" Lợi Thế Đen | Black Edge PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lợi Thế Đen | Black Edge PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo [ebook©vctvegroup] LỢI THẾ ĐEN —★— Tác giả: Sheelah Kolhatkar Người dịch: Trần Trọng Hải Minh Phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản Tri Thức 2018 Lời mở đầu LẬT MẶT Một tối tháng Bảy năm 2008, đặc vụ FBI B. J. Kang đang ngồi gò lưng trên bàn làm việc, đeo tai nghe, lắng nghe một cuộc điện thoại. Bên ngoài trời đã tối, còn anh vẫn chưa dùng bữa. Bao tử anh óc ách sôi. “Raj, anh nên nghe lời em,” một phụ nữ nói giọng êm ái, nghe rõ cả hơi thở. “Làm ơn đừng có chơi em vụ này.” “Được rồi,” một giọng đàn ông nói. “Họ sẽ đánh xuống,” giọng phụ nữ nói tiếp. Đánh xuống[1], Kang biết, một thuật ngữ quen thuộc của Phố Wall, có nghĩa là một công ty sẽ công bố lợi nhuận của họ thấp hơn so với kỳ vọng, đây rõ ràng là tin xấu; “họ” ở đây là một công ty Internet trị giá 800 triệu đô la[2] đóng trụ sở ở Cambridge, Massachusetts, có tên gọi Akamai Technologies. “Em vừa nhận được một cuộc gọi từ người của em. Em vẫn khiển được gã này như chỉnh dây đàn mà.” “Anh đang bán khống, em biết mà, đúng không?” người đàn ông nói. “Em muốn anh ở trên,” người phụ nữ thỏ thẻ. “Chúng ta phải là một cặp.” Cô ta không nói về tình dục, ít ra là lần này. Đây là chuyện tiền nong. “Hãy cùng nhau chơi cú này. Cứ tiếp tục bán khống mỗi ngày đi.” Người phụ nữ này là ai? Kang nhủ thầm. Nghe ả ta đầy vẻ âm mưu một cách hài hước. Kang lắng nghe và ghi chú. Anh đang ở trong “phòng nghe lén” của FBI, một sào huyệt không cửa sổ chứa mười bốn máy tính Dell cực xịn và một mớ đồ nội thất chẳng ăn khớp gì với nhau ở tầng hai mươi bốn của tòa nhà 26 tầng Federal Plaza thuộc khu Hạ Manhattan, nơi đóng trụ sở thực địa của Cục ở New York. Dọc theo tường là một kệ kim loại chất đầy những thanh lương khô, bánh quy Goldfish và sô cô la Kit Kat - đồ ăn của các đặc vụ ngồi lì ở đây nhiều tiếng liền mỗi ngày, theo dõi các cuộc điện thoại trực tiếp. Nghe lén các cuộc điện thoại nhìn chung bị coi là một việc chó chết, nhưng Kang không nhìn nhận như thế. Anh hiểu vấn đề là ở sự kiên nhẫn; nếu bạn để tâm vào công việc, rốt cuộc bạn sẽ được đền đáp. Vài tháng trước, ngày 7 tháng Ba, một thẩm phán liên bang đã trao cho Kang một món quà, cho phép nghe lén điện thoại di động của một tay thứ dữ Phố Wall mang tên Raj Rajaratnam. Kang đã sống trong căn phòng nghe lén này từ đó, thu thập bằng cứ về một vụ giao dịch nội gián khổng lồ. Anh không tham gia lĩnh vực tội phạm chứng khoán chỉ để bắt những vụ lừa đảo nhỏ nhặt mà anh từng làm hai năm trước. Anh muốn hạ những nhân vật lớn như Raj, một tay chơi quan trọng trong giới tài chính. Là người đồng sáng lập của Galleon Group, một quỹ đầu tư phòng hộ[3] trị giá 7 tỉ đô la, Rajaratnam năm nay khoảng năm mươi tuổi, và là một trong những tay giao dịch danh tiếng ở Phố Wall. Một phần cũng bởi tầm vóc của gã. Raj to béo và khoa trương, với sự thèm muốn quá khổ. Gã thích ăn, và thích tiêu tiền, sẵn sàng chi tiền cho 70 người bạn của mình bay tới Kenya để dự một tiệc sinh nhật kiểu đi săn[4], và chi 250 ngàn đô la cho một bữa tiệc xem Super Bowl[5] ở đảo Star trong vịnh Biscayne. Raj trái ngược hoàn toàn với Kang, đứa trẻ đầy kỷ luật lớn lên trong một gia đình nhập cư người Hàn Quốc, vóc dáng như một khối bê tông với mái tóc đen cắt gọn ghẽ. Trong khi Rajaratnam sống để lan truyền tin đồn, mua bán trái phiếu và khoe khoang về kỹ năng đặc biệt của gã bất cứ khi nào có cơ hội, Kang là một người lao động lặng lẽ, mẫn cán, chỉ lên tiếng khi đặc biệt cần thiết. Ngay cả những đồng nghiệp gần gũi nhất của anh ở Cục cũng hầu như không biết gì về anh. Sáu ngày sau cuộc gọi đó, Kang chứng kiến Akamai thông báo với cả thế giới rằng báo cáo kết quả kinh doanh tiếp theo của họ sẽ là một nỗi thất vọng, cổ phiếu của hãng giảm từ 31,25 xuống 23,34 đô la sau một đêm. Raj đã bán khống 875.000 cổ phần, kiếm được hơn 5 triệu đô la trong một tuần. Người phụ nữ đã lộ tin cho gã, một tay môi giới tên là Danielle Chiesi, kiếm được 2,5 triệu đô la. Kang muốn biết ả đã tìm được ở đâu thông tin giá trị như thế về những gì Akamai sẽ làm, nên anh đã xin tòa được xem hồ sơ cuộc gọi của cô ả. Nhìn qua danh sách các cuộc gọi, anh có thể thấy rằng ả đã nói chuyện với một quản lý cấp cao ở Akamai ngay trước khi chuyển thông tin cho Raj. “Em đã chơi đúng kiểu,” Rajaratnam nói với Chiesi sau đó, khi gã gọi cho ả để cảm ơn vì tin mật báo. “Cách mà em xử lý mối quan hệ ấy.” Chiesi thở dài. “Đó là một cuộc chinh phục.” Rajaratnam đã bị bắt quả tang làm chuyện phạm pháp rõ ràng: lấy thông tin mật, nội gián về Akamai, mua bán cổ phiếu dựa trên đó và kiếm lời. Không hề có mật mã hay bóng gió gì hết. Mọi mảnh ghép lộ ra một cách hoàn hảo, sẵn sàng cho một vụ khởi tố hình sự: cuộc gọi diễn ra vào tối 24 tháng Bảy; Raj đã bán khống 138.550 cổ phần vào ngày hôm sau, đặt cược cổ phiếu sẽ rớt giá, và gã ta tiếp tục bán khống nhiều nữa tới khi tin tức được công bố ngày 30 tháng Bảy. Chỉ dựa riêng vào bằng chứng này, một trong những tay giao dịch thành công nhất ở Phố Wall chắc chắn sẽ vào tù. Kang có thể cảm thấy sự phấn khích tăng lên trong anh. Nếu Raj và Chiesi mua bán dựa trên thông tin nội gián một cách thoải mái và công khai như thế, hẳn phải có những kẻ khác cũng làm như thế. Đường dây điện thoại của Rajaratnam thường bận rộn nhất vào buổi sáng, ngay khoảng thời gian thị trường mở cửa, và Kang chủ tâm làm sớm và lắng nghe. Raj sẽ gọi cho bạn bè và người quen của gã, tìm kiếm tin tức. Một số người mà gã trao đổi tin tức là bạn học cũ ở trường Wharton[6] giờ đang điều hành các công ty công nghệ hay quỹ phòng hộ. Nhiều người trong số đó được gã trả lương. Kang đã theo dõi Raj thu thập thông tin về những báo cáo kết quả kinh doanh sắp được công bố và những đề nghị mua bán sáp nhập chưa được tiết lộ và sử dụng điều đó kiếm hàng triệu đô la khi mua bán cổ phiếu. Chỉ trong vài tháng, Kang đã nghe cả cuộc gọi của bạn bè Rajaratnam nữa. Kang và các đặc vụ FBI khác bị sốc vì những gì họ nghe được. Những hành vi này là bình thường ở Phố Wall? Phải chăng thông tin nội gián dễ có được như thế? Họ đã quen với việc phát hiện những băng hoại trong ngành tài chính, nhưng những tương tác này quá trắng trợn, bất hợp pháp rõ ràng, và có vẻ như ở khắp nơi. Mỗi lần họ phát hiện ra một nhóm giao dịch nội gián, nhóm đó sẽ có vài người thuộc một nhóm khác, và họ có cả một danh sách những nghi can mới phải để mắt đến. Vấn đề lớn hơn cả Raj. Đó là cả một mạng lưới lớn, phức tạp. Trong khi các tay đặc vụ lắng nghe và nghiên cứu hồ sơ cuộc gọi và những ghi chú thẩm vấn, tên một quỹ phòng hộ cứ xuất hiện liên tục: SAC Capital Advisors. Kang quyết định để mắt tới nó. °°° Tấm biển của khách sạn Embassy Suites ở khu Nam San Francisco phủ bóng trên đầu khi B. J. Kang bẻ lái chiếc xe đi thuê cỡ trung ra khỏi bãi đậu và lái về phía Nam, hướng Cupertino, tấp lại trước một căn nhà ba phòng ngủ trên con đường vắng lặng khoảng 40 phút sau đó. Anh và đồng đội, người đang ngồi im lặng bên cạnh, đã dành phần lớn buổi tối hôm trước diễn lại những kịch bản khác nhau có thể xảy ra khi họ tới nơi và gõ cửa. Sẽ ra sao nếu người họ đang tìm không có nhà? Sẽ ra sao nếu hắn nói họ cút đi cho khuất mắt? Nếu hắn có súng thì sao? Khả năng không cao, nhưng họ phải sẵn sàng cho mọi tình huống. Đó là ngày 1 tháng Tư năm 2009, và mặt trời đang lặn. Kang và tay đặc vụ kia - Tom Zukauskas, được Kang gọi là “người yểm trợ” - đã ra khỏi xe và rảo bước trên lối đi dẫn vào nhà. Họ gõ cửa. Một người đàn ông tóc đen xuất hiện. “Ali Far?” Kang nói. Người đàn ông gật đầu, vẻ bối rối. Kang móc phù hiệu trong túi áo khoác ra, giơ lên trước mặt ông ta. “Tôi là B. J. Kang. Tôi là người của FBI. Chúng tôi tới đây để trao đổi về giao dịch nội gián.” Anh ngừng lại một chút để tạo ấn tượng. Kang giải thích rằng Far đang ở trong tình thế khó khăn vì những điều ông ta đã làm, nhưng có thể vẫn có giải pháp. Kang và Far có thể giúp nhau. Vợ của Far, hai con gái, bà mẹ đẻ và bà mẹ vợ đang co rúm vì sợ trong sân sau nhà, cảnh giác theo dõi mọi chuyện. “Chúng tôi biết anh từng làm việc cho Raj Rajaratnam ở Galleon và anh đã giao dịch dựa trên thông tin nội gián,” Kang nói. “Chúng tôi có băng ghi âm.” Băng ghi âm ư? Sau đó Kang bật một đoạn ghi âm mà Far đang cung cấp thông tin nội gián cho Rajaratnam về một công ty sản xuất linh kiện bán dẫn. Khi đoạn băng chạy, Far không nói nổi lời nào. Far đã rời Galleon năm 2008 để khởi sự quỹ đầu tư phòng hộ riêng cùng bạn mình là Richard Choo-Beng Lee, người giờ được gần như tất cả mọi người trong giới biết với tên gọi tắt “C.B.”. Lee là một chuyên gia phân tích công nghệ, trước đó đã làm việc ở SAC Capital. Kang hy vọng rằng Far và Lee sẽ đưa anh tới gần SAC hơn, vốn là một trong những quỹ đầu tư phòng hộ lớn nhất thế giới. Kang đã tìm hiểu được ngày càng nhiều hơn về quỹ này và người sáng lập bí ẩn của nó, Steven Cohen, anh nghe được từ những người môi giới khác của Phố Wall rằng Cohen “luôn quyết định đúng” trong mọi giao dịch - điều mà có vẻ, ít ra là bên ngoài, bất khả thi. Không ai trong ngành hiểu được bằng cách nào Cohen kiếm được nhiều tiền ổn định như thế; những đối thủ cạnh tranh của ông ta ghen tị và nghi ngờ. Dùng những kỹ năng họ đã phát triển ở Galleon và SAC, Far và Lee đã tiếp thị quỹ của chính họ, Spherix Capital, với các nhà đầu tư tiềm năng, một phần qua quảng cáo việc họ có thể tiếp cận các lãnh đạo cấp cao ở những công ty công nghệ, và họ có những thông tin giá trị bởi những mối quan hệ đó. Kang biết tất cả những chuyện này. Anh thích nói rằng anh hiểu sự khác biệt giữa “những quỹ đầu tư phòng hộ dơ bẩn, quan trọng”, “những quỹ đầu tư phòng hộ dơ bẩn mà ta không cần lãng phí thời gian” và “những quỹ đầu tư phòng hộ không quan trọng”. Anh đã tranh luận với các đồng sự ở FBI rằng họ phải đẩy cuộc điều tra ra ngoài phạm vi của Raj Rajaratnam và Galleon, tới những mục tiêu lớn hơn và hùng mạnh hơn như Cohen. Kang cho rằng Far và Lee, những người có quan hệ và có vẻ nhận được thông tin nội gián trực tiếp từ các nhân viên trong công ty, là nhóm thứ nhất, riêng nhóm đó đã đáng để theo đuổi. Nhưng với Kang, họ cũng là con đường dẫn tới thứ gì đó lớn hơn. Tất cả những gì Kang phải làm là thuyết phục họ lật mặt. Kang tin rằng Far đặc biệt khớp với hồ sơ của một điểm chỉ viên cho FBI. Anh ta có vẻ là một người tử tế, muốn làm điều tốt nhất cho gia đình mình. “Anh muốn để con cái anh nghe hết những chuyện này sao?” Kang hỏi. Anh nói Far hãy suy nghĩ kỹ về đề nghị của anh, bởi đó là đề nghị tốt nhất mà anh ta nhận được - chắc chắn là hấp dẫn hơn việc ngồi tù. Nếu anh ta không làm điều đúng, lần tới các đặc vụ FBI xuất hiện ở nhà anh ta sẽ là để bắt người. “Đừng nói với bất kỳ ai chuyện này,” Kang nói thêm, trước khi chào tạm biệt. “Chúng tôi sẽ theo dõi, và sẽ biết nếu anh nói với người khác.” Hai tay đặc vụ quay trở lại xe của họ. Tối hôm đó, Far thấy thật khổ sở. Anh ta không ngủ được. Bất chấp cảnh báo của Kang, Far đã gọi cho cộng sự C. B. Lee. Có giọng hộp thư thoại trả lời. “FBI vừa tới nhà tôi,” Far nói, rồi vội vàng gác máy. Với FBI, điều tối quan trọng là những tin tức về vụ điều tra và nghe lén không bị rò rỉ tới cộng đồng quỹ phòng hộ. Kang phải nói chuyện với C. B. Lee càng sớm càng tốt để cố gắng hạn chế sự tiết lộ tin tức. Lee sống với mẹ cách chỗ Far chỉ 20 phút đi xe, và hai ngày sau Kang tới gặp anh ta. Ngay khi Lee ra mở cửa, Kang nói anh biết anh ta đang giao dịch nội gián ở Spherix. Lúc đầu, Lee từ chối trả lời các câu hỏi của FBI. Nhưng tới cuối cuộc trò chuyện, Kang cảm thấy tự tin là anh ta sẽ hợp tác. “Chúng ta sẽ giúp lẫn nhau,” Kang nói với anh ta. “Anh đang làm điều đúng.” °°° Điện thoại reo trong văn phòng của Steven Cohen ở SAC Capital, C. B. Lee ở đầu dây bên kia. Anh ta và Cohen đã không nói chuyện với nhau một thời gian rồi. “Chào, Steve, chúng tôi phải đóng quỹ của mình,” Lee nói với Cohen, cố tỏ ra trầm tĩnh. Anh giải thích rằng mình và Ali Far không còn hợp tác với nhau nữa vì không thể nhất trí việc chia lợi nhuận. “Tôi muốn lại được làm việc với ông,” Lee nói. Anh cố gợi lại những kỷ niệm về khoản tiền mà họ đã kiếm được nhiều năm trước khi Lee còn làm việc cho Cohen. Lee đề nghị một thỏa thuận trong đó anh sẽ trở lại làm tư vấn cho Cohen và họ có thể chia lợi nhuận nếu Lee cung cấp thông tin tốt. Anh liệt kê một số công ty công nghệ và khoe khoang khả năng có được những con số bí mật từ nội bộ các công ty đó. “Tôi có nhiều mối quen biết,” Lee nói. “Tôi quen người ở lĩnh vực bán hàng và tài chính tại Nvidia sẽ cập nhật cho tôi thu nhập hằng quý, và tôi có mối liên lạc ở Taiwan Semiconductor sẽ cho tôi dữ liệu theo thời gian.” Cohen thấy hứng thú. Lee từng là một trong những chuyên viên phân tích năng suất nhất, người có thể trông cậy được trong việc nảy ra những ý tưởng giao dịch ra tiền, cho tới khi anh ta rời SAC năm 2004. Nghiên cứu của Lee tốt tới mức Cohen và một trong các giám đốc đầu tư danh mục của ông từng tranh nhau để có nó. Nhưng Cohen không ngờ nghệch. Ông muốn thận trọng. “Tôi không muốn nói chuyện này qua điện thoại,” ông nói. Tuy nhiên, ông thấy đủ hứng thú để yêu cầu người đứng đầu đơn vị nhân sự gọi lại cho Lee và nói với anh về thủ tục giấy tờ trở lại làm việc cho SAC. Hai người họ nói chuyện với nhau thêm vài lần. Mấy tuần sau, Cohen nói với một giao dịch viên phân tích của mình rằng ông đang nghĩ đến việc chiêu mộ lại C. B. Lee. Tay giao dịch viên nhún vai nhưng không nói gì. Anh ta vừa nghe một số tin đồn về Lee từ một người bạn làm việc ở Galleon, quỹ của Rajaratnam. Tin đồn nói các đặc vụ liên bang mới đây đã ghé thăm quỹ phòng hộ của Lee và Far. “Tôi không biết chuyện gì đang diễn ra ở đó,” tay giao dịch viên của Galleon đã nói khi nhắc tới chuyện này trong một bữa tối của cả nhóm ở Manhattan ba ngày trước. “Rất lạ.” Sáng hôm sau, tay giao dịch viên phân tích nghiêng người về phía Cohen và lấy hết can đảm. Anh ta không hiểu vị sếp nóng tính của mình sẽ phản ứng ra sao với những gì anh ta sắp nói. “Chuyện này hoàn toàn có thể là đồn nhảm,” anh ta nói, “nhưng có tin đồn là nhân viên liên bang đã tới văn phòng của C.B. Ông có thể muốn xem xét chuyện này kỹ hơn.” “Ý cậu là SEC[7] hả?” Cohen nói. “Không,” tay giao dịch viên trả lời. “Là FBI.” Cohen chụp lấy điện thoại và gọi cho một người bạn, một cựu giám đốc danh mục SAC gần gũi với Lee. “Tôi nghe nói C.B. có thể đang hợp tác với FBI,” Cohen nói. “Chúng tôi nghe nói anh ta đang đeo thiết bị nghe lén.” Nghe có vẻ như đang diễn ra một cuộc điều tra liên bang với ngành quỹ phòng hộ. Ai mà biết được chuyện này sẽ dẫn tới đâu? “Cẩn thận đấy.” °°° Đó sẽ là một cuộc điều tra chưa từng có tiền lệ trong lịch sử Phố Wall, một cuộc truy quét kéo dài một thập kỷ, với sự tham gia của nhiều cơ quan chính quyền nhắm vào hoạt động giao dịch nội gián gần như chỉ tập trung vào các quỹ đầu tư phòng hộ. Cuộc điều tra bắt đầu từ Raj Rajaratnam và Galleon Group rồi nhanh chóng mở rộng, giăng bẫy với những tay giám đốc doanh nghiệp, luật sư, nhà khoa học, giao dịch viên và chuyên viên phân tích ở vài chục công ty. Mục tiêu tối thượng là Steven Cohen, nhà sáng lập tỉ phú của SAC Capital Advisors, có lẽ là công ty đầu tư phòng hộ hùng mạnh nhất mà ngành này từng thấy. Vào năm 1992, năm Cohen khởi sự SAC, một người bình thưòng chỉ biết rất mơ hồ một quỹ đầu tư phòng hộ là gì. Hầu hết các quỹ giống như của Cohen bắt đầu từ những hoạt động nhỏ lẻ, không chính thức, được tạo ra bởi các tay giao dịch viên lập dị mà tham vọng tài chính không thể được thỏa mãn ngay cả bởi những công ty chứng khoán hùng mạnh nhất Phố Wall. Họ không đủ kiên nhẫn với văn hóa doanh nghiệp và không bận tâm tới việc thương lượng về khoản thưởng của họ mỗi năm. Nhiều người mặc đồ jean và mang dép xỏ ngón đi làm. Mối ác cảm của họ với các ngân hàng và công ty môi giới lớn là nguồn nuôi dưỡng niềm kiêu hãnh của họ. Các quỹ đầu tư phòng