"Lịch Sử Văn Học Việt Nam Từ Thời Thượng Cổ Đến Hiện Đại 1: Nguồn Gốc Văn Học Việt Nam PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lịch Sử Văn Học Việt Nam Từ Thời Thượng Cổ Đến Hiện Đại 1: Nguồn Gốc Văn Học Việt Nam PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Tên sách : LỊCH-SỬ VĂN-HỌC VIỆT-NAM (TỪ THƯỢNG-CỔ TỚI HIỆN ĐẠI) I : NGUỒN GỐC VĂN-HỌC VIỆT-NAM Tác giả : LÊ VĂN SIÊU Nhà xuất bản : THẾ-GIỚI Năm xuất bản : 1956 Nhà xuất bản : XUÂN THU tái bản 1990 ------------------------ Nguồn sách : Sadec (TVE4U) Đánh máy : Thanh Trần Kiểm tra chính tả : anfat3, Dương Văn Nghĩa Biên tập ebook : Thư Võ Ngày hoàn thành : 22/11/2018 Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U. ORG Cảm ơn tác giả LÊ VĂN SIÊU và nhà xuất bản THẾ GIỚI, XUÂN THU đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá. MỤC LỤC LỜI TỰA TRƯỚC KHI VÀO ĐỀ PHẦN THỨ NHỨT : NGUỒN-GỐC VĂN-HỌC VIỆT-NAM TIẾNG VIỆT THỜI THƯỢNG-CỔ CHỮ VIẾT THỜI TỐI-CỔ SỰ THÀNH-HÌNH CỦA NỀN VĂN-CHƯƠNG TRUYỀN-KHẨU CHƯƠNG I : VĂN-CHƯƠNG TRUYỀN-KHẨU – CA-DAO, TỤC NGỮ CHƯƠNG II : VĂN-CHƯƠNG TRUYỀN-KHẨU – CHUYỆN CỔ TÍCH QUAN-NIỆM SIÊU-HÌNH 1. Cảnh-tượng đất Giao-Chỉ 2. Ảnh-cảm của đất Giao-Chỉ 3. Tôn-giáo : đạo tam phủ và tứ phủ 4. Quan-niệm vũ-trụ và trật-tự xã-hội 5. Quan-niệm về đời sống thực-tiễn 6. Quan-niệm về người quân-tử 7. Cái cười của người giao-chỉ CHƯƠNG III : VĂN-CHƯƠNG TRUYỀN-KHẨU – CÂU ĐỐ CHƯƠNG IV : VĂN CHƯƠNG TRUYỀN KHẨU – NHỮNG CÂU NÓI LÁI, NHỮNG TIẾNG ĐỆM VÀ NHỮNG CÂU HÁT CỦA CON TRẺ PHẦN THỨ HAI : ẢNH-HƯỞNG CUỘC HÔN-PHỐI GIỮA NGƯỜI VIỆT « GIAO-CHỈ » VỚI NGƯỜI VIỆT « DƯƠNG-TỬ » CHƯƠNG I : CHỮ VIẾT CHƯƠNG II : TINH-THẦN TIẾNG VIỆT LÊ VĂN SIÊU LỊCH-SỬ VĂN-HỌC VIỆT-NAM (TỪ THƯỢNG-CỔ TỚI HIỆN ĐẠI) I : NGUỒN GỐC VĂN-HỌC VIỆT-NAM THẾ-GIỚI NGUỒN-GỐC VĂN-HỌC VIỆT-NAM Quyển thứ sáu trong loại sách « NGƯỜI DÂN HỌC TẬP » do LÊ-VĂN-SIÊU biên-soạn và THẾ-GiỚI 16 Tạ-Thu-Thâu– SÀIGÒN xuất-bản. In tại ĐẮC-LỰC xong ngày 15-6-56 kiểm duyệt số 339/TXB ngày 18-3-56. NHÀ XUẤT BẢN XUÂN THU TÁI BẢN P. O Box 97 Los Alamitos CA 90720 Tháng Tám 1990 LỜI TỰA Không có một quyển Văn-Học sử thì biết lấy gì để nói về nền văn-hiến bốn ngàn năm của mình ? Nhưng khi văn-học sử ấy đã có, lại còn thêm một quyển nữa như quyển này, ắt chẳng phải vì những người trước đã không biết yêu nước mà viết. Mà chỉ vì mỗi người đã đeo một cặp mắt kính khác nhau để nhìn vào di-sản văn-hoá ấy của cha ông. Di-sản văn-hoá đã đẹp thì với cặp mắt kính nào nhìn vào cũng phải thấy đẹp và cố-nhiên càng nhiều quan-điểm thì người ta càng thấy nhiều vẻ đẹp khác nhau. Nhưng, chỉ e lòng người quá thiên về quan-điểm (nghĩa là về phương-tiện) mà quên mất mục đích thì người ta sẽ biến thành một lũ thầy bói sờ voi, để kẻ bảo voi hình cái cột, kẻ bảo nó giống cái chổi, kẻ bảo nó giống cái quạt… thì người sống là chúng ta sẽ buồn mà vong hồn người chết là cha ông chúng ta sẽ ôm hận dài nơi chín suối Cho nên sau cơn ly-loạn đau thương, lòng người còn nhiều phân tán, lúc này hơn lúc nào hết, phải có một thống quan về sự-kiện văn-học của dân-tộc ta, không những để chỉnh lại một vài quan-điểm mà chỉnh lại nhiều những quan điểm, không những để ghi chép tổng-quát lại những gì đã được ghi chép