"
Lời Bộc Bạch Của Một Thị Dân PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lời Bộc Bạch Của Một Thị Dân PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
LỜI BỘC BẠCH CỦA MỘT THỊ DÂN —★—
Tác giả: Márai Sándor
Người dịch: Giáp Văn Chung
Phát hành: Nhã Nam
Nhà xuất bản Văn Học 2010
ebook©vctvegroup
Ghi chú:
Bản in lần thứ ba Lời bộc bạch của một thị dân có sửa chữa này là văn bản cuối cùng.
Các nhân vật trong cuốn hồi ký mang tính tiểu thuyết này là hình tượng hư cấu: họ chỉ có chỗ đứng và tính cách trên những trang sách này, trong thực tế họ không tồn tại và chưa bao giờ từng sống.
M.S.
QUYỂN MỘT
CHƯƠNG I
1.
Trong thành phố[1] có tất cả chừng hơn chục nhà ba tầng: ngôi nhà chúng tôi ở, hai trại lính và vài tòa nhà công. Sau này, người ta xây dựng thêm dinh bộ chỉ huy quân đoàn, cũng ba tầng, và bên trong có thang máy. Nhưng ngôi nhà của chúng tôi trên Phố Chính thì đúng là một ngôi nhà ở thành phố lớn; thực ra đây là nhà cho thuê, có mặt tiền rộng, cổng gạch lớn, và cầu thang rộng - ở chỗ cầu thang có gió lùa, dân đi chợ sáng sáng vẫn ngồi trên các bậc cấp cầu thang, mặc áo khoác vải thô Halina[2], đội mũ da cừu, ăn thịt mỡ hun khói, hút tẩu và nhổ nước bọt -, trên mỗi tầng có một dãy cửa sổ dài, mười hai ô cả thảy, nhìn xuống đường phố. Các căn hộ ở tầng hai, như căn hộ của chúng tôi, được xây thêm một ban công hẹp, mùa hè chúng tôi thường treo những khay nhồi đất trồng hoa thiên trúc bì lên dãy lan can sắt. (“Hãy làm đẹp thành phố của bạn!” - khẩu hiệu là như vậy, và có cả một hội được thành lập để hỗ trợ sáng kiến này, Hội Mỹ quan Thành phố). Đó là một tòa nhà rất đẹp và đặc biệt bề thế, một tòa nhà thực sự “hiện đại” đầu tiên trong thành phố, mặt tiền xây bằng gạch mộc đỏ, kiến trúc sư đã gắn vào phía dưới các khung cửa sổ đủ thứ hình thù kỳ lạ bằng thạch cao, nói chung là tất cả các khao khát mà dân kiến trúc hồi cuối thế kỷ có thể gắn lên một tòa nhà mới tinh như thế.
Trong thành phố này, mọi ngôi nhà, kể cả các ngôi nhà có nhiều gia đình sinh sống và trả tiền thuê, đều giống như nhà riêng của một gia đình. Gần như không thể nhìn thấy thành phố thật, nó nằm ở phía bên trong, trải rộng ra sau mặt tiền các ngôi nhà một tầng dọc phố. Nếu ngó vào một cổng vòm, khách lữ hành sẽ trông thấy bốn năm cái nhà khác trên khoảng sân mà đám con cái cháu chắt đã xây dựng kín chỗ; cứ hễ một đứa con trai lấy vợ, người ta sẽ vẩy thêm cho nó một căn hộ liền kề với ngôi nhà cũ. Thành phố thật ẩn náu nơi sân sau của những ngôi nhà. Người ta sống khép kín với sự thận trọng ganh tị và ám muội, theo thời gian mỗi gia đình xây dựng cho mình một khu phố nhỏ, bưng bít riêng tư, một khu nhà nhỏ được đại diện chính thức và công khai trước bàn dân thiên hạ bởi mặt tiền quay ra
phố. Trong môi trường như thế, không có gì lạ khi ngôi nhà nơi hồi đầu thế kỷ cha mẹ tôi thuê, một căn hộ được coi là tòa nhà chọc trời thực sự, và tiếng tăm của nó sớm lan ra khắp cả tỉnh. Đó là một tòa nhà cho thuê đúng kiểu, buồn tẻ, mà bấy giờ ở thủ đô người ta đã xây dựng hàng trăm cái: nhà cho thuê với những người thuê nhà, gang[3] lan can sắt chạy vòng vèo trên các tầng, buồng giặt, hệ thống sưởi trung tâm và closed[4] dành cho người ở đặt cạnh các cầu thang phụ. Cho tới lúc đó người ta chưa bao giờ thấy một ngôi nhà như vậy trong thành phố. Sưởi trung tâm là một phát kiến hiện đại, nhưng người ta còn nói nhiều đến các closet, vì - trải qua hàng thế kỷ, bởi lý do tế nhị - không ai quan tâm đến chuyện những người ở “giải quyết nỗi buồn” ở đâu. Vị kiến trúc sư “hiện đại” xây dựng ngôi nhà cho thuê này là một người sáng tạo mới trong vùng, khi ông dứt khoát tách riêng nơi giải quyết nhu cầu cần thiết của chủ nhà và người ở. Hồi còn đi học, tôi cũng từng khoe khoang rằng mình sống trong một ngôi nhà mà người ở dùng closet riêng. Thực ra đám người giúp việc, vì e ngại và cảm thấy xa lạ, đã tránh sử dụng các closet ấy, mà cũng không thể biết họ đi ở đâu. Có lẽ vẫn ở những nơi cũ, đã trải qua hàng thế kỷ, từ buổi ban đầu.
Vị kiến trúc sư đã thoải mái tung hoành theo ý thích, không phải tiết kiệm diện tích, cũng như vật liệu. Từ cầu thang, cửa căn hộ mở vào một phòng ngoài rộng cỡ phòng ngủ, kê sẵn một tủ gương, tường treo tấm đựng bàn
chải may bằng vải thêu và sừng hươu, trong phòng này mùa đông lạnh kinh người, vì người ta đã quên lắp lò sưởi; rồi thế là trong nhà cũng chẳng sưởi ấm, và áo khoác lông thú của khách khứa cứ việc đông cứng trên móc áo. Đúng ra thì đây là “lối vào chính” từ cầu thang, nhưng chỉ có các vị khách đáng kính mới đi cửa này. Người ở, người nhà, người thân đều vào nhà qua lối hành lang, cạnh bếp có một cửa ra vào nhỏ lắp kính, không có nút nhấn chuông, phải gõ lên cửa sổ bếp. Bạn bè của gia đình cũng thường vào theo lối này. Trong năm chúng tôi chỉ đi qua “cửa chính”, qua phòng ngoài có gắn sừng hươu hai đến ba lần, hôm đặt tên của cha tôi và mấy buổi tối dịp lễ hội hóa trang. Một lần, như đặc ân, tôi đã xin mẹ món quà sinh nhật là vào một ngày bình thường, chỉ mình tôi với niềm hân hoan của riêng mình, được đi qua phòng ngoài phía cầu thang để vào nhà.
Cái sân hình chữ nhật và cực rộng, ở giữa là giàn giũ bụi, nom như những giá treo cổ, và một giếng nước có bánh xe, nước bơm lên các nhà bằng máy bơm chạy điện. Khi đó trong thành phố người ta còn chưa biết đến ống dẫn nước. Vào các buổi sáng sớm và chiều tối, bà vợ ông quản gia đến bên giếng nước, bật động cơ điện và để nó chạy tới khi ông an toàn đặt dưới máng nước gác hai phụt xuống sân một tia nước mảnh, báo hiệu cả cái bình ở cao nhất cũng đã đầy nước uống. Cảnh tượng khác lạ này, đặc biệt vào lúc mặt trời lặn, cuốn hút tất cả những người không sợ tổn hại lòng kiêu hãnh khi chạy ra nhìn ngắm, đặc biệt là lũ trẻ con và đám người ở. Hồi đó, đa số các nhà trong thành phố đã có mốt dùng đèn điện; người ta dùng đèn điện kèm với đèn khí gas loại Auer. Nhưng vẫn còn nhiều nơi thắp cả đèn dầu hỏa. Ông tôi, cho đến tận cuối đời vẫn dùng đèn treo thắp dầu hỏa, và khi chuẩn bị thi tốt nghiệp trung học, tôi được cha mẹ gửi đến ăn ở tại nhà một thầy giáo đồng thời là người điều khiển ca đoàn trong nhà thờ ở thành phố bên cạnh, thì cả năm ấy tôi đã học hành và chơi bài dưới ánh sáng đèn dầu; chính tôi cũng cảm thấy tình trạng đó là lạc hậu và việc tôi phải học tập ở một nơi chậm tiến như vậy đã làm tổn thương lòng tự trọng của tôi. Lúc tôi còn thơ ấu, nhà chúng tôi vẫn tự hào về chuyện dùng đèn điện, nhưng những lúc có thể, khi không có khách, chúng tôi thường thắp loại bóng đèn khí gas màu có ánh sáng dìu dịu. Trong nhà thường thoang thoảng mùi khí gas. Về sau, một vị thông thái nào đó đã chế tạo ra bộ phận châm đèn an toàn, là một miếng platina mỏng lắp lên trên tấm màng của bóng Auer. Khi mở gas, tấm platina sẽ rung lên, nóng đỏ và tự động đốt cháy khí gas dễ bắt lửa. Cha tôi ưa thích những phát kiến kỹ thuật mới mẻ và là một trong những người đầu tiên trong thành phố cho lắp cơ cấu an toàn này lên đèn chùm của nhà mình. Nhà chúng tôi cũng thắp sáng bằng đèn dầu, chủ yếu là những người ở thắp trong nhà bếp; cả viên quản gia cũng thắp đèn dầu ngoài cầu thang. Người ta hâm mộ đèn điện, nhưng còn chưa tin tưởng lắm.
Ống sưởi từ trung tâm cứ kêu lọc xọc và lục bà lục bục khác thường. Mẹ tôi liền đặt lò sưởi than vào phòng học của các con vì bà không tin tưởng thứ hơi nước kỳ diệu kia. Những thứ kỳ diệu hồi đầu thế kỷ hay làm khó dễ cho cuộc sống. Các nhà phát minh sáng chế học tập qua thiệt hại của
người dùng. Một thập kỷ sau thì thế giới đã ầm ĩ và xì xoẹt bởi điện, bởi hơi nước, bởi động cơ nổ; nhưng đúng vào tuổi thơ tôi, các nhà sáng chế
vẫn đang còn khoan đục những phát minh ấy, chúng chưa hoàn chỉnh và gần như không thể sử dụng nổi, nhưng nhà sáng chế táo bạo cứ tròng chúng vào cổ những người dễ tính cả tin. Đèn điện chỉ sáng lờ mờ, đỏ quạch và chập chờn. Ống sưởi hơi thì tắc nghẽn trong giá lạnh ghê người hoặc làm tràn ngập các phòng thứ hơi nóng ẩm ướt quá mức, vì thế mà nhiều khi chúng tôi phát bệnh, nhưng vẫn phải cố “theo kịp thời đại”. Chị gái của mẹ tôi chẳng hạn, không thích “theo kịp thời đại”, vẫn dùng củi gỗ đốt trong các lò sưởi màu trắng, và chúng tôi rất thường bỏ chỗ sưởi bằng hơi chạy sang đó sưởi nhờ, sung sướng tận hưởng sự ấm nóng tỏa đều và thơm tho của gỗ sơn mao.
Khoảng sân rộng thường xuyên lộng gió, tiếng gió thổi ù ù, vì sân mở về phía Bắc, nơi cả trong mùa hè tuyết vẫn bao phủ trên những dãy núi cao nhấp nhô vây quanh thành phố. Kiến trúc sư thiết kế đã nối ngôi nhà ba
tầng quay ra mặt phố bằng hai dãy nhà hai tầng chạy hai bên cánh sân; và ở phía cuối sân, người ta xây thêm một ngôi nhà một tầng khá xinh xắn, kiểu nhà hai phòng dành cho gia đình, đây là nhà của người quản gia. Tất cả kéo dài và chiếm khá nhiều đất. Có vẻ như chính người thiết kế cũng không tin
sẽ có đủ người để lấp đầy dãy nhà thuê, nên đã không xây thừa tầng cho các nhà trong sân. Toàn bộ khu nhà chứa đựng thông điệp về một thời đại mới, về niềm kiêu hãnh của chủ nghĩa tư bản năng động đang hình thành
và vươn lên. Đây là ngôi nhà đầu tiên trong thành phố được xây dựng không phải với dụng ý để các cư dân của nó sống mòn mỏi đến cuối đời giữa những bức tường đáng tin cậy - theo tôi biết, những người cũ thuê nhà hồi đầu thế kỷ giờ chẳng còn ai sống ở đây nữa. Một ngôi nhà cho thuê với những người đến thuê. Các gia đình phong lưu lâu đời không thích ở thuê trong khu nhà như vậy. Họ còn hơi coi thường đám người đến ngụ cư trong ngôi nhà lớn đó.
2.
Cha tôi cũng cảm thấy người sang trọng thì không thể sống ở nhà thuê; và ông đã làm mọi việc để chúng tôi chóng sở hữu nhà riêng. Nhưng đến được lúc đó cũng còn lâu, có dễ phải một thập kỷ rưỡi nữa. Tôi chỉ về “nhà riêng” để thăm gia đình, lúc đó tôi đã thành một học sinh lớn, và chẳng có được những kỷ niệm rõ rệt về ngôi nhà quá rộng rãi và gần như xa hoa ấy.
Tuổi thơ của tôi trôi đi trong căn nhà thuê. Nếu nghĩ đến hai chữ “nhà mình”, tôi nhìn thấy khoảng sân rộng của ngôi nhà trên Phố Chính, những hành lang dài có lưới sắt, giàn giũ bụi và cái giếng có máy bơm nước chạy bằng động cơ điện. Tôi nghĩ dẫu sao đó cũng là tòa nhà đơn điệu, không kiểu dáng. Chẳng ai biết nó đã mọc lên ở đó như thế nào, những cư dân của nó không phải là bạn bè, quan hệ láng giềng cũng hầu như không có. Người sống trong tòa nhà này chia thành các đẳng cấp, giai tầng, giáo phái khác nhau. Còn sống trong những ngôi nhà một tầng xưa cũ là các gia đình, những kẻ thù hay bè bạn, nhưng nhất thiết đều có mối liên quan không gỡ bỏ được với nhau.
Có hai gia đình Do Thái sống trong ngôi nhà: một gia đình Do Thái giàu có, “kiểu mới”, “tiến bộ”, tân thời và thị dân hóa, họ thuê hết cả phần nhìn ra phố trên tầng ba, sống hơi kín đáo và kênh kiệu, không thân thiện với những người khác trong khu nhà; và dưới tầng một phía sân sau là một gia đình Do Thái khác theo Chính giáo, rất đông đúc, họ nghèo và sinh sôi nhanh đến mức kỳ lạ, thường xuyên có họ hàng mới đến, trẻ con mới sinh, ở chen chúc cả phía sân sau, trong ba căn phòng mờ tối, thỉnh thoảng vào ngày lễ, nhà chật ních khách khứa, người trong nhà ầm ĩ, náo nhiệt y như các thành viên của một hội nghị đang chuẩn bị cho công việc có tính quyết định sống còn nào đó. Những người “Do Thái nghèo” này chủ yếu vẫn vận trang phục vùng Galicia[5] và tuân thủ nghiêm ngặt các điều răn của tín ngưỡng - tôi cũng không rõ thực ra họ có nghèo đến mức ấy thật không -, nhưng dẫu sao những người Thiên Chúa giáo vẫn nhìn họ với con mắt nhiều thiện cảm hơn, so với những người Do Thái “tân thời” giàu có. Đôi khi, một vài người trong gia đình “Do Thái nghèo” dưới tầng một cắt đi mái tóc khác thường của họ, mặc quần áo dân thường, ném bỏ áo caftan[6], khăn đội đầu da cáo, cạo râu, phục sức hợp thời trang - sự thay đổi này nhanh chóng lan sang hầu hết những người khác trong nhà. Trẻ con nhà họ đã theo học các trường công, thậm chí một vài đứa đã ghi tên vào cả các trường trung học. Sau mươi, mười lăm năm, trong khu nhà không còn người Do Thái nào mặc áo caftan, cả trong thành phố cũng rất hiếm. Trẻ con nhà họ đông đến mức tôi không còn nhớ hết từng đứa. Xét về mọi mặt, gia đình này sống với các cư dân Thiên Chúa giáo trong khu nhà thân thiện và tin cậy hơn so với gia đình phong lưu kiểu “tân thời” kia. Trong khu nhà người ta nói về họ thiện cảm hơn, gần như thầm thì: họ là “những người
Do Thái của chúng ta”, những “người rất tử tế và lương thiện”, chúng tôi gần như hãnh diện khoe rằng trong ngôi nhà cho thuê lớn, hiện đại của chúng tôi có những người Do Thái thực sự sinh sống. Chúng tôi ít khi gặp những người Do Thái sang trọng sống trên tầng ba. Họ thực sự sống cuộc sống của giới thượng lưu, họ đi du lịch nhiều, con cái họ học hành tại các trường Công giáo La Mã, bà chủ nhà - một phụ nữ gầy gò, nét mặt buồn, mắc bệnh tim - chơi đàn dương cầm giỏi và đặt may quần áo ở thủ đô. Những người đàn bà thị dân và tiểu thị dân trong khu nhà dĩ nhiên ghen tị với bà ta. Quần áo sang trọng của bà làm gai mắt và sinh lòng đố kỵ; tôi cũng cảm thấy như thế là không hợp lẽ và bất nhã, vì những người láng giềng tầng trên “dẫu sao cũng chỉ là dân Do Thái”, lại sống quảng giao và sang trọng hơn chúng tôi, và người đàn bà giàu có kia lại ăn vận lịch sự hơn, chơi đàn dương cầm và lên xe xuống ngựa nhiều hơn mẹ tôi. “Mọi thứ đều phải có giới hạn”, - tôi nghĩ thế. Với gia đình theo Chính giáo, với con cái họ, chúng tôi hòa hợp hơn. Bọn họ mặc nhiên công nhận gốc gác Do Thái của mình, không coi như thế là hạ mình, và họ cũng gìn giữ gốc gác ấy bằng các món ăn, bằng trang phục, bằng những nghi lễ, bằng thứ ngôn ngữ xa lạ và nghèo nàn của họ, họ pha trộn tiếng Đức, tiếng Yiddish[7] và tiếng Hung một cách bí ẩn; bằng sự công nhận những khác biệt hiển nhiên của họ, chúng tôi chỉ coi họ như một bộ tộc lạ thì đúng hơn là những con người đáng thương, xa lạ, yếu đuối, mà mọi linh hồn Công giáo thiện tâm phải thương yêu. Mẹ tôi thường gửi hoa quả ngâm xuống cho người phụ nữ đứng tuổi dưới đó - mùa thu nào cũng thấy bà sinh nở, và dịp lễ Phục sinh nào bà cũng gửi lên cho chúng tôi bánh maceszt[8] gói trong mảnh khăn trắng bong, chúng tôi lịch sự cám ơn rồi chăm chú ngắm nghía, nhưng tôi nhớ chẳng một ai động đến, cả những người ở cũng không. Chúng tôi thương hại và chấp nhận gia đình này, coi họ như những người da đen được thuần dưỡng. Thỉnh thoảng mẹ tôi cũng trò chuyện với họ, dĩ nhiên là chỉ từ trên tầng gác, trong khi dọn dẹp, bà nói với xuống dưới vài câu thân tình; và người đàn bà phờ phạc, đội tóc giả, lúc nào cũng thấy cho con bú, lặng lẽ đáp: “Vâng, thưa bà lớn”. Tôi không nghĩ rằng mẹ tôi muốn thể hiện “sự chênh lệch xã hội” đối với người đàn bà Do Thái đáng thương; mà cũng không cần thiết phải làm điều đó. Gia đình họ biết sự chênh lệch này, và những người ở tầng dưới không hề nghĩ đến chuyện cầu thân; chỉ rất lâu về sau tôi mới nhận ra rằng gia đình này chú ý đến sự
khác biệt của họ cẩn thận không kém gì các gia đình Thiên chúa giáo, đúng, có lẽ còn ganh tị hơn, và theo cách của mình, họ còn thu mình lại kiêu hãnh hơn, thận trọng hơn trước mọi khả năng thân thiện, so với cách chúng tôi làm điều đó. Về đại thể, nhìn chung những người sống trong khu nhà đều che chở cho những “người Do Thái nghèo”. Chúng tôi nhìn nhận những lễ lạt, tục lệ của họ với sự cảm thông đầy thiện ý. Tất nhiên những người “thức thời” không dựng lều bạt ngoài sân vào dịp lễ hội, họ ít khi đến nhà thờ, và có lần cha tôi ngạc nhiên, thậm chí hơi bực mình kể ông đi cùng với những người Do Thái sang trọng, trên toa xe hỏa họ ăn thứ nho tươi trồng ở miền Nam, gói trong bông, vào cuối tháng Ba - cả buổi tối chúng tôi nói về chuyện này, kinh ngạc và khó chịu, đặc biệt mẹ tôi bị kích động bởi sự “bất nhã” đó.
Hai gia đình Do Thái không đi lại với nhau bao giờ. Có vẻ như những người “tân thời” sống trên một hành tinh khác. Người đàn ông tầng trên là chủ một nhà máy sản xuất thủy tinh trong vùng, ông đi nhiều, một người to béo đầu hói, đối xử với vợ khá tồi, ông ta đã lừa dối bà vợ già sớm, đượm buồn, cặp kè với các cô nàng thu ngân ngoài quán xá, dĩ nhiên cả thành phố đều biết. Người đàn bà chấp nhận số phận hẩm hiu theo lối nhẫn nhịn hơi lãng mạn, thường chơi đàn dương cầm trước ô cửa sổ mở rộng, rất du dương, cố ý và rất lâu. Trong khu nhà người ta biết gia đình này không ăn món kosher[9], họ ăn giăm bông và nấu nướng bằng mỡ lợn; cả điều này cũng làm cho dân trong khu nhà không ưa họ. Nếu có “vấn đề Do Thái” trong khu nhà này thì nguyên nhân đàm tiếu dứt khoát không phải gia đình Chính giáo kia. Tất cả chúng tôi, những người sống trong khu nhà, đều có cảm tình với gia đình những người Galicia ở tầng một mặc áo caftan và để tóc thành từng lọn hơn so với ông chủ nhà máy thủy tinh và cái gia đình đã văn minh hóa triệt để của ông ta. Chúng tôi quan sát lối sống cao cấp hơn, đã thị dân hóa của những người “tân thời” với sự ganh tị đặc biệt, chúng tôi e ngại họ một điều gì đó mà chính chúng tôi cũng không rõ là gì. Trong mối giao tiếp xã hội có chừng mực, người đàn ông tỏ ra lịch sự và bàng quan với những người Thiên Chúa giáo, coi thường và kiêu ngạo đối với những người Do Thái nghèo ở tầng một. Chúng tôi chưa bao giờ nghe thấy cha mẹ nói phải tránh giao du với con cái gia đình Chính giáo, chưa bao giờ cha mẹ cấm chúng tôi chơi với những đứa trẻ xanh xao, mắt to, trong những bộ quần áo già nua khác thường nom chúng như những người lớn tí
hon, bao giờ chúng cũng đội mũ, và không hề nhẫn nhịn, trong lúc chơi hăng, nhiều khi chúng giễu cợt gọi đám trẻ con Công giáo là “sabeszgój[10]”, và những đứa kia cũng chẳng lấy làm khó chịu vì chúng cũng không hiểu nghĩa của từ này. Một nửa tá trẻ con Chính giáo đùa nghịch với lũ trẻ Công giáo, chúng tôi lớn lên trên cái sân ấy, còn đám trẻ con ông chủ nhà máy thủy tinh - được một “Fraulein[11]” đưa tới trường, lại có gia sư đến tận nhà kèm cặp - thì tránh xa không nhập bọn với con cái nhà Do Thái vô sản dưới sân. Chẳng khi nào chúng tham gia trò chơi chung, và sự khép kín thượng lưu này làm tổn thương lòng tự trọng của tôi đến mức vào một buổi chiều tôi đã lừa thằng con trai lớn nhất, khi đó đã học lớp Ba, xuống tầng hầm và khóa trái nhốt nó trong phòng nồi hơi, rồi như người xong việc, tôi bỏ về nhà, không nói hở một lời nào. Đến đêm, khi cả cảnh sát cũng lục tìm đứa trẻ bị thất lạc và tiếng gào khóc của bà vợ ông chủ nhà máy thủy tinh ầm ĩ khắp khu nhà, tôi vẫn im lặng. Sáng ra người thợ lò tìm thấy thằng bé. Điều kỳ lạ nhất là nó không bao giờ khai ra tôi. Thằng bé nom chậm chạp, rề rà, đôi mắt buồn ngủ im lặng một cách bướng bỉnh khi người ta tra hỏi, cả về sau này, không bao giờ nó kể tội tôi về mối thù ấy, và nhiều năm sau, khi chúng tôi kết bạn với nhau, nó cũng không đả động đến việc này. Có thể nó cảm thấy tôi làm thế là đúng. Trẻ con thường xét đoán nhanh và khó có thể thay đổi.
Con cái của gia đình dưới tầng một dần dần chuyển đi, nhưng năm nào nhà họ cũng dựng lều dưới sân bằng thảm và các tấm trải giường, ông chủ gia đình - một tộc trưởng kỳ lạ và kiệm lời, cứ chiều chiều lại vào lều, một mình giết thời gian trong cái công trình đặc biệt ấy. Các con ông khẳng định những lúc như thế ông thường cầu nguyện. Một lần chúng tôi nhìn trộm qua khe hở giữa các tấm chăn, nhưng chỉ thấy ông ngồi trên một chiếc ghế đặt giữa lều và buồn bã nhìn vào hư vô. Có lẽ ông chán chường. Một buổi sớm, cả khu nhà thức dậy trong một sự bấn loạn khác lạ, những người Do Thái mặc áo caftan nối đuôi nhau ra vào căn hộ dưới tầng một, trong nhà chật ních người lạ. Một đứa con trai, thằng Lajos chín tuổi, chui ra từ đám người, trả lời câu hỏi của chúng tôi với nét mặt kiêu hãnh và ưu tư:
– Bố tớ đã chết đêm hôm qua. Toàn chuyện bực mình - nó nói thêm với vẻ thờ ơ và kẻ cả không thể diễn tả nổi.
Và suốt ngày nó giữ cái vẻ kiêu căng ấy, nhìn cao ngạo hết chịu nổi. Vì vậy đến chiều tối chúng tôi đã nện cho nó một trận, dù chẳng có lý do rõ rệt nào.
3.
Chúng tôi sống trên tầng hai, và bên cạnh chúng tôi là nhà băng. Ngay từ đầu, nhà băng đã chiếm ba phòng dài và tối, phòng giám đốc thẳng cửa từ cầu thang vào, bên cạnh là phòng thủ quỹ, bộ phận kế toán được bố trí trong căn phòng nhìn về phía sân. Phòng làm việc của cha tôi và văn phòng giám đốc chung một bức tường, trên tường người ta khoét một “lỗ bí mật”, nếu ông giám đốc nhắn một điều gì đó, ông chỉ việc mở cái cửa bằng sắt tây và đưa thư từ, văn bản hay hối phiếu đã quá hạn. Cách giải quyết công việc cổ lỗ sĩ như thế đã hữu hiệu trong hàng thập kỷ, cái nhà băng cứ thế mà phát đạt. Có hai người đàn bà đứng tuổi làm kế toán, còn chân thủ quỹ do một sĩ quan kỵ binh về hưu non đảm trách, ông này vác bộ mặt bất mãn vì số phận đã thay đổi, và ông quát lác những người nông dân đến vay tiền hay trả lãi cứ như thể ông vẫn còn ở trong trại lính. Viên sĩ quan kỵ binh đó đã từ bỏ cấp bậc để lấy người yêu là một cô giáo nghèo. Sau khi xong việc lớn này, ông không tìm thấy chỗ đứng của mình trong xã hội, ông nhớ tiếc cuộc sống cũ và bắt đầu uống, ông nguyền rủa cái trật tự thế giới đã hạ cấp ông từ một sĩ quan kỵ binh xuống làm chân thủ quỹ nhà băng, và ông hay lớn tiếng than thở về ước vọng “một chuyện gì đó sẽ diễn ra”. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy ai hạnh phúc hơn viên sĩ quan kỵ binh thất thế này vào ngày đầu tiên của Thế chiến I, khi ông lại mặc bộ quân phục và khua kiếm bước vào nhà băng tạm biệt cấp trên, họ lại nói chuyện với ông bằng những ngôn từ chọn lọc, còn ông thì vừa vân vê ria mép, vừa đáp những câu ngắn gọn, vì ơn Chúa, cuối cùng “một chuyện gì đó đã diễn ra”. Con người này, cũng như bao nhiêu người khác, đã đi vào chiến tranh thật hăm hở, và đã chết ngay trong năm đầu của cuộc chiến.