hộ được nhìn nhận là một dịch vụ nhỏ, gần như là may đo, như phương tiện để những người giàu có đa dạng hóa các khoản đầu tư của họ và tạo ra lợi nhuận ổn định, vừa phải, cách ly với những diễn biến thất thường của thị trường chứng khoán. Ý tưởng đằng sau các quỹ này thật đơn giản: một giám đốc quỹ sẽ xác định những công ty tốt nhất và mua cổ phần của những công ty này trong khi bán khống cổ phiếu của các công ty khác hoạt động có vẻ không tốt. Bán khống là đặt cược vào một cổ phiếu với kỳ vọng nó sẽ rớt giá, và cách làm này mở ra những cơ hội mới cho các nhà đầu tư tinh tường. Quá trình này bao gồm đi vay cổ phiếu (có trả phí), rồi đem bán nó trên thị trường, và nếu mọi chuyện thuận lợi, mua lại những cổ phiếu đó khi giá thấp hơn để trả lại số cổ phiếu đi mượn. Trong một thị trường được mùa, khi phần lớn các cổ phiếu tăng giá, lợi nhuận trong giữ cổ phiếu dài hạn (long) sẽ che phủ các khoản thua lỗ từ việc bán khống (short); trong một thị trường thất bát, việc bán khống giúp giảm bớt thua lỗ với việc đầu tư cổ phiếu dài hạn. Đầu tư dài hạn một số cổ phiếu và bán khống một số cổ phiếu khác có nghĩa là bạn đang “phòng hộ”[8]. Chiến lược này có thể áp dụng cho các công cụ tài chính khác ngoài cổ phiếu, chẳng hạn như trái phiếu và các hợp đồng quyền chọn và hợp đồng tương lai, ở bất cứ thị trường nào trên thế giới. Những tổn thất với thương vị ngắn hạn[9] có khả năng là không giới hạn nếu một cổ phiếu cứ tiếp tục tăng, nên đây được coi là một hoạt động rủi ro cao. Nguy cơ này, cộng thêm với việc nhiều quỹ phòng hộ sử dụng đòn bẩy tài chính, tức là tiền đi vay phải trả lãi, để lấy tiền giao dịch khi họ theo đuổi các chiến lược khác nhau ở những thị trường khác nhau trên toàn cầu, khiến giới chức điều hành ra sắc lệnh chỉ những nhà đầu tư tinh tường nhất mới được đầu tư vào đó. Các quỹ phòng hộ được phép tìm cách kiếm tiền gần như theo bất cứ cách nào họ muốn, và thu bất kỳ khoản phí nào họ thích, chừng nào họ còn giới hạn các nhà đầu tư của mình ở những người giàu sụ, những người mà ít ra trên lý thuyết, có thể thua lỗ bao nhiêu cũng được. Trong nhiều năm, các quỹ phòng hộ tồn tại nhìn chung biệt lập với các chu kỳ tăng trưởng - suy thoái của Phố Wall, nhưng tới giữa những năm 2000, các quỹ này bắt đầu di chuyển vào trung tâm của ngành tài chính. Một số quỹ bắt đầu tạo ra lợi nhuận khổng lồ mỗi năm. Theo thời gian, cái tên quỹ phòng hộ không còn liên quan gì tới chiến lược thận trọng đã khiến các quỹ này có tên như thế, mà thay vào đó, chúng trở thành những công ty đầu tư tài chính không bị kiểm soát, và về cơ bản được làm bất cứ điều gì chúng muốn. Mặc dù các công ty này nổi tiếng với việc sử dụng đòn bẩy tài chính và chấp nhận rủi ro cao, đặc điểm mang tính định nghĩa với hầu hết quỹ phòng hộ là khoản tiền khổng lồ mà những người điều hành nhận được. Những khoản phí họ thu rất lớn, một khoản “phí quản lý” điển hình tương đưong 2% giá trị tài sản, và “phí hoạt động” tương đưong 20% lợi nhuận mỗi năm. Trước khi kiếm được bất cứ thứ gì cho nhà đầu tư, giám đốc một quỹ 2 tỉ đô la sẽ thu về 40 triệu đô la tiền phí chỉ để điều hành hoạt động. Tới năm 2007, những người sáng lập các quỹ phòng hộ như Paul Tudor Jones và Ken Griffin quản lý những khoản tiền nhiều tỉ đô la, sống trong những biệt điện rộng 20 nghìn foot vuông[10], và đi lại bằng những chiếc máy bay phản lực tư nhân trị giá 50 triệu đô la. Làm việc cho một quỹ phòng hộ là trải nghiệm mang tính giải phóng với một số kiểu giao dịch viên nhất định, một cơ hội để thử nghiệm những kỹ năng của họ trước thị trường và trong quá trình đó, trở nên siêu giàu. Công việc ở các quỹ phòng hộ trở thành loại công việc sang chảnh nhất trong ngành tài chính. Khối tài sản khổng lồ mà các quỹ này hứa hẹn mang lại khiến một sự nghiệp có tính truyền thống hơn ở Phố Wall như leo lên các nấc thang thứ bậc ở một ngân hàng đầu tư lâu năm như Bear Stearns hay Morgan Stanley, trở nên kém hấp dẫn hơn nhiều. Vào năm 2006, cùng năm mà Lloyd Blankfein, CEO của Goldman Sachs, được trả khoản thu nhập 54 triệu đô la - gây ra sự phẫn nộ ở một số người - thì người được trả lương thấp nhất trong danh sách 25 giám đốc quỹ phòng hộ có thu nhập cao nhất đã nhận được 240 triệu đô la. Ba người đứng đầu kiếm được mỗi người hơn một tỉ đô la. Cohen đứng thứ năm năm đó, 900 triệu đô la. Tới năm 2015, các quỹ phòng hộ kiểm soát gần 3.000 đô la tài sản trên toàn thế giới và là động cơ đứng sau sự phân phối bất cân bằng của số của cải cực lớn vào đầu thế kỷ 21. Những ông trùm quỹ phòng hộ không lắp đặt đường ray xe lửa, không xây nhà máy hay đầu tư vào các loại thuốc men hay công nghệ cứu sống mạng người. Họ kiếm được hàng tỉ đô la thông qua đầu cơ, bằng cách đặt cược vào thị trường mà các khoản cược hóa ra thường thắng nhiều hơn thua. Và vì thế, họ kiếm được không chỉ những khối tài sản cá nhân khổng lồ, mà còn tạo dựng tầm ảnh hưởng kinh khủng khắp xã hội, trong chính trị, giáo dục, nghệ thuật, thể thao chuyên nghiệp - bất cứ lĩnh vực nào mà họ muốn hướng sự chú ý và nguồn lực của họ vào đó. Họ quản lý một lượng tiền lớn trong các quỹ hưu trí và quỹ niên bổng[11], và ảnh hưởng nhiều đến thị trường tới mức những CEO của các công ty đại chúng không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải chú ý tới họ, tập trung vào thành tích cổ phiếu ngắn hạn để khiến các cổ đông ở quỹ phòng hộ của họ hài lòng. Phần lớn những tay giao dịch ở các quỹ phòng hộ không nghĩ họ là “chủ công ty” hay thậm chí là nhà đầu tư dài hạn. Họ chỉ quan tâm đến việc mua vào, kiếm lời và bán ra. Nếu có một người hiện thân cho sự nổi lên của các quỹ phòng hộ, và cách thức chúng làm thay đổi Phố Wall, thì đó là Steven Cohen. Ông ta là một nhân vật bí ẩn, ngay cả trong chính ngành của mình, nhưng mức lợi nhuận bình quân 30% một năm trong 20 năm liên tục của ông ta là một huyền thoại. Điều đặc biệt hấp dẫn ở ông là thành tích không dựa trên bất kỳ chiến lược được tìm hiểu kỹ nào, không giống các nhà đầu tư lớn khác như George Soros hay Paul Tudor Jones; ông không nổi tiếng với việc đặt cược vào các xu hướng kinh tế toàn cầu hay tiên đoán sự suy giảm của thị trường bất động sản. Cohen đơn giản là có vẻ có thức cảm mang tính trực giác về cách thị trường chuyển biến, và ông đã bước vào ngành này chính xác ở thời điểm mà xã hội thay đổi quan điểm sang tưởng thưởng cho kỹ năng đó hơn bất kỳ kỹ năng nào khác. Ông ta đã giao dịch mua bán cổ phiếu theo phong cách cực nhanh, hàng chục giao dịch lớn mỗi ngày. Những tay giao dịch viên trẻ tuổi khao khát được làm việc cho Cohen và những nhà đầu tư giàu có nài nỉ xin được trao tiền vào tay ông ta. Tới năm 2012, SAC đã trở thành một trong những quỹ đầu tư có lợi nhuận tốt nhất thế giới, quản lý 15 tỉ đô la. Ở Phố Wall, “Stevie”, như người ta vẫn gọi Cohen, giống như một vị thần. Tin tức nhanh chóng loan đi về cách thức mới mẻ để trở nên cực giàu này, và hàng nghìn quỹ phòng hộ mới được mở ra, tất thảy đều tuyển mộ những tay môi giới hung hăng đi tìm những khoản đầu tư có lời lớn. Khi sự cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn và các khoản tiền lời tiềm năng tăng vọt, những quỹ phòng hộ bắt đầu mở ra vô cùng rộng rãi để đạt được lợi thế trên thị trường, họ chiêu mộ các nhà khoa học, nhà toán học, kinh tế gia và cả bác sĩ tâm thần. Họ đặt dây cáp quang ở gần các thị trường chứng khoán hơn để những giao dịch của họ có thể được thực hiện nhanh hơn vài nano giây và thuê những kỹ sư và lập trình viên giúp máy tính của họ mạnh như máy tính của Lầu Năm Góc. Họ trả tiền cho các bà mẹ cho con chơi bóng đá để vào các quầy hàng tại Walmart và báo cáo lại trên đó đang bán gì. Họ nghiên cứu các hình ảnh qua vệ tinh những khu đỗ xe và mời các CEO đi ăn những bữa tối cực kỳ xa xỉ, đào bới thông tín. Họ làm tất cả những chuyện đó vì họ biết đánh bại được thị trường khó khăn ra sao, ngày qua ngày, tuần tiếp tuần, năm nối năm. Các quỹ phòng hộ luôn cố tìm kiếm điều mà đám môi giới gọi là “lợi thế”[12]- thông tin giúp họ giành lợi ưu trước các nhà đầu tư khác. Ở một thời điểm nhất định, việc truy tìm lợi thế này không tránh khỏi việc chạm đến một lằn ranh rồi vượt qua đó: biết trước thông tin về lợi nhuận của một công ty, tin tức về việc một nhà sản xuất vi mạch sẽ bị mua lại trong tuần tới, xem trước báo cáo kết quả một vụ thử nghiệm thuốc. Kiểu thông tin này - độc quyền, không công khai, và chắc chắn là có tác động lên thị trường - được Phố Wall gọi là “lợi thế đen” và là loại thông tin giá trị nhất. Giao dịch dựa trên thông tin kiểu đó thưòng là bất hợp pháp. Khi một giao dịch viên được hỏi liệu anh ta có biết một quỹ bất kỳ nào mà không dựa vào kiểu thông tin nội gián như thế không, anh ta sẽ nói: “Không, họ sẽ không bao giờ sống sót nổi.” Theo cách này, lợi thế đen giống như doping trong đua xe đạp đỉnh cao hay steroid[13] trong bóng chày chuyên nghiệp. Một khi những vận động viên xe đạp và những tay đập ăn điểm ngay bắt đầu làm chuyện đó, bạn phải làm theo hoặc là bạn sẽ thua. Và giống như trong đua xe đạp và bóng chày, ngày phán xét với Phố Wall cuối cùng cũng tới. Năm 2006, Ủy ban Chứng khoán và sàn Giao dịch Mỹ, Cục Điều tra Liên bang và Văn phòng Công tố Mỹ tuyên bố họ sẽ điều tra lợi thế đen, rất lâu trước khi cuộc tìm kiếm dẫn họ tới Cohen. Họ phát hiện ra rằng dù mọi người có đang làm gì đi nữa, thì Cohen vẫn là người giỏi nhất. Cuốn sách này là một câu chuyện trinh thám mà bối cảnh là những căn phòng phía sau các bãi đậu xe văn phòng và sàn giao dịch của Phố Wall. Cuốn sách kể về những đặc vụ FBI đã làm theo linh cảm của mình và đặt những đường dây nghe lén, những nhân chứng lật mặt và chịu hợp tác để dẫn lên các thứ bậc cao hơn cho đến khi họ chạm tới được những kẻ đứng đầu. Nó kể về những công tố viên chính quyền đầy lý tưởng đối mặt với các tay luật sư bên bị giảo hoạt mỗi năm kiếm được nhiều tiền gấp hai mươi lần họ. Nó kể về những tay giao dịch trẻ đập vỡ ổ cứng của họ bằng búa, xé bỏ các tập hồ sơ, và tìm kiếm sự giúp đỡ của bạn bè thân thiết nhất để không phải ngồi tù. Nó kể về cách những quỹ phòng hộ như SAC được cơ cấu cẩn thận để những người ở trên đỉnh được bảo vệ khỏi các giao dịch đáng ngờ của nhân viên cấp dưới. Đây cũng là câu chuyện về Steven Cohen và hành trình tên lửa của ông lên đỉnh cao của Phố Wall, cùng cuộc chiến kỳ vĩ để trụ lại đó. PHẦN MỘT Chương 1 MONEY, MONEY, MONEY[14] Thường có hai loại người tìm việc ở Phố Wall. Loại thứ nhất là những người có cha mẹ giàu có, được ăn học ở những trường phổ thông ngon lành và vào các đại học trong nhóm Ivy League[15]; và là những người mà từ ngày đầu tiên trên sàn giao dịch đã có vẻ mang định mệnh là thuộc về nơi đó rồi. Họ sống cuộc đời dễ dàng, biết rằng họ sẽ sớm có căn hộ ở Park Avenue[16] và những ngôi nhà hóng mát ở Hamptons[17], não trạng của họ bắt nguồn từ việc giáo dục sang chảnh cùng các bài học quần vợt thuở ấu thơ, và kiến thức kiểu khi nào là lúc thích hợp để một người đàn ông mặc áo vest kẻ sọc và khi nào thì không. Loại thứ hai gọi ra những cụm từ như khôn lỏi và thích gây gổ. Họ có thể đã chứng kiến cha mẹ mình vật lộn nuôi sống gia đình, vất vả với công việc bán hàng hay bán bảo hiểm, hoặc điều hành một doanh nghiệp nhỏ, làm việc chăm chỉ để thu lại chẳng bao nhiêu, điều này đã ảnh hưởng sâu sắc tới họ. Họ có thể đã bị bắt nạt khi còn nhỏ hay bị bạn gái từ chối ở trường trung học. Họ ăn nên làm ra vì trong họ âm ỉ một sự thù hận và họ muốn chứng tỏ, hay vì họ có tham vọng trở nên cực giàu, hoặc vì cả hai. Họ không có gì nhiều để mất ngoài quyết tâm và sự sẵn lòng làm bất cứ chuyện gì nếu cần, bao gồm đánh bại những đứa trẻ nhà giàu tự mãn. Đôi khi điều đó thúc đẩy những người này cực kỳ quyết liệt, gần như một cơn cuồng nộ. Steven Cohen thuộc nhóm thứ hai. Khi tới điểm danh ở chỗ làm một buổi sáng tháng Một năm 1978, Cohen nhìn giống bất cứ cậu trai 21 tuổi mới đi làm nào. Anh có thể nghe tiếng gầm gừ của sàn giao dịch, nơi hàng chục thanh niên trai tráng đang rầm rì qua điện thoại, cố gắng dẫn dụ tiền bạc từ những người ở đầu dây bên kia. Căn phòng sống động và tràn ngập năng lượng. Như thể một cây sồi khổng lồ đang rung lắc giữa một khu rừng mùa thu và những chiếc lá tiền đang rơi rụng từ đó. Với Cohen nơi này như ở nhà, và anh hòa nhập ngay lập tức. Gruntal & Co. là một hãng môi giới nhỏ nằm quanh quất chỗ góc đường gần Sàn Giao dịch Chứng khoán New York, trong con hẻm nhỏ tăm tối thuộc khu Hạ Manhattan. Thành lập năm 1880, Gruntal đã sống sót qua vụ ám sát Tổng thống McKinley[18], vụ sập thị trường năm 1929, các vụ tăng giá dầu mạnh và những đợt suy thoái, chủ yếu nhờ việc mua lại các công ty Do Thái rất nhỏ, nhưng cũng bởi việc duy trì quy mô đủ nhỏ này mà không ai chú ý nhiều tới họ. Từ các văn phòng trên cả nước, những tay môi giới của Gruntal cố gắng bán cổ phiếu đầu tư cho các nha sĩ, thợ ống nước và người về hưu. Khi Cohen tới, công ty vừa bắt đầu chuyển hướng một cách mạnh mẽ hơn sang một lĩnh vực được gọi là tự doanh[19], cố gắng tạo ra lợi nhuận bằng cách đầu tư bằng chính tiền của công ty. Với một đứa trẻ Do Thái hăng hái từ Long Island như Cohen, Phố Wall không dành cho sự chào mời cởi mở. Mặc dù vừa tốt nghiệp Wharton, Cohen vẫn phải tự xoay xở. Gruntal không phải là công ty có danh tiếng tốt, nhưng Cohen không quan tâm tới uy tín. Anh quan tâm tới tiền, và xác định phải kiếm được thật nhiều tiền. Tình cờ là một người bạn từ thời thơ ấu của Cohen, Ronald Aizer, mới nhận công việc điều hành bộ phận quyền chọn[20] ở Gruntal, và đang tìm người giúp. Aizer hơn Cohen mười tuổi, có năng khiếu toán học, và có toàn quyền đầu tư vốn của công ty theo cách mà ông muốn. Ngày đầu tiên đi làm của Cohen, Aizer chỉ vào một cái ghế và yêu cầu người mới được tuyển dụng ngồi đó trong khi ông nghĩ xem cụ thể sẽ làm gì với anh ta. Cohen ngồi xuống trước một màn hình Quotron và bắt đầu chìm đắm vào giai điệu của những con số hiển thị trên đó. Thị trường chứng khoán đúc kết được một nguyên lý cơ bản, nguyên lý mà Aizer đã tìm ra được cách khai thác: bạn chấp nhận mạo hiểm càng nhiều đối với khoản đầu tư của bạn, thì phần thưởng tiềm năng càng lớn. Nếu có khả năng chỉ một mẩu tin cũng đủ làm cho giá một cổ phiếu giảm mạnh, giới đầu tư sẽ trông đợi cổ phiếu này phải có lợi nhuận thật lớn vì khi đầu tư vào cổ phiếu này họ đã chấp nhận khoản thua lỗ tiềm tàng. Tuy nhiên, một món đầu tư chắc ăn, dễ đoán, như trái phiếu do chính quyền thành phố phát hành, thường có lời rất thấp. Không thể có phần thưởng mà không có rủi ro - đó là một trong những nguyên lý trung tâm của đầu tư. Tuy nhiên, Aizer tìm thấy một lỗ hổng hấp dẫn trong cơ chế này, khi hai yếu tố lợi nhuận và rủi ro không còn đồng bộ. Lỗ hổng đó liên quan tới quyền chọn chứng khoán. Thị trường quyền chọn lúc đó thưa thớt hơn nhiều so với giao dịch chứng khoán thông thường, và theo nhiều cách cũng hấp dẫn hơn. Quyền chọn là các hợp đồng cho phép một người hoặc mua hoặc bán cổ phiếu với một giá cố định, trước một ngày cụ thể trong tương lai. Một “quyền chọn bán”[21] đại diện cho quyền bán cổ phiếu, nghĩa là người sở hữu lệnh đặt bán sẽ hưởng lợi nếu giá cổ phiếu giảm, cho phép anh ta hay cô ta bán các chứng khoán cơ sở với mức giá cao hơn giá thị trường và giá cao hơn này được thống nhất từ trước. “Quyền chọn mua”[22] thì ngược lại, cho phép người nắm giữ có quyền mua một chứng khoán cụ thể ở một giá nhất định vào trước hay đúng ngày hết hạn, tức người sở hữu quyền chọn mua sẽ hưởng lợi nếu giá cổ phiếu tăng, do hợp đồng quyền chọn này cho phép anh ta hay cô ta mua cổ phiếu với giá thấp hơn giá ngoài thị trường tự do, mang lại lợi nhuận ngay lập tức. Giới đầu tư đôi khi sử dụng các quyền chọn này để phòng hộ cho một thương vị chứng khoán mà họ đang sở hữu. Ở Gruntal, Aizer đã triển khai một chiến lược được gọi là “chênh lệch quyền chọn”[23]. Có một mối quan hệ toán học chính xác điều chỉnh giá của quyền chọn thay đổi tương quan với giá chứng khoán cơ sở. Về lý thuyết, trong một thị trường lý tưởng, giá của quyền chọn bán, giá của quyền chọn mua và giá mà cổ phiếu sẽ được giao dịch phải ngang bằng nhau. Vì quyền chọn là sản phẩm tài chính mới mẻ, và liên lạc giữa các thị trường đôi khi chậm chạp, nên phương trình này thỉnh thoảng chệch choạc, tạo ra sự không ăn khớp giữa các mức giá khác nhau. Ví dụ, bằng cách mua và bán những quyền chọn trong một giao dịch và mua bán cổ phiếu trong một giao dịch khác, một tay giao dịch tinh ranh có thể bỏ túi khoản chênh lệch. Trên lý thuyết, kỹ thuật này gần như không có rủi ro. Không vay mượn tiền và đòi hỏi vốn tương đối ít, và phần lớn các thương vị được khớp trước cuối ngày, đồng nghĩa với việc bạn không phải lo lắng đến phát bệnh về khả năng thị trường lao dốc chỉ sau một đêm. Chiến lược này sẽ trở nên lỗi thời khi công nghệ phát triển, nhưng vào đầu những năm 1980, đấy quả là trò hái tiền trên cây - và những tay giao dịch ở Gruntal tận hưởng những vụ mùa bội thu. Suốt ngày, Aizer và những giao dịch viên của ông so sánh giá các chứng khoán với định giá của chúng trên thị trường quyền chọn, hối hả thực hiện giao dịch ngay khi phát hiện có sự không nhất quán. “Bạn có thể có cổ phiếu IBM giao dịch với giá 100 đô la ở Sở Giao dịch Chứng khoán New York,” theo lời của Helen Clarke, từng làm thư ký cho Aizer vào đầu những năm 1980, “và các quyền chọn tương đương với cổ phiếu IBM ở giá giao dịch 100 đô la được bán với giá 99 đô la ở Chicago, vậy là bạn sẽ chạy tới Chicago để mua và bán nó ở NYSE.