"Lịch Sử Việt Nam 3: Từ Tây Sơn Khởi Nghĩa Đến Triều Tự Đức (Nội Trị) Nhà Nguyễn PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lịch Sử Việt Nam 3: Từ Tây Sơn Khởi Nghĩa Đến Triều Tự Đức (Nội Trị) Nhà Nguyễn PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Tên sách : LỊCH SỬ VIỆT NAM (Q.III) TỪ TÂY-SƠN KHỞI NGHĨA ĐẾN TRIỀU TỰ-ĐỨC NỘI TRỊ NHÀ NGUYỄN Tác giả : PHAN XUÂN HÒA Nhà xuất bản : VĨNH THỊNH ------------------------ Nguồn sách : scmn-vietnam.blogspot.com Đánh máy : Nguyễn Văn Trọng Kiểm tra chính tả : Nguyễn Thành Lộc, Lưu Nguyễn Thị Hợp Biên tập ebook : Thư Võ Ngày hoàn thành : 27/08/2019 Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U.ORG Cảm ơn tác giả PHAN XUÂN HÒA và nhà xuất bản VĨNH THỊNH đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá. MỤC LỤC CHƯƠNG I : TÂY-SƠN KHỞI NGHĨA CHƯƠNG II : HỌ TRỊNH MẤT NGHIỆP 1) LOẠN KIÊU BINH 2) NGUYỄN HỮU-CHỈNH BỎ TRỊNH THEO TÂY-SƠN 3) TÂY-SƠN LẤY THUẬN-HÓA 4) TÂY-SƠN LẤY BẮC-HÀ 5) TÂY-SƠN TỎ NGHĨA PHÙ LÊ CHƯƠNG III : NHÀ LÊ MẤT NGÔI 1) NGUYỄN HỮU-CHỈNH CHUYÊN QUYỀN 2) ANH EM TÂY-SƠN BẤT HÒA VỚI NHAU 3) NGUYỄN HỮU-CHỈNH ĐÒI TÂY-SƠN GIẢ NGHỆ-AN CHO BẮC-HÀ 4) TÂY-SƠN GIẾT NGUYỄN HỮU-CHỈNH 5) TÂY SƠN a) LẤY ĐẤT BẮC HÀ b) BÀI ĐỌC THÊM : NHỮNG BẬC KỲ TÀI 6) LÊ CHIÊU THỐNG CẦU CỨU VỚI NHÀ THANH 7) QUÂN THANH CHIẾM BẮC-HÀ 8) VUA QUANG-TRUNG ĐẠI PHÁ QUÂN THANH 9) THẮNG LỢI VỀ NGOẠI-GIAO CỦA QUANG-TRUNG a) THẮNG LỢI VỀ NGOẠI-GIAO b) BÀI BỌC THÊM : NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA CHIÊU-THỐNG LƯU VONG CHƯƠNG IV : NHÀ TÂY-SƠN 1) VUA QUANG TRUNG 2) KẾT LUẬN VỀ TÂY SƠN CHƯƠNG V : NGUYỄN-VƯƠNG THỐNG NHẤT SƠN-HÀ 1) NGUYỄN-VƯƠNG LẤY LẠI ĐẤT ĐAI GIA-ĐỊNH 2) NGƯỜI PHÁP GIÚP NGUYỄN-VƯƠNG 3) NGUYỄN-VƯƠNG ĐÁNH QUI-NHÂN 4) NGUYỄN-VƯƠNG LẤY PHÚ-XUÂN a) QUI-NHÂN BỊ TÂY-SƠN VÂY HÃM b) NGUYỄN-VƯƠNG LẤY PHÚ XUÂN c) VÕ-TÍNH VÀ NGÔ TÒNG CHU TỬ-TIẾT, THÀNH QUI NHÂN LẠI TRỞ VỀ NGUYỄN-VƯƠNG 5) NGUYỄN-VƯƠNG THU HỒI ĐẤT CŨ, LÊN NGÔI TÔN 6) NGUYỄN-VƯƠNG LẤY BẮC-HÀ CHƯƠNG VI : NHÀ NGUYỄN 1) VUA THẾ-TỔ NIÊN HIỆU GIA-LONG 2) VUA THÁNH-TỔ NIÊN-HIỆU MINH-MỆNH a) NỘI TRỊ b) NGOẠI GIAO 3) VUA HIẾN-TỔ NIÊN-HIỆU THIỆU-TRỊ 4) VUA DỰC-TÔNG NIÊN-HIỆU TỰ-ĐỨC TÓM TẮT TOÀN QUYỂN BẢN-ĐỒ NƯỚC VIỆT-NAM TỪ PHÂN-LY ĐẾN THỐNG NHẤT PHỤ TRƯƠNG 1) THẾ NÀO LÀ « TRUNG » 2) VÀI DI-TÍCH VĂN-CHƯƠNG TRONG NHỮNG CUỘC BANG GIAO TRUNG VIỆT 3) PHAN-HUY-THỰC VỚI « TỲ-BÀ HÀNH DIỄN NÔM » 4) PHAN HUY-CHÚ VỚI « LỊCH TRIỀU HIẾN CHƯƠNG LOẠI CHÍ » 5) PHAN HUY-VỊNH VỚI « 8 BÀI NGỰ THI » CỦA TỰ-ĐỨC PHAN XUÂN HÒA LỊCH SỬ VIỆT NAM Quyển III TỪ TÂY-SƠN KHỞI NGHĨA ĐẾN TRIỀU TỰ-ĐỨC (NỘI TRỊ) NHÀ NGUYỄN SOẠN THEO CHƯƠNG-TRÌNH BỘ Q.G.D.G. DÙNG CHO BẬC ĐỆ NGŨ TRUNG-HỌC. Nhà xuất-bản Vĩnh-Thịnh 63, Lo Su HANOI CHƯƠNG I : TÂY-SƠN KHỞI NGHĨA Năm 1771, Nguyễn-Nhạc (Biện Nhạc) bị truy tố về tội lạm tiêu tiền thuế, trốn lên miền sơn-cước Qui-nhân. Cùng hai em là Nguyễn-Lữ và Nguyễn-Huệ thu thập dân chúng, Nguyễn-Nhạc hô hào trừ gian-thần Trương phúc-Loan trong triều-đình Chúa Nguyễn, lộng quyền làm hại nước. Gây thế lực trên vùng Tây-sơn, rồi năm 1773, Nguyễn Nhạc xuống chiếm thành Qui-Nhân, tràn vào lấy Quảng nghĩa và Bình-thuận. Giang-sơn của Chúa Nguyễn, như thế, bị cắt làm ba đoạn, đoạn giữa thuộc Tây-sơn. Đương lúc Chúa Nguyễn phải đối phó với Tây-sơn, Chúa Trịnh sai Hoàng ngũ-Phúc dẫn quân vào Bố-chính, vượt qua Linh-giang vào Quảng-bình, cũng hô hào trừ Trương phúc Loan giúp Nguyễn. Chúa Nguyễn muốn tránh cuộc binh đao với Trịnh, bắt giải Trương phúc-Loan cho Ngũ-Phúc. Mặc dầu, Ngũ-Phúc vẫn tiến quân, nói còn đàn áp sức Tây-sơn. Biết là họ Trịnh, kẻ thù lâu năm, nhân nhịp có Tây-sơn quấy rối ở miền trong, mà cử binh vào đánh, Chúa Nguyễn sai quân ra án ngự. Nhưng án ngự không nổi quân Trịnh, Chúa Nguyễn mất thành Phú-xuân năm 1774, phải chạy vào Quảng-nam. Vào Quảng-nam, Chúa Nguyễn bị Tây-sơn từ trong đánh ra ráo-riết, phải chạy vào Gia-định (1775). Tây-Sơn vừa đuổi được Chúa Nguyễn vào Gia-định gặp ngay quân Trịnh đến chiếm mất Quảng-nam. Tuy thắng lợi, quân Hoàng ngũ-Phúc không hợp thủy thổ, lại có bệnh dịch tả hoành hành, chịu bỏ Quảng-nam, rút về Phú-xuân. Trong lúc này, tướng sĩ của Chúa Nguyễn lại quật cường lên được, thu phục đất Bình-thuận, Diên-khánh và Bình-khương. Tây-sơn muốn diệt Nguyễn ở trong nam, bèn tính cách hòa với Trịnh cho rảnh tay ngoài mạn bắc : xin giao cho Trịnh những đất đã lấy được, và tình nguyện giúp Trịnh trừ Chúa Nguyễn. Được nhịp lợi dụng sức Tây-sơn để trừ Nguyễn, Hoàng ngũ-Phúc xin Chúa Trịnh phong cho Nguyễn-Nhạc làm Trấn thủ Quảng-nam, Tuyên-úy Đại-sự Cung-quận-công. Sai Nguyễn hữu-Chỉnh vào giao Sắc, Ấn, Kiếm cho Nguyễn Nhạc. Sau lại phong cho Nguyễn-Huệ làm Tây-sơn-hiệu tiền-phong tướng-quân, vì có công đánh quân Nguyễn, mới lấy lại được Phú-yên. Thu xếp ổn thỏa với Trịnh rồi, Tây-sơn không lo gì về mặt ngoài nữa, soạn sửa đưa toàn lực vào mạn trong đánh Nguyễn. Năm 1776, Nguyễn-Nhạc sai Nguyễn-Lữ vào Gia-định đánh Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn thua, bỏ Sài-côn chạy về Trấn-biên (Biên-hòa). Song quân Đông-sơn, do Đỗ thanh Nhân chỉ huy, lại thắng Nguyễn-Lữ ; thu hồi Sài-côn cho Chúa Nguyễn. Năm sau, 1777, cả Nguyễn-Lữ, Nguyễn-Huệ vào Nam. Lần này Chúa Nguyễn đại bại, chạy lên Bến-tre, rồi sang Ba-việt tới Long-xuyên, cùng Đông-cung Dương và Nguyễn phúc-Đồng (con Chương-Võ) bị bắt và bị hại. Duy Nguyễn Ánh (con Chương-Võ, em Phúc-Đồng) trốn thoát. Sau khi Lữ, Huệ, giở ra Qui-nhân, Nguyễn-Ánh thu thập các tướng sĩ, phản công, thu hồi đất Gia-định. Từ đấy, các tướng tôn Nguyễn-Ánh lên làm Đại-nguyên-súy quyền coi việc nước. Xong, lại tôn ngài lên Vương. Nguyễn-vương (Nguyễn-Ánh) tổ chức mọi việc ở Gia định, mưu kế lâu dài, đợi cơ-hội ra Bắc đánh Tây-sơn. Nhưng, năm 1781, tướng Đông-sơn Đỗ Thanh-Nhân, cậy công lộng quyền, bị Nguyễn-vương xử tử. Quân Đông sơn bất bình, làm phản. Nhân việc nội biến này, Nguyễn Nhạc lại sai Nguyễn-Huệ vào đánh Gia-định. Nguyễn-vương thua to, trốn ra đảo Phú-quốc. Song tướng Chu văn-Tiếp, Nguyễn phúc-Mân sau khi Nguyễn-Huệ giở ra Qui-nhân, lấy lại được Gia-định giở về cho Nguyễn-vương. Năm 1783, Nguyễn-Huệ và Nguyễn-Lữ vào đánh Gia định lần nữa. Nguyễn-Vương cũng lại chạy ra Phú-quốc. Bị quân Tây-sơn lùng bắt, Nguyễn-vương trốn quanh trên các đảo trong vịnh Tiêm-la. Hồi này, Nguyễn-vương gặp giám mục Bá-đa-lộc bàn mưu nhờ nước Pháp, giữa lúc tướng Chu văn-Tiếp chạy thẳng xin viện binh với Tiêm-la. Vua Tiêm-la mời Nguyễn-vương sang Vọng-các, rồi cho quân qua giúp. Nhưng quân Tiêm-la mới đánh được vài đồn, khi tới Mỹ-tho, bị Nguyễn-Huệ phá tan. Mất đi, lấy lại đất Gia-định đã 4 lần rồi, phải nhờ cả đến quân Tiêm-la, mà thất bại vẫn hoàn toàn thất bại, Nguyễn vương giở qua Tiêm-la, lưu trú tại Long-kỳ, ngoại thành Vọng-các ; và bấy giờ, Nguyễn-vương mới nhất quyết nhờ giám-mục Bá-đa-lộc đưa hoàng-tử Cảnh sang Pháp-đình cầu cứu. Đất của Chúa Nguyễn như vậy, từ Quảng-nam vào Gia định, thuộc Tây-sơn, từ Hải-vân-quan ra Bắc thuộc Trịnh. 1 CHƯƠNG II : HỌ TRỊNH MẤT NGHIỆP 1) LOẠN KIÊU BINH Trong lúc miền Nam bị khốn đốn vì chính sách bất công của tên gian-thần Trương phúc-Loan gây ra phong trào Tây Sơn khởi nghĩa, thì ngoài Bắc họ Trịnh lấn áp vua Lê, tác oai tác họa, nhất là sự hỗn loạn của « Kiêu binh » làm cho dân gian đồ thán, triều-đình nghiêng ngửa. Nguyên từ hồi trung-hưng (1533), nhà Lê lấy lính ở ba phủ Thanh-hóa và 12 huyện Nghệ-an. Cứ 3 xuất đinh lấy một xuất lính đóng ở kinh-thành làm quân túc-vệ. Số lính này gọi chung là quân Tam Phủ, đã từng chia sẻ những nỗi gian lao với quốc-gia, cho nên triều-đình coi như móng vuốt, đối đãi ưu hậu. Vì vậy, lính này sau gọi là « Ưu Binh ». Được hậu đãi, lũ « Ưu Binh » trở nên kiêu căng tàn nhẫn. Năm 1673, Ưu Binh thấy việc tuyển bổ và phân ban phẩm trật quan-lại không được vừa lòng, bèn nổi dậy làm loạn, giết Bồi-tụng Nguyễn quốc-Hòe (cũng có tên là Trinh) đốt nhà quốc-lão Phạm-công-Trứ, cướp lấy của cải. Năm 1740, Ưu Binh ức về việc Tham-tụng Nguyễn quý Kính (cũng gọi là Cảnh), hơi đè nén một cách trái lệ, hò nhau đến phá nhà Quý-Kính, bóc lột tài sản. Năm 1782, Tĩnh-Đô-vương Trịnh Sâm trước khi nhắm mắt, giao phó việc lập con Đặng thị-Huệ (tức bà Chúa Chè) là Trịnh Cán, cho Huy-quận Hoàng đình-Bảo (có tên nữa là Tố Lý, vừa là cháu, vừa là con nuôi Hoàng ngũ Phúc). Nhưng con trưởng của Trịnh Sâm là Trịnh Khải không phục mệnh cha, mưu cùng Ưu-binh « đảo chính ». Ưu-binh kéo nhau vào thành giết Hoàng đình-Bảo 2, hạ Trịnh Cán xuống làm Cung-quốc-Công, tôn Trịnh Khải lên ngôi, tức Đoan-Nam-vương (1782-1786). Luôn dịp, bọn Ưu binh ùa vào ngục-thất thả những con của cố thái-tử Lê duy Vỹ, là Duy-Lưu, Duy-Chi và Duy-Kỳ bi họ Trịnh bắt giam bấy lâu. Về việc bạo động này chẳng những bọn Ưu-binh không bị quở phạt gì, còn được trọng thưởng là khác : kẻ được chức Biện-lại, người được chức Cai-quản, còn được tiền bạc thêm nữa. Tuy vậy, vẫn chưa hả lòng, chúng còn đòi thêm danh phận. Vua Lê phải sai làm nhiều sắc phẩm ban ra, kẻ nào đã có phẩm trật rồi mà không muốn nhận, được quyền nhường sắc phẩm ấy cho bà con hoặc người quen thuộc. Thứ sắc này gọi là « Dực-đới tương-nhượng sắc ». Bọn Ưu binh được thể, tự phụ kiêu căng ; chúng dám nói : « các ngôi Đế, Vương đều tự trong tay chúng mà ra cả ». Lũ lượt hàng trăm kéo nhau đi các nơi giết người, phá nhà, cướp của. Mọi người đều oán trách mà gọi chúng là « KIÊU BINH » ; và mỗi khi thấy ai làm điều gì trái cương thường đạo lý, thì mắng nhiếc nhau bằng những câu « làm gì như quân Tam Phủ » ! hay là « giống lũ Kiêu-binh » ! Dân chúng ghét đến nỗi hễ thấy Kiêu-binh lảng vảng một mình ra ngoài là giết ngay. Ngoài Bắc trong thời gian này, vua Lê chỉ làm vua cho có tên, bộ máy quốc-gia ở trong tay chúa Trịnh, mà chúa Trịnh lại gián-tiếp chịu sức đoàn-kết của Ưu-binh điều khiển. Thiệt là một thời gian không có kỷ-cương, hỗn độn vô cùng. Ngoài sự tàn bạo của Kiêu-binh, dân chúng còn chịu bao nỗi khổ sở vì đói kém. Thế cho nên nhiều nơi nổi loạn : Quảng-yên thì Thiêm-Liêm khởi hấn ; Kinh-bắc có Sử-Thực dấy binh ; trên Thái-nguyên thì Cai-Già vùng vẫy… tình hình này đã làm sụp đổ cơ-đồ của cả Chúa Trịnh lẫn vua Lê. 2) NGUYỄN HỮU-CHỈNH BỎ TRỊNH THEO TÂY-SƠN Nghe tin Huy-quận Hoàng đình-Bảo và cảnh-vệ đã bị Kiêu-Binh giết trong cuộc đảo-chính, một tên thủ-hạ của Huy-quận là Nguyễn hữu-Chỉnh tìm ngay phương sách làm cho thời thế ngả nghiêng điên đảo. Nguyễn hữu-Chỉnh, người Đông-hải, huyện Chân-phúc, trấn Nghệ-an ; vốn thông mẫn và có tài năng từ thuở nhỏ, 16 tuổi đã đổ Hương-cống ; sau học võ nghệ, thi tạo-sĩ nhưng không đậu. Muốn phá ngang tìm đường tiến thân, Chỉnh vào yết kiến Hoàng ngũ-Phúc. Ngũ-Phúc dùng Chỉnh cho đi tòng quân. Năm 1774, Nguyễn hữu-Chỉnh theo Hoàng ngũ-Phúc vào Nam. Đấy là một dịp cho Chỉnh từng trải về quân sự và được Ngũ-Phúc biết đến tài Chỉnh mà mến Chỉnh. Năm 1775, hồi Tây-sơn xin hòa với Trịnh, Hoàng ngũ Phúc sai Chỉnh đi sứ vào Nam, giao kiếm, ấn, sắc cho Tây sơn. Chỉnh được tiếp xúc với anh em Tây-sơn, và đó là cái nguyên nhân mở đường sau đây cho Chỉnh tung hoành một phen. Sau khi Hoàng ngũ-Phúc chết, Chỉnh nương náu với con nuôi Hoàng ngũ-Phúc là Quận-huy Hoàng đình-Bảo, được giữ chức Hữu-tham-quân khi Đình-Bảo đóng ở Nghệ-an. Điều khiển thủy binh chống giữ mặt biển, Chỉnh tỏ ra lanh lợi giỏi giang về thủy chiến, cho nên thời bấy giờ người ta gọi Chỉnh là « con Diều biển ». Chẳng bao lâu, vì thế, Chỉnh được phong là Bằng-lĩnh-công. Cái tin Hoàng đình-Bảo bị Kiêu Binh giết do thủ hạ Chỉnh là Hoàng viết-Tuyên phi báo vào, Chỉnh định kéo bè đảng dựng cờ độc-lập ở Nghệ-an, thoát ly ra ngoài quyền lực của Lê, Trịnh. Chỉnh bàn với tuần-phủ Vũ tá-Giao dàn binh đóng ở Quỳnh-lưu và Hoàng-mai chẹn đường quân Bắc vào giữ hẳn lấy đất Nghệ-an, và một mặt kết nạp với phó tướng Thuận-hóa là Hoàng đình-Thể và đồn-thủ ở Động-hải là Khôi Xuân xin họ giết bỏ đại-tướng Phạm ngô-Cầu chiếm giữ lấy thành. Nhưng Vũ tá-Giao sợ, không giám hành động theo kế hoạch của Chỉnh, lập tức Chỉnh xuống thuyền vào Nam phò Tây-sơn. Vào đến Qui-nhân, Chỉnh được anh em Tây-sơn thu dụng ; và Chỉnh trổ hết mánh khóe để chiếm lấy lòng tin của Tây-Sơn. Thậm chí, Chỉnh đang tay giết bỏ em rể (chồng em gái) vì đã vào dụ Chỉnh giở về với Trịnh. 