Nhưng khi hơi khói của chiến tranh còn chưa phảng phất, trong mấy căn phòng tôi tối trên tầng hai, cái nhà băng nhỏ, “nhà băng của chúng tôi”, ăn nên làm ra phát đạt. Các thân chủ của ngân hàng hạ trại ở cầu thang, vai đeo túi vải, sù sụ áo khoác, đợi đến lượt mình. Phần lớn họ là nông dân nghèo từ các huyện phía Bắc của tỉnh, nơi thu hoạch luôn luôn thấp, người
có mười hold[12] đất đã được coi là địa chủ hạng trung, nhưng đất ở đó xấu, bãi chăn thả cằn cỗi, nên một chủ sở hữu 500 hold đất cũng chưa được coi là phong lưu. Là người Slovak ở quanh vùng này, họ gần như không nói tiếng Hung, mà giống như những người giúp việc của chúng tôi, họ nói tiếng Slovak pha lẫn tiếng Hung, còn chủ nhân của họ, đa phần là dân nhập cư gốc Đức, thường lấy tiếng Hung làm ngôn ngữ giao tiếp chính thức trong các buổi họp mặt thượng lưu, nhưng khi ở trong gia đình lại chỉ sử dụng tiếng Đức vùng Saxon. Toàn bộ tình trạng này không có chủ ý. Không khí thành phố đượm chất Hungary, nhưng sau bữa tối, khi đi dép, mặc áo cộc, ngay cả các quý ông cũng chuyển sang nói tiếng Đức. Một kỷ niệm trong sáng, không gợn chút bóng mờ, đáng tự hào của tuổi thơ tôi là trong ngôi nhà có cả nhà băng, một nhà băng thực thụ, có thủ quỹ và tiền mặt. Vào thời ấy, thương vụ ngân hàng vẫn còn đúng là một cái gì đó đơn giản, trong sáng không một gợn mây. Những người nông dân đến ngân hàng vào buổi sáng, túi dết đựng thịt mỡ hun khói, rượu trắng và bản trích ngang sổ địa bạ mà chưởng khế viên làm cho họ, và chờ đến lượt mình. Mười hai giờ trưa hội đồng họp “duyệt”, các thành viên ban quản trị, hai vị cha cố già, ông giám đốc nhà băng và viên tư vấn luật ngồi lại xem xét, rồi bỏ phiếu duyệt các khoản vay một trăm và hai trăm đồng cuaron, bộ phận kế toán ghi hối phiếu, và buổi chiều các thân chủ đã đem các khoản vay về nhà. Tình trạng dư thừa tài chính khắp thế giới lúc bấy giờ đã lan đến cả cái thành phố nhỏ của chúng tôi, tín dụng cá nhân vẫn còn tồn tại, và viên sĩ quan kỵ binh về hưu non làm thủ quỹ chi trả cả những hối phiếu “cảm tình” và “hào hiệp”. Khi hạn cho vay hết, người nông dân phải trả nợ, nếu không thì người ta sẽ hóa giá khoản thế chấp là năm trong số mười hold đất của anh ta, rồi cũng lại nhà băng mua phần đất hóa giá đó. Một ngạch buôn bán đơn giản và diễn ra tự nhiên như mọi hiện tượng tự nhiên nhất quán và yên ổn khác. Nhà băng dư tiền và ngày càng bành trướng. Chúng tôi, những đứa trẻ sống trong khu nhà, rất tự hào về cái nhà băng dễ thương và vui vẻ này. Bọn trẻ bị hấp dẫn bởi những bí mật tiền tệ của người lớn ít ra cũng ngang với các bí mật về đời sống tình dục. Chúng tôi biết rõ trong ngôi nhà của chúng tôi người ta cất giữ món đồ quý giá nhất nào đó trong những két sắt dày đơn sơ và thô thiển, là thứ mà người lớn nói đến rất nhiều, chúng tôi thấy gương mặt nhẫn nhịn của những người đến vay, nghe họ trình bày khó khăn, họ phàn nàn và nhìn cái cách chào hỏi
khúm núm của họ trước tất cả những người làm trong ngân hàng, từ người làm tạp vụ trở đi. Việc có một nhà băng trong ngôi nhà khiến lũ trẻ sống trong nhà phấn khích và yên tâm, một nhà băng tử tế gần gũi với gia đình, chúng tôi cảm thấy không chuyện rủi ro gì có thể xảy ra với chúng tôi, với những người sống trong ngôi nhà và gắn bó với nhà băng. Tôi tin là các bậc cha mẹ chúng tôi cũng nghĩ thế. Ngôi nhà thuộc về nhà băng, và nhà băng sẵn sàng cho người ở thuê trả chậm tiền nhà nếu cần, cung cấp cả các khoản vay nhỏ nữa. Chúng tôi cảm thấy tiền của nhà băng cũng ít nhiều là tiền của gia đình mình; đó là một thế giới rộng mở, vui vẻ và tin cậy, những người thuê nhà đến nhà băng vay tiền cứ như đến với một ông chủ gia đình, một người họ hàng giàu có, rồi nhà băng cũng cho vay, vì có ai nghĩ người vay nợ lại trốn khỏi nhà này? Lũ trẻ con hiểu biết về tiền bằng bản năng. Chúng tôi nghĩ mình là những kẻ may mắn đã sinh ra dưới bóng nhà băng và lớn lên dưới sự bảo trợ của nó, nghĩa là chúng tôi được sống ở cội nguồn cổ xưa của mọi sung sướng, và cả sau này cũng không điều rủi ro gì có thể xảy ra với chúng tôi, chỉ cần chúng tôi thân thiện với cái nhà băng bé nhỏ dễ thương ấy. Quan niệm không quá cao xa ấy, cảm giác kỳ cục ấy theo đuổi tôi khá lâu, tới cả những tháng năm đi học và trong những chuyến lang thang ở nước ngoài sau này; khi đó nhà băng phá sản đã lâu, nhưng với chuyện tiền nong, tôi vẫn cảm thấy bình yên và an toàn, cứ như thể tôi vẫn giữ được mối quan hệ ban đầu, thơ trẻ và trực tiếp với tiền bạc, và tiền bạc không thể đối xử với người bạn đùa chơi thời thơ ấu của nó một cách cay nghiệt.
Cái nhà băng phồn thịnh và mọi người làm cho nó đều sung túc, cả các nhân viên lẫn những người phục vụ. Một nhân viên thành lập ca đoàn, một người khác trở thành nhà văn và ra hai tập sách về lai lịch những thành lũy đổ nát quanh vùng. Ai cũng có thời gian dành cho sở thích nghệ thuật của mình. Nhà băng đã đến lúc vượt qua khuôn khổ hạn hẹp bên trong ngôi nhà, và như một cơ sở công nghiệp phát triển, nó bắt đầu xây dựng cho mình một lâu đài thủy tinh tuyệt đẹp trong khu sân. Công trình xây dựng tuyệt vời như một giáo đường đúc bằng thủy tinh: những tấm kính dày được đưa từ bên Đức về, người ta xây một vòm hình bán cầu trên nóc phòng trả tiền, loại mái vòm mà sau này ở nước ngoài tôi cũng ít nhìn thấy. Những người nông dân gọi tòa lâu đài ngân hàng là “Bethlehem[13]”. Dân từ các làng mạc quanh vùng đổ dồn đến chiêm ngưỡng tòa lâu đài, dưới cái
mái vòm thủy tinh của nó người ta nói năng với nhau khẽ khàng và thành kính tựa như bên trong nhà thờ. Chủ nghĩa tư bản đang lên đã xây dựng một thánh đường nhỏ, đẹp đẽ và đáng hâm mộ, ở tận nơi cùng trời cuối đất này - người ta đều cho là như vậy, và không thể lý giải về cái công trình lộng lẫy đến mức xa hoa và khoa trương này theo cách nào khác. Trong lâu đài có đủ mọi thứ cần thiết cho một nhà băng thực thụ, phòng để két bạc với những cánh cửa sắt dày đóng mở tự động, phòng họp cửa bọc đệm kín, những máy tính và máy chữ kỳ lạ; và có lẽ nhà băng còn có cả tiền. Chúng tôi, những đứa trẻ sống trong khu nhà, đặc biệt bị cuốn hút bởi phòng để két sắt, được xây dựng đối diện với ngôi nhà của người quản gia, nền móng đào sâu xuống lòng đất, và chúng tôi tưởng tượng các ngăn của nó được chất đầy vàng bạc châu báu cùng các loại đá quý. Một thứ tư bản dễ chịu và vui vẻ đã hóa phép ra một thành trì trong mơ trước con mắt kinh ngạc của chúng tôi; chỉ những người già cả là không thích, những người cất tiền theo kiểu cũ, thích giữ tiền trong những cái tủ tồi tàn ở những xó xỉnh tối tăm trên gác, họ nhìn cái lâu đài thủy tinh và hầm để két bạc, lắc đầu ngờ vực và lẩm bẩm: “Ở đâu ra vậy?”
4.
Nhà băng do “anh Endre” điều hành, rất cương quyết và tích cực. Anh Endre sinh ra trong một gia đình nổi tiếng khắp nước, tốt nghiệp trường Luật, cũng như cả một thế hệ đi tìm sự thành đạt trên “quỹ đạo tự do” của thời bấy giờ, không bằng lòng với những nấc thang trong tỉnh hay trong thành phố. Thời niên thiếu, tôi đã tận mắt chứng kiến giai đoạn làm nghề tự do này của tầng lớp tiểu quý tộc, và sau này tôi nhận ra rằng văn học đương đại đã nhớ về giai đoạn này và những nhân vật của nó một cách sai lạc. Anh Endre đã hăng hái lao vào nghề nhà băng hoàn toàn xa lạ với con người và tâm hồn anh, anh chấp hành mẫn cán giờ giấc hành chính, và anh hoàn toàn không làm người ta liên tưởng đến hạng công chức tỉnh lẻ, đi săn, bài bạc, khệnh khạng, nhận hối phiếu từ đám bạn bài bạc cả vào lúc nửa đêm, trong khi chơi bài Hung. Cuộc đời bao giờ cũng khác. Không ai coi anh Endre là nhà kinh tế tài năng, nhưng anh ngồi trong nhà băng nhiều hơn là đi săn hay chơi bài, thỉnh thoảng anh đọc sách, đi du lịch, anh sống điều độ, anh không giữ lại một thứ gì khác trong số các phù hiệu của giai
cấp tiểu quý tộc ngoài một chiếc nhẫn ấn[14]. Cái nhà băng cứ túc tắc hoạt động và tự bành trướng theo cung cách phù hợp tính chất của nó. Anh Endre chỉ lưu tâm để với mọi khoản vay, các nhân viên tuân thủ nghiêm ngặt “điều kiện của ngân hàng”. Tôi cảm thấy không có gì dễ dàng và thú vị hơn việc miêu tả một giám đốc quỹ tiết kiệm tỉnh lẻ, con người thường hay gắn tiền giấy lên trán những khách hàng Di gan hơn là dán tem lệ phí lên các bản hợp đồng, và bỏ phiếu đồng ý cho chàng trai Noszty nhẹ dạ, cho “anh bạn dễ thương của tôi” vay khoản này khoản nọ. Ở Sáros, ở Zsemplén có lẽ có những gã như thế; trong thành phố của chúng tôi một gã như thế khó lòng tồn tại. Ông anh Endre của tôi, ngài “giám đốc ngân hàng”, sáng sáng đến nhiệm sở chính xác từng phút, kéo những miếng bảo vệ khuỷu tay lên và ngồi cạo giấy cho đến tối. Một cơ sở tài chính lớn ở thủ đô cung cấp cho ngân hàng các khoản tín dụng, và các vị giám đốc lớn ở Pest[15], những lão già người Do Thái dương dương tự đắc năm nào cũng về kiểm tra công việc của anh Endre; đám người Do Thái già này đi săn, gọi nhau cậu cậu tớ tớ thân mật, chơi những trò quý tộc, và đôi khi chúng tôi cũng khoái chí với những thói quen kỳ lạ của họ. Thật ra, ngồi sau bàn giám đốc, anh Endre chẳng làm gì khác hơn cha anh, ông anh ở điền trang và ở tỉnh: theo dõi những người nông dân hoàn tất nghĩa vụ của họ, cũng như trước đây, họ làm công việc họ phải làm hoặc phải giao nộp một nửa hoa lợi, thì bây giờ việc của họ là phải trả lãi đúng hạn. Chỉ có điều hình thức đã thay đổi.
Liệu có phải họ bòn rút của nông dân? Tôi không tin. Chỉ có điều công việc đó diễn ra thường xuyên, vì “cần phải sống bằng thứ gì đó”. Và chừng nào họ còn “làm việc” với nông dân, chừng đó còn chưa xảy ra chuyện gì tồi tệ; chỉ sau này, khi anh Endre của tôi bỏ sở vì những hiểu lầm rắc rối trong gia đình, và thế chỗ anh là một nhà tài chính từ thủ đô, đến thành phố chúng tôi với những cải cách quy mô lớn, như một viên toàn quyền đến xứ thuộc địa, thì dấu hiệu tan vỡ đầu tiên mới xuất hiện. Viên giám đốc mới, rõ ràng vì cả tin, nhưng cũng vì quá hào phóng, đã dùng tiền của người gửi cho đám buôn rượu người Ba Lan bấy giờ đang thu mua rượu vang của vùng Hegyalja vay những khoản tín dụng có bảo đảm lớn, và nhà băng đã thất thoát vô khối tiền bạc, tới hàng triệu đồng, trong vụ này. Thỉnh thoảng cha tôi lại kể chuyện hồi đó ông đã cứu vãn tiền của những người gửi tới đồng xu cuối cùng bằng cách khá đặc biệt như thế nào; ông đã đến tìm
ngài chủ tịch sở tài chính thủ đô, kẻ đã cử “viên toàn quyền đến xứ thuộc địa” thay vị trí của anh Endre; sau khi nghe trình bày vụ việc, ngài chủ nhà băng cứng rắn, nổi tiếng thế giới, giàu sụ và quyền thế kia nhún vai đáp một câu đại loại “vậy thì các vị cứ việc phá sản đi”, còn cha tôi chỉ khẽ bảo: “Chúng tôi có thể mất mọi thứ mà chúng tôi có, nhưng bản quyết toán lỗ lãi sẽ làm mất uy tín ngài chủ tịch đáng kính”. Thế là ngài chủ tịch ngân hàng nổi tiếng hốt hoảng ngẩng đầu lên, rồi ngài rung chuông, bảo ông giám đốc vừa bước vào: “Ta trả hết”. Câu nói ngắn gọn hào hiệp chỉ gồm ba từ đó đã khiến ngân hàng ở Pest phải chi trả nhiều triệu đồng. Những người gửi tiền lấy lại được toàn bộ số tiền gửi kèm cả lãi. Câu chuyện giống một cổ tích có hậu về thời hoàng kim của chủ nghĩa tư bản này tôi đã được nghe đi nghe lại nhiều lần.
5.
Một thời gian ngắn, khoảng vài năm, cha đỡ đầu của tôi sống trong căn hộ ba phòng trên tầng hai, đối diện với căn hộ của chúng tôi, ông là em trai cha tôi, là con người cực kỳ bất mãn, nóng nảy; mọi người trong gia đình, kể cả cha tôi, đối đãi với ông hết sức nương nhẹ. Là một tâm hồn kiêu hãnh và cô đơn, ông đã học kỹ sư, am hiểu các vấn đề kỹ thuật xuất sắc đến mức người ta muốn giữ ông ở lại trong quân đội - những năm nghĩa vụ ông phục vụ ở một đơn vị pháo binh -, đâu như người ta đã “nài nỉ ông ở lại phục vụ tiếp sau kỳ nghĩa vụ”. Ít ra là sau này người trong nhà kể thế. Chắc chắn là tính cách, sở thích, cả tâm tính của ông đã cuốn hút ông vào con đường binh nghiệp. Trong đời thường, đặc biệt với sự nghiệp khá bị xem rẻ của một kỹ sư, ông cảm thấy mình lạc lõng, trở nên dễ cáu bẳn, thường xuyên lộ vẻ chán đời, sinh ra đủ trò, và gây cảm giác về một con người không tìm được chỗ đứng trong cuộc đời. Nghề kỹ sư, bác sĩ hồi đó ít được coi trọng; người ta quan niệm đó không phải là nghề cho người thuộc giới thượng lưu; thanh niên sinh ra trong gia đình khá giả có thể trở thành sinh viên Luật, nhưng thụt hậu môn, hay loay hoay với com pa mực vẽ thì không xứng đáng. Vị trí xã hội của gia đình tôi vào cuối thế kỷ - ở tỉnh lẻ khi đó, trong cái thế giới cuồng nhiệt tinh thần dân tộc chủ nghĩa Hungary, sự phân chia đẳng cấp hầu như vẫn còn đè nặng - đã tác động mạnh mẽ thêm đến “phức cảm thấp hèn” của ông chú tôi (dĩ nhiên ông
không biết một tí gì về chuyện này, ngay cả Freud[16] khi đó còn trẻ và đang quan sát những người mắc bệnh loạn thần kinh ở bệnh viện của Charcot[17] cũng chưa biết đến thuật ngữ này). Xét về gốc gác, nhóm người Saxon nhập cư vào Hungary trong thế kỷ 17 đã phục vụ trung thành triều đại Habsburg[18], và vua Lipót II[19] đã hào phóng phong tước cho ông tôi, ở trong gia đình ông thường được kính trọng gọi là “bá tước mỏ Kristof”, là người điều hành khu mỏ thuộc sở hữu của Hoàng gia ở vùng Máramaros. Chỉ trong thời kỳ đấu tranh giành tự do[20], cả dòng tộc mới thực sự cảm thấy trái tim mình thuộc về nước Hung, nhiều người đã chiến đấu trong quân đội của tướng Bem[21], một cụ bên bố tôi là Zsiga đã bị giáng chức sau cuộc hạ vũ khí ở thành Világos[22], rồi cụ bị thuyên chuyển đến một trung đoàn Hoàng gia đóng ở Venice, sau đó ở Milan, ở đây cụ dần dần được phục hồi cấp bậc cũ và về hưu với hàm đại úy vệ binh. Trước cách mạng, dòng họ chúng tôi được nhìn nhận tốt ở thành Wien, được đánh giá là “những phần tử đáng tin cậy”. Năm 1828, khi cụ tôi được tấn phong làm consiliarius[23] của vùng Óbuda, ông có sang Wien và được Hoàng đế Franz tiếp. “Tôi được tiếp kiến Vua Hungary - từ thành Wien ông viết cho em trai ở Máramaros -, ở đây cuộc sống ăn chơi rất đắt đỏ, tôi phải trả tiền phòng ở có sưởi năm forint[24] mỗi ngày. Đức Vua tiếp rất nồng hậu, ngài nhớ rất rõ cha chúng ta; Ja, ja - ngài nói -, auch Sie haben gute Zeignisse bei mib[25]. Có lẽ viên công chức có cái tên Đức được đón tiếp tử tế ở Wien năm 1828, được Hoàng đế ban tặng những lời thiện ý, được coi là người thân tín với triều đình. Trong cuộc đấu tranh vì tự do, dòng họ đã đứng về phía những người khởi nghĩa, đổi sang họ tên Hung, chính phủ Kossuth[26] đã ra quyết định về việc này và tháng Tám năm 1848, sự kiện này đã được công bố trên Công Báo. Họ là những người Hung tự giác, hành động hăng say, đặc biệt là cha và chú tôi. Tinh thần yêu nước Hung nồng nhiệt, chân thành của những gia đình ngoại lai tới đây là một hiện tượng đặc biệt, và những gia đình quý tộc Hung cũ hài lòng nhìn nhận những người ngoại lai biến thành người Hung trong lò luyện của nước Đại Hung, đôi khi có lẽ họ còn công nhận một số ưu điểm nhất định mà chủng tộc ngoại lai được thừa kế - tổ tiên tôi là những thợ rèn Saxon, và tôi nghĩ tôi đã thừa kế ở họ một Pflichtgefühl[27] hoàn toàn không dễ chịu với tôi, xa lạ với tính cách của tôi, có tính ám ảnh, mê cuồng, nhưng đồng thời chúng tôi vẫn còn giữ những khác biệt, sự xa lạ nào đó mà cuộc
sống chung hàng thế kỷ cũng không hóa giải nổi. Phương diện tâm linh của dòng tộc chúng tôi dù phức tạp, vẫn có thể nhận thấy là thuộc về Công giáo, không chỉ theo các dữ liệu ghi trên giấy khai sinh, mà từ bản chất, trong thế giới quan đều vậy. Một cách bản năng, chúng tôi tránh các tín đồ Tin Lành, cả trong giao tiếp xã hội, cũng như họ tránh xa chúng tôi; nhưng trong cuộc sống hằng ngày chúng tôi không khi nào đả động tới vấn đề này.
Chú tôi cảm thấy bất ổn, khó chịu, dẫu cho người ta đã “tiếp nhận” ông, công nhận ông, thì cũng vô ích cả thôi, bởi với cái gốc gác Saxon, với cái tên Đức, dòng dõi quý tộc Áo, bất luận thế nào ông vẫn không thuộc hẳn về cái “gia đình” lớn là nước Hung tiểu quý tộc hồi cuối thế kỷ. Thế nhưng trong gia đình, nếu đôi lúc có thể nhận thấy những kiểu cách tiểu quý tộc Hung bộc phát ra ở một ai đó, thì người đó chính là ông. Ông thường xuyên sưu tầm các tư liệu về dòng tộc, vẽ gia huy và vương miện, thiết kế “gia huy quý tộc hợp nhất” cho cha mẹ tôi (có trời mới biết ông lấy dữ liệu ở đâu ra để làm việc đó, vì mẹ tôi là hậu duệ của một thợ xay nghèo vùng Moravia[28], và tôi ngờ rằng gia đình bà chưa bao giờ sở hữu các quyền lợi quý tộc; hơn nữa mẹ tôi và họ hàng cũng chẳng quan tâm đến điều đó), và trò đóng vai tiểu quý tộc của ông biểu hiện đặc biệt ở tâm hồn cao ngạo, xa cách: ông né tránh người trong tỉnh, không hòa nhập, ông sống khá lâu ở nước ngoài, đi xây dựng đường sắt và hầm xuyên núi ở Bosnia, sau đó chuyển đến Fiume, nơi mà theo sự ủy nhiệm của một hãng Pháp ông đã xây dựng cái trạm điện đến nay vẫn cung cấp điện cho vùng duyên hải Dalmatia. Giữa chừng ông đã lấy vợ, ông cưới một cô gái dịu hiền và ít nói người tỉnh Nógrád, hậu duệ của một tác gia kịch cổ điển Hungary vĩ đại nhất, thời niên thiếu tôi đã mấy lần đến nghỉ hè ở tòa lâu đài và khu vườn nổi tiếng về lịch sử văn học tại tỉnh Nógrád đó, nơi bậc thiên tài tóc bạc người Hung, tâm hồn bất an, gần như mất trí lúc cuối đời thường đọc to những dòng thơ bi ai của ông. Dưới con mắt tôi, “mối quan hệ họ hàng văn chương” kia đã khiến tôi nhìn ông chú dưới một vầng hào quang ở tầm cao Olympus. Trong thực tế, chú tôi ít am hiểu chuyện văn chương. Khi còn chưa vợ và sống trong căn hộ ba phòng đối diện với căn hộ của chúng tôi, ông sống cuộc sống độc thân giống như một nhân vật trong tiểu thuyết Pháp, ông có người ở và có lần ông đã tát anh ta, vì thế hồi bé tôi sợ ông, còn về sau thì tôi thương hại ông. Ông không tìm thấy
chỗ đứng của mình giữa các giai tầng, ông sống bất mãn và ẩn dật ở một làng quê tỉnh Nógrád, ở đó ông cũng cảm thấy xa lạ, ít nhất là giống như khi sống cùng với chúng tôi hoặc khi ở xứ người, giữa các đồng nghiệp
của ông. Ông là người bài Do Thái có ý thức đầu tiên mà tôi biết; chắc hẳn ông sẽ rất bất ngờ nếu một ai đó cảnh báo rằng thanh âm nền của bản ngã ông, sự dịch chuyển bất an như một kẻ bị xúc phạm giữa các giai tầng xã hội, cách ứng xử “đất nước tôi không ở trong thế giới này” của ông chính là một bản năng mang tính Công giáo đến mức nào, hay nói khác đi, lại chính là đặc tính Do Thái.
6.
Trong khu nhà còn một ca làm việc thứ hai: ban ngày trên gác nhà băng tiếp đón thân chủ, đêm về, ở dưới tầng, một quán rượu trá hình giả làm quán cà phê với các ả thu ngân và dàn nhạc Di gan hạng ba vặt tiền đám tạp khách nhẹ dạ. Cả khu nhà thị dân này coi cái quán dưới tầng một là lẽ tự nhiên và chịu đựng nó. Những cư dân của khu nhà, các gia đình có cách nhìn cảnh vẻ trong vấn đề đạo đức, hoàn toàn không khó chịu khi đêm đêm đức hạnh đã ngáy kho kho, thì trong cái quán dưới tầng một người ta đang nhảy điệu cancan[29]. Cái “quán cà phê” ít quan tâm đến khách uống cà phê và khách vừa dùng bữa vừa đọc báo vào ban ngày đến mức ban ngày nó không mở cửa. Chiều tối người ta mới kéo rèm cửa lên, sát các bức tường kê mấy chiếc bàn sắt tây, trong quầy vài phụ nữ nhuộm tóc, vóc dáng mẩy mang hợp với thị hiếu đương thời pha món knikebájn[30] và trà. (Sâm banh được coi là cực kỳ xa xỉ, đám “lính cậu” cũng ít khi xài sang như vậy, khái niệm “lính cậu” cũng khá xa lạ trong thành phố chúng tôi, trung đoàn lính kỵ binh đóng ở thành phố khác, cách chúng tôi 50 km, những lính pháo binh và sĩ quan bộ binh được điều động đến chỗ chúng tôi thì bằng lòng với sự náo nhiệt, với knikebájn và rượu vang rẻ tiền). Đến quán rượu đêm này chủ yếu là các tay buôn ngựa, dân chợ búa, đám điền chủ và những gã Do Thái thuê mướn đất từ các vùng xung quanh đôi khi dạt vào đây xả láng một đêm. “Người có máu mặt” chỉ khi say khướt mới dám vào đây, những lúc như thế người ta hạ các rèm cửa bằng sắt xuống và cuộc vui ầm ĩ đến mức những người đang ngủ cũng thức giấc, có điều lạ là mọi người đều chịu đựng sự phá rối trật tự này, và cái “quán cà phê” có thể hoạt động khá
lâu, hàng năm trời dưới tầng một như thế. Khi ấy cảnh sát còn chưa can thiệp vào việc của công dân; trong cái thành phố bốn chục ngàn dân lúc đó chỉ có mười lăm cảnh sát giữ gìn sự yên bình cho cuộc sống thị dân, mười lăm cảnh sát già vô công rồi nghề mà khi còn nhỏ tôi biết tên từng người. Phòng tạm giam của cảnh sát là một ngôi nhà cũ kiểu Ý, có mái vòm, xiêu vẹo, thường bỏ không, chỉ có đám nghiện ngập hay qua đêm ở đây đến khi tỉnh rượu, họ được cảnh sát gom về từ các góc phố lúc tang tảng sáng trên một chiếc xe đẩy hình quan tài phủ vải thô màu xanh lục. Một trong những hình thức mại dâm tinh vi hơn và rõ ràng đắt giá hơn được duy trì đêm này qua đêm khác trong “quán cà phê” của khu nhà; có khi xảy ra cả chuyện ẩu đả, một đêm cả nhà thức dậy vì có tiếng phụ nữ kêu thét lên, trẻ con, người lớn vận áo choàng ngủ chạy cả ra hành lang, dưới sân ông quản gia đang dùng chổi quật lia lịa một gã buôn ngựa đi ủng, ria mép vểnh sang hai bên và chủ yếu là đang hăng máu dùng cả hai tay túm vào những chỗ dễ túm mềm mại của một cô gái tóc vàng làm trong quán. Hoạt cảnh ma quái, trong ánh sáng sắc lạnh của buổi sớm mai đã tác động đến tôi như một ấn tượng sân khấu phi lý nào đó. Nhưng có lẽ quán cà phê đã trả khoản tiền thuê đắt đỏ cho ngân hàng, nên người ta đã chịu đựng cả những trò quậy phá, trơ trẽn như thế của nó. Chỉ mãi sau này họ mới cắt hợp đồng thuê với ông chủ quán, một lão trưởng ban nhạc Di gan rất ranh ma có đầu óc kinh doanh, và lúc đó cũng không vì “lý do đạo đức”, mà vì nhà băng cần thêm chỗ, số tiền thuê mà cái công xưởng ban đêm ấy đem lại không cần thiết nữa.
Để giải quyết nhu cầu sức khỏe hằng ngày, có hai nhà thổ trong thành phố: một cái rẻ tiền và dân dã hơn ở đường Bástya và một cái khác, sang trọng hơn, trong ngôi nhà một tầng trên đường Fegyverház, nơi các công chức bậc cao và sĩ quan thường lui tới. Ngoài hai chủng viện kín đáo này của tình yêu đường phố, dọc con phố Virág còn mọc lên các ngôi nhà thấp lè tè, có tới cả chục địa điểm hành nghề, kiểu dịch vụ bán dâm di động. Đó là một thế giới mại dâm ngầm vui vẻ và cởi mở. Lớp thanh niên chưa vợ, và tất nhiên không ít lần, cả những ông có vợ, các sĩ quan và đôi khi những giáo sinh trong các tu viện sở tại, cũng ngấm ngầm lui tới đây, những ngôi nhà gần như không thay đổi từ thời Trung cổ, với những cửa sổ trát vữa kín, những cánh cổng luôn đóng im ỉm, với mặt tiền sơn màu xanh và nâu nhẵn bóng như mách bảo về chức năng của chúng cho cả những người lạ.
Các đấng mày râu trong thành phố đến những ngôi nhà này sau khi rời “quán cà phê”; trong “salon” khoảng nửa đêm chuyện nở như ngô rang, các chủ nhà thường xuyên thay đổi gái. Tôi chỉ đến một ngôi nhà như thế ở thành phố quê hương một lần, đúng là lúc đó tôi còn trẻ con, vào tuổi mười ba; sau này tôi rất ghét tìm đến những nơi như thế ở quê nhà; chuyến viếng thăm đầu tiên và duy nhất ấy đã lưu lại trong ký ức tôi sắc nét đến cay nghiệt. Cùng một cậu bé trong khu nhà, thằng con trai hung hăng và bất kham của một nhà bán hàng mỹ phẩm, chúng tôi đến nhà thổ “rẻ tiền” trên phố Bástya giữa thanh thiên bạch nhật, răng va vào nhau lập cập, giữa một chiều mùa hè đầy nắng và yên tĩnh. Có tiếng chuông báo hiệu vang lên trên hành lang khi cổng mở, bên trái lối ra vào, trong một căn phòng chật chội che rèm cửa và bài trí đồ gỗ từ thời Theresa, một bà già quàng khăn trùm đầu ngồi trên xe lăn phía sau cửa ra vào có những ô kính, đúng như trong những truyện tranh vẽ con sói ăn mặc giả bà già trong truyện Cô bé quàng khăn đỏ, bà nhìn chúng tôi qua cặp kính mũi và cười cười. Chúng tôi vội ra sân, vì cậu con trai người bán nước hoa đã quen đường đi lối lại ở đây, một phía sân được bao bởi một bức tường đá ngăn cách đường phố, ở tầng trệt và trên gác chạy dài dãy cửa sơn màu nâu mở vào các phòng. Chúng tôi không thấy “các cô gái” đâu. Một con cú mèo bị cắt cánh, đã được thuần hóa, đi lại trong sân. Rồi một cánh cửa trên gác thình lình mở ra và dáng một phụ nữ xuất hiện trên hành lang, đổ nước từ một bình sắt tây xuống sân, rồi quay vào phòng, chẳng thèm để mắt đến chúng tôi. Chúng tôi im lặng nép sát vào tường, cậu bạn to mồm của tôi cũng ngơ ngác nhìn quanh, khu sân im ắng hệt như trong một trại giam.
