biết TrùmAprile là ai không ? Nhưng lão hết đường rồi. Tao có được bảo đảm từ thượng đỉnh. Cảnh sát sẽ chỉ làm chiếu lệ. FBI không thể điều tra được. Còn các trùm Mafia sẽ không can thiệp. Chắc
chắn đấy.
- Nằm mơ tao cũng chưa khi nào thấy Trùm Aprile sẽ là một trong số các nạn nhân của tao, Franky nói. Việc giết một người đáng sợ và đáng kính đến thế đã chạm đến bản ngã của gã.
- Franky, đây đâu phải là một trận bóng, Stace lên tiếng cảnh báo. Nếu tụi mình thất bại, tụi mình sẽ không còn vẫy tay và ra khỏi sân thi đấu được.
- Stace, những một triệu đô cơ mà, Fraky nói. Mà John đời nào chịu để tụi mình hỏng việc. Nào, làm tới đi.
Stace cảm nhận được nỗi kích động của chúng. Quỷ tha ma bắt. Gã và Franky có thể tự lo được cho mình. Sau cùng, lại còn một triệu đô. Thực ra Stace còn vụ
lợi hơn Franky, máu ăn thua hơn và một triệu đô làm gã sôi lên.
- OK, Stace nói. Tụi tao nhận vụ này. Xin chúa rủ lòng nhân từ cho linh hồn chúng con nếu chúng con đắc tội. Đã có thời gã là một cậu bé giúp việc làm thánh lễ trong nhà thờ.
- Ngộ nhỡ lão Trùm đang bị FBI để mắt đến thì sao ? Franky hỏi. Tụi mình có phải lo chuyện đó không ?
- Không, Heskow trả lời. Khi tất cả đámbồ bịch của lão vào khám, lão về hưu như một người đáng kính. FBI đánh giá cao việc đó. Chúng để lão được yên. Tao bảo đảm mà. Bây giờ hãy để tao trình bày.
Y mất đứt nửa tiếng đồng hồ đẻ trình bày
kế hoạch một cách chi tiết.
Cuối cùng Franky hỏi : Khi nào ? - Sáng chủ nhật, Heskow nói. Hai ngày đầu tụi mày ở đây. Sau đó một máy bay tư nhân sẽ đưa tụi mày rời khỏi Newark. - Tụi tao cần phải có một tay xế giỏi, Stace đề nghị. Loại đặc biệt ấy. - Tao sẽ lái, Heskow nói, rồi y bổ sung thêm, giọng đầy nuối tiếc. Đây là một ngày hội phát lương.
Cho đến hết kỳ nghỉ cuối tuần, Heskow trông nom anh em nhà Sturzo, nấu cho chúng ăn, chạy những việc vặt cho chúng. Y không phải loại người dễ bị gây ấn tượng, nhưng hai thằng Sturzo thỉnh thoảng lại làm y lạnh sống lưng. Chúng
giống loài rắn độc, đầu óc lúc nào cũng tỉnh táo. Được cái chúng hợp tính nhau và thậm chí còn giúp y chăm sóc hoa hoét trong khu nhà kính.
Hai đứa chơi bóng theo kiểu một chọi một ngay trước bữa ăn khuya còn Heskow say mê quan sát cách chúng uốn mình vờn nhau như loài rắn. Franky nhanh nhẹn hơn và là một tay thiện xạ. Stace không được như thế nhưng lại thông mình hơn. Franky lẽ ra đã có thể gia nhập NBA, Heskow nghĩ bụng. Nhưng đây không phải là một trận bóng rổ. Trong một trận đấu thực sự, kẻ có mặt hẳn phải là Stace. Hắn sẽ là tay súng quan trọng nhất.
(1)Cosca: nhóm bè đảng(mọi chú
thích đều của người dịch)
(2) Mafioso:thành viên mafia.
Chương 2
Cuộc tập kích quy mô của FBI trong thập niên 90 vào các gia đình Mafia New York chỉ để sổng hai mạng. TrùmRaymonde Aprile, sộp nhất và cũng đáng sợ nhất vẫn còn chưa bị tóm. Kẻ còn lại, Trùm Timmona Portella, quyền lực cũng gần bằng nhưng thuộc đẳng cấp quá thấp hèn, đào thoát bởi một lý do có vẻ hoàn toàn may mắn.
Nhưng tương lại đã rõ ràng. Với luật RICO ban bố năm 1970 nới rộng khung hình phạt, với sự hăng hái của các đội đặc nhiệm FBI và việc phản bội luật Omerta trong nội bộ Mafia Mỹ, Trùm
Raymonde Aprile biết đã đến lúc lão phải rời bỏ chiếc ghế của mình. Trùm Aprile đã cai quản “gia đình” suốt ba mươi năm và giờ đây đã trở thành huyền thoại. Được nuôi dạy ở Sicily, lão không hề có những ý tưởng sai lầm hay vẻ cao ngạo đài các của các tay trùmMafia sinh ra trên đất Mỹ. Trên thực tế, lão mang trong mình dòng máu của những người Sicily cổ hủ thế kỷ XIX, những người đã cai quản các thành phố và làng mạc bằng uy danh cá nhân, óc hài hước, bằng những phán xử chết chóc và dứt khoát của mình với bất kỳ ai bị nghi ngờ là kẻ thù. Lão hóa ra cũng có được cái thao lược của những anh hùng thời đó. Bây giờ, ở tuổi sáu hai, lão có một cuộc
sống ngăn nắp. Lão đã thẳng tay trừ khử kẻ thù và hoàn thành trách nhiệm làmbạn, làm cha của mình. Lão có thể vui thú tuổi già với đầu óc thảnh thơi, có thể rút lui khỏi cái thế giới đầy bất hòa của lão để đảm nhận vai trò chủ nhà băng lịch lãm hay trụ cột của xã hội phù hợp hơn.
