" Lịch Sử Việt Nam 4: Từ Vua Tự Đức 1862 Đến Đức Quốc Trưởng Bảo Đại 1949 PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lịch Sử Việt Nam 4: Từ Vua Tự Đức 1862 Đến Đức Quốc Trưởng Bảo Đại 1949 PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Tên sách : LỊCH SỬ VIỆT-NAM (Q.4) TỪ VUA TỰ-ĐỨC 1862 ĐẾN ĐỨC QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI 1949 Tác giả : PHAN-XUÂN-HÒA Nhà xuất bản : VĨNH THỊNH Năm xuất bản : 1952 ------------------------ Nguồn sách : scmn-vietnam.blogspot.com Đánh máy : Xuân Huy Kiểm tra chính tả : Hoàng Thị Huế, Mai Thị Mỹ Uyên, Trần Trung Hiếu Biên tập ebook : Thư Võ Ngày hoàn thành : 27/08/2019 Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U.ORG Cảm ơn tác giả PHAN-XUÂN-HÒA và nhà xuất bản VĨNH THỊNH đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá. MỤC LỤC CHƯƠNG I : XÃ-HỘI VIỆT-NAM QUA CÁC TRIỀU MINH MẠNG, THIỆU-TRỊ, TỰ-ĐỨC 1) TỔ-CHỨC CHÍNH-QUYỀN 2) TỔ CHỨC XÃ THÔN 3) TÌNH TRẠNG XÃ-HỘI VÀ KINH-TẾ 4) VIỆC GIAO-THIỆP VỚI PHÁP DƯỚI TRIỀU TỰ-ĐỨC CHƯƠNG II : NHỮNG GIAI ĐOẠN CHINH PHỤC A) GIAI ĐOẠN THỨ I : PHÁP LẤY NAM-KỲ LÀM THUỘC ĐỊA 1) QUÂN PHÁP VÀ Y-PHA-NHO ĐÁNH ĐÀ-NẴNG 2) QUÂN PHÁP LẤY GIA-ĐỊNH 3) QUÂN PHÁP LẤY ĐỊNH-TƯỜNG (MỸ-THO) 4) QUÂN PHÁP LẤY BIÊN-HÒA VÀ VĨNH-LONG 5) HÒA ƯỚC 1862 NHÂM-TUẤT (VIỆT-NAM NHƯỜNG 3 TỈNH NAMKỲ CHO PHÁP) 6) VIỆT-NAM VẬN-ĐỘNG CHUỘC LẠI 3 TỈNH ĐÃ NHƯỜNG 7) CHUỘC 3 TỈNH ĐÃ NHƯỜNG KHÔNG ĐƯỢC LẠI MẤT THÊM 3 TỈNH NỮA 8) GIẶC GIÃ Ở TRONG NƯỚC B) GIAI ĐOẠN THỨ II : ĐÃ VỮNG CHÂN Ở NAM PHÁP RA ĐÁNH BẮC 1) JEAN DUPUIS GÂY HẤN 2) PHÁP CÓ CƠ HỘI DẪN QUÂN RA BẮC 3) QUÂN PHÁP HẠ THÀNH HÀ-NỘI NĂM 1873 (QUÍ-DẬU) 4) ĐẠI-ÚY FRANCIS GARNIER CHẾT 5) HÒA-ƯỚC 15-3-1874 NĂM GIÁP-TUẤT (DỌN ĐƯỜNG CHO CUỘC BẢO-HỘ TRUNG, BẮC-KỲ SAU NÀY) C) GIAI ĐOẠN THỨ III : THÀNH LẬP CUỘC BẢO-HỘ BẮC KỲ VÀ TRUNG-KỲ 1) PHÁP TÌM CỚ ĐÁNH BẮC-KỲ LẦN THỨ 2 2) HÀ-NỘI THẤT THỦ LẦN THỨ II 3) VIỆC CẦU CỨU VỚI TÀU 4) HENRI RIVIÈRE CHẾT 5) SỰ PHẾ LẬP Ở HUẾ (NGUYỄN VĂN-TƯỜNG VÀ TÔN THẤT-THUYẾT CHUYÊN QUYỀN) 6) PHÁP ĐÁNH THUẬN AN 7) HÒA ƯỚC HARMAND 25-8-1883 NĂM QUÍ-MÙI (THÀNH LẬP CUỘC BẢO-HỘ TRUNG VÀ BẮC-KỲ) 8) VUA HIỆP-HÒA BỊ GIẾT 9) QUÂN PHÁP LẤY CÁC TỈNH BẮC-KỲ 10) HÒA ƯỚC FOURNIER 11-5-1884 (KÝ GIỮA PHÁP VÀ TRUNG-HOA VÌ VIỆC VIỆT-NAM) 11) CHIẾN-TRANH PHÁP – HOA VÌ VIỆT-NAM 12) PHÁP HOA ĐÌNH CHIẾN (HÒA ƯỚC PATENÔTRE 1885) 13) SỰ LOẠN Ở TRUNG-KỲ (TÔN-THẤT-THUYẾT ĐÁNH PHÁP, HÀM-NGHI XUẤT NGOẠI) CHƯƠNG III : CÔNG-CUỘC ĐÔ-HỘ CỦA PHÁP TẠI VIỆT-NAM 1) LỰA VUA 2) TỔ-CHỨC CÁCH CAI-TRỊ 3) THÁM HIỂM 4) KINH TẾ 5) CÔNG CHÍNH 6) QUÂN ĐỘI 7) GIÁO DỤC Ế 8) Y-TẾ CHƯƠNG IV : NHỮNG PHONG-TRÀO CÁCH-MỆNH A) PHONG TRÀO « CẦN-VƯƠNG CỨU-QUỐC » (BẮT NGUỒN Ở TRIẾT-LÝ ĐẠO KHỔNG : TRUNG NGHĨA) 1) PHONG TRÀO NỔI DẬY Ở NAM 2) PHONG-TRÀO CẦN-VƯƠNG NỔI DẬY Ở TRUNG, BẮC KỲ 3) NHỮNG TRẬN KHÁNG-CHIẾN OANH-LIỆT CỦA PHONG TRÀO CẦN-VƯƠNG Ở TRUNG, BẮC-KỲ B) PHONG-TRÀO DUY-TÂN 1) PHONG-TRÀO DUY-TÂN HƯỚNG QUỐC-GIA THEO NHẬT-BẢN 2) PHONG-TRÀO « DUY TÂN » CHỊU ẢNH-HƯỞNG CỦA TINH-THẦN CÁCH-MỆNH TRUNG-HOA C) PHONG TRÀO « DÂN-TỘC GIẢI-PHÓNG » 1) CÁCH-MỆNH QUỐC-GIA 2) CÁCH-MỆNH QUỐC-TẾ CHƯƠNG V : LỐI RẼ VÔ CÙNG QUAN TRỌNG CỦA LỊCH-SỬ 1) THỜI KỲ QUÂN-CHỦ ĐÃ CHẤM DỨT 2) QUÂN PHÁP GIỞ QUA NAM-KỲ 3) QUÂN PHÁP GIỞ QUA BẮC, TRUNG-KỲ 4) CHIẾN-TRANH VIỆT PHÁP BÙNG NỔ 5) CỰU-HOÀNG BẢO-ĐẠI GIỞ LẠI CHÍNH QUYỀN TÓM-TẮT TOÀN QUYỂN PHỤ TRƯƠNG : MẤY LỜI TÂM-HUYẾT CỦA HOÀNG-ĐẾ BẢO-ĐẠI KHI THOÁI VỊ 1) CHIẾU THOÁI VỊ RA NGÀY 25 THÁNG 8 NĂM 1945 2) VIỆT-NAM HOÀNG-ĐẾ BAN CHIẾU CHO BÀ CON TRONG HOÀNG-TỘC PHAN-XUÂN-HÒA LỊCH SỬ VIỆT-NAM Quyển IV : TỪ VUA TỰ-ĐỨC 1862 ĐẾN ĐỨC QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI 1949 Soạn theo chương-trình ĐỆ TỨ của bộ Quốc-Gia Giáo-Dục Nhà xuất-bản Vĩnh-Thịnh 63, Lo Su, HANOI 1952 CHƯƠNG I : XÃ-HỘI VIỆT-NAM QUA CÁC TRIỀU MINH-MẠNG, THIỆU-TRỊ, TỰ-ĐỨC 1) TỔ-CHỨC CHÍNH-QUYỀN Xã-hội Việt-nam, thời bấy giờ gồm có hai hạng người ; một hạng đứng trong tổ-chức chính-quyền là những kẻ « Sĩ », một hạng đứng trong tổ-chức xã-thôn là khối cần lao nông, công, thương. Những người đứng trong tổ-chức chính-quyền gọi là quan, lại. Các quan làm việc, thẳng chịu mệnh lệnh của nhà vua, gọi chung là « đình thần », tùy theo phẩm trật cao thấp mà phân công, lập thành các cơ-quan (bộ) tại kinh đô 1. Mỗi tháng 2 lần, nhà vua triệu tập đình-thần vào điện (thiết triều) để bàn định việc nước. Tại Triều-đình, có việc gì quan hệ (hoặc việc do các tỉnh đệ về, hoặc việc do ai có sáng-kiến dâng lên), vua giao cho đình-thần chung xét, rồi vua có chuẩn y mới được thi hành. Nếu vua làm điều sai lầm, có Giám-sát ngự-sử trong Đô-sát-viện (một cơ-quan có tính-cách độc-lập) bày tỏ và can ngăn. Các quan làm điều sai lầm, Giám-sát ngự-sử đủ quyền đàn-hạch, và tâu vua trị tội. Ngoài các tỉnh, có Tổng-đốc, Tuần-phủ, Bố-chánh, Án sát làm việc theo chỉ-thị của Triều-đình. Mỗi tỉnh chia làm nhiều phủ, huyện, có Tri-phủ, Tri-huyện trực tiếp trị dân, dưới sự kiểm-soát của cấp tỉnh. Để mở mang dân trí, và lựa người vào tổ-chức Chính quyền, Triều-đình lập ra ngành Học-chính, có Đốc-học, Giáo-thụ và Huấn-đạo khắp các tỉnh, phủ, huyện. Đốc-học, Giáo-thụ và Huấn-đạo mở trường các nơi. Dân chúng ai đến học cũng được. Đến kỳ thi, các Quan Đốc học, Giáo-thụ và Huấn-đạo sát-hạch trước, học-sinh nào khá mới được đi thi Hương. Thi Hương đỗ Cử-nhân mới được thi Hội, thi Đình. Các quan ở Kinh ra chấm bài thi Hương, có treo biển đề 4 chữ « phụng chỉ cầu hiền » (phụng chỉ Vua, tìm người giỏi). 3 năm mở một khoa thi : năm trước thi Hương, năm sau thi Hội. Thi Hương lấy Cử-nhân, Tú-Tài, thi Hội lấy Tiến-sĩ, Phó-bảng. Những người thi đậu, lần lượt được thu dụng làm « quan » nghĩa là gia-nhập tổ-chức Chính-quyền như trên đã nói. Trong Xã-hội Việt-nam, về thời này, chỉ có quan mới được ăn sung mặc sướng ; lại được ỷ vào quyền Vua trị vì quốc-gia, mọi người phải kính sợ. Bởi vậy, ai ai cũng muốn được làm quan. Xưa kia, học cho biết luân thường đạo lý, trau dồi tiết tháo, học để cách vật trí tri, tìm đường tế thế kinh bang, thì đời này một số đông theo lối học « từ chương », « cử nghiệp », cốt nhớ sách, chải chuốt câu văn, thi đậu để làm quan. Nghĩa lý không biết, xử thế mù quáng, hạng quan lại do bộ máy « cử nghiệp » tác thành này, đã là những ung nhọt của thời đại : ganh đua nhau xu nịnh nhà Vua ; cái gì trái ý Vua, thì hay mấy cũng chê bai cho thành dở, cái gì Vua yêu, thì dở mấy cũng vẽ vời cho hóa hay. Nếu có ai hiểu thời thế, hiến kế « phú dân cường quốc », thì lấy làm viển-vông, tìm cách gièm-pha cho không thành 2. Đối với dân chúng, hạch lạc đủ trăm đường bóc lột làm giàu. Tiền nhân làm quan giữ được thanh bần là quý, danh lưu thiên cổ, thì hạng quan đời này lại hãnh diện được « phú quý lưỡng toàn », dày xéo lên dư luận. 2) TỔ CHỨC XÃ THÔN Xã, Thôn (thôn là những Xã nhỏ hay những xóm thuộc vào Xã, nhưng ở riêng ra một khoảng) cấu tạo nên bởi nhiều Họ (mỗi Họ có nhiều gia-đình do một ông Tổ sinh ra). 3, 4 hay 5, 6 xã thôn lân cận, liên lạc mật thiết với nhau, họp lại thành một Tổng. Nhiều Tổng liên khu kết thành một Phủ hay Huyện. Xã Thôn được quyền tự trị, đứng biệt lập ra ngoài tổ chức Chính-quyền. Xã Thôn hoạt động theo tục-lệ riêng gọi là Hương-Ước, lập thành bởi ý kiến chung của dân chúng trong Xã Thôn. Xã Thôn tự cử lấy Hội-đồng kỳ-dịch (trong các Bô Lão) trông coi việc thi hành Hương-Ước. Ban Kỳ-dịch bầu lấy Xã-trưởng, Tổng-trưởng làm mối dây liên-lạc giữa hai tổ-chức Chính-quyền và Xã Thôn. Các quan của Triều-đình bổ ra tỉnh, phủ, huyện chỉ để lập sổ đinh, điền, thu thuế, tuyển binh, tìm cách giúp dân mở mang trí tuệ, nhưng không can-thiệp gì vào nội-trị của Xã Thôn. Thế cho nên có câu « Phép Vua thua Lệ làng ». Nếu dân chúng Xã Thôn không làm điều phạm vào quyền lợi quần chúng, không gây sự rối loạn hại đến chính-quyền, cung cấp đủ những cái Vua Quan đòi hỏi : sưu thuế, binh lính… thì Vua Quan không phiền nhiễu gì tới dân. Xã Thôn tự do mở trường học, tự do cày cấy, hội họp, đi lại, buôn bán hay theo công nghệ ; tự lập ban tuần-đinh (phiên) giữ lấy trật-tự và an-ninh. Tất cả dân chúng đứng trong tổ-chức xã thôn theo đuổi 3 nghề : Nông, Công, Thương. Ngoài ra có một số « Sĩ » thi hỏng (không được gia nhập tổ-chức chính-quyền) theo nghề dạy học, làm thuốc, thầy tướng, số, cúng… Tổ chức Xã Thôn (xưa gọi là chế độ Lão-quyền) có tinh thần « dân-chủ », cũng như chính-thể « địa-phương tự trị » bây giờ, chỉ hiềm về thời đại « Quân-chủ chuyên chế », dân xã thôn không được tham dự chính-quyền, không được phát biểu ý kiến gì, vua quan làm gì cũng phải chịu, cho nên tinh thần ấy đã không có đất mà nảy nở 3. Dân tộc Việt-nam, bởi thế, đã phải trải qua một giai-đoạn vô cùng suy nhược về phương-diện xã-hội và kinh-tế. 3) TÌNH TRẠNG XÃ-HỘI VÀ KINH-TẾ Dân thường mà xây nhà có gác, hay kiểu chữ Công là có tội. Dân thường mà quần là áo lượt, ra giầy vào dép, cũng có tội… Để phủ-nhận cái chính-sách ấy là « chuyên chế » phản tự-do, phản dân-quyền, triều-đình nói « muốn dân tiết kiệm, để dành tiền ». Nhưng bắt dân để dành tiền làm gì, một khi triều-đình không tìm cách nâng đỡ các nghề nông, công, thương và không mưu cầu việc ích chung lớn lao phải cần vốn để khuếch trương ? Trước kia nhà Lý đã khuyến kích dân buôn bán với Ai lao. Đời Tây-Sơn (Nguyễn-Huệ) tổ chức ngoại thương với Trung-hoa. Đời Lê áp dụng phép « quân điền » để dân chúng ai cũng có ruộng mưu sinh. Bao chính sách ấy đều theo cái đích chấn hưng nông, công, thương : tăng gia sản xuất ở trong, tìm nơi tiêu thụ ở ngoài. Hoạt-động như thế mới cần tiền giúp cho công cuộc xã-hội mỗi ngày một mở mang. Trái lại, về đời này, không ngoại quốc nào được thông thương với Việt-nam, Việt-nam không chịu thông thương với nước nào 4. Vậy thì công nghệ phát tiển làm sao được mà có tiền. Đã không có tiền, lấy gì để dành ? Phải chăng bắt dân ăn mặc cực khổ chỉ là để làm bật hẳn cái giá-trị đặc biệt của quan-lại, tự cho mình phải sung sướng hơn đại chúng một cách rõ rệt ? Nhưng gián-tiếp cái chính-sách ấy đã soạn sửa đất cho bọn tham quan ô lại có nơi dọa nạt mà bóc lột làm giàu ; và lũ bất lương có nơi dòm dỏ để trộm ngày cướp đêm. Hoàn-cảnh xã-hội đã khiến dân chúng không cần lam lũ làm ăn, miễn sao đủ sống : có bát cơm ăn, có túp lều ở, thêm bộ quần áo nâu dành khi ra ngoài, ở nhà đóng khố cũng xong. Như thế yên thân đã tránh được sự dòm dỏ của bọn tham ô, còn không bị trộm cướp hoành hành. Những kẻ học mà không đạt đạo lý, nắm giữ chính quyền như thế, đã đưa lại cho xã-hội một cái tai hại : mọi nghề đều bị rẻ rúng, để rồi mai một dần trong xã thôn bùn lầy nước đọng. Nếu có ai đeo đuổng công nghệ (tuy có nhiều nghề, dân chúng đã học được từ lâu và đã làm được khá tinh xảo) 5 cũng chỉ là tạo tác lặt vặt những cái cần thiết cho đời sống đơn giản của dân chúng địa-phương. Nghề thương cũng vậy. Một số ít gánh hàng loanh quanh mấy chợ gần thôn xã, bán được đồng nào hay đồng ấy, không cần phấn-đấu cạnh tranh. Công, thương bị coi thường đến nỗi, nếu người làm nghề cần nguyên-liệu, ai mang nguyên-liệu đến bán tận xã thôn mới mua ; nếu muốn bán sản-phẩm gì, ai tìm sản phẩm ấy tận xã thôn mới bán. Chỉ còn một nghề « nông » là trọng yếu làm căn-bản cho nền kinh-tế quốc-gia. Xưa kia, lẽ cố nhiên, ai cũng có một phần ruộng, dăm ba sào, một đôi mẫu… cày cấy, sinh sống và cung phụng vua quan. Tuy nhiên, đã bao thế-kỷ trôi qua, cày bừa vẫn với những khí cụ thô sơ truyền lại từ thượng cổ ; cách bón xới, lấy nước, cũng chưa canh tân 6. Mùa màng hoàn toàn chịu sự điều khiển của thời tiết thiên nhiên. Năm nào mưa thuận, gió hòa, mùa màng khá khá, ấy là dân chúng được no ấm. Nhược bằng gặp hồng-thủy, hạn-hán, hay hoàng trùng tàn phá, là chịu nạn đói kém khổ sở, vì không còn biết bám vào kế gì khác để sinh nhai. Mối nguy cơ không tránh được nữa là số nhân khẩu mỗi ngày đông thêm, diện tích thì nhất định 7. Nhân khẩu càng tăng lên, điền thổ càng phải chia nhỏ mãi ra. Như thế chỉ những bờ phân giới hạn đã làm hụt dần đất đi kể biết là bao 8. Đã vậy, triều-đình còn thả lỏng cho ruộng đất được mua bán tự do. Thành thử hạng quan lại sẵn tiền, ỷ thế, thu hút dần các ruộng của dân để đồng thời trở nên « điền-chủ ». Nghề không có, ruộng lại hết, dân chúng phải đi « lĩnh canh », khó nhọc nhiều, hưởng lợi ít. Tóm lại, về thời này, trước chính-sách « bế môn tỏa cảng » của triều-đình, dưới sự bóc lột hà hiếp của quan liêu, dân chúng đói khổ vô cùng. Đó, lý do xô đẩy dân chúng hùa theo đảng phái tìm cảnh sống an nhàn hơn, bằng cách « làm giặc » chống lại triều-đình. Nước Việt-nam đã như cây cổ-thụ, khô khan thiếu nhựa sống, lại bị mọt từ trong lõi mọt ra, phỏng cái cây ấy có đứng vững chăng, giữa lúc Tây-phương, vì sự tiến bộ của khoa-học ầm ầm xô nhau đi như giông tố, vin bất cứ vào cớ nào, để gây chiến tranh, chiếm thuộc địa, thị trường khắp bốn phương ? 