Lát sau một cánh cửa tầng dưới mở ra, và một người đàn bà có lẽ đã quan sát chúng tôi từ lâu sau rèm cửa sổ, tủm tỉm cười mời chúng tôi vào phòng. Cậu bạn đi trước, tôi ở trạng thái sắp ngất xỉu, người toát mồ hôi, gần như
vô tri giác bước theo sau. Người đàn bà nói tiếng Hung lớ giọng Slovak, còn thì tôi không nhớ chị ta thế nào, già hay trẻ, tóc vàng hay đen, béo hay gầy. Trong phòng có một chiếc giường đơn loang lổ, một chiếc giường đã trải sẵn mà có thể người đàn bà vừa từ đó đứng dậy, vì những cái gối nằm còn bừa bãi và như ấm hơi người, sát bức tường tróc lở đặt một thùng sắt tây đựng nước, phía trên bồn rửa tôi phát hiện ra tờ giấy in các khuyến cáo y tế ghim vào tường; tôi cẩn thận đọc kỹ để che giấu sự lúng túng và khó chịu, hơn là vì quan tâm đến nội dung của nó. “Bạn có thể dễ dàng tránh bị
lây nhiễm” - bản khuyến cáo y tế của nhà chức trách bắt đầu như thế. Mấy chiếc giày cao cổ đàn ông nằm chềnh ềnh trước giường. Chúng tôi ngồi bên cạnh giường một lúc, cậu bạn cố làm ra vẻ chủ động và tự tin, nhưng cả cậu ta cũng rất sợ; người đàn bà xin thuốc lá, ngồi xuống mép giường giữa hai chúng tôi, mỉm cười nhìn chúng tôi và im lặng. Chẳng xảy ra chuyện gì. Sau đó anh bạn tôi đưa cho nàng ba đồng sáu xu, rồi chúng tôi len lén ra khỏi ngôi nhà, không một ai thấy sự trốn lủi của chúng tôi, trời đã chạng vạng tối. Chuyến phiêu lưu này, ngang tầm một pha rùng rợn trong tiểu thuyết của Karl May[31], một thời gian dài đã làm tôi chán ngán các cuộc mạo hiểm tương tự, hơn nữa tôi thất vọng sâu sắc về anh bạn “ăn chơi” của mình, cậu ta đã đánh lừa tôi bằng những câu chuyện lãng mạn dối trá, và như tôi nhận thấy, khi “vào trong đó” cậu ta cũng run lập cập, cũng sợ và ngớ ngẩn chẳng khác gì tôi. Chẳng hạn, cậu ta kể quan hệ tình dục giữa đàn ông và đàn bà khác hẳn những gì chúng ta vẫn tưởng (tôi thì khi đó chưa tưởng một điều gì, trong đầu tôi u mơ và hỗn loạn các khái niệm chẳng ăn nhập gì với nhau), mà điều cơ bản trong đó là người đàn ông phải giữ chặt, ấn hai tay người đàn bà xuống và cắn vào mũi nàng. Có trời biết cậu ta nghe được những điều đó ở đâu. Về sau này tôi biết đó là dối trá, tôi ghét và tránh mặt cậu ta.
Sống trong thành phố còn có hai ả “lẳng lơ”, đã có tuổi, không xinh đẹp lắm, họ thuê nhà trong một ngõ nhỏ, bao giờ cũng đi đôi với nhau, khăn che mặt, đội mũ rộng vành to như bánh xe cối xay và rất được nể trọng
trong giới, tức là đám khách đàn ông tay chơi của thành phố. Một người có tên lóng là “Chanh”, người kia được lũ học trò gọi giễu là “Cam”. Những người đàn ông được ban lộc, chắc với giá cao hơn so với đám đàn bà bán dâm di động trên phố Virág, những cô gái Di gan và các ả hầu độc thân, có lẽ vì vậy đã thưởng cho hai ả cái danh hiệu “lẳng lơ”. Dù thế nào thì hai ả Chanh và Cam cũng là một phần của đời sống xã hội trong thành phố. Còn một người đàn bà to béo, khó đoán tuổi, sống hẳn trên phố Virág trong một căn hộ có đồ đạc, bà gái già tên là Lenke này đã dạy cho cả mấy thế hệ những bí mật của tình yêu, bà biết hết đám đàn ông mặc áo choàng trong thành phố, cả cảnh sát cũng phải sợ bà. Dần dà người đàn bà làm nghề mại dâm này được tôn trọng trong các gia đình. Bà trở thành một bộ phận hữu cơ của đời sống ở đây, trước sau gì mọi người cũng đều có chuyện dính dáng đến bà ta.
Còn huyền thoại về quán trọ “Con Tôm Đỏ” thì tôi cũng chỉ được nghe kể lại, chứ chưa đặt chân tới đó bao giờ. Vào những năm tám mươi cuối thế kỷ trước, nhà trọ “Con Tôm Đỏ” là chốn ăn chơi thực sự, kín đáo và sang
trọng, nơi lui tới của những người lịch lãm nhất trong thành phố, và họ làm những chuyện khá ly kỳ ở đó, như tôi được nghe một ông chú yêu đời kể lại. Cái nhà trọ “Con Tôm Đỏ” bí ẩn này - bí ẩn hơn nhiều ngôi nhà ở phố Bástya hay cái quán rượu dưới tầng một của nhà chúng tôi - được xây cất như một kiểu nhà trọ ven quốc lộ, cách thành phố vài cây số, và những thành viên đàn ông của “hội tử tế”, những ông bố tuyệt vời, gồm cả ông chú tôi, thường đến đây xả hơi cho thoải mái. Đến khi tôi bắt đầu tới những nơi giải trí giống như thế, thì cái quán trọ ở ven thành phố chỉ còn là một quán rượu đổ nát ngoài đồng.
Cuộc sống tình dục ngoài hôn nhân đã diễn ra trong những khuôn khổ khiêm tốn như vậy, và người khát nước dập tắt cơn khát trong những vũng nước nông choèn như thế. Chuyện “quan hệ”, sự “đổ đốn” của đàn bà có chồng thuộc về thế giới tiểu thuyết. Suốt thời niên thiếu, tôi không hề nghe thấy người lớn đồn đại về bất kỳ một trường hợp “đàn bà chửa hoang” hay có “quan hệ bất chính” nào; ngay cả các nữ diễn viên của nhà hát địa phương cũng bị để mắt đến một cách nghiêm khắc, và ai ngoại tình, nếu lộ ra, đều bị “tẩy chay”.
7.
Căn hộ lớn, rộng rãi, trần cao, có nhiều cửa sổ liền kề, thế nhưng không hiểu sao trong ký ức của tôi, nó vẫn luôn nhờ nhờ tối. Có lẽ vì suốt quãng đời tuổi thơ, mấy anh em tôi và gia sư thường ở cả ngày trong “phòng đệm”, một không gian hình vòm không cửa sổ, nơi những chiếc giường trẻ con lót lưới và bàn học kê chật hết căn phòng. Phòng đệm này nối phòng ngủ của cha mẹ tôi với phòng ăn; một tấm kính màu ngăn cách nó với phòng ăn trông ra phố, để ánh nắng có vô tình cũng chẳng lọt vào nổi. Chúng tôi ngủ trong phòng này, làm bài tập về nhà ở đây, và khi thời tiết xấu hay khi bị phạt không được ra khỏi nhà thì chúng tôi còn chơi ở đây. Chẳng ai nghĩ đến chuyện dùng phòng salon sang trọng, rộng rãi làm phòng trẻ con thì có lẽ lợi cho sức khỏe và thích hợp hơn, nơi đó có khi cả tháng chẳng một ai bước chân vào, là căn phòng có lẽ rộng rãi và sáng sủa nhất
trong căn hộ, bên trong chỉ có đồ gỗ phủ vải đứng im lìm, và với sự sang trọng kiểu thị dân nhưng lạnh lẽo, nó luôn gây cho tôi cảm giác như thể có ai đó chết trong phòng. “Phòng đệm”, cái tổ tối lờ mờ, thiếu không khí, ấm áp mới thực sự là chỗ ở của chúng tôi; chẳng ai bận tâm về việc này, cả những gia sư cũng coi việc học bài dưới ánh sáng điện là đương nhiên, cả khi toàn thể căn hộ còn ngập tràn ánh sáng ban ngày.
Căn hộ có năm căn phòng liền kề nhau xếp thành hình chữ L, ba phòng kề phố, hai phòng kề sân. Trừ phòng trẻ con ra, các phòng khác đều rộng và thoáng đãng. Trong những căn hộ thị dân cuối thế kỷ này, đặc biệt là trong các gia đình khá giả hết sức cưng chiều con cái, không khi nào tiếc tiền dạy dỗ và lo ăn mặc cho chúng, người ta cũng không chú ý lắm đến chất lượng và vị trí của phòng trẻ con. Về “vệ sinh”, thời đó có nhiều ý kiến khác nhau. “Lý thuyết vi trùng” làm nhiều bà nội trợ thời bây giờ rối trí, tôi biết những bà già bị ám ảnh về sự sạch sẽ, suốt ngày đập phủi bụi, đeo găng tay đi lại trong nhà và cầm chổi lông săn “vi trùng”. Các bà nội trợ thị dân tất nhiên hết sức cố gắng để không thể thấy một hạt bụi trên các đồ gỗ đánh bóng, lúc dùng cà phê với nhau, các bà đúng là soi mói từng li từng tí nhà cửa người khác, và đáng thương cho bà chủ nhà bất hạnh nào đó, nếu cô hầu phòng cẩu thả quên dùng giẻ lau đàn dương cầm. Mẹ tôi, hai cô người ở và “tiểu thư” quét dọn suốt ngày. Buổi sáng người ở quét dọn, tiếp đó “tiểu thư” kiểm tra, rồi mẹ tôi xuất hiện như một vị tướng duyệt đội hình, kiểm tra kỹ đến cay nghiệt, bà đưa ngón tay miết hết lượt lên những chỗ khuất của đồ gỗ, và săn tìm bụi đến nửa buổi sáng. Khẩu hiệu sạch bụi là điều kiện đầu tiên của yêu cầu “vệ sinh hiện đại”. Nhưng trong hầu hết các căn hộ, phòng trẻ con nom rất thảm hại, người ta chỉ dùng những buồng nhỏ, khuất nẻo vào mục đích này; mặt sau đàn dương cầm cũng sạch bóng, nhưng trong đa số các nhà, buồng tắm lại được nương nhẹ và rất ít được sử dụng. Chúng tôi còn sử dụng buồng tắm vì nhà đông trẻ con, hơn nữa cha mẹ tôi cũng có những nguyên tắc đặc biệt và hoàn toàn không thức thời về vấn đề vệ sinh thân thể. Cả mùa đông lẫn mùa hè, bà vú nuôi của chúng tôi đốt sưởi vào buổi sáng và buổi tối bằng cái lò sưởi gang trong buồng tắm, và tắm cho lũ trẻ; nhưng người ta quan niệm chung rằng “tắm nhiều có hại”, vì tắm làm cho bọn trẻ yếu ớt đi. Đa số các nhà sử dụng phòng tắm làm chỗ chứa đồ linh tinh, người trong gia đình có thể vào đó tắm, nhưng rất khó xoay xở trong cái không gian tối lờ mờ chất đầy
hòm xiểng, quần áo lót đã giặt phơi trên dây, giày dép và các loại xà phòng giặt, ở nhiều nhà chúng tôi quen biết, đồ đạc nằm hứng bụi trong bồn tắm, và có lẽ chỉ trong dịp cuối năm, trước ngày sang năm mới, người ta mới trả
cái bồn tắm trở lại đúng chức năng của nó. Dân chúng hồi cuối thế kỷ thường chỉ tắm khi ốm hay trước khi cưới vợ. Nhưng họ vẫn đòi hỏi căn hộ phải có phòng tắm, chỉ có điều hiếm khi sử dụng đến mà thôi. Buồng tắm của chúng tôi cũng chứa đầy các thứ linh tinh, mẹ tôi cố gắng xếp đặt cho ngăn nắp đống khăn áo tắm nhưng vô vọng, ai cũng có “móc áo riêng”, và như trong phòng treo áo của một nhà hát, khăn tắm, quần áo ngủ, áo khoác mỏng rủ đầy trên các móc, chẳng ai biết cái nào của mình, để ở đâu, khi nào. Cái buồng tắm thường xuyên lộn xộn là nguồn gốc của những nỗi khó chịu, bực mình.
Phòng trữ đồ ăn trong nhà thì ngăn nắp trang trọng hơn nhiều so với phòng trẻ con và phòng tắm. Trong một không gian rộng rãi, khô ráo và sáng sủa, lượng thực phẩm phòng xa được tích trữ, có thể nói là dư thừa, cứ như thể chuẩn bị cho cả một thành lũy bị vây hãm, gồm cả bột mì và mỡ, hoặc thức ăn được trữ cứ như trong một nhà kho ở nông thôn, nơi quanh vùng không có cửa hàng thịt và hàng bán đồ gia vị. Nhìn chung, trong nhà đồ dự trữ cứ tăng dần: trong các tủ của mẹ tôi, những ngăn kéo thấp chất đầy vải chưa may, đồ len sợi, bông cuộn, chúng tôi còn mua trữ mọi thứ khác, từ dây giày và giẻ lau trở đi. Đó là một thú say mê tích trữ đặc biệt, thỉnh thoảng mẹ tôi lại mắc phải, sau mỗi lần đi mua đồ về bà hớn hở, cứ như chúng tôi sống ở đâu đó trong sa mạc và bà đã mua được những thứ đồ quý hiếm của một đoàn người vừa đi qua. Hàng tải bột mì, hàng thùng mỡ, cả tảng pho mát to bằng bánh cối xay, và ở nhà chúng tôi chẳng đong đo bằng deka[32] bao giờ. Đồ ăn dự trữ nhiều thế, nhưng chúng tôi sống có chừng mực chứ không hoang phí. Nhà đã có ba đứa trẻ đang tuổi lớn, hai người ở ngốn nhiều bánh mì, bà đầu bếp nấu cho bảy miệng ăn mỗi bữa, trong khi mẹ tôi chỉ được phép chi một trăm forint cho việc ăn uống mỗi tháng, thế mà hình như bà vẫn còn tiết kiệm được đôi chút… Mỗi ngày chúng tôi ăn thịt hai lần, cha tôi không chấp nhận thức ăn thừa từ bữa trước hâm nóng lại. Mẹ tôi thường nấu các món ăn Hung béo ngậy, thế mà một trăm forint vẫn đủ cho cả bảy suất ăn. Một thiên đường dư dả và vật giá rẻ ngự trị xã hội Hung lúc bấy giờ; không phải tình trạng rẻ mạt ăn mày tất yếu của thời hậu chiến, khi tiền tệ khan hiếm quy định giá cả và sự khốn khó buộc
người ta phải đua nhau bán đổ bán tháo đồ đạc và sản phẩm; nhờ vật giá thấp mà trong thời bình mọi người đều sống dễ chịu. Đó là một cuộc sống đàng hoàng, dư dật về vật chất. Ngay cả bữa ăn sáng cũng giống như một lễ tiệc gia đình, ngày đặt tên hay đám cưới. Cha tôi vừa cạo râu, thơm phức mùi nước thoa mặt và mùi sáp chải tóc bước ra từ phòng tắm, mặc chiếc áo khoác trong nhà màu sợi thuốc, ngồi xuống chỗ dành cho ông chủ nhà bên bàn ăn, giơ tay với tờ báo địa phương - dĩ nhiên chúng tôi đặt báo của giáo hội, được in bằng tiền của Tòa Giám mục, trong xưởng in của Tòa Giám mục, tờ Tin tức Felvidék[33] -, và ông đọc lướt qua tin tức, trong khi chờ “trà ngấm” trong chiếc bình Meissen hình củ hành. Đó là những giây phút trang trọng. Lúc ấy chiếc cặp uốn ria mép mà cha tôi chỉ bỏ xuống khi ăn vẫn còn căng dưới mũi ông, và bằng một chiếc bàn chải bỏ túi nhỏ ông cẩn thận chải bộ ria bôi sáp rẽ sang hai bên. Mẹ tôi ngồi đối diện với ông, và mỗi bên bàn hai đứa trẻ chăm chú xem nghi lễ trang trọng của bữa sáng. Lũ trẻ uống cà phê, ăn bánh mì tròn điểm tâm phết bơ, mùa đông thì có món xúp; chỉ việc nhìn cha ăn sáng cũng đủ làm chúng tôi thích thú. Cha tôi ăn một cách sang trọng và cẩn thận; cái áo choàng cổ bẻ bằng lụa màu sợi thuốc, những cử chỉ nhẹ nhàng của đôi bàn tay nhỏ như tay phụ nữ có đeo nhẫn ấn, sự bình thản và tâm trạng vui vẻ của cha mỗi bữa sáng đều làm tôi hâm mộ. Ông uống thứ trà thơm màu vàng nâu với nhiều rượu rum, ăn giăm bông với trứng luộc, mật ong và bơ Hung (ông tranh cãi với mẹ tôi khá nhiều về món bơ, vì tiết kiệm hay có trời biết vì sao, thỉnh thoảng mẹ tôi mua bơ Đan Mạch, tôi nhớ có lần vào bữa sáng sớm, khi nghi ngờ “thủ đoạn” kia, cha tôi đã đứng dậy khỏi bàn ăn và ném “món bơ Đan Mạch” vào closet), bánh mì của ông được nướng riêng; tôi có thể nhìn cách thức ăn uống cầu kỳ, nhìn phong cách “trưởng giả” của ông rất lâu. Cảnh thanh bình của bữa ăn sáng giống như một nghi lễ kính Chúa của thị dân. Chuẩn bị cho công việc của một ngày bằng những động tác chậm rãi, cẩn trọng như vậy chỉ có người đã đủ từng trải để biết rằng không điều gì còn có thể gây được bất ngờ khó chịu trong ngày. Trong thực tế, cha tôi chưa hẳn đã “đủ từng trải”; ông thuộc về một giai tầng đã đủ chín muồi, và ý thức mình thuộc về giai tầng ấy đã làm cho cách ứng xử và cử chỉ của ông trở nên đĩnh đạc như vậy. Người thuộc về giai tầng ấy và được kính trọng bắt đầu một ngày mới một cách rất bình thản.
Sau bữa ăn sáng ông không phải đi xa, thời gian đầu chỉ cần sang phòng bên cạnh, sau này khi văn phòng phình to ra, người ta thuê thêm ba phòng phía cuối hành lang quay ra sân và bố trí văn phòng lớn ở đó. Trong năm phòng còn lại, chỗ ăn ở của cả gia đình đã rộng rãi hơn. Bố tôi xếp đặt một phòng “ông chủ” riêng, hay “phòng hút thuốc” giữa salon và phòng ăn, các tủ sách được kê vào phòng này, và nhìn chung nhiều đồ gỗ mới được đặt mua thêm. Nhiều đồ gỗ lạ kiểu được đưa về từ xưởng đóng đồ gỗ địa phương, những đồ gỗ “hiện đại” khiến hàng xóm của chúng tôi phải thán phục. Salon - phòng thừa nhất của căn hộ - có khi đến hàng năm chẳng được sử dụng, vì giới thị dân tỉnh lẻ khi đó còn chưa biết tới cách giao tiếp xã hội theo đúng nghĩa salon kiểu phương Tây, khách đến chơi ngồi quanh chiếc bàn màu trắng, nhâm nhi rượu vang sau bữa tối, có khi tới tảng sáng. Nhưng salon vẫn được bài trí cầu kỳ. Bộ đồ bằng gỗ gụ có khảm trai, tấm gương lớn, cái bàn rộng đánh véc ni đen bóng, trên đặt giá để danh thiếp bằng bạc xếp đầy danh thiếp có ghi địa chỉ và phẩm hàm của những thân nhân sang trọng và khách viếng thăm, một cuốn an bom, những vỏ ốc biển lớn, trong một hộp thủy tinh đặt vòng nguyệt quế mẹ tôi đã đội trong ngày cưới. Trên chiếc giá nhỏ, một nàng tiên cá bằng đồng vươn lên từ chiếc gạt tàn lượn sóng, tay cầm ngọn đuốc, chẳng biết để làm gì… Trong phòng này còn có một tượng đồng con chó giống dachshund[34] đúng bằng kích cỡ thật, phiên bản trung thành của một trong những con chó cưng đã chết của cả nhà và nhiều đồ vật bằng bạc, bằng cẩm thạch và đồng, còn có một hòn đá chạm khắc từ Messina[35] đã bị hủy diệt. Trong một chiếc tủ màu đen có cửa kính chạm trổ để vài cuốn sách của mẹ tôi, được bà giữ lại từ thời con gái, hay được cha tôi tặng sau này. Các thứ đồ đồng và gỗ gụ dĩ nhiên được lau chùi sáng bóng; càng ít sử dụng, căn phòng thừa này càng được giữ gìn quét dọn cẩn thận. Những đồ gỗ trong salon đóng từ thời còn xưởng gỗ của ông ngoại tôi, và vì lòng kính trọng ông mà chúng tôi giữ lại khi bố trí lại căn hộ. Các đồ gỗ này là những tuyệt phẩm của thị hiếu cuối thế kỷ, là sự kết hợp tài tình giữa gỗ mun và khảm trai, những chiếc ghế bành, chân ghế hội tụ nghệ thuật trang trí của các cột doric[36] và ionic[37], và nhìn chung mọi thứ đồ gỗ đều cố gắng cẩn thận che đậy chức năng của chúng, có thể thấy cái ghế không phải phục vụ mục đích để người ta ngồi lên, mà chỉ tồn tại như thế. Đó là salon, phải công nhận rằng cái salon của chúng tôi, với sự trang nhã kín đáo, với kiểu cách khiêm nhường của nó,
vẫn ấm cúng hơn những salon khác mà tôi nhìn thấy trong các nhà hàng xóm và nhà người quen hồi tôi còn bé. Những đồ gỗ “hiện đại” cuối thế kỷ - mà bản vẽ và kiểu mẫu của chúng hằng năm được người ta sao chép lại trong xưởng mộc của ông tôi cũng như trong các xưởng Hungary khác, theo các mẫu bên Wien - đã tiêm nhiễm thị hiếu của hai thế hệ. Từ phong cách Biedermeier[38] của “thế giới quan án sát”, từ những kiểu mẫu hiền lành, nhân văn và trang nhã đã sinh ra các kiểu palisander[39] và bọc nhung thật ngán ngẩm, đó là đồ gỗ thị dân cuối thế kỷ. Một “phòng ăn kiểu Đức cổ” gồm những thứ đồ gỗ có tính năng sử dụng thật sự và trang nhã hơn, nếu so với những chiếc tủ ngăn kéo hộp, trang trí những họa tiết loằng ngoằng, các tủ phòng ngủ cửa lắp gương, những kiểu ghế bành bọc nhung mà người ta bắt đầu chế tác khắp nước hồi đầu thế kỷ. Và bên cạnh tất cả những thứ đồ gỗ vô hồn, không có ý tưởng này, ta hãy tưởng tượng thêm những vật trang trí không thể thiếu như vài cây cọ trong góc nhà, những chiếc gối trên tất cả các đi văng và ghế bành, giá để bàn chải trên bức tường có treo thảm vẽ cảnh săn bắn, một con nai bạc có bộ sừng là giá để bút trên bàn viết, một nghiên mực hình con cú bằng đồng, những vật chặn thư bằng đá cẩm thạch gọt đẽo thành hình bàn tay, những tấm rèm cửa xâu chuỗi hạt màu, những thanh cời lò sưởi đầu bịt ni ken hình móng sơn dương, những con cò bằng sứ đỡ cây cảnh xanh quanh năm giữa hai cánh, những con chim diệc bằng thép đúc tráng bạc mỏ cắp danh thiếp và bao nhiêu thứ nhung, lụa, vải rèm cửa kín đầy cửa sổ, phủ trên tường và đồ gỗ để một hạt bụi hay một tia nắng nhỏ cũng chẳng có chỗ len vào… Đó là juste milieu[40], tiếng Hung gọi là enteriöi[41], là không gian mà trong đó một thế hệ thị dân sống và trưởng thành. Trong nhà chúng tôi, có lẽ thị hiếu lành mạnh của cha tôi đã lọc bớt đi ở mức độ nào đó sự lan tràn này, nhưng chúng tôi cũng không tránh khỏi sự áp đặt mạnh mẽ của thời đại, và vẫn có một vài con hạc đồng hay những bức tranh khung da treo tường vẽ cảnh cho hươu nai ăn treo trong salon, trong phòng ông chủ. Nghệ thuật trang hoàng nhà cửa này là cách biểu thị phi thẩm mỹ thị dân thời Victoria ở khu vực Trung Âu - người ta sống, ăn mặc, đọc sách, đàm đạo theo cách như thế. Những thứ đồ gỗ thuần khiết, kiểu dáng đẹp, sang trọng của thời trước bị lớp “thị dân được khai sáng, tự do” coi là đồ cũ vô giá trị, là di sản đáng bỏ vào kho rác của ông bà. Đúng là các bậc tai mắt của thời đại ấy cũng đi đầu trong thị hiếu này. Bài trí trong phòng riêng của Hoàng đế
Wilhelm[42] hay Edward VII[43] cũng chẳng khác bao nhiêu so với nội thất trong phòng chờ của một bác sĩ chuyên trị bệnh ngoài da ở Berlin. Chiếc ghế dương cầm quay được đặt trước bàn viết trong phòng của Hoàng đế trong cung điện “Achilleion[44]” ở Corfu[45] được vị chủ nhân có vóc dáng cao lắp thêm đệm da và ngồi trên đó khi làm việc. Thì có gì phải ngạc nhiên khi trong phòng đệm của một căn hộ thị dân ở tỉnh lẻ Hungary, trên giá treo bàn chải có vẽ phong cảnh săn bắn.
8.
Trong phòng “ông chủ” sách được bày trong ba cái tủ có cửa kính. “Thư viện” của mẹ tôi đúng ra chỉ là vật trang trí, món đồ phụ thêm trong số các thiết bị ở salon, một kỷ niệm từ quá khứ; cánh cửa cái tủ gỗ gụ ít khi được mở ra. Sách của mẹ tôi, chừng ba chục quyển, chủ yếu thuộc “Tủ sách tiểu thuyết phổ thông” đóng bìa vải đỏ; sau đó là khá nhiều tiểu thuyết Đức. Nhà văn yêu thích của bà là Rudolf Herzog[46], và cuốn sách bà yêu thích của nhà văn này là tiểu thuyết Das Grosse Heimweh[47]. Hai tập Soil and Haben[48] của Freytag[49] bìa da màu vàng đặt ở vị trí trang trọng, sau đó là vài cuốn của Schiller[50]. Cái tủ sách thị dân không thích Goethe[51]. Họ cho rằng ông “cổ điển sướt mướt”. Schiller đã được chấp nhận hơn, đặc biệt là Những tên cướp, Âm mưu và Tình yêu, và một ấn bản in rất đẹp của Lời chuông. Người ta thấy ở Schiller một tín sứ của chủ nghĩa tự do, một nhà cách mạng, còn Goethe là “hình thức cứng nhắc”, là “sự lạc hậu cổ điển”, buồn tẻ. Tôi không tin là đám thị dân tỉnh lẻ cuối thế kỷ đã đọc những gì khác hơn của Goethe, ngoài vài ca khúc nhà trường của Hermann và Dorothea, và sau này là Khúc ca đêm của khách lữ hành.
Mẹ tôi thích các “tác giả Đức hiện đại”. Bên cạnh Herzog và Freytag, trong số những cuốn sách ưa thích của bà còn có tác phẩm của Stratz[52], Ompteda[53] và vài tác giả trào lộng Đức. Tôi không có ý kiến đánh giá những cuốn này, vì thời niên thiếu, khi được tự do khám phá tủ sách của cha mẹ, theo bản năng tôi đã ghét những cuốn sách này, và không đọc nổi một cuốn nào. Đặc biệt, từ đâu lọt vào cả một cuốn của Lily Braun[54]: Memoiren einer Sozialistin[55]. Để chứng tỏ thị hiếu của mẹ, tôi xin nói kiểu văn chương của Marlitt[56] hay Courts Mahler không hề có trong tủ ẳ
sách của mẹ. Chắc hẳn vì Herzog và Freytag, ngoài quan niệm duy cảm và yêu nước, họ còn là những nhà văn đích thực hơn, so với Dekobra và Vicki Baum với các tác phẩm rẻ tiền ngày nay phủ đầy mặt các tủ kê trong phòng ngủ của giới thị dân. Thời gian đó, dù ngẫu nhiên người ta cũng không mua các sách in thơ. Thi ca là một kỷ niệm xấu, một giấc mơ hãi hùng từ nhà trường, là “bài học thuộc lòng” và bài tập về nhà. Cái thói quen ngây thơ và dễ thương là chép những lời hay ý đẹp và những câu thơ bất hủ của các “đại thi hào” vào an bom trong các gia đình, bên cạnh việc thêu thùa, chơi đàn thụ cầm và vẽ tranh lụa, một trong những bằng chứng về cuộc sống tinh thần của các “cô gái nhà quyền quý”, đến cuối thế kỷ đã không còn thời thượng nữa. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không rõ vì sao một cuốn thơ ép vần tẻ nhạt của Klopstock[57], cuốn Chúa Cứu thế, lại lọt vào số sách của mẹ tôi… Trên cái giá sách phụ nữ này ít thấy sách Hung. Một trong những cuốn sách ưa thích nhất của mẹ tôi là Những học trò Beszterce của Werner Gyula[58]; cuốn này tôi cũng phải đọc, và bà chưa yên tâm khi tôi chưa đọc đến hết; tôi nhớ đó là một cuốn sách non kém gây xúc động, nhưng dẫu sao cũng dễ thương hơn, trong sự mẫn cảm, nó vẫn tế nhị và chừng mực hơn tiểu thuyết của các nhà văn nữ bấy giờ. Trong cái tủ sách màu đen có cả một cuốn của Karin Michaelis (tôi nhớ Ulla Fangel là nhan đề cuốn sách than vãn của Michaelis), và những tập dày gộp mấy năm tạp chí Velhagen and Klasings Monatshefte[59]. Những tạp chí gia đình tiếng Đức này - Über Land and Meer, Blatt der Hausfrau, Haus, Hof, Garten[60] và đại loại - bán được hàng triệu bản trên khắp thế giới, và trong các gia đình Hung người ta cũng thích lật giở những tạp chí in trên giấy tốt, chứa đầy các mẫu may, công thức nấu ăn, những lời khuyên về nữ công gia chánh và hơn nữa là các đoạn thơ văn ngắn đi kèm theo chúng. Dĩ nhiên tờ Thời Mới cũng xứng đáng có mặt giữa các món ăn tinh thần nói trên. Có lẽ tạp chí gia đình tiếng Hung giản dị và gần gũi này còn có “tính văn học” hơn Über Land and Meer. Dẫu sao nó cũng không làm hỏng thị hiếu văn chương đến mức như các tạp chí tiếng Đức kia.