[24] Nếu làm đủ nhiều, khoản chênh lệch sẽ tăng lên. Không có những phần mềm tính toán trên máy tính, những người giao dịch phải ghi nhớ mọi thứ trong đầu. Aizer thiết lập một hệ thống đòi hỏi tư duy tối thiểu. Ta không cần phải giỏi, ông hay nói thế, ta chỉ cần làm theo công thức. Đó là một công việc tẻ ngắt. Một con khỉ được huấn luyện cũng biết làm. Vào ngày đầu tiên của Cohen, anh chứng kiến Aizer làm việc với một trợ lý giao dịch, sục sạo thị trường để tìm kiếm những khoản chênh lệch 0,25 hay 0,5 đô la mà họ có thể thu lợi bởi những chương trình quyền chọn ngớ ngẩn. Sau một lúc thẫn người, anh nhìn chằm chằm vào các màn hình thể hiện thị trường. Rồi Cohen tuyên bố anh đang xem xét một cổ phiếu, ABC. “Tôi nghĩ nó sẽ mở phiên ngày mai cao hơn,” anh nói. Dù hoàn toàn mới mẻ với công việc này, Cohen tự tin vào khả năng của mình trong vai trò người giao dịch. Aizer cười khẩy. “Được rồi,” ông nói, tò mò muốn xem cậu nhóc mới với mái tóc nâu bù xù và cặp kính này có hiểu mình đang làm gì không. “Thử xem, mua đi.” Cohen kiếm được 4.000 đô la chiều hôm đó, và 4.000 đô la nữa sau một đêm; vào năm 1978, đó là một khoản lợi nhuận đáng kể. Chứng kiến giá dao động như một đồ thị hình sin, đặt cược, chấp nhận rủi ro, nhận phần thưởng - cơ thể anh tràn ngập adrenaline, và Cohen hoàn toàn mê đắm. Giao dịch chứng khoán là tất cả những gì anh muốn làm. Aizer sửng sốt. Làm sao một người thiếu kinh nghiệm, một người thậm chí không thèm là áo sơ-mi của mình, lại có thể giỏi phán đoán chứng khoán tăng hay giảm như thế? “Tôi biết anh ta sẽ nổi tiếng chỉ trong một tuần,” Aizer nói. “Tôi chưa bao giờ thấy một tài năng như thế. Một tài năng rọi thẳng vào mắt bạn.” °°° Vào những chiều Chủ nhật, bên trong căn nhà bốn phòng ngủ hai tầng ở Great Neck, một cậu bé đang đứng cạnh cửa sổ phòng ngủ nhìn ra ngoài, chờ âm thanh bánh xe hơi trên nhựa đường tấp vào cửa. Ngay khi chiếc Cadillac đậu lại bên ngoài, cậu lao xuống cầu thang. Cậu muốn chạy nhanh hơn anh chị em của mình để đón ông bà ngoại ngay tại ngưỡng cửa khi ông bà vừa tới. Walter và Madeline Mayer, ông bà ngoại của Steven Cohen, sống một phần nhờ vào một danh mục đầu tư dùng tiền thừa kế, và họ tới thăm cháu một hoặc hai lần mỗi tháng. Họ sống một cuộc đời dễ chịu ở Manhattan, với những nhà hàng sang trọng và những buổi trình diễn ở Broadway. Họ là đại diện của cuộc sống thoát khỏi ồn ào đầy dồi dào và hứng khởi, và khi Steven lớn lên, những chuyến thăm của họ là những thời khắc ưa thích nhất của cậu trong tuần. Họ luôn nói về tiền bạc còn Cohen cẩn thận lắng nghe những bài học trong đó, ý tưởng rằng một khi bạn có tiền, ngân hàng sẽ trả lãi cho nó, và tiền có thể được đầu tư và sẽ tăng lên, khiến nhà đầu tư ít hay không phải làm việc, và những người khác sẽ ghen tức và ngưỡng mộ nhà đầu tư đấy. Sự tự do mà ông bà ngoại cậu có được đối lập sâu sắc với cuộc sống eo hẹp và chật vật của cha mẹ Cohen. Khi cha cậu về nhà từ nơi làm việc mỗi tối, Cohen chụp lấy tờ The New York Post của cha để có thể nghiên cứu các bảng chứng khoán như ông ngoại. Sinh vào mùa hè năm 1956, Cohen là con trai thứ ba trong tám người con của Jack và Patricia Cohen. Great Neck nằm cách Thành phố New York 20 dặm[25], một khu ngoại ô sung túc của những người Do Thái đầu óc cấp tiến có công ăn việc làm tử tế, những người mong đợi con cái học hành giỏi giang và theo đuổi những sự nghiệp như bác sĩ và nha sĩ. F. Scott Fitzgerald[26] tới đây sống vào năm 1922, và khu vực này một phần đã tạo cảm hứng cho tác phẩm The Great Gatsby (Đại gia Gastby), câu chuyện xảy ra ở khu “West Egg” tưởng tượng được dựa trên Kings Point, điểm cực Bắc của Great Neck trên Long Island Sound. Nhiều ông bố ở Great Neck tách biệt hai cuộc sống ở Long Island và Manhattan, vốn bao gồm rất nhiều bữa chè chén và những chuyến đi làm mỗi ngày rất xa, cách nhà họ nhiều tiếng đồng hồ. Ở đó có những giáo đường Do Thái và trường học tốt cùng các khu bất động sản lớn. Ở Great Neck, gia đình Cohen thuộc nhóm dưới về tài chính, và Steve ý thức được điều này từ nhỏ. Vào lúc mà quận Garment vẫn còn sản xuất đồ dệt may, cha của Cohen, Jack, đi xe lửa mỗi sáng tới một trong những phòng trưng bày hàng của ông ở Manhattan, nơi ông điều hành một doanh nghiệp mang tên Minerva Fashions, may những chiếc váy giá 20 đô la cho các chuỗi bán quần áo như Macy’s và J. C. Penney. Mẹ của Cohen, Patricia - Patsy - là giáo viên dạy piano hành nghề tự do. Bà đăng quảng cáo tìm học trò trên tờ báo địa phương Pennysaver, chủ yếu cho trẻ em trong khu phố, và chỉ dạy những bài nhạc phổ biến như “Hello, Dolly!” chẳng hạn, thay vì Beethoven hay Brahms. Bà là một phụ nữ khó tính, không nhân nhượng, áp đảo trong gia đình, nổi tiếng có khiếu hài hước sắc như dao và thỉnh thoảng lại la rầy chồng: “Jackie, anh phải chơi chết tụi nó trước khi tụi nó chơi anh!” Tiền bạc là nguồn gốc của căng thẳng liên tục trong nhà Cohen. Mẹ và cha Cohen trao đổi công khai về khoản thừa kế mà họ hy vọng sẽ đến từ cha mẹ của Patsy, mà họ dự tính sẽ dùng để khiến cuộc sống của họ dễ chịu hơn. Dù còn nhỏ, Cohen là một vận động viên có tài, là tay ném của đội bóng chày, và người dẫn dắt lối chơi trong đội bóng rổ. Nhưng cha mẹ cậu không có phương tiện giúp cậu phát huy hết tiềm năng thể thao - họ không có nhiều tiền cho các bài học riêng hay không có thời gian chở cậu tới các trận đấu. Tay huấn luyện viên bóng đá ở trường cấp hai tổ chức một trại tập huấn hè bên hồ tại Maine nơi một số trẻ trong khu phố tới tham gia. Cohen đã tham gia từ năm 1968 và rất thích trại tập huấn đó. Khu trại là một thế giới đáng say mê, một nơi thật bình đẳng khi mọi đứa trẻ mặc những chiếc áo phông như nhau và ngủ trong những cabin gỗ thông nhỏ, tất cả đều bình đẳng. Không có các bậc cha mẹ ở quanh đó để cãi vã về tiền nong và ngăn cấm bọn trẻ việc này việc nọ. Tuy nhiên sau một mùa hè, cha mẹ Steve không bao giờ cho cậu quay lại; bạn cùng lớp với cậu tin rằng đó là vì họ không còn trả nổi khoản phí của khu trại. Dẫu vậy, Steve vẫn được chiều chuộng. Ông bà cậu nghĩ cậu là đứa sáng láng nhất trong tám anh em và coi cậu như “cái bút chì nhọn nhất trong hộp”, điều khiến cậu rất tự hào. Cậu đạt điểm cao mà không phải học quá nhiều. Anh trai của Cohen, Gary, nhớ rằng mẹ họ làm bít tết cho Steve trong khi những đứa trẻ khác phải hài lòng với hot dog. “Tôi thường phàn nàn,” ông nhớ lại, “và mẹ tôi nói, ‘Em trai Steve của con sẽ nuôi lại chúng ta một ngày nào đó. ‘“ Ở trường cấp ba, Cohen phát hiện ra một hoạt động ngoại khóa kích hoạt đam mê đích thực trong cậu: chơi bài poker. “Chúng tôi có một nhóm, và chúng tôi chơi bài lần lượt ở nhà từng người, cả ngày, rồi cả đêm,” Cohen nhớ lại. “Các khoản cược bắt đầu ở mức 25 xu, 50 xu. Dần dần chúng tôi tăng lên 5,10 hay 20 đô la mỗi khi thay bài, và tới lớp mười bạn có thể thắng hoặc thua 1.000 đô la mỗi tối.” Trò chơi bài đó giúp Cohen học được một bài học quan trọng về chủ nghĩa tư bản. Có những cách tương đối khó khăn để kiếm tiền, như việc sắp xếp hàng hóa ở siêu thị Bohack với mức lương 1,85 đô la một giờ mà cậu từng làm một mùa hè và thấy thật khổ sở. Và có những cách khác dễ hơn nhiều để kiếm được một đô la, như đánh bại bạn bè ở bàn poker, mà cậu rất lấy làm thích thú. Cohen sẽ chệnh choạng về nhà vào sáng sớm với một đống tiền mặt, nhớ trả lại chìa khóa xe cho cha đúng giờ để ông đi làm. Chứng kiến cha chật vật tới chỗ làm mỗi ngày, Cohen chỉ có một suy nghĩ: Đó không thể là cuộc đời mình. °°° Cohen được nhận vào Trường Wharton, và cha mẹ cậu vui mừng hết sức. Họ đã thừa kế một ít tiền từ cha mẹ Jack, giúp họ thoát được gánh nặng vay nợ cho con học hành, dù Steve vẫn phải làm việc để kiếm tiền mua sách và đi chơi. Ngay khi tới khu học xá, anh đã thấy bãi đậu xe đầy những chiếc BMW và Mercedes của bạn học. Một lần nữa, Cohen ở trong một môi trường mà hầu hết mọi người xung quanh tới từ những gia đình giàu có hơn và anh bị gạt ra ngoài những nhóm thượng lưu nhất. Ngôi nhà trụ sở hội huynh đệ trở thành trung tâm đời sống của anh. Văn hóa ở Wharton được thúc đẩy bởi sự sùng bái tiền bạc. Hội huynh đệ của Cohen, tên là Zeta Beta Tau hay ZBT, là hội giàu hơn trong hai hội huynh đệ Do Thái của khu học xá. Biệt danh của nó là “Zillions Billions Trillions”[27]. Hầu hết các buổi tối, Cohen ở trong phòng khách của ZBT, nơi đã được biến thành một sòng bài, với hàng chục gã vây quanh chiếc bàn. Ở trung tâm của bàn là Cohen, dẫn dắt cuộc chơi, vô cùng tập trung giữa đám mây mù khói thuốc và những chai bia kêu loảng xoảng. Anh thuộc nhóm chủ chốt gồm năm hoặc sáu gã thống trị ở bàn, trong khi một nhóm những kẻ thua cuộc thay phiên nhau ngồi lên những chiếc ghế còn lại. Một buổi tối năm 1976, một sinh viên có học chung môn với Cohen đang ngồi đối diện với anh, mồ hôi ướt đẫm lưng anh. Cohen đùa cợt và cười nhăn nhở. Anh nổi tiếng là bậc thầy của trò dụ rắn, chuyên tách tài sản thừa kế ra khỏi lũ bạn học. Anh không phải loại trai ngầu và được đám phụ nữ chú ý, nhưng lại giành được sự tôn trọng từ đám con trai cùng lớp vốn là con của những gia đình đóng góp các quỹ tín thác cho trường. Các khoản cược trong những ván bài đó lên tới hàng trăm đô la, mà đối thủ của Cohen, một tay chơi không thường xuyên lắm, thấy hơi quá nhiều cho một cuộc chơi chỉ gồm toàn sinh viên đại học. Người bạn học của Cohen nuốt nước bọt khó khăn và chờ đợi một thất bại nữa. Cohen thắng vài nghìn đô la từ anh ta trong cả học kỳ này, và mỗi lần thua, anh chàng bạn học lại thề sẽ không để điều đó lặp lại. Trong khi nhiều người trong hội huynh đệ thức khuya để phê cần hay uống bia, Cohen dậy sớm mỗi sáng để đọc báo The Wall Street Journal. Anh theo dõi cẩn thận thị trường chứng khoán, nhưng anh coi bản thân trường học là sự lãng phí thời gian. Một ngày, trong một kỳ thi thống kê, khi những người khác trong lớp đang vất vả với bài kiểm tra, Cohen đứng lên và đi ra khỏi cửa trước khi làm xong bài để kiểm tra giá chứng khoán lúc sàn đóng cửa. Anh nghĩ mình không có cơ hội nào cạnh tranh với những đứa trẻ được học ở các trường cấp ba hàng đầu vốn nói cùng một kiểu ngôn ngữ, và tất cả bọn chúng cùng đọc những cuốn sách như nhau. Anh sẽ phải thông minh hơn chúng. Khi không có giờ học, Cohen mặc chiếc áo phông lang thang trên sàn chứng khoán Philadelphia - Baltimore - Washington, tới gần những người giao dịch và quấy nhiễu họ với những bình luận kiểu như: “Này, bảng theo dõi số liệu của anh tắt rồi kìa.” Anh bắt đầu bỏ học để tới văn phòng của Merrill Lynch ở Philadelphia, nơi anh có thể xem các chỉ số NYSE. “Tôi chỉ đứng đó và nhìn chằm chằm,” anh nói. “Tôi có thể nghe thấy tiếng tích tích tích của các chỉ số, và có thể nhìn thấy chúng chạy lướt qua, giả sử 50…50…50… Và rồi chúng có thể tăng hoặc giảm sau một tiếng tích. Ta có thể nhìn thấy việc giao dịch đang diễn ra. Ta có thể xem giao dịch diễn ra như trong phim quay chậm. Và sau đó, không phải ngay lập tức, tôi nhận ra mình khá giỏi trong việc đoán những con số đi theo hướng nào.” Xung quanh anh, Cohen thấy nhiều người không tài năng bằng nhưng vẫn thành công. Tiếng tích tích tích đó của cuộn băng ghi số liệu trở thành chìa khóa cho tương lai mà anh thấy mình xứng đáng. °°° Elaine’s là một nhà hàng vách làm bằng gỗ sồi, đầy khói, thu hút các nghệ sĩ và giới kịch nghệ ở khu Upper East Side, và Cohen đang ở quầy bar, nhấm nháp đồ uống. Anh đang một mình đúng vào dịp sinh nhật. Anh không có nhiều bạn. Mưa xối xả trên con đường bên ngoài. Bấy giờ là tháng Sáu năm 1979, và Cohen đã mệt nhoài sau một ngày ở sàn giao dịch của Gruntal, nơi suốt ngày người ta hét lên “Stevie!” với anh. Biệt danh đó khiến anh khó chịu. Aizer đã dùng cái tên “Stevie” để phân biệt Steve Cohen và Steve Ginsberg, anh trai của Kenny Ginsberg, bạn thân nhất của Cohen ở trường cấp ba, người mới bắt đầu làm việc cùng họ. Phòng nghiệp vụ nhỏ bé của Aizer đã trở thành một trung tâm lợi nhuận quan trọng tại Gruntal, và họ được trao rất nhiều quyền tự do bởi Howard Silverman, CEO của Gruntal, rất quý mến Cohen. Silverman lái xe hơi thể thao, nói chuyện cao ngạo và đầy tham vọng, và thích những người chia sẻ các giá trị của ông. Ông có thể thấy sự thèm khát của Cohen, và ông muốn có những gã như thế ở bên. Trong năm trước đó, Cohen bắt đầu kiếm ra ngày càng nhiều tiền khi giao dịch ở Gruntal, nhưng anh vẫn thấy bất mãn về mặt xã hội, mãi mãi thất vọng vì cảm thấy thiếu đi sự công nhận mà mình đáng được nhận. Anh không nhiều bạn bè. Nhà hàng Elaine’s thật đông đúc và Cohen nhìn quanh, ngẫm nghĩ về thực tế rằng anh giờ đã 23 tuổi và độc thân, bỗng có người khiến anh chú ý. Một phụ nữ vừa bước vào, người ướt sũng, mặc một chiếc áo hai dây màu trắng và cái váy lụa ướt dính sát đùi. Cohen nhìn cô chằm chằm. Người phụ nữ nhìn quanh lo lắng và vuốt mái tóc ướt. Cô định gặp một người bạn gái để ăn tối. Đó là kiểu mưa rào ở Manhattan khiến việc tìm được một chiếc taxi là bất khả, nên bạn cô tới muộn. Cô quanh quẩn ở quầy bar và nhìn ra cửa, ánh mắt hướng xuống để tránh ánh nhìn của những gã đàn ông đang ngắm nghía cô từ mọi phía trong nhà hàng, một chiến thuật sinh tồn ở Thành phố New York mà cô đã học được một cách tự nhiên. Có lúc, cô để ý Cohen nhìn về phía cô và quay đi làm sao để mặt cô hướng về nơi khác. Cohen theo dõi cô vài phút trước khi lấy đủ cản đảm để tiếp cận cô. “Xin chào,” anh nói, bước tới rụt rè bẽn lẽn. Anh cố nở nụ cười. “Xin chào,” cô nói, và nhìn anh hơi giễu cợt. Gã này là ai nhỉ? Cô tự nhủ. Tên cô là Patricia Finke. Cô thường không bao giờ để ý tới một người như Cohen, trông vốn quá bảo thủ, quá giống kiểu doanh nhân. Cô đã lớn lên trong một gia đình làm nghệ thuật ở Manhattan và được nuôi dạy với thái độ hợm hĩnh đối với dân ngoại ô. Trong những hoàn cảnh khác cô hẳn đã phớt lờ anh hoàn toàn. Nhưng anh ta có vẻ vô hại qua cái áo sơ - mi nhăn nhúm và đôi giày lạc mốt, và có vẻ bị cô quyến rũ. Anh lộ ra khí chất dễ bị tổn thương nhưng cũng đầy lôi cuốn. Mới đầu, Cohen cố gây ấn tượng với Patricia bằng những câu chuyện về việc anh đánh bạc toàn bộ khoản tiền ở lễ bar mitzvah[28] của mình ở thị trường chứng khoán khi còn là một đứa trẻ; việc sếp anh ở Gruntal lo ngại với những rủi ro lớn mà anh chấp nhận trong các giao dịch của mình; và việc mọi người ở chỗ làm nghĩ anh quá kiêu căng ra sao. “Họ nghĩ tôi là một gã cao bồi,” anh nói. Suốt hồi lâu, Patricia cứ nhìn qua vai anh, ngóng bạn mình. Nhưng dần dần, trái với bản năng khá mạnh của cô, Patricia bị cuốn vào câu chuyện. Cô và Cohen rốt cuộc đã trò chuyện nhiều giờ liền. Trước khi ra về tối