4) VIỆC GIAO-THIỆP VỚI PHÁP DƯỚI TRIỀU TỰ-ĐỨC Nguyên do từ đời Minh-Mệnh dân theo đạo Gia-tô đã bị tàn sát rất nhiều. Qua đời Thiệu-Trị, chính-sách « bài đạo » cũng được tiếp tục thi hành làm dư luận sôi-nổi và thủy binh Pháp đã bắn phá Đà-nẵng thị uy hôm 14-4-1847 (Xem bài 26-27 quyển III). Sau khi Triệu-Trị chết, Tự-Đức lên ngôi lại cũng cho tàn sát dân công-giáo (xem bài 28 quyển III). Từ khi những giáo-sĩ Augustin Schoeffler, Bonard, Char bonnier, Matheron (Pháp), Diaz (Y-pha-nho) bị giết, các giáo-sĩ khác phải đào hầm trốn tránh. Báo chí bên Pháp ngày ngày thuật lại những thảm-trạng của tín-đồ Gia-tô ở Việt-nam, khiến lòng người náo động khắp Âu-châu. Và chính-phủ Pháp phải đứng ra can-thiệp. Montigny (Lãnh-sự Pháp tại Thượng-hải, đang ở Paris vào tháng 11 năm 1855) được cử sang công cán bên Tiêm la, thay mặt Pháp-hoàng (Napoléon III) ký thương-ước với nước ấy. Nhân tiện, Pháp-hoàng giao cho Montigny trách nhiệm ghé lại Việt-nam thu xếp việc « bài đạo » và, nếu có thể, cũng ký với Việt-nam một thương-ước thay Pháp hoàng. Nhưng vì bị lưu lại Tiêm-la lâu ngày, Montigny phái Le Lieur tới Việt-Nam trước, với chiến thuyền Catinat. Hôm 16 tháng 9 năm 1856, chiến thuyền Catinat tới Đà nẵng. Le Lieur đệ lên triều-đình Huế một bức thư của vị Khâm-mạng Pháp-hoàng trách Việt-nam về việc giết đạo. Le Lieur không thấy Việt-nam nói gì, mà lá thư của Montigny bị đặt trả lại trên bãi cát, còn giáp nguyên 9. Le Lieur cho thế là Việt-nam làm bỉ mặt Pháp-hoàng, hạ lệnh bắn phá các đồn lũy men bể (26-9-1856). Rồi cho 50 tên quân đổ bộ chiếm Đà-nẵng. Đến 23-1-1857, Montigny từ Tiêm-la mới cập vịnh Đà nẵng. Montigny đưa thư xin triều-đình Việt-nam cho người Pháp vào thông thương, đặt lãnh-sự ở Huế và cho các giáo sĩ đi truyền đạo tự do. Với nhóm quan lại « thủ cựu », tự hào, văn hay chữ tốt, tài giỏi hơn người, không thèm giao hảo với « bạch-quỷ » (chỉ người Âu-châu) man-di, triều-đình Huế nhất thiết không chịu nhận một điều nào của Montigny. Sau 15 ngày tranh luận cuộc thương-nghị Việt-Pháp bị cắt đứt. Montigny cho rút quân xuống tầu về Pháp, nhưng không quên để lại một tờ bá-cáo : « Nếu còn tàn-sát dân Công giáo, Việt-nam sẽ chịu trách-nhiệm về những sự phản ứng sau đây… » Thế là việc giao-thiệp Việt-Pháp đã gay go từ đây, càng gay go thêm. Xét qua thế cuộc hồi bấy giờ thì then-chốt của sự gay go này không phải là vấn-đề tôn-giáo, mà là quyền lợi kinh-tế. Các dân-tộc Âu-Mỹ, sau những cuộc khủng hoảng về chính-trị, đã đi đến chính-thể « Dân chủ », kỹ nghệ hóa, xây dựng một nền văn-minh vì khoa-học. Trên đường tiến, cuộc cách-mệnh kỹ-nghệ đã thúc đẩy sự sản-xuất mỗi ngày mỗi tăng gia. Do lẽ đó, Âu-Mỹ cần tìm thị-trường tiêu thụ sản-phẩm và khai tầm nguyên-liệu. Mà ngoài Âu-Mỹ còn thị-trường nào lợi hơn Đông-Á với số dân đông đúc lại chưa biết kỹ-nghệ là gì ? Âu-Mỹ bèn rủ nhau đem quân đội qua đàn áp Trung-hoa ; thế là quyền-lợi kinh-tế, bắt nguồn từ nền văn-minh kỹ-nghệ hóa, đã hướng dẫn Âu-Mỹ đến địa hạt « đế quốc » bằng sức mạnh. Bắt đầu, người Anh gây ra « nha-phiến chiến-tranh » 10 bắt hiếp Trung-hoa ký hòa-ước Giang-ninh năm 1842 cắt Hương cảng cho Anh và mở 5 cửa bể (Quảng-châu, Hạ- môn, Phúc-kiến, Ninh-ba, Thượng-hải) cho ngoại-quốc vào buôn bán. Tiếp sau, cả Anh Pháp tổ-chức liên-quân bắt Trung-hoa ký hòa-ước Thiên-tân hôm 26, 28 tháng 6 năm 1858 rồi đến hòa-ước Bắc-kinh năm 1860, mở nhiều thương-phủ cho Âu-Mỹ đi lại tự do, và đặt công-sứ hưởng quyền lãnh-sự tài-phán. Nhận thấy Trung-hoa chịu lép vế Âu-Mỹ, Nga bắt Trung-hoa ký hòa-ước Ái-quân xẻ một phần đất Hắc-long-giang cho Nga và để Nga thông thương ở Tân cương. Trong lúc thi đua xâu xé cái thị-trường vĩ-đại Trung-hoa, các nước Âu-Mỹ chen nhau tìm căn-cứ quân-sự ở chung quanh cho tiện đường lui tới, ngõ hầu bảo vệ kiều-dân và quyền lợi kinh-tế ở Trung-hoa. Anh đã chiếm được Ấn-độ và Mã-lai, để ý tới Diến-điện có sông Irraouddi thông nhập đất Trung-hoa 11. Nga dòm ngó Tây-bá-lợi-á. Nhật đặt tham vọng vào Triều-tiên và Mãn-châu. Tây-ban-nha có Phi-luật-tân, Bồ-đào-nha có Áo môn. Mỹ nhận phần mấy đảo Thái-bình-dương. Pháp thì đặc-biệt chú ý đến Việt-nam có sông Mékong 12 thông lên Trung-quốc. Thế cho nên trên đường ngoại-giao, Pháp cố tình gây sự, để kéo quân qua chinh-phục nước Việt-nam. 13 CHƯƠNG II : NHỮNG GIAI ĐOẠN CHINH PHỤC A) GIAI ĐOẠN THỨ I : PHÁP LẤY NAM-KỲ LÀM THUỘC ĐỊA 1) QUÂN PHÁP VÀ Y-PHA-NHO ĐÁNH ĐÀ-NẴNG Hôm 25-11-1857, Triều-đình Pháp ra lệnh cho hải-quân trung-tướng Rigault de Genouilly sang hải-phận Việt-nam phô trương lực-lượng (nghĩa là lệnh này ban ra sau khi Montigny về tới Paris được 10 tháng) 14. Song vì Pháp đang có chiến-tranh với Trung-hoa, Rigault de Genouilly phải hoãn việc ấy lại. Mãi tận 27 tháng 6 năm sau (1858), khi hòa-ước Thiên-tân ký xong giữa Trung Pháp 15, trung-tướng Rigault de Genouilly mới bắt tay vào việc Việt-nam. Hôm 31 tháng 8, Rigault de Genouilly đến cửa Đà-nẵng với 14 chiếc chiến thuyền và 3.000 quân cả Pháp lẫn Y-Pha nho. Ngày 1-9, trung-tướng hạ tối-hậu-thư ngang nhiên bắt Việt-nam phải giao thành trì cho Pháp. Không thấy Việt nam trả lời ra sao, trung-tướng hạ ngay lệnh bắn vào các đồn lũy. Được tin, triều-đình Huế sai Đào-Trí cùng tổng-đốc Nam-nghĩa là Trần-Hoằng vào kháng cự quân Pháp. Nhưng Đào-Trí, Trần-Hoằng vào tới nơi, thì quân Pháp đã đổ bộ, hạ mất hai thành là An-hải và Tôn-hải, rồi chiếm luôn Đà nẵng. Hữu quân Lê đình-Lý phải cấp tốc đưa 2.000 cấm binh vào án ngự. Chống nhau với Pháp một trận ở Cam-lệ, Lê đình-Lý bị đạn chết. Nguyễn tri-Phương vào cầm quân thay. Nguyễn tri-Phương cho lập đồn Liên-trì và đắp lũy dài từ Hải-châu đến Phúc-ninh, rải binh phòng giữ, kháng cự ráo riết, quân Pháp không dám tiến. Rigault de Genouilly không hiểu tình thế trong nước ra sao. Phần thì các Giáo-sĩ hứa hễ quân Pháp đến đánh Việt nam, dân theo Đạo bên trong sẽ nổi lên đánh giúp, mà nay không thấy tin tức gì. Rigault de Genouilly bèn sửa soạn rút quân vào Gia-định, vì đã dò xét biết Gia-định dễ đánh và trù-phú hơn. 2) QUÂN PHÁP LẤY GIA-ĐỊNH Giao một đạo quân cho Đại-tá Toyon ở lại giữ Đà-nẵng, trung-tướng Rigault de Genouilly kéo 2.000 quân vào Nam kỳ hôm 2-2-1859 (tháng giêng năm Kỷ-mùi), có mấy người dân Quảng-nam theo làm hướng-đạo. Sau khi đánh phá các pháo-đài ngoài cửa bể Vũng-tàu, và bắn chết được thống-chế Trần-Đồng, quân Pháp kéo vào cửa Cần-giờ hôm 11-2-1959, hạ các đồn dọc theo bờ sông Đồng-nai. Lúc quân Pháp tiến đến Nhà-bè, Cố-đạo Lefèbvre bị quan Việt-nam truy nã, trốn xuống tàu Pháp, chỉ vẽ đường lối, đồn trại cho Rigault de Genouilly tiến đánh Gia-định (Saigon). Sau hai ngày bị quân Pháp công phá, thành Gia định vỡ, quan Hộ-đốc Võ duy-Ninh tử trận. Quân Pháp và Y-pha-nho vào thành hôm 18-2-1959, lấy được 200 súng đại-bác, 8 vạn rưởi kilos thuốc súng và độ 18 vạn phật-lăng cả tiền lẫn bạc, thóc gạo thì không biết bao nhiêu mà kể. Trung-tướng Rigault de Genouilly cho đốt hết thóc gạo 16và san thành làm bình địa, chỉ để một cái đồn ở phía nam. Đoạn sai thủy-quân trung-tá Jauréguiberry với một đạo binh ở lại chống giữ với quân Tôn-thất Hiệp đóng tại Biên-hòa, trung-tướng Rigault de Genouilly trở ra Đà-nẵng. Tới Đà-nẵng, trung-tướng dẫn quân đánh đồn Phúc ninh. Quân Nguyễn tri-Phương thua, phải lui về Nại-hiên và Liên-trì. Nhân nhịp thắng trận, trung-tướng Rigault de Genouilly muốn cùng Việt-nam giảng hòa. Song Triều-đình Huế bàn tính giằng-giai, người muốn hòa, kẻ muốn đánh, lôi thôi mãi không xong. Quân Pháp ở Đà-nẵng rất khổ sở, nhiều người bị bệnh, Rigault de Genouilly cũng đau, phải xin về Pháp nghỉ. Chính-phủ Pháp cử Hải-quân thiếu-tướng Page sang thay Rigault de Genouilly, chủ trương việc giảng-hòa cho xong. Tháng 10 năm 1859 (năm Kỷ-mùi), thiếu tướng Page đến Đà-nẵng, đưa thư bàn hòa, cũng yêu sách như Montigny năm trước : « không đòi bồi thường binh-phí ; không lấy đất ; chỉ xin cho truyền Đạo tự-do, đặt lãnh-sự ở các cửa bể và sứ-thần ở Huế để trông coi việc buôn bán ». Triều-đình Huế vẫn chưa tỉnh ngộ trước võ-lực của Pháp, vẫn chưa hiểu gì về ngoại giao, nên việc lại không xong. May hồi này Pháp và Anh có chiến-tranh với Tàu ở mạn Hoàng-hải. Thiếu-tướng Page được lệnh rút quân ở Đà-nẵng đi theo trung-tướng Charner lên đánh Tàu, chỉ để lại một đạo cho Đại-tá D’Ariès giữ Gia-định. Thấy quân Pháp rút khỏi Đà-nẵng, Triều-đình Huế cho là Pháp đã núng thế trước sức mạnh của quân đội Việt-nam mà kéo đi, liền sai Nguyễn tri-Phương và Phạm thế-Hiển vào Nam-kỳ diệt trừ nốt toán quân D’Ariès (tháng 7 năm 1860). Nguyễn tri-Phương cùng Phạm thế-Hiển vào Nam đắp đồn Kỳ-hòa (tức Chí-hòa) để chống giữ quân Pháp. Quân D’Ariès có chừng 1.000, quân Nguyễn tri-Phương tới hơn một vạn. Đến khi chiến-tranh Trung-Pháp đã kết-liễu 17 trung tướng Charner đem cả 70 chiếc tầu và 3.500 bộ binh vào Gia-định phá đồn Kỳ-hòa. Quân đôi bên đánh nhau rất kịch liệt từ 24 đến 28-2-1861 : về bên Pháp, thiếu-tướng Vassoigne và đại-tá Y-pha-nho Palanca bị thương, binh sĩ chết hơn 300 người ; bên Việt-nam, Nguyễn tri-Phương bị thương 18, em ngài là Nguyễn-Duy tử trận, quan tham-tán Phạm thế-Hiển cũng chết, quân lính thiệt hại rất nhiều. Kết quả cuối cùng là quân Việt-nam chịu bỏ đồn Kỳ-hòa, chạy sang Biên-hòa. 3) QUÂN PHÁP LẤY ĐỊNH-TƯỜNG (MỸ-THO) Phá được đồn Kỳ-hòa rồi, trung-tướng Charner truyền cả thủy bộ quân chia làm 2 đạo : một mặt trung-tá Bourdais tiến theo sông đánh các đồn, một mặt thiếu tướng Page quanh đường bể vào cửa sông Mékong. Cả hai đạo ập vào Mỹ-tho. Quân Pháp tới Mỹ-tho hôm 12-4-1861 thì quan hộ-đốc Nguyễn công-Nhàn đã rút lui, bỏ thành trống không. Thấy đồn Kỳ-hòa và Mỹ-tho đều đã mất, triều-đình sai thượng-thư bộ-hộ Nguyễn bá-Nghi làm Khâm-sai đại-thần vào kinh-lý Nam-kỳ. Nguyễn bá-Nghi nhận thấy Việt-nam không thể đánh bại Pháp, dâng sớ xin giảng hòa. Nhưng trong triều, bọn Trương đăng-Quế không chịu. Vả chăng người Pháp lúc này cũng không để ý đến việc giảng hòa nữa, nhưng chăm lo tổ chức cách cai trị để giữ lấy đất đã chiếm vì Pháp bắt được một đạo dụ của vua Tự-Đức kêu gọi dân chúng Việt-nam nổi dậy kháng-chiến.19 Tháng 10 năm Tân-dậu (1861), chính-phủ Pháp cử Hải quân thiếu-tướng Bonard sang thay trung-tướng Chaner, chỉ huy quân đội, kiêm chức thống-đốc Nam-kỳ. Bonard qua tới Gia-định ngày 21-11-1861. 