Tủ sách của cha tôi đáng nể và chiếm hết mặt tường dài nhất của phòng “ông chủ”. Trong số những nhà văn Hung, ông thích đọc Mikszáth[61] hơn cả. Sách luật, những cuốn “corpus juris[62]” to bè, những “bộ sưu tập các quyết định”, các bộ “tuyển lựa về phạm trù luật tư nhân” ông cất trong văn
phòng; ba tủ tường cao trong phòng chất đầy sách văn học. Tầng lớp thị dân ở thành phố thích đọc. Trong thành phố này trước đó hai thế kỷ người ta đã tổ chức các “salon văn chương”; cuối thế kỷ 18, Kazinczy Ferenc[63] từng là luật sư thực tập ở đây, người ta đã in báo và tạp chí ở đây khi trong những thành phố Hungary của vùng Alföld[64] - ngoại trừ một số rất ít - “đỉnh điểm” của đời sống văn hóa vào mùa đông vẫn là những cuộc tụ họp trong các dịp mổ lợn. Trong những salon mái vòm trên Phố Chính, cách đây một thế kỷ trước người ta đã tranh luận với nhau về văn học, và trong cái thành phố đa ngôn ngữ này, khi đó và cả về sau này, sách Hung tiêu thụ nhiều hơn cả ở thành phố thuần văn hóa Hung xưa nay là Pest-Buda. Bốn hiệu sách sống được, thậm chí làm giàu trong cái thành phố nhỏ chưa đầy bốn chục ngàn dân này. Tại các hiệu sách, lúc gần trưa, sòng bài được tổ chức cho các ông từ công sở ra, người ta ngồi thoải mái trên các ghế bành lật giở những cuốn sách mới chất trên giá. Thời niên thiếu, tôi còn chưa biết về làn sóng văn hóa tinh thần tràn ngập thị trường sách sau chiến tranh, người ta bàn tán về tất cả những cuốn sách mới xuất bản, và gần như không có ngày nào mà một trong bốn hiệu sách không gửi những tác phẩm văn học mới đến cho chúng tôi nhờ “vui lòng xem giúp”. Trong nhà chúng tôi, mọi người đều thành kính đối với sách. Chúng tôi ghi lại từng cuốn, có cả “danh mục” sách, một cuốn vở bìa bọc vải, trong đó ghi những tên sách cho mượn. Vào thời bấy giờ, nếu cảm thấy buồn chán, phụ nữ thị dân không chơi bài, không chạy ra rạp phim hay quán cà phê, mà lấy ra một cuốn sách và đọc. Các buổi tối của cha tôi cũng trôi đi như vậy, với sách trong tay. Có thể nói không quá lời, đối với tầng lớp thị dân trong vùng hồi cuối thế kỷ, sách thực sự là một nhu cầu, như bánh mì hằng ngày. Người có hiểu biết thuộc tầng lớp trung lưu, không có ngày nào trôi đi mà vào buổi tối, trước khi ngủ, trên giường, họ lại không đọc vài trang trong một cuốn sách mới, hay đơn giản là một đoạn trong cuốn sách gắn với kỷ niệm dễ thương nào đó. Nhà có đặt một tờ báo Anh, tạp chí khoa học tự nhiên Nature, nhưng ít khi chúng tôi giở xem, vì trong gia đình mọi người đều không rành tiếng Anh, mặc dù trong nhiều năm, mỗi tuần ba lần, ông thầy dạy tiếng Anh già nghiện rượu đều đến nhà, thỉnh thoảng chúng tôi cũng làm ông giật mình sau bữa ăn trưa, khi cả ông lẫn cha tôi ngủ ngon lành trên chiếc ghế bành dễ chịu, trong giờ dành cho việc học tiếng Anh. Trong số các tạp chí Hung, chúng tôi nhận được tờ Người quan sát
Hungary của Tisza István[65]; cha tôi không thuộc Đảng Công nhân, và “trung thành với cái bắt tay của Andrássy[66], có một dạo ông là đại biểu Hội đồng Thành phố. Trong số các nhật báo, một thời gian dài chúng tôi đặt tờ Tin tức Pest, và hai tờ báo thiếu nhi là Báo của tôi và Lá cờ của chúng ta. Tờ sau được tôi hồi hộp chờ đợi và đọc rất thích thú thời còn là học sinh; có vẻ như nó đã được biên tập khéo, vì bao giờ cũng nói lên điều gì đó mà bọn con trai quan tâm. Tờ báo không có một chủ ý rõ rệt, một tính chất giáo dục được nhấn mạnh nào, chỉ đơn thuần giải trí và bổ ích.
Rất nhiều sách tích tụ trong những cái tủ nhiều tầng, cánh mở sang hai bên. Những cuốn sách được gửi đến nhờ “vui lòng xem giúp” thường bị quên gửi trả lại, đến cuối năm chúng tôi mới thanh toán hóa đơn cho các hiệu sách, và không ai quan tâm đến chuyện phải trả tiền cho cả dăm cuốn sách chẳng ai đọc, thậm chí còn chưa rọc nằm hứng bụi trên các giá sách trong tủ. Phải chia “tủ sách” thành hai nửa: một nửa lớn hơn là do các nhân viên bán sách đem đến, chỉ một nửa nhỏ hơn được chọn lựa theo ý muốn, khuynh hướng và sự hiếu kỳ của chúng tôi. Trên giá sách trước hết xếp “toàn bộ Mikszáth” và đầy đủ các tác phẩm bìa bọc vải của Jókai[67]. Loạt sách kỷ niệm gồm một trăm cuốn của Jókai cứ vơi dần, vì người buôn sách cũ ở phố Forgacs, nơi cuối năm học chúng tôi bán những cuốn sách đã trở nên thừa thãi, đã trả năm mươi xu một cuốn Jókai, ông không tôn trọng một ai khác trong nền văn học thế giới. Chúng tôi đem những cuốn sách của Jókai xuống hiệu đồ cũ không phải vì nông nổi và vì hám lời - tôi trăn trở đến hàng năm mới quyết định đem Những đứa con của người có trái tim đá hay Một cự phú Hungary xuống bán, thực ra chỉ có mệnh lệnh của sự cần thiết và sự nghiêm khắc của lão già buôn sách cũ, lão biết rất chính xác rằng giá của các tiểu thuyết Jókai thay đổi từng ngày, mới buộc được tôi làm như thế. Một vài tuyệt tác như Ngài địa chủ mới hay Con người vàng, và đặc biệt cuốn Người thuần dưỡng linh hồn có giá trị lâu bền, được ghi trên bảng giá và lúc nào lão cũng trả năm mươi xu; cuốn Tù nhân Raby lão không trả quá mười tám xu, cuốn Các mốt chính trị lão ước giá mười hai xu, cuốn Dekameron[68] lão không trả xu nào. Lão không thích mua các tác phẩm của Tömörkény[69], Gárdonyi[70], Herczeg[71], thậm chí rất lạ là lão cũng chẳng ưa Mikszáth. Thế là tôi buộc lòng phí phạm những tác phẩm của Jókai - trong gia đình tôi các ngày lễ đặt tên, ngày sinh nhật
được tổ chức rất chu toàn, người trong gia đình không khi nào quên tặng quà nhau vào những dịp ấy, và vì không có tiền, tôi buộc phải bán một vài cuốn trong tủ sách của cha tôi vào các dịp sinh nhật hay trước Giáng sinh, để không phải xấu hổ đứng tay không giữa những người được chúc mừng
trong gia đình. Nói đúng ra là tôi đã đánh cắp sách từ tủ sách của cha tôi, rồi bằng tiền bán sách lấy trộm ấy mua những món quà đặc biệt nhất tặng người thân của mình. Ý tốt trong sáng ấy cũng không thay đổi một sự thật phũ phàng là tôi và đám bạn bè đã lấy trộm các tác phẩm Jókai từ tủ sách của cha tôi, và lão buôn sách cũ, lão đầu nậu sách đội mũ màu đen để râu quai nón kia biết chắc là lũ trẻ con từ tám đến mười tuổi không thể có Những đứa con của người có trái tim đá một cách tử tế. Loạt sách kỷ niệm Jókai đã khuyết đi khá nhiều cho đến khi tôi vào trường trung học.
Loạt sách “Các nhà văn xuất sắc Hungary” đóng bìa màu nâu đỏ, chữ vàng, có nhãn gắn bản sao chữ ký của các tác giả trên bìa lót chiếm một giá sách dài. Cuốn nào thiếu trong bộ sưu tập này thì có thể tìm thấy trong “Tủ sách tranh của các nhà văn xuất sắc”, loạt sách đóng rất đẹp, trên bìa có ảnh tác giả in nổi mạ vàng, điểm các lá tử la lan màu tím, bên trong xen lẫn các hình vẽ minh họa sát với nội dung. Các minh họa có mục đích làm tăng thích thú của người đọc, và chúng diễn đạt một cách đơn giản các ý tưởng ẩn dụ xa xôi của thi sĩ. Tôi đặc biệt nhớ đến một bức vẽ trong “tập hợp các sáng tác” của Reviczky Gyula[72] - một cuốn sách mỏng -, minh họa bài thơ “Người hành khất hát”, và đúng là nó vẽ một người ăn xin mù, một ông già râu dài, ngồi dưới chân một bức tường đá trong vườn, đang chơi đàn hạc. Lần nào giở đến trang này tôi cũng khóc, rồi đọc bài thơ đơn giản và buồn này. Tôi vẫn thấy rõ màu bìa các cuốn sách, thấy bìa màu xanh thẫm của các cuốn Kho tàng tiểu thuyết cổ điển, màu nâu của cuốn Những ghi chép thời kỳ lưu vong của Kossuth[73], những tác phẩm bìa xanh nhạt của Herbert Spencer[74], tập Thế giới động vật màu nâu thẫm của Brehm[75], một loạt sách khoa học tự nhiên đóng bìa đẹp, trong đó có mấy tập mang tên Con người, Trái đất và Vũ trụ, đặc biệt là tập sau cùng hết sức thu hút tôi, và ngay từ khi ấy tôi đã coi đó là một việc làm táo bạo, cả về phía tác giả lẫn nhà xuất bản, khi tập hợp lượng tư liệu khá lớn, gồm những vấn đề lớn nhỏ chi tiết của vũ trụ vào tập sách duy nhất này. Tôi còn nhớ một cuốn sách khổng lồ, bìa được trang trí các viên đá và mảnh kim loại, giới
thiệu quá trình lập quốc của dòng họ Árpád[76] bằng cả văn viết và hình vẽ, nhân viên bán sách có lẽ phải rất giỏi thì mới bán được cuốn sách khủng khiếp này cho gia đình tôi. Cuốn Truyền khẩu và Kho tàng giai thoại Hungary của Tóth Béla, mấy cuốn của Herczeg và Tömörkény, những tác phẩm Người hâm mộ và Thời gian khắc nghiệt của Kemény[77], vài tập thơ xuất bản từ lâu của Arany[78], Vörösmarty[79] và Petőfi[80] và cả một cuốn của Pekár[81] cũng thấy trên giá sách, tiểu thuyết Trung úy Dodo. Cuốn sách “hiện đại” đầu tiên giành được quyền có mặt trên giá sách là tác phẩm Vàng ròng của Moricz[82]. Thời gian ấy cha tôi đặc biệt bị cuốn hút và ưa đọc các nhà văn Hung cổ điển, chẳng hạn tối tối ông thường đọc Kölcsey[83], Kazinczy, và cả Gvadányi[84]. Sau này khi tôi mang những cuốn sách “Phương Tây” về nhà, những biếm họa văn học của Karinthy[85] đặc biệt thành công; đa số những tác giả bị giễu cợt chưa được biết tới - Ady[86] chỉ được phát hiện qua giới thiệu của Rákosi[87], Kosztolányi[88], Babits[89] cũng chỉ được nghe nói đến qua các cuộc tranh cãi về chính sách văn học nhưng người ta vẫn xem những bức biếm họa với sự ghi nhận. “Họ viết như thế đấy” - người ta nói. Và bằng cách gián tiếp như vậy cuốn sách nổi tiếng của Karinthy đúng là đã làm văn học hiện đại được ưa chuộng.
Thứ Hai nào cũng có một người lưng còng, nói ngọng đến tận nhà, khoác trên lưng một túi da, chào mời các tập san Thế giới Tolnai, Thời mới, Velhagen and Klasings Monatshefte và giới thiệu danh sách đủ các loại tạp chí văn học trong ngoài nước. “Đây rồi, nó đây rồi,” - ông ta hát từ ngoài cầu thang, nhiệt thành và đau đớn, như thể việc tờ Blatt der Hausfrau[90] đến là một sự kiện trọng đại. Và đúng là chúng tôi đã hồi hộp chờ đợi, Ông mang “văn học”, “văn hóa” đến cho đời sống tỉnh lẻ của chúng tôi. Sau đó hai chục năm tôi không nhìn thấy ông. Hai thập kỷ sau, khi tôi quay về thành phố, trong số những người cũ tôi gặp lại có cả con người nhỏ thó này, ông chặn tôi lại trên phố, nhìn tôi từ đầu đến chân bằng ánh mắt quen thuộc, và tin cậy đưa tay lên che miệng thầm thì: “Tôi đã mang văn hóa đến khắp thành phố này trong ba chục năm; anh có biết cuối cùng đã ra sao không? Tôi đã rơi vào hố phân”. Ông phủi tay và bỏ tôi lại góc phố. Tôi đã hỏi thăm về ông và được biết sự việc đáng buồn ấy đúng như ông nói; với cái chiếc túi da chất đầy “văn hóa” trên lưng ấy, ông đã rơi vào một hố
phân và suýt chết ngạt. Một hình tượng thật thô thiển, nhưng tôi vẫn cảm thấy con người phân phát văn hóa tiểu thị dân nhiệt thành này không thể bị giáng xuống một kết cục khác.
9.
Những người ở ngủ trong bếp. Dù căn hộ có rộng rãi đến đâu đi nữa, những căn nhà của các gia đình tỉnh lẻ trước đây nhiều khi có tới mười mười hai phòng dành cho người trong nhà, nhưng bà đầu bếp và cô người ở vẫn ngủ ngay trong bếp, nơi suốt ngày họ nấu nướng và rửa dọn. Buổi sáng họ rửa ráy ở chỗ vòi nước trong bếp, cũng là nơi đổ nước bẩn và cặn bã vào. Kết quả là hầu hết các nhà đều có mùi hôi thối lưu cữu, dù có thông gió bao nhiêu lần trong ngày đi chăng nữa. Tình trạng dơ dáy tồn tại một cách khó hiểu, nhưng chẳng ai để tâm đến, xã hội được sắp đặt mặc nhiên như vậy, người nhà sống trong tám, mười phòng, trong các phòng có đàn dương cầm, đồ vật trang trí bằng đồng, rèm cửa ren, các tủ đầy sách, đồ bạc và đồ gốm, tất cả đều sạch bóng, người ăn kẻ ở suốt ngày lau bụi và dùng chổi lông xua “vi trùng”, bàn ăn được bày biện sạch sẽ và cẩn thận, đồ ăn trên bàn thơm ngon và được nấu nướng cầu kỳ, còn những người ở cả ngày nấu nướng, sấy hoa quả trong hơi thức ăn nhà bếp, hơi người lẫn với hơi thức ăn, rồi đồ ăn sau đó được đưa lên bàn gia chủ. Không ai suy nghĩ về việc này. “Tình trạng xã hội” của người ăn kẻ ở trong các gia đình Hungary đang tư sản hóa đầu thế kỷ rất đặc biệt. Họ không thuộc về “những người vô sản” - khái niệm này khi đó mới chỉ được sử dụng trong các văn phòng của đảng -, họ cũng không phải là “người làm công ăn lương”, họ không mấy biết về vị thế của mình trong xã hội. Đơn giản họ chỉ là người ở. Họ được trả công rẻ mạt - rẻ mạt hơn cho bất cứ người làm thuê nào, mạt hạng hơn cả người làm công nhật nhưng phải làm việc đến kiệt sức, và nếu xảy ra cãi cọ, thì ngay lập tức họ bị tống khứ khỏi nhà, dù đã làm ở đó đến hai chục năm thì cũng mặc. Đổi lại, họ “cái gì cũng có”, như các bà chủ tiểu tư sản nói, “được ăn, được ở”, còn cần gì hơn thế nữa? Chỗ nằm là một thùng to có ngăn kéo đặt trong bếp, chất đầy “vỏ chăn gối con ở” màu đỏ hay lòe loẹt - ban đêm họ kéo ngăn kéo phía dưới ra và ngủ trong đó -, đồ ăn thì tất nhiên thay đổi tùy nơi, nhưng ngay cả vào thời kỳ nước Hung sung túc trước chiến tranh, người ta vẫn “quy định” dành cho người ăn kẻ ở đồ ăn từ những đĩa thức ăn thừa, cắt cho họ khẩu bánh mì
hằng ngày, đong sữa, cà phê - dĩ nhiên những người ở chỉ được uống thứ cà phê phụ phẩm -, và người ta còn đếm cả đường viên cho vừa đủ. Buồng đựng thức ăn trong đa số các nhà được khóa kín. Nếu người ở bị đuổi, trong giây phút cuối cùng bà chủ nhà tử tế còn kiểm lại đồ đạc trước khi tống họ ra khỏi nhà, thực sự là một cuộc khám người, đồ đạc đã gói ghém của người ở bị soi xét cặn kẽ, người ta tìm khăn mặt, thìa bạc, vì ai cũng biết rằng “con ở nào cũng ăn cắp”. Bà chủ nhà kỹ tính khám xét ngay cả khi người ở “được miễn nhiệm” đã phục vụ trong nhà hàng chục năm và chưa bao giờ trong nhà mất mát dù chỉ một cái kim sợi chỉ. Bản thân những người ở cũng không phản đối việc khám xét hạ nhục này, họ coi điều đó là tự nhiên. Nhiều khi mối nghi ngờ “nuôi ong tay áo” của bà chủ nhà được chứng thực là đúng - người ở cũng hay thích ăn cắp, chủ yếu là khăn tay, quần tất dài, khăn mặt. Nhìn chung là có nhiều chuyện không hay với đám người “ong nuôi tay áo” này. Thời niêu thiếu của tôi đầy các ký ức về bi kịch người ở. Các bà đầu bếp thường uống rượu, đặc biệt họ thích uống rượu rum, họ muốn quên đi thực trạng bi đát của mình nhờ chất men say, quên việc “họ có tất cả những gì cần thiết”, mà trước hết là nơi ăn chốn ở, thực không sao hiểu nổi điều này. Các cô bảo mẫu thì chạy theo đàn ông, rồi sinh bệnh tật, đau ốm, bê trễ công việc, đặc biệt các cô gái người Slovak có tiếng lẳng lơ. Trong gia đình, vị thế của người ở bao giờ cũng thấp hèn, nhưng thời xưa đúng là người ở bao giờ cũng được coi gần như người trong gia đình, gia chủ tận dụng hết mức, họ phải làm việc cho đến lúc chết, được trả công rẻ mạt hoặc không trả tí gì, nhưng đổi lại họ được coi như người trong nhà, được chu cấp cả lúc đã về già. Gia chủ thời trước thỉnh thoảng có khi đe dọa, tát hay phạt con ở, họ có quyền sinh quyền sát, nhưng họ giữ người ở lại trong gia đình lúc tuổi già. Nếu được gia chủ cho phép đi lấy chồng thì người ở được chu cấp các thứ cần thiết, có khi cả chồng cũng được nhận vào làm; tựu trung lại là nhà chủ lo lắng cho người ở, coi họ như một thứ họ hàng xa ở đẳng cấp thấp hơn. Còn trong gia đình tiểu thị dân, người ở không phải là thành viên trong gia đình. Từ quan niệm chủ nhân thời trước, người ta chỉ thừa kế sự ngược đãi, quan hệ giữa gia chủ và người ở thiếu sự gắn bó mang tính chất gia đình và ý thức trách nhiệm xã hội. Trong đa số các trường hợp, người ta cho nghỉ việc người ở đã về già, hết khả năng làm lụng, chẳng cần lý do gì đặc biệt, có khi chỉ vì họ “đã chán” người ấy.
Không có gì đáng ngạc nhiên, nếu thấy các bà chủ nhà phàn nàn về “sự vô ơn” của người ở trong thế giới đã thay đổi này. Người ở, dù có vẻ tuyệt vời đến đâu, cũng không còn “gắn bó” với bà chủ, không còn muốn “sống chết” vì gia đình nơi họ ăn ở, nhưng bất cứ lúc nào cũng có thể đuổi họ ra đường, khi đã vắt kiệt sức hoặc không ưa họ vì điều gì đó. Người ở sống với nỗi nghi ngại rằng họ sẽ không ở lâu với gia đình, dù gia chủ có nói năng với họ bằng giọng điệu thân thiện đến thế nào. Thế là các cô người ở bắt đầu uống rượu, chạy theo đàn ông, đánh cắp đường viên và khăn lau, tạo ra lý do để các bà chủ khẳng định định kiến đã có sẵn đối với giới người ăn kẻ ở nói chung. Gia chủ xưng hô với người ở thân mật như với con cháu, còn các con ở gái thì chào ông chủ là ông hay ngài. Song những điều như vậy đã trở thành truyền thống, thành một ký ức đẹp, thân thiện trong một thế giới có đẳng cấp, nền nếp, cái thế giới đó giờ đây không còn nữa, gia chủ thế hệ mới không còn ý thức về nhân ái và bảo trợ, dẫu chỉ là tương đối. Có lẽ trong một ngàn gia đình tiểu tư sản mới có một gia đình nuôi người ở đến tận lúc về già. Trong gia đình tôi, tình trạng thay đổi người ở liên miên cũng đưa đến nhiều khuôn mặt mới. Hai người ngủ trong bếp, một bà đầu bếp già to béo và dưới quyền cai quản của bà là một cô hầu phòng trẻ, một cô bảo mẫu ngủ trong buồng cạnh bếp, thường là một người vùng Moravia hay một cô giáo vùng Silesia[91], dạy bọn trẻ chúng tôi nói tiếng Đức. Đương nhiên chính những tiểu thư này cũng làm các việc trong nhà, họ tự dọn dẹp phòng ở của mình, và giữ ngăn nắp trong phòng trẻ con, là và may vá quần áo, tuy nhiên họ rất chú ý đến sự khác biệt xã hội giữa họ với những người ăn kẻ ở khác trong nhà, dù trong đa số các trường hợp chính họ cũng xuất thân từ nông dân. Trưa và tối, họ ăn cơm cùng gia đình, nhưng không tham gia các câu chuyện, họ cũng chỉ được nhắc nhở chúng tôi bằng cách nheo mắt hay bằng các cử chỉ im lặng trong khi ăn, vì mẹ tôi không thích họ mở miệng khi có mặt cha tôi.
Bọn trẻ và người ở thường sống hòa thuận với nhau, bên ngoài thế giới của người lớn và “ông bà chủ”, có chút nương tựa vào nhau trên một mặt bằng xã hội giống nhau. Mẹ tôi rất nghiêm khắc đòi hỏi chúng tôi phải đối xử lịch sự với những người ở; nếu chúng tôi yêu cầu được phục vụ điều gì đó quá đáng là bà mắng ngay, và bà rất để ý nhắc chúng tôi phải lịch sự cám ơn mọi sự giúp đỡ dù nhỏ nhất. Khi cha tôi chuyển sang căn phòng rộng hơn trong ngôi nhà riêng của ông, ông bố trí căn phòng mái vòm cạnh
bếp cho người ở; tôi không nghĩ trong thành phố có được đến mươi nhà bố trí cho người ở ngủ trong phòng riêng. Trong ký ức thời niên thiếu của tôi, những gương mặt dễ thương, bím tóc vàng, những cô gái người Slovak mười lăm, mười sáu tuổi vẻ non tơ như một chú bê con, chân đi ủng dạ, người nghèo hơn thì quấn xà cạp, đến từ các vùng quê lân cận, vai đeo túi đồ đạc sơ sài đựng một bộ quần áo đủ thay, một cuốn Kinh cầu nguyện và các bức tranh Thánh, họ đến và đi, vô danh tính, như thể là những người chị em sinh đôi trong cùng một gia đình. Tôi không nhớ nổi khuôn mặt của một ai, nhưng tôi nhìn thấy họ, áo quần rách rưới, mũi đỏ vì lạnh dưới trời giá rét mùa đông, họ đến từ một làng nào đó đầy tuyết phủ, từ Kavecsán hay từ Miszlóka, từ những căn nhà nông dân tường đắp đất, trong nhà đã hết bánh mì làm từ yến mạch cả vào dịp Giáng sinh, và người ta sai các cô gái đi xin việc làm trong thành phố. Tiền công hằng tháng cho một cô gái như vậy là bốn, năm forint, dĩ nhiên chỉ sau khi đã làm mấy tháng, đã học được đôi điều và không đánh rơi vỡ tất cả những gì cầm trên tay. “Đi với lính tráng” bị cấm, mỗi tháng người ở chỉ được rời khỏi nhà một lần, bất quá là hai lần, vài tiếng vào Chủ nhật - đến bốn giờ rửa nồi niêu bát đĩa xong, năm giờ chiều mặc quần áo để đi, đến tám giờ đã phải quay về. “Điều 13 trong bộ luật năm 1876 về quan hệ giữa người ở và chủ nhà” - ngày nay vẫn còn hữu hiệu và trên trang ba của mọi cuốn sách hướng dẫn người ở có thể đọc được đều xác định “người ở… kể từ khi đến nhận việc được coi là thành viên của gia đình người chủ”, nhưng trong thực tế quan điểm tiến bộ này chỉ được áp dụng chiếu lệ. Điều luật lao động này xác định các quyền và nghĩa vụ của người chủ và người ở, có thể nói là không cân xứng; chẳng hạn “người ở nào đã xin vào phục vụ mà còn ngần ngại, thì theo yêu cầu của gia chủ, có thể bị cưỡng chế về mặt hành chính”; rồi còn “người ở phải để đồ đạc, quần áo và các thứ khác ở nhà chủ, nếu nhà chủ yêu cầu, và nếu nghi ngờ có cơ sở, gia chủ có thể kiểm tra đồ đạc của người ở với sự hiện diện của người ở”, - các gia chủ hay vin vào quy định này. Điều 45 của luật này nói trắng ra rằng: “Người ở phải tôn trọng và phục tùng mệnh lệnh của gia chủ; những lời nói và hành động có thể coi là xúc phạm giữa những người ngoài phạm vi gia đình, không thể trở thành căn cứ để chống lại gia chủ nếu trong đó có ý động chạm tới người ở về mặt danh dự”. Nói gọn lại là gia chủ có quyền mắng nhiếc con ở đến tối tăm mặt mũi, những lời sỉ vả ấy vẫn không “được coi là xúc phạm”. Tầng
lớp tiểu thị dân sống với người ăn kẻ ở của họ giữa những điều kiện như vậy.
Các bà đầu bếp, đến tuổi mãn kinh và nghiện rượu, có khi cầm dao dọa chủ, những cô bảo mẫu ngang bướng thỉnh thoảng bỏ trốn; thường chẳng mấy khi có người ở trụ lại một nơi quá một năm. Bên cạnh những người ở thì đám thợ giặt là và thợ may cũng là khách vãng lai thường xuyên của các gia đình, đó là những cô gái ở vùng ngoại vi, đã ăn mặc theo lối tiểu thư, họ có tác động nguy hiểm đến lũ con trai đang lớn, tính khí thất thường trong gia đình. Trong nhiều gia đình thị dân, người ta có ý nhờ các cô hầu gái trẻ giúp đỡ cậu chủ vượt qua thử thách của tuổi dậy thì bằng việc hiến dâng cả những phần kín đáo của thân thể họ. Tôi thường hay nghe thấy các bậc cha mẹ tiểu tư sản thành thị hài lòng kể họ đã thuê được một cô gái trẻ xinh đẹp dạy cậu con trai mới lớn, vì “các cô gái này dù sao cũng sạch sẽ khỏe mạnh” hơn đám đàn bà mà các cậu trai dậy thì thường tìm đến giải quyết nhu cầu lần đầu tiên. Nếu có thai với cậu chủ, cô hầu liền bị đuổi việc, và ông chủ hào phóng - thay vì đóng vai trò ông nội đàng hoàng của đứa trẻ - sẵn sàng trả cho cô gái tám đến mười forint tiền trợ cấp với sự hãnh diện ngấm ngầm nào đó. Việc này đã trở thành thói quen.
Tôi cảm thấy người ở như những người thân thuộc, tôi gần gũi họ, lúc còn bé tôi thích ngồi với họ trong nhà bếp đã lau sạch, bên cạnh lò sưởi ấm áp, nghe những câu chuyện mê tín nhảm nhí, những ước ao vô nghĩa của họ, cho đến khi nào bị mẹ phát hiện đuổi về phòng. Trong đám hỗn độn những khuôn mặt bao nhiêu người ở chỉ nổi bật lên hình ảnh khủng khiếp của một bà già nghiện rượu tên là “bà Hajdú”, nhiều lần xuất hiện ở nhà tôi, tay cầm dao mài sắc, say xỉn, vào lúc mất trí, bà muốn giết lũ trẻ con, giết mẹ tôi, bà khua múa loạn xạ, đám cảnh sát được gọi đến cũng khó nhọc lắm mới giữ nổi bà. Bà Hajdú thường đến ban ngày, bất chợt như một sứ giả của số phận mù lòa trong các bi kịch Hy Lạp, và những người ở, người lớn, trẻ con vừa hét lên vừa chạy trốn vào các buồng nhỏ, vào hầm và tầng áp mái; bà già điên khùng khua con dao sắc lẻm đi dọc các hành lang trong nhà, như một mụ phù thủy trong cổ tích đi tìm trẻ con để chén bữa tối. Bà Hajdú là một trong những nguyên nhân gây nên chứng loạn thần kinh tuổi thơ và sự nhạy cảm thái quá của tôi, tôi sợ bà như những sắc dân hoang sơ sợ ma quỷ. Chả là tôi đã học được nhiều điều mê tín, nỗi sợ hãi quỷ tà từ
những người ở. Bà Hajdú tác oai tác quái trong nhà cho đến một ngày “rượu mạnh bốc thành lửa trong người”, và chúng tôi may mắn được giải thoát khỏi bà; có dễ phải mất đến mấy năm, cho tới khi Tự nhiên quyết định giải pháp đáng mừng này. Không một ai nghĩ rằng bà Hajdú đơn thuần mang bệnh, bà mắc chứng hoang tưởng, lẽ ra phải đưa bà vào trại tế bần. Người ta không đưa người ở tới trại tế bần, có lẽ đó là nơi quá sang trọng đối với họ.
Quản gia là một người Hajdú[92] Hung nom oai vệ, đi ủng hai ống cứng, bộ ria vuốt nhọn hoắt, như một họa phẩm tuyệt hảo của Jankó János[93]. Ông từng là vệ binh ở Tòa Thị chính, đi những đôi ủng đánh xi bóng loáng, mặc quân phục tua rua; một người Hung lạnh nhạt, kiêu ngạo, bằng giá nào cũng không chịu cầm cây chổi. Dĩ nhiên là bà vợ ông ta làm việc nhà, rồi chính bà phục dịch con người cao ngạo này, và kiếm tiền nuôi hai cậu con trai, những đứa bạn dễ thương của tôi, một đứa học nghề thợ máy và sau này đi làm thủy thủ; đứa kia học lên cao hơn, mẹ nó cho ăn mặc diện, đào tạo thành người sang. Lối sống sang trọng và khoản rượu hằng ngày cho ông quản gia, giấy bút, quần áo ăn diện cho hai đứa con trai đều từ tay bà vợ già của ông mà ra: tiền xu lẻ trả công mở cổng, tiền đổ rác, tiền giặt là, bà giặt, cán, là cho cả khu nhà. Bà đã nuôi dạy hai cậu con trai nên người, chúng học hành xong, rồi cả hai đều chết trong chiến tranh. Thế là bà già bắt đầu uống rượu, và rồi người ta đuổi cặp vợ chồng nghiện ngập ra khỏi nhà.
10.