mà còn kích thích người đọc sát hạch lại những gì đã ghi chép theo con mắt thống-quan của người lành mạnh (nghĩa là người không muốn mình què quặt). Có nhiều những vấn-đề văn-học mà người trước vì cớ này hay cớ khác đã muốn tránh không động đến, nhiều những gì còn lòng dòng mà người ta chưa chịu đồng-ý với nhau, chúng tôi muốn mời độc-giả dứt khoát một lần sau chót với quá-khứ ấy để tinh-thần được rảnh rang mà lo liệu cho tương-lai. Bởi chạy theo ôm lấy cái « bốn ngàn năm văn-hiến » mà chết trong tự-mãn, sao bằng tự lo cho mình một ngày một xứng đáng hơn đối với nó ? Nhất là trong giai đoạn lịch-sử này là giai-đoạn quyết liệt mà tinh-thần dân-tộc được đem ra đặt cược trong một ván bài chót, để một là còn, thì còn tất cả lịch-sử, tất cả dân tộc, tất cả tương lai, mà hai là mất thì mất hết. Chúng tôi viết sách nói về tinh-thần Việt-Nam này với một tinh-thần người Việt-Nam sống trong một kỷ-nguyên mới vừa hé mở, và một phương-pháp nhận-thức kết-tinh những phương-pháp cũ của một kỷ-nguyên cũ vừa tàn. Chúng tôi không muốn nhắc đến thiện-chí hay nhắc đến những khó khăn vì thiếu tài-liệu để cầu xin một sự tha-thứ. Chúng tôi không dám lợi-dụng lòng rộng rải của độc-giả để xin tha-thứ ; vì chúng tôi cho rằng đã trước-thư lập-ngôn theo cần dùng của lịch-sử thì bắt buộc người viết phải chịu trách-nhiệm về tinh-thần của tác-phẩm mình, không thể lẩn trốn được. Nhưng không phải vì vậy mà chúng tôi đã dám nhận sách này là toàn bích. Quý vị độc-giả thấy chỗ nào sai lầm xin chỉ dạy cho, chúng tôi rất cám ơn. Nhân đây, chúng tôi xin trân-trọng cám ơn các bạn đã khuyến-khích và giúp thêm ý-kiến cùng cám ơn các quý vị văn-học-sử-giatiềnbối màchúngtôi đãnhờđểcóđược nhiềutài liệuquýgiátrongsáchnày. TRƯỚC KHI VÀO ĐỀ Tất cả đều có thể bị mai-một với thời-gian, duy văn-học là nhất-định tồn-tại với nền văn-hóa của dân-tộc. Văn-học phản-ánh trung-thành cuộc sống xã-hội của hiện-tại cũng như của quá-khứ. Nó phải đã có một lịch-sử tiến-hóa của nó, khi xã-hội đã có một lịch-sử tiến-hóa. Nói rằng không còn tài-liệu đề kê-cứu thì nghi ngờ không rõ ta đã có một nền quốc-học chưa, là nói sai-lạc theo phương-pháp suy-lý hình-thức. Văn-học chẳng phải chỉ là những gì viết ra trên giấy trắng mực đen. Nó là phần tinh-thần của dân-tộc, mượn giấy trắng mực đen làm phương-tiện để phát-huy, cũng như đã mượn tiếng nói, mượn cử-chỉ, mượn giáng-điệu để tự thể-hiện. Còn tồn-tích văn-thư thì có dễ hơn cho việc nghiên-cứu. Nhưng không phải là khi mất hết tồn tích ấy thì không còn phương-sách gì để tìm hiểu lại phần tinh-thần của dân-tộc. Ta nhìn nhận rằng tinh-thần của dân-tộc có bắt rễ nơi khí-hậu, địa-dư lịch-sử của dân-tộc. Lịch-sử thì đã đành có trồi sụt theo những hằng-tinh quy-định bởi ý-thức và tiềm thức của từng cá-nhân và của toàn-thể dân-tộc. Song khí hậu và địa-dư thì đã có một phạm-trù cho sự vần xoay của trái đất trong hệ thái-dương, dẫu bao nhiêu ngàn năm cũng chỉ đổi ở chi-tiết nhỏ mà không khác hẳn được ở đại-thể. Không ai bịa đặt nổi được một lối hiểu biết, một lối suy nghĩ, một lối tư-tưởng, và một lối nói riêng biệt của một dân tộc cũng như không có thể tưởng-tượng nổi sự có mặt của một dân-tộc ở giữa khoảng trống không. Thì ngược