4) QUÂN PHÁP LẤY BIÊN-HÒA VÀ VĨNH-LONG Qua tới Gia-định được một tháng, thiếu-tướng Bonard thấy tại các vùng chung quanh Mỹ-tho, Gia-định quân đội Việt-nam vẫn thường thường hăng hái đột kích quân Pháp, Bonard bèn chia quân làm 3 đạo tiến theo 3 ngả đánh châu vào Biên-hòa. Hạ được thành Biên-hòa rồi, quân Pháp chiếm lấy cả đồn Bà-rịa vào cuối năm 1861. Tháng 3 năm sau (Nhâm-thìn, 1862) Bonard sai 11 chiếc tàu và hơn 1.000 quân đánh lấy Vĩnh-long (22-3-62) (Tổng-đốc Trương văn-Uyển kháng cự không nổi, rút quân về phía tây sông Mékong). Ò Ớ Ệ Ờ 5) HÒA ƯỚC 1862 NHÂM-TUẤT (VIỆT-NAM NHƯỜNG 3 TỈNH NAMKỲ CHO PHÁP) Việt-nam đã bị Pháp đánh lấy mất cả thảy 4 tỉnh (Gia định, Mỹ-tho, Biên-hòa, Vĩnh-long) mà ngoài Bắc-kỳ có nhiều giặc-giã 20, triều-đình Huế lấy làm lo sợ, bèn sai Phan thanh-Giản và Lâm duy-Tiếp vào Gia-định xin giảng hòa với Pháp. Sau 15 hôm thương-nghị (từ 26-4-1862 đến 9-5-1862) Thiếu-tướng Bonard đã dùng quân-sự cưỡng bách Sứ-thần Việt-nam Phan thanh-Giản và Lâm duy-Tiếp ký một tờ hòa ước có 12 khoản đại khái : - Nước Việt-nam phải để cho giáo-sĩ nước Pháp và Y pha-nho đi giảng đạo tự do, và để cho dân Việt-nam tự do theo đạo. - Nước Việt-nam nhường đứt cho Pháp 3 tỉnh Biên-hòa, Gia-định, Định-tường (Mỹ-tho) và đảo Côn-lôn chiến thuyền Pháp được tự do ra vào sông Mékong. - Nước Việt-nam không được đem binh khí thuốc đạn đi qua những tỉnh đã nhường cho Pháp. - Hễ nước Việt nam có giao thiệp với nước nào phải cho chính phủ Pháp biết, và khi nào muốn nhường đất cho nước nào phải tùy ý nước Pháp có thuận cho mới được. - Người Pháp và Y-pha-nho được ra vào buôn bán tự do ở cửa Đà-nẵng, cửa Ba-lạt và cửa bể Quảng-yên. - Nước Việt-nam phải chịu tiền binh phí cho nước Pháp 4.000.000 nguyên (20.000.000 phật lăng) giả làm 10 năm. - Nước Pháp trả lại cho Việt-nam tỉnh Vĩnh-long, nhưng quân Pháp cứ đóng ở tỉnh-lỵ cho đến khi nào dẹp yên giặc giã ở tỉnh Gia-định và Định-tường, mới rút đi… 21 Hòa-ước trên đây được Chính-phủ Pháp thông quá hôm 5-6-1862. Ngày 16-4-1863 (tháng 2 Quí-hợi), thiếu tướng Bonard và đại-tá Palanca vào Huế triều yết vua Tự-Đức để công nhận sự giảng hòa của 3 nước theo điều-ước trên đây. Đoạn thiếu tướng Bonard về Pháp nghỉ, Hải-quân thiếu tướng De la Grandière sang thay. 6) VIỆT-NAM VẬN-ĐỘNG CHUỘC LẠI 3 TỈNH ĐÃ NHƯỜNG Rất bất bình về những khoản khắt-khe của hòa-ước 5-6- 1862, vua Tự-Đức khiển trách sứ-thần Phan thanh-Giản, và bắt Phan thanh-Giản thương-lượng lại với Pháp. Cuộc vận-động ở trong nước không đưa kết quả gì lại. Tự-Đức sai Phan thanh-Giản cùng Tả-tham-tri bộ Lại Phạm phú-Thứ và Án-sát-sứ tỉnh Quảng-nam Nguyễn khắc-Đản sang vận-động tại Paris. Sứ-đoàn xuống tàu Écho vào Gia-định, rồi sang tàu « Européen » qua Pháp hôm 4-7-1863. Ngày 7-11-1863, sứ đoàn Việt-nam vào yết kiến Pháp hoàng (Napoléon III) tại điện Tuileries (có Aubaret làm thông-ngôn) để xin chuộc lại 3 tỉnh đã nhường. Pháp hoàng nói : « nước Pháp vẫn tỏ ra khoan-hồng với tất cả các dân tộc và lo bảo-hộ những kẻ yếu » 22, rồi hứa « sẽ giao việc ấy cho đình nghị để sửa lại hiệp-ước 1862 ». Tin là sẽ được như ý, sứ-đoàn Việt-nam sang Y-pha-nho, rồi cuối năm, xuống tàu « Japon » về nước. 7) CHUỘC 3 TỈNH ĐÃ NHƯỜNG KHÔNG ĐƯỢC LẠI MẤT THÊM 3 TỈNH NỮA Một số chính-khách và thủy-sư đô-đốc Bonard tỏ ý muốn cho Việt-nam chuộc lại 3 tỉnh theo lời yêu cầu của Sứ-đoàn Phan thanh-Giản. Pháp hoàng thì thấy đường xá xa xôi cũng ngại, không muốn giữ. Pháp đình bèn sai trung tá Aubaret sang điều-đình với triều-đình Huế cho chuộc. Tự-Đức cử Phan thanh-Giản, Trần tiễn-Thành và Phan huy-Vịnh 23 hội thương với Sứ-thần Pháp. Aubaret đưa bản thảo Hòa-ước đại lược nói : « Nước Pháp sẽ trả lại 3 tỉnh Gia-định, Biên-hòa và Mỹ-tho cho Việt-nam, chỉ giữ Sài-gòn, Mỹ-tho (tỉnh-lỵ), Thủ-dầu-một để đóng quân. Nhưng nước Việt-nam phải để nước Pháp bảo-hộ cả 6 tỉnh Nam-kỳ. Việt-nam lại phải chịu mỗi năm 2.000.000 nguyên tiền thuế ». Hôm 15-7-1862, Sứ-thần hai nước đã đi đến chỗ thỏa thuận ở Huế, thì tại Paris, quan thượng-thư hải-quân-bộ là hầu-tước Chasseloup Laubat 24 dâng sớ xin Pháp-hoàng nhất định không cho Việt-nam chuộc lại 3 tỉnh đã nhường cho Pháp, Pháp hoàng đổi ngay ý kiến, xuống chỉ chuyền cho De La Grandière cứ chiếu tờ hòa ước 1862 mà thi hành. Thấy Pháp không chịu cho chuộc lại 3 tỉnh đã mất, triều-đình sai Phan thanh-Giản vào làm Kinh-lược trấn nhậm Vĩnh-long để tìm kế phòng giữ những tỉnh còn lại (tháng 1 năm 1866). Trong lúc này, bên Pháp, trung-tướng Rigault de Genouilly lên giữ Bộ Hải-quân, coi cả thuộc-địa, muốn giúp De La Grandière mở rộng phạm-vi quân sự ở Nam-kỳ. Trung-tướng Des Varannes, bởi vậy, được Pháp hoàng cử sang điều tra tình hình Việt-nam. Khi Des Varannes giở về tới Paris, De La Grandière tại Gia-định nhận ngay được lệnh chuẩn bị để tấn công 3 tỉnh miền tây Nam-kỳ. De La Grandière sai trung-tướng Monet de la Morek ra Huế yêu cầu triều-đình Huế nhường nốt cho Pháp 3 tỉnh còn lại để tránh chiến-tranh. Lẽ cố nhiên triều-đình Huế từ chối, còn phản kháng thái-độ « được đằng chân lân đằng đầu » của Pháp. De La Grandière lập tức hội quân tại Mỹ-tho định ngày đánh Vĩnh-long, An-giang và Hà-tiên. Lúc mới vào tới Nam, Phan thanh-Giản biết là Pháp sẽ đánh nữa, mà Việt-nam không đủ sức chống cự, đã dâng sớ xin từ chức. Tự-Đức không cho, còn quở trách. Nay thấy tình thế nguy ngập đến nơi, Phan thanh-Giản bảo các quan chịu nộp thành-trì cho Pháp, tránh sự tai hại cho dân. Rồi tuyệt thực, sau khi giao di-sớ, triều-phục, ấn, 23 đạo sắc cho tàu Mân-thỏa đưa về Kinh 25 và dặn con cháu cày ruộng mà ăn, không được nhận chức tước gì của Pháp. Tuyệt thực đã 7 ngày chưa chết, cụ bèn dùng thuốc độc để kết liễu tính mệnh. 26 Từ đấy (tháng 8 năm 1867) toàn đất Nam-kỳ thuộc về Pháp. 8) GIẶC GIÃ Ở TRONG NƯỚC Trong đời Tự-Đức, nhiều giặc giã hơn các đời trước. Có người tưởng nhớ đến nhà Lê mà làm loạn, mong khôi phục nhà Lê. Có người mạo nhận là dòng dõi nhà Lê để khởi binh. Có kẻ vì theo đạo thấy triều-đình tàn-sát dân công-giáo, mà lập đảng chống lại vua quan. Lại bên Tàu có giặc Thái-bình thiên-quốc. Nhà Thanh dẹp yên thì dư đảng tràn qua Việt nam, cướp phá mạn thượng-du.27 Ngoài sự giặc giã tàn hại, dân chúng còn bị nước lụt hoành hành : Đê Văn-giang ở Hưng-yên 18 năm vỡ liền. Ấy là nguyên nhân gây thế-lực cho giặc mỗi ngày mỗi mạnh thêm, và lại cũng là nguyên nhân làm cho triều-đình bận rộn, yếu thế trước sức xâm lăng của ngoại quốc. Năm 1851, giặc Tam Đường đánh phá Thái-nguyên.28 Năm 1854, Lê duy-Cự có Cao bá-Quát giúp, dấy binh ở Sơn-tây.29 Năm 1861, quân Pháp và Y-pha-nho sang đánh Đà nẵng, có mấy người theo vào làm lính mộ. Trong bọn ấy có tên Tạ văn-Phụng (có nơi chép Lê-Phụng), trước đã theo giáo-sĩ ra ngoại quốc học đạo, sau lại theo trung-tướng Charner về đánh Đà-nẵng. Đến tháng chạp, tên Phụng ra Bắc-kỳ mạo xưng là Lê duy-Minh dòng dõi nhà Lê, dấy binh ở Quảng-yên cùng đồ đảng tên Ước, tên Đỗ, có Đạo-trưởng tên là Trương làm mưu-chủ. Năm 1862 (tháng 3 năm Nhâm-tuất) ở Bắc-ninh có tên Nguyễn văn-Thịnh tức Cai-tổng Vàng xưng Nguyên-súy, lập tên Uẩn làm minh-chủ, cũng mạo xưng con cháu nhà Lê, rồi nhập đảng tên Phụng, chia binh đánh phủ Lạng-giang, huyện Yên-dũng, vây thành Bắc-ninh, phá Hải-dương. Triều-đình phải tốn công dẹp giặc ngoài Bắc, từ 1861 đến 1866 mới tạm yên, thì lại có việc nội biến tại Kinh thành. Nguyễn hồng-Bảo (anh vua Tự-Đức) không được làm vua đã mưu khởi loạn, không thành, bị bắt giam, rồi phải uống thuốc độc mà chết 30. Con Hồng-Bảo được tha, nhưng phải đổi tên là Đinh-đạo. Nhân năm 1866, nhà vua cho xây Vạn-niên-cơ (tức Khâm-lăng bây giờ), bắt quân sĩ làm lụng khổ sở ; nhiều người oán giận. Tên Đoàn-Trung, cùng với em là Đoàn hữu-Ái, Đoàn tư-Trực và bọn Trương trọng-Hòa, Phạm-Lương, kết làm « Sơn-đông thi tửu hội » mưu lập Đinh Đạo lên ngôi thông tư với lính ở Vạn-niên-cơ, có quan Hữu-quân Tôn-thất-Cúc làm nội ứng. Đến hôm mồng 8 tháng 8, bọn này đem quân vào cửa tả-dịch, định xông vào điện giết vua Tự-Đức. May nhờ quan Chưởng-Vệ là Hồ Oai đóng kịp cửa điện lại, hô quân bắt được cả bọn phản nghịch. Đinh-bảo bị tội giảo, Tôn-thất-Cúc tự tử. Ở mặt Quảng-nam lại có giặc mọi Đa-Vách quấy nhiễu. Ngoài Bắc, giặc khách vẫn mạnh. Dư đảng của « Thái-bình » là Ngô-Côn chiếm giữ thành Cao-bằng năm 1868. Năm 1869 cả quân ta lẫn quân Thanh hiệp lực mới đánh lấy lại được Cao-bằng. Nhưng năm 1870, Ngô-Côn lại đem quân vây Bắc-ninh. Nhờ quan Tiêu-phủ Ông ích-Khiêm bắn chết được Ngô-Côn, giặc ấy mới tan. Tuy nhiên đồ đảng của Ngô-Côn là bọn Hoàng sùng-Anh (hiệu cờ vàng) Lưu vĩnh-Phúc (hiệu cờ đen), Bàn văn-Nhị, Lương văn-Lợi (hiệu cờ trắng) vẫn cứ quấy nhiễu ở mạn Tuyên-quang, Thái-nguyên. Lại thêm bọn Tô Tú nổi lên giữ thành Lạng-sơn, bọn Hoàng Tề phá Quảng yên. Giặc giã khắp nơi, Triều-đình đánh dẹp mãi, tổn hại vô cùng, vẫn không yên. Khi đảng Cờ-đen (Lưu vĩnh-Phúc) và bọn Cờ-vàng (Hoàng sùng-Anh) trở nên thù nghịch lẫn nhau, đảng Cờ đen về hàng với quan ta, được nhà vua cho ở Laokay thu quyền lợi vùng ấy, để chống giữ với Cờ-vàng ở Hà-giang. Năm 1872, nhà vua sai Nguyễn tri-Phương làm Tuyên sát đổng-sức đại-thần ra Bắc-kỳ tính kế trừ loạn. Nhưng loạn chưa trừ xong, thì sự giao-thiệp với nước Pháp đã sinh ra lắm mối khó khăn : dậu đổ bìm bìm leo ! B) GIAI ĐOẠN THỨ II : ĐÃ VỮNG CHÂN Ở NAM PHÁP RA ĐÁNH BẮC 1) JEAN DUPUIS GÂY HẤN Lấy xong Nam-kỳ, Pháp cho người dò đường để mở mang thương mại. Năm 1866, thiếu-tướng De La Grandière sai trung-tá Doudard de Lagrée cùng với đại-úy Francis Garnier (ta gọi là Ngạc-nhĩ) và mấy người Pháp nữa, theo sông Mékong tìm đường giao-thông với miền nam Trung-hoa. Năm 1868 (non hai năm sau) Doudard de Lagrée mới sang đến Vân-nam. Chẳng may bị bệnh chết, thi-hài Doudard de Lagrée được bọn Francis Garnier đem xuyên qua lục-địa Trung-hoa, xuống tàu thủy về Saigon. Năm 1870 xẩy ra chiến-tranh Pháp-Phổ. Pháp thua. Vua Napoléon III bị bắt ; nước Pháp lập nền « Dân Chủ Cộng Hòa ». Mặc dầu tình thế bên Pháp, quân Pháp ở Viễn-đông vẫn giữ vững Nam-kỳ. Vả chăng Triều-đình Huế bận dẹp giặc giã ở Bắc-kỳ cũng không sinh sự lôi thôi với Pháp. Thủa ấy có Jean Dupuis (Đồ-phổ-nghĩa) đi buôn bán ở bên Tàu. Jean Dupuis nhận bán khí giới cho quan tỉnh Vân nam, nhưng chưa biết chuyển vận bằng đường nào cho tiện. Đi đường bộ thì xuyên sơn hiểm trở, ngựa không tải được khí cụ nặng nề. May có Francis Garnier (người kế tiếp công cuộc thám-hiểm Doudard de Lagrée) nói cho Jean Dupuis biết sông Hồng-hà có thể là đường giao-thông tiện lợi nhất. Vào tháng 2 năm 1871, Jean Dupuis liền xuống Vân-nam, Mongtseu, Manhao : Từ đấy, xuôi dòng Hồng-hà (Nhị-Hà) ghé Laokay gặp Lưu vĩnh-Phúc (tướng cờ đen), rồi xuống tận Yên-báy. Từ Yên-báy xuống bể, Jean Dupuis tin chắc là sự đi lại theo Hồng-hà sẽ rất dễ dàng, nên Dupuis quay lên bàn cùng bạn là Millot buôn bán ở Thượng-hải, đoạn về Pháp mua hàng. Trở sang Saigon, Jean Dupuis xin Súy-phủ giúp thanh thế để tải hàng qua Bắc-kỳ. Thống-đốc Nam-kỳ lúc bấy giờ là lục-quân thiếu-tướng D’Arhaud, hứa cho tàu Bourayne ra Bắc bảo vệ Jean Dupuis. Ngày 26-10-1872, Jean Dupuis sang Hương-cảng cùng Millot đem 3 chiếc tầu Hồng-giang, Lao-kay và Sơn-tây chở binh khí cùng hàng hóa khác vào Quảng-yên. Trong lúc ấy Hải-quân Trung-tá Sénès từ Nam-kỳ đã đem tàu Bourayne đến vịnh Bắc-kỳ, qua Hải-dương, Hà-nội, lên đậu ở Bắc ninh. Được tin