Tòa nhà và căn hộ chúng tôi ở là như vậy. Cửa sổ phòng ăn nhìn ra một khách sạn lớn ở đối diện, khách sạn vĩ đại nhất ở miền này của đất nước, nơi Hoàng đế Franz Josef[94] đã ở và ăn trưa một lần, khi diễn ra cuộc tập trận được tổ chức trong vùng. Trên tầng hai của khách sạn, đối diện với các cửa sổ phòng ăn nhà tôi, là các cửa sổ của “phòng Đế Vương”, một lần khi cậu em trai tôi bị bệnh ban đỏ, chúng tôi đã ngủ trong căn phòng sang trọng đó, và cả đêm tôi thao thức vì hồi hộp. Một lão chủ quán tóc hung đã thuê phòng ăn của khách sạn, lão ta kê hóa đơn đắt đến khiếm nhã vào chuyến thăm của nhà vua, viên sĩ quan tùy tùng của vua Franz Josef thấy món cá rõ
là quá đắt, bèn nghiêm khắc cảnh cáo lão chủ quán tham tiền vì lão đã làm thành phố phải hổ thẹn. Phòng ăn của khách sạn mở ra một gian khổng lồ, nơi tổ chức các buổi hòa nhạc, đọc sách, vũ hội, và những “vũ hội dượt” của các trường khiêu vũ, những cuộc vui trẻ con với hồi ức về mùi nước hoa, vẻ rực rỡ và choáng ngợp. Dạy khiêu vũ và phép ứng xử cho lớp trẻ của thành phố trong một căn phòng trên gác của khách sạn là một ông thầy già, thọt chân và anh chàng phụ giáo trẻ bảnh bao đến hút hồn, anh chàng T., thường xức thứ nước hoa gì đó sặc mùi quế từ đầu đến chân, có lẽ cái mùi rất mạnh và phản cảm này làm tôi sợ anh ta, tôi không nghe những lời chỉ bảo của anh, và chẳng bao giờ biết khiêu vũ. Gian phòng thắp đèn khí gas, và các vũ nữ nhỏ bé nhảy tung tăng cùng những dải băng bay lượn theo âm thanh của chiếc đàn dương cầm lúc nào cũng chỉnh âm thấp, vũ điệu “Boston” đang thịnh hành, chúng tôi còn học các vũ khúc Polka[95] đặc biệt, như điệu Landler Tirol[96]. “Đây là một vài động tác mà bạn sẽ cần đến trong cuộc sống”, ngài K., ông thầy thọt, nói với cậu học trò thuận chân trái bất hạnh. Trong chiếc áo khoác mỏng màu đen, ông nhảy loi choi giữa “nhóm trẻ thuộc các gia đình khá giả trong thành phố”, thị phạm các động tác mà chúng sẽ cần đến trong cuộc đời. Một trong những động tác như vậy - sự sáng tạo độc đáo của ngài K. - mãi mãi ăn sâu vào ký ức tôi: người bạn nhảy tiến lại gần vũ nữ từ phía sau, bằng bước đi gợi nhớ đến bước nhảy của một con dê đực, lúc ngó từ bên phải, lúc ngó từ bên trái, vào khuôn mặt của người bạn nhảy nữ đang bước nhịp ba đung đưa và mỉm cười thẹn thùng chờ đợi. Mùi sáp thơm bôi tóc, mùi tóc trẻ em, mùi mồ hôi từ các cơ thể non trẻ và mùi khí gas cố hữu trộn lẫn với mùi nước hoa quế lan tỏa trong phòng, tạo thành một ký ức hồi hộp vĩnh viễn không bao giờ quên, cái mùi tình yêu con trẻ ấy đến nay tới nay tôi vẫn còn nhận ra, hễ nghe thấy tiếng nhịp ba của điệu Polka ở một nơi nào đó.
Từ cửa sổ phòng ăn cũng có thể nhìn ra cái quảng trường rộng, lát đá, nơi sáng sáng tụ họp đám người chở hàng thuê, dân chợ. Một bức tranh nhiều màu sắc, rực rỡ như một phiên chợ Á châu nào đó. Ở góc quảng trường này, dưới cửa sổ nhà chúng tôi, trưa nào cũng vang lên bản circumdederunt[97] hay khúc nhạc tang của các đám tang nhà binh, tấu lên bởi đội kèn đồng. Các cha cố chỉ đi bộ tiễn những người chết trong thành phố đến chỗ này, tại đây họ làm lễ thánh ban phước cho linh cữu, rồi cha
cố, những người rước đuốc và gia tang ngồi lên xe kéo, và từ đây những chú ngựa được phục sức đồ tang, cài lông đà điểu đen bắt đầu kéo xe tang chạy nhanh hơn về phía nghĩa địa. Đúng hai giờ trưa, cả chục năm dài trong thời niên thiếu của tôi, gần như mọi buổi trưa, khi cô hầu phòng đem mì sợi vào là dưới cửa sổ vang lên bản hành khúc tang, tôi nghe tiếng hát bi ai của ông cố đạo bằng tiếng Latinh, những âm thanh tang tóc trầm đục run rẩy của dàn kèn đồng - và gần như mỗi buổi trưa sự tuyệt vọng và nỗi buồn lại quặn thắt tim tôi. Sự tuyệt vọng này không phải do bí ẩn không thể hiểu nổi và nghiệt ngã của cái chết gây ra trong tôi, mà do các nguyên tắc giáo dục nghiêm khắc của mẹ tôi, bà đã cấm hẳn không cho chúng tôi nhảy khỏi bàn ăn để xem đám ma của đủ loại người dưng ở tận đâu đâu. Nếu là đám tang lính, thì chừng một tiếng rưỡi sau đội kèn đồng lại diễu qua dưới cửa sổ, nhưng lúc này họ đã chơi những bản nhạc vui, dồn dập mạnh mẽ như thể loan tin về “chiến thắng của cuộc sống trước cái chết”. (Một cô bảo mẫu giải nghĩa sự hào hứng của dàn quân nhạc trở về từ nghĩa địa như vậy.) Một dạo, sự lộng lẫy của các đám tang nhà binh đã làm cho nhiều lính tráng tự tử; các chàng trai nông dân đa cảm đã thú nhận trong những lá thư tuyệt mệnh là họ ghen tị với danh dự của người bạn đồng ngũ cùng làng vừa được chôn cất long trọng, họ cũng không thể bỏ qua hành động can trường ấy, họ đi theo người bạn tốt và yêu cầu gia đình, thân quyến và bè bạn đừng tiếc công sức, hãy đưa tiễn họ đến nghĩa địa với dàn kèn đồng. Một cơn dịch lây lan trong đám lính trơn, họ đua nhau dùng vũ khí công vụ tự kết liễu đời mình, để người tình trong làng có thể nhìn thấy đội kèn đồng đưa tiễn người yêu về nơi chín suốt. Sau này các nhà chức trách quân đội cấm chôn cất lính tự tử với dàn kèn đồng và đội danh dự. Nạn dịch thuyên giảm, lính tráng cân nhắc có nên tự tử nếu không có dàn nhạc đưa tiễn nữa hay không.
Trong một ngôi nhà một tầng ven quảng trường rộng thênh thang, người ta đong bán loại rượu vang chua Helmec[98], trong một quán rượu tên là “Giấc mộng vàng”, suốt ngày chật ních dân chở hàng thuê. Khu vực này là thiên đường của trẻ con. Người ta nấu nướng từ sáng đến trưa trong các bếp di động ngoài chợ, những người có nét mặt vùng Trung Á, đội mũ, mặc áo khoác da cừu đứng bên các xe ngựa kéo bán hàng, tay cầm roi da, kiêu hãnh và kiên nhẫn không gì lay chuyển nổi; những người chở hàng từ Abaúj, Borsod, Zemplén và Gömör đem đến đây hàng hóa thời vụ vào
phiên chợ lớn, rồi những người đánh xe Slovak đi ủng nỉ, mũ vành tròn, dây lưng da to bản, họ bán củi, nấm rừng, pho mát sữa cừu, pho mát sữa dê, và pho mát vụn nhồi trong dạ dày cừu. Những gánh xiếc rong cũng dựng lều bạt trên quảng trường này, cũng tại đây rạp chiếu bóng đầu tiên của thành phố đã được dựng nên, lưu động từ thành phố này sang thành phố khác với chương trình nghèo nàn, với máy phát điện riêng, người giới thiệu chương trình riêng. “Vua Salamon giơ tay phải lên!”, người thuyết minh kêu lên từ một góc tối của buồng chiếu, và quả thật trên màn ảnh rung rung vừa xuất hiện một hình người mờ mờ đưa tay lên. Rạp chiếu bóng lưu động ít quan tâm tới các ngôi sao, đạo diễn, phục trang; đúng là khán giả cũng chất phác hơn, chúng tôi bằng lòng với điều kỳ diệu đơn giản, nín thở theo dõi bức ảnh chết bỗng trở nên sống động. Cái quảng trường hình vuông, rộng rãi này lúc nào cũng có các trò vui mắt hấp dẫn. Những tay chơi trò bịp bợm, các diễn viên nhào lộn, nghệ sĩ ảo thuật lang thang, các hipodrom[99] các panoptikum[100] cũng thường hạ trại ở đây, ở đây có thể nhìn thấy “sự phát triển của thai nhi”, và “Đức Giáo hoàng Leo XII trên giường bệnh, đúng bằng người thật, trong trạng thái hấp hối”, lồng ngực bằng sáp của Giáo hoàng nom nhợt nhạt cử động phập phồng nhờ một cơ cấu, và mãi về sau tôi còn mơ thấy hình ảnh kinh hãi của ông già sắp chết. Cũng ở đây tôi đã thấy menagerie[101] đầu tiên, điều này làm tôi choáng váng, lần đầu tôi thấy các loài vật trong kiếp nô lệ, sau lưới sắt, khung cảnh không thể chịu nổi, nó làm tổn thương lòng tự trọng của tôi, và tôi đã vận động bọn trẻ trong khu nhà tôi ở “giải phóng những con thú”. Trên quảng trường này tôi đã chứng kiến cuộc đấu tranh giai cấp đầu tiên, ít nhất thì cũng là một dạng bùng phát sơ khai, vô thức nào đó của nó: một chiều Chủ nhật mấy người thợ làm thuê lang thang trên quảng trường đã choảng nhau với gã chủ thầu ăn bớt tiền công của họ, đám cảnh sát xông lại giúp gã chủ thầu mặc áo khoác dài đang bị vây hãm, những người lính có mặt trên quảng trường quay ra đánh nhau với cảnh sát, cuộc ẩu đả diễn ra trên một góc quảng trường chật kín gái quê mặc váy và những người nhà quê đội khăn hồ cứng lòe loẹt, áo choàng lông màu đen cùng đám lính tráng vận đồng phục, sau một lúc máu bắt đầu chảy, thấy lóe lên những lưỡi dao nhíp và lưỡi lê, không ai còn biết vì sao và ai tấn công ai, cứ như một cơn giận dữ cổ xưa đã bùng phát mà chẳng cần đến nguyên cớ gì… Chúng tôi đứng trên ban công nhìn “cuộc cách mạng” đặc biệt kết thúc
bằng việc một đại đội cảnh binh được điều động tới; đoàn cảnh binh đầu đội mũ gắn lông gà trống bay lất phất, đeo găng tay trắng, súng đã giương lê trên vai, tề chỉnh nhịp nhàng, đều bước tiến đến, trước khi họ kịp dàn hàng tấn công, đám ẩu đả trên quảng trường đã lủi hết. Đó là một buổi chiều đáng nhớ. Hình như người ta không hoàn toàn hiểu nhau, giữa họ có mối hằn thù khủng khiếp mà lúc này hay lúc khác họ cố che giấu, và tất cả những gì tôi nhìn thấy trước biến cố đó, cùng với những điều đã mắt thấy tai nghe trên quảng trường lớn, tất cả những gì từng có thể nhìn thấy từ cửa sổ căn nhà xinh xắn của chúng tôi đều chỉ là ảo ảnh, vào buổi chiều hôm ấy lần đầu tiên tôi đã thấy một điều gì đó “đích thực” từ thế giới. Tôi cảm thấy như vậy.
11.
Sau những khoảng thời gian đều đặn, một chiếc xe đốt bằng củi bên trên đặt khối hình hộp lại lọc cọc lăn dọc Phố Chính, về phía Csermely, một khu nghỉ hè của thành phố. Mấy chục năm trước khi có tàu điện, cái phương tiện giao thông hình thù kỳ dị ấy đã giải quyết việc đi lại trong thành phố, còn khách du lịch thì chủ yếu sử dụng nó vào mùa hè. Ngay từ lần rơi đầu tiên tuyết đã phủ kín phố xá, con tàu nhỏ cũng bị bỏ không trơ trọi hàng tháng và chỉ đến mùa xuân mới lại nghe tiếng còi quen thuộc rít lên, tiếng chuông đơn điệu, quá to của đoàn xe lửa rung lên trên con phố rộng. Trên con Phố Chính dài - những người hiểu biết đoán nó “dài đúng một ki lô mét” -, các quý ông đi dạo phía bên này, còn phía bên kia là những người ở, lính tráng và các thành phần nghèo hơn của xã hội. Dân có máu mặt rất giữ gìn, chỉ khi thật cần thiết họ mới đi sang “nửa vô sản” của con đường; thói quen hình thành từ hàng chục năm đã chia dân đi dạo trên đường phố ra làm đôi như vậy, những người ở cũng cẩn thận không lạc sang nửa “sang trọng” bên kia đường, và quả thật làm sao họ có thể “hòa nhập” vào nhau trên đường phố, khi trong các lĩnh vực khác của đời sống, ở những dịp khác, họ cũng không thể hòa trộn với nhau, như nước với dầu? Cuộc dạo chơi bắt đầu lúc mười hai giờ trưa trên phía “sang trọng” của con phố, rồi người ta lại tụ họp sau sáu giờ chiều. Các luật sư, sĩ quan, công chức hàng tỉnh mặc áo choàng lông thú Ba Lan, chân đi ghệt đứng ở một góc sân nhà thờ, trên khu đất gần tháp Orbán, trong lối phục sức của đám thanh niên
thượng lưu thành phố có thể cảm thấy mốt thời trang vùng Sáros[102] cách thành phố này không xa. Dân chúng tập hợp trước nhà hát, trước sân nhà thờ và tòa lâu đài của một vị bá tước trên Phố Chính, đám đông lịch thiệp, đúng vẻ thị thành dạo chơi ở đây vào buổi tối, và từ đám đông trang phục dân sự tối màu thỉnh thoảng lóe lên một đốm sáng, chiếc áo choàng màu kem của các “tu sĩ trắng”. Những đức chăn dân xuất sắc này sống một cuộc sống thượng lưu và năng động. Tối tối còn thấy họ mặc áo choàng đen, ngồi trong nhà hát, gi lê màu trắng, và họ đứng ở hàng đầu tiên dưới tầng đất, tựa vào bức vách ngăn dàn nhạc với khán phòng, tay khoanh trước ngực hay đeo găng trắng nâng ống nhòm lên mắt với vẻ tự nhiên bề trên, gật đầu chào những người quen trên các lô ghế, như cách các cha cố cung đình lịch lãm của vua Louis có thể đứng trong nhà hát của cung điện Versailles. Trong đám đông thường xuyên có đủ mặt các tu sĩ dễ thương này, cách ứng xử bình thường, thế tục của họ không hé lộ chút nào về cuộc sống tu hành khắc kỷ; quan điểm tự do, cách ứng xử rất con người và bình dân xuyên suốt sự nghiệp xã hội và khoa học, cũng như những nguyên lý giáo dục của họ.
Đức Giám mục cũng sống trên Phố Chính, trong một lâu đài hai tầng, xinh xắn kiểu Baroque; nhưng dân chúng ít khi nhìn thấy ngài, ngài sống ẩn dật, không bao giờ đến chỗ hội hè, và bóng dáng tao nhã, mảnh mai của ngài chỉ xuất hiện trên các con phố ngoại vi vào lúc hoàng hôn cùng ông mục sư thân thiết hay với một linh mục giúp việc của ngài. Đức giám mục là người có quyền lực lớn; ngài dạy dỗ các thái tử, và sau này triều đình cũng không quên ơn ngài, ngay cả khi ngài đã lui về thành phố nhỏ này. La Mã và Wien nghe ý kiến và tôn trọng các tham vấn của ngài. Ngài là một tu sĩ quyền thế, nhiệt thành, nghiêm khắc và khổ hạnh; về cuối cuộc đời trường thọ của mình ngài xa lánh đám đông, những người hâm mộ chỉ thấy ngài tại các buổi lễ lớn, nhưng khi đó thì trong sắc phục lộng lẫy đặc biệt của Giáo hội. Những lúc khác ngài sống ẩn dật, ngài ngủ trên giường sắt quân nhân như Đức Vua hay các tu sĩ rèn luyện theo một trật tự khổ hạnh và nghiêm khắc. Buổi chiều ngài đi dạo, đội chiếc mũ giám mục may kiểu đặc biệt, chiếc mũ cứng chỏm thấp may từ một loại nỉ cứng bóng như nhung, từ phía sau vành mũ một quả tua màu vàng thõng xuống gáy ngài. Ngài đi găng cả mùa đông, mùa hè, và nếu gặp con trẻ, ngài dừng lại đưa bàn tay đi găng vuốt ve khuôn mặt chúng. Ngài đi trong các khu dân nghèo, trên
những đường phố vắng vẻ, và có lần tôi đã mải mê đi theo ngài, bị quyến rũ bởi vóc dáng sang trọng, mảnh dẻ của ngài, đặc biệt chiếc mũ và quả tua vàng cuốn hút bước chân tôi, vì cả thành phố không một ai đội chiếc mũ như thế. Đến một góc phố, nhìn thấy tôi đi theo, ngài liền dừng lại gọi tôi đến gần, ngài hỏi tên rồi nắm tay dẫn tôi về nhà như một chú cừu lạc đàn. Phần thưởng này làm tôi vô cùng tự hào, tôi còn hăng say kể mãi cho mọi người rằng Đức Giám mục, một giám mục thực sự đã cầm tay đưa tôi về tận nhà. Vì hâm mộ ngài, tôi đã quyết định sẽ trở thành tu sĩ để đền đáp ơn đức của ngài, và cùng với cậu bạn gầy gò, con trai một ông nam tước trong quân ngũ, chúng tôi đã chế ra quần áo thầy tu từ váy áo cũ, trang phục cầu nguyện, áo choàng và khăn giáo sĩ, một thời gian dài chúng tôi đã bí mật chơi trò làm lễ mixa, làm lễ kiên tín, lễ rửa tội; tôi là cha cố còn cậu kia là người giúp việc, và tôi đã học thuộc gần hết bài kinh cầu nguyện tiếng Latinh. Đây là một trò chơi đặc biệt: chúng tôi đã bố trí nhà thờ nhỏ của mình trong kho chứa gỗ, dựng một bệ thờ, lấy một cốc uống rượu vang của ông nội làm bình nước thánh, mua bánh thánh từ quán bánh ngọt Ambrózy, và khi người giúp việc dùng mũi dao gõ nhẹ vào thành cốc, tôi nâng cao bình nước thánh rót đầy rượu vang, rùng mình cảm thấy vị bánh quy kem trong miệng đang biến thành thiêng liêng vào giây phút ấy… Một trò chơi không hẳn là lành mạnh, nếu Đức Giám mục biết, chắc ngài cũng chẳng mấy tán thành.
Trong một căn phòng phía sau sân tòa lâu đài của Đức Giám mục, người ta biên soạn tờ báo của Giáo hội. Thành phố có bốn tờ nhật báo, tờ báo của Tòa Giám mục và hai tờ tin của Đảng Công nhân được in bằng tiếng Hung, tờ thứ tư, một tờ nhật báo cũ được phát hành cả trên đất Zipser[103], in bằng tiếng Đức. Các báo sống lay lắt nhờ tiền tài trợ của các đảng, thay đổi biên tập viên liên tục. Đa số biên tập viên tỉnh lẻ vào thời đó là những tay lãng mạn, lang thang, những người làm thuê hay xê dịch, đổi chỗ từ thành phố này sang thành phố khác, từ báo này sang báo khác, và sự ra đi của họ làm chủ các quán cà phê địa phương nuối tiếc. Biên tập viên tỉnh lẻ thường đam mê văn chương, và trong tiệm cà phê, khi không chơi bài, thì trước mặt anh ta là tác phẩm của những “tác giả hiện đại nhất”. Họ đi lang thang trong nước như những prima donna[104], người ta trả công cho họ rẻ mạt đến thảm hại, và họ sống vật vờ bằng tiền thu nhập phụ mà cờ bạc hoặc các chiến dịch tuyên truyền của các bè phái địa phương mang lại. Báo chí
khi đó còn là uy tín và quyền lực. Giữa những chàng trai nghèo săn lùng con chữ, ông tổng biên tập báo địa phương được coi là người có quyền lực, con người thông thạo, to béo, đi suốt ngày trong thành phố, thở khò khè vì hen suyễn, nơ thắt ở cổ rung lên dưới cái cằm chảy sệ, tất cả đối với ông là “sự nghiệp chung”, thỉnh thoảng ông lên Pest, ở đó ông đàm đạo với “những yếu nhân cao cấp nhất” về các việc tầm cỡ quốc gia, như sau đó ông tin cẩn rỉ tai mọi người… Dân chúng sợ báo chí. Nhà buôn, giám đốc ngân hàng, công chức trong thành phố thường cố ý khoe khoang trước công chúng rằng họ có quan hệ tốt với báo chí, nhưng những cuộc đời thị dân bằng lặng này vẫn nơm nớp lo lắng cho những bí mật thông thường của họ trước công luận. Ngài “biên tập” là con người có tâm hồn mơ mộng, ông hâm mộ Ady và các nhà thơ hiện đại, nhưng đồng thời ông cũng hay tới thăm văn phòng giám đốc các quỹ tiết kiệm, nơi có lẽ ông tranh luận về cả những việc khác chứ không phải về văn học và thi ca. Vì vậy mà người ta sợ dân báo chí, và nhìn chung người ta ghét họ. Sau này khi gia đình tôi đánh hơi thấy tôi lảng vảng quanh đám báo chí ở Pest, mọi người coi tôi là đã hỏng, cứ như thể tôi đi dọn xác súc vật hay làm đao phủ không bằng. Vào thời đó nhà báo còn chưa thuộc vào tầng lớp thị dân tỉnh lẻ, người ta chào anh trước, nhưng không mời anh ta tới dùng bữa trưa. Trong nấc thang xã hội, nhà báo chỉ đứng trên người đóng vai tình nhân trong gánh hát địa phương chút ít. Tình trạng xã hội và kinh tế của nhà báo chỉ thay đổi đáng kể và theo hướng tích cực trong thời gian gần đây.
“Ban biên tập” hay được đặt trong một căn phòng tối lờ mờ gần kề xưởng in, người ta còn bố trí ở gần đó nhà kho, phòng xuất bản, và không thể thiếu được nơi buôn giấy; mùi chua lòm của giấy cũ bẩn trộn lẫn với hơi mực in và bột chì nồng nặc khó thở, ông “tổng biên tập” ngậm xì gà ngồi sau bàn làm việc, và căng óc nghĩ đến khoản tiền trả một cục của chính phủ, hay đến cách làm sao giành được các mối in ấn có hời của nhà nước, ở bàn bên, một biên tập viên vừa đặt điện thoại xuống sau cú gọi từ Pest, qua cửa ra vào gắn kính lọt sang tiếng máy in và tiếng hát của cô gái làm trong xưởng. Một nơi đầy mê hoặc, ai đã một lần biết đến bầu không khí của nó đều bị cuốn hút. Ở phòng bên cạnh, trên một tấm phản cao, trong cái tủ đựng chữ in được chia thành các ngăn nhỏ là Chữ Cái. Thời học sinh, tôi đã có lần hồi hộp lẻn đến phòng sắp chữ của một xưởng in quen xem những người thợ sắp chữ làm việc. Ông già Banekovics, người nhiều tuổi
nhất trong số thợ sắp chữ và cũng là thợ lên khuôn chính của tờ báo địa phương lớn nhất, một hôm bảo tôi: “Báo còn chưa có bài xã luận, anh bạn trẻ, hãy viết một cái gì đó đi!” Tôi sang phòng biên tập lúc ấy chẳng có ai - ông biên tập viên chắc đang chơi bài đâu đó -, tôi liền ngồi xuống một cái bàn, thấy mấy mẩu giấy, tôi bắt đầu cắn bút và viết một bài luận về chính sách kinh tế có hại và độc đoán của thành phố. Ông Banekovics đọc bài viết, ông khen tôi, cho sắp chữ ngay, và tự ông sắp xếp, buổi tối nó đã được in ra. Tôi phấp phỏng đi trong phố suốt ngày, cảm thấy như có một điều gì không thể cứu vãn nổi đã xảy ra với mình. Khi đó tôi mười bốn tuổi.
Mùa hè, các gia đình giàu có thường ở ngoài nhà mùa hè trong khu “Bankó” hay “Csermely”. Chiếc xe hình hộp đốt bằng củi từ đầu tháng Sáu ngày nào cũng lọc cọc chạy dọc theo bờ suốt Csermely đến quán rượu “Con Cừu”; con đường dốc khúc khuỷu bắt đầu từ chỗ đó, xuyên qua những khu rừng rậm thơm mùi nấm lên tận đỉnh núi có khu bể tắm Bankó lúc đó còn sơ khai. Đó là một khu rừng già, thuộc sở hữu của thành phố, một vùng rậm rạp, đáng sợ, còn nguyên sơ. Từ “Ottilia”, một bãi trống màu xanh nhạt của khu rừng, vào ngày nắng ráo, có thể nhìn thấy đỉnh núi tuyết phủ nằm sát biên giới. Trong rừng đầy phúc bồn tử, những nguồn suối nước lạnh, các loại nấm quý, cây bách xù, cây nham lê. Một khu rừng “đúng nghĩa”, sau này tôi không thấy ở đâu có khu rừng giống như vậy; tôi ngán ngẩm quan sát những khu rừng ở Anh và Pháp, chúng đều có vẻ nghèo nàn, không so được với khu rừng già, nơi tôi đã nghỉ hè thời niên thiếu. Khu rừng trải rộng mênh mông trên diện tích hàng trăm hold, và từ các bãi trống Hradova có thể nhìn thấy thung lũng, các làng mạc vùng Sáros, Szepes - một vùng phong cảnh trong lành, bình yên, có khí hậu, hương vị khác biệt so với tất cả những vùng miền đất nước mà sau này tôi biết đến. Trong cuộc sống của những phố thị nhỏ trong vùng, trên mặt tiền các ngôi nhà và trên đồ đạc của những căn phòng nho nhỏ trần hình vòm có thể nhận ra những dấu hiệu thị thành thực sự có tuổi hàng thế kỷ. Mấy tỉnh lân cận, có thể nhìn thấy từ Ottilia và Hradova, là một “đất nước” thật sự - có lẽ còn đích thực hơn, gần gũi hơn đất nước mà tôi chưa biết, khi đó vẫn còn rộng lớn và vĩ đại, mà nó là một phần. Lên đến đỉnh núi, bắt đầu trải ra một rừng thông bạt ngàn. Khu rừng thông - tiếng rì rầm và sự yên tĩnh của nó đã ăn sâu vào thính giác tôi, như những dân vùng biển bao giờ cũng
nghe tiếng sóng vỗ, ngay cả khi ở thành phố lớn -, đã bị một trận cuồng phong san bằng vào ngày đầu tiên của chiến tranh; cơn lốc điên cuồng này đã thổi bay khu rừng lớn thời niên thiếu của tôi, cùng tất cả những thứ quý giá khác thuộc về nó.
Khu rừng Bankó và Hradova vẫn còn rậm rạp, nguyên sơ khi một nhóm các gia đình trong thành phố bắt đầu xây nhà nghỉ mùa hè hoặc thuê phòng trong cái quán trọ sực mùi chuột, tường mọc dày nấm trắng. Ngôi biệt thự trang trí kiểu săn bắn đầu tiên mà khách vãng lai đến từ thành phố đi trên con đường rừng nhìn thấy giữa các ngôi nhà của khu này là của một người tôi gọi là bà cô. Bà cô tôi ba mươi năm đau ốm, không ra khỏi giường, nhưng điều hành chu toàn mọi việc trong nhà lẫn việc xử lý tài sản riêng. Đầu mùa hè nào bà cũng bắt người nhà đưa ra đây để “hít thở không khí trong lành” - dĩ nhiên là bà không ra khỏi căn phòng hôi hám của cái nhà nghỉ mùa hè, bà cho dán cửa sổ bằng organtin[105], và bà nghẹt thở trong căn phòng kín, mặc áo choàng mỏng, đội khăn trùm đầu, nằm giữa đống mền gối chất cao trên giường, giữa lũ chim hoàng yến, cốc chén, rổ đựng chìa khóa và đồ thêu đan, rồi bà khen ưu điểm của không khí trong lành với khách đến thăm. Khách đến ngạt thở trong căn phòng bởi mùi hôi hám, mùi người ốm và thiếu không khí, nhưng bà cô tôi không khi nào nhận ra điều đó, và việc “thay đổi không khí” hằng năm đúng là có ích cho bà, vì bà sống rất lâu. Trên khu tắm nghỉ dưỡng diễn ra cuộc sống vui vẻ và thanh bình, vì lớp thị dân bấy giờ còn chưa đi đến những khu tắm dưỡng bệnh xa, trừ khi ốm đau. Buổi tối, chiếc xe song mã đưa các ông chồng và thực phẩm cho ngày hôm sau tới. Trên các bàn trong phòng ăn của quán trọ, lửa nến được che bằng thông phong, dàn nhạc Di gan chơi vào buổi tối, một không khí thanh bình khó tin tràn ngập cuộc sống điền viên của lớp thị dân. Sự lệ thuộc vào nhau, sự tin cậy, gần gũi trong lối sống của các thế hệ thuộc tầng lớp phong lưu đã xác định cung cách giao tiếp giữa các gia đình; có ai lại muốn đi khỏi đây để đến những bể tắm xa lạ, đến một thế giới không chắc chắn? Tuy nhiên, vẫn có một lần tôi cùng cha mẹ ra nước ngoài, về biển phía Đông, và chúng tôi đem theo cậu em trai tôi mới sinh được vài tháng; mẹ tôi lo thằng bé bị xóc nên căng cho nó chiếc võng trong buồng toa giữa cửa và cửa sổ. Phát kiến này đưa đến một hậu quả dễ chịu là hành khách tránh vào buồng chúng tôi, nhưng điều tệ hại là cậu em trai tôi nằm trên chiếc võng đung đưa từ thành phố chúng tôi tới Berlin thì bị ẳ
chấn động não, và thế là ở Berlin chúng tôi chẳng thấy gì ngoài các bác sĩ và một phòng khách sạn. Chính vì vậy và có lẽ vì cả những nguyên nhân khác, sau này chúng tôi không đi nghỉ hè ở nước ngoài. Bằng lòng với khu Bankó, chúng tôi thuê biệt thự sâu trong rừng và có lẽ đã có những khoảng thời gian yên tĩnh, vô tư nhất ở đây. Sự xuất hiện vào buổi tối của ông chủ nhà máy thép là sự kiện của ngày, vào dạo đó ông đã mua ô tô - trong thành phố và có lẽ trong cả vùng, đây là chiếc xe đầu tiên và duy nhất -, chiếc xe sơn xanh, chạy chậm, còi liên hồi, leo lên con đường dốc chậm như sên, với sự trợ giúp của lũ trẻ choai choai con các gia đình nghỉ mát, tới khu Bankó, nơi một nhóm người đi nghỉ đang hồi hộp đón đợi. Chiếc xe của ông chủ nhà máy thường xuyên đứng trước cổng vào khu nhà nghỉ, nó đem lại cho khu nhà nghỉ một dáng dấp tầm cỡ thế giới, còn lũ trẻ chúng tôi ngày nào cũng toát mồ hôi và hồi hộp đẩy cái thành quả của thời đại mới ấy lên dốc. Chúng tôi đợi nó dưới chân núi, tầm sáu giờ chiều. Ông chủ nhà máy ngồi giạng chân trên ghế, châm thuốc hút, vẫy chúng tôi như ban ơn, và kêu lên với đám trẻ con: “Hãy đẩy bánh xe của sự tiến bộ!” Nửa đường, chỗ Rãnh Quỷ, chúng tôi gặp ông luật sư già, một trong những người cao niên nhất thành phố, ông lão căm thù nghề luật sư, trên bàn ông đặt tấm bảng thêu bằng vải đỏ có dòng chữ: “Không nhận hối phiếu”, và ông lang thang đi tìm bắt bướm suốt ngày trong rừng. Cũng như một đứa trẻ, ông già ghé vào đẩy giúp “bánh xe của sự tiến bộ”. Bằng cách của mình, dù hơi đặc biệt, chúng tôi cũng đi cùng bước tiến của thời đại.