3) TÂY-SƠN LẤY THUẬN-HÓA Được Tây-Sơn tin dụng, Nguyễn hữu-Chỉnh thuật rõ cho Nguyễn-Nhạc biết tình hình suy nhược của miền Bắc, rồi đề nghị với Nhạc cất quân đánh Thuận-hóa. Không bỏ lỡ cơ hội, Nguyễn-Nhạc sai rể là Vũ văn-Nhậm cùng Nguyễn hữu Chỉnh quản-đốc lục-quân, Nguyễn-Lữ quản đốc thủy-quân, Nguyễn-Huệ làm Long-nhượng tướng-quân tiết chế cả thủy lục quân, tiến qua Hải-Vân-Quan, năm 1786. Cả thủy lục quân đồng tiến, Tây-sơn lấy được Thuận hóa dễ dàng, không hao tổn mấy. Nguyên từ khi Hoàng ngũ-Phúc bị Tĩnh-đô-vương triệu về Bắc vì ngoài Bắc không yên, Bùi thế-Đạt vào thay trấn thủ Thuận-hóa, sau lại Phạm ngô-Cầu vào thay Đạt. Phạm ngô-Cầu nhu nhược, vô mưu, còn thêm tính tham-lam, chỉ lo làm giầu, không nghĩ gì đến việc binh. Quan phó đốc-thị là Nguyễn lĩnh-Tân đã viết thư về triều bày tỏ mọi lẽ và xin Trịnh Sâm cho tướng khác vào thay. Trịnh Sâm không nghe, lại đòi Lĩnh-Tân về. Một hôm có người khách buôn đến nói với Phạm-ngô Cầu : « Hậu vận tướng công phúc lộc nhiều lắm, nhưng năm nay có hạn nhỏ, sẽ ốm đau, nên lập đàn làm chay mới được yên lành ». Phạm ngô-Cầu nghe lời ấy, lập đàn cầu khẩn 7 đêm ngày, quân sĩ phải phục dịch không được nghỉ ngơi ; cho nên lúc nghe tin quân Tây-sơn kéo đến, quân lính mỏi mệt không ai muốn đánh. Phạm ngô-Cầu có ngờ đâu đã mắc mưu Tây-sơn mà lập đàn làm chay. Lại thêm một mưu nữa làm cho Phạm ngô-Cầu đưa thân đến đường cùng : Nguyễn hữu-Chỉnh viết thư rủ phó-tướng Hoàng đình-Thể hàng và làm nội ứng cho Tây-sơn ; rồi cho người đưa nhầm thư ấy đến tay Phạm ngô-Cầu. Phạm ngô-Cầu nghi Đình-Thể nhị tâm, đóng cửa thành, không tiếp ứng cho Đình-Thể ngoài mặt trận. Hoàng đình-Thể cùng 2 con đều làm hiệu-úy, và tỳ-tướng Vũ tá-Kiên, hết đạn dược, đều tử trận cả. Khi quân Tây-sơn đến thành, Phạm ngô-Cầu kéo cờ hàng. Nhưng Tây-sơn không dung thứ, bắt giải vào Qui-nhân, chém bỏ. Lấy Thuận-hóa rồi, đánh gấp luôn các đồn, Tây-sơn thu hết đất từ Thuận-hóa đến Linh-giang. 4) TÂY-SƠN LẤY BẮC-HÀ Lấy xong đất từ Thuận-hóa đến Linh-giang rồi, Nguyễn hữu-Chỉnh bàn cùng Nguyễn-Huệ nhân dịp quân khí đang hăng, nên ra lấy Bắc-hà. Thấy Nguyễn-Huệ còn lưỡng lự, Chỉnh nói : trong nước hiện không có nhân tài ; vả đã có vua lại có cả chúa là một sự cực biến xưa nay ; hiện thời Trịnh chúa mượn tiếng phò Lê, kỳ thực hiếp chế Lê triều, người trong nước chẳng ai tâm phục ; nếu bây giờ ông lấy tiếng phù Lê diệt Trịnh mà cất quân, thì ai cũng theo, thành công sẽ dễ như giở bàn tay ; còn như ông nói « chỉ phụng mệnh đánh Thuận-hóa mà tiến ra Bắc-hà là trái mệnh », thì kinh Xuân-thu chả đã dạy rằng : « trái điều nhỏ mà được công nhớn, việc trái ấy còn kể chi » ; hơn thế nữa, ông không nghe câu « tướng ở ngoài, dầu có mệnh vua cũng mặc » hay sao ? Đồng ý với Nguyễn hữu-Chỉnh Nguyễn-Huệ giao Thuận hóa cho Nguyễn-Lữ giữ, cương quyết tiến quân ra Bắc ; sai Nguyễn hữu-Chỉnh dẫn lục quân vào cửa Đại-an, lấy đồn Vị hoàng 3, tự mình dẫn thủy binh tiếp sau, ước với Hữu-Chỉnh đến sông Vị-hoàng đốt lửa làm hiệu. Dẫn quân qua Nghệ-an Thanh-hóa, Nguyễn hữu-Chỉnh thong dong như đi vào chỗ không người, quan trấn-thủ Bùi thế-Toại và Tạ danh-Thùy không dám ra kháng cự. Chỉnh đến Vị-hoàng thì quan coi đồn ở đấy cũng bỏ chạy. Chỉnh lấy được hơn trăm vạn hộc lương rồi đốt lửa làm hiệu. Quân Nguyễn-Huệ vừa kéo đến, đóng giữ. Khi được tin Thuận-hóa đã mất về Tây-sơn, các quan Trịnh nói : Thuận-hóa không phải đất của triều-đình 4giữ lấy không ích gì, mất đi là may ; ta chỉ nên giữ lấy giới hạn của ta. Rồi cắt Trịnh tư-Quyền đem quân vào giữ Nghệ-an. Trịnh tư-Quyền thu xếp hơn 10 ngày chưa xong, đến khi ra đi mới được độ 30 dặm, đã có tin báo Tây-sơn đến đóng ở Vị-hoàng rồi. Tư-Quyền bèn đem quân xuống giữ mặt Kim-động, quan trấn-thủ Sơn-nam là Bùi thế-Dận đem binh đóng ở xã Phù-xa, thuộc huyện Đông-an ; Đinh tích-Nhưỡng thu quân giữ Cửa-luộc. Nguyễn-Huệ sai lấy tượng gỗ để lên mấy thuyền rồi đánh trống kéo cờ thả thuyền theo gió. Đinh tích-Nhưỡng ra lệnh bắn. Súng bắn mãi, thuyền cứ trôi, đến lúc biết là trên thuyền chỉ có tượng gỗ thì thuốc đạn đã hết. Đinh tích Nhưỡng bỏ chạy. Quân của Tự-Quyền và Bùi thế-Dân cũng tan. Nguyễn-Huệ từ Vị-hoàng ra, không khó nhọc gì mà chiếm được Sơn-cam, rồi thẳng tiến lên Thăng-long. Đi đến bến Tây-long (Thọ-xương) đánh tan thủy binh của Trịnh ; bộ binh của Trịnh đóng ở Vạn-xuân (xã Vạn-phú, huyện Thanh-trì) cũng bị phá tan, tướng Hoàng phùng-Cơ chạy trốn. Chúa Trịnh (Trịnh Khải) bỏ kinh-thành định trốn lên Sơn tây, mới chạy đến làng Hạ-lôi (huyện Yên-lãng) gặp tên Nguyễn Tráng bắt định đem nộp cho Tây-sơn, nhưng Trịnh Khải, lúc bị giải đến làng Nhật-chiêu, lấy gươm cắt cổ tự tử (21-7-1786). Nguyễn-Huệ đường hoàng vào thành Thăng-long yết kiến vua Lê, hôm 21 tháng 7 năm 1786. Nhà Trịnh giúp Lê bắt đầu từ Trịnh Kiểm, lập nên nghiệp Chúa từ đời Trịnh Tùng đến đời Trịnh Khải là đời thứ 8, được 210 năm thì hết (1576-1786). 5) TÂY-SƠN TỎ NGHĨA PHÙ LÊ Nguyễn-Huệ dứt được họ Trịnh rồi vào yết kiến vua Lê ở đền Vạn-thọ. Nguyễn-Huệ tâu bày cùng Lê Hiển-tông cái lẽ cất quân phù Lê diệt Trịnh, chứ không có ý dòm ngó đất đai của nhà Lê. Vua Lê, mừng rỡ, cảm kích vô cùng ! Nguyễn hữu-Chỉnh tâu với Hiển-tông xuống chiếu triệu các quan về và thiết lập đại trào ở điện Kính-thiên. Tại đấy Nguyễn-Huệ đem các tướng vào lạy vua, dâng sổ quân sĩ, dân đinh, để tỏ rõ nghĩa tôn phù nhất thống. Vua phong cho Nguyễn-Huệ làm Nguyên-soái Uy-quốc-công và lại gả con gái là Ngọc-hân công-chúa cho Nguyễn-Huệ. Chưa đầy một tháng sau (10-8-1786) Lê Hiển-tông băng hà, hoàng-tông là Duy-kỳ (Lê Mẫn-đế) lên nối ngôi, đặt niên-hiệu là Chiêu-Thống, thì Tây-sơn-vương Nguyễn Nhạc cũng từ Qui-nhân ra Thăng-long. Nguyên mấy tháng về trước, khi đánh được Thuận-hóa rồi, Nguyễn-Huệ viết thư báo cho Nguyễn-Nhạc biết, và nói sắp sửa ra đánh Bắc hà. Nguyễn-Nhạc cho người ra Thuận-hóa ngăn lại, nhưng sứ thần đến Thuận-hóa thì Nguyễn-Huệ đã cất binh đi rồi. Sau đó, Nguyễn-Nhạc lại nhận được tin Nguyễn-Huệ đã hạ thành Thăng-long. Phần bất bình vì chưa cho mệnh-lệnh mà Nguyễn-Huệ đã ra đánh Bắc, phần để Nguyễn-Huệ vùng vẫy một mình ở ngoài Bắc mãi, e có biến về sau, cho nên Nguyễn-Nhạc vội vàng đem 500 quân, ra Thuận-hóa lấy thêm 2.000 nữa, kíp ra Thăng-long. Đến Thăng-long, Nguyễn-Nhạc mời vua Chiêu-Thống sang Phủ-đường làm lễ tương kiến. Vua Chiêu-Thống, lúc được tin vua Tây-Sơn ra, định theo lời Nguyễn hữu-Chỉnh dâng ấn tín xin hàng Tây-sơn. Sau thấy còn được ưu đãi, bỏ chuyện xin hàng, nhưng xin nhường đất mấy quận cho Tây sơn làm lễ khao quân. Nguyễn-Nhạc nói : « Vì họ Trịnh hiếp chế nhà vua, cho nên chúng tôi ra giúp nhà vua ; một tấc đất của nhà vua, chúng tôi cũng không dám lấy ». Sau một tháng lưu lại Thăng-long, Nguyễn-Nhạc cùng Nguyễn-Huệ trở vào Nam, mật truyền cho các tướng thu xếp nửa đêm ngày 17 tháng 8 kéo quân đi, bỏ Nguyễn hửu Chỉnh lại, vì anh em Tây-sơn thấy Nguyễn hữu-Chỉnh là người quá xảo-quyệt. Sáng dậy, Nguyễn hữu-Chỉnh thấy Nguyễn-Nhạc, Nguyễn-Huệ đã đi rồi, sợ lắm, vì Chỉnh trước theo Trịnh giờ chạy theo Tây-sơn, đưa Tây-sơn về diệt Trịnh, dân chúng Bắc-hà rất ghét Chỉnh. Chỉnh hoảng-hốt xuống thuyền buôn vào Nghệ-an theo gót Tây-sơn. Nguyễn-Nhạc thấy Nguyễn hữu-Chỉnh cố theo cho kịp, không nỡ bỏ, bèn cho Nguyến hữu-Chỉnh ở lại cùng tuần phủ Nghệ-an là Nguyễn-Duệ (có chỗ chép là Nguyễn-Tuấn). Nguyễn-Nhạc giao cho Chỉnh những khí-giới lấy được ở Bắc hà và 200 lạng vàng. CHƯƠNG III : NHÀ LÊ MẤT NGÔI 1) NGUYỄN HỮU-CHỈNH CHUYÊN QUYỀN Quân Tây-sơn rút vào Nam rồi, quyền bính ở-đất Bắc về cả vua Lê. Nhưng bất tài, vua Lê Chiêu-Thống lại để cho dòng Trịnh nổi lên. Một bên là Thụy-quận-công Trịnh Lệ, một bên là Côn-quận-công Trịnh-Bồng (cũng gọi là Trịnh Phùng) kéo quân đánh nhau dành quyền về tái lập nghiệp Chúa. Trịnh-Bồng thắng, tiến vào thành, được các quan như tạo-sĩ Thời-Trung, tiến-sĩ Dương trọng-Tế, các tướng Dương tích-Nhưỡng, quận-thạc Hoàng phùng-Cơ phò tá, ép Chiêu Thống phải phong cho Trịnh-Bồng làm Nguyên-súy phụ quốc Yến-đô-vương. Thế là nghiệp Chúa đã sụp đổ vì Tây sơn, nay vắng bóng Tây-sơn lại được xây lại để hiếp chế ngôi hoàng-đế nhà Lê như cũ. Nhiều quan văn võ không muốn giúp Trịnh, mà ra mặt giúp Lê thì Lê không có quyền, sợ Trịnh hãm hại, đều từ chức. Không chịu nỗi sự hiếp chế của Yến-đô-vương, Chiêu Thống xuống mật chiếu vời Nguyễn hữu-Chỉnh ở Nghệ-an ra giúp. Nguyễn hữu-Chỉnh lúc này đã có thanh-thế khá to. Nguyên khi vua Tây-sơn cho Nguyễn hữu-Chỉnh ở lại Nghệ-an, Chỉnh bàn với anh vợ là Nguyễn Khuê 5tìm cách chiếm Nghệ-an, rồi mưu lấy thiên-hạ. Khuê bàn truyền hịch chiêu binh. Chỉnh đồng ý. Trong vài ngày, Chỉnh mộ được một số quân, rồi sai người giám-sinh là Nguyễn-Ban ra yết kiến vua Lê xin mệnh chỉ cho làm Trấn-thủ Nghệ-an. Chiêu Thống không thuận – nhưng Nguyễn-Ban theo kế-hoạch của Chỉnh đã dặn trước khi ra đi – giở về Nghệ-an với sắc mệnh giả. Lập tức Chỉnh làm như sắc mệnh thật của vua Lê, thiết triều đàng hoàng, tuyên sắc chỉ cho các quan biết. Đồng thời, Chỉnh truyền hịch « tuyển binh » đi các phủ huyện nói là mục đích « phù Lê ». Nhờ cái sắc giả ấy mà con cháu những bậc công thần ở vùng Nghệ-an, trước ghét Chỉnh nay sợ quyền vua, đều quay đầu theo Chỉnh. Chả mấy chốc Chỉnh có tới vài vạn quân, uy thế lừng lẫy. Nay Lê Chiêu-Thống bị Trịnh-Bồng hiếp chế, vời Chỉnh ra giúp. Rầm rộ, Chỉnh kéo quân ra Bắc, cùng các tướng Nguyễn Viết-Tuyên, Nguyễn như-Thái và Lê-Duật. Nghe tiếng Chỉnh kéo quân ra Bắc, các tướng của Trịnh đều thất đảm. Đinh tích-Nhưỡng rút quân xuống Hàm-giang (thuộc Hải-dương) ; Quận-thạc lên Sơn-tây ; Trọng-Tế thì được lệnh vào trấn Thanh-hóa, mới đi đến nửa đường cũng sợ oai Chỉnh mà quay lên Kinh-bắc. Tại kinh-thành thì dân chúng không chịu tiếp tế lương thực cho vương-phủ. Quân mà phụng mệnh ra ngoài, qua các xã bị mọi người đuổi đánh, có khi bị lột hết quần áo ở trần mà chạy về. Trịnh vương lo lắm, đang đêm chạy trốn sang làng Quế-Ổ (thuộc phủ Từ-sơn, Bắc-ninh) lính hộ vệ được vài mươi người đi theo. Sáng hôm sau được tin Trịnh-vương đã trốn, vua Lê sai thân quân đốt hết vương-phủ. Lâu đài cung điện của chúa Trịnh gây dựng 200 năm, đến đây là tan theo ngọn lửa (8 tháng 1 năm Bính-ngọ 1786). Khi Nguyễn hữu-Chỉnh kéo quân đến Thăng-long, vua Lê sai triều-thần ra ngoài Nam-giao nghênh tiếp. Rồi phong cho Chỉnh làm Bình chương quân-quốc trọng-sự đại-tư-đồ, tước Bằng-trung-công. Từ đấy, có việc gì bách quan cũng đến nhà Chỉnh để xin quyết định. Chỉnh hống hách vô cùng : trong giữ binh quyền, ngoài giữ tiết trấn, các nơi cơ mật cốt yếu đều dùng những người thân tín trông coi ; đặt quan phong chức, làm trước tâu sau. Chỉnh cũng không khác gì Trịnh vậy. Hồi này nhân dân khổ vì ít tiền, bởi các nhà giàu sợ loạn mà tích trữ. Chỉnh ra lệnh thu hết tượng và chuông đồng ở các chùa, mướn thợ đúc tiền 6. Một mặt cho khám xét thấy người nào tàng trữ tiền bạc là bắt tội. Thấy thái-độ gian-ác của Chỉnh, vua Lê chán ghét mà muốn ngầm giết Chỉnh đi, nhưng có người can, lại thôi. Sau khi Nguyễn