Dupuis đã chở hàng đến Quảng-yên, Sénès rời Bắc-ninh xuống bàn cùng quan Khâm-sai Lê-Tuấn về việc mở sông Hồng-hà cho thông thương. Lê-Tuấn không dám tự tiện cho phép, nói đợi vài mươi hôm có lệnh vua sẽ hay. Jean Dupuis và Millot, đợi lâu không thấy có lệnh ở Huế ra, lại nghe tin Việt-nam đang cho xây nhiều đập để ngăn cản sự giao thông trên dòng sông, bèn cứ đem tầu lên đậu ở Hà-nội, hôm 22-12-1872, rồi thuê thuyền chở đồ lên Vân nam. Thuyền của Jean Dupuis đi qua các đồn quan ta, Cờ vàng, Cờ-đen đều được vô sự. Khi lên đến Vân-nam, quan nhà Thanh cho chở đồ khoáng-vật xuống. Hôm 30-4-1873, Jean Dupuis và Millot lại trở về đến Hà-nội, đem theo một bọn lính Cờ-vàng. Millot vào ngay Sài-gòn nói cho Súy-phủ biết tình hình ở Bắc-kỳ, và nhân thể đem đồ khoáng-vật sang bán bên Hương-cảng. Còn Jean Dupuis ở lại Hà-nội (đóng tại Phố Mới) cùng mấy người khách là Bành lợi-Ký, Quan tá-Đình mua muối đưa lên Vân-nam. Luật Việt-nam bấy giờ cấm không cho bán muối sang Tầu, mà việc thông thương trên sông Hồng-hà cũng chưa định rõ ra sao, nhưng Jean Dupuis tự xưng là có lệnh của quan Tầu, không cần theo luật nước Việt-nam là nước chư hầu của Tầu. Quan ta, sợ có bất hòa với Súy-phủ Sài-gòn, phải dùng lời ôn hòa giảng giải can ngăn Jean Dupuis, lại nhờ cả giám mục Puginier ở Kẻ-sở nói giúp cũng không được. Bất đắc dĩ, quan ta bắt mấy tên khách Bành lợi-Ký và Quan tá-Đình về tội tải muối lên Vân-nam. Jean Dupuis hung-hăng đem người bắt quan Phòng-thành Hà-nội và quan huyện Thọ xương giam lại dưới thuyền. Quan ta không biết tính sao ? Jean Dupuis cố tình gây sự, mà mệnh Vua ra không được lôi thôi điều gì ! Triều-đình sai quan Hữu-tham-tri bộ Binh là Phan đình Bình làm Khâm-phái ra giao trách-nhiệm cho ông Nguyễn tri-Phương phải thu xếp cho yên chuyện. Nguyễn tri-Phương mời Jean Dupuis đến hội quán Quảng-đông thương-nghị. Khi hai bên hội diện, quan ta nói : « sự giao-thiệp Việt-Pháp đã có hòa-ước 1862. Sự đưa muối lên Vân-nam đã trái với hòa-ước ấy, lại trái với cả luật nước Việt-nam nữa ». Jean Dupuis cãi rằng : « có lệnh của quan Tầu là đủ, không cần xin phép gì nữa », rồi đứng dậy ra về. Triều-đình Huế thấy việc lôi thôi mãi, mới sai Lê-Tuấn, Nguyễn văn-Tường và Nguyễn tăng-Doãn vào sứ Sài-gòn, nhờ Súy-phủ bắt Jean Dupuis rời khỏi Bắc-kỳ nhân thể thương-nghị về việc ba tỉnh phía tây Nam-kỳ. 2) PHÁP CÓ CƠ HỘI DẪN QUÂN RA BẮC Thống-đốc Nam-kỳ hồi này là Hải-quân thiếu-tướng Dupré vốn có ý lấy Bắc-kỳ. Trước đã viết thư cho viên thượng-thư thuộc địa ở Paris rằng : « Đất Bắc-kỳ tiếp giáp với Hoa-nam. Ta giữ lấy, thì sự cai-trị của ta ở Viễn-đông này mới chắc chắn ». Vì mới có chiến-tranh với Phổ, bên Pháp không muốn gây chuyện hao người tốn của ở Việt-nam, mà giả lời Dupré : « không được sinh sự ở Bắc-kỳ ». Nhưng khi Millot (xem đoạn trên – Jean Dupuis gây hấn) vào đến Saigon, kể công việc Bắc-kỳ, thiếu-tướng Dupré lại điện về Paris : « việc Jean Dupuis ở Bắc-kỳ đã thành công. Cần phải lấy Bắc-kỳ mở đường sang Tàu. Không cần phải viện binh, thành công chắc-chắn ». Ngày hôm ấy, thiếu tướng Dupré viết thêm một lá thư nói rõ lẽ, và xin Chính phủ cho thiếu-tướng được tự-tiện, nếu có việc gì, thiếu tướng xin chịu lỗi. Nhận thấy triều-đình Huế sai Sứ vào nhờ điều-đình cho yên việc Jean Dupuis, Dupré gọi ngay Hải-quân đại-úy Francis Garnier ở Thượng-hải về, dẫn quân ra Hà-nội, ngoài mặt nói là ra phân xử việc J. Dupuis, trong lòng định kế lấy Bắc-kỳ. Đến Hải-phòng, Francis Garnier tiến vào ở Kẻ-sặt, báo tin cho Jean Dupuis biết. Jean Dupuis đem tàu Manhao xuống đón F. Garnier lên Hà-nội. Francis Garnier đem mấy người ra mắt Nguyễn tri-Phương và đòi đóng quân ở trong thành (giám-mục Puginier ở Kẻ-sở làm thông-ngôn). Quan ta nói mãi Francis Garnier mới thuận đóng quân ở Trường thi ; rồi hiểu dụ cho dân biết : « bản-chức ra Bắc-kỳ cốt dẹp giặc, và mở mang sự buôn bán ». 3) QUÂN PHÁP HẠ THÀNH HÀ-NỘI NĂM 1873 (QUÍ DẬU) Quan ta thấy Francis Garnier không nói gì đến việc Jean Dupuis, lại trắng-trợn tuyên bố : « Mở rộng sông Hồng-hà cho ngoại quốc ra vào buôn bán », kế thấy quân đội ở Sài gòn kéo ra tiếp thêm, mới hiểu dã tâm của Pháp muốn nhân cơ hội xâm lăng đất Bắc. Nhưng biết ra thì sự đã rồi, tìm cách phòng bị cũng không kịp. Vào đầu tháng mười, tự-nhiên Francis Garnier gửi thư cho Nguyễn tri-Phương : « trách Việt-nam làm ngăn trở công việc của Jean Dupuis. Vì quyền lợi của người Pháp, Súy-phủ Sài-gòn sai ông ra mở mang việc thương mãi. Quan Việt-nam thuận hay không cũng mặc ». Thế rồi hôm 5-11-1873, Francis Garnier gửi tối-hậu-thư bắt quân ta giải giáp. Không được như ý, 15 hôm sau, quân Pháp bắn vào thành Hà-nội. Nguyễn tri-Phương bị thương 31, con là Phò-mã Nguyễn-Lâm trúng đạn chết. Hà- thành thất-thủ ngay hôm ấy. Ngoài các tỉnh, quan lính Việt nam, đâu đấy nghe tin Pháp đến là trốn tránh. Cho nên với một số quân không đáng kể, bọn Francis Garnier, De Trentinian, Balny d’Avricourt, trong 20 ngày, chiếm được cả Ninh-bình, Phủ-lý và Nam-định. 4) ĐẠI-ÚY FRANCIS GARNIER CHẾT Được tin Pháp đã hạ thành Thăng-long, triều-đình Huế vội vàng sai ông Trần đình-Túc, Nguyễn trọng-Hiệp, Trương gia-Hội cùng giám-mục Bohier (cố Bình) và linh-mục Dangelzer (cố Đăng) ra Hà-nội để điều-đình với Francis Garnier. Lại sai ông Lê-Tuấn làm toàn-quyền và Nguyễn văn-Tường làm phó vào thương-thuyết với Súy-phủ Saigon. Đồng thời cử Hoàng kế-Viêm ở Sơn tây làm tiết-chế quân vụ phòng giữ các nơi. Hoàng kế-Viêm gọi đảng Cờ-đen (Lưu vĩnh-Phúc) về giúp. Lưu vĩnh-Phúc được vua phong làm đề-đốc kéo quân về đóng ở Hoài-đức. Trong khi Trần đình-Túc và Nguyễn trọng-Hiệp đang thương thuyết với Francis Garnier, Lưu vĩnh-Phúc, ngoài Hoài-đức, khiêu chiến với quân Pháp. Francis Garnier đem binh ra Hoài-đức, sục sạo mấy làng, bị Cờ-đen phục kích gần Cầu-giấy, bắt được giết đi. 32 Được Sứ-thần Việt-nam vào báo cho biết Françis Garnier đã đánh Hà-nội, thiếu-tướng Dupré sai Philastre (Hoắc-đạo sinh) hải-quân đại-úy kiêm chức thống-soái việc hình-luật ở Nam-kỳ, cùng Phó-sứ Việt-nam Nguyễn văn-Tường đi chiếc tàu « D’Estreés » ra Bắc dàn-xếp mở đường cho một hòa ước Pháp-Việt lần thứ 2. Ra đến cửa Cấm, Philastre và Nguyễn văn-Tường được tin Francis Garnier bị giết. Philastre định giở về Nam, nhưng Nguyễn văn-Tường nói khéo, Philastre mới chịu tiếp tục việc điều-đình. Lên đến Hải-dương, nghe lời Nguyễn văn-Tường, Philastre truyền quân Pháp giả lại thành cho Việt-nam. Tới Hà-nội, Philastre ra lệnh giả nốt những thành khác, còn quân đội Pháp phải rút cả về Hà-nội, để xuống Hải-phòng, vào Nam (năm 1874). Jean Dupuis thấy Philastre làm hỏng việc của ông ta và Francis Garnier đã gây nên, liền vào Sài-gòn đòi tiền phí-tổn một triệu nguyên. 5) HÒA-ƯỚC 15-3-1874 NĂM GIÁP-TUẤT (DỌN ĐƯỜNG CHO CUỘC BẢO-HỘ TRUNG, BẮC-KỲ SAU NÀY) Thu xếp xong mọi việc ở Bắc-kỳ rồi, Súy-phủ Sài-gòn sai Rheinard (Lê Na) ra thay Philastre, để Philastre và Nguyễn văn-Tường giở vào Nam, định sự hòa-ước cho kịp ngày thiếu-tướng Dupré về Pháp. Hôm 15-3-1874 (ngày 27 tháng giêng năm Giáp-tuất) thiếu-tướng Dupré và 2 ông Lê-Tuấn, Nguyễn văn-Tường ký một tờ hòa-ước có 22 khoản, đại lược có những khoản này quan trọng : « Khoản II : Quan Thống-lĩnh nước Pháp nhận quyền độc-lập của nước Việt-nam không phải thần phục nước nào nữa, và khi nào Việt-nam cần đến gì để đánh giặc thì nước Pháp sẵn lòng giúp mà không yêu cầu điều gì. « Khoản III : Nước Việt-nam phải đoan nhận y theo chính-lược ngoại-giao của nước Pháp, và chính lược ngoại giao hiện lúc bây giờ thế nào phải để nguyên như thế, không được đổi khác đi. Quan Thống-lĩnh nước Pháp lại tặng vua Việt-nam 5 chiếc tàu có đủ máy móc súng ống ; 100 khẩu súng đại-bác và mỗi khẩu có 200 viên đạn ; 1.000 khẩu súng tay và 5.000 viên đạn. « Khoản IV : Quan Thống-lĩnh nước Pháp hứa cho quan binh sang giúp vua nước Việt-nam, dạy tập lính thủy, lính bộ ; cho những kỹ-sư sang dạy làm mọi việc, và cho những người giỏi việc tài-chính sang tổ-chức việc thuế má và việc thương-chính, v.v… « Khoản V : Vua Việt-nam phải thuận nhường đứt đất 6 tỉnh Nam-kỳ cho Pháp. 33 « Khoản IX : Vua Việt-nam phải để cho giáo-sĩ đi giảng đạo tự do, và để cho dân trong nước được tự do theo đạo. « Khoản XI : Vua Việt-nam phải mở cửa Thi-nại (Qui nhân), cửa Ninh-hải (Hải-phòng), thành Hà-nội và sông Hồng-hà cho ngoại quốc vào buôn bán. « Khoản XIII : Nước Pháp được quyền đặt lãnh-sự ở các cửa bể và các thành-thị đã mở ra cho ngoại quốc buôn bán. « Khoản XV : Người nước Pháp hay người ngoại quốc có điều gì kiện tụng tại đất Việt-nam, đều do lãnh-sự Pháp phân xử. « Khoản XX : Khi nào tờ hòa-ước này ký xong quan Thống-lĩnh nước Pháp đặt Sứ-thần ở Huế, để chiếu những điều đã giao ước mà thi hành. Vua nước Việt-nam cũng được quyền đặt Sứ-thần ở Paris và ở Saigon ». Hòa-ước trên đây ký xong thì quan Chánh-sứ Lê-Tuấn mất, Nguyễn văn-Tường về Huế. Thiếu-tướng Dupré về Pháp, giao việc cho Hải-quân thiếu-tướng Krantz quyền lĩnh. Tháng 6, triều-đình Huế sai Hình-bộ thượng-thư Nguyễn văn-Tường và Lại-bộ thị-lang Nguyễn tăng-Doãn vào Sài gòn cùng thiếu-tướng Krantz định các lệ về sự buôn bán. 20 tháng 7, một thương-ước được lập xong. Qua năm sau (1875), chính-phủ Pháp cử Rheinart làm Khâm-sứ ở Huế. De Kergaradec và Turc làm Lãnh-sự ở Hanoi và Haiphong. Ở Huế được 1 năm, Rheinart cáo bệnh về Pháp (1876), Philastre qua thay. C) GIAI ĐOẠN THỨ III : THÀNH LẬP CUỘC BẢO HỘ BẮC KỲ VÀ TRUNG-KỲ 1) PHÁP TÌM CỚ ĐÁNH BẮC-KỲ LẦN THỨ 2 Giặc giã đã dẹp yên. Việc cai-trị Nam-kỳ đã ổn định. Người Pháp để ý đến việc lập cuộc bảo-hộ Bắc-kỳ. Nhân có những người I-ta-li, Y-pha-nho, Anh-cát-lợi và Hoa-kỳ muốn thông thương với Việt-nam, mà lại không chịu cho Pháp phân sử những việc liên can tới người các nước ấy, nước Pháp càng quyết định lập cuộc bảo-hộ Bắc-kỳ cho mau, mới sai quan văn sang sung chức thống-đốc Nam-kỳ để trù tính công việc. Ông Le Myre de Vilers được cử sang Sài-gòn hôm 14-5-1879 và ông Rheinart sang giữ chức Khâm-sứ Huế thay ông Philastre. Việc giao-thiệp Pháp Việt bắt đầu lại gay go ! Năm 1881, triều-đình Huế cho Lễ-bộ thị-lang là Phan Bình đem 12 đứa trẻ đi học trường Anh-cát-lợi ở Hương cảng, lại sai Sứ sang Tàu và Tiêm-la nữa, mà không cho Sứ thần Pháp biết. Quan Pháp vin vào mấy việc ấy, trách triều đình Việt-nam không theo hòa-ước 1874. Và soạn sửa tìm thêm cớ để gây sự ! Nhân có hai người Pháp là Courtin và Villeroi được giấy thông hành lên Vân-nam (cuối năm Tân tỵ) nhưng tới Laokay bị quân khách làm ngăn trở, không đi được, thống-đốc Le Myre de Vilers liền vin vào cớ ấy để gây sự : - Một mặt viết thư vào Huế nói : « đất Bắc-kỳ loạn lạc, luật nhà vua không ai theo. Người nước Pháp có giấy thông hành của quan Việt-nam cấp mà đi đến đâu cũng bị quân khách ngăn trở. Ở Huế thì quan Việt-nam thất lễ với quan Khâm-sứ Rheinart. Vậy nước Pháp phải dụng binh bênh vực quyền lợi của người Pháp ». - Một mặt sai đại-tá Henri Rivière đem 2 chiếc tàu và 400 quân ra Hải-phòng, lên Hà-nội đóng tại Đồn-thủy. Ngoài ra, Le Myre de Vilers còn điện về Pháp : « trước sự suy-nhược của triều-đình Việt-nam và thái-độ ngang-ngạnh của quân Cờ-đen, tôi thiết tưởng cần tăng trưởng võ lực ở Hà-nội. Có lẽ không cần đến chiến-tranh, và cũng không cần ngân sách nữa ». 