hôm đó, Cohen đã thuyết phục được Patricia cho anh số điện thoại. Anh dành vài tuần sau đó đeo đuổi cô, gọi cho cô ba lần một ngày, hỏi xem khi nào họ sẽ lại gặp nhau. Họ hẹn hò với nhau suốt vài tháng tiếp sau đó. Vài bạn bè của Patricia không thể hiểu nổi cô đang làm gì với Cohen, người có vẻ là một kẻ thiếu tinh tế và bị tiền bạc ám ảnh, đến từ Long Island. Nhưng Patricia lớn lên trong cảnh không tiền bạc, và cô chưa học hết cấp ba. Cô biết việc phải lo lắng về những khoản chi tiêu của mình là thế nào. Cô tự trang trải cho bản thân bằng việc làm ở một công ty xuất bản và có một căn hộ có giá thuê bị khống chế mức trần[29] tại West Village. Cô không bất mãn, nhưng rõ ràng ham muốn giàu có của Cohen thật hấp dẫn. Cô chẳng biết chút gì về thị trường chứng khoán, nhưng anh nói không ngừng về nó, tự hào với việc anh dự định sẽ kiếm ra bao nhiêu tiền. Anh nói rằng anh sẽ chăm sóc cho cô. Cohen, về phần mình, chẳng có gì nhiều nhặn hơn trong đời. Anh sống trong căn hộ một phòng ngủ nơi hầu hết các bóng đèn đã cháy. Anh dành phần lớn thời gian rỗi một mình. Anh muốn một cô vợ. Anh quan tâm tới Patricia, và anh bắt đầu đề nghị họ kết hôn. Patricia rốt cuộc đã đồng ý. Sau đó họ cưới rồi mới thông báo cho cha mẹ. Nhưng thật ra đó là một đám cưới nhỏ xíu, với chỉ hai khách mời, phù dâu của Patricia và phù rể của Cohen, tại một nhà thờ Nhất thần phổ cứu[30] ở Murray Hill, một khu yên tĩnh ở trung tâm Manhattan. Không lâu sau đó, năm 1981, đứa con đầu lòng của họ, Jessica Lynn, ra đời. Cuối cùng, Cohen đã có gia đình riêng của mình. °°° “Nhấc cái điện thoại chó chết lên đi!” Ron Aizer quát. Đó là một buổi sáng điển hình ở sàn giao dịch của Gruntal, khi những nhân viên giao dịch của Aizer đang gõ bàn phím. Thường thì khi điện thoại reo, tất cả mọi người sẽ đợi xem ai là người đầu tiên thấy phiền không chịu nổi và nhấc máy lên nghe. Một trong những tay trợ tá giao dịch, đang cố điền các phiếu giao dịch được trải ra khắp mặt bàn, nhìn quanh nhưng không có cái điện thoại nào rỗi trong tầm tay. “Tôi không có điện thoại!” anh ta hét. Chuông điện thoại tiếp tục reo. Cohen, đang cố gắng thực hiện một giao dịch, gỡ điện thoại của chính anh ra khỏi tường và đập sầm nó xuống bàn của tay trợ tá giao dịch. “Anh muốn điện thoại hả? Cái điện thoại chó chết của anh đây!” Trong vài giây, họ đứng mặt đối mặt, chỉ cách nhau vài inch. “Thằng chó, mày nghĩ mày đang làm gì hả?” “Đồ khốn!” Vài phút sau, mọi người đã lại là bạn như cũ. Mọi chuyện diễn ra như thế mỗi ngày. Việc của Aizer là quản lý sự căng thẳng và khiến những tay giao dịch viên của ông làm việc năng suất và bận rộn. Ông chia các chứng khoán Dow Jones ra cho họ, thường để lại những cổ phiếu lớn nhất với dao động giá cả mạnh nhất, như IBM và Eastman Kodak và Honeywell, cho chính ông. Nếu không có ai giao dịch thường xuyên một chứng khoán cụ thể nào, bất cứ ai trong số các tay giao dịch cũng có thể nhận chứng khoán đó cho tới khi nó trở thành của họ. Phần lớn thời gian, mọi người tôn trọng những sự phân chia này. Mọi người, trừ Cohen. Một ngày, một tay môi giới tới gặp Aizer để than phiền về Mesa Petroleum, một trong số chứng khoán anh ta phụ trách. Mesa là một công ty mà giá chứng khoán dao động mạnh, với những cú tăng giảm rất lớn tạo ra cơ hội kiếm tiền khổng lồ, đồng nghĩa với việc tất cả những người khác cũng muốn giao dịch chứng khoán đó. “Mỗi lần tôi tìm cách giao dịch, Steve lại làm trước tôi,” tay giao dịch viên than phiền. “Mesa là chứng khoán tốt nhất của tôi, và anh ta đang giết tôi!” Aizer đối chất với Cohen. “Steve, anh kiếm được quá nhiều tiền, và những tay kia đang làm không tốt,” ông nói. “Anh có thực sự cần làm nốt cả Mesa không?” “Liệu đội Yankees có để Mickey Mantle là tay đập thứ tám không?”[31] Cohen đáp trả. Aizer nhún vai. Thật khó mà tranh luận với lý lẽ đó. Cohen đã làm tốt tới mức anh trở nên ngoại lệ với bất cứ quy định nào. Aizer đã thương lượng để giữ lại 50% lợi nhuận mà nhóm của ông kiếm được, tức hàng triệu đô la mỗi tháng. Họ đã chuyển sang một văn phòng lớn hơn gần với sàn giao dịch của Gruntal để có chỗ cho tất cả các tay môi giới mới được tuyển dụng. Nhiều người tới từ Drexel Bumham Lambert, nơi Michael Milken làm việc, vốn nổi tiếng là nơi huấn luyện những tay giao dịch xông xáo. Nhưng ngay cả ở nơi rộng rãi hơn, vẫn có một nhóm đông những gã đàn ông với tính cách dễ bùng nổ chèn ép nhau sít sao đến mức thực tế họ phải chồng chất lên nhau. Cohen và những nhân viên khác của Aizer đã lựa chọn được thời điểm không thể thuận lợi hơn để khởi nghiệp trong lĩnh vực tài chính. Các chính sách ủng hộ doanh nghiệp của Ronald Reagan[32] đã lắp động cơ phản lực cho Phố Wall và những tay môi giới cùng những kẻ chuyên thâu tóm đầy rẫy ở đó. Quy định được nới lỏng, giải phóng cho các công ty vay tiền và mua lại đối thủ của họ, và thị trường chứng khoán khởi đầu một trong những thời kỳ tăng giá dài nhất trong lịch sử. Tốc độ của những cuộc sáp nhập và thâu tóm tăng lên, được tiếp sức bởi đế chế của Milken ở Drexel Bumham Lambert, vốn đã tạo ra một cách thức mới để đầu tư nhắm vào những vụ mua lại doanh nghiệp thông qua các khoản nợ lãi suất cao, còn được gọi là trái phiếu siêu lãi[33]- vốn được xếp “hạng đầu tư thấp” theo các hãng đánh giá tín dụng vì chúng rủi ro hơn so với các trái phiếu khác. Với những công cụ mới này, các công ty không thể mượn tiền bỗng nhiên có thể phát hành trái phiếu lãi suất cao, điều đem cho họ nguồn lực tài chính để thực hiện các cuộc thâu tóm mang tính thôn tính với đối thủ của họ. Mỗi ngày, những tin đồn về các vụ mua thôn tính bằng tiền đi vay khiến cổ phiếu các công ty tăng giá mạnh, giúp những tay giao dịch kiếm về hàng triệu đô la nhờ mua và bán những cổ phiếu đó. Thành công làm Cohen nhanh chóng trở nên táo gan. Anh bắt đầu mua bán chứng khoán mỗi ngày và xây dựng các thương vị của mình quanh những sự kiện như các vụ mua thôn tính và chào bán lần đầu ra công chúng, sử dụng bản năng cảm nhận thị trường của mình với những chuyển biến đang diễn ra trong ngành. “Anh ta là tay giao dịch giỏi nhất tôi từng gặp - đơn giản là xuất sắc hơn hẳn bất kỳ ai khác,” thư ký của Aizer, Helen Clarke, nói. “Anh ta có khả năng bám chắc một thương vị mà không lung lạc. Đôi khi bạn có thể ở một thương vị nào đó, và có người trượt phải vỏ chuối ở Pakistan, rồi bỗng nhiên tất cả mọi thứ thay đổi. Anh ta thì không bao giờ từ bỏ thương vị của mình chỉ vì lo lắng.” Không hẳn là Cohen quá thông minh hơn so với những tay giao dịch khác, nhưng anh tin tưởng ở bản năng của mình và hành động nhanh. “Anh ta có tài năng bẩm sinh,” Silverman, CEO của Gruntal, nhớ lại, mô tả kỹ năng của Cohen là “người đọc băng số liệu”, tức là người có cảm nhận mang tính trực giác với cung và cầu trên thị trường, trực giác có được nhờ việc xem những đoạn băng ghi thành phiếu[34], thể hiện những giao dịch vừa được hoàn tất. “Anh ta thật sự xuất sắc.” Cohen đã trở thành một ngôi sao ở Gruntal, người không thể bị sa thải dù cho anh có vượt qua bao nhiêu giới hạn rủi ro hay bao nhiêu phẫn nộ mà anh tạo ra mỗi khi vi phạm những giới hạn đó. Cohen biết anh thường đúng hơn là sai về giá một chứng khoán cụ thể. Anh đã từ bỏ chiến lược quyền chọn không rủi ro của Aizer và không phòng hộ cho các thương vị của mình nữa, khiến chúng vừa rủi ro hơn, và thường là, vừa có lợi nhuận cao hơn. Không lâu sau, Cohen đã kiếm được từ 5 tới 10 triệu đô la mỗi năm. Tuy nhiên, điều lạ lùng là trong khi tiền bạc tiếp sức cho sự tự tin của anh trên sàn giao dịch, nó không giúp ích gì nhiều cho đời sống riêng tư. Anh sẽ về nhà từ nơi làm việc trong tình trạng cáu bẳn, rồi anh và Patricia sẽ cãi nhau. Anh là một ông bố không biết quan tâm. Anh và vợ cảm thấy bối rối trong những bối cảnh xã hội xa hoa mà giờ sự giàu có giúp họ tiếp cận. Anh không ngớt than phiền với Patricia rằng mọi người tìm cách lợi dụng anh, tính toán lại mỗi giao dịch mà anh thực hiện ngày hôm đó, việc anh đã bị chơi khăm bởi một số chuyên gia ở sàn giao dịch ra sao, hay một tay môi giới đã lừa anh liên quan tới một phần tư điểm của một cổ phiếu thế nào. Cảm nhận rằng tất cả mọi người đều tìm cách lợi dụng mình không phải hoàn toàn do Cohen tưởng tượng; đó một phần là kết quả từ cấu trúc của ngành này. Ở Phố Wall, một tay giao dịch ở một công ty nhỏ như Cohen cạnh tranh với những ngân hàng và các công ty môi giới đầy những con cá mập mặc áo cổ cồn. Suốt ngày, các tay giao dịch ở những công ty lớn hơn nhiều so với Gruntal sẽ gọi cho Cohen, cố bán cho anh những gói chứng khoán ở mức giá mà họ đã định. Điều khiến Cohen phát điên là họ nghĩ anh sẽ đồng ý với bất cứ giao dịch nào mà họ đề xuất. “Tôi có thể cho bạn biết điều gì khiến anh ta phải suy nghĩ, một tình huống điển hình,” một đồng nghiệp cũ của anh kể. “Goldman Sachs sẽ gọi và nói, ‘Chúng tôi đề nghị bán 100.000 cổ phiếu với giá 90 đô la,’ và người ta cho rằng anh ở phía bên kia,” tức là sẽ mua một số cổ phiếu mà họ đang bán. Tuy nhiên, trong gần như mọi trường hợp, một người mua trong vị thế của Cohen biết rằng nếu đứng ở phía ngược lại với giao địch mà Goldman đề nghị, anh ta sẽ nhận được một thỏa thuận tồi tệ. Điều này giống như đặt cược trong một sòng bạc ở Las Vegas - nhà cái luôn có lợi thế. Cohen không muốn trở thành người giúp cho người khác giàu có. Anh muốn biết tại sao Goldman có vẻ luôn có tin tức tốt hơn tất cả mọi người khác. Thay vì bị lợi dụng bởi bọn tay to như Goldman và Morgan, anh muốn cạnh tranh với họ. Nên khi Goldman Sachs gọi, anh nói rõ là anh sẽ không làm bất cứ gì họ muốn. Anh muốn những giao dịch tốt nhất của họ, những mức giá tốt nhất, những thông tin mà họ chỉ giữ cho riêng họ. °°° Tới giữa những năm 1980, Cohen đã kiếm được tiền hoa hồng trong các giao dịch nhiều tới mức Goldman và các công ty lớn khác không còn lựa chọn nào ngoài việc cố gắng hợp tác với anh. Cuối cùng, anh đã bắt đầu nhận được chút tôn trọng. Khi vị thế của anh ở Phố Wall tăng lên, Cohen nhận ra anh còn có thể kiếm được nhiều tiền hơn nữa bằng cách bỏ Aizer lại và tự mình làm. Anh tự thấy mình có định mệnh đạt được những điều lớn lao hơn Aizer. Năm 1985, Cohen thương lượng một thỏa thuận với Gruntal đưa anh lên vai trò dẫn dắt nhóm giao dịch riêng, trao cho anh quyền tuyển dụng và sa thải các giao dịch viên và thương lượng trực tiếp các khoản lương thưởng với họ, loại Aizer ra hoàn toàn. Vị thế của Cohen khi là giao dịch viên mang về nhiều tiền nhất ở Gruntal cho phép anh thương lượng phần chia lợi nhuận chưa từng có tiền lệ lên tới 60%, cộng thêm từ 2 tới 4% “thưởng thêm” vào mỗi cuối năm, tùy thuộc vào anh làm tốt tới đâu. Điều này đưa Cohen một bước gần hơn tới giấc mơ của mình - điều hành quỹ riêng - và giữ lại cho riêng mình tất cả tiền bạc mà anh kiếm được. Howard Silverman lấy 8 tới 10 triệu đô la từ vốn của công ty để đầu tư và chuyển Cohen tới một văn phòng lớn hơn ở tầng hai mươi ba của tòa nhà, nơi Cohen lắp cả một khu chơi bóng rổ, biểu tượng cho sự độc lập của anh. Bạn thân nhất của Cohen, Jay Goldman, học trường Wharton, biệt danh là “J-Bird” đã tới làm việc cùng và ngồi gần Cohen ở bàn giao dịch. Em trai của Cohen, Donald, một kế toán viên, được tuyển dụng để kiểm tra hồ sơ giao dịch của Cohen và giúp anh quản lý mảng hành chính. Thầy dạy golf của Cohen phụ trách việc văn phòng. Một trợ lý điền các phiếu giao dịch cho anh. Việc Cohen từ chối tự viết phiếu giao dịch mà các hãng môi giới cần để cân đối các giao dịch của họ mỗi ngày, điều khiến anh suýt bị sa thải vài lần trước đó. Sao lại bận lòng với những thứ như thế khi anh có thể kiếm được tiền bằng giao dịch? Giờ anh đã nắm quyền, tính khí thất thường và sự cáu kỉnh của anh trở nên rõ ràng hơn. Anh giữ cho căn phòng ở nhiệt độ lạnh gần như Bắc Cực, anh nghĩ việc này giúp anh suy nghĩ sáng suốt hơn, và anh không điều chỉnh nhiệt độ vì bất kỳ ai. Em gái Wendy của anh, được thuê làm giao dịch viên, ngồi run lẩy bẩy ở góc phòng với một cái lò sưởi xách tay dưới gầm bàn. Một hôm Cohen lao vào phòng và xé tan toàn bộ thảm cùng miếng dán tường vì chúng làm anh phân tâm. Nhóm của anh là một tập hợp những tính cách lạ lùng, chủ yếu xuất thân từ gốc gác cũ của anh như trường Wharton hay Great Neck. Ở mặt bên kia của bức tường kính, nhóm quyền chọn của Aizer tiếp tục vài năm nữa, rồi bị dẹp. Những giao dịch không rủi ro của Aizer đã biến mất khi thị trường trở nên tinh vi hơn. Aizer không thích sự thay đổi trong ngành giao dịch, nên ông chuyển tới Florida. Cohen và người đỡ đầu đã cho anh công việc đầu tiên ở Phố Wall không bao giờ nói chuyện với nhau nữa. °°° Bắt đầu từ giữa những năm 1980, thị trường chứng khoán Mỹ bị thống trị bởi những vụ sáp nhập và thâu tóm. Mỗi ngày, giá cổ phiếu của các công ty lớn như Carnation, Union Carbide và Diamond Shamrock dao động dữ dội khi tin đồn về các vụ mua lại lan khắp Phố Wall. Giống như hầu hết mọi người trên các sàn giao dịch lúc đó, Cohen mắc kẹt trong những tin đồn. Anh rất khó khăn mới thoát khỏi được bàn làm việc của mình. Theo một tay giao dịch từng làm việc cho Cohen, anh suýt nữa đã bỏ lỡ thời điểm cậu con trai Robert ra đời vì mải nghe điện thoại trong bệnh viện, ra lệnh giao dịch cho Schlumberger trong lúc Patricia gào thét vì đau đớn khi sinh nở ngay sau lưng. “Việc của chúng tôi là chơi chúng,” tay giao dịch viên cũ nói. “Trời ạ, cứ mua thôi. Đó là một cơn cuồng mua cổ phiếu, và mọi tin đồn đều đúng.” Cohen rất thích tham gia vào những cuộc tán gẫu liên quan tới thị trường khi anh theo dõi màn hình của mình, trao đổi các ý tưởng về cổ phiếu với đám bạn. Anh cũng có thói quen chia sẻ các ý tưởng về cổ phiếu với em trai Donald, người quản lý sổ sách giao dịch của Cohen ở văn phòng Miami. Một buổi sáng tháng Mười hai năm 1985, Cohen gọi Donald và khuyên anh mua những cổ phiếu của RCA, công ty mẹ của mạng truyền hình NBC. “Anh nghe sẽ có tái cấu trúc ở đó,” Cohen nói. “Những cổ phiếu truyền hình này khá nóng.” Sau đó Cohen nói thêm, “Nếu NBC chia tách, nó có thể tăng tới 20 điểm.” Sau khi nghiên cứu biểu đồ cổ phiếu của RCA trong dịp cuối tuần và xem lại một vài số cũ tờ Forbes, Donald đã mua hai mươi quyền chọn mua vào tháng Ba trong tài khoản giao dịch cá nhân của anh ở Fidelity. Nó cho anh quyền mua lại chứng khoán RCA ba tháng sau đó với giá 50 đô la, một vụ đánh cược táo bạo vào khả năng giá chứng khoán này sẽ tăng. Cohen đã thực hiện một vụ đầu tư tương tự với tài khoản của chính anh. Patricia sau này kể lại là anh đã nói với mọi người rằng một người bạn cùng lớp tại Wharton đã cho anh biết về đề nghị thâu tóm sắp được đưa ra với công ty. Động thái này với chứng khoán của RCA trông giống như đường chân trời của dãy Andes, một đường dích dắc tăng vọt đầy kịch tính khi giới đầu tư tiếp tục mua thêm nhiều cổ phiếu hơn nữa trước những tin đồn về vụ thâu tóm. Sáu ngày sau cuộc trao đổi với Donald, General Electric công bố vụ mua lại đài truyền hình này với giá 66,5 đô la một cổ phần, khiến cho giá cổ phiếu của hãng lại càng tăng mạnh. Cohen đã kiếm được 20 triệu đô la lợi nhuận trong giao dịch này. Ba tháng sau, một phong bì từ SEC gửi tới văn phòng tư vấn luật của Gruntal. Trong phong bì là một trát của tòa. Cơ quan này đã tiến hành một cuộc điều tra với khả năng giao dịch nội gián trong RCA trước vụ thâu tóm. Giới chức quản lý có vẻ thấy rõ là qua các hoạt động với cổ phiếu này, một số tay giao dịch trên thị trường đã biết trước về thỏa thuận. SEC muốn Cohen tới và lấy lời khai. Thật ra, cơ quan này cũng đang theo dõi vài cổ phiếu khác nữa: Warner Communications, General Foods và Union Carbide, tất cả gần đây đều là những mục tiêu của đề nghị mua lại. Giao dịch dựa trên thông tin chưa được công khai bị tiết lộ ra ngoài bởi một người bên trong công ty lẽ ra phải giữ bí mật những thông tin đó là vi phạm pháp luật về chứng khoán. SEC lưu ý rằng một nhóm người có liên hệ với Cohen đã mua gom cả ba chứng khoán này, cũng như của RCA, ngay trước những công bố ra công chúng khiến cho giá tăng cao hơn. Cơ quan này nghi ngờ có thể đã