lại khi đã có một dân-tộc tồn-tại trên một vị-trí địa-dư, tất theo với lịch-sử của dân-tộc ấy, đã phải có một nền văn-học kết-tinh ở tinh-thần riêng biệt của dân-tộc ấy. Tất cả những tác-phẩm văn-nghệ, học-thuật của một dân-tộc không những tiêu-biểu cho tinh-thần thích-ứng với hoàn-cảnh thiên-nhiên và xã-hội để tồn-tại mà còn tiêu-biểu cho một ý muốn vươn tới gì cao cả. Người văn-nghệ-sĩ là người con yêu của dân-tộc để đại diện xứng đáng cho tinh-thần thích-ứng ấy và ý muốn vươn tới ấy. Nếu cái áo chẳng làm nên được người thầy tu, thì không hẳn rằng có một quyển sách, một bài thơ, một bức họa, một bản nhạc người ta đã là một văn-nghệ-sĩ. Tiêu-chuẩn đề nhà văn-học-sử chẳng làm cái trò của những anh chàng chơi và giữ những xác bướm, không phải là thái-độ của một số nhân-dân trong một thời đối với một tác phẩm. Cũng không phải là sự chịu khó sản-xuất nhiều của tác-giả như một người bửa củi. Mà là phần chứa đựng của tác-phẩm đã tiêu-biểu phần nào cho tinh-thần thích-ứng và ý muốn vươn tới nói trên, nghĩa là cái phần mà tác-giả đã giúp rập vào sự tiến-hóa tinh-thần của dân-tộc. Phải lột trần được sự tiếp-diễn trường-kỳ của cuộc sống tinh-thần ấy của dân-tộc qua những tác-phẩm thì lịch-sử văn-học mới là một lịch-sử văn-học. Cho nên người ta đọc và học lịch-sử văn-học chẳng những vì một sự thích thú như Gustave Lanson đã nói (bởi được hầu chuyện với những phần-tử ưu-tú thời đã qua) mà vì người ta còn cảm-thông được với cuộc tiến hóa tinh-thần của dân-tộc, để mỗi người, tùy cấu-tạo tinh-thần mà tự mình vẽ ra được một triển-vọng tương lai riêng của mình và chung của cả dân-tộc. Chúng tôi không thể quan-niệm rằng người ta học lịch-sử văn-học lại chỉ với thái-độ nghiên-cứu khô-khan của một nhà bác-học trong một phòng thí nghiệm hay một viên kỹ-sư trước những con số. Lịch-sử văn-học trước khi là một tấm gương thật mặt của cuộc tiến-hóa tinh-thần, thì chính nó hãy phải là một tác-phẩm văn-nghệ đã : một tác-phẩm dùng sự kiện văn-học làm đề-tài, dùng cuộc tiến-hóa lịch-sử làm minh-chứng để lôi kéo người đọc dõi theo những bước tiến của những bậc tiền-bối khi họ đua nhau mà vươn lên. Không còn hình-thức nào thuận-tiện hơn một quyển lịch sử văn-học để trình-bầy sự kết-tập của những ý muốn vươn tới cao cả này qua những biến thiên lịch-sử. Cho nên học lịch-sử văn-học người ta phải cảm-thông được với cả phần ý-thức lẫn cả phần tiềm-thức của dân-tộc để nhận-định được những hằng-tính lịch-sử trong những hồi trồi lên trụt xuống của nó. Nếu người ta nhận-định rằng một tác-phẩm văn-nghệ cũng như một thiên-tài văn-nghệ không rớt từ không trung xuống và phải bắt rễ nơi cuộc sống xã-hội thì người ta phải hiểu rằng, nó không những bắt rễ nơi cuộc sống xã-hội hiện tại mà còn nơi cuộc sống quá-khứ nữa. Chính cuộc sống quá khứ này mới là yếu-tố quy-định gần như độc-đoán sự triển khai của những tác-phẩm cũng như của những tác-giả. Nói về thiên-tài văn-nghệ mà nói một cách cứng dắn rằng đó là nhờ sự cấu-tạo của quần-chúng nhân-dân đương thời thì ấy là mị-chúng để nói lời bội-bạc, công ơn của tổ-tiên và sông núi. Lời bội bạc, mà lại chỉ có một quyển lịch-sử văn học mới làm át đi được bằng cách xếp đặt trả lại những giá trị tinh-thần mà