2) HÀ-NỘI THẤT THỦ LẦN THỨ II Henri Rivière kéo quân ra tới Hà-nội, hôm 2-4-1882. Quan tổng-đốc Hà-nội là Hoàng-Diệu thấy quân Pháp tự nhiên ra Bắc-kỳ – tuy sai quan tuần-phủ là Hoàng hữu Xứng tiếp đãi tử tế – trong lòng nghi kỵ nên ra lệnh sửa sang thành trì để phòng bị sự bất trắc. Rồi cùng các quan án-sát-sứ Tôn-thất Bá, bố-chính Phan văn-Tuyển, tuần-phủ Hoàng hữu-Xứng, đề-đốc Lê văn-Trinh… uống máu thề quyết giữ thành nếu xẩy ra chiến-tranh. Quả nhiên tổng-đốc Hoàng-Diệu dự đoán đã không sai ! Hôm 25-4-1883, 5 giờ sáng, Henri Rivière đột nhiên hạ tối-hậu-thư hẹn đến 8 giờ, Việt-nam phải giải binh giao thành, và các võ quan phải ra đợi lệnh ở Đồn-thủy. Nghe lời Án-sát-sứ Tôn-thất Bá, tổng-đốc Hoàng-Diệu sai Tôn-thất Bá bỏ thang trèo xuống đất (vì cửa thành đã đắp ụ chắn lối ra vào) đi thương thuyết với Pháp. Đúng 8 giờ đã hẹn trong tối-hậu-thư, Pháp xả súng vào thành. Các cửa thành đã đổ sụp, mà Hoàng Diệu chẳng thấy Tôn-thất Bá đưa tin tức gì về, vì không ngờ Tôn-thất Bá xuống đến đất rồi, thì chạy thẳng ra nằm ngoài Ngọc-sơn, chứ không tìm Pháp để điều đình. Các quan bỏ trốn hết, lại có người làm phản đốt kho thuốc đạn. Hoàng-Diệu liền về Dinh viết tờ di-biểu « quyết chết theo thành », xong đến Võ-miếu thắt cổ tự tử.34 Được tin Hà-nội đã thất-thủ, triều-đình ra lệnh cho Kinh lược Chánh-phó-sứ là Nguyễn Chính và Bùi ân-Niên lui binh về mặt Mỹ-đức để cùng Hoàng kế-Viêm tìm cách chống giữ. Nhưng viên Khâm-sứ Rheinart nói : « nước Pháp không chủ tâm lấy thành Hà-nội ; xin vua quan ra giữ lấy thành » ; triều-đình bèn sai nguyên Hà-ninh tổng-đốc Trần đình-Túc làm Khâm-sai đại-thần, quan Tĩnh-biên phó-sứ Nguyễn hữu-Độ làm phó-khâm-sai, ra Hà-nội nhận lại thành. Đại-tá Henri Rivière trả thành cho quan ta, nhưng vẫn đóng quân ở trong hành-cung và đòi 4 khoản : - Nước Việt-nam phải nhận nước Pháp bảo-hộ. - Phải nhường thành-thị Hà-nội cho nước Pháp. - Đặt thương-chính ở Bắc-kỳ. - Sửa lại việc thương-chính ở các nơi và giao quyền cho người Pháp cai quản. Triều-đình Huế không chịu nhận những điều-kiện của Henri Rivière. Nhiều người nói bên trong có Lưu vĩnh-Phúc ngoài còn có nước Tàu, sợ gì mà bó tay. Tháng 10, Trần đình-Túc về Huế, Nguyễn hữu-Độ ở lại làm Hà-ninh tổng-đốc. 3) VIỆC CẦU CỨU VỚI TÀU Triều-đình Việt-nam vẫn tưởng nước Tàu mạnh lắm, nên thấy Pháp có ý chiếm đất Bắc-kỳ, liền sai Phạm thận-Duật sang Thiên-tân cầu cứu. Có ngờ đâu Tàu tự giữ lấy mình còn chưa đủ lực (xem cước-chú trên Chương II), giúp sao được Việt-nam nữa. Vả chăng nước Tàu từ thượng cổ, lúc nào cũng có ý muốn lấy nước Việt-nam, chứ có khi nào thật tâm giúp đỡ Việt-nam đâu. Chả thế, mới thấy Pháp lấy thành Hà-nội, tổng-đốc lưỡng Quảng là Trương thụ-Thanh làm ngay mật sớ tâu vua nhà Thanh rằng : « nước Việt-nam và nước Tàu tiếp giáp với nhau, mà thế lực Việt-nam hiện rất suy hèn, không thể tự chủ được nữa. Vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc mà đóng quân giữ lấy mấy tỉnh thượng-du. Đợi khi có biến, ta chiếm lấy những tỉnh ở về phía bắc sông Hồng-hà ». Bởi vậy triều-đình Thanh mới nhân dịp Việt-nam cầu cứu, sai bọn Tạ kính-Bửu, Đường cảnh-Tùng kéo quân qua đóng ở Bắc-ninh và Sơn-tây ; sau lại sai Bố-chánh Quảng tây là Từ diên-Húc đem binh sang tiếp ứng. Pháp thấy triều-đình Việt-nam không nhận những điều kiện giảng hòa do Henri Rivière đưa ra, mà quân Tàu lại kéo sang đóng ở các tỉnh, lập tức phái thêm 750 quân ra tiếp viện cho Henri Rivière (thống-đốc Nam-kỳ Le Myre de Vilers hồi này đã về Pháp, Charles Thomson qua thay). 4) HENRI RIVIÈRE CHẾT Tổng-đốc Bắc-ninh là Trương quang-Đản với Phó Kinh lược Bùi ân-Niên đem binh về đóng ở Giốc-gạch (thuộc Gia lâm) chực sang đánh lấy lại Hà-nội. Đại úy Berthe de Villers dẫn quân sang đánh, đốt sạch các làng từ Gia-lâm đến tả ngạn sông đào Đức-giang. Quân Việt-nam phải lui về phía Bắc-ninh. Quan tiết-chế Hoàng kế-Viêm bấy giờ lấy quân Cờ-đen làm tiên-phong, về Hoài-đức đánh Pháp. Đại-tá Henri Rivière thân dẫn 500 binh sĩ ra Hoài-đức phá quân cờ đen. Henri Rivière bị quân Cờ-đen đột kích ở gần Cầu-giấy, mà chết hôm 19-5-1883. Đại-úy Berthe de Villers và non 100 lính đều bị thương. Được tin Henri Rivière tử trận, chính-phủ Pháp liền lập quỹ chiến tranh, truyền cho lục quân thiếu-tướng Bouёt ở Nam-kỳ ra thống-đốc quân vụ ngoài Bắc, sai hải-quân thiếu-tướng Courbet đem một đội chiến-thuyền sang tiếp ứng, và cử Harmand (là sứ-thần Pháp ở Tiêm-la) sang làm Toàn-quyền, đuổi lãnh-sự Việt-nam ở Sài-gòn là Nguyễn thành-Ý về Huế. Ngày mồng 3 tháng 5, thiếu-tướng Bouёt đem 200 lính tây, 300 lính tập (người Nam-kỳ) ra Bắc giữ Hà-nội và Nam định. Lại sai Georges Vlavianos (ông Kiều) là người theo Jean Dupuis ngày trước, mộ lính Cờ-vàng đi làm tiền-quân. Quân ta tấn công quân Pháp khắp cả Hà-nội, Hải-phòng và Nam-định. Song lực lượng thua Pháp quá xa, đâu đấy đều thất bại. Việc nước đang bối rối như thế, thì vua Tự-Đức mất. Tự-Đức mất ngày 16 tháng 6 năm Quí-mùi (19-7-1883), trị vì được 36 năm, thọ 55 tuổi, niên-hiệu là Dực-Tông Anh hoàng-đế. 5) SỰ PHẾ LẬP Ở HUẾ (NGUYỄN VĂN-TƯỜNG VÀ TÔN THẤT-THUYẾT CHUYÊN QUYỀN) Vua Tự-Đức không có con, nuôi 3 người cháu (con em) làm con nuôi : - Dục-Đức phong Thụy-quốc-công. - Chánh-Mông phong Kiến-giang-quận-công. - Dưỡng-Thiện. Tự-Đức muốn lập Dưỡng-Thiện, có đức-tính, lên nối ngôi, nhưng Dưỡng-Thiện còn ít tuổi mà việc nước rối-reng, nên trước khi chết, Tự-Đức để di-chiếu lập Dục-Đức, cho Trần tiễn-Thành, Nguyễn văn-Tường và Tôn-thất-Thuyết làm Phụ-chánh. Được 3 ngày, Nguyễn văn-Tường và Tôn-thất-Thuyết đổi tờ di-chiếu, bỏ Dục-đức, đem giam vào Dục-Đức giảng đường cho nhịn đói mà chết, hôm 21-7-1883. Rồi lập em Tự-Đức là Lạng-quốc-công lên làm Vua. Triều-thần đều sợ không ai dám nói gì, duy có Ngự-sử Phan đình-Phùng can rằng : « Tự-quân chưa có tội gì, mà làm sự phế lập như thế, sao phải lẽ ». Nguyễn văn-Tường và Tôn-thất-Thuyết truyền giam ngay Phan đình-Phùng, rồi cách chức đuổi về. Lạng-quốc-công, húy Hồng-Dật, lên ngôi đặt niên-hiệu là Hiệp-hòa. Á Á 6) PHÁP ĐÁNH THUẬN AN Hiệp-hòa vừa lên ngôi thì viên Toàn-quyền Harmand từ Tiêm-la sang đến Hải-phòng, sai thiếu-tướng Bouёt dẫn quân lên đánh đồn Hoài-đức. Ngày 12 tháng 7 (1883) Bouёt giao chiến với quân Cờ đen ở mạn làng Vòng. Cờ-đen chống giữ rất hăng hái, nhưng sau ba ngày, cũng bị quân Pháp dồn lui lên Đồn Phùng. Trong lúc Bouёt đánh Cờ-đen, thì Trung-tá Brionval dẫn quân từ Hải-phòng lên chiếm được tỉnh Hải-dương. Tuy quân Pháp thắng thế, lực-lượng Cờ-đen vẫn mạnh Bouёt phải điện về Paris xin thêm quân cứu viện. Toàn-quyền Harmand nhận thấy dùng võ-lực uy hiếp triều-đình Huế mới có thể bình trị được Bắc-kỳ mau chóng. Ý-kiến của Harmand được Chính-phủ Pháp chuẩn y. Lập tức, hôm 18-8-1883, trong khi Bouёt và Brionval đánh Bắc-kỳ, toàn-quyền Harmand và thiếu-tướng Courbet đem 7 chiếc tàu chiến vào đánh cửa Thuận-an phá vỡ thành Trấn-hải. Quan trấn-thành là Lê Sĩ, Lê Chuẩn tử trận, Lâm Hoành và Trần thúc-Nhân thì nhảy xuống sông tự vẫn. Khiếp sợ trước thái-độ hung-hãn của quân Pháp, triều đình Huế, sáng ngày 21-8-1883, sai sứ-thần xuống Thuận an xin giảng hòa với Harmand. 7) HÒA ƯỚC HARMAND 25-8-1883 NĂM QUÍ-MÙI (THÀNH LẬP CUỘC BẢO-HỘ TRUNG VÀ BẮC-KỲ) Sứ-thần Việt-nam xuống đến Thuận-hóa thì toàn quyền Harmand bắt giải binh cả mọi nơi, rồi cùng ông De Champeaux lên Huế hội-nghị với Trần đình-Túc làm Khâm sai toàn-quyền và Nguyễn trọng-Hiệp làm phó. Ngày 25-8-1883 (23 tháng 7 năm Quí-Mùi) thì hòa-ước lập xong, có 27 khoản, đại lược : - Nước Việt-nam chịu nhận nước Pháp bảo hộ, có việc gì giao thiệp với ngoại quốc thì phải do nước Pháp chủ trương. - Tỉnh Bình-thuận thuộc về Nam-kỳ. - Quân Pháp đóng giữ ở Đèo-ngang và ở Thuận-an. - Từ tỉnh Khánh-hòa ra Đèo-ngang, quyền cai-trị thuộc về triều-đình Huế. Những khoản sau nói rằng : Viên Khâm-sứ ở Huế được quyền tự do ra vào yết kiến nhà vua. Còn đất Bắc-kỳ kể từ Đèo-ngang trở ra, nước Pháp đặt Công-sứ ở các tỉnh để kiểm soát những công việc của quan Việt-nam. Nhưng người Pháp không dự vào việc cai-trị ở trong hạt của Việt nam. Hòa-ước ký xong, De Champeaux ở lại giữ chức Khâm sứ tại Huế. Toàn-quyền Harmand ra kinh-lý ngoài Bắc. Triều-đình Huế cử Lại-bộ thượng-thư Nguyễn trọng-Hiệp làm Khâm-sai đại-thần, Công-bộ thượng-thư Trần văn Chuẩn và Lại-bộ tham-tri Hồng Phi làm Phó Khâm-sai ra Bắc-kỳ cùng với toàn-quyền Harmand hiểu dụ nhân dân và bãi quân thứ các nơi. Mặc dầu, chiến tranh vẫn không dứt. Các quan, nhiều người muốn cùng quân Tàu cảnh-Tùng đóng trên Sơn-tây, Từ-diên-Húc đóng bên Bắc-ninh, Lưu vĩnh-Phúc đóng tại Đồn-phùng, quyết tâm đánh Pháp. Ệ Ò Ế 8) VUA HIỆP-HÒA BỊ GIẾT Vua Hiệp-hòa muốn nhận cuộc bảo-hộ của Pháp cho yên ngôi vua, nhưng các quan có nhiều người không chịu. Nhân thấy Nguyễn văn-Tường và Tôn-thất-Thuyết chuyên chế thái quá, bèn đổi Nguyễn văn-Tường sang làm Binh-bộ thượng-thư, Tôn-thất-Thuyết sang giữ chức thượng-thư bộ Lại, để bớt binh quyền của Thuyết. Nguyễn văn-Tường và Tôn-thất-Thuyết thấy Hiệp-hòa có lòng nghi, sợ để lâu thành vạ, bèn vào tâu Bà Từ-dụ thái-hậu, lập Dưỡng-thiện (con nuôi thứ 3 của Tự-Đức) lên ngôi, bắt Hiệp-hòa uống thuốc độc chết ở Phủ Dục-đức hôm 30-11-1883. Quan Phụ-chánh Trần tiễn-Thành tỏ ý không theo. Nguyễn văn-Tường và Tôn-thất-Thuyết sai người giết nốt. Dưỡng-thiện, húy là Ưng-Đăng, mới 15 tuổi, lên ngôi đặt niên-hiệu là Kiến-Phúc. Mọi việc đều do Tường, Thuyết định đoạt. Thu xếp xong việc lập vua, Nguyễn văn-Tường và Tôn thất-Thuyết liên lạc với Hoàng kế-Viêm và Lưu vĩnh-Phúc, cho tu tạo khí giới ở Thanh-hóa, Nghệ-an, sửa sang thành trì, đào hầm trú-ẩn, định cuộc tổng tấn công quân Pháp, khi thuận tiện. 9) QUÂN PHÁP LẤY CÁC TỈNH BẮC-KỲ Từ Huế ra đến Bắc-kỳ, toàn-quyền Harmand sửa sang mọi việc, lập đội tuần-cảnh (khố xanh) để phòng giữ các nơi, bãi bỏ lính Cờ-vàng của thiếu-tướng Bouёt đã mộ, vì lính này đi đâu phá phách đấy. Thiếu-tướng Bouёt bất bình với Harmand, xin về Pháp, giao binh quyền lại cho lục-quân đại-tá Bichot. Nhận được quân tiếp viện ở Sài-gòn ra, Bichot đánh lấy tỉnh Ninh-bình. Ngày 25 tháng 9 năm 1883, thiếu-tướng Courbet được cử làm thống-đốc quân-vụ kiêm chức toàn-quyền ở Bắc-kỳ, thay cho Harmand về Pháp, từ đấy, cả việc binh nhung, cai trị, đều trong tay thiếu-tướng Courbet. Bên Pháp gửi thêm quân qua tiếp ứng. Courbet có cả thảy tới 9.000 người chia làm 2 đạo thủy bộ đều tiến ngược sông Hồng-hà, đánh luôn từ 13 đến 16-12-1883, hạ được thành Sơn-tây. Quân Việt-nam và Cờ-đen phải rút lên thượng-du. Pháp chết mất 83 người, bị thương 319 người. Một lữ-đoàn viện-binh lại được gửi thêm sang Bắc-kỳ, đồng thời trung-tướng Millot qua làm thống-đốc quân-vụ thay cho Courbet. Quân Pháp bấy giờ lên đến 1 vạn 6 nghìn, chia làm hai lữ-đoàn : 1 đóng ở Hà-nội do thiếu tướng Brière de l’Isle chỉ huy, 1 đóng ở Hải-dương do thiếu tướng De Négrier điều khiển. Thống tướng Millot hạ lệnh cho cả 2 lữ-đoàn từ Hà-nội theo sông Đuống đi về phía đông, từ Hải-dương lên Phả-lại, rồi hội nhau theo sông Cầu (Nguyệt đức) tiến đánh Đáp-cầu, ngày 12-3-1884 hạ thành Bắc ninh, ngày 17-3-1884 chiếm Phủ-lạng-thương và Kép. Từ Bắc-ninh, thiếu-tướng Brière de l’Isle đem quân đánh Yên thế, lấy được thành Thái-nguyên hôm 19-3-1884. Hạ xong Bắc-ninh, Thái-nguyên, quân Pháp quay về đánh Hưng-hóa và Tuyên-quang. Brière de l’Isle và De Négrier đoạt được Hưng-hóa hôm 16 tháng 3. Quân Cờ-đen phải rút lên rừng núi. Hoàng kế-Viêm vòng lên thượng-đạo vào Kinh. Trung-tá Duchesne đem quân từ Hưng-hóa theo Lô-giang lên lấy thành Tuyên-quang hôm 1-6-1884. 