Ba đứa con lão đều có những nghề nghiệp cao quý và đều đã thành đạt. Cậu cả Valerious lúc này ba bảy tuổi, đã có vợ và con, mang hàm đại tá quân đội Mỹ và là giảng viên học viện West Point. Chính cái tính dụt dè như trẻ con đã xác định nghề nghiệp của cậu. Trùm Aprile may mắn giành được một suất bổ nhiệmhọc viên sĩ quan tại học viện West Point
để điều chỉnh khiếm khuyết trong tính cách của con trai lão.
Cậu con thứ, Marcatonio, mới bước qua tuổi ba lăm, ngoài vài bí ẩn trong biến dạng gen, là trưởng ban điều hành một mạng lưới truyền hình quốc gia. Khi còn nhỏ cậu sống ủ rũ trong một thế giới tưởng tượng và ông Trùm nghĩ cậu sẽ thất bại tại bất kỳ một công ty làm ăn nghiêm túc nào. Vậy mà bây giờ tên cậu lại thường xuất hiện trên báo chí như một mẫu người đầy sức sáng tạo và có nhân quan sâu sắc. Điều đó làm Aprile rất khoái nhưng không làm lão tin. Suy cho cùng, lão là cha nó. Ai hiểu con rõ hơn cha?
Cô út Nicole, khi còn nhỏ được gọi một
cách trìu mến là Nikki, nhưng từ năm lên sáu đã yêu cầu thẳng thừng phải gọi bằng tên riêng, là người bạn tranh luận mà lão yêu thích. Ở tuổi hai chín nàng là luật sư, là người ủng hộ phong trào bình đẳng của phụ nữ, và là một luật sư Pro bono (1) của những tội phạm nghèo và tuyệt vọng, những người không thể nhận được sự biện hộ hợp pháp thích đáng. Nàng đặc biệt xuất sắc trong việc cứư những kẻ giết người thoát khỏi ghế điện, những phụ nữ giết chồng thoát khỏi vòng lao lý, những kẻ hiếp dâm tái diễn được ban thêm thời hạn sống. Nàng hoàn toàn phản đối án tử hình, tin vào sự hoàn lương của bất kỳ phạm nhân nào, là người chỉ trích mạnh mẽ cơ cấu của nền kinh tế Mỹ.
Nàng cho rằng một đất nước giàu như Mỹ không thể dửng dung với người nghèo bất kể những khiếm khuyết của họ. Hơn thế nữa, nàng còn là một nhà thương thuyết đầy năng lực và cứng rắn trong Hội luật gia, là một phụ nữ nổi bật và mạnh mẽ. Ông Trùm chẳng đồng ý với nàng ở bất kỳ vấn đề nào.
Về phía Astorre, cậu là mọt bộ phận của gia đình và gần gũi với ông Trùm như một đứa cháu trên danh nghĩa. Với những người con của lão, cậu giống như một đứa em bởi sinh lực và sức cuốn hút mạnh mẽ của cậu. Từ lúc lên ba tới nămmười sáu cậu là người bạn tâm giao của họ, là đứa em ruột thịt bé bỏng và yêu mến của họ - cho đến khi cậu tha hương
tới Sicily mười một năm trước đây. Mãi đến khi về hưu ông Trùm mới gọi cậu trở về.
Trùm Aprile lập kế hoạch về hưu của mình một cách cẩn thận. Lão chẳng những hiến đế chế của mình để giảng hòa với những kẻ thù tiềm tàng mà còn tặng quà cho đám bạn bè trung tín dù lão từa biết lòng biết ơn hiệu quả chẳng được bao nhiêu và rằng quà cáp phải luôn được bổ sung. Lão đặc biệt thận trọng xoa dịu Timmona Portella. Đó là kẻ nguy hiểm bởi tính tình lập dị và côn đồ đôi khi khó lường trước được.
Bằng cách nào mà Portella thoát được cuộc bố ráp của FBI những năm 90 là một điều bí ẩn với tất cả mọi người. Hắn
là một trùm sinh ra trên đất Mỹ. Hắn ít sắc sảo, đầy khinh suất và thiếu tự chủ. Hắn có một thân hình ngoại cỡ cùng cái bụng bự và ăn mặc đầy màu sắc và lụa là giống hệt một Picciôtt xứ Palermo, một gã giết người tập sự trẻ tuổi. Quyền lực của hắn dựa vào việc cung cấp ma túy bất hợp pháp. Hắn chưa vợ và mãi đến tuổi năm mươi vẫn là một kẻ phóng đãng. Hắn chỉ thể hiện lòng yeu mến đích thực với thằng em Bruno, gã này có vẻ hơi chậm phát triển về thể chất nhưng lại chia sẻ với ông anh tính tình hung bạo.