cuộc sống xáo loạn đã khiến đảo-lộn và ngạo-ngược tất cả. Chúng tôi nói rằng một tác-phẩm văn-nghệ trước khi nói gì tới đường nét kiến-trúc, tới những gọt dũa chi-tiết, phải đã đạt những khả-năng chuyển-biến để « đánh đồng thiếp » được cái chủ-quan của người thưởng-thức và đẩy họ vào sống trong không-khí của tác-giả tạo ra và tùy lúc, tùy tâm trạng, họ sung sướng như riêng họ khám-phá thêm được những gì mà tác-giả đã bỏ lửng. Tính-cách trường-tồn và phổ-biến của một tác phẩm văn nghệ là ở chỗ tác-giả sáng-tạo ra cái không-khí linh-động cho hết thảy mọi người, mọi hạng người, tạm thoát được mình ra khỏi cuộc sống hiện-tại để tâm-hồn vào sống trong đó, với những nhân-vật những sự-việc trong đó và ở cái chỗ tác-giả mở sẵn những lối cho người thưởng-thức sáng-tạo thêm tùy lúc và tùy tâm-trạng. Công việc sáng-tạo này phí người nghệ-sĩ giầu tình-cảm lại sẵn một cơ-cấu tinh-thần đặc-biệt để cảm thông với mọi người qua không-gian và thời-gian thì không ai làm nổi. Vẫn hay rằng quần-chúng, những đau khổ của quần chúng cùng với ước-vọng thâm-thiết của quần-chúng là một động-cơ cho sự sáng-tác nên một cái gì quan-hệ cho cuộc sống chung. Song động-cơ ấy vẫn chỉ là động-cơ cho người chính trị chân-chính làm việc hy-sinh thực cho sự sống còn của quần-chúng, cũng như một động-cơ cho người chính-trị đầu-cơ buôn bán cảm-tình của họ, cũng như một động-cơ cho người văn-nghệ nô-bộc phụng-sự chính-trị đầu-cơ để quấy đục nước lên trong nhất thời khiến người ta thù-oán căm-hờn lẫn nhau, cũng như một động-cơ cho người văn nghệ chân-chính đặt những viễn-ảnh tiến-hoá trong trật-tự và trong tình yêu thương. Vai trò của quần-chúng có thể là vai trò tham dự vào việc sáng-tác văn-nghệ nhưng tham dự không phải là đem cái rung-cảm bác tạp của muôn triệu người thay hẳn cho cái rung-cảm của người văn-nghệ-sĩ để làm việc sáng-tác tập thể ra một cái gì từ đầu chí cuối. Như nếu có làm được, thì cái gì ấy chỉ là một quái-thai văn-nghệ không hơn và không kém. Những tác phẩm cũ còn lại, không có đề tên tác-giả vì vậy, cũng không thể gán cho là của quần-chúng đã sáng-tác tập-thể ra. Mặc dầu vì tác-giả quá thận-trọng trong việc trước-thư lập-ngôn mà để mập mờ cho tác-phẩm của riêng mình là của một người vô danh, nhà văn-học-sử cũng phải biết trọng sự thực lịch-sử để nhận-định cho rõ ra từ cái ý nghĩ cho đến cái lề lối gọi là sáng-tác tập-thể cũng chỉ có thể nẩy ra trong một chế-độ xã-hội mà quần chúng bị lợi-dụng, xu-mị và lừa dối đến triệt-để thành một đàn nô-lệ của chính quyền. Mà suốt dọc lịch-sử nước ta thì lại chưa hề bao giờ chính-quyền có nỡ nô-lệ-hóa nhân-dân một cách trâng tráo như vậy. Có thể đặt hẳn thành một vấn đề để cứu-xét, cái việc quần-chúng sáng-tác tập-thể có phải một dấu-hiệu tiến bộ chăng. Đầu tiên là không làm gì có sự-kiện ấy. Bởi vì việc sáng tác văn-nghệ là một việc chuyên-môn cần tới công-trình ôn luyện cần-cù của những cơ-cấu tinh-thần kỳ-đặc, không phải một trò chơi mà bất cứ một quần-chúng nhân-dân nào cũng làm được. Cái khiếu thẩm-mỹ bác-tạp cùng những đòi-hỏi huyên-thiên của quần-chúng nhìn ngắn và thấp chung quanh quyền-lợi thiên-lệch nhất thời, chỉ là một yếu tố để phá sự nhất-trí của kiến-trúc tác-phẩm. Nếu lại