10) HÒA ƯỚC FOURNIER 11-5-1884 (KÝ GIỮA PHÁP VÀ TRUNG-HOA VÌ VIỆC VIỆT-NAM) Tuy các tỉnh trung-châu Bắc-kỳ đều đã thuộc về quân Pháp cả, quân Tàu còn đóng ở mấy tỉnh thượng-du : Lạng sơn, Cao-bằng, Lao-kay. Chính-phủ Pháp muốn dùng cách giao-thiệp với Tàu, cho Tàu nhận cuộc bảo-hộ của Pháp ở Việt-nam, đỡ phải chiến tranh hao phí. Nhân lúc bấy giờ có Hải-quân trung-tá Fournier quen một người Đức tên là Détring làm quan với Tàu, coi việc thương-chính ở Quảng đông, mà Détring lại thân với quan tổng-đốc Trực-lệ Lý hồng-Chương. Chính-phủ Pháp mới giao việc ấy cho Fournier dàn xếp. Fournier tìm gặp Détring để nói chuyện về ý-kiến của Pháp. Détring điện về cho Lý hồng-Chương biết, được Lý hồng-Chương thuận ngay. Thế là ngày 11-5- 1884 (18 tháng 4 năm Giáp-thân) lập xong tờ hòa-ước Thiên-tân, giữa Lý hồng-Chương thay mặt chính-phủ Tàu và Fournier thay mặt chính-phủ Pháp. Hòa ước này nói đại khái : « nước Tàu thuận rút quân đóng ở Bắc-kỳ về, và công nhận tờ giao-ước của nước Pháp lập với Việt-nam, nghĩa là nước Tàu để nước Pháp tự do xếp đặt mọi việc ở Việt nam ». Kiến-Phúc lên ngôi vua được 6 tháng, đến ngày mồng 6 tháng 4 năm Giáp-thân (1884) thì phải bệnh mất, miếu hiệu là Giản-Tông-Nghi Hoàng-Đế. Vua Kiến Phúc mất, đáng lẽ con nuôi thứ 2 vua Tự-Đức là Chánh-Mông lên nối ngôi. Nhưng Nguyễn văn-Tường và Tôn-thất-Thuyết không muốn lập Chánh-Mông đã lớn tuổi, sợ mình mất quyền, bèn chọn em Chánh-Mông là Ứng-lịch mới 12 tuổi, mà lập lên làm vua, đặt niên-hiệu là Hàm-nghi (2-8-84). Vậy là trong một năm đã thay đổi tới 4 vua. Khi nhận chức Khâm-sứ Huế, Rheinart đã tư giấy sang cho triều-đình rằng : Nam triều có lập ai lên làm vua, thì phải xin phép nước Pháp mới được. Nhưng Nguyễn văn Tường và Tôn-thất-Thuyết cứ tự tiện lập vua, không cho tòa Khâm biết. Rheinart thấy vậy, viết thư ra Hà-nội, thống-tướng Millot bèn sai đại-tá Guerrier đem 600 quân và một đội pháo binh vào Huế bắt triều-đình phải xin phép lập ông Ứng-lịch lên làm vua. Nguyễn văn-Tường và Tôn-thất-Thuyết làm tờ xin phép bằng chữ nôm gửi sang, Rheinard không chịu, bắt phải làm bằng chữ nho. Đến ngày 27 tháng 6, Đại-tá và Khâm-sứ (Guerrier và Rheinart) đi cửa chính vào Điện làm lễ phong vương cho vua Hàm-Nghi. Xong rồi, quân Pháp lại trở ra Hà-nội. 11) CHIẾN-TRANH PHÁP – HOA VÌ VIỆT-NAM Chiếu theo hòa-ước Fournier 11-5-1884 (nói ở đoạn trên) ký tại Thiên-tân, thống-tướng Millot sai trung-tá Dugenne đem 1.000 quân lên thu lại các thành do quân Tàu chiếm trên thượng-du. Nhưng khi quân Pháp lên đến Bắc-lệ, vừa qua sông Thương, thì quân Tàu đánh chặn lại, lấy cớ chưa được lệnh rút về nước ; trung-tá Dugenne không chịu, cứ tiến. Bị phục-binh của Tàu bắn riết, và kéo ra vây cả bốn mặt. Quân Pháp phải chạy về bên này sông, chết mất 28 người, bị thương 46 ; thống-tướng Millot ở Hà-nội phải cử thiếu-tướng De Négrier đem 2 đại đội quân lộ, 2 đội pháo binh và 1 toán công-binh lên tiếp ứng cho Dugenne. Trong lúc ấy, chính-phủ Pháp truyền Hải-quân trung-tướng Courbet đem tàu sang đóng gần thành Phúc-châu (tỉnh-lỵ Phúc-kiến) và lại truyền cho Patenôtre (công-sứ Pháp ở Bắc-kinh) đòi nước Tàu giả Pháp 250 triệu tiền binh-phí. Sau một thời gian thương-thuyết, chính-phủ Pháp rút số tiền bồi thường xuống 80 triệu, giả làm 10 năm. Tàu không chịu, chiến thuyền Pháp (hôm 3 tháng 7 năm Giáp-thân : 1884) bắn lên các pháo-đài và phá xưởng làm khí-giới ở Phúc-châu ; lại đánh cả các chiến-thuyền của Tàu đậu trong sông Mân-giang. Đoạn ra vây đảo Đài-loan. Trong lúc quân Pháp đang đánh Phúc-châu, vây Đài-loan thì quân Tàu từ Quảng-đông Quảng-tây kéo qua Bắc-kỳ càng ngày càng nhiều. Đợi quân tiếp viện mãi không thấy, thống-tướng Millot cáo bệnh xin về, giao quyền lại cho thiếu-tướng Brière de l’Isle. Chả bao lâu thiếu-tướng Brière de l’Isle tiếp được 6 nghìn quân từ Pháp sang hợp cùng quân đã có, thành cả thảy non 2 vạn, chia làm 4 đạo : một đạo do thiếu-tá Servière lên mạn Đông-triều ; một do trung-tá Donnier theo sông Lục-nam ; trung-tá Defoy dẫn một đạo lên mạn sông Thương ; thiếu-tá Mibielle và thiếu-tướng De Négrier hiện đóng ở Lạng-thương. Cả 4 đạo cùng tiến đánh đồn Chũ hôm 20 tháng 8, rồi lên đồn Bảo-lạc, đồn Kép. Tại Kép, quân Tàu chết tới hơn 2.000, bên Pháp thì thiếu-tướng De Négrier với 109 lính bị thương, chết mất 27 người. Thua, quân Tàu phải rút lên Lạng-sơn và Quảng-yên. Thiếu-tướng Brière de l’Isle sai đại-tá Duchesne đem 700 quân lên đánh quân Cờ-đen ở Tuyên-quang ; trung-tá Berger thì dẫn binh giữ Thái-nguyên. Trung tuần tháng 11, thiếu-tướng De Négrier đem quân theo tả-ngạn sông Lục-nam đánh toán quân Tàu đóng ở núi Bọp. Được thêm hơn 1.000 viện-binh từ Pháp gửi sang, qua tháng chạp, De Négrier cùng đại-tá Giovanninelli lên đánh lấy được Lạng-sơn hôm 3-2-1884 (mồng 8 tháng 1 năm Ất dậu), trong lúc quân Tàu và Cờ-đen ở mạn Hồng-hà và Lô giang kéo về vây Tuyên-quang. Trung-tướng Brière de l’Isle giải vây được cho Tuyên-quang thì Lạng-sơn lại bị quân Tàu từ Long-châu qua đánh vào đầu tháng 2 năm Ất-dậu (1885). Thiếu-tướng De Négrier bị thương nặng trong trận này, giao binh quyền lại cho trung-tá Herbinger. Quân Tàu qua đông quá, Herbinger chịu bỏ Lạng-sơn lui về đồn Chũ và đồn Kép. Brière de l’Isle điện về Pháp báo tin lại mất Lạng-sơn, và xin thêm viện-binh ; tin này làm náo động lòng người ; thủ-tướng Pháp là Jules Ferry phải xin từ chức. 12) PHÁP HOA ĐÌNH CHIẾN (HÒA ƯỚC PATENÔTRE 1885) Nhận được điện-tín của Brière de l’Isle, chính-phủ Pháp gửi thêm binh qua Bắc-kỳ ngay. Tuy nhiên chính-phủ Pháp nhận thấy chiến-tranh kéo dài mãi không lợi gì, bèn điện cho sứ-thần Pháp ở Bắc-kinh là Patenôtre đề-nghị đình chiến với Tàu. Chính-phủ Tàu, cũng thấy chiến-tranh kéo dài chỉ có hại, cử ngay Lý hồng-Chương ký với Patenôtre, hôm 9-6-1885 (27 tháng 4 Ất-dậu) một hòa-ước ở Thiên tân ; và sai quan qua Hà-nội truyền lệnh cho quân Tàu phải rút về nước. Tờ Hòa-ước này đại lược nói : « nước Tàu nhận cuộc Bảo-hộ của Pháp ở Việt-nam và lại hòa-thuận buôn bán như cũ. Nước Pháp trả lại các chỗ mà hải-quân đã chiếm giữ ở mặt bể, và thuận bỏ khoản đòi bồi thường binh phí ». Chiểu theo Hòa-ước này, hải-quân Pháp soạn sửa rút ở Tàu về, thì trung-tướng Courbet phải bệnh, mất ở gần đảo Đài-loan. 13) SỰ LOẠN Ở TRUNG-KỲ (TÔN-THẤT-THUYẾT ĐÁNH PHÁP, HÀM-NGHI XUẤT NGOẠI) Việc đánh nhau với Tàu êm, tức là công cuộc bảo hộ của Pháp ở Việt-nam thành. Nhưng ở các nơi, các quan cũ còn chống nhau với Pháp, mà trong triều, quan Phụ-Chánh Tôn thất-Thuyết và Nguyễn văn-Tường cũng ngấm ngầm dự bị đánh Pháp (như đã nói ở đoạn trên : vua Hiệp-Hòa bị giết). Người Pháp biết ý Tôn-thất-Thuyết và Nguyễn văn Tường, nên chiếm thành Mang-cá và bắt hạ hết đại-bác trên thành xuống. Tháng 6 năm 1885 (tháng 4 Ất-dậu), thống-tướng de Courcy sang tới Bắc-kỳ, được người Pháp ở Hà-nội và những người Việt-nam làm việc theo Pháp cho biết tình hình rối reng ở Huế. De Courcy bèn đem 800 quân vào Huế, hôm 27-6-1885, định bắt buộc triều-đình phải nhận quyền bảo hộ của Pháp theo hòa-ước Harmand đã ký. Tới Huế ngày 1-7-1885, thống-tướng De Courcy cho đòi hai quan Phụ-Chánh Nguyễn văn-Tường và Tôn-thất-Thuyết sang bên Khâm-sứ để định việc vào yết-kiến vua Hàm-Nghi. Nguyễn văn-Tường giỏi về ngoại-giao sang ra mắt De Courcy, Tôn-thất-Thuyết cáo bệnh. De Courcy bảo : Thuyết đau cũng phải khiêng qua. Tôn-thất-Thuyết và Nguyễn văn-Tường lấy làm tức giận vô cùng trước thái-độ đường-đột, kiêu-ngạo của De Courcy, nhưng chưa biết tính sao ? De Courcy định hôm vào yết kiến Hàm-Nghi, triều-đình phải mở cửa chính cho cả quan lính Pháp cùng đi. Triều-đình cho thế là trái với quốc lệ, xin để De Courcy đi cửa giữa theo như Sứ Tàu ngày trước, còn quân lính đi hai cửa bên. De Courcy không chịu. Bà Từ-dụ thái-hậu sai quan đem đồ lễ-vật sang tặng De Courcy, De Courcy cũng khước đi, không nhận. Các quan thấy De Courcy làm dữ dội, cố tình gây sự như thế, đều ngơ-ngác. Bọn Tường Thuyết càng thêm tức giận, sống chết, bèn nhất quyết liều một phen với Pháp. Tối hôm ấy, 4-7-1885, các quan Pháp vừa tan tiệc ở dinh Khâm-sứ (Thống tướng ở đấy), thì quãng 1 giờ sáng, súng trong thành nổ ra, những nhà chung quanh dinh Khâm-sứ bốc cháy rực trời. Quân Pháp yên lặng chống giữ, đợi sáng sớm, mới mở thế công thì quân ta thua chạy. Nguyễn văn-Tường cho người rước vua và các bà thái hậu lánh lên Khiêm-lăng (lăng Tự-Đức). Xa-giá đi đến chùa Thiên-mụ thì Tôn-thất-Thuyết đem quân chạy theo truyền rước Xa-giá quay về Trường-thi (ở làng Đa-Chũ cách kinh thành 10 cây số). Lúc bấy giờ vương tôn công tử, người đi ngựa, kẻ đi chân, dân gian thì trẻ cõng già, đàn bà dắt con, ai nấy hoảng hốt tìm đường chạy trốn. Xa-giá đến Trường-thi, vừa nghỉ được một lúc, Tôn-thất Thuyết lại giục lên đường, nói quân Pháp đuổi gần tới nơi. Ngày 6-7-1885, tới Quảng-trị, Xa-giá được ông Tuần Quảng Trị là Trương quang-Đản trước làm tổng-đốc Bắc-ninh khởi binh đánh Pháp, về Kinh bị giáng xuống tuần-phủ, ra giữ thành Quảng-trị). Trận đánh úp này chỉ giết được quân Pháp 16 người, bị thương 80. Quân Việt-nam thiệt hại rất nặng. Quân Pháp, quãng 8 giờ sáng, đã làm chủ tình thế. Các quan, người chạy theo xa-giá, kẻ trốn các nơi. Duy Nguyễn văn-Tường lẩn trở về tìm giám-mục Caspard nhờ đưa ra thú với thống-tướng De Courcy. De Courcy giao Tường cho đại úy Schmitz coi giữ và hẹn trong 2 tháng phải thu xếp mọi việc cho yên. Nguyễn văn-Tường viết sớ ra Quảng-trị xin rước xa-giá về Kinh. Tôn-thất-Thuyết dìm bỏ sớ đi, viết thư mắng Tường là kẻ phản bội. Nhân hôm 9-7-1885, Tôn-thất-Thuyết nghe tin tàu Pháp sắp đến nơi, rước Hàm-Nghi lên Tân-sở, Đức Từ-dụ và các bà thái-hậu ở lại Quảng-trị, được biết Nguyễn văn-Tường mới về, bèn quay giở lại Kinh-đô. Đến khi hết 2 tháng hẹn cho Nguyễn văn-Tường, mà vua Hàm-Nghi vẫn chưa về, các tỉnh còn rối loạn, De Courcy bắt Nguyễn văn-Tường cùng Hộ-bộ thượng-thư Phạm thận Duật và Tôn-thất Đinh (thân sinh ra Tôn-thất-Thuyết) đày ra Côn-lôn.35 Đày bọn Nguyễn văn-Tường đi rồi, De Courcy đem Nguyễn hữu-Độ ở Bắc-kỳ vào cùng với Phạm đình-Bình coi việc triều-chính, sai Nguyễn trọng-Hiệp ra quyền Kinh-lược Bắc-kỳ, lập ông Chánh-Mông là Kiến-giang-quận-công lên làm vua. Hôm 14-9-1885, Chánh-Mông được rước vào điện, rồi thân hành sang nhận lễ thụ phong bên Khâm-sứ. 6 ngày sau làm lễ đăng-quang, Chánh-Mông đặt niên hiệu là Đồng khánh. Đồng-Khánh đã 23 tuổi, là vị vua thứ hai thụ phong với Pháp. Đồng-Khánh hiền lành, rất được lòng người Pháp, lại có Nguyễn hữu-Độ và đình thần mềm-dẻo theo chính-sách Bảo-hộ, nên mọi việc đều êm thắm, tuy nhiên, ngoài các tỉnh, phong trào chống Pháp càng ngày càng hăng hái (Chương IV sẽ nói đến). Bên Pháp lúc này, nhiều người lại không muốn giữ Bắc kỳ. Ngân-sách về việc « viễn-chinh » phải rút từ 75 triệu phật-lăng xuống 18 triệu. Thủ-tướng Pháp là Brisson thấy phe phản-đối trong nghị-trường khá đông, xin từ chức để ông Freycinet lên thay. Freycinet thấy De Courcy làm nhiều việc lôi thôi ở bên Việt-nam, bèn triệu hồi De Courcy về Pháp, giao binh quyền cho trung tướng Warnet, và cử Paul Bert (quan văn) sang sung chức thống-đốc để kinh-ký mọi việc Việt-nam. CHƯƠNG III : CÔNG-CUỘC ĐÔ-HỘ CỦA PHÁP TẠI VIỆT-NAM Như Chương II ở trên chứng tỏ, Pháp đã thu được kết quả mỹ-mãn với chính-sách « Tàn thực » (tằm ăn dâu) về phương-diện quân-sự : chiếm hết Nam rồi lan ra Trung, Bắc. Nhưng Pháp còn có thâm-tâm thi-hành chính-sách ấy về cả phương-diện chính-trị : lấn dần vào quyền nội-trị Việt nam để những xứ bảo-hộ Trung-kỳ, Bắc-kỳ biến dần thành thuộc-địa không cần « Hòa-Ước » nhiên hậu có toàn quyền thâu đoạt mọi nguồn lợi về kinh-tế. Muốn được như vậy, Pháp chủ ý vào việc lựa