hữu-Chỉnh dẹp được nhóm quân Trịnh do Trọng-Tế điều khiển, bắt được Trọng Tế về giết, Chỉnh được thăng tước công, cho lập phủ đúc ấn « VŨ THÀNH CÔNG » con là Nguyễn hữu-Du được làm tước doanh phủ, quyết đoán các việc quân binh quan trọng. Được ít lâu, Quận-thạc cũng bị Chỉnh bắt được, phải uống thuốc độc mà chết. Trong lúc Nguyễn hữu-Chỉnh đắc thời, vùng vẫy ngoài Bắc, thì ở trong Nam anh em Tây-sơn bất hòa với nhau. 2) ANH EM TÂY-SƠN BẤT HÒA VỚI NHAU Ở Thăng-long về đến Qui-nhân, Nguyễn-Nhạc xưng là Trung-ương Hoàng-đế phong cho em thứ hai là Nguyễn-Lữ làm Đông-định-vương giữ đất Gia-định, em thứ 3 là Nguyễn-Huệ làm Bắc-bình-vương giữ Thuận-hóa. Lên ngôi rồi, Nguyễn-Nhạc hỏi Nguyễn-Huệ những của báu lấy được ở Trịnh phủ ngoài Bắc. Nguyễn-Huệ cự mệnh, không chịu nộp ; thế là mối hiềm khích xẩy ra giữa anh em Nguyễn-Nhạc và Nguyễn-Huệ, và cả hai bên đều động binh. Lanh lẹ, Nguyễn-Huệ kéo ngay quân vào vây thành Qui nhân. Nguyễn-Nhạc đứng vào thế nguy-ngặt đến nỗi Nhạc phải thân lên thành khóc, gọi Nguyễn-Huệ mà bảo rằng : « Nỡ lòng nào nồi da nấu thịt » 7. Cảm động trước lời kêu khóc của anh, Nguyễn-Huệ rút quân về Thuận-hóa. 3) NGUYỄN HỮU-CHỈNH ĐÒI TÂY-SƠN GIẢ NGHỆ-AN CHO BẮC-HÀ Được tin anh em Tây-sơn đang có chuyện hiềm khích với nhau, Nguyễn hữu-Chỉnh lấy làm hài lòng, và lăm-le lấy lại đất Nghệ-an cho Bắc-hà. Chỉnh sai người đem 10 lạng vàng và 10 tấm đoạn vào biếu Tuấn, xui Tuấn giữ lấy thành Nghệ-an, không thuộc vào Thuận-hóa nữa. Biết chuyện này, và xem ý Tuấn đã xiêu lòng, rể Nguyễn-Nhạc là Vũ văn-Nhậm, hiện là tả-quân đóng binh ở Động-hải vội vàng đưa thư cáo biến với Bắc-Bình-vương và xin cử binh trừ Nguyễn Tuấn cùng Hữu-Chỉnh. Nguyễn-Huệ liền ra lệnh cho Văn-Nhậm dẫn quân bắt Nguyễn Tuấn, còn Chỉnh, sẽ tính sau. Nhưng khi Văn-Nhậm ra đến Nghệ-an thì Nguyễn Tuấn vốn biết trước mưu sự với Chỉnh bị vỡ lở, không thành đã kéo quân vào Nam theo Nguyễn-Nhạc. Văn Nhậm đóng quân giữ Nghệ-an. Tính việc với Tuấn không xong, Chỉnh xin vua Lê sai Trịnh công-Sản đưa thư vào cho Tây-sơn xin giả lại đất Nghệ-an. Nguyễn-Huệ rất giận, nhưng vì tình thế miền Nam còn rối reng (anh em chưa giảng hòa hồi này) nên chưa tiện nghĩ cách trừ bỏ Chỉnh. Để giấu sự rắc-rối ở Nam, Nguyễn Huệ cho Sản về, nhưng dặn người dìm thuyền cho Sản chết đuối giữa đường. 4) TÂY-SƠN GIẾT NGUYỄN HỮU-CHỈNH Khi anh em đã hòa thuận với nhau, Nguyễn-Huệ nghĩ ngay đến việc trừ bỏ Nguyễn hữu-Chỉnh, người đang tung hoành ngoài Bắc, và lại muốn đòi lấy cả Nghệ-an của Tây sơn. Nguyễn-Huệ sai Ngô văn-Sở, Phan văn-Lân kéo quân ra Nghệ-an hội với Vũ văn-Nhậm để mưu ra Bắc trừ Chỉnh. Vũ văn-Nhậm được lĩnh ấn tiết-chế, chỉ huy chư-tướng. Văn-Nhậm đến Thanh-hóa thì trấn-thủ Lê-Duật không dám kháng cự, lui quân về giữ bên kia sông Trịnh-giang. Vượt qua sông, Văn-Nhậm đánh tan quân Lê-Duật, Lê-Duật chạy đến Cao-lũng, bị loạn quân giết chết. Qua núi Tam điệp 8quân Văn-Nhậm giết được tướng Như-Thái, còn tướng Ninh-Tốn trốn thoát. Nguyễn hữu-Chỉnh được tin quân Văn-Nhậm đã phá tan nhiều đồn, kéo đến rất gấp, cùng con là Hữu-Du cầm quân ra đương đầu với Văn-Nhậm. Trong thành từ vua chí dân đều hoảng sợ, lo thu xếp hành lý để chạy. Hữu-Du dẫn quân tinh-nhuệ đi trước, đến sông Thanh quyết đắp thổ lũy chia đồn cố thủ. Văn-Nhậm sai quân cỡi phù kiều ngầm sang sông, đến sát thổ lũy bắn phả. Quân Hữu-Du phần chết, phần chạy tán loạn, 10 phần còn thu lại được 2, Hữu-Du chạy về Cầu-châu. Nguyễn hữu-Chỉnh đi sau, khi đến Bình-tế, nghe quân Du đã vỡ, mà địch quân đuổi gần tới nơi. Chỉnh và tướng sĩ đều khiếp sợ ; Chỉnh cùng Du lập tức lui quân về thành, thu xếp hành trang, sai người hộ tống vợ con gia quyến chạy sang Kinh-bắc. Tới Kinh-bắc, Chỉnh điểm quân chỉ còn 430 người, hơn 60 đôi ngựa, kéo cả qua sông Như-quyết, đắp lũy dựng chòi, đóng đồn ở núi Tam-tầng. Vua Lê cùng hoàng-thái-hậu được Chỉnh báo tin trước, cũng lật đật kéo nhau qua Kinh-bắc, cả thảy có 17, 18 người quân theo hộ vệ. Thẳng đường, có người ngăn vua dừng lại, sục tìm trong lưng không thấy có gì, mới cho vua đi. Lúc tới bờ sông, phải thuê tiền mới có đò chở. Qua bờ bên kia lại bị lột mất áo ngự-bào. Trước hoàn cảnh thất thế, Chiêu-Thống đã sa lệ. Chạy vào núi Như-thiết, Chiêu-Thống sai em là Lê Quang và thị-thần là Lê-Quýnh cùng 30 người tôn-thất hộ giá thái-hậu lên Cao-bằng. Trong lúc vua Lê cùng văn-thần Nguyễn đình-Giản, Phạm đình-Du, Chu doãn-Lễ và Trương đăng-Quý chạy sang Yên-dũng, rồi vào núi Bảo-lộc, Văn-Nhậm sai bộ tướng là Nguyễn văn-Hòa đuổi kịp cha con Nguyễn hữu-Chỉnh, đánh nhau ở núi Tam-tầng. Hữu-Du tử trận, Tham-tri chính-sự là Nguyễn Khuê cũng bị giết ; còn Chỉnh phi ngựa chạy, nhưng bị bắt sống chẳng bao xa, đóng cũi đưa về kinh-sư để chịu tội « phanh thây ». Trừ được Nguyễn hữu-Chỉnh rồi, Văn-Nhậm sai quân lùng tìm vua Lê. Vua Lê phải lẩn trốn hết Bảo-lộc, sang Vạn-kiếp, Ái-sơn, sau đến Chí-linh, phong cho Quang-Châu làm Giao-quận-công để luyện tập binh mã ; lại sai người đi cổ võ phong trào « cần vương » ở các tỉnh, mưu khồi phục giang sơn. Kết cuộc, việc không thành, Chiêu-Thống cầu cứu với nhà Thanh. 5) TÂY SƠN a) LẤY ĐẤT BẮC HÀ Trừ được Nguyễn hữu-Chỉnh rồi, mà Lê Chiêu-Thống đã chạy mất, Vũ văn-Nhậm đóng quân tại Thăng-long. Vũ văn-Nhậm rất ác, bắt giết nhiều người, nên dân chúng oán ghét. Quân Nhậm ra ngoài thành là bị dân giết bỏ. Bởi thế Văn-Nhậm bắt đắp cao thành Đại-la, ngày đêm cấp tốc để tự vệ. Muốn yên lòng dân, Văn-Nhậm cử Sùng Nhượng-công Lê duy-Lễ (trước đã là Đông-cung, bị Kiêu binh tước bỏ) quyền giám-quốc-sự. Nguyễn-Huệ nghi Văn-Nhậm về phe với bố vợ (tức Nguyễn-Nhạc) mà làm phản chăng, cho nên lúc cử Văn Nhậm ra Bắc, Nguyễn-Huệ sai Văn-Sở đi theo. Văn-Sở nhận mật lệnh của Nguyễn-Huệ phải dò xét hành vi của Văn Nhậm. Nay thấy Văn-Nhậm khủng bố dân chúng, làm ai nấy bất bình với Tây-Sơn, lại dùng Duy-Lễ (có nơi chép là Cận) làm bồ-nhìn, Văn-Sở cho là Văn-Nhậm theo vết xe Hửu Chỉnh, nên viết thư sai người đưa vào Nam tố cáo với Nguyễn-Huệ. 9 « Dẹp lửa phải dẹp ngay từ lúc mới cháy » Nguyễn-Huệ nói thế, nên cấp tốc kéo toàn bộ binh, ngày đêm gấp đường đi Thăng-long. 10 Nguyễn-Huệ đến Thăng-long vào hồi canh tư. Văn-sở bảo mọi người phải mật chuyện. Văn-Nhậm ngủ say trong phủ. Nguyễn-Huệ vào thẳng chỗ Nhậm nằm, sai tên võ-sĩ là Hoàng văn-Lợi lấy dao đâm chết Nhậm. Đến mờ sáng, Nguyễn-Huệ ra lệnh lấy Văn-Sở làm Đại tư-mã thay Văn-Nhậm thống lĩnh quân đội ; cử đô-đốc Nguyễn Hà-Hầu làm Trấn-thủ Sơn-nam ; Tuyết Quang-Hầu làm Trấn-thủ Sơn-tây ; Nguyệt Quang-Hầu làm Trấn-thủ Kinh-bắc ; Hàm Hổ-Hầu làm Trấn-thủ Hải-dương ; Giác Hòa-Hầu coi Hình-bộ ; Ngôn Chính-Hầu coi Hộ-bộ ; Ước-Lễ Hầu coi Lễ-bộ ; Lộc-Hà-Hầu coi Binh-bộ. Rồi Nguyễn-Huệ triệu tập các văn-thần nhà Lê ra nói : « Tự-hoàng nhà Lê do ta lập nên, nhưng Tự-hoàng không gánh vác được việc nước, dùng Nguyễn hữu-Chỉnh để đến nỗi bại vong. Nếu ta không lấy Bắc-hà cũng bị người khác lấy mất. Nay ta đặt Sùng-Nhượng-công lên làm Giám-quốc-sự, các ông nên cố gắng giúp đỡ, chứ ta không có ý muốn lấy Bắc-hà làm lợi ». Trong những bậc khoa-giáp mà Nguyễn-Huệ mời ra giúp nước, có những vị được Nguyễn-Huệ gọi là « kỳ tài » mà hậu đãi (xem bài đọc thêm dưới đây). Nhà Lê làm vua, kể từ Lê Thái-tổ (Lê Lợi) cho đến Lê Chiêu-Thống bại vong (1428-1788) được 360 năm cả thảy. b) BÀI ĐỌC THÊM : NHỮNG BẬC KỲ TÀI Trần văn-Kỷ, người Thuận-hóa, là một danh-sĩ, đậu giải nguyên năm Đinh-dậu, niên hiệu Cảnh hưng. Năm Mậu-tuất lai kinh thi Hội cho nên các bậc sĩ-phu, ông đều quen biết. Khi Bắc-Bình-vương (Nguyễn-Huệ) giữ thành Phú-xuân mời ông ra giúp, rất quý mến ông, nên việc gì cũng bàn luận cùng ông. Do ông Trần-văn-Kỷ tiến cử, Bắc Bình-vương biết Ngô thời-Nhậm. Bắc-Bình-vương cho mời Ngô thời-Nhậm đến mà nói : Nhà ngươi ngày trước bị Trịnh-vương không dùng nên phải long đong. Đó có lẽ do ý trời định dành những bậc « Kỳ Tài » cho ta. Ngô thời-Nhậm giúp Bắc-Bình-vương được giữ chức tả-thị-lang lại-bộ và phong tước là Tĩnh-phái-hầu cùng với Văn-Ước quản lĩnh công việc. 11 Được trọng dụng, Ngô thời-Nhậm lại giới thiệu với Bắc Bình-vương, tiến-sĩ Phan huy-ích. Bắc-Bình-vương mời Phan huy-ích ra, phong làm Hình-bộ Tả-thị-lang, tước Thụy Nham-hầu. Khi kéo quân về nam, Bắc-Bình-vương để Nhậm giúp Văn-Sở ở Thăng-long, đưa Ích vào giúp cạnh mình, trong Thuận-Hóa. 12 6) LÊ CHIÊU THỐNG CẦU CỨU VỚI NHÀ THANH Trong khi Bắc-Bình-vương (Nguyễn-Huệ) cắt đặt quan liêu, tổ chức công việc hành chính cũng như quân sự, để rồi rút quân về Nam, thì Chiêu-Thống chạy trốn hết nơi này qua nơi nọ… xuống miền Nam, vào Thanh-hóa, lại giở ra Kinh-bắc, Phượng-nhỡn… rồi sai Lê Đản (tham-tri ngự-sử) và Danh-Án (phó đề-đốc ngự-sử) đưa thư qua Đốc-bộ lưỡng-Quảng xin viện binh (lưỡng Quảng là hai tỉnh Quảng đông và Quảng-tây). Lũ Đản, Án, sang đến đất Trung-quốc, vào quỳ lạy trước sân quan giữ cửa ải Vương Phân-Phủ mà kêu khóc rất thảm thiết : « Đại-hoàng-đế là Trời ở thượng quốc, liệt-hiến đại nhân là người giúp Trời, dám xin thương tình cho kẻ xa xôi muôn dặm, giúp chốn bị diệt, nối nơi bị đứt, để cho công thần nhà Lê được đội phúc Trời… » Sau khi việc này được đệ lên triều-đình, vua Càn-Long nhà Thanh hạ lệnh cho tổng-đốc lưỡng Quảng là Tôn sĩ Nghị, hợp cùng tổng-đốc Vân-nam và Quý-châu là Phú đại nhân đem 50 vạn quân ra ngoài biên cương giúp Lê. Nguyễn huy-Túc, trấn-mục Cao-bằng, cùng bọn theo phò quốc mẫu cũng sang tới Trung-quốc cầu cứu lúc bấy giờ, đuợc gặp bọn Đản, Án. Tổng-đốc lưỡng Quảng Tôn sĩ-Nghị cho quốc mẫu và bọn tùy tòng an nghỉ Nam-ninh. 7) QUÂN THANH CHIẾM BẮC-HÀ Trước khi cho quân vượt biên cương, Tôn sĩ-Nghị truyền hịch cho dân Đại-việt hiểu trước, sự động binh của nhà Thanh cốt giúp Lê diệt Tây-sơn. Thấy lịnh động binh của Tôn sĩ-Nghị, Trấn-thủ Lạng-sơn là Nguyễn văn-Diễm đưa quân về Kinh-bắc hiệp sức cùng Lưu-thủ Nguyễn văn-Hòa giữ Trấn thành, đồng thời đưa thư về Long-biên cáo cấp. Được tin, Văn-sở hội ngay các văn-thần và võ-tướng để bàn cách nên đánh hay nên giữ. Có ngươi bàn đánh, như Chưởng-phủ Nguyễn văn-Dũng viện cớ Lê Thái-tổ đã khéo thừa hư đánh úp, lấy ít chế được nhiều, làm bạt quân Minh, dành nền tự chủ, há nay quân Thanh xâm lấn, ta sợ gì mà không đánh. Nhưng Ngô thời Nhậm bàn việc thiên-hạ tình cùng mà thế khác, không thời nào giống thời nào… lương tướng ngày xưa lượng địch rồi sau mới tiến, chắc được rồi sau mới đánh, quyền biến tùy cơ, như đánh cờ vậy. Nghe lời và theo mưu chước của Ngô thời-Nhậm, Văn-sở hạ lệnh cho quân 5 đạo kéo về Thăng-long rồi sai bộ binh phải đủ lương thực chia đồn đóng ở núi Tam-điệp, thủy binh đóng ở núi Biên-sơn ngoài bể, thủy lục quân liên lạc như bức thành chắn ngang Nam Bắc, cho nên việc ngoài 4 trấn ở Bắc và 2 xứ Thanh, Nghệ không thông được với nhau ; rồi sai Nguyễn văn-Tuyết mang thư về Nam cáo cấp. Quân Văn-Sở rút lui như thế, cho nên quân Tôn sĩ-Nghị kéo thẳng từ cửa Ải đến Kinh-bắc, qua rừng qua suối, ngày đi đêm nghỉ, không gặp trở ngại gì, ung dung như đi vào chỗ không người. Sĩ-Nghị tự hào, nói : « Thiên binh chưa ra khỏi cửa ải, trước đã truyền hịch bá cáo, nên địch sợ-sệt mà náu núp trốn tránh ». Chiêu-Thống thân xuất quần thần đến yết kiến Sĩ-Nghị ở Kinh-bắc, rồi theo Sĩ-Nghị về Thăng-long. Đến bắc ngạn sông Nhị-hà, Chiêu-Thống xin sang đò trước về thành soạn giường màn chăn gối tại điện Kính thiên, mời Sĩ-Nghị ở đấy. Nhưng Sĩ-Nghị không bằng lòng, dừng quân lại đóng ngoài bãi cát, sai tạo phù kiều để tiện đường đi lại. Sáng hôm sau, Chiêu-Thống đến chực ở đồn Sĩ-Nghị, đưa Sĩ-Nghị vào thành. Sĩ-Nghị sai bày nghi trượng ở điện Kính-thiên và sắc bách quan bồi thị. Chiêu-Thống vận cổn miện