12.
Từ một điểm quan sát của khu Bankó có thể nhìn xuống thành phố, thấy những ngọn tháp, những mái nhà cao, những con phố nhỏ; thấy cả hai khu “nghĩa địa nhà giàu” Rozalia và Kalvaria, nơi các gia đình giàu có chôn cất thân nhân trong hầm mộ, khác hẳn những nấm mồ đơn điệu của dân nghèo và dân Do Thái trong khu nghĩa địa bình dân. Rozalia là khu sang trọng hơn hẳn, là nơi an táng của các gia đình giàu có, các dòng họ lớn trong vùng, những tiểu quý tộc và giới thượng lưu, còn trong những hầm mộ phủ cỏ xạ hương, thơm mùi cỏ mộc tê của khu Kalvaria là nơi yên nghỉ của các gia đình dư dả. Thành phố nằm trên một diện tích hẹp, với các con phố, khu chợ nho nhỏ chen chúc trong khu thành cũ và pháo đài, và chính giữa các mái dốc của những căn nhà san sát nhau - như thể vị trí của nó được
xác định bằng compa -, cao vọt lên ngọn tháp lệch chưa hoàn thành, mới lợp qua loa của giáo đường. Cái nhà thờ sáu trăm năm cao vượt trên thành phố, tựa như trung tâm của mọi đời sống, của mọi suy tư đã lan tỏa quanh nó qua hàng thế kỷ, như thể chính nó đã giữ thăng bằng cho thành phố qua bao thời gian và thời đại, như một thứ tư tưởng hiện hình, từ xa đã có thể nhìn thấy, vút lên giữa sự hỗn độn thường ngày của kiếp nhân sinh, giữa sự ồn ã thân thiết của thành phố. Người canh tháp đứng trên cao năm mươi ba mét, canh chừng hỏa hoạn và sự bình yên trong thành phố, và ngay cạnh giáo đường là tháp chuông xây bằng đá cao năm mươi mét, tháp Orbán, với những chiếc chuông âm thanh trầm buồn có từ thời Rákóczi[106], ngân lên vào các dịp lễ, báo động nếu có hiểm họa và báo tang. Giáo đường - với ba gian thông nhau, mà sau này tôi thấy một phiên bản chính xác của nó là nhà thờ thành phố Tours, lợp bằng loại ngói màu rực rỡ trải rộng trên cái thành phố nhỏ với sự cân đối nặng nề của những công trình vĩ đại.
Bao giờ tôi cũng rùng mình khi đi qua trước cổng giáo đường. Sau những bức tường, trong bóng tối lờ mờ người ta thường xuyên cầu nguyện hoặc sùng kính phủ phục trước các bệ thờ. “Cảm giác của em thế nào khi đi qua
trước cổng giáo đường?” - đó là đề bài ưa thích của một thầy giáo dạy tiếng Hung, năm nào thầy cũng ra cho chúng tôi, và năm nào tôi cũng trả lời một cách tự tin rằng khi đứng trước cổng giáo đường “em tràn ngập những cảm giác lâng lâng cao đẹp”. Giáo đường, như một ý tưởng vĩ đại được diễn đạt đầy đủ, hơi áp đặt quyền lực của nó lên thành phố. Nó quá lớn và gây tác động mạnh, nó bí ẩn, lờ mờ và cao cả, không thể quen nổi và cam chịu, nó sống trên thành phố, kiêu hãnh và vĩ đại. Dưới một căn hầm của thánh đường, người ta giữ hài cốt của Rákóczi trong chiếc quan tài bằng đá cẩm thạch. Quanh quan tài đặt những vòng hoa và cờ, với dòng chữ “Pro libertate[107]”. Bao giờ tôi cũng run lên, vào những dịp thăm viếng của lớp học hay trong những dịp khác, khi trên những lá cờ đã rách nát tôi nhìn thấy dòng chữ này. Nó có một âm hưởng đặc biệt, vang dội như một câu thơ lớn có sức bùng nổ mà khi đọc lên ta thấy lạnh sống lưng. Tôi không biết mình nghĩ đến điều gì khi đọc dòng chữ này, có lẽ không phải là “Tổ quốc” và “tình yêu Tổ quốc” như các nhà diễn thuyết thường nhắc tới, mà đơn giản chỉ là ý nghĩa cao nhất của từ này, đó là tự do. Cứ đi qua trước giáo đường là trong tôi lại lóe lên từ này, như một khẩu ngữ lờ mờ mà có lẽ vì nó ta đáng sống.
CHƯƠNG II
1.
Đa số các cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối. Chính những người bạn đời cũng không hay biết, với thời gian, điều gì chia rẽ họ. Không bao giờ họ biết rằng, sự căm ghét ẩn náu trong suốt cuộc sống chung không chỉ là thất bại của việc chung đụng xác thịt, mà đơn giản còn là một nỗi hận giai
tầng nào đó. Hàng chục năm trời, họ lang thang trên những cánh đồng băng giá của sự buồn tẻ và thói quen, thù ghét nhau, vì một người sang trọng hơn, được giáo dục tinh tế hơn, cầm dao và dĩa khéo hơn, hoặc đã đem theo mình từ thời niên thiếu một tinh thần đẳng cấp riêng biệt nào đó. Khi mối quan hệ tình cảm trở nên lỏng lẻo, một cuộc đấu tranh giai cấp chẳng mấy chốc liền nổ ra giữa hai con người cùng ngủ chung trên một giường, ăn chung một mâm, và trong đa số trường hợp, chính họ cũng không hiểu họ thù ghét điều gì ở người kia một cách hèn hạ và ngấm ngầm như thế, khi mà về đại thể và nhìn vẻ bề ngoài mọi sự đều ổn. Họ căm thù, khinh ghét, hay ghen tị giai cấp kia. Nếu người đàn ông có gốc gác “quý phái” hơn, thì dĩ nhiên người đàn bà thích hãnh diện và tự đắc khoe mẽ trước thiên hạ về đẳng cấp cao hơn của chồng mình, nhưng trong gia đình, trên giường và bên bàn ăn, họ sẽ dai dẳng trả đũa nhau vì một sự tổn thương từ xa xưa nào đó. Rất ít cuộc hôn nhân mà trong đó tư cách, tài sản bị tẩu tán của ông nội người bạn đời lại không làm tổn thương cảm giác về địa vị của người kia, và thỉnh thoảng lại nghe người có gốc gác sang trọng hơn thốt ra rằng “ở bên nhà tôi là thế này, hay thế kia”. Gia đình cũng luôn luôn là một cuộc đấu tranh giai cấp.
Cuộc đấu tranh giai cấp ấy diễn ra cả trong gia đình tôi. Không ai biết về điều này, không ai nói gì về nó. Cha mẹ, ông bà của mẹ tôi, như người thường ta nói, là “những người bình thường”; ông nội mẹ tôi là thợ xay, thân phụ mẹ tôi là thợ mộc, quả thực sau này ông đã mở rộng xưởng và có nhiều thợ phụ, nên trong gia đình hay gọi ông là “chủ xưởng”, về cuối đời ông thực sự đã trở thành một doanh nhân, bản thân ông không còn cầm đục cầm bào nữa, ông chỉ nhận các đơn đặt hàng và cho thuê việc. Sự thăng
ẳ ẳ
tiến đẳng cấp này cũng chẳng giúp chúng tôi được bao nhiêu. “Sự tủi nhục” của công việc chân tay mãi mãi gắn liền với ký ức về ông. Đối với bên ngoài thì chúng tôi chấp nhận ông, bậc tổ tiên khiêm nhường đã “tự lực” làm nên sự nghiệp, trở thành chủ xưởng, không đứng làm trực tiếp mà chỉ nhận đặt hàng. Nhưng gia đình cha tôi, và cả bọn trẻ chúng tôi cũng thích giá như ông cứ suốt đời là một viên công chức quèn trong thành phố, là nhân viên công nhật hay người kiếm miếng ăn hằng ngày. Thời niên thiếu tôi rất xấu hổ vì ông ngoại mình có thời đã từng làm việc với keo dán, với cưa đục và bàn thợ mộc. Trước mặt bạn chơi, bạn học cùng trường, tôi không bao giờ nhắc đến người ông ngoại làm nghề thủ công này. Chúng tôi đã vùi ông trong sự hỗn độn của quá khứ, bất quá chúng tôi chỉ cúi mặt nhìn xuống, nếu cần nói về “ông chủ xưởng”. Trước mặt những người quen còn nhớ đến ông, chúng tôi chỉ gợi lại những kỷ niệm về ông bằng giọng hùng hồn, với lòng tự trọng hiền lành có ý thức, gần như với thái độ để tỏ ra rằng “lao động không phải là điều hổ thẹn”. Sao lại không nhỉ, chúng tôi chấp nhận cả ông, vì lỗi đâu phải tại chúng tôi. Hơn nữa, ông cũng đã mất từ lâu, bọn trẻ chúng tôi không hề biết ông, ông đã tế nhị ra đi bằng cái chết, người ta chôn cất ông khi ông chưa đầy bốn mươi bảy tuổi. Thế mà tôi vẫn cảm thấy ông đã đem nỗi hổ thẹn đến cho gia đình, tôi không biết là cho ai, cho gia đình cha tôi, cho lũ trẻ con, hay cho tôi. Cha tôi bao giờ cũng nói về gia đình mẹ tôi với sự thán phục và tôn trọng, nhưng tai bọn trẻ rất thính nhạy, từ sự tôn trọng và thán phục chúng tôi nhận ra một phép lịch sự vô thức nào đó, một vẻ tự hào lịch lãm thái quá. Có lẽ cha tôi chấp nhận ông ngoại tôi, dù ông có là người dọn xác súc vật và bắt chó hoang đi chăng nữa; cũng với sự lịch lãm, độ lượng như cách ông đã chấp nhận mẹ tôi, cùng tất cả những gì bà vốn có. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra với phong cách tế nhị như thế, với những vũ khí lịch lãm, hào hiệp như thế. Lũ trẻ chúng tôi thì đã phủ nhận gia đình mẹ một cách tồi tệ hơn và lộ liễu hơn. Đơn giản là chúng tôi không nhắc đến. Khi đi học đại học tôi mới thoát khỏi nỗi sợ hãi mù quáng, hèn nhát và giả tạo này, tôi bắt đầu quan tâm tới gia đình mẹ, bắt đầu nhận ra mình gần gũi với những người trong gia đình mẹ đến mức nào, và tôi đúng là con trai của mẹ đến mức nào.
Cuộc sống trôi đi trong sự mập mờ, những lời nói, cử chỉ mà chúng ta gạt bỏ đúng lúc, sự im lặng và nỗi sợ hãi, cuộc sống là chừng đó, cuộc sống
đích thực. Sự cân bằng của gia đình là một thứ gì đó mong manh, dễ đổ vỡ, cũng như sự cân bằng của mọi cuộc đời. Tôi nghĩ rằng chúng tôi không thương yêu nhau và không thù ghét nhau hơn hầu hết các gia đình khác. Những tín đồ Thiên Chúa giáo không biết đến sự bấu víu tuyệt vọng, có ý thức vào nhau của thành viên trong các gia đình Do Thái. Với người Do Thái, gia đình là trên hết, sau đó mới đến các thành viên trong gia đình; trong gia đình Thiên Chúa giáo, mọi người, trong chừng mực có thể, đều sống cho bản thân, tình cảm dành cho gia đình, nhiều hay ít, đứng hàng thứ yếu. Người Do Thái sống vì gia đình, người Thiên Chúa giáo sống nhờ gia đình. Những ngoại lệ không đáng kể, nhìn đại thể là như vậy. Đương nhiên “chúng tôi thương yêu nhau”. Cha mẹ tôi nhẹ nhàng với các con, dạy dỗ con cái cẩn thận. Cha tôi đối xử với các con tổứ và hiền lành, ông chiều theo mọi ý thích của chúng tôi. Vậy mà, sau này gia đình vẫn chia thành hai phe, một bên theo bố, một bên theo mẹ. Chúng tôi chiến đấu với nhau như những người Guelf[108] với người Ghibellin[109]. Vì sao? Một sự tổn thương, nhạy cảm nào đó, một sự hờn tủi, cảm giác bị coi thường của các thành viên đứng về phía mẹ trong gia đình, không khí trong nhà căng thẳng vì những vấn đề không được giải quyết, chúng tôi cãi nhau vì chiếc bàn chải quần áo, nhưng thực tế không phải vậy. Đó là cuộc cách mạng thu nhỏ diễn ra trong lịch sử mỗi gia đình, có ngày 14 tháng Bảy[110] và có Thermidor[111].
2.
Đi giữa những người đã khuất, tôi phải nói nhỏ. Vài người trong số những người quá cố đã chết trong tôi, những người khác còn sống trong từng cử chỉ, trong đầu óc tôi, trong cách tôi hút thuốc, tôi làm tình, như thể tôi ăn những món ăn nhất định là do sự ủy thác của họ. Họ khá đông. Con người ta cảm thấy cô đơn giữa mọi người khá lâu, vào một ngày ta gặp đám đông những người thân đã khuất của mình, ta nhận ra sự có mặt thường xuyên, tế nhị của họ. Họ không làm phiền ta lắm. Tôi bắt đầu sống trong tình họ hàng với gia đình mẹ tôi khá muộn, đến một ngày tôi chợt nghe thấy tiếng nói của họ khi tôi nói chuyện, tôi nhìn thấy những cử chỉ của họ khi tôi nâng cốc chúc mừng. Cái chút ít “cá tính” mà con người thêm vào cho bản thân thật nhỏ nhoi bên cạnh cái di sản mà những người đã khuất để lại cho
chúng ta. Những con người tôi chưa bao giờ thấy mặt, họ tiếp tục sống, lo lắng, sáng tạo, khao khát và sợ hãi bên trong con người tôi. Khuôn mặt tôi là bản sao của ông ngoại tôi, tôi thừa hưởng đôi bàn tay từ bên nội, tính khí
tôi giống một người họ hàng nào đó bên ngoại. Trong những giây phút nhất định, nếu bị xúc phạm hoặc cần quyết định nhanh một điều gì đó, có lẽ tôi suy nghĩ và nói đúng y hệt như ông ngoại tôi đã suy nghĩ trong cái xưởng xay xát ở Moravia, bảy mươi năm về trước.
Ông ngoại tôi để lại ít di vật, tôi chỉ còn giữ được một bức ảnh và một bình đựng bia của ông. Cái bình được gắn chân dung của ông rồi đem nung trong lò. Theo bức chân dung trên bình đựng bia và bức ảnh còn lại thì ông để râu quai nón, trán cao, khuôn mặt đầy đặn, cái miệng mẫn cảm, môi dưới trễ xuống. Ông mặc áo thắt dây kiểu Hung, nhưng lại mặc quần dài và đi giày cao cổ không thắt dây có miếng co dãn hai bên. Ông là người vui tính, sống gấp gáp, ông kết hôn hai lần và có sáu người con. Ông kiếm ra tiền và chẳng bao giờ học được cách làm sổ sách, ông đút hóa đơn, hối phiếu trong túi, khi qua đời ở tuổi bốn mươi bảy, ông để lại các khoản nợ nần và một mớ bừa bãi. Nhưng trong nhà ông ngoại mọi người sống vui vẻ. Đó là một gia đình đông đúc, có các thợ học việc và cả những người giúp việc chung sống, nhiều khi tới hai chục người ngồi quanh bàn ăn trưa.
Bên phải cửa ra vào, trong các “phòng đồ mẫu” chất đầy đồ gỗ mới. Ở các vùng lân cận người ta cũng mua đồ gỗ của ông ngoại tôi, mấy salon của Tổng Giám mục vùng Eger cũng do ông bài trí, đến nay trong các phòng tiếp khách của Tổng Giám mục vẫn còn những chiếc bàn và ghế tựa khắc dấu “R.J.”. Nhà ở và xưởng nằm trên một khu đất rất rộng. Đúng, trong “công xưởng” của ông đã có máy móc, những máy tiện phức tạp, nhưng ông tôi lúc nào cũng để sổ sách trong túi áo khoác, ông dùng bút chì ghi các khoản chi thu lên những mẩu giấy, và thỉnh thoảng ông đánh rơi những mẩu giấy ấy.
Dân thợ thủ công khi đó còn “phiêu bạt” quanh năm, những năm tháng chưa vợ là những năm lang thang của họ. Dân trí thức có khi hàng chục năm không ra khỏi thành phố, và ai đã ra nước ngoài được coi là người hơi phiêu lưu. Chỉ có các thợ thủ công và sĩ quan đương nhiệm hay bị thuyên chuyển đi nơi này nơi khác trong các quốc gia của Đế chế[112] là biết đến
sự đa sắc và hỗn loạn của thế giới. Ông tôi đã phiêu bạt ở Czech và bên Đức, sau này khi đã thành thợ cả, ông hay sang Wien mua bán và đã học được những mẹo mực mới của nghề nghiệp đang phát triển. Dẫu sao ông cũng biết nhiều hơn về thế giới so với những người thuộc tầng lớp trí thức thành thị xung quanh ông. Ông là người nhiệt thành, nóng nảy và hiếu động, ông thích những bữa ăn thịnh soạn, uống nhiều bia và còn hâm mộ phái đẹp. Nếu trước cổng vang lên tiếng hát của các chàng chưa vợ lang thang: “Einer armer Reisender…”[113] - ông ngoại tôi liền nói vọng qua cửa kính mở: “Wer arm ist, der soil nich reisen”[114], rồi ông mời đám khách lữ hành vào và tiếp đãi họ. Ba người con trai được ông cho ăn học cao, một người vào trường hạ sĩ quan, hai người kia học hết trung học; các con gái ông bằng lòng với việc biết đọc, biết viết, chỉ có mẹ tôi sau này, khi ông tôi đã mất, là tốt nghiệp trường nữ sinh ở cấp cao hơn: trường sư phạm.
Đó là tất cả những gì tôi biết về ông ngoại mình; tôi chưa hề nhìn thấy ông, ông đã mất trước khi tôi ra đời hai chục năm. Ảnh chân dung ông treo trên tường phòng tôi, tôi giống ông đến kinh ngạc. Nét mặt tôi cũng duy cảm, mềm và béo, cái miệng mẫn cảm trễ xuống, và nếu để râu quai nón thì tôi chính là bản sao của con người xa lạ đang nhìn tôi từ bức ảnh kia. Tôi đã kế thừa ở ông tính thích xê dịch, sự nhạy cảm, tính hiếu động và tính đa nghi của người Slav. Con người xa lạ này tiếp tục sống trong tôi một cách mạnh mẽ. Có lẽ thứ con người ta thừa hưởng từ tổ tiên của mình không chỉ có hình thể, giống như tôi giống ông không chỉ từ cái miệng, vầng trán, đôi mắt, cái đầu, mà cả những cử chỉ, nụ cười, sở thích, sự dễ dãi và cẩu thả nào đó của ông cũng sống trong tôi. Tôi cũng ưa bỏ trong túi các giấy má liên quan đến công việc và cuộc đời mình. Nhưng trong tôi còn sống cả người ông kia, nghiệt ngã hơn, sầu não hơn và cứng nhắc, cẩn thận hơn. Ông cũng mất sớm, và tôi cũng chưa hề biết ông. Những con người xa lạ mà tôi phải chung sống này ít khi để cho tôi cất tiếng, dù tôi đã khổ công lần mò, tìm kiếm bản thân mình. Ông ngoại tôi chẳng hạn, là một Falstaff[115] tỉnh lẻ, một tay nốc bia có hạng và thường xuyên ở quán xá. Tôi thừa hưởng cả cung cách làm việc của ông. Tôi thích làm những việc đã nhận tỉ mẩn theo cách của một thợ thủ công, tôi thích nhịp điệu vật lý của công việc, tôi thích khoan và đục đẽo những đồ dùng nhỏ nhặt hằng ngày. Tôi trở thành một người thợ tốt cũng là nhờ ông. Thỉnh thoảng, tính
cách của người ông nội sầu não trong con người tôi cũng phản kháng, và nếu tính cách ông ngoại mạnh hơn, thì tôi ở trạng thái phấn khích, vui vẻ có đến nửa năm trời, một niềm vui lâng lâng tràn ngập trong công việc và
cuộc sống, những lúc như thế sở thích xê dịch trong tôi trỗi dậy, tôi đi hàng tháng chẳng cần có kế hoạch và mục đích, chẳng hề quan tâm đến những gì để lại phía sau, ở nhà và trong xưởng.
Bà ngoại tôi về làm vợ ông khi mười sáu tuổi. Hình dáng của người phụ nữ này được bao phủ bởi một lớp voan che mỏng. Bà chỉ sống với ông tôi tất cả có bốn năm, bà sinh ra mẹ tôi, rồi thêm một người con nữa và chết vì sốt hậu sản. Trong gia đình không ai nói về bà. Tên bà tôi cũng chỉ vô tình biết được, hình như có lần mẹ tôi nhỡ miệng nói ra. Tên bà là Jelenffy. Cả mẹ tôi, cả các con riêng của ông ngoại tôi đều tránh nhắc đến kỷ niệm về bà. Còn lại một bức ảnh duy nhất của bà, một khuôn mặt thiếu phụ đẹp, đơn giản và buồn, giống một cô gái hơn là một người đàn bà. Bí mật về bà, nếu có, được người trong nhà giữ kín. Những người con riêng của ông ngại nói về bà, mẹ tôi thì gần như không nhớ. Bà là một cô gái mồ côi, được một người họ hàng đứng tuổi nuôi dạy. Tôi nghĩ là bà nghèo. Ông tôi đã qua tuổi bốn mươi, góa vợ với năm người con, và ông lấy cô gái ấy, cô có thể đi lại tự do trong ngôi nhà rộng, như một đứa con nuôi, đứa con thứ sáu. Người ta bảo cô gái không bao giờ cười. Cô ngồi buồn bã phía bên phải ông tôi, cạnh cái bàn dài của gia đình, và sống như người lạ trong nhà. Ông ngoại tôi là người vui tính, thích nói đùa, mọi người hay cười vì những câu chuyện ông kể. Thỉnh thoảng ông cũng làm người phụ nữ buồn bã này phải bật cười, những lúc như thế bà đứng vụt dậy khỏi bàn, vội lấy khăn che miệng, và “chạy sang phòng bên để cười”. Bà xấu hổ không dám cười trước mọi người. Bà có điều gì bí ẩn? Bà thấy mẹ tôi, đứa con đầu tiên của bà, xấu xí kinh khủng, bà thấy hổ thẹn vì đứa bé xấu quá, đến nhìn bà cũng không chịu nổi, và lần nào cho con bú bà cũng lấy khăn che mặt đứa bé. Mẹ tôi biết điều đó, sau này các chị của mẹ nói cho mẹ biết, mẹ kể lại với tôi. Người phụ nữ thầm lặng, đượm buồn, có lẽ bị bệnh thần kinh, đã sống trong nhà bốn năm. Bà cũng đã cho tôi một thứ gì đó để sống. Phần lớn những nỗi sợ hãi của tôi do thừa hưởng của bà. Có thể bà hổ thẹn vì vai trò làm vợ trước những đứa con riêng đã lớn của chồng, những đứa con gái cùng lứa tuổi bà, bà xấu hổ phải vào vai bà mẹ trong một gia đình mà những đứa con của người vợ trước khư khư giữ vị thế và kỷ niệm về
người quá cố. Có thể tất cả những gì bà đã làm đều sai sót, bất lực, có thể sự sợ hãi đã khiến bà phòng vệ một cách gàn dở như thế, vì vậy mà bà đã “chạy sang phòng bên để cười” khi ông ngoại tôi nói đùa, vì vậy mà bà thường im lặng và coi con đẻ của mình là “cực kỳ xấu xí”, như thể bằng việc tự hạ mình, bà muốn hòa giải với người đàn bà đã chết của ký ức và với những đứa trẻ tai ngược. Nếu tôi sợ sự rồ dại thì chính là người đàn bà này đã lên tiếng trong tôi. Đến cả tên bà tôi cũng không biết; trước mặt chúng tôi không thấy ai nhắc đến tên bà bao giờ. Trong chòm sao gia đình, bà xuất hiện trong một khoảnh khắc, rồi lập tức biến vào hư vô. Chỉ để lại một dấu vết bất hạnh ở nơi bà xuất hiện, những người từng biết đều nhìn xuống mỗi khi nói về bà. Trong bức ảnh, bà mặc áo thêu màu xanh nhạt, trên cái cổ trắng, mảnh mai như con gái là cây thánh giá bạc với sợi dây đeo màu đen nhỏ, ở chỗ hở cổ của chiếc áo blu là những chùm hoa lan chuông nho nhỏ. Đôi mắt bà trống rỗng, trong sáng, buồn, như những con mắt thủy tinh. Hai con người này vẫn tiếp tục sống trong tôi.
3.
Một người con trai, tên là Jenő, anh trai cả của mẹ tôi, muốn trở thành nhạc công, nhưng chỉ lọt được vào dàn quân nhạc. Vì thất vọng, ông đã dùng súng tự sát khi đang phục vụ trong đội quân đóng ở Póla[116]”. Khuynh hướng âm nhạc, như một lời nguyền, cứ mãi theo đuổi gia đình này. Hầu hết người trong nhà đều cảm thấy trong bản thân mình có một tài năng nghệ thuật bị bỏ lỡ. Một cô con gái thỉnh thoảng hay vẽ tranh, một người khác thì hát. Mẹ tôi cũng rất mê nhạc và chơi nhạc, không hẳn là bất tài. Một bà chị khác của mẹ sang Wien sinh sống và truyền lại khả năng âm nhạc cho các con, sáu cô con gái của bà, trong số họ có một cô trở thành vũ nữ nổi tiếng thế giới, những người khác cũng sống bằng âm nhạc và sống cho âm nhạc, họ soạn nhạc, dạy nhạc, biểu diễn âm nhạc. Âm nhạc là nguyên tố cấu thành có đẳng cấp cao hơn của cuộc sống, họ trốn chạy vào trong đó, và họ nghiêm khắc bắt buộc chúng tôi, những kẻ hậu sinh, phải nối gót họ trong cái thế giới phô trương hào nhoáng ấy và bắt chước các khuynh hướng, sở thích của họ. Thời niên thiếu, tôi nghe và học nhạc nhiều hơn một nhạc công chuyên nghiệp. Có lẽ chính vì thế mà tôi vẫn như đàn gảy tai trâu đối với âm nhạc. Tôi ngán âm nhạc quá sớm, sau này tôi
cố ý tránh xa thế giới âm thanh, và dù đôi khi nuối tiếc nhớ những gì đã để mất như thế, tôi vẫn khép mình trước mọi thứ âm nhạc, với sự nhạy cảm và tổn thương. Một lần ở Paris, tôi lạc vào một phòng hòa nhạc, khi dàn nhạc bắt đầu biểu diễn, tôi bị lên một cơn cười kịch phát và người ta phải dẫn tôi ra ngoài… Không bao giờ tôi hiểu nổi bác Jenő, người đã tự sát vì không thể trở thành nhạc công. Đối với tôi, âm nhạc là sự trừng phạt; khi tôi luyện ngón, mẹ tôi cầm một que sậy, và mỗi lần tôi gõ nhầm một âm bà lại đánh lên ngón tay tôi một cái. Bây giờ tôi vẫn nghe nhạc - dẫu sao tôi cũng vẫn khao khát, như một kẻ lưu đày nhớ tới quê hương đã lãng quên đôi chút -, như khẳng định với bản thân mình rằng hóa ra điều đó cũng không đến nỗi đau đớn lắm.
Một người con trai tự tử bằng súng vì không thể trở thành nhạc công, người kia thì bỏ trường trung học vì cảm thấy bị cuốn hút bởi nghề mổ lợn. Một gia đình mới đặc biệt làm sao. Em trai bác Jenő, bác Dezső, học hết lớp Sáu trung học, khi bị ám ảnh bởi sự mách bảo này, đã đến đứng trước mặt ông tôi và thú nhận rằng, bác không thể làm khác, bác buộc phải chấm dứt việc theo đuổi các môn học nhân văn, vì bác cảm thấy một sự ràng buộc không thể cưỡng lại nổi cuốn hút tới con đường nghề nghiệp đồ tể. Ông ngoại tôi, con người nghiêm khắc, nhưng công bằng, sau khi nghe yêu cầu đặc biệt này, đầu tiên ông bảo để ông có thời gian suy nghĩ. Sau khi hết thời gian suy nghĩ và cân nhắc, ông cho gọi Dezső đến, thuyết giải một lúc lâu, rồi nện cho một trận nhừ tử. Đánh đòn là công cụ sư phạm nhìn chung được chấp nhận thời bấy giờ, những cái tát cũng thuộc về lịch làm việc trong ngày như việc cầu nguyện hay những bài tập về nhà. Trước nhất việc đánh đòn hằng ngày không có mục đích hay ý nghĩa gì đặc biệt, các bậc cha mẹ và gia sư chỉ đánh vì mục đích thực hành, họ chỉ tuân theo truyền thông. Sau trận đòn, ông ngoại tôi bảo ông đã suy nghĩ về việc đó và ông không phản đối, nếu Dezső thay đổi nghề. Ở tuổi mười sáu, với chứng nhận tốt nghiệp lớp Sáu trung học trong túi, không bao lâu sau bác Dezső được gửi lên thủ đô học nghề thợ thịt.