có cả một đường dây giao dịch nội gián. Donald cũng nhận trát tòa. Cố gắng trấn tĩnh, anh gọi cho Steve hỏi xem chuyện gì đang xảy ra. “Đừng lo,” Cohen trấn an anh. “Mọi người mua RCA ở thời điểm đó đều bị hỏi.” Tuy nhiên, trong sâu xa, Cohen thực sự hoảng loạn. Nhiều ngày trước đó, anh và những người giao dịch của mình đều đã chứng kiến trong kinh hoàng khi tay chủ ngân hàng chuyên phụ trách sáp nhập và thâu tóm chính của Drexel, Dennis Levine, bị bắt và bị cáo buộc đã tổ chức một vụ giao dịch nội gián lớn bằng cách chi tiền cho các luật sư và nhân viên ngân hàng nhằm rò rỉ cho ông thông tin về các vụ sáp nhập và những thương vụ khác. Vụ bắt giữ Levine chỉ là khởi đầu cho cả cuộc bóc dỡ đế chế trái phiếu siêu lãi của Michael Milken, hàng loạt những vụ truy tố chưa từng có tiền lệ sẽ chiếm lĩnh các bản tin trong nhiều tháng liền. SEC cáo buộc Levine đã thu lợi bất chính 12,6 triệu đô la và phong tỏa tất cả các tài khoản của ông, khiến ông không thể trả được chi phí pháp lý. Vào khoảng 6 giờ tối ngày 5 tháng Sáu năm 1986, cùng ngày Levine nhận tội với các tội danh trốn thuế, lừa đảo chứng khoán và bội ước, đồng thời chấp thuận hỗ trợ Bộ Tư pháp cung cấp bằng chứng chống lại những kẻ phạm tội khác ở Phố Wall, Cohen, tới số 26 Federal Plaza, ở giao lộ Broadway và đường Worth, mặc bộ vest đẹp nhất của mình. Anh sắp sửa bị hỏi cung trong cuộc điều tra RCA. Gruntal đã sắp xếp người đại diện của Cohen là Otto Obermaier, một cựu luật sư trưởng chuyên phụ trách các phiên tòa của SEC với thú vui là rượu vang đắt tiền và nhạc Mozart. Obermaier là một trong những luật sư bào chữa tài năng và có quan hệ rộng nhất trong lĩnh vực này, và ông sắp sửa khẳng định uy tín đó của mình. Một công tố viên của SEC và một nhà phân tích tài chính đánh giá các dữ liệu giao dịch cho bộ phận chấp pháp của cơ quan này đang đợi Cohen trong phòng họp. Sau vài câu chào hỏi vụng về, tay công tố viên bắt đầu các thủ tục chính thức. “Đây là cuộc điều tra của ủy ban Chứng khoán và Sàn Giao dịch Mỹ ‘Về việc giao dịch các chứng khoán của Công ty RCA’,” tay công tố viên nói. “Chúng tôi có mặt ở đây để nghe điều trần về vấn đề này nhằm xác định có hay không những vi phạm một số điều khoản nhất định trong luật chứng khoán liên bang.” Tay công tố viên yêu cầu Cohen giơ tay phải lên. Cohen làm theo, và anh tuyên thệ. Tay công tố viên sau đó quay sang Cohen, tự giới thiệu mình và cộng sự, rồi hỏi: “Anh đã xem trát tòa chưa?” “Ông ấy đã xem,” Cohen nói, làm cử chỉ về phía Obermaier. Tay công tố viên nhìn sang Obermaier, rồi quay lại Cohen. “Anh đã xem trát tòa chưa?” “Tôi không nghĩ thế,” Obermaier nói, trả lời thay cho Cohen. “Trát tòa chưa được đưa cho anh ấy.” Ủy ban đã gửi một trát tòa riêng cho Cohen yêu cầu được xem các hồ sơ giao dịch và những tài liệu khác như một phần của cuộc điều tra. Tay công tố viên nhắc tới điều đó và nhìn lại Cohen lần nữa. “Đã không có tài liệu nào được trình. Anh có định trình tài liệu nào hôm nay không?” “Không,” Obermaier nói thay cho Cohen một lần nữa. Họ không có ý định hỗ trợ, mặc dù ông không nói điều đó với các luật sư của SEC. Thay vì thế, Obermaier nói với họ rằng ông và thân chủ sẽ “từ chối đề nghị trình tài liệu” dựa trên các quyền theo hiến pháp của thân chủ. “Quyền hiến pháp nào?” tay công tố viên hỏi. “Điều khoản quy định không người nào bị bắt buộc làm chứng chống lại chính mình,” Obermaier trả lời. “Đó là ‘quyền theo Tu chính án thứ năm’,” tay công tố viên nói. Thất vọng, tay công tố viên của SEC cố gắng bắt Cohen tự trả lời câu hỏi về các tài liệu. Trong suốt cuộc hỏi cung thường xuyên diễn ra đấu tranh liên quan tới điểm này. SEC luôn có mục đích khiến cho nhân chứng thừa nhận anh ta “viện đến Tu chính án thứ năm” trong hồ sơ khi anh ta từ chối trả lời các câu hỏi của họ; việc đó sau này có thể dùng để suy đoán có tội. Lối tư duy là nếu bạn vô tội, thì tại sao bạn không sử dụng cơ hội đấy để nói tất cả với SEC? Các luật sư bào chữa cổ cồn trắng tất nhiên biết rõ chuyện này, nên việc của họ là kháng cự và cố gắng tránh để thân chủ của mình nói anh ta “viện đến Tu chính án thứ năm”, ngay cả khi anh ta thực sự viện đến Tu chính án thứ năm cũng chính vì lý do đó. Đó là một mưu mẹo pháp lý cơ bản. “Anh ta phải tự mình khẳng định quyền không trình tài liệu theo Tu chính án thứ năm,” tay công tố viên của SEC nói, cố thử lần nữa. “Tôi không nghĩ là anh ấy phải làm thế,” Obermaier đáp. Ông không có ý định để Cohen nói một lời nào. “Tôi hồi đáp với tư cách luật sư của anh ấy.” Tay công tố viên và chuyên gia phân tích tài chính liếc nhìn nhau. Obermaier nghĩ ông có thể phát hiện ra thấp thoáng trong cái nhìn đó rằng họ đã tự ngừng cuộc chơi. Họ đã thua cuộc. “Ngày sinh và nơi sinh của anh?” tay công tố viên hỏi, nhìn Cohen. Cohen nhìn Obermaier. Họ đã tập trước cho kịch bản này. “Theo lời khuyên của luật sư,” Cohen nói, “tôi từ chối một cách tôn trọng việc trả lời câu hỏi đó trên cơ sở tôi bị buộc phải trở thành một nhân chứng chống lại chính mình.” “Anh có mua chứng khoán đại diện cho Gruntal & Co. vào tháng Mười hai năm 1985 khi anh đang sở hữu các thông tin chưa được công khai liên quan tới RCA không?” “Câu trả lời tương tự,” Cohen đáp. Họ cứ nói tới nói lui như thế. Tay công tố viên hỏi thêm mấy câu nữa: Cohen có mua cổ phiếu của RCA bằng tài khoản cá nhân của anh vào tháng Mười hai năm 1985 không? Có ai nói với anh rằng RCA sẽ liên quan đến một vụ sáp nhập với General Electric trước công bố công khai không? Vào tháng Mười hai năm 1985, Cohen có khuyên bất kỳ ai mua cổ phiếu của RCA không? Mỗi lần Cohen nhắc lại cùng câu trả lời, viện tới Tu chính án thứ năm mà không cần nói ra bằng lời là anh ta sử dụng tu chính án này. Rồi tay luật sư công tố hỏi, “Anh có quen biết gì một pháp nhân tên gọi J. Goldman & Company không?” Tay công tố viên đang nói tới bạn thân của Cohen, Jay Goldman, tức “J-Bird”, người đã thành lập công ty giao dịch của riêng anh ta sau khi rời Gruntal năm trước đó. Cohen hầu như không tỏ thái độ gì. “Trả lời tương tự,” anh đáp. Cuộc hỏi cung kết thúc sau 20 phút. Đi thang máy xuống sảnh, Obermaier không thể tin nổi là mọi chuyện diễn ra không chút khúc mắc gì như thế. Ông tự tin rằng ông đã làm tốt nhất có thể để cứu thân chủ của mình khỏi bị truy tố. Tuy nhiên, Cohen bị lung lay ghê gớm sau trải nghiệm đó. Từ chối trả lời những câu hỏi trước một cơ quan công quyền thường khiến người ta thấy có vẻ tội lỗi, ngay cả khi họ không có tội. Cuộc điều tra RCA vẫn tiếp diễn. Anh cảm thấy giờ anh có nguy cơ mất kế sinh nhai. Anh trở nên cáu bẳn hơn bình thường suốt những ngày đó và hầu hết các buổi tối chỉ ở nhà, chửi bới SEC với Patricia. Một cuối tuần, anh gần như không thể ra khỏi giường. Anh kêu ca là anh đã bị truy tố một cách bất công, rằng mọi việc không đúng. Về phần Patricia, cô thấy lo lắng. Nhưng cô tin ở sự bảo đảm của chồng rằng anh không làm gì sai. Rồi một ngày, một lá thư tới căn hộ của họ từ một công ty điện thoại. Thư thông báo với nhà Cohen rằng hồ sơ ghi các điện thoại của họ đã bị Văn phòng Công tố Mỹ xem xét theo trát tòa. Đó là một dấu hiệu cho thấy có thể đang diễn ra điều tra hình sự ngoài cuộc điều tra dân sự của SEC. Patricia bắt đầu la hét khi cô đọc lá thư. Khả năng xảy ra điều tra hình sự trái ngược với tất cả những gì Cohen đã nói với cô, rằng điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là anh chỉ phải trả một khoản phạt. Một vụ truy tố hình sự sẽ dẫn tới việc phải ngồi tù. Cohen đảm bảo với cô rằng anh chỉ biết các thông tin đó một cách gián tiếp, không phải trực tiếp từ người bạn học ở Wharton đang làm việc liên quan tới thỏa thuận mà từ một người trung gian, đồng nghĩa với việc giao dịch dựa trên thông tin đó không phạm pháp. Dẫu vậy, sự không chắc chắn vẫn ảnh hưởng tới cả gia đình. Patricia và mấy đứa nhỏ co rúm người lại khi nghe tiếng chìa khóa của Cohen tra vào ổ cuối mỗi ngày. Cuộc điều tra RCA của chính quyền là nguồn gốc của những rắc rối liên tục. “Tôi chỉ là một người giao dịch chứng khoán, và tôi chỉ tình cờ mua bán loại chứng khoán đó,” Cohen than phiền với người bạn trên sân golf. “Chuyện đó đã gây ra rất nhiều vấn đề cho gia đình tôi, các con tôi và đời sống cá nhân của tôi.” °°° Vào ngày thứ Hai, 19 tháng Mười năm 1987, Cohen tới chỗ làm trước 8 giờ sáng, sớm hơn thường lệ. Anh có cảm giác thật tệ. Bất chấp sự phân tâm bởi cuộc điều tra của SEC, nhóm của Cohen tiếp tục kiếm được tiền khi thị trường, được thúc đẩy bởi hàng trăm thương vụ sáp nhập, ngày càng tăng giá. Tuy nhiên, trong vài tuần trước đó, những rạn nứt đã bắt đầu xuất hiện, một phần bởi các nhà làm luật ở Washington đang tranh luận về khả năng loại bỏ một lỗ hổng thuế với lãi suất cho những khoản vay phục vụ các cuộc sáp nhập mang tính thâu tóm. Nếu những vụ sáp nhập như thế đột ngột ngừng lại, thì đà tăng giá chứng khoán cũng vậy. Giới đầu tư đang lo lắng. Còn có những căng thẳng địa chính trị để phải lo ngại, bao gồm cuộc chiến tranh kéo dài giữa Iran và Iraq. Vào ngày thứ Năm trước đó, 15 tháng Mười, Iran đã cho nổ tung một tàu chở dầu của Mỹ gần Kuwait bằng một quả tên lửa, làm dấy lên tranh luận về việc Mỹ phải đáp trả ra sao. Chỉ số Dow[35] giảm hơn 100 điểm. Tới sáng thứ Hai, các thị trường trên toàn thế giới sụp đổ. Đó có vẻ là kết quả kết hợp giữa nỗi lo sợ về Trung Đông, giá dầu giảm, sự chấm dứt đợt bong bóng bùng phát M&A[36], những dấu hiệu của một đợt suy thoái, và các đợt bán chứng khoán điện toán hóa. Cohen biết tất cả những việc này khi anh trở lại bàn và thấy các thị trường ở nước ngoài và thị trường châu Á đang giảm điểm mạnh ra sao. Chỉ số Hong Kong đang giảm, và tất cả các biểu đồ ở châu Âu đều màu đỏ. Anh có rất nhiều thương vị ngắn hạn trong danh mục, đó là những khoản giúp cắt bớt một số khoản lỗ. Anh cố gắng tính toán xem họ sẽ mất bao nhiêu tiền khi nhìn chằm chằm vào màn hình. Khi thị trường mở cửa ở New York, anh bắt đầu bán các chứng khoán nhanh hết mức có thể. Rắc rối là ở chỗ khi tất cả mọi người đều bắt đầu làm chuyện tương tự và thị trường hoàn toàn thiếu người mua, giá chứng khoán lao dốc. Các tay môi giới lăn lộn khắp sàn NYSE, va cả vào nhau. Trong giờ đồng hồ cuối cùng của phiên giao dịch, việc bán tăng tốc, khi giới đầu tư hoảng loạn bởi ý nghĩ giữ lại các chứng khoán qua đêm. Qua diễn biến chỉ trong một ngày duy nhất, sau này sẽ được gọi là Thứ Hai Đen tối, chỉ số Công nghiệp Dow Jones Trung bình giảm 508 điểm, tức 23%, mức giảm trong một ngày lớn nhất trong lịch sử. Mười năm vay mượn không hạn chế đã chấm dứt đột ngột, đầy đau đớn. Gruntal, cùng với nhiều công ty khác, trên thực tế đã bị loại khỏi ngành. Nhóm của Cohen mất gần nửa số vốn của họ. Cả bảy tay giao dịch gần như bị các khoản thua lỗ quét sạch. Tuy nhiên, khi sự được thua về tài chính là lớn, Cohen cho thấy khả năng gần như phi thường vẫn giữ được bình tĩnh và ra các quyết định giao dịch duy lý. Vào lúc sự hoảng loạn bủa vây, anh đã nhìn thấy cơ hội. Sau khi giao dịch đóng cửa ngày hôm đó, theo một nhân viên cũ, Cohen đã quay sang những người giao dịch của anh lúc đó đang vuốt mặt và nhìn chằm chằm vào màn hình, cực sốc. “Từ nay trở đi, không ai mua bán gì cả trừ tôi,” anh nói với họ. “Tôi là người giao dịch duy nhất, và các anh là thư ký của tôi.” Không ai thật sự biết anh ta đang nói gì, nhưng họ không tranh cãi. Đó là một thời kỳ đầy lo lắng. Những khối tài sản lớn biến mất và cuộc sống của mọi người bị hủy hoại. Hai tay môi giới của họ ở những công ty bên ngoài, bao gồm Kidder, Peabody, vốn dính líu tới vụ bê bối giao dịch nội gián Drexel, đã nhảy ra khỏi cửa sổ văn phòng. Bong bóng trái phiếu lãi suất cao bắt đầu vỡ, khi các công ty đã vay mượn hàng tỉ đô la thấy rằng họ không thể trả lại. Khủng hoảng tiết kiệm và vay mượn cũng tồi tệ hơn, gây ra sự sụp đổ của hơn một nghìn ngân hàng trên cả nước. Phố Wall trong cơn khủng hoảng. Tuy nhiên, Cohen vẫn kiểm soát tình hình. Trong tháng sau vụ đổ vỡ, khi mà những chuyên gia ở sàn NYSE chật vật mở lại giao dịch các chứng khoán của họ mỗi sáng, “những tay thư ký” của Cohen sẽ gọi cho họ trước khi thị trường mở cửa và ghi nhận lại xem họ nghĩ các chứng khoán cụ thể sẽ bắt đầu giao dịch ở đâu. Bởi cú sốc vẫn đang diễn ra từ vụ đổ vỡ, những cơ hội giao dịch lớn nhất thường tới vào khi bắt đầu ngày mới, khi không ai biết chuyện gì đang xảy ra và nỗi sợ hãi lên cao. Liệu đó có phải là ngày mọi chuyện trở về số 0? Cohen sẽ nhận được “quan sát” được chuyển về từ các chuyên gia ngay trên sàn giao dịch, chẳng hạn như, “Gillette sẽ mở cửa tăng 2 điểm”. Rồi ngay khi thị trường mở cửa, anh sẽ bán khống số cổ phiếu tối đa có thể - bán những cổ phiếu mà anh không thật sự sở hữu và mua lại chúng khi giá giảm một lần nữa. Anh lặp đi lặp lại điều này hàng tuần liền, bán khống gần như mọi chứng khoán niêm yết trên Dow: DuPont, GE, IBM - kiếm được tiền gần như mỗi lần giá rơi xuống thấp hơn. Đó không phải là một hành động yêu nước, khi thị trường đang chật vật để hồi phục, nhưng các cộng sự thấy khả năng dập tắt cảm xúc của anh là một điều kỳ diệu. Gruntal, và nhóm giao dịch của Cohen, rốt cuộc đã sống sót. Nhưng cuộc hôn nhân của Cohen thì không. Anh và Patricia bắt đầu cãi nhau dữ dội nhiều tháng liền và cặp vợ chồng đã phải đi tư vấn hôn nhân vài lần. Mọi chuyện trở nên quá căng thẳng vào ngày 22 tháng Sáu năm 1988, Cohen đã chuyển ra khỏi căn hộ rộng 5.500 foot vuông[37] của gia đình ở đại lộ East End. Lúc đó là đầu năm và ở giữa cuộc thương lượng ly dị cay đắng. Trong khi họ đang cố gắng đi tới một thỏa thuận, luật sư của Cohen khuyến cáo anh chuyển trở lại căn hộ để có vị thế thương lượng tốt hơn, anh đã làm theo. Với hai mươi tám phòng, căn hộ đó rất rộng, và Cohen lập luận rằng anh có quyền được sống ở đó tới khi cuộc ly dị chính thức, do nó sẽ mất rất nhiều thời gian. Động thái đó là khởi đầu cho một giai đoạn xung đột mới giữa họ. Các luật sư đã bỏ ra hàng trăm giờ có thu phí để tranh cãi về một danh sách các tài sản của Cohen và cố tìm hiểu xem chính xác anh làm ra bao nhiêu tiền mỗi năm. Anh chưa bao giờ chia sẻ thông tin này với vợ. Họ đưa ra các đề nghị và thương lượng. Cohen cuối cùng cung cấp một bản tính cho thấy mọi thứ anh có trên đời trị giá 16,9 triệu đô la. Khoảng một nửa trong số đó, 8,75 triệu đô la, đã được đầu tư vào một thương vụ bất động sản với anh bạn Brett Lurie. Tuy nhiên, Cohen nói thỏa thuận đó không mang lại lợi nhuận và toàn bộ khoản tiền 8,75 triệu đô la đó đã tiêu tan - nên anh đánh giá khoản đầu tư có giá trị là không. Số tài sản 8 triệu đô la còn lại phải được chia đều. Cohen đề nghị Patricia giữ căn hộ của họ, mà anh nói trị giá 2,8 triệu đô la, và thêm 1 triệu đô la tiền mặt. Anh cũng đồng ý trả khoảng 4.000 đô la cấp dưỡng cho Jessica và Robert ngoài khoản học phí trại hè và trường tư. Patricia dự tính bán căn hộ và chuyển tới một nơi nhỏ hơn, cô từ chối nhận cấp dưỡng sau ly hôn. Dù Cohen đã kiếm được hơn 4 triệu đô la năm đó, anh ghét việc phải đưa tiền cho vợ cũ. Anh than phiền về thói quen chi tiêu của cô, những hóa đơn 80.000 đô la của cô ở Bergdorf[38]. Sau ngày anh ký thỏa thuận ly dị cuối cùng, anh xuất hiện ở chỗ làm trong tâm trạng nóng nảy vô lý và trút lên đầu những người giao dịch của mình. “Tôi vừa bị vợ cướp sạch,” anh nói, theo một người có mặt ở đó. “Tôi sẽ thu lại tất cả khoản đó bằng cách giảm thu nhập của các anh.” Những nhân viên của anh không thể tin nổi những gì họ vừa nghe. Cohen sẽ lấy 60% lợi nhuận của nhóm. Từ khoản đó anh sẽ trả cho mỗi người 30% lợi nhuận mà họ kiếm được trên các giao dịch của chính họ, để lại cho anh một nửa lợi nhuận từ những giao dịch mà anh thậm chí không thực hiện. Nhiều người giao dịch đã leo lên vị trí này từ mức lương của thư ký. Cohen muốn giảm thu nhập của họ 5 điểm phần trăm. “Anh không thể làm thế,” một giao dịch viên nói. “Mẹ mày chứ,” Cohen đáp. “Tao là sếp.” Sau một thời gian tương đối ngắn, bóng đen của sự kiện Thứ Hai Đen tối tan biến. Thị trường chứng khoán bắt đầu một đợt tăng dài khác. Cuộc điều tra