Trùm Aprile chưa bao giờ tin Portella và ít khi làm ăn với hắn. Một kẻ nguy hiểm vì yếu điểm của mình là một kẻ cần phải làm mất tác dụng. Vì vậy lão mời
Timmona Portella tới gặp.
Portella đến cùng thằng em Bruno. Aprile đón chúng với thái độ lịch thiệp không ồn ào thường ngày rồi nhanh chóng đi thẳng vào vấn đề.
- Timmona thân mến của tôi, lão nói. Tôi đang rút ra khỏi các mối làm ăn, trừ các nhà băng của mình. Giờ chú sẽ nổi như cồn trong con mắt của mọi người. Nếu khi nào đó chú cần một lời khuyên thì cứ phone cho tôi. Về dưỡng già tôi vẫn hoàn toàn không thiếu người giúp đỡ đâu nhé.
Bruno, một bản sao nhỏ của ông anh, kẻ kinh sợ danh tiếng của Aprile, mỉm cười vui vẻ vì lòng kính trọng được dành cho anh gã. Nhưng Timmona hiểu lão già hơn nhiều. Hắn biết mình đang bị đe dọa.
Hắn cúi đầu về phía lão một cách kính cẩn.
- Anh luôn dành cho tất cả chúng tôi ý kiến đúng đắn nhất, hắn nói. Và tôi tôn trọng những gì anh đang làm. Cứ tin tôi như một người bạn của anh.
- Tốt lắm, tốt lắm, Trùm Aprile nói. Bây giờ, như một món quà tặng chú, tôi đề nghị chú lưu tâm đến lời cảnh báo này. Cilke, người của FBI, là thằng xảo trá. Đừng bao giờ tin nó. Nó đang say sưa với thành tích của mình và chú sẽ là mục tiêu tiếp theo của nó đấy.
- Nhưng tôi đã thoát khỏi tay nó rồi cơ mà, Timmona nói. Dù nó đã tóm tất cả anh em tụi mình. Tôi cóc sợ nó nhưng tôi cảm ơn anh.
Tất cả uống mừng, rồi anh em Portella chuồn. Trên xe Bruno nói
- Một người vĩ đại làm sao.
- Ừ, Timmona tán thành. Thằng cha này quả là một người vĩ đại.
Về phía Trùm Aprile, lão rất hài lòng. Lão đã thấy nỗi sợ hãi trong mắt Timmona và lão chắc rằng sẽ chẳng còn mối nguy nào cho mình nữa.
Trùm Aprile đề nghị được gặp riêng với Kurt Cilke, sếp FBI ở New York. Cilke, trước sự ngạc nhiên cảu chính lão, lại là người được lão khâm phục nhất. Ông đã tống hầu hết các trùm Mafia miền duyên hải phía đông vào khám và hoàn toàn bẻ gãy sức mạnh của chúng.
Trùm Raymonde Aprile đã thoát khỏi tay
ông vì lão biết tên chỉ điểm bí mật của ông, kẻ đã giúp ông thành công. Tuy nhiên lão thậm chí còn thán phục ông hơn vì ông luôn chơi đẹp, không khi nào vu cáo hay dùng vũ lực, chưa một lần công khai những dấu vết nhằm vào con cái lão. Vì vậy lão thấy cần cảnh báo cho ông cũng là lẽ công bằng.
Cuộc gặp diễn ra tại điền trang của Aprile ở Montauk. Cilke phải đến một mình, vi phạm nguyên tắc của ngành. Đích thân giám đốc FBI chấp thuận nhưng cố nài Cilke sử dụng một thiết bị ghi âm đặc biệt được gắn chặt vào người, phía dưới mạng sườn, để không bị phồng lên phía ngoài thân thể ông. Thiết bị này chưa từng được biết đến và
cơ sở chế tạo ra nó được kiểm soát hết sức ngặt nghèo. Cilke nhận ra rằng mục đích đích thực của chiếc máy là ghi âmnhững gì ông nói với Trùm Aprile.
Họ gặp nhau vào một chiều vàng tháng 11 tại hiên nhà lão. Cilke chưa bao giờ vào được ngôi nhà này với một thiết bị nghe lén, một vị quan tòa được đội bảo vệ liên tục bao quanh. Ngày hôm ấy ông không hề bị người của ông Trùm khámxét. Điều đó làm ông ngạc nhiên. Rõ ràng, Raymonde Aprile sẽ không đưa ra một đề nghị sai quấy nào với ông.
Như mọi khi, Cilke bị ngạc nhiên, thậmchí còn hơi ho lắng bởi cái ấn tượng mà Aprile gây ra. Dù biết rằng lão đã ra lệnh cho cả trăm kẻ sát nhân, vi phạm vô
số luật lệ của xã hội, Cilke vẫn không hề ghét lão. Những loại người tội lỗi như vậy, tuy tin, nhưng ông vẫn ghét cay ghét đắng cái lối chúng hủy hoại cơ cấu của nền văn minh.
Trùm Aprile mặc bộ đồ sẫm, cà vạt sẫmvà áo sơ mi trắng. Nét mặt lão trang nghiêm toát lên vẻ hiểu biết. Trên mặt lão là những đường nét dịu dàng của một người đức độ đáng mến. Làm sao một khuôn mặt đầy nhân tính thế kia lại có thể thuộc về một kẻ nhẫn tâm như vậy, Cilke tự hỏi.