chọn Vua, Quan, Lính và đào-luyện học-sinh, sao cho tất cả các phần-tử giúp việc đều ngoan ngoãn trung-thành. Và như thế mỗi khi cần đến, lấy người Việt-nam trị người Việt-nam. 1) LỰA VUA 28-1-1888 (27 tháng chạp năm Mậu-tý) vua Đồng Khánh (xem ở trang cuối Chương II) phải bệnh chết, Đồng Khánh làm vua được 3 năm, thọ 25 tuổi. Rheinart bấy giờ làm Khâm-sứ Trung-kỳ, thấy con vua Đồng-Khánh còn nhỏ, lại nhớ Dục-Đức ngày trước hay đi lại với người Pháp, bèn truyền lập con Dục-Đức là Bửu-Lân lên ngôi. Bửu-Lân mới 10 tuổi, đang cùng mẹ bị giam trong ngục. Bửu-Lân làm vua đặt niên-hiệu là Thành-Thái. Giữa năm Thành-Thái lên ngôi, Pháp bắt triều-đình ký giấy nhường đứt cho Pháp hải-cảng Đà-nẵng, thành-phố Hà-nội và Hải-phòng. Đến năm 1898, Pháp bắt Thành-Thái ký 2 đạo Dụ giao quyền thu thuế, kiểm-soát tài chính cho các Công-sứ Pháp đặt tại các tỉnh. 36 Đứng trước chính-sách « lấn quyền nội-trị » của Pháp, Thành-Thái lấy làm lo-lắng cho tiền-đồ của dân-tộc, mà tỏ ý ủng-hộ phong-trào cách-mệnh « DUY-TÂN » 37. Pháp biết, bắt Thành-Thái thoái vị hôm 3-9-1907 và đầy qua đảo Réunion. Con thứ 5 của Thành-Thái là Vĩnh-San, mới 8 tuổi, được Pháp lựa, lập lên ngôi thay Thành-Thái, đặt niên-hiệu là Duy-Tân. Năm 1916, Duy-Tân đã 17 tuổi, nối chí vua cha, thông tư với hai nhà chí-sĩ Thái-Phiên, Trần cao-Vân, mưu cùng lính mộ (Pháp mộ lính Việt-nam qua đánh Đức hồi thế-giới đại-chiến thứ I) lật đổ chính-phủ bảo-hộ. Việc bị vỡ lở 38, Pháp bắt Duy-Tân đầy sang Réunion cùng nơi Thành-Thái. Đầy Duy-Tân đi rồi, Pháp lựa con vua Đồng-Khánh là Bửu-Đảo, lập lên ngôi tức Khải-Định. Khải-Định tính ôn-hòa, khéo-léo, rất được lòng Pháp. Tháng 3 năm 1922, Khải-Định qua chơi Hội-chợ Marseille, luôn tiện giao hoàng-tử Vĩnh-thụy cho Pháp để Vĩnh-thụy theo học bên ấy. Khải-Định mất hôm 6-11-1925. Vĩnh-thụy lên ngôi, tức Bảo-đại. Bảo-Đại làm vua từ 8-1-1926 đến 24-8-1945 thì thoái vị. (Xem tiếp ở CHƯƠNG dưới) 2) TỔ-CHỨC CÁCH CAI-TRỊ Từ lúc lấy xong 3 tỉnh miền đông Nam-kỳ cho tới lúc chiếm nốt 3 tỉnh phía tây, Pháp đi đến đâu, tổ-chức ngay cách cai-trị an dân đến đấy. Bắt đầu mở 2 trường học tại Saigon : - 1 luyện những thanh tra Pháp (Inpecteurs des affaires indigènes). - 1 luyện Việt-nam làm thông ngôn. Quân đội Pháp chiếm được vùng nào, dẫn ngay thanh tra đến thay quan tỉnh cũ, cùng mấy viên thông-ngôn coi việc cảnh-bị, từ-tụng, thu thuế. Phủ, huyện, tổng, xã vẫn giữ nguyên tổ-chức xưa. Các viên thanh-tra chịu dưới quyền điều-khiển của 1 thượng sĩ-quan tại Saigon, gọi là thống đốc từ 1-12-1864. Cơ-sở, khi đã lập được vững-vàng, Pháp bổ quan văn giữ chức thống-đốc. Le Myre de Vilers là người đầu tiên sung chức ấy. Le Myre de Vilers sang Nam-kỳ năm 1879. Le Myre de Vilers lập ra hội-đồng thuộc-địa 39 hôm 14- 5-1879. Tới 8-2-1880 lại có hội-đồng hàng tỉnh 40 và hội đồng thành-phố 41 Chợ-lớn ra đời. Le Myre de Vilers tổ-chức cả cơ-quan tư-pháp dịch Hoàng-luật để áp-dụng cho dân chúng không thấy có gì khác nhau giữa Đông Tây. Để giữ thăng bằng hai số thu tiêu, Le Myre de Vilers định lại các thứ thuế thân, điền thổ, và lập ngân-sách cho toàn xứ. Đến lúc cuộc bảo-hộ Trung-kỳ và Bắc-kỳ đã thành lập với Hòa-ước 1884, Chính-phủ Pháp đặt một viên Khâm-sứ tại Huế trông coi việc ngoại-giao. Thời kỳ này, 6 tỉnh miền nam thuộc bộ Pháp quốc hải ngoại (thuộc-địa), mà Trung, Bắc-kỳ thuộc Bộ Ngoại-giao ở Paris. Việt-nam, như thế, về phương-diện chính-trị đã bị chia làm 2 nước. Ngày 31-1-1886, quan văn đầu tiên được bổ sang trông coi việc cai-trị cả Trung và Bắc-kỳ là Paul Bert, Thống-đốc toàn-quyền Paul Bert đặt 1 viên Khâm-sứ ở Huế, và 1 viên Thống-sứ ở Hà-nội. Viên Khâm-sứ Huế làm việc bên cạnh vua Việt-nam, nhưng viên Thống-sứ Hà-nội thì hợp tác với Kinh-lược Việt-nam thay quyền vua định đoạt mọi việc. Kinh-lược chỉ cần vào Huế tâu vua biết những việc đã làm, mỗi năm một hai lần thôi. Trung Bắc, từ đấy, đã bị chia ra làm hai mảnh với cách cai-trị mỗi nơi một khác. Năm 1887, Chính-phủ Pháp muốn thống nhất đất đai ở Viễn-đông, cử Constant qua làm toàn-quyền coi cả 3 xứ Trung Nam Bắc-kỳ của Việt-nam, và nước Cao-mên, gồm lại gọi là cõi Đông-Pháp (Indochine Française). Năm 1893, gồm thêm nước Ai-lao 42 và năm 1900 Kouang-Tchéou-wan 43. Cõi Đông-pháp thuộc về Bộ Thuộc-địa Paris. Năm 1897, toàn quyền Pháp bãi bỏ chức Kinh-lược Bắc kỳ, giao quyền định-đoạt mọi việc cho viên thống-sứ. Quan lại Việt-nam từ đấy, ở Bắc-kỳ, trong việc làm chỉ biết thượng-cấp có thống-sứ và công-sứ mà thôi. Bắc-kỳ đã biến thành « thuộc-địa » của Pháp « không hòa-ước ». Thu-xếp công việc ngoài Bắc xong rồi, người Pháp vào dàn-xếp công việc ở Trung. Ngày 27-9-1898 và 15-8 cùng năm ấy, vua Thành-Thái đã phải ký 2 đạo Dụ giao cho Pháp trách-nhiệm thu thuế và kiểm soát tài-chính. Ý-nghĩa của 2 đạo Dụ này đã mở đường cho Pháp, theo chính-sách ngoài Bắc, đặt công-sứ khắp các tỉnh. Kế ngày 11-11-1925, đã ký giữa toàn quyền Monguillot và Hội-đồng Phụ-Chánh (Conseil de Régence) một thỏa-hiệp giao quyền quyết đoán tất cả mọi việc ở Trung-kỳ cho viên Khâm-sứ Pháp, ngồi chủ-tọa viện Cơ-mật của triều-đình Việt-nam. Các Bộ làm việc dưới sự kiểm-soát của 3 viên Hội-biện Pháp. Từ ngày này, việc nội-trị ở Trung-kỳ cũng hoàn toàn lọt vào tay người Pháp, nghĩa là, với cách cai-trị khôn-khéo, đặt nền tảng ở Nam-kỳ, người Pháp đã dần dần lôi cuốn được cả Bắc-kỳ lẫn Trung-kỳ vào vòng « thuộc-địa », những hòa-ước 1874, 1884 đã ký giữa Việt Pháp đều không có giá trị thực-tế nữa. 44 Dần dần xâm lấn vào quyền nội-trị của Việt-nam đến đâu, người Pháp khai sinh đến đấy những cơ-quan chính-trị có bộ mặt « dân chủ ». Ngoài Bắc-kỳ, chức Kinh-lược bị bãi bỏ, thì có những hội-đồng hàng tỉnh xuất hiện. 1907, lại lập ra Hội-đồng Dân-biểu (mỗi tỉnh được 1, 2 nghị-viên do hội-đồng hàng tỉnh và kỳ-dịch bầu cử). Thêm vào những tổ-chức ấy, ở Hà nội và Hải-phòng, mỗi nơi có một phòng thương-mãi và canh-nông. Năm 1925, chương-trình « cải-tổ hương thôn » được ban bố. Tại Trung-kỳ, khi Cơ-mật viện mất quyền, Hội-đồng Dân-biểu cũng được thành lập như ngoài Bắc. Mỗi năm một lần, những đại-biểu của tất cả các tổ-chức nói trên, họp cùng các vị giám-đốc các sở, được viên toàn quyền triệu tập vào Đà-lạt, Sài-gòn, Hà-nội, hay Pnom penh để hỏi ý-kiến, gọi là « Hội-nghị kinh-tế và lý-tài Đông dương ». Tuy nhiên, những tổ-chức trên đây đều chưa có thật quyền, vì chỉ được triệu-tập để « giả lời » chứ tuyệt nhiên không được « đòi-hỏi ». Vì thế, những kẻ tri-thức ít người tham-gia, rút lại chỉ là những cơ-quan dành riêng cho số đông vì quyền lợi riêng mà gia nhập : điền-chủ, thương gia… 3) THÁM HIỂM Đồng thời tổ-chức cách cai-trị, Pháp tổ-chức « thám hiểm » để khảo sát địa-thế. Đoàn thám-hiểm đầu tiên do Doudard de Lagrée dẫn đầu năm 1866, theo sông Mékong (Cửu-long-giang) lên tận Vân Nam, mất hai năm trường. Doudard de Lagrée bị bệnh chết thì Francis Garnier kế chân. Thấy Mékong không tiện lợi về việc giao-thông, Francis Garnier đã chỉ dẫn cho Jean Dupuis dùng sông Hồng-hà tải khí giới sang Hoa-nam, năm 1871, để rồi Jean Dupuis gây sự cho quân Pháp ra hạ thành Hà-nội. Tiếp theo Doudard de Lagrée và Francis Garnier, có đoàn thám-hiểm Pavie. Nhờ tài liệu thu thập được trong 15 năm hoạt động của Pavie (1879-1895), mà Pháp đặt được nền bảo-hộ nước Ai-lao 45, và có một bản-đồ Đông-Pháp. Về sau, Pháp đã mở ra : - Sở Địa-dư, nối theo vết Pavie, vẽ địa-đồ đầy đủ cho từng địa-phương. - Sở Địa-chất và Sở Mỏ, để nghiên-cứu việc khai thác các tài nguyên. - Trường Viễn-đông bác-cổ để khảo cứu về lịch-sử, tông giáo, phong-tục, ngôn-ngữ các dân-tộc. - Đài Thiên-văn Phủ-liễn nhận xét khí hậu. 4) KINH TẾ Khi đã thông-thạo địa-thế, hiểu suốt nhân sự, Pháp tổ chức kinh-tế để thu lợi. Với nước Việt-nam là một kho nhân-công rất lợi (người nhiều, công rẻ) Pháp đã khai được nhiều mỏ : mỏ than ở Hon-gay, Uông-bí, mỏ vàng ở Bồng-miêu… mỏ sắt ở Cao bằng, mỏ chì ở Boneng và Phontiou 46; khai khẩn đất hoang giồng café, cao-su ; dẫn thủy nhập điền để tăng gia sản xuất ngũ cốc. Ngoài ra, Pháp dựng nhiều nhà máy : máy giấy, máy đường, máy xi-măng, máy sợi, máy rượu, máy điện, máy nước, máy diêm, máy thuốc-lá… 5) CÔNG CHÍNH Người Pháp khi đã nắm được trọn quyền xuất cảng đi ngoại quốc những tài-nguyên khai thác ở trong nước, và quyền nhập cảng những sản-phẩm của Pháp vào bán cho Việt-nam. Pháp rất chú ý về công cuộc mở mang các đường giao-thông để vận-tải : Đắp đường, khai sông. Việc to-tát nhất là làm đường xe-hỏa. Toàn-quyền De Lanessan mở đường tàu-hỏa Phủ-lạng thương lên Lạng-sơn từ năm 1891 đến 1894 mới hoàn thành. Các vị toàn-quyền khác đã kế tiếp mở thêm các đường : Hà-nội nối lên Phủ-lạng-thương Na-chàm ; Hải phòng suốt lên Lao-kay tiếp với đường Lao-kay Vân-nam ; Hà-nội vào Sài-gòn ; Sài-gòn lên Mỹ-tho. Mở đường hàng hải. Mới đây, lại mở đường « hàng-không ». Các đường giao-thông không những chỉ cốt giúp cho sự khuếch-trương kinh-tế, mà còn tối cần cho sự vận-chuyển quân đội, mỗi khi có biến. 47 6) QUÂN ĐỘI Pháp đã tổ-chức ra hai thứ lính với người Việt-nam : - Lính tập hay là « khố xanh » (lính này mặc quần áo có buông la-đáp xanh, giải mũ cũng xanh, nên gọi là « khố xanh ». Lính khố xanh dùng canh gác các công-sở, đóng đồn ở các phủ huyện hoặc vùng quê hẻo lánh, dưới quyền chỉ huy của các viên giám-binh Pháp làm việc với quan văn. - Lính « khố đỏ » (có lá-đáp đỏ) do sĩ-quan Pháp chỉ huy, đóng đồn ở những nơi hiểm yếu, chuyên đi đánh dẹp các nơi. Cần phải có quân đội hùng-cường để giữ vững địa-vị « đô hộ » và bảo vệ quyền lợi kinh-tế, Pháp đã phải gây một ngân-sách to lớn về tổ-chức này. Do đó, nhiều thứ thuế đã chữa lại và mới lập rất nặng : thuế thân, thuế thổ trạch, thuế muối, thuế lâm-sản, độc quyền bán nha-phiến, độc quyền nấu rượu… 48 7) GIÁO DỤC Dân chúng không được phép mở trường-học tự do như thủa xưa. Trường công chỉ mỗi tỉnh có 1, 2 trường thôi. Sự học, gián-tiếp, đã bị hạn-chế chỉ cốt số biết chữ vừa phải, đủ cung cấp cho các sở công tư của Pháp. Trường Đại-học, được toàn-quyền Beau hứa hẹn từ năm 1906, mãi tận 1917 toàn-quyền Sarraut mới mở. Trường học từ Trung lên Đại, đã rất ít, mà dân chúng muốn được vào học, còn chịu chui qua mấy lần « lưới lọc » rất gay go. Trước hết học-sinh phải là con cháu những gia đình sung-túc, nếu không cũng chịu, vì chỉ ở tỉnh mới có trường, mà ra tỉnh học rất tốn kém. Ấy là cái « lưới lọc » mà nền kinh-tế quốc-gia do Pháp điều-khiển khéo-léo đã chăng ra. Nếu học-sinh nào đủ sức ra tỉnh thì phải chui qua những chặng « lưới lọc » sau này mới hy-vọng được vào trường : Cường-hào và tham-quan 49có chứng nhận cho là tính nết rất hiền hậu không ? Rồi tới sở Liêm-phóng có chứng nhận là không thuộc dòng-dõi « cách-mệnh », không hề tham gia phong-trào « cách-mệnh » nào không ? 