quỳ ở trước sân, Sĩ-Nghị sai liêu thuộc dâng sách thư của vua Thanh phong Chiêu-Thống làm An-nam Quốc vương (ngày 13 tháng 11 năm Mậu-thân : 1788). Tuy Chiêu-Thống đã thụ phong, nhưng các văn thư không dám dùng Chiêu-Thống kỷ-nguyên, mà đều phải đề niên hiệu Càn Long. Ngày ngày, Chiêu-Thống đến đồn Sĩ-Nghị đợi nghe cơ vụ quân quốc. Sĩ-Nghị nghệu-nghễn tự tôn, có khi không tiếp Chiêu-Thống, chỉ ở Linh-các nói ra. Không có việc gì thì Chiêu-Thống lại về cung nghỉ. Trước hoàn cảnh ấy, dân chúng đã nói riêng với nhau : « Nước ta từ lúc có Đế Vương đến giờ, chửa phen nào phải ty khuất như thế. Làm vua mà niên-hiệu lấy Càn-Long, công việc đều do Tôn tổng-đốc ; như vậy có khác gì nội thuộc ». Trong lúc này, những người Tàu phố Hồ-khẩu (Đô thành) phố Cơ-xá (Kinh-bắc) phố Hiến (Sơn-nam) có tới hơn vạn người đều đến phụ theo ở đồn quân. Bọn ấy hiểu tiếng quốc âm, biết rõ phong tục, nhân thế, chúng rở hết cách vu hãm những người hiền lành, ức hiếp những nhà phú hộ. Ở những nơi đường xá chợ phiên, chúng cướp của ghẹo gái, chẳng kiêng kỵ gì. Dân tình thiệt là khổ sở. Vậy mà vua chẳng dám nói gì chỉ cùng bọn Lê-Quýnh chăm lo việc đền ân báo oán : giết kẻ này, bỏ tù người kia ! Thấy Tôn sĩ-Nghị dương dương tự đắc, coi nước Nam như không có người, mà Chiêu-Thống thì mờ mắt với những việc ân oán, bà Hoàng-thái-hậu không vui lòng, can ngăn chẳng được. Một hôm có người cố cung từ Tràng-an đến nói : « Nguyễn-Huệ là một người anh-hùng lão thủ, giỏi về việc binh. Xem hắn ra Bắc về Nam như xuất quỷ nhập thần, không thể biết được, bắt Nguyễn hữu-Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ văn-Nhậm như giết con lợn, không một ai dám để mắt nhìn, nghe hắn chỉ sự, khiến người phách tán hồn xiêu, sợ hơn sét đánh. Tôi e bất nhật hắn lại ra đây, Tôn tổng-đốc với những quân lêu lổng muốn về mà đánh, thì sao địch nỗi ». Lời nói của người cố cung đã làm cho vua tôi nhà Lê tỉnh ngộ, vội vàng đến đồn Tôn sĩ-Nghị khẩn cầu xuất sư. Tôn sĩ-Nghị liền trỏ vào Lê-Quýnh mà mắng rằng : « Sao không nói cho biết trước từ khi nghênh tiếp ở Lạng-sơn, để nhân lúc ta thắng, làm kiệt quệ bọn kia đang lúc khốn cùng thì chẳng dễ ư ? Nay đã nhỡ mất cơ hội để bọn kia có thì giờ mà bàn mưu kế ». Rồi Sĩ-Nghị lại nói tiếp : « Giờ ta định đến ngày mồng 6 tháng giêng sang năm thì xuất sư, kỳ hẹn đó cũng chẳng xa gì ». 8) VUA QUANG-TRUNG ĐẠI PHÁ QUÂN THANH Khi Nguyễn văn-Tuyết (đã nói ở bài trên) do Văn-Sở sai đi, đến Phú-xuân báo tin quân Thanh xâm lăng Bắc-hà, Nguyễn-Huệ cả giận muốn cất binh ngay, song các tướng yêu cầu trước chính vị hiệu, giả ân tha kẻ nhầm lỗi, cho yên lòng dân, sau sẽ cử binh ra Bắc. Nguyễn-Huệ bèn cho đắp đàn ở núi Bàn-sơn tế cáo Thiên Địa, chế áo cổn và mũ miện, lên ngôi hoàng-đế, đổi năm thứ II niên-hiệu Thái-Đức của Tây-sơn Nguyễn-Nhạc làm Quang-Trung nguyên niên (năm Mậu-thân : 1788) ; rồi hạ lệnh xuất sư, ngày 25 tháng 11. Cả thủy lục quân đều tiến. 5 ngày đến Nghệ-an, Quang-Trung mời một cống-sinh ở La-sơn tên là Nguyễn Tiếp mà hỏi việc, dùng làm quân-sư. Xong sai tướng Hàm hổ-Hầu tuyển thêm quân ở Nghệ-an, cứ 3 xuất đinh lấy một, mới ngót một tuần, tuyển được hơn vạn lính. Thân quân ở Thuận-hóa và Quảng-nam thì chia, làm tiền, hậu, tả, hữu, 4 đồn ; còn tân binh Nghệ-an thì làm trung-quân. 13 Khi Quang-Trung đến núi Tam-điệp, hai tướng Sở và Lân ra đón, mang gươm nhận tội. Quang-Trung nói : « Binh pháp đã rằng quân bị thua thì tướng phải giết. Tuy nhiên Thăng-long là nơi 4 mặt đều đánh được cả, không ngăn trở gì. Người Thanh Nam xâm, người Bắc nội ứng thì các ngươi sao hay duỗi nổi chân tay. Vậy các ngươi biết ẩn nhẫn để tránh, chia đồn giữ các nơi hiểm yếu, trong thì phẫn khích sĩ khí, ngoài thì kiêu với lũ giặc, như vậy cũng là thiện kế. Lúc mới nghe tin, ta đã ám tưởng Ngô thời-Nhậm bày ra mưu ấy. Lúc hỏi Văn-Tuyết thì đúng thật ». Đoạn Quang-Trung sai đại khao quân sĩ, hôm ấy 20 tháng chạp, và mật dụ chư tướng : « Ta cùng các ngươi hãy làm lễ tết Nguyên-đán trước, để đến hôm trừ-tịch thì khởi binh, đúng ngày 7 tháng giêng vào thành Thăng-long, mở tiệc ăn mừng. Các ngươi nhớ lấy lời ta, đừng bảo ta nói dối đó ». Sau khi cắt đặt các tướng dẫn quân đi mỗi người một ngả, tự Quang-Trung kéo đại binh qua sông. Những nhóm quân Cần-vương ở xa đồn Thanh, thấy quân Quang-Trung đến đều tan vỡ, chạy tới Phú-xuyên thì bị bắt hết, cho nên quân Thanh không nhận được tin biên báo. Nửa đêm mồng 3 tháng giêng năm Kỷ-dậu (1789) Quang-Trung tiến đến Hạ-hồi (thuộc huyện Thanh-trì, Hà-đông), mật vây quanh đồn rồi bắc loa gọi, mọi người ứng đáp vang dậy. Trong đồn sợ hãi, bèn xin hàng. Quang-Trung thu hết quân lương khí giới rồi sai lấy mộc bản buộc nhiều phiến 14 làm một bó, lấy rơm cỏ rấp nước phủ ngoài, tất cả 20 bó, cứ 10 người phải khiêng 1 bó, sau lưng dắt đoản đao, 20 người đều cầm khí giới theo sau nữa, làm trận chữ nhất. Quang-Trung cỡi voi theo sau để đốc xuất, mờ sáng ngày mồng 5 đến giáp đồn Ngọc-hồi. Quân Thanh đem súng ra bắn chẳng trúng được ai, nhân có gió bắc, mở ống chứa khói, cho khói bay mù mịt làm loạn mắt quân Nam. Chẳng may, gió thay chiều từ phương nam quật lại, quân Quang-Trung được thể, đầu đội mộc-bản xông vào, lúc giáp lá cà, quăng bỏ mộc-bản, dùng đoản đao đâm chém, những người cầm khí giới đi theo cũng đều sấn vào đột kích ; quân Thanh chống không nổi, chạy tán loạn, xéo lẫn nhau mà chết ; quân Quang-Trung chém giết được quân Thanh không biết bao nhiêu mà kể. Đám tàn quân Thanh chạy tản ra ngoài, chợt thấy quân Quang-Trung – vì Quang-Trung đã đặt nghi binh – từ Yên-dũng (nay là Yên-kiện) kéo đến, vội vàng theo đường tắt qua cầu Ích vinh mà chạy. Không ngờ lại gặp đám quân Quang-Trung khác do đô-đốc Bảo từ Sơn-minh kéo sang Đại-áng (thuộc huyện Thanh-trì), quân Thanh kinh hoảng, trốn vào làng Mặc-đàm (Đầm mực), Quỳnh-đô, bị voi của Quang-Trung đuổi theo xéo chết rất nhiều. Đồng thời, đô-đốc Long đem hữu-quân xuyên sơn ra đường Chương-đức thẳng lên làng Nhân-mục (thuộc huyện Thanh-trì) đánh then ngang vào đồn của Sầm-nghi-Đống ở Khương-thượng ; tướng Thanh là Hứa thế-Hanh, Trương sĩ-Long, Thượng duy-Thăng đều bị giết ; quan phủ Điền châu là Sầm nghi-Đống thì thắt cổ tự tử ở Đống-đa. 15 Tôn sĩ-Nghị đang mở tiệc yến mừng xuân, bỗng thấy quân đồn Ngọc-hồi chạy về cấp cáo : « Thật là tướng Tây sơn từ trên trời rơi xuống, quân Tây-sơn từ dưới đất chui lên », và « quan quân đồn Hạ-hồi đều bị giết sạch ». Tôn sĩ Nghị, hoảng-hốt chưa biết tính sao, lại thấy báo đồn Sầm nghi-Đống cũng đã vỡ, quân Tây-sơn vào đến cửa Ô rồi, Tôn sĩ-Nghị trông ra thấy khói lửa rực giời, cả kinh lật đật qua phù-kiều chạy sang Bắc, ngựa không kịp thắng yên, người không kịp mặc giáp. Quân các đồn cũng xô nhau tranh cầu, ngã xuống sông chết vô kể ; rồi một lát, cầu gãy, bao nhiêu quân rớt xuống Nhị-hà chết hết. Chiêu-Thống cùng bọn Lê-Quýnh, Trịnh-Hiểu đưa Hoàng-thái-hậu chạy ra. Nhưng phù-kiều đã gãy mà thuyền, bè lại không có ; thất thểu lên bến Nghi-tàm, cướp được chiếc thuyền đánh cá chở nhau sang Bắc ; chạy đến Tam-tầng thì Sĩ-Nghị đã qua rồi, chỉ còn quân lính bơ phờ lũ lượt chạy đông như chợ, ngày đêm không dám nghỉ. Đến đồn Hòa-lạc, nhờ có người thổ-hào sai con dẫn đường tắt, Chiêu-Thống và tùy tòng mới đến cửa ải, vừa gặp Sĩ-Nghị ở đấy. Sĩ-Nghị nói : về tâu vua Thanh xin thêm viện binh, quyết diệt được Tây-sơn mới thỏa. Vả bảo Chiêu Thống lánh vào Nam-ninh yên nghỉ. 9) THẮNG LỢI VỀ NGOẠI-GIAO CỦA QUANG-TRUNG a) THẮNG LỢI VỀ NGOẠI-GIAO Lúc Tôn sĩ-Nghị từ Thăng-long chạy đến Phượng-nhỡn (nay thuộc Bắc-giang), nghe tin tướng Tây-sơn Đắc lộc-Hầu từ Đông-đạo sắp đến đánh chẹn, nên lại sợ hãi, vứt bỏ tất cả các thức đem theo, cốt chạy thoát thân. Vì thế những sắc, cờ, bài, ấn, kiếm của vua Thanh ban cho đều bị quân Tây-sơn lấy được hết 16. Trong các giấy tờ, Quang-Trung thấy có mật dụ của Càn-long đại khái nói : « …việc không nên hấp tấp. Hãy truyền hịch cho lừng lẫy, bảo Lê Tự-tông cứ họp nghĩa binh đối địch với Nguyễn Huệ trước. Nếu người Nam muốn tôn phù nhà Lê, lại được thiên-binh cứu viện, Nguyễn-Huệ tất phải rút lui. Nhân dịp ấy, sai Tự-tông kéo quân đuổi theo, binh của ta đi sau. Như thế, không khó nhọc, mà nên được công to. Nếu người Nam nửa theo đàng nọ, nửa theo đàng kia, mà Nguyễn-Huệ không chịu lùi, ta hãy đưa thư nói rõ họa phúc, xem Nguyễn-Huệ đối đáp ra sao. Đợi khi thủy-quân ở Mân-quảng đi đường bể sang đánh mặt Thuận-hóa, Quảng-nam, bộ binh sẽ tiến lên sau. Nguyễn-Huệ trước sau thụ địch, ắt phải đầu hàng. Bấy giờ ta sẽ làm ơn cho cả đôi bên : từ Thuận hóa vào Nam cho Nguyễn-Huệ, từ Hoan-ái giở ra cho nhà Lê ; ta đóng đại binh ở lại, kiềm chế cả hai bên, rồi sẽ xử trí về sau ». Xem tờ mật dụ ấy, Quang-Trung nói với Ngô thời Nhậm : « Càn-long muốn mượn tiếng giúp Lê để lấy nước đó thôi. Nay bị ta đánh thua, xấu hổ, tất không chịu ở yên. Nhưng nếu hai nước đánh nhau hoài thì dân khổ. Vậy nên dùng lời nói khéo để tránh sự binh đao thì hơn. Việc này nhờ ngươi ». Nhân được Phúc khang-An – người mà Càn-long cử ra làm tổng-đốc lưỡng Quảng thay Tôn sĩ-Nghị, đem binh 9 tỉnh sang kinh lý An-nam – ra đến Quảng-tây nghe tin quân Tây-sơn rất mạnh, có ý sợ mà muốn giảng hòa, liền viết thư qua cho Tây-sơn, nói việc lợi hại và bảo làm biểu tạ tội để bãi binh. Trong nội-các lại có Hòa Thân, người cùng Khang An quản lý phiên sự, giúp đỡ 17. Quang Trung liền cho người đem vàng bạc đút lót cho Khang-An và Hòa-Thân, và dâng biểu cầu phong. Trong biểu Ngô thời-Nhậm viết đại khái : « nước Nam vốn không chống cự với đại quốc, nhưng chỉ vì Tôn sĩ-Nghị làm nhỡ việc cho nên phải thua. Vậy xin tạ tội và giảng hòa… » Trong lúc giúp Tây-sơn xin vua Thanh giảng hòa, Khang An mời Chiêu-Thống và các quan tùy tòng là hoàng-thúc Lê duy-Án, Đinh nhã-Hành, Đinh lịnh-Dần, Trần huy-Lâm, Lê Doãn, Lê Đính, Phan khải-Đức, Bế nguyên-Cung vào ở Quế lâm. Rồi lại nói lừa : « trời đang mùa hè nắng nóng, sang đánh phương nam không tiện, nên đợi mùa thu mát mẻ sẽ khởi binh. Nhưng nhà vua hãy nên gióc tóc thay áo, làm như dáng người Tàu : để khi về nước, giặc không nhận được mặt. Việc hành binh phải nên biến trá. Đợi khi thành công rồi lại theo tục nước ». Chiêu-Thống không ngờ là Khang-An đánh lừa, bèn cùng các quan gióc tóc đổi áo. Thế là Khang-An làm biểu tâu với vua Thanh : « Vua nước Nam Lê duy-Kỳ không có ý muốn xin viện binh nữa. Vua tôi đã gióc tóc đổi áo, yên tâm ở lại nước Tàu. Vậy xin bãi binh đánh An-nam ». Xem biểu của Quang-Trung và Khang-An, vua Thanh bèn sai sứ sang phong cho Quang-Trung làm « An-Nam Quốc-Vương » lại giáng chỉ bảo Quang-Trung lập đền thờ tướng Hứa thế-Thanh, và đích thân sang chầu. Vua Quang-Trung chọn một người hình dung giống mình là Phạm công-Trị, người làng Ma-điều, huyện Nam-đàn, hiện làm Quân-hiệu ở Nghệ-an (cháu gọi Quang-Trung bằng cậu), trá xưng « An-nam quốc vương ». Nhân dịp « bát tuần vạn thọ » vua Thanh, Quang-Trung sai Văn-sở, Phan huy Ích, Nguyễn Duật, Vũ huy-Tấn phò giả-vương Công-Trị qua Tàu. Cùng đi, có cả một ban văn-thự nhạc-công với 10 bài « Từ khúc chúc thọ » do Phan huy-Ích làm ra, theo lệnh Quang-Trung, để sang biểu-diễn, hát mừng vua Thanh. 