Ông Trùm không mời bắt tay vì không muốn làm Cilke bối rối. Lão chỉ cúi đầu chào.
- Tôi đã quyết định đặt tôi và gia đình
dưới sự che chở của các ngài – nghĩa là, sự che chở của xã hội, lão nói.
Cilke ngạc nhiên. Lão già này định ámchỉ cái quái gì thế nhỉ?
- Suốt hai mươi năm qua ngài là kẻ thù của tôi. Ngài truy đuổi tôi. Nhưng tôi luôn biết ơn lòng quân tử của ngài. Ngài không tìm cách gài bẫy hay khuyến khích việc khai man chống lại tôi. Ngài đã tống hầu hết bạn bè tôi vào nhà đá và ngài đã hết sức để cố gắng làm điều tương tự đối với tôi.
Cilke mỉm cười.
- Thì tôi vẫn đang cố đây.
Lão già gật đầu cảm kích.
- Tôi đã rũ sạch mình khỏi mọi mối nghi ngờ, ngoại trừ vài nhà băng bảo đảm làm
ăn đứng đắn. Tôi đã quyết định đặt mình dưới sự che chở của xã hội các ngài. Đổi lại, tôi sẽ thực hiện bổn phận của mình đối với xã hội đó. Ngài có thể làm cho mọi việc dễ dàng hơn nếu không truy đuổi tôi, bởi lẽ đâu cần như thế nữa.
Cilke nhún vai.
- Cấp trên là người quyết định. Tôi đã bám theo ngài từng ấy năm tại sao bây giờ bỗng phải dừng lại chứ? Tôi có thể gặp may mà.
Khuôn mặt ông Trùm trở nên nghiêm nghị hơn và mệt mỏi hơn.
- Tôi có cái để trao đổi với ngài. Thành tích to lớn của ngài vài năm qua đã ảnh hưởng đến quyết định của tôi. Vấn đề là ở chỗ tôi biết tên chỉ điểm đáng giá của
ngài, tôi biết nó là đứa nào và tôi chưa nói với ai cả.
Cilke lưỡng lự vài giây trước khi ông thản nhiên nói
- Tôi làm quái gì có tên chỉ điểm nào như vậy. Tôi xin nhắc lại, cấp trên là người quyết định chứ không phải tôi. Ngài đang làm mất thì giờ của tôi đấy.
- Không, không, Lão già phản ứng lại. Tôi không tìm kiếm một lợi thế mà chỉ tìm một thỏa hiệp. Cho phép tôi, vì tuổi tác đã nhiều, nói với ngài những gì tôi học được. Đừng dùng sức mạnh bởi vì với ngài nó nằm trong tầm tay. Đừng say sưa với khả năng chắc chắn giành chiến thắng khi sự minh mẫn của ngài mách bảo ngài rằng trong chiến thắng này còn
có dấu ấn của bi kịch. Cho phép tôi được bày tỏ giờ đây tôi coi ngài như một người bạn chứ không phải kẻ thù, và ngài thử nghĩ xem ngài được hay mất gì khi từ chối đề nghị này.
- Và nếu ngài đã thực sự về hưu thì kết giao với ngài hỏi còn lợi lộc gì? Cilke mỉm cười hỏi
- Ngài sẽ có thiện chí của tôi, Ông Trùmđáp. Nó thực đáng giá ngay cả với những kẻ mạnh nhất.
Trở về, Cilke quay lại cuốn băng cho Bill Boxton, cấp phó của ông nghe. Boxton hỏi.
- Toàn bộ việc này là thế chó nào hả? - Lá thứ cậu phải nghe, Cilke bảo anh ta. Lão nói với tôi rằng không hẳn lão không
tự vệ được, rằng lão đang để mắt đến tôi. - Chó chết. Chúng không được giỡn mặt đại diện của Liên bang.
- Phải, Cilke tán thành. Lão có về hưu hay không thì đó chính là lý do tại sao tôi tiếp tục theo dõi lão. Đến giờ tôi vẫn còn phải dè chừng. Chúng ta không chắc lắm...
Sau khi đã nghiên cứu lịch sử của những gia đình danh giá nhất nước Mỹ, những nam tước kẻ cướp đã xây dựng cơ nghiệp của mình một cách tàn bạo trong khi phá vỡ luật pháp và đạo đức của xã hội loài người, Trùm Aprile, giống bọn người đó, bỗng trở thành Mạnh thường quân đối với tất cả. Giống bọn người đó, lão cũng có đế chế của mình - sở hữu
mười nhà băng tại các thành phố lớn nhất thế giới. Lão vung tiền ra xây một bệnh viện cho người nghèo. Lão còn hào phóng đong s góp cho nghệ thuật. Lão giành một ghế tại đại học Columbia cho việc nghiên cứu thời kỳ Phục hưng.
Việc đại học Yale và Harvard từ chối hai mươi triệu đô la của lão đổi lấy việc một khu cư xá sinh viên được mạng tên Christopher Culumbus, người lúc đó không có mấy tiếng tăm trong giới trí thức, là có thật, Yale đề nghị được nhận tiền và đặt tên cho khu Cư xá là Sacco và Vanzetti, nhưng Trùm Aprile không khoái hai người này. Lão ghét cay ghét đắng những kẻ tử vì đạo.
Một kẻ kém cạnh hơn sẽ cảm thấy bị lăng
mạ và ôm ấp nỗi buồn, nhưng Raymonde Aprile thì không. Thay vào đó lão đơn giản chỉ gửi tiền vào nhà thờ Thiên chúa giáo cho các thánh lễ hàng ngày tán dương vợ lão, người đã hai mươi nămyên nghỉ nơi thiên đường.
Lão cũng hiến một triệ đô la cho HIệp hội cảnh sát từ thiện New York và một triệu khác cho một hiệp hội bảo vệ những người di cư bất hợp pháp. Trong ba nămgiải nghệ lão đã vãi phúc lành lên khắp thiên hạ. Ví của lão mở ra cho bất kì yêu cầu nào, chỉ trừ một. Lão từ chối những thỉnh cầu của Nicole đóng góp cho Phong Trào Chống Án Tử Hình - cuộc thập tự chinh mà nàng theo đuổi nhằmchấm dứt việc hành quyết.
Thật đáng ngạc nhiên, chỉ trong ba nămhào phóng làm việc tốt lại có thể xóa sạch tiếng ác của ba mươi năm. Thì những người vĩ đại vẫn mua tiếng thơm cho mình, mua lòng vị tha vì đã phản bội bạn bè và thi hành những quyết định chết người đấy thôi. Trùm Aprile cũng vậy, lão cũng không tránh khỏi cái yếu điểm chung ấy.
Raymonde Aprile là kẻ sống bằng những luật lệ hà khắc xuất xứ từ chuẩn mực riêng biệt của chính mình.
Nguyên tắc ứng xử của lão đã làm lão được trọng nể suốt hơn ba mươi năm và làm nảy sinh nỗi khiếp sợ lạ thường tạo ra nền tảng uy quyền của lão. Giáo điều chính của nó là hoàn toàn không có lòng
nhân từ.
Điều đó bắt nguồn không phải từ cái ác bẩm sinh, từ lòng thèm muốn bệnh hoạn được thấy kẻ khác phải chịu đau đớn và khuất phục mà là từ niềm tin tuyệt đối: Những kẻ ấy luôn luôn từ chối vâng lời. Ngay cả Lucifer, đường đường là một vị thánh, còn bị tống cổ khỏi thiên đường vì dám coi thường Chúa cơ mà.
Vì vậy, một kẻ có tham vọng đang đấu tranh giành quyền lực không có cách lựa chọn nào khác. Tất nhiên, còn có thể thuyết phục, còn có thể nhượng bộ cho tính vụ lợi của con người trên cơ sở bảo đám tính hợp lý. Nhưng nếu tất cả những việc này đổ vỡ thì sẽ chỉ còn hình phạt tử hình. Mối đe dọa của các hình thức trừng
phạt khác có thể dẫn đến việc trả thù. Tử hình thì không. Thật đơn giản, việc bị cách ly khỏi cuộc sống nơi trần thế chẳng mấy chốc sẽ rơi vào quên lãng.
Sự phản trắc có tác hại lớn nhất. Gia quyến kẻ phản bội cũng như đám bạn hữu của y sẽ phải đau khổ; toàn bộ thế giới của y sẽ bị hủy diệt. Tuy nhiên cũng có những kẻ dũng cảm vênh vang muốn đặt cược cả đời mình hòng kiếm chác lợi riêng; nhưng họ phải suy nghĩ hai lần về việc làm cho những người thân yêu của mình gặp nguy hiểm. Và thế là bằng cách đó Trùm Aprile đã tạo ra vô vàn nỗi kinh hoàng. Lão dựa vào hành động hào phóng của cải vật chất của mình để giành được sự kính nể và lòng say mê không
đáng có của họ.
Nhưng cũng phải nói rằng lão cũng tàn nhẫn như vậy với chính lão. Quyền lực đầy mình là thế song lão vẫn không thể ngăn cản cái chết đến với cô vợ trẻ sau khi cô nàng đã sinh cho lão ba đứa con. Vợ lão đã phải nhận một cái chết từ từ và khủng khiếp vì bệnh ung thư trong khi lão ngồi kề giường bệnh ròng rã sáu tháng trời. Và chính trong thời gian đó lão đâm ra tin rằng vợ lão đã bị trừng phạt chính bởi những tội lỗi ghê gớm mà lão đã gây ra. Vì thế lão quyết định sámhối: sẽ không lấy vợ khác nữa. Lão sẽ gửi con cái đi xa để chúng được hưởng một nền giáo dục trong một xã hội tuân theo pháp luật, như thế chúng sẽ không
phải lớn lên trong cái thế giới đầy thù hận và nguy hiểm của lão. Lão sẽ giúp chúng tìm ra đường đi cho mình, cấmchúng dính dáng vào “việc nhà”. Với nỗi buồn thăm thẳm lão tin rằng mình sẽ không bao giờ biết đến bản chất đích thực của tư cách làm cha.
Vậy là lão thu xếp để Nicole, Valerious và Marcantonio được gửi đến một trường tư nội trú, và không khi nào cho chúgn chia sẻ cuộc sống riêng tư của lão. Ngày nghỉ chúng về nhà, lão đóng vai một người cha biết quan tâm lo lắng, nhưng dè dặt, vậy thôi.
Bất chấp mọi thứ và dù hiểu rõ tai tiếng của lão, bọn trẻ vẫn yêu bố. Chúng không bao giờ nói đến những chuyện này khi
chỉ có chúng với nhau. Đó là một trong số các bí mật của gia đình lại chẳng còn là điều bí mật.