Tôi chỉ gặp con người lý thú này có hai lần. Trong gia đình mọi người nhắc đến bác khẽ khàng như nói tới một sự rồ dại. Tôi nghĩ, bác hoàn toàn khỏe mạnh, bác là một trong những số ít người dám và biết sống theo sở thích của mình. Chỉ cần tưởng tượng cũng thấy sự việc sẽ tồi tệ ra sao, bác
Dezső có lẽ đã trở thành người chán chường, rầu rĩ, có thể còn thành người có khuynh hướng bệnh tật nguy hiểm, nếu như lời “mách bảo” kia không ám ảnh bác đúng lúc, thì đúng là bác đã học tiếp để rồi tốt nghiệp trung học, trở thành một viên chức, mất hút trong cái văn phòng và nghề nghiệp xa lạ và đáng ghét đối với bác. Nhưng theo cách này, trong sự nhìn nhận của tôi, bác Dezső đã trở thành con người đơn giản, cần cù và mãn nguyện, bác lập gia đình đúng lúc, mở cửa hàng, dạy dỗ những đứa con gái xinh đẹp nên người, và bác đã mất trong sự nhẫn nhịn bằng an và sùng mộ của một người theo đạo Thiên Chúa giáo, khi thời khắc ấy đến; dù sao bác cũng sống lâu hơn những người đàn ông khác trong gia đình.
Nhưng cái gia đình đang vươn lên, nhiều khát vọng ấy dĩ nhiên không bao giờ hiểu được sự lựa chọn của bác Dezső. Là con một ông “chủ xưởng”, con đường dẫn lên đẳng cấp cao hơn đang rộng mở, có thể tiến thân bằng tước hiệu và bằng cấp, lại làm nghề thủ công, hơn nữa là một nghề lao động chân tay đầy máu me gớm ghiếc như nghề giết mổ súc vật - ai có thể hiểu nổi điều đó? Có lẽ bác Dezső hơi sợ “tầng lớp quý tộc”. Trong quyết định của bác chắc có sự thôi thúc của niềm tự hào về nghề nghiệp thủ công nào đó, bác cảm thấy nhút nhát, xa lạ trong thế giới khác, chuẩn mực hơn kia, bác cảm thấy một sự ràng buộc không thể hóa giải với bầu không khí xưởng thợ. Đúng là nếu muốn trở thành thợ thủ công bằng mọi giá, bác có thể tiếp nhận xưởng gỗ của ông ngoại tôi. Nhưng bác lại đặc biệt thích nghề thợ thịt. Nếu có “nghiệp”, thì không nghi ngờ gì, bác Dezső chính là sinh ra để làm nghề thợ thịt. Hồi còn bé, bác hay chơi trò đồ tể với các em và với bọn trẻ con cái những người phụ việc: theo mẹ tôi kể thì cậu bé Dezső gom bọn trẻ con trong nhà vào một góc sân, bắt chúng lột hết áo quần, lấy muối rắc lên lưng và mông chúng, rồi lấy trộm con dao chặt thịt từ trong bếp, chơi trò mổ và băm vằm các nạn nhân của mình. Bọn trẻ nem nép chịu đựng trò chơi kỳ dị này như lũ cừu non. Cứ mỗi tháng cậu bé lại tái diễn trò chơi này. Khi cưới vợ, Dezső đã là thợ thịt, anh chàng lẩn khỏi đám cưới, bỏ cả bữa trưa tiệc cưới, cứ mặc áo đuôi tôm và mũ cứng chỏm hình trụ ngồi vào xe ngựa kéo, lao lên lò mổ, cởi quần áo, hăng hái quật ngã và mổ thịt một con bò đực, rồi mặt đỏ gay vì phấn chấn chàng quay về đám cưới, ngồi xuống cạnh vị hôn thê của mình. Trên tấm thiệp báo tang bác, dĩ nhiên người ta ghi thế này: “Một người chồng đáng yêu, dịu dàng,
người cha tốt nhất”. Đúng vậy, bác là một người như thế; bản năng của bác đã cảnh báo nguy hiểm đúng lúc, và bác đã thoát.
Hồi còn nhỏ, khi lần đầu tiên được mẹ đưa đến thăm bác, tôi rất bất ngờ vì sự hiện hữu của bác, vì trước đó tôi không biết tí gì về người bác khác lạ này, không ai nhắc đến chuyện chúng tôi có một người bác làm nghề thợ thịt ở Pest. Sự phát hiện đã làm tôi thích thú, cả bác nữa. Bác Dezső hơi lúng túng, chúng tôi là những người họ hàng “sang trọng”, cả hai vợ chồng bác đều chuẩn bị để đón chúng tôi, họ vội vàng dọn dẹp nhà cửa, cả hai đều ăn mặc quần áo ngày lễ, trang điểm cho các cô con gái nhỏ, ba bé gái có nét mặt xinh đẹp, như chuẩn bị cho một cuộc sát hạch và dâng hiến đầu tiên, và họ không biết nói gì, không cả mời chúng tôi ngồi. Tôi rất tự hào vì trong gia đình có cả người làm nghề đồ tể, hơn nữa chắc hẳn là người giỏi giang, một người thợ thịt lành nghề ở thủ đô. Bác niềm nở bắt tay tôi, rồi dắt tay tôi đưa xuống xưởng, cho tôi xem cái bàn thớt khổng lồ, những chiếc rìu, những con thú đã mổ thịt. Hấp dẫn hơn nhiều so với tất cả những người họ hàng mà tôi biết cho tới lúc đó, các giáo viên, luật sư, sĩ quan. Tôi không hiểu nổi tại sao cho đến tận lúc ấy cha mẹ tôi không bao giờ nhắc đến ông bác tuyệt vời này.
4.
Vào một ngày mùa hè, bác Ernő đến nhà, bác bước lên cầu thang với vẻ đường bệ, chào qua loa những người trong nhà, mọi người đều bất ngờ vì sự xuất hiện của bác. Bác không ôm hôn ai, thận trọng ngồi xuống một cái ghế bành, lấy từ trong chiếc hộp màu xám bạc loại thuốc lá “Quý bà” có đầu hút, rồi bắt đầu cẩn trọng, đăm chiêu hút thuốc, như thể bác chẳng có việc gì khác ở nhà này, bác chỉ đang biểu diễn cách thức hút thuốc do chính mình phát kiến ra vậy. Tôi chưa từng nhìn thấy ai hút thuốc với một vẻ nghi lễ phức tạp, với sự mải mê sùng mộ như thế. Trước khi châm lửa, bác gõ gõ đầu hút điếu thuốc lên nắp hộp mấy cái, rồi bác nheo nheo một bên mắt nhìn vào điếu thuốc như một nhà chiêm tinh học nhìn vào kính viễn vọng, thổi vào cái đầu hút, sau đó bác dùng lưỡi nhấp môi, hai ngón tay nắn dọc điếu thuốc, ngắt những sợi thuốc thò ra đầu, rồi bác tròn môi đưa điếu thuốc lên miệng, nhưng không buông nó ra mà đỡ bằng hai ngón tay, dùng tay trái điệu nghệ lần tìm chiếc bật lửa trong túi áo gi lê, đưa một tay
lên châm thuốc, hít khói thật sâu - lúc này khuôn mặt bác hóp lại hai bên, nom như mặt người chết -, sau đó bác lùa khói trong phổi rất lâu, dễ có đến nửa phút, rồi mới khoan khoái, từ từ nhả ra. Đám mây khói loãng cuộn ra qua lỗ mũi và mồm, trong khi bác Ernő thở nặng nhọc, như một vận động viên điền kinh mới khéo léo vượt qua một thử thách thể lực nào đó… Cả nhà ngồi quanh bác, vừa hét lên vừa chăm chú nhìn bác. Mấy phút đầu tiên của những lần bác đến bao giờ cũng chỉ qua đi với thủ tục hút thuốc như thế, cứ như bác đã chuẩn bị trước cho tiết mục nghệ thuật này để làm cả nhà thán phục. Rồi một lúc lâu sau bác không nói một lời. Bác nằm nghỉ trên ghế bên cạnh chiếc áo khoác dài. Bác rất cao - một mét tám sáu -, và rất béo; bác để ria kiểu như Hoàng đế Wilhelm.
Bác trở về sau mười sáu năm đi xa, với nghi lễ kiệm lời như thế, nhìn bề ngoài cứ như chỉ để biểu diễn cách hút thuốc điệu nghệ và thưởng ngoạn như thế nào. Bác là người đam mê chất nicotin. Cho đến lúc chết mỗi ngày bác đốt tám mươi điếu, bác mất ở tuổi bốn lăm, vì bệnh tim ở dạng “angina pectois”[117] do tiêu thụ nicotin quá liều gây ra. Trong mười sáu năm đi xa bác không viết thư, dù chỉ một tấm bưu thiếp cũng không. Không một ai trong gia đình nhìn thấy bác trong một thập kỷ rưỡi, tin tức trực tiếp cũng không, một lần có tin dữ lan truyền trong nhà, rằng tướng Ernő phục vụ trong quân đội Nhật Bản, có trời biết tại sao chúng tôi hổ thẹn vì điều đó; nhưng cũng may, đó là một tin thất thiệt.
Bác nằm đó, lười nhác chềnh ềnh trên ghế, hỏi mẹ tôi - người mười sáu năm không gặp - những câu hờ hững, bác xử sự như người mới đi khỏi nhà ngày hôm qua và cũng chẳng quan tâm lắm đến việc giữa chừng chuyện gì đã xảy ra với những người ở lại. Trong một thập kỷ rưỡi khi bác Ernő sống bí ẩn ở nơi xa, trong gia đình nhiều người đã qua đời, một đám trẻ con đã sinh ra, nhưng bác Ernő còn mải rao giảng rằng thuốc lá nhà nước ngon và đáng tin cậy hơn nhiều so với thuốc lá của các hãng tư nhân bên Đức. Bác có vẻ lúng túng. Nom bác nhợt nhạt và khó thở. Cách ứng xử của bác biểu hiện sự phản đối, nỗi lo lắng của bác thể hiện sự phòng vệ. Bác chẳng hỏi gì và từ chối trả lời tất cả các câu hỏi mà gia đình có ý căn vặn về những bí mật một thập kỷ rưỡi qua. Chẳng bao lâu sau chúng tôi khẳng định bác Ernő có điều “bí mật”. Có lẽ đúng là bác từng làm chỉ huy quân sự ở đâu đó, có lẽ chỉ là bác đã sống trong những điều kiện tệ hại, đằng sau sự im
lặng của bác chúng tôi ngờ có chuyện “lebenslógé”[118] - hồi đó vở Vịt trời[119] đang thịnh hành trên các sân khấu Hung -, và chúng tôi tôn trọng sự im lặng có vẻ bất mãn, lo lắng của bác. Bác bắt đầu sống giữa chúng tôi như thể bác đến từ một châu lục xa lạ, với “bí mật”, với cái hộp đựng thuốc lá màu xám bạc lúc nào cũng đầy thuốc, với một ít quần áo, đồ lót và những thói quen kỳ dị của bác.
Bác Ernő có một tâm hồn kiêu hãnh và nhạy cảm, bác là người anh trai trẻ nhất của mẹ tôi - riêng cái cách thức và hoàn cảnh bác biến mất khỏi nhà mười sáu năm về trước đã làm tăng thêm sự bí ẩn quanh con người cao to, lừ đừ và biếng nhác ấy. Khởi đầu bác là sĩ quan quân đội, là “cục cưng” của gia đình, là con người mà mọi thành viên trong gia đình đều tự hào. Tại trường hạ sĩ quan bác được học bổng, và sau khi ông ngoại tôi mất, bác vẫn có thể ở lại trong quân đội, vì gia đình hỗ trợ cậu con cưng, viên sĩ quan trẻ tuổi. Bác sống cuộc sống của một sĩ quan đồn trú tỉnh lẻ, uống nhiều, chơi bài bạc, thực thi nhiệm vụ thất thường, được bạn bè quý mến, vì bác thích chơi đàn dương cầm và chơi cũng khá hay, bác hay tán tỉnh đám gái nhà hàng và các nữ nghệ sĩ vãng lai, và dần dà bác sa đà vào trạng thái ngất ngây rượu chè, nhàn cư vi bất thiện mà rất ít sĩ quan thời bình trong khu đồn trú tỉnh lẻ thoát ra nổi. Ernő là dạng người có máu cách mạng, khép kín và tự hủy hoại, hay quan tâm đến mọi việc và nhấp nhổm, thích xê dịch, và ngay ngày đầu tiên khi ý thức được sự chán ghét binh nghiệp của mình, bác đã viết thư cho ông Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, xin hoàn trả cấp bậc, rồi không một xu dính túi, trong bộ đồ dân sự duy nhất, không để lại thư từ tạm biệt ai, bác ra nước ngoài. Đàn ông trong gia đình này không thích những nấc thang danh vọng của cuộc đời. Một người đã tự tử vì không thể trở thành nhạc công, người khác dứt khoát từ bỏ đường học hành quan lộ để đi làm đồ tể, Ernő thì vứt bỏ danh dự sĩ quan để sống cho “bí mật” của mình, đến một nơi đáng ngờ và không thể kiểm soát nổi nào đó ở nước ngoài. Bác sống lặng lẽ và thận trọng trong nhà. Hành lý của bác chỉ là mấy cuốn sách toán học và vật lý, và rất nhiều vở chép nhạc. Bác rất say mê toán học. Tôi nghe tên Einstein[120] lần đầu tiên là từ bác, bác Ernő đã đọc những chuyên khảo của nhà khoa học trong các tạp chí chuyên môn - một thập kỷ trước khi nó trở thành đề tài nóng của báo, bác đã biết về thuyết tương đối -, bác là người đầu tiên kể cho tôi nghe về lý thuyết hạt
nhân, về Planck[121], về vụ nổ nguyên tử. Bác ngồi suốt ngày ở một góc ban công, tay cầm thuốc lá và một chuyên san hay tạp chí vật lý, mặt xanh xao, trên chiếc mũi tẹt móc đôi mắt kính dày, lặng lẽ và buồn.
Mãi sau này bác mới nói ra “bí mật của bác”, dĩ nhiên là rất vớ vẩn, cũng như hầu hết những “bí mật” lớn và đích thực của cuộc đời. Không có tiền, không có bằng cấp và khả năng gì đặc biệt bác biết bắt đầu từ đâu ở nước
Đức, nơi bác đến sau cuộc “bỏ trốn”? Bác đã đem khả năng âm nhạc của mình để kiếm sống, đó là thú chơi đàn dương cầm mà bác đã dùng để giải khuây cho các sĩ quan đồng ngũ ở nơi đồn trú. Bác đã chơi nhạc trong quán cà phê và tiệm ăn trong các thành phố tỉnh lẻ bên Đức; sau này bác lập ra ban nhạc, xê dịch hết thành phố này đến thành phố khác. Càng ngày bác càng ít tin tưởng vào việc đến một lúc nào đó bác sẽ thoát khỏi những quán cà phê đêm, những nơi giải trí rẻ tiền của nước Đức, nơi bác đã gò mình trên đàn dương cầm hàng thập kỷ, thức thâu đêm, uống rượu và đốt thuốc lá đến sáng, để đến tuổi bốn mươi mắc căn bệnh nan y, không thể chữa chạy nổi. Bác biết mình không còn sống được bao lâu nữa, và bác vội vàng đọc tất cả những gì có trong tay - bác không thích đọc sách văn học, nhưng đặc biệt bị cuốn hút bởi các bài nghiên cứu về khoa học tự nhiên, như vật lý và nhất là toán học -, và đúng là bác giống như một tử tù muốn học gấp tiếng Anh trước khi bị hành hình. Bác cũng “muốn bù lại những gì đã bỏ qua”. Bác không thích nhớ đến cuộc sống trong quân ngũ. Dù là người ngoại đạo, chỉ say mê khoa học, nhưng bác hiểu biết rất rộng. Những kỷ niệm đẹp nhất thời niên thiếu của tôi là những cuộc tranh luận và trò chuyện dài dài với bác Ernő về thiên văn học, về địa chất học, về vụ nổ hạt nhân; thật tuyệt vời là tôi, kẻ luôn trượt môn toán trong trường trung học, lại hiểu được những phép tính tích phân phức tạp mà bác Ernő giải thích. Chính bác đã dạy tôi suy nghĩ một cách có phương pháp về các vấn đề toán học, chỉ qua vài câu nói đơn giản của bác tôi đã hiểu ra toán học không phải là mớ bung xung kỳ bí nào mà là chuỗi các ý tưởng mạch lạc và đơn giản. Dĩ nhiên không khi nào bác còn ngồi chơi dương cầm.
Bác đã đi vào cuộc chiến tranh như vậy, im lặng, luộm thuộm, túi nhét đầy thuốc lá và sô cô la, như đi du lịch. “Also[122]” - bác nói, và dừng lại trước cửa khi chúng tôi ra tiễn, bác lúng túng, ngập ngừng chìa tay, như thể chỉ chuẩn bị sang nhà hàng xóm gần đây, và bác không hiểu vì sao mà chúng
tôi xúc động đến thế, vì bác chỉ đi ra ngoài một lát, đi vào chiến trận. Bác sợ nhất là có ai đó ôm hôn bác, mẹ tôi hay đám trẻ; bác ghét những hoạt cảnh gia đình sướt mướt, những chiếc hôn tạm biệt lưu luyến, khuôn mặt bác nhăn nhó, có thể thấy chiến tranh làm bác khó chịu nhất ở điểm này, ở phút chia ly. Chúng tôi nem nép đứng quanh bác, bọn trẻ cảm thấy vẻ thẹn thùng của bác, im lặng tiễn bác đến bậc tam cấp, vì trong thời gian qua đã diễn ra một việc mà không ai tính đến, bác Ernő càng không: chúng tôi đã quý mến con người to béo, u buồn, bệnh tật và luộm thuộm này. Tình thương yêu này bất chợt đến, hiện tượng này là hi hữu nhất trong gia đình. Chúng tôi gần gũi bác, hơn bất kỳ ai khác, có lẽ còn hơn chúng tôi với nhau. Bác Ernő đi những bước chậm rãi, khật khưỡng vào cuộc chiến, chúng tôi đứng trong cổng nhìn theo bác rất lâu, và chúng tôi dám cược rằng dù trời có sập, thì bác cũng không ngoái lại từ góc phố… làm gì có chuyện chính bác, kẻ đang bỏ trốn, vẫy tay từ góc phố khi ra trận, nhưng rồi chính bác sẽ trở thành con người gefühlsduselei[123] như thế! Bác đã không quay đầu lại, chúng tôi đứng trong cổng, khóc và cười ra nước mắt, rồi chúng tôi khẳng định, dù đã bốn mươi tuổi bác Ernő vẫn là trẻ con. Nhìn xem, bác đi ra trận, các túi lèn chặt ống tay len, sô cô la, cặp nhiệt độ, ống nhòm, dao nhíp có mở nút chai và những thứ không thể thiếu trong chiến tranh - vì những năm tháng sống bên Đức đã biến bác thành người cẩn thận, tỉ mỉ -, và dù thế nào bác cũng không ngoái lại nhìn chúng tôi vì bác ngượng! Nhưng chúng tôi biết bác cũng yêu quý chúng tôi, có trời biết bằng cách nào, nhưng tất cả chúng tôi đều đã quý mến bác, cả những người đày tớ trong nhà. Vả lại bác là người duy nhất trong gia đình có chút ít hiểu biết về toán học; giờ đây chúng tôi ở lại trong thời buổi chiến tranh mà không có bác Ernő, và chẳng có ai sau bữa tối giảng giải cho chúng tôi về sự phân hạch.
Nhưng cũng như khi đi, đến một hôm bác đã trở về đúng như thế, luộm thuộm và khật khưỡng, với khuôn mắt còn bợt bạt hơn nhiều và mái tóc bạc thêm nhiều. “Also” - bác nói, rồi cởi bỏ ba lô và áo khoác da, lần lượt bắt tay từng người, cả với cậu em nhỏ nhất của tôi khi đó mới có bảy tuổi - bác nhiệt thành, nhưng thận trọng lắc lắc tay mọi người, mắt hấy háy vẻ lúng túng sau cặp kính, vì có thể nhận thấy bác ngại một ai đó sẽ ôm lấy bác mà hôn. Chúng tôi cảm thấy cần phải tôn trọng chính kiến của người anh hùng từ mặt trận trở về, và ở chừng mực có thể, chúng tôi đã kìm nén
cơn bùng phát cảm xúc của mình. Mặt khác, bác Ernő cũng đã tự kết thúc chiến tranh; khi nhận thấy rằng sự hợp tác của mình không còn mục đích gì, bác đã giải ngũ và trở về. Trong mọi việc bác đều dứt khoát và tự quyết đoán như thế. Lúc này, khi đã chán ghét chiến tranh, bác chuẩn bị sang Thụy Sĩ, dĩ nhiên là bác lại muốn lập ban nhạc. Trong sự hỗn độn lớn nhất khi đó, bác bình thản tiến hành các việc như thể quyền lực nhà nước, trật tự thế giới có bị đảo lộn thì cũng không thể thay đổi được ý định của một con người đã quyết định làm một việc gì đó dứt khoát và có ý thức. Trong tình trạng nhiễu nhương, bác Ernő hành động có mục đích, đến một ngày bác đã đi Thụy Sĩ, tổ chức ban nhạc của mình và chỉ viết những dòng thăm hỏi nồng nhiệt về nhà từ khách sạn St. Moritz. Trong khuôn khổ hạn chế của lịch sử, bác vẫn cố gắng hành động độc lập. Bác cho rằng con người có đẳng cấp cao hơn có quyền được làm như thế.
Bằng cách nào đó bác Ernő đã đánh vật được với định mệnh lịch sử, nhưng với cái định mệnh khác, nhỏ bé hơn đã dệt nên cuộc đời bác thì bác không bao giờ thỏa hiệp nổi. Bác đã chơi dương cầm nơi quán xá, đã mua vui trong các quán cà phê có nhạc sống bên Thụy Sĩ và Đức cho bọn thô lỗ, cục cằn mà bác phục vụ và khinh ghét cho đến tận lúc chết. Mùa đông nào bác cũng quay trở lại khách sạn St. Moritz. Cũng trong cái khách sạn này, tôi đã trải qua cảm giác nhục nhã kỳ lạ, tai hại và khó chịu trong cuộc đời mà cho tới nay thời gian và khoảng cách vẫn chưa xóa nhòa hẳn trong tôi. Khi đó đã là những năm tan nát, nhiễu nhương sau chiến tranh, tôi đang học đại học ở Frankfurt. Một hôm bác Ernő mời tôi đến chỗ bác ở St. Moritz. Nhận được thư buổi sáng, buổi trưa tôi đã lên đường. Tôi chưa đến Thụy Sĩ bao giờ. Tôi mặc bộ quần áo đẹp nhất, mua một chiết cà vạt mới, đó là lần đầu tiên tôi sắm bộ pyjama, vì tôi chuẩn bị đến “đại thế giới”, và tôi ngại bác Ernő phải hổ thẹn về tôi trong cái khách sạn St. Moritz sang trọng kia. Tôi hồi hộp thật sự. Thụy Sĩ tác động đến tôi như một nhà hát, khó tưởng tượng nổi. Sáu giờ chiều tôi tới nơi, bác Ernő đã đợi tôi trên sân ga, bác để đầu trần, khoác áo mưa, qua vạt áo mưa để mở tôi thấy ló ra ngực áo sơ mi cổ cứng màu trắng trong bộ trang phục kiểu dạ hội, và chiếc nơ trắng. Nom bác xanh xao, nụ cười có vẻ lúng túng; có thể bác lại sợ tôi sẽ ôm hôn bác. Tôi bất ngờ vì bộ y phục lễ hội của bác, áo đuôi tôm, cổ thắt nơ; trong khoảnh khắc ấy tôi chợt nhớ ra ở đây bác Ernő chỉ là nhân viên của St. Moritz, một khách sạn sang trọng mà chúng tôi sắp tới, bác cũng như các
nhân viên phục vụ, ban ngày buộc phải mặt đồng phục. Khi nhận được thư mời, tôi đã quên bẵng đi hoàn cảnh sống của bác, trên đường đi tôi cũng chẳng để ý đến điều đó. Nhưng lúc này tôi bỗng nhận ra bác Ernő không phải là một thị dân đến St. Moritz để nghỉ vài tháng mùa đông, và hứng lên thì mời đứa cháu đang học đại học ở gần đó đến chơi, mà là một người vô sản đi lại trên cầu thang phụ dành cho người làm công trong cái khách sạn lớn, sang trọng kia, bác ăn cùng các nhân viên phục vụ, sống bằng tiền boa của khách… Tất cả làm tôi đau đớn khủng khiếp, vì tôi rất quý bác Ernő. Tôi cố gắng tỏ ra vô tư và vui vẻ, nhưng không thể đánh lừa được sự thính nhạy của bác Ernő. Bác cũng cảm thấy mình đã sai lầm; một trong những sai lầm khó gọi tên, khó giải thích, không thể cứu vãn nổi.
Sau đó là ba ngày khổ sở. Bác Ernő và các thành viên trong ban nhạc của bác sống trên tầng áp mái của khách sạn. Tôi cũng được bố trí ở đây. Đúng là chúng tôi ăn bữa trưa và tối ở phòng ăn, nhưng là trước giờ ăn của khách một tiếng rưỡi. Người ta dọn ăn cho chúng tôi trong một khe hẹp trong cái nhà ăn lộng lẫy, và cho chúng tôi nhiều thức ngon lành đúng như thường thấy trong các khách sạn sang trọng, nhờ tình hữu ái của ông đầu bếp mà “đám nhân viên” có khi còn ăn ngon hơn cả các vị khách quý phái… Có lẽ chúng tôi được ăn “primeur”[124] từ mọi thứ, những miếng ngon nhất. Nhưng dẫu sao, chúng tôi vẫn “ăn riêng”, như những kẻ làm công, và người bồi bàn với thiện ý và sự tin cậy ở đồng nghiệp đã chất lên đĩa cho chúng tôi những miếng ngon đặc biệt, nhưng tôi vẫn muốn úp cả đĩa lên đầu anh ta. Tất cả những gì diễn ra trong ba ngày này khác hẳn với những gì tôi đã quen cho tới lúc đó. Con đường dẫn từ thế giới tới bản thân chúng ta thật dài và phức tạp, đầy những lối rẽ khó chịu mà ý nghĩa và tầm quan trọng của chúng mãi lâu sau này ta mới hiểu. Ba ngày ở trong khách sạn Thụy Sĩ vào dịp tôi là khách của bác Ernő, một trong những con người tinh tế và sang trọng nhất mà tôi từng biết, đã quyết định đến cuộc đời tôi. Khi đó từ trải nghiệm trực tiếp, tôi nhận ra rằng có hai thế giới, đẳng cấp trên và đẳng cấp dưới. Tôi đã đứng từ hậu trường, nhìn thấy cấu trúc của cuộc đời. Tôi được nuôi dạy để trở thành “ngài”; bác Ernő thuộc về đám “nhân viên”, bác đã nắm tay dẫn tôi vào thế giới kia trong vòng vài ngày. Ba ngày đó là địa ngục. Bác Ernő “làm việc” từ năm giờ chiều đến nửa đêm trong nhà ăn và tiệm cà phê. Tôi chẳng có việc gì làm ở nhà ăn vào giờ này khi đám khách sang trọng kia ăn uống, thế là tôi thu mình trong một góc nghe
các liên khúc opera Đức mà bác Ernő và dàn nhạc của bác uể oải chơi vì trách nhiệm. Tôi cảm thấy mình ngứa ngáy và bẩn thỉu. Tôi hận bác Ernő, người đã “lôi kéo” tôi vào cái thế giới thấp kém hơn này, tôi cảm thấy khổ vì phải đồng cảm và ở lại với bác, một thứ quy luật cao hơn nào đó đòi hỏi như thế, nhưng tôi vẫn không thể chịu nổi sự tương ái nhục nhã này, tôi không dám nhìn mọi người, và điều gì sẽ xảy ra với tôi trong cái thế giới đẹp đẽ hơn mà tôi thuộc về kia, nếu có lúc người ta biết rằng tôi đã ngủ với đám người làm thuê trên căn phòng áp mái của một khách sạn lớn bên Thụy Sĩ?…
Bác Ernő mời tôi sang hai tuần. Ngày thứ tư tôi đã bỏ trốn. Tôi đỏ mặt lúng túng nói dối một điều gì đó với bác, bác cúi đầu nghe, rồi lẩm bẩm nhưng không nhìn vào mắt tôi. Tôi ra ga một mình, bác Ernő không ra tiễn. Chúng tôi đã chia tay trong im lặng, không bao giờ còn nhìn thấy nhau nữa. Có vẻ như bác đã thử thách tôi, và thấy tôi nhẹ ký. Sự tổn thương này rất lâu sau chưa lành, tôi hay mơ về những ngày ở Thụy Sĩ, nghiến răng trèo trẹo trong mơ, và quăng đĩa thức ăn đầy những món ngon lành lên đầu người hầu bàn. Mấy năm sau bác Ernő chết vì một căn bệnh nan y và đau đớn. Tôi không bao giờ quay lại St. Moritz. Đôi khi tôi đã ở gần đó, trong những dãy núi nho nhỏ vùng Engadin, nhưng lần nào tôi cũng tránh St. Moritz. Tình trạng này còn mạnh hơn cả lý trí, ý muốn và nhận thức. Tôi nghĩ, tôi sợ một người phục vụ nào đó nhận ra mình.
5.
Ông Mátyás, người họ hàng giàu có, sống xa cách tất cả họ hàng khác, không thể nhìn thấy và không thể tiếp cận, như kiểu Đạt Lai Lạt Ma, mỗi lời nói của ông là một tuyên ngôn. Ông nhiều tiền đến mức không thể tưởng tượng nổi, không ai biết ông có bao nhiêu, nhưng những người bi quan nhất cũng cho rằng ông có tới một trăm ngàn forint. Và điều kỳ lạ nhất là người họ hàng giàu có này không bao giờ buôn bán, ông kiếm tiền bằng các nghiên cứu triết học trừu tượng và các công việc sư phạm. Hàng chục năm ông là thầy, sau là tham vấn về luật pháp của một ông lớn lãng mạn người Hung, bá tước Andrássy vùng Krasznahorka[125]. Đến khi họ cãi nhau, ông quay về sống ở Wien, bắt đầu dạy học ở Theresianum[126]. Ông dạy Luật, theo như ông nói là “Triết Luật”. Bá tước Andrássy đã gửi
qua thư cho ông số tiền đền bù thôi việc là sáu mươi ngàn forint, sáu mươi tờ một ngàn; ông ta coi thường tiền đến mức không gửi thư bảo đảm và cũng không viết một lời nào kèm theo.