18 Trừ các cống phẩm, Quang-Trung gửi dâng vua Thanh một đôi voi đực. Khi Phạm Trị-công và sứ-đoàn đến Yên kinh, vua Thanh rất mừng, tưởng Công-Trị là Quang-Trung thật, cho ngồi ăn yến với các vương thần, lại cho làm lễ ôm gối thân như cha con. Đến lúc sứ-đoàn về nước, vua Thanh ân lễ rất hậu, có cả một con ngựa giống rất hay của nhà vua, và sai thợ vẽ một bức truyền thần để ban cho. Phan huy Ích19 cũng được đưa về một bức tranh truyền thần như Công-Trị. Sự thắng lợi đáng ghi nhất trong cuộc ngoại-giao với Trung-quốc là khi quan Thanh yêu sách lễ cống « Đại Thân kim nhân »20 theo đời trước, sứ Việt-nam dâng biểu thuyết lý xin bãi bỏ lệ ấy. Vua Thanh đã chịu bãi bỏ, mà viết trong một bài thơ tặng giả-vương rằng : « Thắng triều vãng sự bỉ kim nhân ». b) BÀI BỌC THÊM : NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA CHIÊU-THỐNG LƯU VONG Sau khi phong cho Quang-Trung là An-Nam Quốc Vương vua Thanh vời Chiêu-Thống, thái-mẫu, và nguyên tử ở Quế-lâm vào Yên-kinh, cho ở nhà Quốc-tử-giám, phía cửa tây thành Yên-kinh đề biển là « Tây An-nam doanh ». Chư thần được ở bên nhà Dương-phố, phía cửa đông-trực, đề biển là « Đông An-nam doanh ». Vua Thanh cấp lương cho mọi người được tự do đi lại. Rồi lại ban chiếu cho Chiêu Thống chức Tả-lĩnh, đời đời được tập tam phẩm quan ấn, phát các thức cần dùng và tiền bạc cho các người đi theo. Chiêu-thống vẫn chưa biết là vua Thanh đã phong vương cho Quang-Trung, nên được ít lâu, cùng bọn tùy tùng làm biểu xin Thanh giúp quân phục thù, bằng không được, xin đất 2 châu Tuyên-quang và Cao-bằng thờ tự-tông, hoặc về nước vào Gia định cùng nhà Nguyễn mưu việc phục hưng. Triều-đình Thanh muốn cho im chuyện cầu cứu, bèn chia rẽ vua tôi nhà Lê : dùng xe trâu dẫn mỗi người đi an trí một nơi. Hoàng ích-Hiển phải dời đi Y-lê, Lê Hân đi Phụng-thiên, Như-Tùng đi Hắc-long giang, Quốc Đông đi Cát-lâm, Viết Triệu, Văn-Trương đi Nhiệt-hà và Trương-gia-khẩu. Duy một mình Trần Thiện được ở lại hầu Chiêu-Thống. Chiêu-Thống rất oán trách nhà Thanh. Mùa hạ năm Nhâm-tý (1792), thái-tử bị bệnh mà chết (sau 4 năm ở Yên-Kinh). Chiêu-Thống, buồn bực vì cảnh lưu-vong, cũng bị bệnh, càng ngày càng trầm trọng. Tháng 10 mùa đông năm Quý sửu (1793) Chiêu-Thống mất (thọ 28 tuổi ; năm thứ 15 niên-hiệu Càn-Long ; sau 5 năm ở Yên-kinh). Năm Bính-thân (1796) hết trở vua Lê, bà thái-hậu xin vua Thanh cho chư thần tòng vong được lấy vợ. Và 3 năm sau (tháng 11 Kỷ-mùi : 1799) thái-hậu mất ở An-nam doanh. Khi Càn-Long mất, Gia-Khánh lên ngôi, thương tình vua tôi nhà Lê, triệu chư thần nhà Lê về cho ở trong xưởng Lâm-thân, đầu tóc áo mặc đầu cho tùy tiện, tự do. Năm 1802, nhà Nguyễn-đã thống nhất đất Việt-nam sai sứ sang cầu phong. Chư thần cố Lê được tin, xin triều-đình Thanh cho đưa linh cữu cố quân và thái-hậu về nước. 24 tháng 11 năm Giáp-tý (1804), vua Thanh giáng chỉ cho chư thần tòng vong được về nước, và đưa cố vương An nam về táng 21. Được tin này hoàng-phi Nguyễn thị-Kim từ Bắc-ninh lên cửa quan đón linh-khâm. Từ đó nhịn đói, đến Thăng-long, hoàng-phi uống thuốc độc chết theo vua. 22 Cố-quân, hoàng-phi, thái-hậu và nguyên-tử đầu được đưa vào Thanh-hóa phụ táng với lăng Hiển-tông bên núi Bàn-thạch. CHÂN DUNG VUA QUANG-TRUNG NGUYỄN-HUỆ (Họa theo bức tranh đưa ở Thanh về) ĐỀN « ĐỐNG ĐA » CHÂN DUNG PHAN HUY-ÍCH (chụp lại bức tranh đưa ở Thanh về) CHƯƠNG IV : NHÀ TÂY-SƠN 1) VUA QUANG TRUNG Sau khi dứt được họ Trịnh, mà vua Lê Chiêu-Thống đã trốn sang Tàu, Quang-Trung được vua nhà Thanh phong làm « An-Nam Quốc-Vương ». Quang-Trung đổi tên là Nguyễn quang-Bình, lập bà Ngọc-Hân công-chúa làm Bắc cung hoàng-hậu, con là Quang-Toản (trước tên là Trác, sinh năm 1782) làm thái-tử. Đoạn, Quang-Trung sửa sang mọi việc trong nước. Hành-chính. – Bộ máy hành-chính trung ương gồm có những quan : tam-công, tam-thiếu, đại-chủng-tế, đại-tư đồ, đại tu-khấu, đại-tư-mã, đại-tư-khống, đại-tư-hội, đại tư-lễ, thái-úy, ngự-úy, đại-tổng-quản, đại-đổng-lý, đại-đô đốc, đại-đô-hộ, v.v… Lại có trung-thu-tinh, trung-thu-linh, đại-học-sĩ, hiệp-biện-đại-học-sĩ, thị-trung-ngự-sử, lục bộ thượng-thư, tả hữu đông-nghị, tả hữu phụng-nghị, thị-lang, tư-vụ, hàn-lâm, v.v… 23 Bắc-hà chia ra làm 11 xứ hoặc trấn : Xứ Nam (Sơn nam) Xứ Đông (Hải-dương), Xứ Bắc (Kinh-bắc), Xứ Đoài (Sơn-tây), Xứ Yên-quang (Hải-ninh), Xứ Lạng (Lạng-sơn) Xứ Thái (Thái-nguyên), Xứ Tuyên (Tuyên-Quang), Xứ Hưng (Hưng-hóa), Xứ Thanh (Thanh-hóa), Xứ Nghệ (Nghệ-an). Mọi xứ hay trấn có trấn-thủ coi việc võ, hiệp-trấn coi việc văn. Mỗi trấn chia làm nhiều phủ, mỗi phủ chia làm nhiều huyện, đặt chức Phân-tri coi việc văn, chức Phân suất coi việc võ, dưới có tổng-trưởng coi việc trong tổng, có thôn trưởng và xã-trưởng coi việc các thôn xã. Quang-Trung cho sửa sang đền đài cung điện tại Nghệ an, vì là đất giữa nước và là đất tổ khi xưa ; sai quan các đạo đào lấy đá ong xây nội thành gọi là Phượng-hoàng trung-đô ; tuy nhiên, Quang-Trung vẫn đóng đô ở Phú xuân ; thành Thăng-long cải gọi là Bắc-thành. Đinh điền. – Năm 1789, Quang-Trung hạ chiếu chia đinh làm ba hạng : từ 2 đến 17 tuổi là « vị cập bách » ; từ 18 đến 55 tuổi là « tráng hạng » ; từ 56 tuổi đến 60 tuổi, là « lão hạng » ; từ 61 tuổi trở lên là « lão-nhiêu ». Ruộng cũng chia làm 3 hạng. Nhất đẳng-điền phải nộp 150 bát thóc ; nhị đẳng điền mỗi mẫu 80 bát ; tam đẳng điền mỗi mẫu 50 bát. Lại thu tiền « thập vật » mỗi mẫu một tiền, và tiền « khoán kho » mỗi mẫu 50 đồng ; đấy là công điền ; tư-điền thì nhất đẳng phải nộp mỗi mẫu 40 bát thóc, nhị đẳng 30 bát, tam đẳng 20 bát ; tiền « thập vật » đóng theo như công-điền ; « Khoán khố » chỉ phải nộp mỗi mẫu 30 đồng. Quang-Trung hạ lệnh chiêu dân, ai ở đâu hồi cư về đấy, làm ăn như cũ ; nơi nào có ruộng đất bỏ hoang, thì chức dịch sở tại phải đóng thuế đạy gấp đôi. Mục đích của Quang-Trung là « tăng gia sản xuất ». Ngoại thương. – Quang-Trung săn sóc đến cả nền ngoại thương : xin vua Thanh cho mở cửa hàng ở Nam-ninh (Quảng-tây) và cho đóng quân ở đấy để bảo vệ Việt-kiều. Đúc tiền, đúc súng. – Năm 1791, Quang-Trung cho thu đồng các nơi, đưa về đúc súng và đúc tiền, có khắc bốn chữ « Quang-Trung thông-bảo ». Học hành. – Quang-trung vẫn tiếp tục cho mở trường dạy chữ Hán, lập nhà xã-học lựa những người học thức đặt làm Xã-giảng-dụ dạy người trong xã, tuy việc học chữ Hán cũng được khuyến khích mở mang, Quang-Trung rất để ý về việc học chữ nôm (Việt ngữ). Quang-Trung nói : « người nước Nam phải dùng tiếng nước Nam, phải có văn-chương đặc biệt nước Nam, để gây tinh thần nước Nam, không cần đi mượn tiếng, mượn chữ của nước Tàu ». Để làm gương, những sắc, dụ, chiếu ban ra, Quang-Trung thuờng bắt các quan ra bằng Việt-ngữ. Khi thi cử, Quang-Trung bắt các quan ra bài bằng Việt-ngữ cho sĩ-tử, vào trường ba, phải làm. Nhờ những khuyến khích ấy, nên quốc-văn thời Tây sơn đã giữ được đà tiến triển phát khởi lên từ đời trước. Những áng văn của Ngọc-Hân công-chúa khóc đấng cái thế anh-hùng Quang-Trung, của Nguyễn huy-Lương tán tụng công đức nhà Tây-sơn trong « Tụng Tây-hồ phú », của Phạm Thái phản đối nhà Tây-sơn công kích Nguyễn huy Lương trong bài : « Chiến tụng Tây-hồ phú »… đã đánh dấu bước đường tiến của văn nghệ đời bấy giờ. Tôn giáo. – Vua Quang-Trung thấy làng nào cũng có chùa, mà những người tu hành thì ngu dốt, không mấy người đạt được cái đạo cao sâu của Phật, chỉ mượn tiếng thánh thần mà đánh lừa ngu dân. Nhà vua xuống chiếu bắt bỏ những chùa nhỏ ở các làng, phần đổi làm thành trường học, phần phá đi, lấy gỗ gạch đem làm ở mỗi phủ huyện một ngôi chùa lớn, rồi lựa những tăng-nhân có học thức đạo đức cho ở coi chùa thờ Phật ; những người không xứng đáng, bắt về làm ăn. Đối với đạo Gia-tô, nhà vua không lấy gì làm hà khắc. Sự truyền giáo được dễ dàng. Giặc-giã. – Vua Quang-Trung rất có thiện chí đối với tiền đồ của tổ-quốc ; tuy nhiên, công việc về chính-trị, xã hội, không đưa lại được kết quả mỹ-mãn, vì nhà vua cùng các quan phải phí nhiều thì giờ về sự dẹp loạn gây nên phần nhiều bởi những cựu-thần nhà Lê. Năm 1789, Quang-Trung đã phá tan quân Thanh, vua Lê Chiêu-Thống chạy qua Tàu rồi, Dương đình-Thể vẫn cầm quân chống lại Tây-sơn, với mục đích phò Chiêu-Thống. Quan quân Tây-sơn phải đánh mãi trên vùng Bắc-giang, đến lúc Tuân chết, giặc này mới yên. Ở vùng sông Luống, bè đảng Trần quang-Châu quấy rối mãi 3, 4 năm, tận năm 1792, Trần quang-Châu chết, mới bình định xong. (Xem phụ trương : « Thế nào là trung »). Giặc lẻ tẻ như thế nổi lên nhiều nơi nữa… nhưng chỉ đủ làm cho công việc trong nước bị trì hãm lại, tuy nhiên không làm nao núng được lực lượng quân đội của Tây-Sơn. Bởỉ vậy Quang-Trung đã lập định chương trình đánh Tàu. Quang-Trung định đánh Tàu. – Quang-Trung đã xin hòa với Tàu và cầu phong, chỉ là đợi ngày có đủ sức mà báo thù. Cho nên khi đã dẹp yên trong nước, Quang-Trung trù tính ngay việc đánh Tàu. Quang-Trung xuống lịnh cho các trấn làm lại sổ đinh. Ai cũng phải biên vào sổ. Rồi cấp cho mỗi người một cái thẻ- bài khắc bốn chữ « Thiên-hạ đại tín ». Chung quanh ghi tên họ, quê quán, và phải điểm chỉ làm tin. Người nào cũng phải đeo thẻ ấy, gọi là « tín bài ». Người không có thẻ, gọi là « dân lậu », bắt sung vào quân phòng, và bắt tội tổng trưởng, xã-trưởng. Sổ đinh làm xong, cứ 3 người bắt 1 người làm lính. Quân thì chia làm đạo, cơ, đội. Đạo thì thống các cơ, cơ thống các đội ; cơ đội nào theo về cơ đội ấy, phải thao diễn hàng ngày. Quân đội đã tổ chức xong, Quang-Trung viết thư sang Tàu đòi lại những đất mà nhà Mạc dâng cho Tàu năm 1540 24; vua Tàu không thuận, lại càng làm cho Quang-Trung gấp rút tổ chức đánh Tàu. Hồi này, ở bên Tàu có giặc Tàu Ô quấy nhiễu miền bể, bị nhà Phanh đánh đuổi, chạy sang xin phụ thuộc nước ta. Vua Quang-Trung cho người tướng Tàu Ô làm chức tổng-binh, sai sang quấy nhiễu ở mặt bể nước Tàu. Lại có người thuộc đảng Thiên Địa hội (Trung Minh kháng Mãn) làm giặc ở Tứ xuyên, vua cũng thu dụng cho làm tướng. 25 Công việc xếp đặt xong, năm 1792 (Nhâm-tý), vua Quang-Trung sai Nguyễn chiêu-Viễn sang Tàu dâng biểu cầu hôn và xin đất lưỡng Quảng. Quang-Trung muốn mượn chuyện để dò ý nhà Thanh. Chẳng may Quang-Trung bị bệnh mất, các quan liền dìm bỏ việc ấy đi ngay, không cho vua Thanh biết. Quang-Trung mất hôm 29 tháng 9 năm Nhâm Tý (1792) thọ 40 tuổi, Quang Trung mất, thái-tử Quang-Toản lên nối ngôi, đặt niên hiệu là Cảnh-Thịnh. Quang-Toản còn ít tuổi, việc gì cũng do thái-sư là Bùi đắc- Tuyên quyết đoán cả. Bùi đắc-Tuyên là anh ruột bà thái hậu, cho nên uy quyền lại càng to tát, làm nhiều điều trái phép. Bởi vậy, các quan trong triều không phục, phân ra bè đảng, giết hại lẫn nhau. Triều Tây-sơn bắt dầu suy nhược để đi đến chỗ đổ nát cho nhà Nguyễn từ Nam ra thống nhất sơn hà vào năm 1802. 