Không ai có thể bảo lão là người đa cảm. Lão có rất ít bạn riêng, không vật nuôi trong nhà, lão cố tránh xa những kỳ nghỉ và những hội hè đàn đúm càng nhiều càng tốt. Chỉ có một lần cách đây nhiều năm lão “bị” dính vào một việc làm đầy lòng trắc ẩn khiến đám đồng nghiệp của lão tại Mỹ phải giật mình.
Khi cùng cậu bé Astorre từ Sicily trở về, Trùm Aprile nhận ra cô vợ yêu của mình đang chết dần chết mòn vì bệnh ung thư và ba đứa con của lão sắp lâm vào cảnh bơ vơ. Không muốn Astorre chứng kiến một hoàn cảnh như vậy, e rằng trong một
chừng mực nào đó sẽ có hại cho cậu, lão quyết định gửi cậu cho một trong những cố vấn thân tín nhất, một kẻ có tên là Frank Viola, và vợ gã chăm sóc. Việc làm này hóa ra lại là một lựa chọn thiếu khôn ngoan. Lúc đó, Frank Viola đang co tham vọng kế vị lão. Nhưng chẳng bao lâu sau khi vợ lão chết, Astorre lúc này đã lên ba, lại trở thành một thành viên trong gia đình riêng của lão. “Cha” cậu đã tự sát trên thùng xa của gã, một tình huốn khác thường; và “mẹ” cậu cũng đã chết vì xuất huyết não. Lúc đến đón cậu về nhà Trùm Aprile phải giả đóng vai người bác.
Khi Astorre đủ lớn để bắt đầu hỏi về cha mẹ mình, Aprile bèn kể rằng cậu mồ côi.
Nhưng Astorre là một đứa bé tò mò và kiên trì, vì thế, để chấm dứt những câu hỏi của cậu, lão nói cha mẹ cậu là nông dân, không đủ khả năng nuôi cậu, và họ đã chết vô danh tính tại một làng nhỏ ở Sicily. Aprile cũng biết lời giải thích này hoàn toàn không thỏa mãn cậu bé, và lão cảm giác được nỗi day dứt tội lỗi qua việc này, nhưng lão thừa hiểu khi Astorre còn nhỏ việc giữ kín gốc gác Mafia là quan trọng – cho sự an toàn của chính Astorre và cho sự an toàn của cả đámcon cái lão.
Trùm Raymonde Aprile là người nhìn xa trông rộng và biết rằng thành công của lão không thể tiếp diễn mãi – đây là một thế giới đầy phản trắc. Ngay từ đầu lão
đã có kế hoạch chuyển hướng để được an toàn trong một xã hội có tổ chức. Không hẳn lão thực sự nhận thức được mục đích của mình, nhưng những người vĩ đại có bản năng đoán biết tương lai luôn biết mình muốn gì. Và trong trường hợp này, thật vậy, lão đã hành động vì lòng trắc ẩn. Về phía Astorre, ở tuổi lên ba, không được gây ấn tượng, không được bóng gió cậu sẽ là một người như thế nào khi đã trưởng thành, hoặc cậu sẽ đóng một vai trò quan trọng ra sao trong gia đình.
Ông Trùm hiểu rằng vẻ hào nhoáng của nước Mỹ gắn liền với sự trỗi lên của các gia đình vĩ đại, và cái gia tầng xã hội tinh túy nhất ấy lại xuất thân từ những kẻ trước kia đã ít nhiều phạm phải những tội
ác khủng khiếp chống lại chính cái giai tầng đó. Những kẻ như vậy trong lúc đi tìm vận may đã xây dựng nên nước Mỹ và để những việc làm xấu xa tan thành cát bụi lãng quên. Còn cách nào khác để làm việc đó không? Hay cứ giao Great Plains của nước Mỹ cho người da đỏ, những người không thể tưởng tượng ra nổi một chỗ ở có ba tầng? Hay hãy trả California cho người Mexico, những người không có khả năng kỹ thuật, không thấy được những máng nước khổng lồ dẫn nước về những cánh đồng cho phép hàng triệu người tận hưởng một cuộc sống thịnh vượng? Nước Mỹ có một vị thần hộ mệnh để thu hút hàng triệu người trên khắp thế giới, để dụ dỗ họ đến với
những công việc cần thiét nhưng nặng nhọc: Làm đường xe lửa, xây đập nước và nhà chọc trời. Chà, tượng thần Tự Do quả là một áp phe quảng cáo thiên tài. Nó không có mặt ở đây cho những gì tốt nhất hay sao? Chắc chắn đã có những bi kịch, nhưng đó là một phần của cuộc sống. Chẳng lẽ Mỹ không phải là đất nước giàu mạnh nhất mà thế giới đã từng biết đến? Chẳng lẽ mức độ bất bình đẳng không phải là giá rẻ phải trả? đó luôn là tình huống mà mỗi cá nhân phải hy sinh để thúc đẩy tiến bộ của nền văn minh và hình thái xã hội đặc trưng của nó.
Tuy nhiên, có một định nghĩa khác về một con người vĩ đại. Điều chủ yếu là y không chấp nhận gánh nặng kia. Trong
chừng mực nào đó, phạm tội, phi đạo đức, hay bằng sự khôn khéo, y sẽ chiếmlấy thành quả tiến bộ của nhân loại mà không cần hy sinh.