đưa những đòi hỏi ấy lên thành những lệnh-luật cho sự sáng tác thì chẳng bao giờ có sáng-tác cả. « Làm nhà bên đường mà gặp ai đi qua cũng hỏi thì 3 năm không xong ». Làm một tác-phẩm văn-nghệ mà phải chiều ý quần-chúng, chiều ý cả những người chẳng hiểu gì hết về cơ-cấu một tác-phẩm thì hàng trăm năm cũng chẳng thành được một tác-phẩm. Câu chuyện sáng-tác tập-thể chỉ là một cách dùng những đòi-hỏi của quần-chúng nhân-dân làm một áp-lực chính-trị để ức-hiếp sự sáng-tác văn-nghệ mà thôi. Thì trong cảnh thế ấy, con người văn-nghệ còn là cái gì khác với một con người nô-lệ nữa ? Và một công-trình sáng tác còn là cái gì khác với một món súp heo ? Như vậy là tiến bộ hay thoái bộ ? Cho hẳn rằng đây là một trong những cách cắt đứt với quá-khứ để hy-sinh một đám « tiểu-tư-sản tri-thức » và mở lối cho quảng-đại quần-chúng lên thế chân. Vấn đề sáng-tác sẽ được đặt ra là thế nào ? Là tâm-hồn văn-nghệ không bao giờ có thể là thứ tâm hồn đen tối, đầy những ý nghĩ căm-hờn thù-oán để muôn kiếp nghìn đời, xô đẩy nhau hụp lặn trong biển vật-dục đê hèn. Mà quần chúng thì hồi ít năm gần đây đã được nuôi dưỡng trong huyết-quản bằng những ý-nghĩ đen tối ấy. Nền văn-nghệ quần-chúng như nếu có thì cũng sẽ chỉ là thứ đen tối đầy căm-hờn, thù-oán, thứ tàn nhẫn không một tinh thần nhân-đạo cao cả. Nghĩa là một nền văn-nghệ với những yếu tố phi-văn-nghệ. Văn-nghệ mà không hiểu-hiện được sự vươn tới cao cả, trong đó tình thương yêu đùm bọc nhau là căn-cốt chính thì dù có dán những nhãn hiệu đẹp-đẽ như hiện-thực xã-hội, như xã-hội tương-lai… cũng chỉ là thứ văn-nghệ để mà tiêu diệt. Vì con người dù trải qua những thời-kỳ sa-đọa nào đi nữa, cũng vẫn giữ trong thâm-tâm những nhân-tính căn-bản là tình yêu thương. Đến một lúc cặn bã lắng xuống, cho tâm hồn của Người thức tỉnh dậy, thì tất cả những tác-phẩm gieo rắc căm-hờn, thù-oán giữa cùng một loài người sẽ bị quét đi như những tầu lá rụng trước cơn gió mát. Không hay gì cái việc nói rằng trong văn-nghệ có giai-cấp tính. Nhưng lỡ đã có người nói ra thì ta cũng chẳng nên ngại ngần gì mà không đề-cập tới. Quả thực thì cũng có nhiều loại văn-nghệ cũng như có nhiều loại người, nhiều loại văn-nghệ-sĩ. Gạt bỏ ra ngoài không nhận là văn-nghệ những gì không chân chính thì e người ta dán nhãn-hiệu là « tuyệt-đối chủ-nghĩa ». Nhưng văn-nghệ mà không mở được « cửa lòng » người ta để đón gió bốn phương và làm cho loài người sống gần gũi lại với nhau trong tình yêu thương để xoa dịu những thống-khổ tinh-thần và vật-chất cho tất cả, thì dùng làm gì thứ văn nghệ ấy trong cõi trầm-luân mênh-mang này của kiếp người ? Văn-nghệ làm ra với một dụng-tâm dụng-ý gây rối loạn trong lòng người để lợi-dụng tình cảnh ấy mà xây đắp địa-vị cho mình, dầu lời hay lý cứng cũng chỉ là thứ phương-tiện cho người ta dùng trong nhất thời, không có công gì trong việc gây dựng cuộc sống tinh-thần của dân-tộc thì không lý gì tồn-tại được lâu dài. Văn học sử có nhắc đến là nhắc đến để thóa-mạ chứ không phải để cho vào bảng vàng bia đá ngàn thu. Còn đối với thứ văn-nghệ vô tình để bộc-lộ đặc-tính giai cấp của tác-giả trong ước-vọng cũng như trong lối hiểu, lối nghĩ thì trước khi lo chuyện dán nhãn-hiệu giai-cấp hãy phải làm