giao dịch nội gián RCA của SEC dần ngưng lại, có vẻ sẽ không có phạt tiền hay xử lý ai cả. Điều tương tự xảy ra với vụ điều tra hình sự. Qua tất cả những chuyện này, một bài học mà nhiều nghi can tội phạm tài chính khác sẽ hiểu trong tương lai đã hiện rõ: viện tới Tu chính án thứ năm có thể làm hụt đà của một cuộc điều tra chứng khoán. Chương 2 STEVIE MUỐN GÌ CÓ ĐÓ “Chúng ta sẽ làm thế này,” Cohen tuyên bố với các giao dịch viên của mình vào năm 1992. “Tôi muốn chúng ta thoát khỏi sự kiểm soát môi giới giao dịch của Gruntal. Họ đang nuốt hết lợi nhuận của chúng ta. Họ đang kìm chân chúng ta lại.” Chừng nào nhóm giao dịch của Cohen còn thuộc về một hãng môi giới có đăng ký, tức là Gruntal, họ còn bị ràng buộc bởi nhiều quy định ngặt nghèo hạn chế các hoạt động của họ, chẳng hạn họ không thể đầu tư vào các vụ chào bán lần đầu ra công chúng (IPO), vốn đang trở thành một nguồn lợi nhuận quan trọng. Cohen nghiến răng. “Chúng ta sẽ làm việc này. Ta sẽ làm theo cách riêng của ta.” Lúc đó, Gruntal đã có tiếng là kém thanh danh và là đối tượng của nhiều cuộc điều tra từ nhà chức trách. Trong một thời đại điển hình bởi sự vô lương tâm và phá luật trắng trợn ở Phố Wall, CEO của Gruntal, Howard Silverman, đã để Cohen tự do hoàn toàn, và Cohen đã phát đạt. Trong 14 năm, từ một tay giao dịch hạng thấp anh đã trở thành ngôi sao của Phố Wall. Anh sắp bước sang tuổi 36, vừa ly dị, và sẵn sàng thay đổi. Đã tới lúc để anh thoát ra và tự làm theo ý mình. Cohen khởi sự SAC với khoản tiền vốn khoảng 23 triệu đô la và chín nhân viên. Anh bỏ vào đó 10 triệu đô la tiền túi, và các nhân viên giao dịch và bạn bè cùng nhà đầu tư bỏ phần còn lại. Nhiều nhân viên giao dịch của anh ở cuối tuổi hai mươi và đầu ba mươi, có con nhỏ ở nhà. Một số bà vợ đã phản đối quyết định rời bỏ một công việc ổn định và chấp nhận rủi ro với công ty khởi nghiệp mới của Cohen. Họ không có một ngân hàng lớn hỗ trợ trong trường hợp khẩn cấp; họ mạo hiểm với chính cuộc đời mình. Trong những tuần đầu tiên khởi sự, Cohen có thể thấy các nhân viên mới của mình đầy lo lắng. Giờ họ đang mua bán bằng chính tiền của họ, họ trở nên rụt rè, lưỡng lự mỗi khi đặt lệnh mua và bán, tính toán đi tính toán lại họ có thể mất bao nhiêu tiền nếu thị trường không như ý. Cohen cố gắng nén cơn cáu tiết muốn la mắng và hạ thấp đám nhân viên, thay vào đó cố gắng xây dựng lòng tin cho họ. “Cố lên,” anh nói với những nhân viên giao dịch của mình. “Chuyện này có gì khác đâu!” Anh muốn mọi người xung quanh thoải mái trong việc chấp nhận rủi ro. Anh thích tuyển dụng những gã có động lực và máu ăn thua, nhất là những gã từng chơi thể thao ở đại học. Giấc mơ của anh là có một căn phòng đầy những Steve Cohen mini, những gã đàn ông không biết sợ giống anh. “Hãy nói cho tôi biết đôi điều mạo hiểm nhất mà anh từng làm trong đời,” Cohen sẽ hỏi những giao dịch viên tiềm năng của mình. “Tôi muốn những người có sự tự tin để bước ra ngoài kia, những người chấp nhận rủi ro.” Cohen tin rằng cách để kiếm được tiền trên thị trường chứng khoán là chấp nhận rủi ro một cách thông minh. Nếu bạn có một ý tưởng đầu tư tốt nhưng bạn quá sợ hãi, không bỏ thật nhiều vốn vào đó, bạn không thể tạo ra thật nhiều lợi nhuận. Cohen đã tính rằng 5% các giao dịch của anh chiếm phần lớn số tiền anh kiếm được. Nếu anh chỉ đặt cược vào những giao dịch thắng cược đó ở quy mô khiêm tốn, lợi nhuận sẽ nhỏ hơn đáng kể. Nhưng điều đến với anh tự nhiên lại là điều mà hầu hết người khác phải vật lộn mới có được. Đó thực tế là một đột biến gien, khả năng hành xử như bò sát máu lạnh khi giao dịch, trái với một con người dễ tổn thương bởi sự sợ hãi và tự nghi ngờ. Khi phỏng vấn những ứng viên mới tiềm năng, anh cố gắng trắc nghiệm phẩm chất này tốt hết mức có thể. Phương pháp đầu tư của Cohen khác với những người làm việc ở hầu hết các quỹ phòng hộ khác. Anh thu lượm một lượng cực lớn thông tin từ mọi ngóc ngách của thị trường mỗi ngày, theo dõi những lệnh đặt mua và bán khi chúng xuất hiện trên thị trường, rồi mua hàng chục hay hàng trăm nghìn cổ phiếu và bán chúng ngay khi giá tăng. Anh làm tương tự với cách bán khống, khi cổ phiếu giảm. Anh là một tay giao dịch trong ngày cự phách. Đó là phong cách gần như không thể bắt chước giống hệt, nhưng nếu có một hình mẫu cho tiến trình thực hiện giao dịch của Cohen thì có lẽ đó là chiến lược đầu tư của Michael Steinhardt, người đã khởi sự quỹ phòng hộ Steinhardt, Fine, Berkowitz vào năm 1967. Steinhardt bước vào lĩnh vực giao dịch chứng khoán khi các quỹ lương hưu bắt đầu trở nên phổ biến, và những người dân bình thường đầu tư hàng tỉ đô la tiền mới vào thị trường chứng khoán mỗi năm. Số lượng công nhân Mỹ được bảo đảm bởi các quỹ hưu trí phúc lợi tăng gấp ba lần từ năm 1950 tới 1970, và tất cả khoản tiền đó cần được đầu tư. Giao dịch từ chỗ là một công việc hành chính được thực hiện bởi các thư ký mặc áo vest đồng phục đã chuyển thành con đường nhanh nhất để trở thành siêu sao của Phố Wall. Là một trong số ít những nhà đầu tư tư nhân giao dịch với khối lượng cổ phiếu lớn lúc bấy giờ, Steinhardt yêu cầu những nhà môi giới lớn với các khối cổ phiếu lớn gọi cho ông trước hết và ra cho ông giá tốt hơn so với các nhà đầu tư thông thường có thể có trên thị trường mở. Mối quan hệ thân tình và gây nhiều tranh cãi của Steinhardt với các ngân hàng và công ty môi giới mang lại lợi thế lớn cho ông so với các nhà đầu tư khác, và mang tới cả gia tài của ông nữa. Trong nhiều năm, các quỹ phòng hộ tồn tại bên ngoài dòng chảy chính của Phố Wall, chủ yếu bao gồm những gã lập dị lảng tránh dư luận. Một vài nhân vật đầu tư nổi tiếng đã xuất hiện từ các quỹ phòng hộ trong những năm 1980, trong đó có George Soros và Paul Tudor Jones, nhưng chính xác họ làm gì thì hầu hết mọi người không rõ. Dần dần, người ta biết rằng hóa ra những kẻ lập dị khôn ngoan đó đang lặng lẽ gom góp những khối gia tài nhiều tỉ đô la, và truyền thông bắt đầu chú ý. Họ mua những biệt điện có kích cỡ như ngôi đền Taj Mahal, đi lại bằng trực thăng tới những căn nhà bên bờ biển ở Long Island, và sưu tầm tác phẩm nghệ thuật từng thuộc về Bảo tàng Metropolitan. Họ trở thành những nhân vật cực kỳ đáng ghen tị. Cohen có chút khác biệt. Anh không đặc biệt xuất sắc về toán học, anh không nghiên cứu các nền kinh tế toàn cầu, anh không có triết lý đầu tư độc đáo. Anh đơn giản là một tay giao dịch xuất sắc, một người quá giỏi tới mức một sự nghiệp truyền thống ở Phố Wall không thể làm anh hài lòng. Sở hữu quỹ phòng hộ của riêng mình là lối tắt của anh bước vào một vũ trụ mới của sự giàu có và quyền lực. °°° Khi SAC lớn hơn, có nhiều tiền hơn để giao dịch và đầu tư, các công ty lâu đời ở Phố Wall bắt đầu để ý. Làm sao họ lại không để ý chứ? Trong ba năm, SAC đã tăng quy mô gấp bốn lần, lên gần 100 triệu đô la. Cohen và những nhân viên giao dịch của anh đã mua và bán chứng khoán mỗi ngày nhiều tới mức các tay môi giới bắt đầu lo lắng họ bỏ lỡ một lượng doanh thu lớn nếu không giao dịch với SAC. Vấn đề các tay môi giới phải vượt qua chính là các công ty lớn nơi họ làm việc luôn nghi ngờ các quỹ phòng hộ nói chung, và nghi ngờ Cohen nói riêng. Có tin đồn SAC đang kiếm được lợi nhuận 100% mỗi năm. Các nhân viên giao dịch ở những công ty lớn còn kháo nhau rằng Cohen hẳn phải lừa lọc. J. P. Morgan đã từ chối làm ăn với anh. Trong khi đó, Cohen muốn SAC tiếp tục tăng trưởng, điều này đòi hỏi tìm kiếm những nhà đầu tư cũng như các nhân viên bán hàng mới để giúp SAC chen vào những đợt IPO, hay có thể đưa ra các ý tưởng đầu tư mà họ không thể tự nghĩ ra được. Anh ra ngoài ăn những bữa tối với bít tết, chơi golf và bóng racquet. Nhưng Cohen không thích thú gì việc giao tế vì mục đích làm ăn, và anh không giỏi xây dựng kiểu quan hệ sẽ giúp ích khi công ty mở rộng. Anh không thật sự muốn là một phần của câu lạc bộ. Anh cần mang theo một người chuyên nghiệp giúp anh việc đó. Anh biết một người hoàn hảo cho việc này. Tên anh ta là Kenny Lissak, một người bán chứng khoán mắt xanh, vai rộng mà Cohen đã tuyển trong những năm cuối cùng ở Gruntal. Lissak thích chơi golf và đi chơi bời nhậu nhẹt với những tay môi giới. Anh này đã phát triển các mối quan hệ ở Merrill Lynch, Goldman, Lehman, tất cả những công ty mà Cohen đang vất vả để họ đối xử với anh như một khách hàng quan trọng. Theo nhiều nghĩa, Lissak đối lập với Cohen. Họ hòa hợp ngay lập tức. Lissak có quan điểm về giao dịch truyền thống hơn Cohen. Từng làm việc ở Shearson Lehman Brothers, một trong những công ty môi giới chứng khoán lớn nhất ở Mỹ, Lissak hiểu nghiên cứu của các tổ chức có thể ảnh hưởng tới giá chứng khoán như thế nào. Nếu Merrill Lynch cho ra một báo cáo phân tích chỉ trích IBM, giới đầu tư nhiều khả năng sẽ bán cổ phiếu và giá sẽ đi xuống. Ngay cả nếu nội dung của báo cáo là sai, chỉ riêng dữ kiện cổ phiếu được nâng hạng hay hạ hạng bởi một nhà phân tích có uy tín sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ tới giá của nó. Việc không theo dõi những cơ chế cơ bản đó đang khiến Cohen mất tiền. Lissak đã gặp những người làm môi giới ở Goldman Sachs và First Boston, và giới thiệu Cohen với họ như một nhà đầu tư nghiêm túc, người lẽ ra phải được tiếp cận những chuyên viên phân tích giỏi nhất của họ. Đổi lại, Lissak nói với những người môi giới, hai bên sẽ cùng kiếm khoản tiền hoa hồng khổng lồ từ giao dịch. Khi không phải tất bật tới các cuộc hẹn, Lissak tự mình giao dịch chứng khoán, đồng quản lý một danh mục đầu tư với Cohen. Họ là bạn thân nhất cùng làm việc chăm chỉ cả tuần và rồi cuối tuần thư giãn cùng nhau, chơi golf ở Câu lạc bộ Glen Head Country ở Long Island và đi nghỉ trượt tuyết ở Aspen. Mỗi sáng hai người tới văn phòng đọc báo và kiểm tra giá chứng khoán, quyết định họ sẽ kiếm tiền ở đâu ngày hôm đó. Nếu có tin tức về một công ty hay một lệnh đặt mua hay bán lớn tới từ thị trường, Cohen chuẩn bị để tận dụng bất cứ xung lực tạo ra từ đó, mua cổ phiếu khi giá tăng và bán ngay khi nó bắt đầu hạ. Cohen giỏi tới mức các nhân viên giao dịch ở những công ty khác bắt đầu theo dõi xem anh đang làm gì. Cohen và Lissak bỏ ra nhiều giờ phân tích các giao dịch của họ và cố gắng tính toán để họ có thể làm tốt hơn. Lissak mô tả đặc điểm triết lý cốt lõi của họ bằng những cụm từ đơn giản: tất cả nhằm cải thiện tỉ lệ tìm kiếm lợi nhuận bằng cách loại bỏ những cách thức có thể làm họ mất tiền và tăng những cách thức kiếm ra tiền. Họ tin rằng chìa khóa của việc kiếm ra tiền là kiểm soát một cách thông minh thua lỗ. Theo ngôn ngữ học thuật, điều này được gọi là quản trị rủi ro. Những giao dịch của họ thường diễn ra như ý, nhưng không phải lúc nào cũng thế. Một ngày sau khi thị trường đóng cửa, hồi họ mới quen nhau, Cohen và Lissak gặp nhau ở một hiệu sữa chua đông lạnh tại Upper East Side, trò chuyện về một buổi chiều đặc biệt khó khăn. “Chuyện chó chết gì đã xảy ra vậy?” Cohen rầu rĩ nói. Họ vừa trải qua một vụ thua lỗ lớn với cổ phiếu Northern Telecom, cổ phiếu này đã từ 38 giảm xuống 31 đô la, nhưng, không sẵn lòng nhận thất bại, Cohen và Lissak mua nhiều hơn nữa và nó tiếp tục rớt giá. Họ đã đoan chắc rằng điều tồi tệ nhất qua đi và cổ phiếu đó sẽ hồi phục. Điều này thật ngu ngốc vì cái tôi quá lớn ảnh hưởng tới giới đầu tư mọi lúc, nỗi sợ bán ra và thừa nhận lỗ, và lòng tin, một cách phi lý, rằng khoảnh khắc mà bạn đầu hàng và bán, cổ phiếu sẽ bỗng nhiên tăng giá trở lại. Riêng vụ giao dịch đó khiến họ mất gần 2 triệu đô la. Khoản thua lỗ không khiến họ phải dẹp tiệm, nhưng với Cohen, khoản lỗ thật đau đớn. Anh rất coi trọng mỗi giao dịch mà anh thực hiện, mỗi ngày. Mọi tính toán sai đều không thể tha thứ. “Chúng ta sẽ làm gì đây, đi lái taxi sao?” Cohen nói. Sau giao dịch Northern Telecom, Cohen đã triển khai kỷ luật nghiêm ngặt khi mất tiền: nếu một giao dịch trái ý ta, ta thiết lập một giới hạn, và rồi ta bán, dù cho có chuyện gì xảy ra. Không bao giờ để cảm xúc xen ngang. °°° Khu Hamptons, điểm nghỉ hè lâu nay của giới tinh hoa Manhattan, bao gồm vài ngôi làng với những căn nhà lợp gỗ trải dài về hướng Đông từ Westhampton tới Montauk dọc theo Đại Tây Dương, chỉ cách nơi Cohen lớn lên 88 dặm[39]. Đến khi thành lập SAC, Cohen rốt cuộc đã có đủ tiền để tới đó. Anh và Lissak bắt đầu chuyển hoạt động giao dịch của họ tới East Hampton trong kỳ nghỉ. Họ thuê một căn nhà năm phòng ngủ có hồ bơi và một người quản gia rồi lấy một văn phòng phía trên Grand Café, một quán cà phê ở trung tâm của East Hampton, nơi những quý bà giàu có tới cùng đám chó xù của họ. Đó sẽ là trụ sở của họ trong tháng Bảy và Tám. Cohen đảm nhận, theo phán quyết của tòa, việc trông coi các con Jessica và Robert cách mỗi cuối tuần, cố gắng điều hòa việc làm bố với đời sống độc thân giàu có của mình. Vợ cũ của anh, Patricia, cảm thấy anh không dành đủ sự chăm sóc cho các con khi cô không có ở đó. Cohen sống một mình và thỉnh thoảng để mặc lũ trẻ khi anh đi làm. Có lần, Robert 5 tuổi ngã xuống hồ bơi ở nhà của Cohen tại East Hampton, và Cohen phải nhảy xuống, mặc nguyên quần áo, kéo thằng bé lên. Cohen không thích ở một mình, nhưng anh không thích quá trình tìm hiểu phụ nữ. Anh đã đăng ký dịch vụ hẹn hò và gửi lời mời với hai mươi hồ sơ. Chỉ một phụ nữ trả lời. Tên cô ta là Alexandra Garcia. Cô có mái tóc dài màu tối. Họ đã có cuộc hẹn đầu tiên ở một nhà hàng Ý ồn ào gần căn hộ của Cohen ở Manhattan, nơi họ đã trò chuyện với nhau vài giờ. Họ bắt đầu gặp gỡ thường xuyên, nhưng Alex nói rõ cô không thích một mối quan hệ hời hợt. Cô muốn kết hôn. Bề ngoài, cô không có vẻ là người hợp với một tay giao dịch Phố Wall giàu có. Alex đang vật lộn trong vai trò bà mẹ đơn thân, lớn lên trong một gia đình đông đúc người Puerto Rico ở khu Harlem nói tiếng Tây Ban Nha. Cô không học đại học. Cô có một con trai. Cô và Cohen có rất ít điểm chung. Cohen thì không chắc muốn kết hôn lần nữa sau khi trải qua cuộc ly dị đau đớn. “Tôi không biết phải làm gì,” một hôm Cohen nói với Lissak ở tiệm pizza gần căn nhà mùa hè của họ. Alex đang gây sức ép để anh đính hôn, anh giải thích, nhưng cô không thích ý tưởng ký một hợp đồng tiền hôn nhân. Cohen còn quanh co vì những lý do khác nữa. Một lẽ khác là anh vẫn còn mê Patricia. Bạn bè của Cohen so sánh vợ cũ của anh với Margaret “Hot Lips” Houlihan, cô y tá quân đội khêu gợi trong chương trình truyền hình M*A*S*H. Anh không thể tưởng tượng được việc kết hôn lần nữa mà không có những biện pháp bảo vệ khối tài sản cá nhân đang gia tăng của mình. Vào lúc Cohen lo lắng chuyện đó, Patricia và Alex bắt đầu trở nên cực kỳ căm ghét nhau. Họ phải gặp nhau mỗi lần đưa đón đám trẻ khi chúng tới thăm cha. Căng thẳng giữa họ dần bùng nổ thành những cuộc cãi vã ngoài đường phố. Tuy nhiên, Lissak có thể thấy bạn anh đang cô đơn và Alex có vẻ sẽ làm Cohen hạnh phúc. “Cứ mua cho cô ấy một chiếc nhẫn đi,” anh khuyên Cohen. “Đáng bao nhiêu chứ, ba phần tám của 10.000 đô la phải không? Nếu không ổn, thì coi như anh quăng đi 30.000.” Steve và Alex đã chia tay ít nhất bốn lần trong những tháng sau đó, và mỗi lần, Alex lại nổi giận và dọa dẫm. Cô cứ nói hoặc lấy nhau bây giờ hoặc không bao giờ. Cohen rốt cuộc nghe lời khuyên của Lissak và cầu hôn. Họ cưới nhau ngày 6 tháng Sáu năm 1992 ở khách sạn Plaza, một sự kiện xa hoa với ba trăm khách mời toàn đeo cà vạt đen. Lissak là phù rể. Alex ngay lập tức bộc lộ ảnh hưởng tới chồng. Cohen là người bẽn lẽn, cố gắng tránh là trung tâm chú ý. Vậy mà không hiểu cách nào, tám tháng sau khi cưới, Alex đã thuyết phục được anh làm điều không tưởng: cô đăng ký cho họ tham gia chương trình truyền hình ban ngày nói tiếng Latin nổi tiếng, The Cristina Show, đang phát một chương trình đặc biệt về các cặp vợ chồng sống trong những vướng mắc cảm xúc có hại với vợ cũ của người chồng. “Alex tội nghiệp vừa kết hôn với Steven Cohen được tám tháng,” Cristina, một phụ nữ tóc vàng, phiên bản Latin của Oprah[40] nói. “Cô cảm thấy cuộc chiến của mình với người vợ cũ sẽ không bao giờ chấm dứt. Cô nói cô và người vợ cũ cực ghét nhau, cô chỉ đồng ý tới đây nếu