Raymonde Aprile là một người như vậy. Lão tạo ra quyền lực cá nhân của mình bằng trí thông minh và tính tàn nhẫn. Lão tạo ra nỗi khiếp sợ và rồi lão trở thành huyền thoại. Ấy thế mà con cái lão khi lớn lên vẫn chẳng hề tin vào những chuyện tồi tệ ấy.
Có một truyền thuyết về bước khởi đầu sự thống trị của lão với tư cách một sếp « gia đình ». Aprile lúc đó kiểm soát một công ty xây dựng được điều hành bởi tên đàn em, Tommy Liotti, kẻ đã được lão làm cho giàu có khi còn ít tuổi
bởi những hợp đồng xây dựng thành phố. Gã này đẹp trai, dí dỏm, cực kỳ quyến rũ, và lão luôn hài lòng về công ty của gã . Gã chỉ có một tật : uống rượu quá mức.
Tommy cưới Liza, co bạn thân nhất của vợ lão, một phụ nữ có vẻ đẹp khỏe mạnh, lỗi mốt và chanh chua. Ả thấy mình có bổn phận phải kiềm chế những lạc thú của đức ông chồng, tất nhiên là những lạc thú của riêng gã. Việc này dẫn đến vài rắc rối đáng tiếc. Gã nhẫn nhịn những lời xuác phạm của vợ tương đối khá khi gã còn minh mẫn, nhưng khi đã xỉn là gã sẽ vả vào mặt ả, đủ để ả phải giữ mồm giữ miệng.
Việc gã chồng khỏe như vâm và phải làmviệc nặng lâu năm tại các công trường
xây dựng khi còn trẻ cũng là một điều xui xẻo nữa. Thật vậy, gã thường mặc sơ mi cộc tay để phô ra hai cánh tay săn chắc và cơ bắp cuồn cuộn.
Đáng buồn thay, những rắc rối cứ leo thang suốt hai năm. Một đêm Tommy đánh vỡ mũi Liza và làm gãy vài chiếc răng của ả. Việc đó đòi hỏi phải chi một khoản nặng tiền mông má. Ả đàn bà không dám nhờ vợ ông Trùm che chở, vì một yêu cầu như vậy hoàn toàn có thể biển ả trở thành quả phụ, mà ả thì vẫn còn yêu chồng mình.
Aprile không muốn can thiệp vào những ầm ĩ trong chuyện gia đình của thuộc hạ. Nó chẳng đi đến đâu cả. Thậm chí thằng chồng có giết con vợ lão cũng khỏi có gì
phải lo. Nhưng những trận đòn đã gây ra dấu hiệu nguy hiểm cho quan hệ làm ăn của lão. Một mụ vợ phát khùng có thể nói năng lung tung, để lọt ra ngoài những thông tin tai hại. Thí dụ chuyện gã chồng luôn trữ một lượng tiền mặt lớn trong nhà dành cho những «chi phí » bất ngờ nhưng hét sức cần thiết cho việc thực hiện những hợp đồng xây dựng thành phố.
Vì vậy, Aprile cho gọi gã chồng. Với sự nhã nhặn hết mức lão nói rõ lão can thiệp vào cuộc sống riêng của gã chỉ vì chuyện đó ảnh hưởng đến việc làm ăn. Lão khuyên gã hoặc giết vợ ngay lập tức hoạc ly dị ả, hoặc không được ngược đãi ả nữa. Gã chồng bảo đảm với lão chuyện thượng cẳng chân hạ cẳng tay sẽ không
tái diễn. Nhưng Aprile không tin. Lão đã nhận ra ánh mắt gã, ánh mắt của ý chí tự do. Lão coi việc một người cứ làmnhững gì mình thích mà không thèm quan tâm đến cái giá phải trả là một trong những sự khó hiểu lơn nhất trên đời. Kẻ quân tử liên kết bản thân mình với các thánh thần với cái giá khủng khiếp bằng chính bản thân họ. Kẻ tiểu nhân say mê với những bốc đồng nhỏ nhặt nhằm vào những thỏa mãn cỏn con trong khi chấp nhận số mệnh bị thiêu dưới hỏa ngục.
Và điều đó lại xảy ra với Tommy Liotti. Gần một năm sau Liza càng trở nên chua ngoa hơn trước. Bất chấp những lời cảnh báo của ông Trùm, bất chấp tình yêu gã vẫn dành cho vợ, Tommy nện ả một trận
nhừ tử. Ả phải nằm viện với mớ xương sườn gãy và phổi bị tổn thương. Nhờ giàu có và các mối liên kết chính trị Tommy đã mua được một trong những thẩm phán thoái hóa của ông Trùm với số tiền cực lớn. Sau đó gã thuyết phục vợ quay về với gã.