việc quan trọng cần gấp nhất là xét coi phần nội-dung ấy đúng cùng chăng. Như vậy mới là thoát được mình ra khỏi ảnh-hưởng của phương-pháp suy-lý hình thức. Và như vậy mới minh-chính được con mắt nhận-định của mình về một tác-phẩm văn-nghệ. Cho nên không lúc nào cần bằng lúc này để có trong văn học-sử một quan-niệm phê-bình văn học cho chính-xác. Người ta thường phê-bình theo lối cưỡng ép cho tác-giả phải nói và nghĩ theo lối nghĩ và nói của người ta trong thời của người ta, và trong hoàn-cảnh của người ta. Người ta đã chủ quan và phản khoa-học vô cùng mà vẫn tự nhận là khoa học khách-quan. Thật là một trò cười vậy. Giá-trị của một tác-phẩm phê-bình là ở chỗ thông-cảm để hòa cái chủ-quan của mình vào với cái chủ-quan của tác-giả mà nói lên những điều tác-giả muốn nói nhưng không nói, vạch ra những tình tiết éo-le mà tác giả không tự vạch ra. Giá-trị của nó không bao giờ lại có ở chỗ lợi-dụng uy-tín của tác-giả để bắt tác-giả từ bao nhiêu ngàn đời trước phải nói những gì lợi cho cái thái-độ chính trị của đương thời. Riêng đối với người học để thi, để hiểu biết, để rèn luyện óc phê-bình cho cuộc sống mai sau, lại càng cần phải có một bộ văn-học-sử viết theo một tinh-thần phê-bình đúng đắn nữa. Vì những lẽ đó mà chúng tôi viết sách này. Viết với một sự trân-trọng như trong một cuộc lễ trang nghiêm để hiến những gì thiêng-liêng nhất của mình cho tương-lai của xứ-sở. Gò Phước-long Mùa Xuân năm Bính-Thân PHẦN THỨ NHỨT : NGUỒN-GỐC VĂN HỌC VIỆT-NAM TIẾNG VIỆT THỜI THƯỢNG-CỔ Trên giải đất chúng ta đương sống, hồi sơ thủy với một địa-hình khác chút đỉnh vì các sông Hồng-Hà, Cửu-Long… chưa bồi đất ra xa đến như ngày nay, đã có nhiều giống dân ở. Ven bể là đất tạm trú của những bộ-lạc ở các quần-đảo Thái-Bình-Dương thường đi lại theo gió mùa để đánh cá. Trên các dãy núi là vùng xê-dịch của những bộ-lạc thuộc về giống Thái. Tại Trung-du và tại các miền đồng-bằng có những thổ dân đã định-cư, ở miền Nam là người Thủy-Chân-Lạp, ở miền Trung là người Lâm-Ấp, và ở miền Bắc là người Giao-chỉ. Sử cũ của Tàu còn chép : « Đời vua Nghiêu có người nước Việt-Thường sang dâng rùa » ; lại chép « Về đời Thượng-Cổ, năm Tân-Mão đời vua Thành-Vương nhà Chu (1109 tr. T.L.) có nước Việt-Thường ở phía Nam Giao-chỉ sai sứ đem chim bạch trĩ sang cống. Phải thông dịch ba lần mới hiểu được tiếng nhau ». Ở thời tối cổ ấy, cái thứ tiếng của ta không giống với tiếng Tàu khiến phải « ba lần thông dịch mới hiểu được nhau », chính là tiếng Giao-chỉ đã đồng hoá với các thổ-âm khác và lấn át các thổ-âm ấy đi trong cuộc sống chung đụng vì ta giữ được lợi thế. Người Mường ở mạn thượng-du Bắc-Việt – là người Việt Thường cũ, ít tiếp xúc với ngoài và ít chịu ảnh-hưởng của các thứ tiếng khác – hiện vẫn còn những tiếng mà ta thấy là tiếng cổ của ta lúc ban sơ. Tỉ như tiếng Bố, Cái là tiếng mà dân ta tôn Phùng-Hưng lên bậc cha mẹ dân (Bố cái đại vương), thì bây giờ người Mường vẫn còn dùng tuy giọng đọc có nặng hơn : bố = phò ; cái = cay ; Chính người Nghệ, Tĩnh cũng còn gọi Bố là Bố. Và khi gọi mẹ là Cái thì ta còn câu tục ngữ con dại cái mang để làm chứng. Sách Việt-Sử Thông-Giám cương mục, tiền biên chép : Tục xưa cha gọi là Bố, mẹ gọi là Cái. Thứ tiếng riêng biệt ấy của dân tộc, cho đến sau này, người Tàu vẫn kêu là khó nói vì nó nhẹ, ngắn và nhanh như tiếng chim. Trần-Cương-Trung đời Nguyên (thế kỷ thứ XIII) đi sứ nước Nam đã có ghi trong sách Sứ Giao châu tập một đoạn nói về tiếng ta như sau đây : « Ngữ âm Tru-li vị thiên viết bột-mạt ; địa viết yến, nhật viết phù-bột-mạt, nguyệt viết bột-văn, phong viết giáo, vân viết mai, sơn viết can ngỗi, thuỷ viết lược, nhãn viết mạt, khẩu viết mạnh, phụ viết cha, mẫu viết ná, nam tử viết can-đa, nữ tử viết can-ái, phu viết chùng, thê viết đà bị, hảo viết lĩnh, bất hảo viết chương lĩnh, đại tuất loại thử thanh cấp như phù, đại tự điểu ngữ ». Nghĩa là : tiếng nói của dân Tru-li1gọi trời là bột mạt (?) gọi đất là yến (?) mặt trời là phù bột mạt (?) mặt trăng là bột văn (?) gió là giáo (tức là gió) mây là mai(tức là mây) núi là can ngỗi (tức là cái núi) nước là lược (tức là nước) mắt là mạt (tức là mắt) mồm là mạnh (tức là miệng) cha là cha, mẹ là ná2con trai là can-đa (?) con gái là can ái(tức là con gái) chồng là chùng (tức là chồng), vợ là đà bị (?) tốt là lĩnh (tức là lành) không tốt là chương-lĩnh (tức là chẳng lành) cả thảy giọng như thế, tiếng nói gấp mà nổi, phần lớn giống như giọng chim. Do theo sự nhận-định của Sứ Tàu và sự phiên âm từ tiếng Việt sang tiếng Tàu ấy, ta thấy rằng ta đã có một tiếng nói riêng biệt với nhưng thanh âm trong sáng như tiếng chim và giọng nói nhanh và ngắn, là tất cả những đặc-biệt của giọng Phúc-Kiến ngày nay của người Mân-Việt cũ. Cái tiếng nói riêng biệt này như trên đã dẫn, là tiếng Giao-Chỉ phối-hợp với tiếng Thái và tiếng của những bộ-lạc thuộc quần-đảo Đông-Nam Thái-Bình-Dương đã di-dân tới. Ông Nguyễn Đổng Chi trong sách Việt-Nam cổ văn-học sử đã trình-bày trong một bản kê dưới đây, những điểm khác nhau giữa các tiếng nói của các dân-tộc phía Nam châu Á (xem trang 25). Theo ý tác-giả thì tiếng Việt-Nam thuộc loại tiếng độc âm. Chúng tôi không hoàn-toàn đồng-ý với ông về điểm đó. Nếu ta chỉ nhìn ở hình-thức bề ngoài thấy mỗi chữ viết chỉ-định một tiếng và mỗi tiếng là một âm, ta liệt cho tiếng ta là tiếng độc-âm thì có hơi hẹp nghĩ. Trong tiếng nói của ta có rất nhiều tiếng kép : kép đôi (như ngày ngà, rảnh rang, lọm khọm, còm ròm, loăng quăng, chem chẻm…), kép ba (như tơ lơ mơ, ba lăng nhăng, sạch sành sanh, tẻo tèo teo…), kép tư (như cha căng chú kiết) lại luôn luôn có thêm một hay hai tiếng đệm, tự nó không có nghĩa gì mà thêm vào tiếng gốc là để cho âm-hưởng chuyển đi như giọng ngân của tiếng hát. Cũng có khi vì thêm vào như vậy mà nghĩa chính của gốc ấy thay đổi như : - chạy : chạy vạy - nhẩy : nhẩy nhót - nóng : nóng nẩy - nhẹ : nhẹ nhõm Những tiếng ấy nhìn vào nội-dung, là những tiếng đa âm rõ ràng mà một là phải viết có gạch nối giữa, hai là phải viết dính lại với nhau. Ngoài ra nếu lại xét rằng tiếng nói dùng để diễn dịch một ý-niệm thì chỉ tiếng nước nào, mỗi tiếng chỉ-định hẳn một ý mới có thể liệt được vào loại độc-âm ; còn tiếng ta thường đã phải hai ba tiếng, hai ba âm mới đủ chỉ-định một ý niệm (như người đánh cá, người làm thợ, người làm ruộng…) thì không thể nói nó là độc-âm được. Cái tính-cách đa-âm lẫn với độc-âm ấy cùng với giọng nói có ngắn (như