chúng tôi bảo đảm rằng người vợ cũ có lẽ là điên khùng sẽ không được mời.” Cristina ngả người về phía trước và dừng lại đầy chất kịch. “Hãy nói cho chúng tôi nghe xem, Alex, có đúng là cô ta điên khùng không?” Cohen, có mặt vì nghĩ họ sẽ nói về những thách thức trong việc nuôi dạy con riêng, chết cứng vì trải nghiệm đó. Dẫu vậy, anh vẫn gắng hết sức thoát ra. Khi Cristina nêu ra việc Cohen vẫn tiếp tục gặp người vợ đầu sau khi anh và Alex đã hẹn hò, khán giả thở hắt ra bày tỏ sự phản đối. Cohen tái dại. “Rất nhiều chuyện kiểu này xảy ra trong năm đầu mối quan hệ của chúng tôi, khi tôi vẫn chưa cam kết với Alex, và có lẽ tôi đã sử dụng vợ cũ như một khoảng đệm,” ông lắp bắp. “Tôi đã trải qua một cuộc ly dị tương đối khó chịu, và tôi chưa sẵn sàng… Chúng tôi còn gặp nhau một thời gian. Và có một số khó khăn tài chính…” Bạn bè của Cohen sửng sốt vì chương trình đó, cả những tiết lộ mất mặt và việc người bạn thận trọng, nhút nhát của họ ngay từ đầu đã đồng ý xuất hiện trong một talk show trên truyền hình. Cohen hoàn toàn không phải là một người trình diễn. Những đồng sự của anh ở SAC coi chương trình đó là một dấu hiệu cho thấy Alex đã kiểm soát anh hoàn toàn. °°° Cohen tổ chức một bữa tiệc Giáng sinh tại căn hộ mới ở đường Bảy Mươi Chín East để ăn mừng năm 1993 tuyệt vời của công ty. Mọi người đều trong tâm trạng tốt, cảm thấy phấn khích về số tiền khổng lồ mà họ đã làm ra. Những tay bartender rót đồ uống. Cohen chạm vai Lissak. “Tôi nói chuyện với anh một chút,” anh nói. Họ vào trong một phòng trống. Trong ba năm trước đó, Lissak đã trở thành đối tác đáng tin cậy nhất của Cohen, nhân vật chính liên lạc với các nhà đầu tư và ngân hàng Phố Wall, đứng đầu bộ phận giao dịch - tuyển dụng - điều hành, và là người mà bất kỳ ai làm ở công ty sẽ hỏi tới khi gặp bất cứ vấn đề gì. “Anh có vai trò vô giá trong việc điều hành SAC,” Cohen nói, theo lời Lissak. “Tôi sẽ biến anh thành đối tác sở hữu 20%.” Lissak sướng tê người. Anh thích được làm việc cùng Cohen, điều hành quỹ bên cạnh anh và thực hiện các giao dịch hằng ngày. Trở thành đối tác sẽ đảm bảo sự an toàn, nhưng cũng có nghĩa là kiếm được nhiều tiền hơn hẳn - có thể là hàng chục triệu đô la, một cách dễ dàng. Họ trở lại bữa tiệc và bắt đầu công bố với các nhân viên của SAC về sự thăng chức của Lissak. Phản ứng nhìn chung là tích cực. Lissak được yêu mến và tôn trọng. Có một người như anh gắn bó với công ty khiến công ty có vẻ ổn định và có tính chính danh. “Steve là nhà khoa học điên và Kenny là người quảng giao,” Warren Dempsey, một nhân viên môi giới gia nhập SAC vào đầu những năm 1990 để giúp công ty xây dựng chiến lược đầu tư vào các vụ IPO ở châu Âu, nói. “Họ điều hành công ty. Kenny có thẩm quyền thật sự. Ít nhất vào thời gian tôi còn ở đó, tôi không nghĩ Steve làm chuyện gì mà không trao đổi với Kenny.” Hai năm sau khi SAC chuyển sang một văn phòng mới ở số 520 Đại lộ Madison, cách Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại một khối nhà. Cohen ngồi ở trung tâm một chiếc bàn hình chữ T, với các giao dịch viên ngồi trước những dãy màn hình trải dài ra hai phía từ chỗ ngồi của anh. San Pietro, một nhà hàng Ý bề ngoài hấp dẫn với các bức bích họa, nằm ngay dưới lầu. Các nhân viên giao dịch của SAC là những khách hàng tốt nhất của nhà hàng đó. °°° Trong khi SAC làm ăn phát đạt, tăng trưởng gần như gấp đôi mỗi mười hai tháng, Cohen tiếp tục vật lộn với sự thỏa mãn cá nhân. Dù anh đã đạt được giấc mơ cuộc đời là điều hành công ty của riêng mình, anh vẫn không hạnh phúc, anh trở nên phụ thuộc vào một bác sĩ tâm lý tên là Ari Kiev, người giúp anh kiểm soát tâm trạng của mình. Ngoài việc điều trị trầm cảm, lĩnh vực chuyên môn khác của Kiev là tư vấn về thành công và làm sao để đạt được thành công. Ông ta từng làm bác sĩ tâm lý và huấn luyện viên cho các cầu thủ bóng rổ và vận động viên chèo thuyền tham dự Olympic đang tìm cách cải thiện thành tích của họ và vượt qua nỗi sợ thất bại. Kinh nghiệm hỗ trợ cho những nhà vô địch thể thao của ông đã hấp dẫn Cohen vốn có nhu cầu không thương xót là thống trị mọi giao dịch mà mình tham gia, và anh bắt đầu yêu cầu Kiev ngồi cả ngày ở các văn phòng của SAC, giúp đỡ nhân viên của anh. Kiev cao lớn, với bộ ria mép rậm và phần thân đẫy đà, ông thường xuất hiện lặng lẽ bên cạnh một nhân viên giao dịch và hỏi xem anh ta cảm thấy thế nào. Đôi khi tay giao dịch viên giật mình vì thấy Kiev ở đó, tới mức nhảy dựng lên. Cohen đã yêu cầu Kiev thực hiện các bài phát biểu động viên trước nhân viên của anh, để giúp họ vượt qua nỗi lo lắng sẽ làm mất tiền. Về cơ bản, Kiev ở đó là để dạy họ sự tàn nhẫn. Mỗi lần một tuần, sau khi thị trường đóng cửa, các giao dịch viên của Cohen sẽ tụ tập trong phòng hội thảo và Kiev sẽ dẫn dắt họ qua các phiên trị liệu nhóm tập trung vào việc khiến họ thoải mái hơn trước rủi ro. Kiev nói về các giao dịch của họ và cố gắng hiểu xem tại sao một số người làm tốt và những người khác thì không. “Các bạn thật sự có động cơ kiếm nhiều tiền hết mức có thể chưa? Người đàn ông này sẽ giúp các bạn trở thành một sát thủ trong việc đó”, là những gì một nhân viên đầy hoài nghi nhớ về Kiev lúc ông được giới thiệu với họ. Việc mà Kiev đã làm với các vận động viên Olympic đã khiến ông tin rằng điều ngăn cản hầu hết mọi người là nỗi sợ. Bạn có thể có hai nhà đầu tư với cùng khoản tiền: một người chuẩn bị mua 250.000 cổ phiếu một chứng khoán mà họ thích, trong khi người kia thì không. Tại sao? Kiev tin rằng sự do dự là một hình thức lo lắng; và rằng có thể vượt qua nó bằng trị liệu đúng cách. Kiev sẽ yêu cầu các nhân viên môi giới nhắm mắt lại và mường tượng ra chính bản thân họ đang thực hiện các giao dịch và tạo ra lợi nhuận. “Đầu hàng hiện tại” và “nói lên sự thật” là một số cụm từ ưa thích nhất của ông ta. “Tại sao bạn không đặt cược lớn hơn vào những giao dịch hiệu quả? Bạn đã làm điều gì đúng?” ông ta hỏi. “Mải suy nghĩ về việc không để thua lỗ sẽ cản trở việc chiến thắng,” ông ta sẽ nói. “Giao dịch không thua lỗ không phải là một chiến lược tốt. Bạn cần giao dịch để thắng.” Nhiều giao dịch viên ghét các buổi trị liệu theo nhóm. Một số người nghĩ Kiev là một kẻ lừa đảo. “Ari rất hiếu thắng,” một người nói. “Ông ta thích tiền.” Patricia, vợ đầu của Cohen, nghi ngờ động cơ của Kiev và tin rằng ông ta sử dụng các buổi trị liệu với Cohen để tìm kiếm những gợi ý mua chứng khoán. Từ góc nhìn của Kiev, ông ta thấy một khách hàng hoàn hảo nơi Cohen, một bệnh nhân với nguồn lực không giới hạn có thể trả những khoản phí khổng lồ và có tiếng là một trong những tay giao dịch giỏi nhất Phố Wall, có thể giúp Kiev hiện thực hóa mục tiêu của chính ông ta là trở thành một tác giả sách bán chạy. Có thể khoe rằng ta là người huấn luyện giao dịch cho một trong những tay giao dịch hùng mạnh nhất Phố Wall, một cách tuyệt vời để bán sách và thu hút thêm khách hàng. Kiev cũng phục vụ một mục đích khác cho Cohen, hay một số nhân viên môi giới ở SAC đã nghĩ vậy, như một kiểu gián điệp nội bộ. Kiev sẽ nhắm tới những nhân viên cụ thể, tìm hiểu xem điều gì khiến họ phiền lòng. Đã làm trị liệu nhiều thập niên, ông ta rất khéo léo trong việc lôi cuốn mọi người thổ lộ những điều thầm kín, khiến họ thấy thoải mái và tin cậy. Nhưng ít người ở SAC cảm thấy có thể thoải mái cởi mở với ông ta vì họ hiểu rằng mọi thứ họ nói sẽ được báo cáo lại với ông chủ. Nền kinh tế của các quỹ phòng hộ cực kỳ ưu ái những người điều hành chúng, chủ yếu vì cấu trúc phi cắt cổ mà chúng áp dụng. Cohen ra quyết định sớm để khai thác điều này càng nhiều càng tốt. Nếu các nhà đầu tư muốn người giỏi nhất - chính là anh - họ sẽ phải trả cho điều đó. SAC làm tốt tới mức anh có thể thu phí cao hơn so với hầu hết các quỹ khác, giữ lại 50% lợi nhuận vào cuối năm. Hầu hết các quỹ phòng hộ thu phí 20%. Nhưng những nhà đầu tư của Cohen không phàn nàn. Thật ra, họ đấu đá để được là khách hàng của anh. Trong khi đó, Cohen không ngừng than phiền vì cho rằng những người khác hưởng lợi một cách bất công từ thành công của anh. Gần như mọi xu mà anh đưa cho những người khác, dù là hoa hồng cho một tay môi giới hay tiền thưởng cho đối tác hay một đô la tiền thuế, đều làm anh khó chịu. Cuối cùng, anh quyết định rằng thuế ở Thành phố New York quá cao và không gian văn phòng của Manhattan quá đắt đỏ. Công ty cần mở rộng, và sẽ tiết kiệm chi phí hơn nhiều nếu rời thành phố. Anh nói với các nhân viên rằng họ sẽ chuyển SAC sang Connecticut. Anh đã chọn được văn phòng, ở công viên văn phòng GE tại Stamford. Tính kinh tế của khu này hợp lý hơn nhiều. Ngoài khoản thuế, một số dàn xếp kinh doanh mà anh đã thương lượng nhiều năm trước bắt đầu có vẻ quá hào phóng. Cohen sa thải những người bỗng nhiên bắt đầu kiếm được những khoản tiền mà anh cho rằng quá lớn với tỉ lệ khác thường, hoặc anh sẽ từ chối trả cho họ những gì họ nghĩ họ xứng đáng. Rốt cuộc, anh chuyển sự giận dữ sang các đối tác của mình. Một buổi tối tháng Mười năm 1997, Cohen gọi cho Kenny Lissak thông báo tin sốc: vợ anh, Alex, cáo buộc Lissak tìm cách lôi kéo cô vào một vụ ngoại tình. Alex đã nói với Cohen rằng anh phải chọn giữa đối tác kinh doanh và cuộc hôn nhân, theo lời Lissak, người đang sửng sốt trước cáo buộc đó. Lissak bác bỏ và nói anh đang hạnh phúc trong hôn nhân. Anh vừa hồi phục sau hàng loạt vấn đề sức khỏe và thể chất khá yếu. Một năm trước, anh đã nhập viện để phẫu thuật lưng định kỳ sau hàng loạt chấn thương xảy ra do chơi bóng rổ. Trong khi ở bệnh viện, anh đã bị nhiễm khuẩn E. coli ở sống lưng và việc đó suýt làm anh mất mạng cũng như khiến anh nằm liệt giường trong viện hàng tháng trời. Anh đã sụt 100 pound[41]. Khi Lissak vắng mặt, Alex đã đóng vai trò lớn hơn trong văn phòng. Cô ta viết các ghi nhớ cho nhân viên của Cohen và đón chồng sau khi thị trường đóng cửa. “Rõ ràng cô ta là hoàng hậu còn Steve là vua, mọi việc đang thế đây,” một cựu giao dịch viên nói. “Tôi sẽ không muốn chạm mặt với cô ta, cứ mặc cho mọi việc theo cách ấy.” Một giao dịch viên khác mô tả cô là một kẻ gây rối. Một số nhân viên tránh đường vì không muốn trao đổi ánh mắt với Alex. Căng thẳng đã gia tăng giữa cô và Lissak, như thể hai ả gái chung chồng đang cạnh tranh để có được sự chú ý của Cohen. Nhưng lần này thì khác. Sau khi cáo buộc bạn thân nhất và đối tác kinh doanh tìm cách ngoại tình với vợ mình, theo lời Lissak, Cohen yêu cầu anh ra đi ngay lập tức. Cohen hầu như không có vẻ gì giận dữ, chỉ lạnh lùng. Lissak nói anh khăng khăng rằng đó không phải là sự thật và cố thuyết phục Cohen rằng anh đang phạm sai lầm khi sa thải mình, nhưng Cohen không lay chuyển. Không hiểu chuyện gì xảy ra, Lissak gói ghém đồ đạc và rời văn phòng, văn phòng của anh. Lissak thật đau khổ. Cohen không bao giờ giải thích việc Lissak ra đi với các nhân viên, những người thấy bất an vì chuyện đó. Nhưng mọi người nhanh chóng nghe được chuyện gì đã xảy ra. Sau đó, Lissak phát hiện ra anh bị các công ty Phố Wall khác từ chối. Các công ty muốn có Cohen là khách hàng có vẻ hiểu rằng họ không thể làm ăn với cả hai người bọn họ cùng lúc. “Đó là dấu hiệu đầu tiên về sự tàn nhẫn đích thực của Steve,” một cựu giao dịch viên nói. “Khi ông ta đá đít Kenny.” °°° Một sáng thứ Hai năm 1998, một nhóm nhân viên Goldman Sachs tập trung chuẩn bị cho cuộc họp phòng hằng tuần, một giờ trước khi thị trường mở cửa. Người chuẩn bị phát biểu với đám đông là một nhân viên bán chứng khoán của Goldman, người chịu trách nhiệm đảm bảo một số khách hàng giao dịch quan trọng nhất của công ty được hài lòng. Ông ta có thông tin khẩn cấp cần chia sẻ về tài khoản béo bở nhất của mình. “SAC Capital,” ông ta tuyên bố, “giờ là nơi tạo ra hoa hồng lớn nhất cho phòng chứng khoán.” Phòng chứng khoán đại diện cho các khách hàng của Goldman chịu trách nhiệm cho mọi giao dịch chứng khoán, và trong thời kỳ bùng nổ công nghệ vào cuối những năm 1990, việc giao dịch này tạo ra khoản lợi nhuận đáng kể cho Goldman. Đó là vào nửa nhiệm kỳ thứ hai của Bill Clinton, và đất nước đang ở giữa một đợt bùng nổ thị trường chứng khoán, mà trên thực tế đã biến mỗi tài xế taxi ở New York có trong tay một tờ Barron’s trở thành một tay giao dịch chứng khoán trong ngày. Có vẻ như có những đợt IPO lớn cho những công ty dotcom mới mỗi ngày, tạo ra nhiều triệu phú mới được biến thành những người hùng trên trang bìa tạp chí. Những người lớn tuổi đem tài khoản an sinh xã hội của họ ra đánh cược trên thị trường chứng khoán. Người dẫn chương trình của CNBC háo hức đưa tin giá chứng khoán các công ty công nghệ như Qualcomm và Rambus đang lập những kỷ lục mới hầu như mỗi giờ. Có vẻ như cả thế giới đang trở nên giàu có. Cho tới thời điểm đó, cơ cấu thứ bậc ở Phố Wall xác định ai là người nhận cuộc gọi của ai và ai được trả phí khá rõ ràng. Những quỹ tương hỗ lớn như Wellington, Fidelity và State Street, đang quản trị hàng nghìn tỉ đô la các tài khoản hưu trí, là những khách hàng quan trọng nhất trong ngành. Họ không tham gia vào ngành giao dịch với tốc độ chớp giật. Việc kinh doanh của họ là đầu tư dài hạn, với lợi nhuận từ từ. Họ sẽ xây dựng những thương vị chứng khoán lớn và giữ chúng trong nhiều tháng hay nhiều năm, gắn kết lợi ích kinh tế của họ với của công ty. Các hãng như Goldman, Morgan Stanley và Salomon Smith Barney phân công nhân viên bán hàng làm việc với các giám đốc những quỹ này bằng cách cung cấp báo cáo nghiên cứu chứng khoán được thực hiện bởi các chuyên gia phân tích của ngân hàng và qua việc đưa họ tới xem các trận đấu của đội Yankees và ăn tối với sushi. Đó là một sự sắp xếp dễ chịu, có thể dễ dàng thấy qua nhận xét của một cựu chuyên viên phân tích đầu tư: “Những gã da trắng 50 tuổi nhận báo cáo nghiên cứu từ những gã da trắng 50 tuổi khác.” Nhân viên bán chứng khoán của Goldman đang quản lý khách hàng là SAC chuẩn bị đảo lộn tất cả. SAC là một quỹ phòng hộ, ông ta giải thích với các nhân viên Goldman đang bối rối, một số người chưa bao giờ nghe nói tới công ty này. Họ không mua những khối lớn cổ phiếu IBM để nắm giữ nhiều tháng trời trong khi chơi golf và đợi nhận cổ tức, họ giao dịch. Và họ không chỉ giao dịch. Họ giao dịch hàng trăm chứng khoán mỗi ngày, hàng trăm nghìn cổ phiếu một lúc. Họ không quan tâm tới sức khỏe dài hạn của công ty hay liệu sản phẩm mới công ty đang phát triển có cho phép công ty tuyển dụng thêm nhiều người trong năm năm tới hay không. SAC chỉ quan tâm tới một chuyện: những động thái ngắn hạn tác động lên giá cổ phiếu mà họ có thể lợi dụng để kiếm lời. Với mỗi cổ phiếu mà Goldman có thể mua hay bán đại diện cho SAC, họ kiếm được sáu xu tiền hoa hồng. Không cần phải có bằng tiến sĩ để hiểu ẩn ý ở đây. Dù Fidelity lớn hơn nhiều, SAC tạo ra nhiều doanh thu hơn hẳn chỉ thuần túy dựa trên số lượng. Đổi lại việc trao cho Goldman Sachs hàng triệu đô la, SAC muốn vài thứ, những thứ tương xứng với tầm quan trọng của họ với công ty, tay nhân viên bán hàng nói. Họ muốn được đối xử ưu đãi, đặc biệt liên quan tới những động thái mà các nhà phân tích của Goldman thực hiện có thể ảnh hưởng tới giá chứng khoán của công ty. “Nếu thay đổi một hoặc hai xu trong các tính toán của mình, thì bạn gọi cho SAC trước tiên,” tay bán hàng nói. Nếu một nhà phân tích sắp sửa khuyến nghị giới đầu tư mua hay bán các cổ phiếu ở một công ty mà anh ta hay cô ta theo dõi, hay đánh giá lại khoản tiền anh ta hay cô ta ước tính công ty này sẽ kiếm được trong quý tới, SAC muốn biết trước tất cả mọi người. Và khi một nhà phân tích của Goldman được đề nghị một “cuộc hội ý riêng” trên điện thoại với các nhà đầu tư quan trọng nhằm giúp họ lý giải những sự kiện của doanh nghiệp, tại sao không làm việc này trước tiên với SAC? Như thế có phải là đòi hỏi quá nhiều không? Một tay bán chứng khoán ở một công ty môi giới đối thủ chịu trách nhiệm tài khoản của Cohen đã mô tả động lực đó như sau: “Nếu anh ta sắp sửa giao dịch với bạn, anh ta muốn giá tốt nhất. Anh ta sẵn sàng trả rất nhiều tiền hoa hồng. Và anh ta sẵn sàng làm thế để có thể nhận cuộc gọi đầu tiên, bất cứ thông tin nào có thể