Aprile bực tức quan sát và hối tiếc bởi phải gánh chịu trách nhiệm. Trước tiên lão quan tâm đến những khía cạnh thực tế của vấn đề. Lão có được một bản copy di chúc của gã chồng và biết rằng, như một người chủ gia đình tử tế, gã để lại toàn bộ tài sản nơi trần thế cho vợ và các con mình. Cô ả sẽ trở thành một góa phụ giàu có. Thế rồi lão cử một đội đặc nhiệm với những chỉ dẫn đặc biệt lên
đường. Trong vòng một tuần, tay thẩmphán nhận được một cái hộp dài quấn ruy băng. Trong hộp, giống như một đôi găng tay dài, đắt tiền bằng lụa đỏ, là hai cánh tay to tướng của gã chồng, một bên cổ tay đeo chiếc đồng hồ Rolex đắt tiền mà Aprile tặng gã nhiều năm trước, như một biểu hiện quý mến. Ngày hôm sau phần còn lại của thi thể được phát hiện đang dập dềnh trôi trong làn nước bên cầu Verrazano.
Một truyền thuyết khác cũng ớn lạnh bởi sự mập mờ của nó, như chuyện ma của trẻ nhỏ. Trong lúc các con của ông Trùmđang theo học trường nội trú, một anh chàng phóng viên táobạo và có tài, nổi danh về việc vạch trần nhược điểm của
các nhân vật nổi tiếng bằng giọng văn hóm hỉnh, đã lần ra bọn trẻ và dụ chúng vào cái được xem như cuộc trao đổi bằng lời vô hại. Chàng phóng viên tếu táo cùng bọn trẻ, với vẻ ngay thơ của chúng. với áo quần đồng phục của chúng và với chủ nghĩa lý tưởng trẻ thơ của chúng về cách tạo dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Anh ta đối chiếu việc này với danh tiếng của cha chúng trong khi vẫn chấp nhận Trùm Aprile thực sự chưa từng bị kết tội.
Bài báo trở nên nổi tiếng, được lưu hành trong các phòng thông tin trên toàn quốc, thậm trí cả trước khi phát hành. đó là một loại thành công mà người cầm bút mơ ước. Ai cũng thích nó.
Chàng phóng viên là người yêu thiên nhiên. Năm nào anh ta cũng đưa vợ và hai con đến ngôi nhà nghỉ ở phía bắc New York để đi săn, câu cá hoặc để sống một cách giản đơn. Họ đã ở đó trong kỳ nghỉ cuối tuần có lẽ Tạ ơn dài lê thê. Vào ngày chủ nhật, ngôi nhà nghỉ, cách thị trấn gần nhất mười dặm, bốc cháy. Không có ứng cứu trong khoảng hai tiếng đồng hồ. Ngôi nhà đã cháy trụi còn chàng phóng viên cùng vợ con thì chỉ bị cháy xém. Một cuộc xuống đường rầm rộ nổ ra và một cuộc điều tra quy mô được tiến hành, nhưng không tìm được chứng cứ về hành động bạo lực dẫn tới sát nhân. Đoàn điều tra kết luận, cả nhà bị ngất xỉu vì khói trước khi có thể thoát ra
ngoài.
Rồi một việc kỳ lạ xảy ra. Ít tháng sau thảm kịch trên những tiếng đồn bắt đầu lan truyền. Những tin tức nặc danh lọt vào cơ quan FBI, cảnh sát và báo chí. Tất cả đều cho rằng vụ cháy là hành động trả thù của tay Trùm Aprile bỉ ổi. Báo chí hâm nóng câu chuyện, kêu gọi mở lại phiên tòa. Phiên tòa được mở, nhưng một lần nữa lại không có chứng cứ. Thế là bất chấp mọi thử thách, vụ này trở thành truyền thuyết thứ hai về tính tàn bạo của Trùm Aprile.
Mặc cho dư luận phản đối, nhà chức trách đành phải hài lòng, bởi chẳng có gì bắt bẻ được lão. ai cũng biết các nhà báo được hưởng quyền bất khả xâm phạm.
Hàng nghìn nhà báo cứ bị giết thì còn ra thể thống gì ? Trùm Aprile quá khôn ngoan để chấp nhận mạo hiểm như vậy. Song huyền thoại chẳng bao giờ chết. Một số nhân viên FBI thậm chí còn cho rằng chính lão đã góp phần tạo ra những đồn đại để hoàn thiện huyền thoại về lão. Và cứ thế nó lan ra.
Nhưng ở một khía cạnh khác Aprile là một người hào phóng. Nếu bạn phục vụ lão một cách trung thành bạn sẽ trở nên giàu có và nhận được sự che chở tuyệt vời mỗi khi bạn gặp khó khăn. Phần thưởng lão ban rất hậu hỹ, nhưng đòn trừng phạt thì bất di bất dịch. đó là huyền thoại về lão.
Sau lần gặp Portella và Cilke, Trùm
Aprile phải sắp xếp lại một số việc. Lão cho đón Astorre về nhà sau mười một năm xa cách.
Lão cần Astorre, thực ra lão đã chuẩn bị cậu cho thời điểm này. Lão thậm chí yêu thương Astorre còn hơn con đẻ. Ngay khi còn nhỏ Astorre đã luôn là đứa cầm đầu, già dặn trong khả năng úng xử. Cậu yêu quý lão và không khiên slão phải lo lắng như đám con đẻ của lão vẫn thường làm. Và mặc dù Valerious và Marcantonio đã hai mươi và mười tám tuổi, trong khi Astorre mới lên mười, nhưng cậu vẫn thể hiện khả năng độc lập với các anh. Mỗi khi Valerious bắt nạt cậu đều bị cậu chống trả. Marcantonio trìu mến với cậu hơn và đã mua cho cậu cây đàn banjo
"""