Ông Mátyás cất tiền, sống tại Theresianum ở Wien, trong hai căn phòng nhỏ, và đào tạo ra nhiều thế hệ yếu nhân cho nước Áo và Hungary, ông sớm bạc đầu, lại để bộ râu quai nón trắng, nom như một ông thánh, ông là người hay e ngại, đa cảm và có tư tưởng quý phái. Với tư cách là một giáo sư Luật học nổi tiếng, giảng bài tại Theresianum, tham vấn luật và là người tin cậy của các công tước Hungary, ông là một trong những người đầu tiên ở nước Áo - trước Adler Victor[127] hàng chục năm, trong các bài giảng công khai - nhận mình là tín đồ chủ nghĩa xã hội. Quan điểm của ông trong sáng, không bị tiêm nhiễm bởi quyền lợi của các đảng phái chính trị. Ông đã tổ chức các buổi giảng bài cho các nhà tiểu thủ công và công nhân về chủ nghĩa xã hội, về Marx và Lassalle[128]. Ông đã sáng lập ra Tổ chức hợp tác tương trợ công nhân đầu tiên ở Áo và đóng góp mười nghìn forint cho việc tổ chức giúp đỡ đời sống công nhân. Thiện ý và sự cả tin của ông đã bị người ta lợi dụng, họ nhận tiền của ông, nhưng các nhà lãnh đạo phong trào, các nhà cách mạng chuyên nghiệp đã cười giễu “nhà xã hội chủ nghĩa Thiên Chúa giáo” - khi đó khái niệm này còn chưa được biết đến. Nhưng ông không nản, ông đã cho in tờ rơi, tuyên truyền cho “nội dung xã hội” của Thiên Chúa giáo. Trong những năm chín mươi, một tờ rơi như vậy đã được trích đọc trong Hạ viện Anh như một tấm gương nhiệt thành của “chủ nghĩa xã hội lý tưởng”. Các đảng phái không khi nào chấp nhận ông vào đội ngũ của họ, đến cuối đời ông vẫn là con người đơn độc, người ta coi ông là nhà xã hội lý thuyết lãng mạn, muốn giải quyết những vấn đề xã hội bằng các biện pháp từ thiện. Đúng là trong nhà xã hội nửa mùa này tồn tại một niềm kiêu hãnh lạ lùng nào đó - không chỉ trong bản ngã, mà cả trong các bài viết của ông -, niềm kiêu hãnh của con người có tri thức không biết đặt mình vào bất kỳ một tập thể nào. Ông dành phần lớn tiền bạc của mình cho các mục đích của phong trào công nhân, ông hành động theo niềm tin của mình, nhưng không đứng vào hàng ngũ của họ. Suốt đời ông là giáo sư của Theresianum, sau này trở thành hiệu trưởng của học viện này.
Ông là anh trai của ông ngoại tôi, bác cả của mẹ tôi. Gốc gác Moravia, cũng như cả nhánh bên ngoại của gia đình, nhưng ông được nuôi dạy ở Áo,
và ông cảm thấy mình là người Áo từ trong máu thịt. Có lẽ ông là người duy nhất trong gia đình đối xử với mẹ tôi tốt bụng và vô tư. Một lần ông đưa mẹ đi Moravia, và cho mẹ xem cái cối xay của ông ngoại. Chuyến đi
này, mấy tuần đi cùng ông bác danh tiếng, giàu sang, có lẽ là kỷ niệm hạnh phúc duy nhất của thời niên thiếu nghèo khổ và đơn côi của mẹ. Đầu tiên họ đến Iglau thăm họ hàng sống trong ngôi nhà tầng xinh đẹp ngay trên quảng trường chính. Một người em trai của ông sống ở đây, một người phong lưu, vẫn giữ nguyên gốc Moravia, sống trong một ngôi nhà lớn và ông được coi là một công dân uy tín trong cái thành phố giàu có này. Chuyến đi làm thỏa mãn lòng tự trọng của mẹ tôi, những nỗi lo sợ về địa vị thấp hèn nảy sinh trong thời niên thiếu nghiệt ngã đã dịu bớt nhờ bà được tận mắt thấy trong gia đình có những con người đáng kính, được trọng thị như ông bác uyên thâm Mátyás ở Wien và những người họ hàng phong lưu, sống trong ngôi nhà lớn trên quảng trường chính của Iglau. Họ ra khỏi thành phố từ sáng sớm, đi bộ qua núi, trên một bãi rộng là chiếc cối xay của ông ngoại, ông bác mặc áo gehrock[129] trang trọng đưa cô cháu gái đi trên con đường rừng, ông kể về thời niên thiếu, khi mấy anh em ông, trong đó có ông ngoại tôi, sáng sớm nào cũng đi bộ theo con đường rừng dài mấy ki lô mét từ xưởng xay tới trường học trong thành phố.
Món quà lớn còn lại trong cuộc đời, điều nuôi dưỡng niềm tin và lòng tốt của chúng ta, trong đa số các trường hợp là món quà bất chợt và nhỏ bé như thế, giống như chuyến đi chơi sáng sớm hôm ấy đối với mẹ tôi trong khu rừng Moravia, đến chỗ cối xay của ông ngoại. Ông bác hôm đó cũng thoải mái, và con người râu quai nón đáng kính ấy đã tỏ ra thật gần gũi. Mẹ tôi nhiều lần kể về chuyến đi buổi sớm hôm đó trong khu rừng lạ, về cảm giác hạnh phúc bất chợt ùa đến khi biết mình có gia đình và thuộc về một nơi nào đó. Ở xưởng xay khi đó đã toàn những người lạ, nhưng hai bác cháu vẫn ở lại đến tối, ông bác chỉ cho mẹ tôi xem những chỗ bí mật của thời niên thiếu, ông đã mở ra cái thế giới đặc biệt mà trong đó có thể nhìn thấy các đường biên bí ẩn của một vương quốc gia đình đã lụi tàn. Sau này có lần ông còn mời mẹ tôi đến thành Wien. Trong căn hộ của một người đàn ông sống độc thân, ông chăm sóc cô cháu gái trẻ với sự dịu dàng vụng về. Ông sống một cuộc sống khổ hạnh, và những hiện tượng như vậy đối với tôi bao giờ cũng đáng ngờ, nhưng về ông thì không bao giờ người ta biết đến một chuyện ga lăng hay tình ái nào. Ông đã đưa cô cháu gái đi
thăm các bảo tàng, và bằng cách thức vụng về, lóng ngóng của mình, ông đã làm tất cả để xoa dịu tấn bi kịch trẻ thơ mà đúng hơn là ông chỉ linh cảm thấy chứ không biết rõ. Những gì mà thời niên thiếu còn chưa hủy hoại hết trong con người mẹ tôi, và những gì còn có thể cứu vãn nổi, ông đã cố gắng cứu vãn. Ông là một nhà sư phạm giỏi và là con người tốt bụng.
Và vì ông là người hết sức giàu có, nên gia đình hướng tới ông với sự chờ đợi và tôn trọng. Chúng tôi không dám viết thư, cũng không dám đến thăm, sợ làm phiền ông. Chỉ có một lần chúng tôi đến tìm ông ở Wien, và chuyến
đi rắc rối này đã lưu lại trong ký ức tôi như một chuyến lạc vào thế giới của những người khổng lồ. Ngay cái tên ông bác cũng đã làm nảy sinh trong tôi những sự mường tượng, vị á thánh này đã sống trong trí tưởng của chúng tôi với tầm cỡ lạ lùng và bất cân đối: Ông “rất tốt bụng”, ông “cực kỳ giàu có”, ông là luật gia và nhà sư phạm “nổi tiếng châu Âu”, ông “nói mọi thứ tiếng”, và dáng ông cũng “cao lớn”. Tóm lại, ông là một siêu nhân của gia đình, chỉ có thể tiếp cận ông bằng sự sùng mộ mang tính tôn giáo. Chúng tôi mặc lễ phục, đến tìm ông ở Theresianum với những cảm giác như thế, trong tâm trạng rất hồi hộp. Ông đang ngồi ăn sáng, và đúng là ông có vóc dáng rất đường bệ. Ông mặc chiếc áo choàng dùng trong phòng ngủ ngồi bên bàn ăn, uống cà phê từ một chiếc cốc vại lớn hơn bình thường, dùng thìa ăn xúp khuấy đường trong chiếc cốc lớn, và tất cả các vật dụng khác quanh ông cũng đều to quá cỡ như thế, thích hợp với con người khổng lồ của gia đình. Thêm nữa ông còn điếc, chúng tôi phải hét to lên để nói chuyện với ông, việc ông điếc có vẻ tự nhiên, trong sự lúng túng trẻ con khi đó tôi cảm thấy đương nhiên dễ hiểu là ông bác không nghe thấy như đa số những người khác, mà chúng tôi phải nói như quát để những điều chúng tôi muốn nói lọt được vào tai ông. Chúng tôi ngồi im lặng xung quanh, xem ông ăn sáng.
Mãi về sau này tôi vẫn nghĩ những đồ dùng của ông chỉ có vẻ to quá cỡ bình thường như vậy trong con mắt nhìn phóng đại, nhân tạo của trẻ con, nhưng sau cái chết của ông, khi gia đình phân chia di sản, chúng tôi nhận
được một trong những cái cốc vại kiểu Altwien[130] như thế, và chúng tôi có thể chiêm ngưỡng kích thước thật của nó. Chiếc cốc phình to ra về phía đáy, khá sâu, như một cái bát đựng xúp. Chắc chắn ông là một con người đặc biệt, ông nhìn nhận cái xấu, cái tốt, nhìn nhận xã hội và gia đình, tiền
bạc và vật dụng bằng những chiều kích khác những người đương thời nói chung, ông sống với những chiều kích khác; trong cách sống, tư duy, đạo đức và trong những phán xét của mình, ông đã giữ được cá tính riêng. Thời đại mà ông sống ưu đãi những con bò rừng như thế; đó là thời kỳ hoàng kim của những đề xuất riêng, của thế giới quan cá nhân. Chắc chắn ông - một trong những tín sứ không chuyên của chủ nghĩa xã hội không phải là con người “tập thể”. Ông đã có thể tự do phát triển cả đời sống vật chất lẫn tinh thần, và với cấu trúc nội tại cùng ngoại hình đặc biệt của mình, ông vẫn là con người mực thước về đạo đức, dễ mến và khiêm nhường.
Không bao giờ tôi giải mã nổi bí mật vì sao ông đã dùng chuyến thăm Wien để giới thiệu cho tôi, một cậu bé, những trang thiết bị kỹ thuật trong một khu khai thác gỗ của Áo. Có thể vì ông là một nhà sư phạm từ trong máu thịt, ông thấy cần thiết để cho tôi, đứa cháu trai bé nhất của ông, khi ra về từ Wien, phải có được những “kiến thức thực tiễn”. Trong bữa ăn sáng, ông nheo nheo mắt nhìn tôi rất lâu, và đầu giờ chiều ông nắm tay tôi, hai ông cháu lên tàu điện đi đến một khu ngoại vi thành Wien, rồi chúng tôi cuốc bộ trên những con đường trơ trụi và bẩn thỉu đến trước cổng một xưởng cưa chạy máy hơi nước. Trong văn phòng, ông giới thiệu khá rườm rà, ông kể ra tất cả các chức danh, và nói với ông giám đốc hơi bị bất ngờ, nhưng lắng nghe với vẻ quan tâm kính trọng, rằng ông muốn cho đứa cháu trai đến từ vùng xa làm quen với những phương pháp làm việc của xưởng cưa hơi nước. Có thể nhận thấy ông giám đốc rất ngạc nhiên. Tôi thì rất sợ. Suốt dọc đường ông không buông tay tôi, cứ như ông sợ tôi sẽ bỏ trốn; và thậm chí tình cảnh phải ở bên con người khổng lồ này suốt cả buổi chiều làm tôi chán ngán và có cảm giác bất an. Viên quản đốc được gọi tới để đưa chúng tôi đến xưởng cưa, nơi có thể nhìn thấy đúng những gì thường thấy trong một xưởng cưa, không hơn không kém. Chiếc máy cưa hơi nước phì phò và xẻ những thân cây; trong những hoàn cảnh dễ chịu, vô tư và ít trang trọng hơn, có lẽ những điều nhìn thấy đã cuốn hút sự chú ý của tôi, nhưng như thế này, khổ sở trong bàn tay sắt siết chặt của ông, tôi chẳng hiểu một từ nào trong bài diễn thuyết của ông quản đốc, và cảm thấy rất khó chịu. Thật không thể nào hiểu nổi sao ông lại đưa tôi tới đây, khi ở Wien có bao nhiêu bảo tàng, vườn bách thú và nhiều thắng cảnh khác nữa - vì sao chúng tôi phải nghe bài thuyết trình của ông quản đốc đang cố gào to hơn tiếng máy cưa để hét vào cái tai nghễnh ngãng của ông tôi những ẳ
khẳng định mang tính chuyên môn của ông ta? Con người cố hét thật to kia, người ông dùng bàn tay làm miệng loa phía sau vành tai và nghe những lời giải thích với vẻ mãn nguyện, chiếc máy cưa rú rít ầm ĩ, tiếng ồn và sự hỗn loạn bất chợt tràn ngập quanh tôi ở Wien này làm tôi có cảm giác muốn ngất xỉu. Không thể hiểu ông, cái máy cưa chạy hơi nước, cả cuộc đời như nó vốn thế!… - tôi thất vọng nghĩ. “Vậy ra đây là cái máy cưa chạy hơi nước?” - ông bác hỏi như quát, và lấy bàn tay che sau tai, cúi người về phía trước để lắng nghe không sót lời giải thích nào của ông đốc công. “Nào, đây chính là chiếc máy cưa chạy hơi nước!” - ông quay về phía tôi, bày tỏ bằng giọng nói đúng của một nhà sư phạm. Chúng tôi đi quanh khu xưởng như thế, vừa quan sát vừa gào thét vào tai nhau. Rồi ông đưa tôi lên tàu điện quay về Theresianum, và ông không bao giờ tiết lộ cho tôi biết chuyến đi thăm ấy đã thỏa mãn tham vọng sư phạm nào của ông. Lần ấy, ở Wien tôi không nhìn thấy gì khác hơn, ngoài căn nhà của ông và cái xưởng cưa ở ngoại vi thành phố.
Từ khi còn sống, ông đã chia tài sản cho những người thân thích. Mẹ tôi được hai mươi ngàn forint, và chúng tôi đã mua “nhà riêng” bằng số tiền này. Bà chị gái mẹ tôi lấy chồng ở Wien cũng được hai chục ngàn forint; nhưng trong khi cha tôi, suốt mấy chục năm liền, trả số tiền lãi của cái di
sản ứng trước ấy cho ông một cách chính xác, thì những người họ hàng ở Wien được tặng khoản tiền khổng lồ này mà không phải trả lãi. Ông mất vào năm thứ ba của chiến tranh, chết đói theo đúng nghĩa của từ này; những người thân ở Wien kể lại rằng vào những tháng cuối cùng của cuộc đời, ông đã tặng tất cả tài sản cho người nghèo, cả phiếu thực phẩm.
6.
Những họ hàng ở Wien chơi nhạc suốt ngày. Sáu cô gái thay nhau chơi vĩ cầm, dương cầm, thậm chí họ còn chơi viôlôngxen và clarinet. Thời gian ít ỏi còn lại khi không chơi nhạc thì họ khiêu vũ. Ngôi nhà một tầng ở Hietzing ầm ĩ bởi tiếng nhạc, tiếng la hét và tiếng hát của con gái. Mười con người sống trong ngôi nhà xiêu vẹo, ọp ẹp: sáu cô gái, cha mẹ, Frankl - cậu con trai duy nhất đã chết trong chiến tranh - và Marie, bà lão giúp việc, đã ở đây từ ba chục năm rồi, sập sềnh cái chân đau, lúi húi nấu nướng cho cả gia đình trong căn hầm phía dưới. Phía sau nhà là khu vườn dài và hẹp,
với một cây mận quả sai trĩu trịt, hai cây hồ đào già chỉ còn trổ ra được những quả nhỏ xíu méo mó, những bụi phúc bồn tử và một cây cơm cháy sực nức mùi ở góc cuối vườn. Quanh gốc cây hồ đào có kê bàn ghế, và từ mùa xuân đến cuối thu, cả gia đình đông đúc thường ngồi ở đây. Ông bố là họa sĩ Franz đứng đây cả ngày, với mái tóc dài bồng bềnh, cổ thắt nơ, cái mũi đỏ dài mảnh đỡ cặp kính mũi, tay cầm cọ và bảng pha màu, chăm chú nhìn tấm toan vẽ dở căng trên giá đỡ, trong khi vừa để ý tới tiếng đàn viôlông hay tiếng dương cầm vang qua những khung cửa sổ để mở của phòng con trẻ… “Falsch, Grundfalsch!”[131], ông già Franz quát lên, khi cô bé Trude hay Márta chơi lạc điệu. Ông cùng lúc dạy cả sáu cô con gái, vẽ tranh và cãi vã với bà giúp việc Marie, với bà Roza, vợ ông, đang hí húi dưới bếp. Mùa xuân, mùa hạ qua đi như vậy trong ngôi nhà ở Hietzing; cuộc đời trôi đi như thế.
Cuộc sống ấy diễn ra không có tiền; trong căn nhà ở Hietzing, người ta chỉ ngẫu nhiên nghĩ đến tiền. Những khoản chi nho nhỏ, tiền ăn mặc và nuôi dạy bảy đứa trẻ, tiền mua thuốc vẽ, cọ, toan cho ông bác và những thứ cần thiết khác cho cuộc sống: thầy thuốc và thuốc men, quần áo và sách vở, tiền thuê nhà và nghỉ hè, tất cả đều rơi vào lòng gia đình này một cách ngẫu nhiên, như một thứ ân sủng của số phận tốt đẹp. Vì âm nhạc và vì “nghệ thuật” mà họ không có thời gian để kiếm tiền. Ông bác vẽ rất nhiều, ông vẽ sáu cô con gái và vợ ở mọi lứa tuổi, vẽ ngôi nhà và khu vườn, rồi đến những ngôi nhà công cộng của thành Wien, những chiếc cổng, các cửa sổ ở Lainz và Mödling, ông vẽ bà con họ hàng, vẽ cả theo ảnh chụp, ông vẽ các mùa trong năm, những bó hoa đẹp mà ông thấy, vẽ căn hầm và gác áp mái. Trên những bức họa của ông có thể thấy tất cả những gì mà các bậc thầy đã lưu giữ trên mặt toan của họ, ông vẽ rất tinh tế, sử dụng màu rất linh hoạt, ông thấy rõ ánh sáng và bóng tối, ông sắp đặt các đồ vật và nhân vật rất cân đối, và thoạt nhìn có vẻ như những bức họa của ông hoàn hảo và mang dấu ấn của một bậc thầy lớn. Chỉ sau khi đã xem xét kỹ lưỡng, và khi đã xem nhiều tuyệt phẩm của ông, ta mới nhận ra những bức tranh ấy còn thiếu một điều gì đó. Chính bản thân ông thiếu vắng trên những họa phẩm ấy. Ông khiêm nhường, rụt rè đến mức không khi nào dám lên tiếng trên những bức tranh của mình, ông là một nghệ sĩ, nhưng chẳng bao giờ nói ra lời cuối cùng.
Họ sống thật sự như một bầy chim. Tùng tiệm đến không thể tin nổi. Họ cứ líu lo trong căn nhà ở Hietzing và chờ vận may của mình. Thỉnh thoảng cô này hay cô nọ lại bay đi, thử vận may trong thiên hạ, đi lấy chồng hay lượn vòng theo nhịp điệu của một nỗi đam mê bất chợt nào đó một thời gian. Rồi, nếu cuộc hôn nhân hay vũ điệu valse kết thúc, họ lại trở về Hietzing. Bà Marie già lão từ thuở nào, như những nhân vật nữ trong Kinh Thánh, kê vào phòng dương cầm hay trên ban công kín một chiếc giường gấp, và khi kẻ đào tẩu về chiếm chỗ dưới mái nhà xiêu vẹo của gia đình xong, thì các cô gái lại chơi nhạc và ông bố lại vẽ liên miên. Ở Wien, những gì là nhẹ nhàng và dễ chịu, thơm tho và cân đối, là âm nhạc và chừng mực trong nhịp sống của thành phố đều sống trong họ, họ diễn đạt những thứ đó triệt để, bằng những lời ca, bằng các họa phẩm, nhịp điệu, quan niệm và cử chỉ. Cái thế giới ấy, với giá vẽ, với chiếc đàn dương cầm lạc điệu, với những chiếc giường gấp, với sự khiêm nhường dễ thương và lịch lãm, với lối sống bấp bênh của họ, gần như là những gì tốt đẹp nhất mà thành Wien có thể mang lại. Ông già Franz và sáu người con gái chính là thành Wien cũng như, và ít ra cũng ở mức độ như nhà thờ Saint Stefan hay “Stock im Eisen”[132]. Không thể mường tượng về thành Wien nếu thiếu họ. Schnitzler[133] và Hoffmannsthal[134] đã đến khu vườn Hietzing thăm họ, Altenberg[135] viết thư tình cho các cô gái, những lá thư sau này ông đã cẩn thận xin lại rồi bán cho báo chí và công bố trong các cuốn sách. Ba cô con gái thành nghệ sĩ múa ba lê, rồi họ sẽ đi nhảy khắp nơi, dĩ nhiên là trong bước nhảy valse mà không bao giờ họ để mất. Họ chính là vũ điệu valse thành Wien, ba cô gái trẻ ấy, bước nhảy và tiếng cười của họ đã làm thiên hạ từ Peterburg đến New York đổ về đây, họ chính là thành Wien xuất khẩu, là nhịp ba/bốn đầy cảm xúc và dịu dàng. Ông già đứng trước giá vẽ trong khu vườn, vẽ những hình mẫu còn lại, và cãi nhau với bà Roza, chị gái mẹ tôi, mẹ của các cô gái. Họ đã cãi nhau qua năm chục năm, trong lễ kỷ niệm đám cưới bạc và đám cưới vàng họ dừng lại một khắc để lấy hơi, rồi sau đó lại cãi nhau tiếp. Các cô gái trở về, vì hết hợp đồng hoặc vì bỏ chồng, và việc một vũ nữ nổi tiếng thế giới, từng sống trong những căn phòng xa hoa của các khách sạn sang trọng trong các thành phố lớn, khiêm tốn nằm xuống chiếc giường gấp bên cạnh mấy chị em vào buổi tối, được coi là hoàn toàn tự nhiên…
Thỉnh thoảng ông họa sĩ đi chơi thành Wien, những lúc như thế ông đem về các thứ chiến lợi phẩm đáng lo ngại; chẳng hạn ông mua bộ đồ gỗ mạ vàng của của một nhà hát opera bị phá sản, hay mua được với giá hời mấy đôi găng tay nữ dài màu tím nhạt ở Dorotheum[136]. Những cuộc du ngoạn ấy của ông là một vấn nạn cho gia đình. Cả nhà bất đắc dĩ phải đưa những đồ gỗ sân khấu ấy vào phòng khách, còn các cô gái thì mang những đôi găng tay màu tím nhạt hàng năm trời. Đôi khi ông Franz còn có những chuyến đi bí mật, vì sự thanh bình gia đình không đủ thỏa mãn trí tưởng tượng bát ngát của ông, người nghệ sĩ. Bên cạnh những hình mẫu quanh nhà, đôi khi ông cảm thấy cần đến những ấn tượng trần tục. Ông tìm đến những xưởng vẽ trong các khu đông đúc ở nội thành Wien, nơi ông tha hồ chiêm ngưỡng vẻ đẹp lý tưởng của phái yếu mà không có sự giám sát của gia đình. Các cô con gái biết về những chuyến phóng đãng của một tâm hồn nghệ sĩ khao khát cái đẹp, chính họ ngầm trả tiền cho xưởng vẽ, cho người mẫu, và bằng mọi cách “giấu nhẹm” việc này cho ông bố. Ông họa sĩ già đã qua tuổi bảy mươi từ lâu, nhưng thỉnh thoảng vào các buổi chiều ông vẫn lên đường, trong bộ com lê màu xanh thẫm trang trọng, cổ thắt nơ lụa màu trắng, tay cầm một bó hoa dại cuốn trong giấy báo… Bà Roza nhìn theo ông từ khung cửa sổ căn bếp, với nỗi cay đắng mà những trải nghiệm của năm chục năm chung sống cũng không thể làm nguôi ngoai. “Ist halt a Künstler!”[137], những lúc ấy bà Marie nói với vẻ am hiểu sự đời, bà giúp việc đứng bên bà chủ nhà, cùng nhìn theo bóng ông đi xa dần qua ô cửa sổ nhà bếp.
Từ một xó xỉnh nào đó của căn nhà thường xuyên vẳng ra tiếng nhạc, như từ một mạch nguồn không bao giờ cạn. Trong nhà này không ai ngồi riêng để tập dương cầm hay vĩ cầm; nếu việc tập luyện, tập đi tập lại, việc dạy nhạc không ngừng nghỉ bị ngắt quãng trong vài phút vì tiếng nói không có âm điệu thì đó mới chuyện lạ. Trong một góc phòng, Grete đang soạn vở ba lê, mà sau này được trình diễn trong nhà hát opera Wien, bên đàn dương cầm Trude đang dạy một giáo sinh tương lai của Konzervatorium[138], ở phòng ngoài Hilda và Marta đang chơi vĩ cầm. Trong cái dòng thác âm nhạc không bao giờ ngừng ấy, đôi khi ông họa sĩ già đặt cây cọ xuống, rồi ông cũng cầm lên một nhạc cụ - ông có đôi tai thẩm âm cực tốt và chơi đàn viôlôngxen rất giỏi, ông chơi được hết các nhạc cụ -, hoặc bình thản ngồi
xuống bên một chiếc bàn opera chân mạ vàng, lấy bút mực và giấy parchment[139], gọt rũa lại bản thảo một bi kịch lịch sử năm hồi nào đó. Trong vòng bảy mươi năm, ông đã viết bốn chục vở kịch, bằng thơ Iambic[140] và Trochee[141], ông đã viết về lịch sử triều đại Habsburg, về Andreas Hofer[142] và về cuộc đời nhiều yếu nhân của lịch sử nước Áo. Người ngoài cuộc khó có thể hiểu được thế giới tâm hồn của gia đình này. Họ đã hiến dâng bản thân mình, hiến dâng tư tưởng và hệ tinh thần thấm nhuần những ý tưởng nghệ thuật cao quý của họ, cây cọ, ngọn bút hay cái vĩ chỉ là công cụ, và tất cả đều phù hợp để họ diễn đạt và xưng tụng sự hài hòa cao sang mà họ phụng sự, đó là “nghệ thuật”. Thực chất, trong số họ chỉ có ông họa sĩ già là nghệ sĩ không chuyên, theo ý nghĩa quý phái và phức tạp của từ này. Ông vẽ những bức tranh đẹp, chơi viôlôngxen rất cừ, làm những bài thơ Iambic xinh xắn, ông thường xuyên xưng tụng cuộc sống và nghệ thuật, với chiếc mũi to và nhạy cảm bên trên gắn cặp kính mũi dò xét, ông đi lại đánh hơi trong thiên hạ, và ông biết cảm khoái vì hương thơm của món xúp thịt bò nấu khoai tây cũng như biết thưởng thức vở nhạc kịch ba lê của Grete trong rạp opera, âm nhạc Schumann, hay những ấn tượng trần tục trong các xưởng vẽ nội đô mà thỉnh thoảng sự đồng cảm và thiện ý của các con gái ông đã giúp ông tận hưởng… Họ nghèo, nhưng sang trọng theo cách của họ; cả gia đình thường xuyên “sáng tạo”; và âm nhạc đã nâng họ vượt lên trên mọi thứ tạp âm của cuộc đời. Họ chơi nhạc khi không có tiền, khi họ yêu hay thất vọng trong tình yêu; khi đó họ tấu lên những giai điệu buồn. Từ ngoài cổng, khách đến thăm đã nghe tiếng nhạc. “Márta sắp ly hôn”, một người bạn của gia đình khẳng định khi bước vào cổng, ông hiểu biết gia cảnh của họ, vì Márta chơi bản sonat A-major của César Franck[143] mấy ngày liền khi cô thất vọng trong tình yêu. Márta đã ly hôn nhiều lần. Bản sonat của César Franck dần dần trở nên quen thuộc trong ngôi nhà ở Hietzing.
Bà Roza, người mẹ buồn, sống nhọc nhằn trong cái thế giới nghệ sĩ ồn ã này. Bà đi lại liên tục giữa nhà bếp và nhà ở, suốt ngày bà đun cà phê trong một cái nồi có in hoa từ vùng Kalsbad[144] và làm bánh mì phết bơ, vì trong đám con gái lúc nào cũng có đứa vừa đi học về hay sắp đến lớp, và bà dọn dẹp những căn phòng luộm thuộm, bẩn thỉu nơi sáu đứa con gái chơi nhạc và diễn trò yêu đương. Dĩ nhiên, theo cách của mình, bà cũng đã dự phần
vào sự tăng trưởng hỗn loạn của gia đình, bà đã sinh bảy đứa con. Bà coi những sáng tác của chồng là thừa và vô ích, những vở kịch và họa phẩm chẳng ai mua. Bà gom góp tất cả những gì gia đình thải loại, tiền nong, quần áo, cả những hộp màu của chồng, những cây cọ đã mòn cụt, tất tật… Trong cái gia đình ầm ĩ tiếng nhạc, mê mẩn sáng tạo này, bà là người cẩn trọng, thu gom, bà là thứ lương tâm trần thế lo lắng và nhỏ mọn của gia đình. Và đến giờ ăn tối, khi cả nhà trở về mặt đất với những cặp mắt ngơ ngác sau cơn say mê sáng tạo, thì bà Roza và Marie xuất hiện ở cửa, đặt bánh mì phết bơ, cà phê pha loãng và những cái khay chất đầy đồ ăn nguội lên chiếc bàn opera, và như một dàn đồng ca đói khát, họ bắt đầu ngấu nghiến ăn. Họ đã sống như thế, như thể mãi mãi họ vẫn sống như thế.
7.
Cái tên gốc Đức của cha tôi và làng quê của các bậc tiên tổ hiện còn ở vùng Saxony[145] chứng tỏ gia đình từng thuộc quyền cai quản của tuyển hầu[146] Saxon, và mọi người làm việc trong sở đúc tiền quốc gia; họ đã đúc những đồng tiền xu Saxon qua hàng thế kỷ, họ là những người thợ đúc tiền mang họ Groschen-Schmied. Sau này họ đi làm thuê cho gia đình Habsburg[147]
và trở nên giàu có trong một thời gian ngắn. Cụ ông bên nội tôi đến Bácska[148], nơi dòng họ Habsburg thích đưa những người ngoài dòng họ nhưng đáng tin cậy đến định cư, đặc biệt là trong tỉnh Bács-Bodrog. Cụ là tư nghị kho bạc, một người giàu có, quản lý tài sản của Hoàng gia. Cụ sống ở Zombor và mất ở đó, được an táng trong hầm mộ của nhà thờ Zombor. Cáo phó cho biết cụ mất “vì bệnh đường ruột do những điều kiện bất hạnh ở nước ta”, tin cụ mất đã được đăng trong Thông Báo Hungary. Cụ mất năm 1849, và người ăn lương của dòng họ Habsburg đã đứng về phía sự nghiệp của Hungary trong cuộc cách mạng[149] bằng cả bầu nhiệt huyết của mình. Trong một thời gian, các con cụ đã không dùng tên họ cũ, gốc Đức của gia đình. Gia sản của cụ, qua tay các hậu duệ, đã mất hút trong đời sống vùng Bácska. Nhánh Bácska của gia đình chẳng bao lâu sau cũng lụi tàn. Trên vùng Máramaros tồn tại một chi nhánh khác, những viên chức mỏ, những Beamter[150] nghèo. Họ là những tổ tiên trực hệ của tôi.
"""