50 Như vậy cũng chưa hết sự khó-khăn luôn luôn phô bày trước mắt lớp thanh-niên : Trong lúc đi học, hay lúc đã hết khóa, nếu biết đôi chút bổn-phận làm người, mà tỏ ý « thương nòi yêu nước », lập tức cửa ngục Lai-châu, Sơn-la, Lao-bảo, Côn-lôn mở rộng để đón vào. 8) Y-TẾ Năm 1902, toàn-quyền Doumer mở Y-tế cục, và nhà thương công cộng. Nhưng mỗi tỉnh mới có một nhà thương. Cho nên dân quê vẫn dùng thuốc bắc, đã rẻ tiền, mời thầy lại dễ. Về công-cuộc xã-hội này, có một điểm mà dân-tộc Việt nam ghi nhớ mãi : những bệnh dịch Hạch, Tả, Đậu là những bệnh truyền-nhiễm đáng sợ cho tất cả các giống người, đã nhờ thuốc tây-phương mà biến đi gần hết. CHÂN DUNG PHAN-BỘI-CHÂU CHƯƠNG IV : NHỮNG PHONG-TRÀO CÁCH MỆNH Từ khi Pháp chiếm Nam-kỳ làm thuộc-địa (1862) rồi lập cuộc bảo-hộ Bắc, Trung-kỳ, cho tới năm 1945 (thời kỳ Pháp bị Nhật cướp mất chính-quyền) không lúc nào dân-tộc Việt nam chịu yên thân trong xiềng xích nô-lệ, mà không nuôi chí quật-cường đòi lại quyền « Tự-chủ » : 83 năm thuộc Pháp là 83 năm tranh đấu không ngừng ! Nếu người Pháp lo tổ-chức trị dân một cách khắc-nghiệt mà khôn khéo để củng-cố địa-vị « thống trị Việt-nam », thì dân-tộc Việt-nam đã kế tiếp nhau hoạt-động « Cách mệnh » hoặc bí-mật, hoặc công-khai, mong lật đổ địa-vị ấy. Hòa theo sự biến chuyển của thời đại, những hoạt-động cách-mệnh của Việt-nam đã liên-tiếp gây nên 3 phong trào : - Cần-vương cứu-quốc 51 - Duy-Tân - Dân-tộc giải phóng Tuy khác nhau về hình-thức, nhưng cùng chung một mục-đích : Dành quyền độc-lập cho tổ-quốc. A) PHONG TRÀO « CẦN-VƯƠNG CỨU-QUỐC » (BẮT NGUỒN Ở TRIẾT-LÝ ĐẠO KHỔNG : TRUNG NGHĨA) 1) PHONG TRÀO NỔI DẬY Ở NAM Phần đông sĩ-phu Việt-nam lấy « Trung, Nghĩa » trong đạo Khổng làm gốc đạo xử thế : thấy quyền vua (kẻ đứng làm tượng-trưng tinh-thần quốc-gia) bị xâm phạm, thấy đất đai của tổ-quốc bị xâm lăng, xuất đầu giúp vua cứu nước, ấy là trung nghĩa vậy. Thế cho nên liền khi triều-đình Huế bị Pháp ép ký hòa ước 5-6-1862 nhường cho Pháp 3 tỉnh miền Đông Nam-kỳ 52 các sĩ-phu đua nhau mộ binh đánh Pháp với khẩu-hiệu « Cần-vương cứu quốc ». Trước hết, Trương-Định, nguyên phó-quản giúp Nguyễn tri-Phương giữ đồn Kỳ-hòa, bỏ chức, khởi binh chống Pháp ở vùng Chợ-lớn, Tân-an và Gò-công. Ông đã tổ-chức ban ám sát Việt-gian theo Pháp, và dùng chiến-thuật du-kích làm Pháp tổn hại rất nhiều. Pháp đã phải yêu cầu triều-đình mời ông về cai-trị Phú-yên. Nhưng ông không chịu, quyết kháng chiến đến cùng. Chẳng may bị tên phản-tướng Huỳnh công Tân dẫn Pháp đến phục-kích mà ông trúng đạn, chết tại trận Kiến-phước đêm 19-20 tháng 8 năm 1864. Sau Trương-Định, có Nguyễn trung-Trực chỉ huy dân quân vùng Tân-an và Rạch-giá. Trung-Trực đã đánh một trận oanh-liệt là phá tàu « Espérance » của Pháp đậu tại Nhựt-tảo. Sau ông bị bắt tại trận Rạch-giá và chịu hành hình hôm 27-10-1868. Nối gót Trương-Định và Trung-Trực, dân chúng các nơi ồ-ạt theo tiếng gọi của Văn-thân, đoàn-kết thành quân-đội chống xâm-lăng. Quân Pháp rất vất-vả, đi đến đâu cũng gặp quân « Cần-vương » đánh chặn : - Ở Mỹ-tho, Tân-an, ông thủ-khoa Nguyễn hữu-Huân lãnh đạo nhóm văn-thân dấy nghĩa năm 1868. - Ở Ba-tri, ông Phan Tòng khởi binh năm 1869-1870. - Ở vùng Ba-điểm, Hốc-môn, Gò-vấp, Vĩnh-long, Cần thơ và Long-xuyên, dân chúng tự động kháng chiến năm 1871-1872. - Ở Trà-vinh, Đoàn công-Bửu, Nguyễn xuân-Phụng xướng nghĩa năm 1874. Khắp Nam-kỳ, trong lúc Pháp thi hành chính-sách « vết dầu loang », phong-trào « Cần vương » nổi dậy rất mạnh mẽ, phá tỉa các đồn lẻ của Pháp, chiếm đoạt các đoàn vận tải, và đường giao-thông. Oanh-liệt nhất là trận « Đồng tháp-mười » và « Thập bát phù-viên » (18 vườn trầu) do hai ông tri-huyện Toại và thiên-hộ Dương (hay lãnh-binh Dương) cầm đầu, tung-hoành luôn trong 2 năm 1865-1866. Cũng không kém phần oanh-liệt, mấy lời di-huấn của Phan thanh-Giản để cho con trước khi tuẫn-tiết : « bất hợp-tác với Pháp » 53. Bởi thế, các con ông là Phan-Liêm, Phan-Tôn và Phan-Ngữ đã sốt-sắng mộ binh đánh Pháp trong vùng Vĩnh-long, Sa-đéc, Trà-vinh và Bến-tre.54 Sau khi Pháp đã chiếm được cả 6 tỉnh Nam-kỳ, gây thành căn-cứ quân-sự vững chãi, phong-trào « cần vương » địa-phương bị ngừng trệ, để lại nổi dậy ngoài Trung và Bắc kỳ. 2) PHONG-TRÀO CẦN-VƯƠNG NỔI DẬY Ở TRUNG, BẮC-KỲ Thu-xếp xong việc cai-trị ở Nam-kỳ, Pháp đem quân ra Bắc, và hiếp triều-đình ký hòa-ước 1874 55. Ấy là cái nguyên-nhân làm cho phong-trào « cần-vương » nổi dậy ở Nghệ-an dưới sự lãnh-đạo của hai ông tú-tài Trần Tân và Đặng như-Mai, với khẩu-hiệu « Bình tây sát tả » (trừ Pháp diệt Gia-tô). Cả thảy chừng 3.000 văn-thân, cho là Pháp đánh Việt-nam chỉ vì dân theo đạo giúp Pháp, kéo nhau đốt phá những làng công-giáo. Từ Nghệ-an, phong-trào « cần-vương » lan ra Bắc. Hoàng kế-Viêm đóng quân ở Sơn-tây, Trương quang-Đản ở Bắc-ninh, Đề-đốc Nam-định là Tạ Hiển hợp với « Cờ-đen » đánh Pháp. 56 Thấy lực-lượng « Cần vương » rất mạnh, người Pháp khôn-khéo qua điều-đình với Tàu, ký hòa-ước Thiên-tân 57 để quân Tàu rút về, cho Pháp dễ dẹp quân khởi-nghĩa Việt nam. Pháp ký hòa-ước Thiên-tân với Tàu rồi, đem binh vào uy-hiếp triều-đình Huế, bắt phải nhận cuộc Bảo-hộ của Pháp. Sự ỷ vào sức mạnh áp-chế Việt-nam của Pháp đã như dầu đổ vào ngọn lửa « cần-vương » đang bồng bột cháy, lại càng bốc cháy mạnh thêm. Tôn-thất-Thuyết đánh úp quân Pháp, rồi rước vua Hàm-Nghi xuất ngoại. 58 Ra Quảng-bình Tôn-thất-Thuyết truyền hịch « Cần vương ». Sĩ dân các nơi, suốt từ Bình-thuận ra Thanh-hóa, nổi dậy đổ lỗi cho dân theo đạo đã gây ra chiến-tranh, mà giết tín-đồ Gia-tô kể tới hàng vạn. Ở Quảng-nam, bọn thân-hào lập ra Nghĩa-hội có quan Sơn-phòng-sứ là Trần văn-Dự làm chủ ; những tỉnh Phú yên, Bình-định, Bình-thuận đều noi theo Nghĩa-hội, nổi lên ; ở Quảng-trị, bọn ông Trương đình-Hội, Nguyễn tự-Như ; Quảng-bình có quan nguyên tri-phủ Nguyễn phạm-Tuân, Hà-tĩnh thì cậu ấm Lê-Ninh (con nguyên Bố-chánh Lê-Kiên ở La-sơn), Nghệ-an có bọn ông nghè Nguyễn xuân-Ôn và quan Sơn-phòng-sứ Lê doãn-Nhạ, lại bọn Hà văn-Mao ngoài Thanh-hóa : tất cả đều xướng lên việc « Cần-Vương », đem quân đánh các tỉnh, phủ, huyện, đốt phá những làng theo đạo. Được ít lâu, Tôn-thất-Thuyết coi chừng không đánh lại Pháp, để vua Hàm-Nghi lại Quảng-bình, nói sang cầu cứu với Tàu, ông theo đường thương-đạo lên Lai-châu, sau chết già tại Thiều-châu (thuộc Quảng-đông). Vua Hàm-Nghi ẩn núp ở vùng huyện Tuyên-hóa (Quảng bình) tiếp tục đánh phá mạn Quảng-bình và Hà-tĩnh. Năm 1886, vua Đồng-Khánh, có đại-úy Billet đi hộ-giá, ra Quảng-bình dụ vua Hàm-Nghi và Văn-thân cho êm chuyện, nhưng không có hiệu quả gì. Bọn Văn-thân ở Phú- yên và Bình-định là Cử-nhân Mai xuân-Thưởng, Bùi-Điện, và Nguyễn đức-Nhuận thì bị bắt và bị chém (1886). Tháng 9 năm 1886, Đồng-Khánh khôi phục hàm cho Hoàng kế-Viêm, sai ra Quảng-bình dụ vua Hàm-Nghi nữa và đảng Văn-thân. Lại cũng không có hiệu quả gì. Hoàng kế Viêm bị triệt về. Đến 26 tháng 9 năm Mậu-tý (1888), hai tên hầu cận vua Hàm-Nghi là tên Ngọc và tên Tình ham tiền thưởng của Pháp, đưa hơn 20 thủ-hạ lên vây làng Tả-bảo (thuộc huyện Tuyên-hóa, Quảng-bình) đến nửa đêm xông vào nơi vua Hàm-Nghi ở, bắt Ngài. Tôn-thất Thiệp (con thứ Tôn-thất Thuyết) thấy động, cầm gươm hoảng-hốt nhảy ra, bị chúng đâm chết. Vua Hàm-Nghi trông thấy tên Ngọc làm phản, đưa gươm bảo : « Mày giết tao đi, còn hơn là đưa tao về nộp cho Tây ». Chúng võng Ngài về, lúc ấy Ngài mới 18 tuổi. Pháp hỏi gì, Ngài cũng không nói, nhất thiết chối rằng Ngài không phải là vua. Người Pháp đưa Ngài sang ở Algérie, mỗi năm cấp cho Ngài 2 vạn rưởi phật-lăng. Ngọc được thưởng hàm lãnh-binh, Tình cũng được thưởng hàm quan võ, còn thủ-hạ được làm xuất-đội, hoặc mỗi đứa mấy đồng bạc. 59 Tuy vua Hàm-Nghi đã bị bắt, phong-trào « cần-vương » vẫn tiếp tục kháng chiến. Và trước sau, đã gây được nhiều trận rất oanh-liệt khiến Pháp phải thán-phục. 3) NHỮNG TRẬN KHÁNG-CHIẾN OANH-LIỆT CỦA PHONG TRÀO CẦN-VƯƠNG Ở TRUNG, BẮC-KỲ Phong-trào « cần-vương cứu-quốc » lan tràn suốt từ Nam ra Bắc đã làm quân đội Pháp bối-rối và thán-phục vô cùng. Pháp chịu phí tổn rất nhiều về cả tiền tài lẫn nhân-lực vẫn không dẹp yên. Nhưng những trận oanh-liệt nhất của phong-trào ta phải ghi trận « Ngàn trươi », « Ba-đình », « Bãi-sậy », và « Yên-thế. Trận Ngàn trươi : Phan Đình-Phùng, người làng Đông thái, huyện La-sơn, tỉnh Hà-tĩnh, đỗ Đình-nguyên năm 1877 60 thấy quân Pháp hiếp-chế triều-đình, đứng đầu đảng văn-thân, mở đồn-điền ở Vũ-quang (phía bắc huyện Hương khê (thuộc Hà-tĩnh) cho người sang Tàu, Tiêm-la học đúc súng đạn để khởi binh đánh Pháp. Tổ-chức quân-đội, Phan đình-Phùng đã lập một chiến khu kiên-cố trong khoảng rừng Hồng-lĩnh tục gọi « Ngàn trươi », làm cho quân Pháp chịu nhiều phen điêu-đứng. Đại-úy Gosselin đã phải khen 61: « Quan Đình-nguyên Phan đình-Phùng có tài kinh-doanh việc quân binh, biết luyện tập sĩ tốt theo phép Thái-tây, áo quần mặc một lối, và đeo súng kiểu 1874 62, do người của quan Đình-nguyên đúc ra thật nhiều mà máy móc cũng hệt như súng Pháp, chỉ vì lòng không sẻ rãnh, cho nên đạn không đi xa ». Vào cuối trung-tuần tháng 11 năm Quý-tỵ (1893) ông sai người, đến vây nhà tên Trương quang-Ngọc, chém lấy đầu giả thù tội phản ác, bắt vua Hàm-Nghi. Người Pháp đánh mãi, trong 2 năm, không thắng nổi, bèn dàn-xếp với triều-đình sai Hoàng cao-Khải viết thư dụ ông, cũng không xong. Sau triều-đình phái tổng-đốc Bình định Nguyễn-Thân làm Khâm-mạng tiết-chế quân-vụ đem binh ra tiễu-trừ. Hồi này, Phan đình-Phùng đã phải bệnh mà chết. Nguyễn-Thân ra, có người chỉ mộ, đào lấy xác, xin Pháp đốt thành tro trộn với thuốc súng mà bắn.63 Trận Ba-đình : Ba-đình là một chiến-lũy do viên cai tổng cựu Đinh công-Tráng (người làng Nam-tràng, tổng Cẩm-bối, huyện Thanh-liêm, tỉnh Hà-nam) xây năm 1887 bằng đất bùn với tre tươi, rộng 400 thước, thước dài 1.200 thước, bao bọc ba làng Hậu-thịnh, Mỹ-khê và Thượng-thọ, ở giữa một cánh đồng lầy, thuộc tỉnh Thanh-hóa. Đinh Công Tráng xưa từng theo Hoàng kế-Viêm và Lưu vĩnh-Phúc ra trận, cho nên thu thập được nhiều kinh-nghiệm về quân-sự. Chiến-lũy Ba-đình rất lợi hại, đã làm nghẽn đường tiếp-tế của quân Pháp từ Bắc vào Trung. Các tướng Pháp Metzinger và Dods đã chịu hao quân tổn của, cùng đủ cỡ súng nặng nhẹ để đánh phá, chiến-lũy Ba đình vẫn trơ-trơ, không nao núng. Sau cùng, đại-tá Brissaud phải đưa tới 76 viên bộ tướng 64và 3.530 quân bao vây đánh luôn trong mấy ngày, thành Ba-đình mới vỡ, Đinh công-Tráng chạy về Nghệ-an bị bắn chết đêm 5-10- 1887. Tướng Pháp là Masson khen Đinh công-Tráng : « Người có trật tự, cương-trực, trọng kỷ-luật, hay nghiêm-trị những thủ-hạ quấy nhiễu dân, lại có chí nhẫn-nại, biết mình biết người, cho nên không bao giờ hành quân cẩu-thả đến nỗi quân đội bị hao-tổn. Đã thế ông, còn giỏi lập trận-thế, khéo dụ quân Pháp vào chỗ nguy ». Trận bãi sậy : Quan Tán-tương quân-vụ Nguyễn thiện Thuật (tức Tán Thuật) 65 cùng quan Đề-Đốc Tạ Hiện giữ vùng Bãi-sậy (Hải-dương). Đây là một chiến-lũy thiên nhiên, rất lợi hại với những bụi sậy um-tùm bao la. Tổng-đốc Hải-dương là Hoàng cao-Khải phải kéo đại binh vào vây cả bốn mặt, cùng tiến vào, đánh rất ráo-riết, giết và bắt sống được nhiều văn-thân. Nhưng Tán Thuật trốn thoát, sang Tàu, sau mất ở Nam-ninh. Trận Yên-thế : (Yên-thế thuộc Bắc-giang) cách tỉnh-lỵ 23 cây số). Hoàng-hoa Thám chính tên là Trương văn Thám, người thôn Ngọc-cúc, phủ Yên-thế, tỉnh Bắc-giang, trước theo Trần quang-Loan chống Pháp, được chức Lãnh binh. Sau sang Tàu giúp Cai-Kinh đầu đảng Đồng-nai. Giở về đổi tên là Hoàng-hoa Thám lập chiến-khu ở Yên-thế năm 1886. Hoàng hoa-Thám dựng cờ khởi nghĩa từ năm 1886, kéo dài mãi đến năm 1913 cụ bị giết mới yên. Chuyên dùng chiến-thuật du-kích, và lợi dụng đường hầm lừa địch vào sâu, thình lình đánh chặn hậu. Quân Pháp bị thiệt hại rất nhiều. Năm 1889, muốn chấn chỉnh lại binh lực, Cụ trá hàng Pháp, với điều-kiện Pháp không được xâm phạm vào vùng Yên-thế. Năm 1913, Pháp thuê Lương tam-Kỳ, sai 3 thủ-hạ người Tàu xin nhập đảng của Cụ. Lúc đã được Cụ tin dùng, 3 tên này thừa khi Cụ ngủ, giết Cụ vào ngày 10 tháng 2 để lĩnh thưởng. Cụ Hoàng hoa-Thám chết. Phong trào « CẦN VƯƠNG CỨU QUỐC » chấm dứt, đã có « PHONG TRÀO DUY TÂN » nổi dậy thay vào. """