2) KẾT LUẬN VỀ TÂY SƠN Nhà Tây-sơn, kể từ khi Nguyễn-Nhạc xưng vương, niên hiệu Thái-Đức, năm 1778, cho đến khi Nguyễn Quang-Toản, niên hiệu Bảo-Hưng, bị bắt năm 1802, cả thảy được 24 năm. Nguyễn-Nhạc lúc lên ngôi, mới có đất từ Quảng-nam vào Gia-định. Sau khi Nguyễn-Huệ ra Bắc diệt Trịnh phò Lê về (năm 1787), đất của Tây-sơn mở rộng thêm ra tới Nghệ an, nhưng lại chia làm ba phân riêng biệt : - Nguyễn-Nhạc xưng Trung-ương Hoàng-đế giữ từ Quảng-nam vào Bình-thuận, đóng đô ở Qui-nhân. - Nguyễn-Lữ (em thứ 2) làm Đông-định Vương coi miền Nam, đóng đô Ở Sài-côn (Gia-định). - Nguyễn-Huệ (em thứ 3) làm Bắc Bình Vương có đất từ Thuận-hóa ra Nghệ-an, đống đô ở Phú-xuân (Huế). Qua năm 1788, Nguyễn-vương (Nguyễn-Ánh) lấy lại được Gia-định, Nguyễn-Lữ chạy về Qui-nhân rồi chết. Tây sơn mất miền Nam, nhưng lại được thêm miền Bắc. Năm ấy, Nguyễn-Huệ ra Bắc-hà diệt quân Thanh, xưng Quang-Trung hoàng-đế, thâu toàn đất từ Thuận-hóa ra Thăng-long. Năm 1792, Nguyễn-Huệ mất, con là Nguyễn quang Toản lên nối ngôi, niên hiệu Cảnh-Thịnh. Năm 1793, Nguyễn-Nhạc bị quân Nguyễn-vương từ Nam ra uy hiếp Qui-nhân, phải cầu cứu với Quang-Toản. Tướng của Quang-Toản là Phạm công-Hưng giải vây cho Qui-nhân rồi, kéo quân vào thành tịch thu kho tàng của Nguyễn-Nhạc. Nhạc tức mà chết 26. Nguyễn-Nhạc chết rồi, Quang-Toản cho con Nhạc là Bảo ăn lộc một huyện để rồi Bảo bị giết năm 1798, vì mưu phản. Thế là từ năm 1793, đất của Tây-sơn từ Bắc vào giáp miền Nam, chỉ còn có một vua Cảnh Thịnh, Nguyễn quang Toản. Năm 1801, Nguyễn-vương lấy được thành Phú-xuân, Quang-Toản chạy ra Bắc, cải niên-hiệu là Bảo-Hưng. Năm 1802 Nguyễn-vương lấy nốt thành Thăng-long. Quang-Toản bị bắt giết, để chấm dứt triều Tây-sơn. 27 Xét ra trong ba anh em Tây-sơn, Nguyễn-Huệ là người anh hùng hơn cả. Thoạt kỳ thủy, gây thế lực ở Tây-sơn là tự Nguyễn Nhạc. Nhưng nếu lập được những chiến công anh dũng để dựng nghiệp đế thì lại là Nguyễn-Huệ. Thật vậy, Nguyễn-Nhạc chỉ là vua vùng Qui-nhân. Nguyễn-Huệ mới là người đã bình Nam, đuổi quân Tiêm-la, diệt Trịnh, trừ gian-thần. Công to hơn nữa là đã quét sạch quân nhà Thanh, toan vin cớ giúp Lê để chiếm đất. Căn cứ vào những chiếu biểu của vua Thanh, ta nhận thấy, nếu vua Quang-Trung (Nguyễn-Huệ) không diệt nổi quân Thanh do Chiêu-Thống đưa về, nước ta không tránh khỏi số phận nô-lệ Trung-quốc, như đời Hậu Trần đã nhờ Minh vậy. (Xem bài 25 quyển I) Ngoài những chiến công lập nên với mưu trí quyền biến vô song, để nêu cao gương anh kiệt siêu quần, ta còn nhận thấy Nguyễn-Huệ là người có độ lượng khác thường. Cái chứng cớ rõ rệt là bao quan lại nhà Lê được Nguyễn-Huệ chiêu dụ, mà không giúp, còn lắm kẻ dấy binh chống lại, đều đã được Nguyễn-Huệ dung thứ, không bắt tội. 28 Nguyễn-Huệ lại rất am hiểu tâm lý, biết trọng những ai là hiền tài văn học ; thế cho nên Ngô thời-Nhậm, Phan huy Ích, Nguyễn Tiếp, Trần văn-Kỷ, sau một thời gian ẩn dật, như giăng sao trong mây bóng, đã có dịp đưa tài ra giúp. Về phương-diện tổ chức xã-hội – như bài 12, 13 đã nói – Nguyễn-Huệ đã tỏ ra thức thời, để ý đến những việc hợp theo bước tiến hóa của nhân quần. Tiếc rằng đời Nguyễn-Huệ ngắn ngủi mà Quang-Toản còn ít tuổi không theo được chí cha, các triều thần ghen ghét lẫn nhau, trong lúc nhà tu-hành Bá-đa-Lộc tận tâm giúp Nguyễn-vương, cho nên triều Tây-sơn tàn đi quá sớm ! Mặc dầu, quốc dân cũng không có thể dùng danh-từ « Ngụy triều », như một vài sử-gia, mà gán cho Tây-sơn ; trái lại Tây-sơn đã dấy nghiệp đường hoàng trong lúc biến loạn, cũng như nhiều triều-đại đã qua, rất đáng được tôn sùng. Miền nam, Trương phúc-Loan chuyên quyền hại dân, mà chúa Nguyễn trước lấy danh nghĩa phù Lê, sau đi đến chỗ ghen nhau với Trịnh, chia nước làm Nam Bắc hai phe, xưng vương dựng độc-lập ; ngoài Bắc thì Kiêu-binh ngang tàng, đảo lộn cương thường, trong lúc họ Trịnh hiếp chế vua Lê : thời thế ấy đã tạo ra anh-hùng áo vải ở Tây-sơn. Sau, ngược giở lại, Lê bất tài mà mất ngôi, Thanh phi nghĩa mà đại bại : mất nước thì lấy lại nước, anh-hùng tạo thời thế là như vậy. Vả chăng tự cổ lai, đã biết bao đời vua thay đổi, ta nhận thấy bất cứ dòng dõi nào, nước loạn mà dẹp được loạn, giặc xâm-lăng mà diệt được xâm-lăng, dòng dõi ấy chiếm lấy ngôi vua, cũng là chính nghĩa. Thế cho nên ta nói Tây-Sơn dựng nghiệp như bao đời vua về trước, cũng « anh hùng cứu quốc » của dân tộc, là đúng lý, vì nói như thế, chính là biết trọng « tinh thần dân chủ » vậy. 29 CHƯƠNG V : NGUYỄN-VƯƠNG THỐNG NHẤT SƠN-HÀ 1) NGUYỄN-VƯƠNG LẤY LẠI ĐẤT ĐAI GIA-ĐỊNH Nguyễn-vương (Nguyễn-Ánh) bị Tây-Sơn chiếm mất đất Gia-định năm 1784, phải chạy qua Tiêm-la. Vua Tiêm-la cho Nguyễn-vương cùng bầy tôi ở đất Long-kỳ, ngoài thành Vọng-các. Nguyễn-vương chia bầy tôi ra mỗi người làm mỗi việc ; kẻ thì về Gia-định mộ thêm nghĩa binh, kẻ thì lo đóng thuyền bè, người chăm làm ruộng lấy lương nuôi lính. Chính Nguyễn-vương cũng không nhàn cư ; thân dẫn quân giúp vua Tiêm-la trừ giặc Diến-điện trên mạn bắc, hoặc dẹp giặc Mã-lai dưới men bể. Bởi vậy vua Tiêm-la rất trọng đãi Nguyễn-vương, và ngỏ ý muốn giúp nữa ; nhưng Nguyễn vương không nhận. Chẳng bao lâu, Nguyễn-vương được tin Nguyễn-Nhạc và Nguyễn-Huệ không thuận hòa với nhau, Nguyễn-Huệ đem quân ở Phú xuân vào vây thành Qui-nhân. Nguyễn-Nhạc phải vời đô-đốc Đặng văn-Chân ở Gia-định ra cứu. Thế lực của Tây-sơn trở nên yếu bớt trong Gia-định. Nguyễn-Huệ là anh-hùng kiệt liệt nhất, lại chuyên về mặt bắc, mà Nguyễn Lữ cai quản miền nam chỉ là một người tầm thường. Tình hình Tây-sơn như thế đã đưa lại cho Nguyễn-vương cái cơ hội thuận tiện để tái lập cơ đồ. Năm 1787, Nguyễn-vương dời Tiêm-la về nước. Qua đảo Cổ-cốt, Nguyễn-vương được Hà hí-Văn, thuộc Thiên-địa-hội và mấy người đồng đảng xin theo giúp. Để vương-mẫu ngoài Phú-quốc, Nguyễn-vương đưa quân vào đóng tại Long-xuyên, được tướng Tây-sơn là Nguyễn văn-Trương đem 300 quân, 15 chiếc thuyền, ra hàng. Qua tháng 9 (năm 1787) Nguyễn-vương kéo quân vào cửa Cần-giờ. Đông định-vương Nguyễn-Lữ thấy thế lực Nguyễn-vương mạnh mẽ, lui quân về đóng ở Lạng-phụ (Biên-hòa), giao thành Gia-định cho quan thái-phó Phạm văn-Tham coi giữ. Nguyễn-vương lập mưu viết giả thư của Nguyễn-Nhạc, bảo Nguyễn-Lữ giết bỏ Phạm văn-Tham ; rồi cho đưa lạc thư ấy đến tay Tham. Nhận được thư, Phạm văn-Tham vội vàng kéo quân đến Lạng-phụ định phân giải cùng Nguyễn Lữ. Nguyễn-Lữ không hiểu gì, tự nhiên thấy Phạm văn Tham kéo quân đến lại có cờ trắng, tưởng Tham hàng Nguyễn-vương rồi, bèn bỏ thành rút về Qui-nhân (được ít lâu, Nguyễn-Lữ chết : 1787). Phạm văn-Tham giở về giữ Gia-định, phá được quân Nguyễn-vương. Thất trận này, Nguyễn-vương chỉ còn 300 người và vài chục thuyền, phải lui về Mỹ-tho. May có mấy toán quân Tây-sơn về hàng, và mộ thêm được mấy nghìn quân Cao-mên, cho nên Nguyễn-vương lại gây được thế lực. Năm sau, Nguyễn-vương tiến đánh đồn Nước-xoáy. Phạm văn-Tham chống không nổi, rút về Ba-thắc. Lúc này Nguyễn-vương được tướng Võ-Tính ra giúp. Võ-Tính là người Biên-hòa, em Võ-Nhân làm thuộc tướng Đỗ thanh-Nhân. Sau khi Thanh-Nhân bị giết. Võ Nhân tụ quân Đông-sơn làm phản, đánh lại Nguyễn-vương, chẳng bao lâu bị bắt và bị giết. Võ-Tính đem dư đảng của anh về giữ Vườn-trâu (thuộc Gia-định) rồi sau về đóng ở Gò-công, xưng là Tổng-nhung. Biết tiếng Võ-Tính anh hùng, Nguyễn-vương sai Nguyễn đức-Xuyên đến dụ Võ-Tính về giúp. Võ-Tính đến bái yết Nguyễn-vương ở Nước Xoáy, tháng 4 năm 1788, được phong làm Tiền-phong định chưởng-cơ, và lại được Nguyễn-vương gả em gái cho, là Ngọc-du công-chúa. Những người theo Võ-Tính giúp Nguyễn-vương là Võ văn-Lượng, Nguyễn văn-Hiếu, Mạc văn-Tô, Trần văn-Tín, đều được phong làm Cai-cơ. Tháng 7 năm ấy (1788) Nguyễn-vương đem quân về đóng ở Tam-phụ, rồi sai Võ-Tính cùng Tôn-thất Hối đánh quân Đốc-chiến Tây-sơn là Lê văn-Minh ở đồn Ngũ-kiều, bắt được tướng sĩ Tây-Sơn rất nhiều. Lại phá quân Tây-sơn ở Lộc-gia (Đồng-nai). Hôm 7-9-1788, Nguyễn-vương chiếm lại thành Gia-định, đón vương-mẫu ở Phú quốc trở về. Quan thái-bảo Tây-sơn Phạm văn-Tham bị quân Nguyễn-vương vây ở Ba-thắc, không thấy có viện binh, phải ra hàng Nguyễn. Từ đấy, đất miền nam lại hoàn toàn thuộc về Nguyễn vương, Nguyễn-vương liền sửa sang mọi việc : cấm cờ bạc, cấm cả phù-thủy, đồng bóng, để giữ lấy phong tục. Chỉnh đốn việc thuế khóa để lấy tiền nuôi quân, Nguyễn-vương bắt xây thành đắp lũy, đóng chiến thuyền, củng cố lực lượng, chờ thời ra Bắc đánh Tây-sơn. Nguyễn-vương cũng rất chăm lo về việc sản xuất : đặt quan Điền-tuấn, khuyên nhủ dân làm ruộng. Cấp ruộng đất bỏ hoang cho dân, cấp cả trâu bò cày bừa, cho dân vỡ đồn điền. Đến mùa, Nguyễn-vương thu thóc bỏ kho, gọi là Đồn điền khố. 2) NGƯỜI PHÁP GIÚP NGUYỄN-VƯƠNG Trong lúc Nguyễn-vương sửa sang mọi việc ở Gia-định, thì sự cứu viện của người Pháp cũng vừa qua tới nơi. 30 Nguyên khi quân Tiêm-la qua giúp Nguyễn-vương đánh Gia-định bị Nguyễn-Huệ phá tan, năm 1784, Nguyễn-vương mới nhất định nhờ giám mục Bá-đa-lộc sang cầu cứu với Pháp. Hồi này, người Anglais (Anh-cát-lợi), Hollandais (Hòa lan), Portugais (Bồ-đào-nha) cũng muốn giúp Nguyễn vương nhưng Nguyễn-vương từ chối, bởi đã có giám-mục Bá-đa-Lộc nhờ Pháp rồi. Để cho Pháp-đình tin sự thành thật, Nguyễn-vương giao quốc-thư, ấn, và hoàng-tử Cảnh cho giám-mục Bá-đa-Lộc đưa sang Pháp (Xem bài 29, quyển II). Giám-mục Bá-đa-Lộc cùng hoàng-tử Cảnh ra đi vào cuối năm 1784, tới Pondichéry (Ấn-độ) vào tháng 2 năm sau. Ở Pondichéry ra đi tháng 7 năm 1786, tới Pháp vào tháng 2 năm 1787. Trước Pháp-đình, giám-mục Bá-đa-Lộc đã giãi bày về sự lợi cho nước Pháp, nếu giúp Nguyễn-vương để được nhượng địa, và đi lại buôn bán, vua Pháp là Louis XVI mới nhận lời giúp. Hôm 28-11-1787, giám-mục Bá-đa-Lộc thay mặt Nguyễn-vương, và bá-tước de Montmorin thay mặt vua Louis XVI ký tại điện Versailles một tờ hòa-ước đại lược nói : « Vua nước Pháp thuận giúp Nguyễn-vương 4 chiếc tầu chiến với 1.200 lục binh, 200 pháo binh, 250 hắc binh (lính Phi-châu) cùng khí giới đầy đủ (khoản 2) ; Nguyễn-vương phải nhường đứt cho vua Pháp quần-đảo Hội-an và Côn-lôn (khoản 3 và 5) ; vua Pháp cũng như Nguyễn-vương được sử dụng hải cảng Đà-nẵng (khoản 4) ; người Pháp được hoàn toàn tự do di lại lưu trú trong nước của Nguyễn-vương, người Pháp có thể đưa vào bất cứ hàng hóa gì, miễn không phải hàng quốc cấm, mà chỉ phải chịu thuế như người trong nước, những tàu bè ngoại quốc nếu không treo cờ Pháp không được phép lui tới nước của Nguyễn-vương (khoản 6) ; nếu nước Pháp có chiến tranh với nước nào ở châu Âu ở hoặc châu Á, Nguyễn-vương phải giúp Pháp tàu bè và quân đội, tiền phí tổn các khoản, về phần người đứng giúp chịu (khoản 8)… » Đoạn vua Louis XVI giao việc giúp Nguyễn-vương theo hòa-ước nói trên cho tổng-trấn Pondichéry là bá-tước De Conway. Hôm 8-12-1787, giám-mục Bá-đa-Lộc và hoàng-tử Cảnh vào bái tạ Pháp-hoàng để xuống tàu về nước. Nhưng khi đi đến Pondichéry, Bá-đa-Lộc và De Conway bất hòa với nhau. De Conway làm sớ về Pháp-đình nói sự giúp Nguyễn vương không có lợi. Nhân lúc này phong trào cách-mệnh đã rộn-rịp trên đất Pháp. Bởi thế tờ hòa-ước trên đây không được thi hành. 31 Thấy De Conway đã làm lỡ việc, Bá-đa-Lộc bèn cùng mấy bạn tự động mộ binh, mua khí giới, giúp Nguyễn vương. Tháng 9 năm 1788, tàu Dryade chở qua đảo Côn-lôn 1.000 khẩu súng ; tàu Garonne, mấy tháng sau, chở đại bác tới ; tàu Capitaine Cook và Le Moyse thì tải đạn dược ; tàu Robuste đến đậu ở Saint Jacques cho Nguyễn-vương sử dụng ; tàu Saint Esprit, do Jean Marie Dayot điều khiển, thì qua Philippines mua thêm quân nhu ; lúc tạt qua Macao, Dayot mua thêm 2 chiếc tàu của người Portugais nữa đưa về. Sau 4 năm xa cách nước Nam, ngày 24 tháng 7 năm 1789 giám-mục Bá-đa-Lộc và hoàng-tử cảnh về đến vịnh Saint Jacques, trên chiếc tàu Méduse cùng hai chiếc Le Pandour và Le Duc de Chartres chở binh khí lương thực đến. Nguyễn-vương thân hành ra cửa Cần-trù đón giám-mục và hoàng-tử hôm 28-7-1789. Người Pháp theo giám-mục Bá-đa-Lộc qua giúp Nguyễn vương có Chaigneau, Olivier, Guillon, Tardivet, Malespine, Guilloux, Lebrun, Magon de Médine, Vannier. Những người này đã hết sức luyện tập binh sĩ cho Nguyễn-vương. Olivier đã ra kiểu xây lại thành Gia-định ; Dayot chuyên phụ trách về tiếp tế quân nhu. Nhiều lần Dayot tải gạo, cau, qua Macao và Manille, bán lấy tiền mua khí giới tải về cho Nguyễn-vương. Về sau Nguyễn-vương được Laurent, Barizy, de Porsans, Desperles và Despiau qua giúp nữa. Nhờ sự giúp đỡ của người Pháp mà thế lực Nguyễn vương mỗi ngày mỗi mạnh, để một năm sau, Nguyễn vương định việc ra đánh Bắc. 3) NGUYỄN-VƯƠNG ĐÁNH QUI-NHÂN Năm 1790, Nguyễn-vương sai Lê văn-Cầu cùng Võ-Tính, Nguyễn văn-Thành ra đánh Tây-sơn, chiếm được Bình thuận. Nhưng lại bị quân Tây-sơn phản công ráo-riết, quân Nguyễn-vương phải rút giở về Gia-định. Sau trận này, Nguyễn-vương nhận thấy quân lực chưa đủ để chiếm đất ngoài xa, vả gió biển cũng không thuận tiện cho thuyền bè tiến ra Bắc. Nguyễn-vương bèn ngừng sự chiến tranh, để mộ thêm quân, và mỗi năm, đợi mùa gió thuận