giúp anh ta kiếm tiền từ bạn hay công ty của bạn.” Ở Goldman Sachs, ít nhất một nhà phân tích nghe bài phát biểu của tay bán hàng sáng hôm đó bị sốc bởi sự trơ tráo của thỏa thuận. Không ai đề xuất chuyện gì trái pháp luật cả, chính xác thế. Nhưng nó khiến nhà phân tích này khó chịu. Nó trao cho SAC một lợi thế khổng lồ trên thị trường. Với thông tin sớm về việc đánh giá một quyết định “mua” hay “bán” một chứng khoán, SAC có thể phán đoán giới đầu tư sẽ làm gì để đối phó với tin tức kia: mua hay bán trong một tích tắc trước tất cả mọi người, thu về rất nhiều những mẩu nhỏ lợi nhuận mà gom góp lại sẽ thành một tổng số đáng kể. Gian trá có thể là một từ quá mạnh; nhưng khó chịu có lẽ là từ đúng. Nhưng cùng lúc, giới phân tích và bán hàng hiểu rằng ưu tiên của họ là phục vụ các khách hàng của công ty. Những ngân hàng đầu tư được cấu trúc theo hệ thống thứ bậc rất giống quân đội, nơi mọi người phải giơ tay chào người có nhiều vạch nhất - hay phòng ban mang về nhiều tiền nhất. Chỉ dẫn của tay bán hàng của Goldman ảnh ánh một sự dịch chuyển quan trọng tại Phố Wall, dù những tay chơi đã lâu đời của nó mất một thời gian dài mới nhận ra. Con đường mới để đạt được sức mạnh chỉ huy ở ngành tài chính là khởi đầu một quỹ phòng hộ. Làm điều đó đúng lúc có thể biến một người lẽ ra chỉ kiếm được vài triệu trong 20 năm sự nghiệp ở Goldman Sachs hay Morgan Stanley thành một tỉ phú gần như sau một đêm. Trong vài năm, các quỹ phòng hộ từ chỗ là một văn hóa nhóm lập dị của Phố Wall trở thành trung tâm của ngành. Họ có độ đòi hỏi và khó chịu hơn nhiều (và gần như chắc chắn thông minh hơn nhiều) so với những Fidelity và State Street của thế giới, và những kẻ như Goldman và Morgan phải trải qua vô vàn khó khăn để khiến họ hài lòng. Nhưng rốt cuộc, những kẻ ấy được trả tiền để làm việc đó. Nếu một quỹ phòng hộ tạo ra hàng trăm triệu đô la doanh thu muốn tiếp cận nhanh nhất với nghiên cứu tốt nhất hay cuộc gọi đầu tiên, thì bạn phải trao điều đó cho họ. Bằng không họ sẽ làm ăn ở nơi khác. °°° Vào một ngày sáng sủa, quang đãng mùa xuân năm 1998, Cohen và Alex lái xe suốt vài giờ quanh Greenwich, Connecticut, với một tay môi giới bất động sản, tìm kiếm một căn nhà mới hợp với đẳng cấp đang lên của họ. Cặp vợ chồng đang sống ở Greenwich, trong một căn nhà kiểu thôn dã được trang hoàng lại rộng 6.000 foot vuông[42] mà Cohen mua với giá 1,7 triệu đô la vào năm 1993, và họ thích được làm chủ nhà cho nhiều bữa tiệc lễ Tạ ơn ở đó. Nhưng Alex đang muốn một nơi rộng rãi hơn. Một người gần gũi với họ vào quãng thời gian đó nói mối quan tâm ghê gớm của họ với bất động sản có động cơ một phần có lẽ từ thỏa thuận tiền hôn nhân của cặp vợ chồng quy định rằng trong trường hợp xảy ra ly dị, Alex sẽ nhận được nơi ở chính trong thỏa thuận chia tài sản. Ít ra, đó là điều Cohen thổ lộ khi đùa cợt ở văn phòng. “Đó là một vụ đào mỏ,” anh được cho là đã nói với một đồng nghiệp. “Đó là khoản chi trả cho cô ta khi rũ bỏ tôi.” Cặp vợ chồng cũng có một gia đình đông hơn cần mái ấm. Gồm con trai riêng của Alex có trước khi gặp Cohen, cùng bố mẹ đã già cả của cô ta; các con của Cohen từ cuộc hôn nhân lần thứ nhất tới thăm vào cuối tuần; và Cohen cùng Alex giờ đã có với nhau ba con gái, trong đó có một cặp sinh đôi. Khi Alex lần đầu thấy căn nhà ở địa chỉ số 30 Crown Lane, một khu đất kiểu thuộc địa lớn rộng 14 acre[43], trước đó thuộc về Sy Syms, nhà sáng lập chuỗi quần áo giảm giá Syms, cô ta đã thở gấp. Greenwich rõ ràng là nơi đáng để họ sống. Kể từ những năm 1920, đó đã là nơi trú ngụ của những người có quá nhiều tiền chẳng biết phải làm gì, liên tục xếp hạng là một trong những mã vùng giàu nhất nước. Nó nằm ở một khu cách xa Manhattan, thoải mái, rợp bóng cây, và từng là nơi cư ngụ của những người thừa kế dòng họ Rockefeller[44] và những khối tài sản của J. Pierpont Morgan[45], với những căn biệt thự giấu mình lặng lẽ sau các bờ giậu và những bức tường đá, ở cuối những lối đi rải sỏi. Dần dần, tiền cũ bị thay bằng tiền mới, khi các đại gia quỹ phòng hộ chuyển tới, ai cũng tìm cách xây cho mình một Điện Buckingham. Paul Tudor Jones là một trong những người đầu tiên, và một trong những người phô trương nhất, khi vào năm 1994, ông và cô vợ siêu mẫu người Úc mua một biệt điện nhìn xuống Long Island Sound giá 11 triệu đô la và đập bỏ, rồi thay vào đó là một căn nhà lớn hơn nhiều, gồm ga ra để xe ngầm có thể chứa được 25 chiếc xe hơi. Nhìn từ mặt nước, mọi người thường hay nhầm căn nhà với câu lạc bộ du thuyền Belle Haven. Dù căn nhà số 30 Crown Lane đã được rao bán gần hai năm, gần đây nó mới thu hút sự chú ý của một người khác làm trong giới tài chính, một đối tác ở ngân hàng Bear Steams kiểu Phố Wall truyền thống, tên là Robert “Bobby” Steinberg. Căn nhà không có gì độc đáo, theo lời Jean Ruggiero, tay môi giới bất động sản đã làm việc với Steinberg, nhưng rất ít bất động sản ở khu này rao bán mà rộng được như thế, với cả khu đất xung quanh. Steinberg là người đứng đầu bộ phận kinh doanh chênh lệch giá rủi ro của Bear. Ông và vợ, Suzanne, có một gia đình lớn và quyết định hỏi mua căn nhà. Tối hôm đó, sau khi liên lạc với tay môi giới bán cùng đề nghị của Steinberg, Ruggiero đã gọi lại cho Steinberg. “Ông sẽ không tin điều này,” cô ta nói, “nhưng có người cũng đã đấu giá mua căn nhà.” Đây là một tình huống rất khác thưòng. Rất ít căn nhà trên thị trường có mức giá đó, và trên thực tế chưa từng ai nghe thấy cuộc chiến đấu giá một bất động sản trị giá 14 triệu đô la. Steinberg nghi có chuyện mờ ám đang diễn ra; sau khi không được ai quan tâm trong nhiều tháng trời, một đề nghị khác bỗng nhiên xuất hiện đúng vào lúc ông trả giá ư? Dẫu vậy ông cũng nâng giá, và người hỏi mua kia cũng nâng giá. Ruggiero quay lại báo tin cho Sternberg, ông vẫn quyết tâm mua căn nhà. Ông nói với Ruggiero gọi cho người môi giới của bên bán một lần nữa và nói ông sẽ trả nhiều hơn 25.000 đô la so với bất cứ mức giá nào mà đối thủ đấu giá đưa ra. Ruggiero chắc chắn là chuyện đó sẽ khiến mọi việc êm xuôi. Nhưng rồi khi cô đưa ra đề nghị mới, người môi giới của bên bán chỉ cười; tay đấu giá kia có vẻ đã nói với người môi giới của bên bán là ông ta không quan tâm khoản tiền là bao nhiêu, và rằng ông ta sẽ trả bằng tiền mặt. Ông ấy nói cụ thể: “Tôi đang đứng đây, ở Stamford với tập séc của tôi, và tôi sẽ viết séc ngay bây giờ.” Ruggiero gặng hỏi tay môi giới cho cô biết người mua là ai. Rồi cô gọi lại cho Steinberg. “Ai đó tên là Stevie Cohen,” cô nói. Sternberg chưa bao giờ nghe nói tới ông ta. Ngày hôm sau Steinberg gặp người bán hàng ở Bear Steams chịu trách nhiệm tài khoản của Cohen. “Anh có biết một gã tên Stevie Cohen không?” ông hỏi. “Có,” tay bán hàng nói. Anh ta không chắc lắm về bối cảnh của câu hỏi, nên đã trả lời mơ hồ. “Ông ấy là khách hàng.” “Anh biết gì về hắn ta?” Steinberg hỏi. Cohen là giám đốc một quỹ phòng hộ và là một khách hàng quan trọng, tay bán hàng nói. Anh ta đã tới dự đám cưới Cohen ở Plaza, và biết tới danh tiếng chuyên gia giao dịch của Cohen. Quỹ phòng hộ duy nhất mà Steinberg biết là quỹ do Ivan Boesky điều hành, quỹ kinh doanh chênh lệch giá đã bị đóng cửa trong vụ bê bối giao dịch nội gián Drexel Burnham Lambert. Steinberg, vốn nằm trong hội đồng quản trị một trong những công ty đầu tư lâu đời nhất ở Phố Wall, không quen với việc bị những tay giao dịch trong ngày ngăn cản làm điều ông muốn. “Cho tôi số của anh ta,” ông nói. Steinberg gọi cho Cohen và tự giới thiệu. “Nghe này,” ông nói, “tôi chú ý tới anh vì anh là người cũng hỏi mua căn nhà tôi đang nhắm. Vợ tôi thật sự mong muốn mua căn nhà đó.” Cohen đáp lại rằng vợ anh cũng tuyệt đối muốn có căn nhà, và do đó anh hoàn toàn quyết tâm mua nó. “Ông sẽ không mua được nó,” Cohen nói. “Tôi sẽ mua.” Khi Steinberg hỏi tại sao, Cohen đáp: “Vì tôi có nhiều tiền hơn ông.” “Chuyện này đang vượt khỏi tầm kiểm soát,” Sternberg nói, bắt đầu điên tiết. “Tôi sẽ làm thế này: tôi sẽ cho anh 1 triệu đô la nếu anh bỏ cuộc.” “Tôi biết làm gì với 1 triệu đô la chứ?” Cohen nói, rồi dừng lại. “Tôi sẽ làm thế này,” anh nói, cười khúc khích. “Hãy tung đồng xu.” “Cái gì?” Sternberg nói. “Tôi sẽ tung đồng xu xem ai được mua căn nhà,” Cohen nói. Steinberg thấy bị xúc phạm. Ông biết vợ ông sẽ rất hoảng nếu bà phát hiện ra ông đã tung đồng xu để mua căn nhà của họ. Thật ngớ ngẩn. “Không,” ông đáp. Cohen gác máy. Rồi anh gọi cho tay môi giới bất động sản, nâng giá lên 14,8 triệu đô la và mua căn nhà bằng tiền mặt. °°° Không lâu sau đó những máy xúc đất bắt đầu xuất hiện, từng chiếc một, thành một đoàn. Cohen và Alex không lãng phí thời gian trong việc khiến những hàng xóm mới của họ bực dọc bằng việc trang hoàng nhà cửa. Căn nhà số 30 Crown Lane nằm ở “khu hẻo lánh” của Greenwich, vùng rừng rậm phía Bắc thị trấn, nơi các gia đình đã giàu có nhiều đòi giữ cho mọi thứ thật lặng lẽ; việc khoe mẽ gây ra sự bất an. Tuy nhiên, những tỉ phú mới nổi như Cohen và vợ anh hoàn toàn không hay biết các tập tục như thế, và nhiều khả năng có biết thì cũng phớt lờ. Họ ngay lập tức san phẳng khu đất và xây nên những công trình khổng lồ. Một khu nhà mới được xây lên để làm sân bóng rổ trong nhà và một hồ bơi với mái vòm kính cao một tầng rưỡi trên đó. Ở sân sau, họ xây một sân trượt băng rộng 6.000 foot vuông[46] với xe cán láng mặt băng Zamboni cho riêng nó, cộng thêm một lán để xe Zamboni. Họ thêm vào một phòng mát xa, một phòng tập thể dục và một sân golf nhỏ với nhiều hố. Họ xây một bức tường đá cao 9 foot[47] xung quanh khu đất và lắp đặt hệ thống an ninh tinh vi. Công trình cuối cùng rộng 36.000 foot vuông[48], một trong những khu nhà lớn nhất trong vùng. Phải mất tới 283 lượt xe tải mới dọn hết số đất dùng cho cảnh quan. “Tôi có cảm giác đó không phải là một căn nhà,” một người hàng xóm tên Susan Hut than phiền với ủy ban quy hoạch của thị trấn. “Đó là một nơi để khoe mẽ. Nó có thể đã nằm ở Vườn Thực vật Bronx.” Ruggiero, người đã bán bất động sản ở Greenwich được 39 năm, dẫn lại thương vụ với Cohen khi cô huấn luyện những tay môi giới mới vào nghề mỗi năm. Cô dùng đó làm ví dụ về hai kiểu giàu có mà họ nhiều khả năng sẽ thấy trong những người mua bất động sản hạng sang. “Thật lạ lùng,” cô nói với họ, giải thích về loại đầu tiên, “ngay cả nếu các bạn là người mua một căn nhà trị giá 3 triệu, 4 triệu hay thậm chí là 6 triệu đô la, nghĩa là bạn có vẻ rất giàu, bạn vẫn chỉ là người làm công - bạn vẫn phải lo lắng về lương bổng của mình.” Tuy nhiên, có một loại người giàu thứ hai, mà với họ tiền bạc chẳng là gì theo đúng nghĩa đen. Họ đơn giản là rút cuốn séc ra và trả bất cứ giá nào. Những người này là khách hàng tuyệt vời cho ngành bất động sản. Nhưng nếu bạn phải đấu giá với họ, cô nói với những tay môi giới khác, thì tốt hơn là nên tránh đường cho họ. “Lúc bạn có thể chi 10 triệu, 20 triệu đô la, bạn không phải lo lắng về tiền lương của mình nữa,” Ruggiero nói. “Steve Cohen không phải lo lắng về lương bổng của ông ta. Stevie muốn gì thì có đó.” Chương 3 ĐỘI HÌNH SÁT THỦ Từ năm 1998 tới 1999, SAC đạt đến một cột mốc mới, vượt qua mốc tài sản 1 tỉ đô la mỗi năm, điều đạt được sau năm năm liên tiếp tăng gần như gấp đôi tài sản mỗi năm. Tuy nhiên, khi SAC tăng trưởng, những điểm bất lợi trong cách tiếp cận thô ráp của họ trở nên ngày càng rõ ràng đến mức Cohen không thể lờ đi được. Ông có hàng trăm triệu đô la để đầu tư, và vì thế, quy mô các thương vị của quỹ lớn hơn bao giờ hết. Nhưng phương thức giao dịch của Cohen, vốn tiếp tục là kiểu giao dịch trong ngày, chỉ hiệu quả với một lượng tiền nhỏ, khi một người có thể xây dựng những thương vị khiêm tốn hơn, nhưng ăn nhiều thua đậm, và tháo chạy nhanh chóng. Các quỹ phòng hộ mới khai trương mỗi ngày, với các đối thủ cạnh tranh chuyển sang những lĩnh vực mà Cohen từng một thời cho là của riêng ông. Với quá nhiều giao dịch viên theo đuổi cùng ý tưởng, lợi nhuận ngày càng khó kiếm. Khi các giao dịch viên ở những công ty khác phát hiện ra Cohen đang mua một chứng khoán cụ thể, họ cố gắng bắt chước những gì ông đang làm, đẩy giá lên và triệt tiêu phần lợi nhuận từng có thời đến dễ dàng. Khi nghiền ngẫm những đòi hỏi mới mà quy mô của quỹ hiện đang đặt lên các giao dịch viên của mình, Cohen nhìn quanh sàn giao dịch của SAC và cảm thấy khó chịu bởi những gì ông thấy: một căn phòng đầy những gã đàn ông nói giọng Long Island hay New Jersey, vốn không thể hòa mình vào bất cứ hội thảo nào của giới phân tích tài chính chính thống nếu họ thử đến dự. Họ đang giao dịch mua bán cổ phiếu của các nhà sản xuất vi mạch và công ty công nghệ sinh học mỗi ngày mà không mấy hiểu biết về việc những công ty đó thực sự làm gì. Họ thậm chí không đáng được gọi bằng cụm từ có tính chất rập khuôn của Phố Wall: “giới đầu cơ”. Họ chỉ là những con bạc, và là những con bạc kém sành sỏi. Cohen cảm thấy rằng ngành này đang thay đổi, và ông cần phải thay đổi với nó. Ông cũng có cái tôi cần được nuông chiều. Ông muốn được biết tới như một nhà đầu tư thông minh, chứ không chỉ là một “giao dịch viên”, tước hiệu vốn không đi kèm với nhiều uy tín. Mục tiêu mới của ông đối với SAC là phải trở thành một công ty được kính trọng, một công ty sẽ xác lập ông ở vị thế một giám đốc quản trị tiền bạc huyền thoại. Để đạt được điều đó, ông và các nhân viên cần học cách phân tích những vụ đầu tư của họ một cách tinh tế hơn, học cách hiểu các công ty sẽ hoạt động ra sao trong những giai đoạn dài hạn, thay vì mua bán mù quáng dựa trên xung lực nhất thời. Và để làm được điều đó ông cần tuyển dụng kiểu người mà trước đó ông xa lánh - các chuyên gia biết đôi điều về chứng khoán mà họ sẽ mua. Họ sẽ có được lợi thế trực tiếp từ các công ty và những nguồn khác thay vì dựa vào nghiên cứu của các công ty như Goldman Sachs và Morgan Stanley. “Chúng ta sẽ thay đổi cách làm ở đây,” Cohen tuyên bố vào một buổi chiều sau khi thị trường đóng cửa. Ông nói với đám sĩ quan cấp cao nhất của mình rằng từ giờ trở đi, ông muốn tuyển dụng chỉ những giao dịch viên có “lợi thế nền tảng”, tức là có chuyên môn sâu hay các mối quan hệ trong một ngành cụ thể. Ông đi vòng quanh bàn giao dịch của SAC, chỉ vào từng nhân viên một và chỉ định họ người thì phụ trách giao dịch mảng chăm sóc y tế, người thì làm chuyên gia cổ phiếu hàng tiêu dùng, người thì giao dịch ngành năng lượng. Người nào không thể thích nghi và tự biến mình thành chuyên gia sẽ phải ra đi. Thời đại của chủ nghĩa chống tri thức ở SAC đã chấm dứt. Sự chuyển biến này mở cánh cửa cho một giống loài mới ở công ty: những tay khôn khéo, quan hệ rộng, tốt nghiệp chuyên ngành từ các trường Ivy League. Để tái thiết công ty, Cohen bắt đầu cuộc săn người. Ông tuyển dụng một giao dịch viên chuyên cổ phiếu công nghệ tên là David Ganek, con trai của một giám đốc quỹ đầu tư giàu có, người từng điều hành phòng kinh doanh chênh lệch giá rủi ro[49] ở ngân hàng đầu tư Donaldson, Lufkin & Jenrette. Ông chiêu mộ một giao dịch viên khác tên là Larry Sapanski, từ Morgan Stanley, người nổi tiếng là một nhà đầu tư xuất sắc trong lĩnh vực dầu mỏ và khí đốt. Cohen bố trí cho những giao dịch viên mới mà ông nghĩ là giỏi nhất ở gần ông để ông có thể thấy họ đang làm gì. Khu vực này của sàn giao dịch đó này trở nên nổi tiếng mang tên “đội hình sát thủ”[50], cụm từ từng được dùng để mô tả đội hình xuất phát của đội bóng chày New York Yankees vào cuối những năm 1920, khi các cầu thủ như Babe Ruth và Lou Gehrig tạo thành đội bóng hay nhất trong lịch sử. Một trong các nhân viên cũ của SAC xoay xở chuyển đổi được sang phong cách mới là một cựu cầu thủ bóng rổ đại học tên là Richard Grodin, người đã làm việc cho Cohen từ năm 1992. Khi Cohen hỏi anh xem anh muốn chuyên lĩnh vực nào, Grodin ngay lập tức chọn công nghệ - cụ thể là các hãng sản xuất linh kiện bán dẫn. Với Grodin, công nghệ đồng nghĩa với tăng trưởng và các sản phẩm mới và đầy rẫy các cơ hội giao dịch. Anh ta tin rằng mình có thể phân tích ngành vi mạch trên khía cạnh chuỗi cung ứng, sự phụ thuộc lẫn nhau của các công ty sản xuất linh kiện cho các sản """