mới lại ra đánh miền ngoài một lần thế nên hồi này nhân dân gọi quân Nguyễn là « giặc mùa ». Năm 1792, Nguyễn-vương sai Nguyễn văn-Trương, Nguyễn văn-Thành, Dayot và Vannier lợi dụng gió mùa, đem chiến thuyền ra đốt phá thủy trại của Tây-sơn tại cửa Thi-nại (Qui-nhân), rồi lại rút về Gia-định. Năm sau (1793), Nguyễn-vương đưa cả thủy lục quân ra đánh thành Phú-yên. Nguyễn-Bảo (con Nguyễn-Nhạc) kháng cự không nổi, chạy về Qui-nhân. Thừa thắng, quân Nguyễn-vương kéo lên uy-hiếp Qui-nhân. Nguyễn-Nhạc phải cầu cứu với Quang-Toản (Nguyễn-Huệ hồi này đã mất, Quang-Toản lên thay, tức Cảnh-Thịnh). Quang-Toản sai quan thái-úy Phạm công-Hưng, quan Hộ-giá Nguyễn văn-Huấn, quan Đại-tư-lệ Lê-Trung và Đại tư-mã Ngô văn-Sở đem 17.000 quân và 80 con voi đi đường bộ, lại sai quan Đại-thống-lĩnh Đặng văn-Chân đem hơn 30 chiếc thuyền đi đường bể, cả hai đạo quân cùng tiến vào Qui-nhân. Nguyễn-vương thấy viện binh đã đến, liệu thế chống không nổi, rút về Diên-khánh, rồi Gia-định. Phạm công-Hưng giải vây cho Qui-nhân rồi, kéo quân vào chiếm thành, tịch thu kho tàng. Nguyễn-Nhạc tức giận đến phát điên, rồi thổ huyết mà chết (năm 1793). Quang-Toản thấy Nguyễn-Nhạc đã chết, phong cho Nguyễn-Bảo (con Nguyễn-Nhạc) làm Hiến-công, ăn lộc một huyện, gọi là Tiểu-triều ; cử Lê-Trung và Nguyễn văn-Huấn ở lại giữ Qui-nhân 32. Rồi sai tướng sĩ vào đánh Nguyễn vương. Năm 1794, Nguyễn văn-Hưng vào đánh Phú-yên, và Trần-quang-Diệu vào vây thành Diên-khánh ; nhưng không lợi, lại rút về Qui-nhân. Năm 1795, Quang-Diệu lại vào đánh Diên-khánh. Trong lúc này ở Phú-Xuân, các đại thần của Tây-sơn giết hại lẫn nhau. Nguyên sau khi Quang-Trung mất, Quang-Toản lên ngôi, ít tuổi, không đủ uy quyền cai quản việc nước. Các quan ghen ghét lẫn nhau gây ra nội biến : Võ văn-Dũng, cùng Phạm công-Hưng, Nguyễn văn-Huấn, đang đêm đem quân vây bắt quan thái-sư Bùi đắc-Tuyên bỏ ngục ; con Bùi đắc- Tuyên là Đắc-Trụ đang ở Qui-nhân và Ngô văn-Sở ở Bắc Hà cũng bị bắt giải về Phú-xuân. Rồi tất cả bị vu « làm phản » mà phải dìm nước chết hết. Do sự nội biến ấy, thế lực Tây-sơn suy nhược dần, cho nên Nguyễn-vương, đã không mất công phu mấy sau này mà thành công. Năm 1797, Nguyễn-vương đem quân phá Qui-nhân, Phú-yên và Quảng-nam, rồi lại lui về Gia-định. Về Gia-định, Nguyễn-vương sai Nguyễn văn-Thùy sang xin vua Tiêm-la đem quân đi đường Vạn-tượng, hoặc sang đánh Thuận-hóa, hoặc sang đánh Nghệ-an, để chặn đường quân Bắc-hà vào Trung. Một mặt sai Binh-hộ tham-tri là Ngô nhân-Tĩnh sang sứ nhà Thanh do thám mọi việc. Năm 1799, Nguyễn-vương cử đại binh ra đánh Qui nhân. Đây là lần thứ 3 Qui-nhân bị Nguyễn-vương công phá. Nguyễn-vương tự cầm thủy quân vào cửa Thi-nại ; hậu-quân Võ-Tính, hữu-quân Nguyễn hoàng-Đức đem binh lên bộ đóng ở Trúc-khê. Khâm-sai tiền-quân chưởng-cơ Nguyễn văn-Thành dẫn bộ binh ra lấy Phú-yên rồi tiến quân tiếp ứng cho Võ-Tính. Thành Qui-nhân bị vây vào tháng năm. Quân cứu viện của Tây-sơn do Trần quang-Diệu và Võ văn-Dũng vào đến Thạch-tân bị quân Nguyễn-vương do Nguyễn văn-Thành chỉ huy, đánh tan. Bởi thế thành Qui nhân không nhận được viện binh mà lương thực lại hết vả binh sĩ trong thành rất nản lòng – từ khi Nguyễn-Bảo, Lê Trung và Nguyễn văn-Huấn bị gièm pha mà phải giết – không hết sức đánh, quan trấn-thủ Qui-nhân là Lê văn Thành cùng các tướng mở thành hàng Nguyễn. Nguyễn-vương kéo quân vào thành Qui-nhân, đổi gọi Qui-nhân là Bình-định. Cùng tòng chinh ra Qui-nhân nhịp này, giám-mục Bá đa-Lộc đau mà mất ở Thi-nại, hôm 9-10-1799. Để Võ-Tính và Ngô tòng-Chu ở lại giữ thành Qui-nhân, Nguyễn-vương giở vào Gia-định. Thi-hài Bá-đa-Lộc cũng được đưa vào táng tại Gia-định, hôm 16-12-1799, tặng phong làm Thái-tử thái-phi Bi-nhu quận-công. 33 4) NGUYỄN-VƯƠNG LẤY PHÚ-XUÂN a) QUI-NHÂN BỊ TÂY-SƠN VÂY HÃM Năm 1800 (tháng giêng năm Canh-thân), quân Tây-sơn do Trần quang-Diệu và Vũ văn-Dũng cầm đầu, tiến vào Qui nhân. Võ-Tính giữ thế thủ. Quang-Diệu sai đắp lũy chung quanh thành và chia quân vây bốn mặt. Văn-Dũng thì đem hai chiếc tàu lớn và hơn 100 chiếc thuyền ra đóng cửa Thi nại, phòng giữ thủy-quản của Nguyễn-vương. Nguyễn-vương được tin Qui-nhân bị vây hãm, sai Nguyễn Văn-Thành đem bọn Lê-Chất 34, Nguyễn đình-Đắc, Trương tiến-Bảo, đem quân ra đường bộ, Nguyễn-vương thì dẫn thủy quân, ra cứu Qui-nhân. Nhưng thủy bộ quân đều bị Tây-sơn chặn, không thông được với nhau. Chiến sự không có hiệu-quả tốt đẹp, quân Nguyễn-vương lại rút về Gia-định. Năm 1801 (tháng giêng năm Tân-dậu) nhờ có Nguyễn văn-Trương, Tống phúc-Lương (có chỗ chép T.p.Khuông) đánh đồn thủy của Tây-sơn, Lê văn-Duyệt, Võ di-Nguy đưa thuyền lớn tràn theo sau. Võ di-Nguy bị đạn chết, nhưng Lê văn-Duyệt vẫn tiến đánh, thủy sư của Tây-sơn bị tiêu diệt. Nguyễn-vương chiếm được cửa Thi-nại. Tuy vậy, thành Qui nhân vẫn bị vây hãm rất nguy ngập. Nguyễn-vương cho người lẻn vào thành bảo Võ-Tính và Ngô tòng-Chu bỏ thành mà ra. Võ-Tính phúc thư rằng : quân tinh-nhuệ của Tây-sơn ở cả Qui-nhân, vậy xin đừng lo việc giải vây Qui-nhân, hãy nên kíp ra đánh lấy Phú-xuân thì hơn. b) NGUYỄN-VƯƠNG LẤY PHÚ XUÂN Để Nguyễn văn-Thành ở lại chống giữ với Trần quang Diệu và Võ văn-Dũng ở Qui-nhân, Nguyễn-vương đem quân ra đánh Phú-xuân. Hồi này Tây-sơn rất bối rối ! Nguyễn văn-Thụy và Lưu phúc-Tường đem quân Vạn tượng ra phá Nghệ-an ; phiên-thần là Hà công-Thái khởi binh giúp Nguyễn-vương đánh Thanh-hóa ; thổ ty là Phan bá-Phùng thì quấy nhiễu ở vùng Hưng-hóa. Tại các trấn khác, dân theo đạo Gia-tô cũng nổi lên quấy rối giúp Nguyễn-vương. Hôm mồng 9 tháng 6 năm 1801, thủy quân của Nguyễn-vương tiến vào cửa Duyên-hải (cửa Thuận). Có tới 378 chiến thuyền lớn nhỏ, trong số ấy 6 chiếc của Pháp thì 4 chiếc chỉ huy bởi Vannier (có tên Nam là Nguyễn văn Chấn), Chaigneau (Nguyễn văn-Thắng), de Forsans (Lê văn-Lăng), và Barizy, chở cả thảy 15.000 lính để đổ bộ. Đánh tan quân Tây-sơn ở cửa Duyên-hải (Cửa Thuận), bắt được tướng của Tây-sơn là Nguyễn văn-Trị và Phan văn Sách. Rồi kéo lên đánh thành Phú-xuân. Vua Quang-Toản bỏ chạy. 8 giờ sáng ngày 15 tháng 6 năm 1801, Nguyễn vương vào thành Phú-xuân, nơi mà 26 năm trước đã bị quân Trịnh đuổi chạy. c) VÕ-TÍNH VÀ NGÔ TÒNG CHU TỬ-TIẾT, THÀNH QUI-NHÂN LẠI TRỞ VỀ NGUYỄN-VƯƠNG Nguyễn-vương sai Lê-Chất đem bộ binh đuổi theo Quang-Toản đồng thời sai Nguyễn văn-Trương dẫn thủy binh ra chặn ngang sông Gianh, chẹn đường Tây-sơn chạy ra Bắc. Lại truyền bảo các mường chẹn đường Tây-sơn tràn sang Ai-lao. Nhưng Quang-Toản và tàn quân vẫn chạy thoát ra Bắc-hà. Trong lúc Nguyễn-vương đánh Thuận-hóa, tướng của Tây-sơn là Trần quang-Diệu và Võ văn-Dũng hết sức đánh thành Qui-nhân. Quân Nguyễn-vương ở trong thành hết cả lương thực, quan trấn-thủ Võ-Tính bèn viết thư cho Trần quang-Diệu nói rằng : « Phận sự ta làm chủ tướng, thì đành liều chết ở dưới cờ ; còn các tướng sĩ không có tội gì, không nên giết hại ». Rồi sai người lấy rơm cỏ chất ở dưới lầu bát giác, đổ thuốc súng vào tự đốt mà chết, quan hiệp-trấn Ngô tòng-Chu thì uống thuốc độc tự tử. Trần quang-Diệu lấy lại được Qui-nhân, nhưng bị quân của Lê văn-Duyệt và Lê-Chất ở Quảng-nam, Quảng-nghĩa đánh vào ; quân của Nguyễn văn-Thành ở cửa Thi-nại đánh lên ; quân của Tống viết-Phúc và Nguyễn văn-Tính ở Phú yên đánh ra. Quân Tây-sơn phải tận lực chống giữ, chờ quân cứu-viện ngoài Bắc vào. Đợi mãi không được viện binh, Trần quang-Diệu và Võ văn-Dũng chịu bỏ thành Qui nhân giả lại Nguyễn-vương, đi vòng qua Ai-lao ra Bắc. 5) NGUYỄN-VƯƠNG THU HỒI ĐẤT CŨ, LÊN NGÔI TÔN Thất thủ Phú-xuân rồi, vua Cảnh-Thịnh chạy ra Bắc-hà, đổi niên-hiệu là Bảo-Hưng, truyền hịch đi các trấn lấy viện binh. Sai em là Nguyễn quang-Thùy vào giữ Nghệ-an. Mấy tháng sau, Tây-sơn lại có non 30.000 lính, kéo qua Linh giang vào đánh Nguyễn phục thù. Quang-Toản ra lệnh cho Nguyễn quang-Thùy đánh lũy Trấn-ninh ; Đinh công-Tuyết, Nguvễn văn-Kiên đánh núi Đâu-mâu. Đặng văn-Đàng đem thủy quân có 100 chiếc tàu ô trợ lực, bày thủy trận ở ngoài cửa Nhật-lệ. Bấy giờ có Bùi Thị-Xuân cũng đem 5.000 thủ-hạ ra giúp Tây-sơn (Bùi thị Xuân là vợ Trần quang-Diệu). Được tin ấy, Nguyễn-vương đem binh ra ứng chiến ngay, sai Phạm văn-Nhân và Đặng trần-Thường dẫn quân giữ mặt bộ, Nguyễn văn-Trương ra giữ mặt bể. Lúc quân Tây-sơn bị quân Nguyễn-vương phá vỡ tại Trấn-ninh vào tháng giêng Nhâm-tuất (1802). Thủy quân ở Nhật-lệ cũng bị Nguyễn văn-Trương đánh tan. Vua Tây-sơn chạy giở ra Bắc, để Nguyễn văn-Nhân ở giữ Nghệ-an. Thu toàn thắng, Nguyễn-vương giở về Phú-xuân hôm 12 tháng 2 năm 1802, để trung-quân Nguyễn-văn-Trương giữ Đồng-hới ;Tống Phúc-Lương và Đặng trần-Thường giữ Linh giang ; Lê văn-Duyệt vào giữ Qui-nhân. Thế là đất cũ của Nguyễn-vương, từ Linh-giang vào Gia định, đã khôi phục được hết. Nguyễn-vương bèn lên ngôi Tôn, hôm 1-6-1802, đặt niên-hiệu là Gia-Long (tháng năm, năm Nhâm-tuất). Lên ngôi vua rồi, Nguyễn-vương sai Trịnh hoài-Đức đem giao giả tổng-đốc lưỡng Quảng ấn và sắc của vua Thanh phong cho vua Tây-sơn mà Quang-Toản bỏ lại Phú-xuân khi hoảng hốt chạy ra Bắc. Nguyễn-vương lại cho giao giả cả những tướng cướp tàu-ô mà Tây-sơn dung túng cho quấy nhiễu miền duyên-hải Trung-quốc. Chủ tâm Nguyễn-vương làm cho vua Thanh bỏ Tây-sơn mà phong vương cho ngài. Nguyễn-vương đã được như ý. Vua Thanh xuống chiếu ngay : « Nguyễn-Huệ và Nguyễn Quang-Toản là chư hầu của Thiên-triều, lại thu nạp côn-đồ, phản Thiên triều, thiệt là tồi bại, thế cho nên thua chạy đến nỗi không giữ được ấn tín. Sự bại vong bất ngờ ấy đã đánh dấu bước tiêu diệt của Tây-sơn ». 6) NGUYỄN-VƯƠNG LẤY BẮC-HÀ Thu xếp tạm yên mọi việc ở Phú-xuân, Nguyễn-vương soạn sửa ra đánh Bắc-hà : thủy-quân giao cho đại-tướng Nguyễn văn-Trương hướng dẫn, bộ-binh giao cho đại-tướng Lê văn-Duyệt và phó-tướng Lê-Chất chỉ huy. Bắt đầu hôm 20-6-1802, bộ binh sang sông Linh-giang đóng ở Hà-trung, thủy quân vào cửa Hội-thống rồi lên đánh phá các đồn lũ của Tây-sơn. Quan trấn-thủ Nghệ-an của Tây-sơn là Nguyễn văn-Thận thấy khí thế quân Nguyễn vương quá mạnh, bỏ thành chạy ra giữ Diễn-châu. Trần quang-Diệu và Võ văn-Dũng bị quân Nguyên tấn công kich-liệt ở Qui-nhân vào tháng 6-1801, phải bỏ Qui nhân đi vòng qua Ai-lao về Bắc (xem bài 18 ở trên) hồi này vừa ra đến huyện Hương-sơn thấy Nghệ-an đã mất, liền bỏ cả quân lính, cùng Bùi thị-Xuân chạy về huyện Thanh Chương, rồi cả hai vợ chồng đều bị bắt ; còn Võ văn-Dũng chạy đến Nông-cống cũng bi dân sở-tại bắt, đem nộp cho Nguyễn-vương. Đã mất hết cả đất miền Trung và Nam cho Nguyễn vương, quân Tây-sơn không còn tinh thần chiến đấu nữa. Cho nên quân Nguyễn-vương dễ dàng vượt qua Nghệ-an tràn ra Thanh-hóa, xâm chiếm Sơn-nam và Vị-hoàng, rồi tiến thẳng đến Thăng-long, đi tới đâu quân Tây-Sơn tan vỡ đến đấy. Nguyễn-vương lấy được thành Thăng-long hôm 20-7- 1802, một tháng sau khi ở Phú-xuân xuất quân. Vua Tây-sơn (Quang-Toản) biết sức không chống nổi quân Nguyễn-vương, bèn cùng hai em Nguyễn quang-Thùy và Nguyễn quang-Thiệu qua Nhị-hà sang Bắc. Song mới chạy đến địa-hạt Phượng-nhỡn thì bị dân địa phương giữ lại. Nguyễn quang-Thùy, đô-đốc Tú và vợ đều tự tử. Nguyễn quang-Toản và Nguyễn quang-Thiệu bị bỏ vào cũi giải về Thăng-long. Đến đây, nhà Tây-sơn bị dứt hẳn, để nhà Nguyễn thống nhất Sơn-hà. CHƯƠNG VI : NHÀ NGUYỄN 1) VUA THẾ-TỔ NIÊN HIỆU GIA-LONG Hôm 1-6-1802, Nguyễn-Ánh (Nguvễn-vương) đã 40 tuổi, tuyên bố lên ngôi tôn, đặt niên-hiệu là Gia-Long thay niên-hiệu Cảnh-Hưng của nhà Lê. 35 Vào nhịp đăng quang, Gia-Long thăng thưởng cho các tướng sĩ, tha một vụ thuế cho dân, phong tước cấp ruộng cho con cháu vua Lê và chúa Trịnh. Đem vua tôi nhà Tây-sơn bắt được về làm lễ hiến phù ở đền Thái-miếu, rồi dẫn ra tận pháp xử trị. Lại sai quan quật mả vua Thái-Đức Nguyễn-Nhạc và Quang-Trung Nguyễn Huệ, vứt thây đi, đầu thì bỏ giam trong ngục tối. 36 Những văn-thần nhà Tây-sơn, có một số bị đánh trước Văn-miếu, rồi tha về. Duy có Ngô thời-Nhậm, vì có hiềm khích với Đặng trần-Thường, bị đánh đến chết.37 Thưởng phạt xong rồi, Gia-Long lo sửa sang mọi việc, trong nước về nội-trị cũng như về ngoại-giao. Nội-trị. – Gia-Long cải Bắc-hà là Bắc-thành ; gọi miền nam là Gia-định. Trung phần chia làm 9 tỉnh : Quảng-bình, Quảng-trị, Quảng-đức, Quảng-nam, Quảng-nghĩa, Bình định, Phú-yên, Khánh-hòa, Bình-thuận. Miền nam (Gia Định) chia làm 4 tỉnh : Phiên-an (địa-hạt tỉnh Gia-định), Biên-hòa, Vĩnh-Thành (Vĩnh-long và An-giang), Định-tường. Rồi sau thêm tỉnh thứ 5 là Hà-tiên, trước kia giao cho Mạc tư-Thiêm (con Mạc thiên-Tứ), năm 1809 Tứ chết, Gia-Long đặt quan Việt-nam cai-trị. Bắc-hà chia làm 13 tỉnh : Nghệ-an, Thanh-hóa, Sơn nam hạ (Nam-định) Sơn-nam thượng (Hà-nội), Hải-dương, Kinh-bắc (Bắc-ninh), Sơn-tây, An Quang (Quảng-yên), Lạng-sơn, Cao-bằng, Thái-nguyên, Tuyên-quang, Hưng-hóa. Triều-đình đặt tại kinh-đô Phú-xuân, gồm có 6 bộ : Bộ Lại coi những việc thuộc về quan lại ; bộ Hộ chuyên về đinh điền, thuế má kho tàng ; bộ Lễ coi về lễ nghi ; bộ Binh coi về việc binh ; bộ Hình coi về luật pháp từ tụng ; bộ Công coi về công chính. Mỗi bộ có một ông thượng-thư đứng đầu, giúp việc dưới có các viên tham-tri, thị-lang, lang-trung, viên-ngoại, tư-vụ, thừa-phái. Ngoài ra, lập Đô-sát-viện có tả hữu Đô-ngự-sử đứng đầu, để can gián vua những việc sai lầm, và đàn hạch các quan, nếu làm việc trái phép. Lại có đặt tào-chính coi việc vận-tải cùng thuế má tàu bè, có quan tào-chánh-sứ và tào-phó sứ làm đầu. Đứng đầu cả Bắc-thành tại Hà nội, cũng như miền Nam tại Phiên-an, là một ông tổng-trấn, có phó tổng-trấn giúp sức. Tỉnh nào to gọi là trấn, đặt ông trấn-thủ đứng đầu ; tỉnh nhỏ gọi là Dinh, có ông lưu-trấn gồm coi hai Dinh, dưới có Cai-bạ coi việc thuế má, sổ dân đinh, điền thổ, tuyển binh sĩ, và cai-án coi về tụng sự. Một vị coi về việc học gọi là Đốc-học. Trấn hay Dinh chia ra phủ, huyện, châu, giao cho tri phủ, tri-huyện, tri-châu trực tiếp trị dân. Ngoài Bắc-hà nhân tâm còn mến tưởng nhà Lê, cho nên Gia-long mời các quan-lại triều Lê ra giúp việc ở miền trung-châu ; miền thượng-du thì để dân địa-phương tự cử người ra cai trị lấy nhau. Gia-long nói : « Dân chúng đang như người bị bệnh, cần được săn sóc » và « Sự cường thịnh của quốc-gia tùy theo sự lựa chọn người giúp việc ». Bởi thế Gia-long rất thận trọng trong việc dùng người. Những người được tiến cử ra giúp nước, phải có sự bảo đảm về hạnh kiểm và tài năng của người đứng tiến cử. Như vậy, nếu người được tiến cử làm điều trái phép, hoặc bất lực, người đứng tiến cử và bảo đảm phải chịu trách nhiệm. Học hành. – Để khuyến khích việc học, bị sao lãng vì chiến tranh, và để có đủ nhân tài ra giúp nước, Gia-long, năm 1803, lập trường Quốc-tử-giám tại kinh-đô Phú-xuân ; mở các trường học và lập nhà văn-miếu ở các tỉnh. Năm 1807, Gia-long cho mở khoa thi Hương, vào ngày 12 tháng 10. Rồi từ đấy, cứ 3 năm một kỳ thi. Phép thi thì kỳ đệ nhất : kinh nghĩa ; kỳ đệ nhị : tứ lục ; kỳ đệ tam : thi phú ; kỳ đệ tứ : văn sách. Thuế khóa. – Bắt đầu lên ngôi, Gia-long nói : Tây-sơn không đứng được lâu, vì đã bắt dân chịu sưu thuế quá nặng. Vậy ta không nên đòi hỏi nhiều ở dân như thế nữa. Rồi Gia long cho sửa lại các thứ thuế để dân đóng góp được dễ dàng. Ruộng chia làm ba hạng : nhất đẳng điền, đóng mỗi mẫu 20 thăng thóc ; nhị đẳng điền đóng mỗi mẫu 15 thăng thóc ; tam đẳng điền đóng mỗi mẫu 10 thăng thóc. Ruộng mùa thì mỗi mẫu nộp 1 thăng thóc. Thuế đinh. – Mỗi xuất đồng niên phải đóng 1 quan 2 tiền thuế thân, 1 tiền thuế mân tiền, 2 bát cước mễ. Có nợ phải đóng thêm 6 tiền tạp dịch nữa. 6 ngoại-trấn Bắc thành, mỗi xuất đinh phải nộp : thuế thân 6 tiền, mân tiền 1 tiền, tạp-dịch 3 tiền, cước mễ 1 bát. Những năm bị nước lụt, đại hạn, hay hoàng trùng, thì nhà vua giảm bớt thuế xuống nhiều ít tùy theo sự thiệt hại, hoặc tha tất cả. Có lúc phát không gạo, quần áo cho những dân nghèo. Cách thu thuế, thì tùy từng địa-phương mà định vụ : từ Quảng-bình đến Bình-thuận, mỗi năm một vụ thu thuế từ tháng 4 đến tháng 7. Từ Nghệ-an ra Thanh-hóa và Bắc thành, mỗi năm hai vụ : mùa hạ từ tháng 4 đến tháng 6 ; mùa đông từ tháng 10 đến tháng 11. Gia-long đánh thuế cả vào các sản-phẩm như quế, yến-sào, hương, sâm, chiếu, gỗ, v.v… Đinh bạ, cứ 5 năm làm lại một lần. Từ 18 tuổi lên tới 59 tuổi, ai cũng phải khai vào sổ. Điền bạ cũng 5 năm làm một lần. Ruộng thuộc hạng nào, rộng hẹp, đông tây tứ chí đều phải chua vào sổ rõ ràng. Gia-Long khuyến khích sự khai mỏ ở Cao-bằng, Thái nguyên, Tuyên-quang để thu thuế (việc khai mỏ bị gián đoạn bấy lâu vì chiến tranh). Hàng hóa lưu hành thì tính theo giá hàng mà thu thuế 2, 5 phần 100. Các tàu ngoại quốc vào buôn bán phải nộp thuế tùy theo tàu to nhỏ. Đúc tiền. – Gia-Long mở sở đúc tiền ở Bắc-thành, năm 1803, để đúc tiền kẽm, tiền đồng, nén vàng, nén bạc. Pháp luật. – Gia-Long sai ông Nguyễn văn-Thành làm tổng-tài coi việc soạn luật năm 1811. Bộ luật này được đưa ra thi hành từ 3-9-1815 gọi là Luật Gia-Long. 38 Binh chế. – Để tổ chức quân đội, Gia-Long ra lệnh cứ 7 người từ 19 đến 25 tuổi, lấy 1 một người sung vào quân đội, được hưởng mỗi người một phần ruộng công. Quân đội lập như thế, chia làm 3 lớp, mỗi lớp ở tại ngũ 4 tháng, được về nhà cày cấy 8 tháng. Lần lượt ở tại ban như vậy, gọi là Biên-bình ban-lệ. Ở kinh-thành đặt ra thân binh, cấm binh, tinh binh, ở các trấn đặt ra lính cơ, lính mộ. Ngoài men bể, Gia-Long cho dựng đồn đặt súng, chỉnh đốn binh thuyền ; lấy người ở gần bể tập thủy-quân. Đóng thuyền bọc đồng để đi lại tuần phòng theo miền duyên hải. Gia-Long định sẵn : khi nào trong nước có chiến tranh, cứ 3 xuất đinh, lấy một xuất đầu quân. Tuy nhiên trong những tỉnh Tuyên-quang, Hưng-hóa, Cao-bằng, Lạng-sơn, Thái-nguyên và Quảng-yên, cứ 10 người mới lấy một. Ở miền Gia-định thì 8 người lấy một. 39 Công chính. – Gia-Long lo sửa sang đường sá và cầu cống. Khai lại các sông đào, sửa lại đê điều và đắp thêm đê cho những nơi cần có mà chưa có, để tránh nước lụt cho dân cày cấy. Mỗi tỉnh đều dựng kho trữ thóc, phong khi mất mùa, đói kém. Dọc đường lập nhà trạm chạy thư, và cho khách bộ hành nghỉ ngơi. Từ Nam-quan đến Bình-thuận cứ 4.000 trượng dựng một nhà trạm, cả thảy có 98 trạm. Xây đền Cần-chánh để lập thường-triều ; đền Thái-hòa để lập đại-triều. Xây Hoàng-thành ở Phú-xuân. Ở các tỉnh đều có xây thành và lập trại lính. Sử ký địa dư. – Gia-Long sai ông Lê quang-Định (thượng-thư bộ binh) ghi những rừng núi đường sá, thổ sản, sông ngòi, chợ búa, cầu cống, phong tục từng địa-phương trong nước để viết bộ « Nhất thống địa-dư chí ». Bộ này viết xong năm 1806 cả thảy 10 quyển. Năm 1811, Gia-Long cho soạn quốc-sử, chú trọng về thời kỳ từ 1773 đến 1802. Vì thiếu tài liệu viết Sử, Gia-Long hạ lệnh : ai cho biết những tài liệu giúp việc soạn Sử sẽ được thưởng, dầu những tài liệu đưa ra tố cáo những sự không hay của nhà vua nhưng xác thực, cũng không bị tội. Giao thiệp với Trung-quốc. – Sau khi lấy được Phú xuân, Gia-long sai ngay Trịnh hoài-Đức và Ngô nhân-Tĩnh sang sứ nhà Thanh, nộp phẩm vật, và dâng biểu lược thuật sự chiến tranh đã xảy ra với Tây-sơn lâu nay. Là dòng dõi Nguyễn-Kim, bầy tôi của nhà Lê, Gia-long nói đánh Tây-sơn chỉ có mục-đích giả thù cho nhà Lê. Cuối năm ấy (1802), sau khi lấy được Bắc thành, Gia long không đợi Trịnh hoài-Đức về, lại sai một sứ đoàn thứ hai qua Trung-quốc. Sứ đoàn này do Binh-bộ thượng-thư Lê quang-Định dẫn đầu. Lần này Gia-long yêu cầu vua nhà Thanh phong Vương và xin đặt quốc hiệu là Nam-Việt. Vua Thanh (Gia-Khánh), năm 1803, sai Án-sát-sứ Quảng-tây là Tề-Bố-Sâm sang phong Vương cho Gia-long, và đặt quốc hiệu là VIỆT NAM (vì nước Nam-Việt xưa, về đời Triệu, gom cả đất hai tỉnh Quảng-đông và Quảng-tây, nên không lấy tên ấy nữa, mà đặt đảo lại là Việt-Nam cho khỏi lầm). Vua Thanh lại bắt Việt-nam theo lệ cống tiến như cũ, cứ 3 năm một lần. Cống phẩm định là : - Ngà voi và quế, mỗi thứ 100 cân - Lụa và cấp mỗi thứ 100 cây - Sừng Tê-giác 2 bộ - Vàng 200 lượng - Bạc 1.000 lượng. Gia-Long thân hành ra Bắc-thành làm lễ nhận ấn sắc của vua Thanh. Năm sau Gia-Long sai sứ quân qua tạ ân vua Thanh. Năm 1809, Gia Long bắt đầu sai sứ qua Trung quốc dâng cống phẩm theo lệ định. Giao thiệp với Cao-mên và Tiêm la. – Tuy mất đất theo miền duyên hải (thủy Chân-lạp) cho nhà Nguyễn 40, nước Cao-mên (Chân-lạp) vẫn luôn luôn là một nước chư hầu trung thành của Việt-nam. Mỗi lần bị nước Tiêm-la (Siam) uy hiếp, là mỗi lẫn vua Cao-mên cầu cứu với Việt nam, và không lần nào Việt-nam từ chối không che chở Cao-mên. Khi có chiến tranh ở Việt-nam (Tây-sơn với Nguyễn), vua Tiêm-la, nhân dịp chúa Nguyễn bận rộn, năm 1794 phong vương cho vua Cao-mên là Nặc-ông-Ấn, rồi đóng quân ở Cao-mên, lập cuộc bảo hộ tại hai tỉnh Battambang và Angkor. Nặc-ông-Ấn (con Nặc-ông-tôn) là ông vua do chúa Nguyễn lập nên, và vẫn chịu thần phục nhà Nguyễn, từ năm 1777, cũng như các vua trước. Nặc-ông-Ấn chết năm 1796, con là Nặc-ông-Chân lên nối ngôi. Vua Tiêm-la lại cũng sai sứ sang phong Vương cho Ông-Chân năm 1806 để giữ quyền bảo hộ nước Cao mên. Nhưng năm 1807, Nặc-ông-Chân qua cầu phong với Gia Long và xin theo lệ triều cống như ông cha thủa xưa đối với các Chúa Nguyễn. Bất bình, vua Tiêm-la bèn ngầm gây chiến tranh giữa 3 anh em Ông-Chân. Năm 1812, vua Tiêm la giúp khí giới cho em Ông-Chân là AngSnguon nổi loạn, đồng thời đem quân đóng ở Ou-dong. Ông-Chân phải chạy qua Việt-nam cầu cứu. Gia-Long gửi thư trách vua Tiêm-la năm 1811. Vua Tiêm-la nhã-nhặn phúc thư rằng : « Tiêm-la động binh cốt giải hòa cho anh em Nặc-ông-Chân mà thôi, vua Việt-nam xử trí thế nào, cũng xin thuận ». Tin vào sự thành thật của vua Tiêm-la, năm 1813, Gia Long sai Lê văn-Duyệt đem 10.000 quân đưa Ông-Chân về nước ; rồi cử Nguyễn-văn-Thụy đóng 1.000 quân tại Nam vang (Pnom-penh). Từ ngày ấy, quyền bảo hộ nước Cao mên lại thuộc về Việt-nam. Giao-thiệp với Anh-Cát-Lợi. – Năm 1803, nước Anh cát-lợi sai sứ là Robert đem đồ phương vật sang dâng Gia Long, và xin cho vào mở cửa hàng buôn bán ở Trà-sơn, thuộc Quảng-nam. Gia-Long không nhận đồ, và cũng không thuận cho người Anh-cát-Lợi đến mở cửa hàng. Về sau, người Anh-cát-lợi còn đưa thư sang hai ba lần nữa, xin thông thương với Việt-nam. Nhưng Gia-Long vẫn một niềm từ chối, không chịu. Giao-thiệp với nước Pháp. – Gia-long rất trọng đãi người Pháp, vì Ngài không khi nào quên sự giúp đỡ của người Pháp trong lúc đánh Tây-sơn. Sau khi giám-mục Bá-đa-Lộc chết (9-10-1799), Olivier cũng chết ; Dayot, l.ebrun, Magon de Madine, Guilloux và mấy người nữa thì về nước. Người Pháp giúp việc Gia-Long chỉ còn mấy sĩ-quan. Năm 1802, tại triều-đình, có Philippe Vannier, Jean Baptiste Chaigneau, De Forsans và Despiau. Trừ Despiau là thầy thuốc, các người trên đều được phong chức Chưởng-cơ (tòng nhị phẩm). Khi nào thiết triều, người Pháp được miễn lễ, chỉ phải cúi đầu 5 lần. Mỗi người Pháp được Gia-Long cho 50 tên lính hầu riêng. 10 năm sau, De Forsans chết, số quan Pháp giúp Gia-Long chỉ còn 3 người. Tháng 9 năm 1817, tàu La Paix của Pháp chở hàng tới Đà-nẵng, nhưng tuyền những hàng bán không được. Gia Long hạ lệnh tha thuế, và cho quan địa-phương giúp mọi phương-tiện để thuyền-trưởng và thủy-thủ đến Phú-xuân được dễ dàng. Nhờ vậy, thuyền-trưởng chiếc La Paix đã gặp Chaigneau và Vannier ở kinh-đô. Chiếc La Paix đi rồi, sau chiếc Henry đến. Từ đấy dân Pháp biết nhiều đến Việt- """