thích) có dài (như thuyền) có cao (như tới) có thấp (như hội) có trầm (như cỗ) có bổng (như lẻ) là tất cả những ngữ-tố để cấu-thành những câu nói có nhạc-điệu. Dù là văn vần hay văn xuôi, ai đã viết đều công-nhận là câu viết ấy đọc lên có một nhạc-điệu của nó. Cho nên từ ngàn xưa tiếng nói của ta, trong khi hoà-hợp được với tất cả các tiếng nói của các dân-tộc Đông-Nam-Á, nó vẫn có khả-năng thâu nạp được giọng Tầu để tạo-thành một tiếng nói riêng với tất cả những đặc-tính của nó. Theo cố Souvignet thì người ta đã có thể thấy 1088 tiếng Việt giống với tiếng Thái. Không rõ là Việt đã mượn của Thái hay Thái đã mượn của Việt. Dầu sao trong bộ tiếng gốc ấy, ít nào cũng đã phải có vài ba ngàn tiếng, nếu ta ước-lượng được rằng còn những tiếng riêng của giống Lạc-Việt, những tiếng Lâm-Ấp và những tiếng của những bộ-lạc ở các quần-đảo Nam Thái-Bình-Dương. Bây giờ không thể có cách gì truy-nguyên ra nổi mà làm bản thống-kê tiếng nói của ta ở thời tối-cổ. Vừa phần ích-lợi thiết-thực của việc ấy không bõ cho công tìm tòi. Lại nhất là sau khi ta đã thấy ra được những điều cốt-yếu. Cốt-yếu thứ nhất là tính-cách uyển-chuyển của giọng nói trong bộ máy phát-âm, dung-nạp và nói theo được tất cả các giọng nói khác của các giống dân đồng cư-ngụ trên giải đất hồi sơ-thuỷ. Cốt-yếu thứ hai là nhạc-tính trong tiếng nói khiến tăng gia khả-năng làm giàu thêm hoài hoài cho bộ tiếng có sẵn. Cốt-yếu thứ ba là cách bố-trí những yếu-tố xuôi theo ý nghĩ thông-thường (không ngược như Tàu) và giản-dị, dễ dàng, khiến ai cũng có thể tạo thêm ra tiếng mới được. Cốt-yếu thứ tư là tính-cách chuyển-biến độc-âm hay đa âm cũng được cả. Trong tất cả những điểm cốt-yếu ấy, nhạc-tính là một điểm quan-trọng hơn hết. Nó quy-định lối nghĩ, lối nói của người Việt-Nam cũ. Nó là căn bản của nền thi ca để diễn-dịch tâm tính của dân-tộc theo nhịp sống của dân-tộc. Nhịp sống của dân-tộc hồi sơ-thuỷ là một nhịp sống canh nông. Nó đều đều một điệu, lên xuống cũng nhẹ nhàng như ngọn lúa có gió đùa. Nó thanh-thản theo với tâm-hồn người nông dân chờ nước triều lên xuống để cấy hái. Trong cuộc sống ấy không có những đụng chạm, phá phách ghê-gớm. Cũng không có những sự giết chóc ồ-ạt, ầm-ĩ. Mà chỉ có một tâm tình rộng mở, một thương yêu âm ỉ, trong cuộc sống nội tâm, là tất cả những gì là thơ và mộng. Lời nói muốn lọt vào tai người nghe, trước hết phải là một lời thơ. Lời thơ muốn được truyền từ người này qua người nọ trước hết phải hợp với nhịp sống ở nội tâm cũng như ở ngoài. Cho nên ca dao, tục ngữ là một thể văn, phải đã phát xuất từ rất sớm, có thể từ khi chưa có chữ viết, vì không cần đến chữ viết. CHỮ VIẾT THỜI TỐI-CỔ Đối với chữ viết, mặc dầu lòng tự-ái quốc-gia, ta chưa có quyền kết-luận là đã có chữ viết khi chưa có trong tay những bằng-chứng cụ-thể về chữ viết ấy. Nhiều người trước chúng ta đã nói về lẽ tất-yếu của một dân-tộc tiềm-tàng một sức sống mãnh liệt như dân-tộc Việt Nam thì hẳn phải đã có chữ viết riêng. Nhất là khi những dân nhỏ yếu khác trên cùng một bán đảo này đã có. Hoàng-đạo-Thành ở đầu sách « Việt-Sử tân ước toàn thư » đã viết : « Việt-quốc tùng cổ đương tự hữu văn tự. Bất nhiên tùng tiền sự duyên hà ký ức ? Sĩ thứ sử văn tự chi giáo tắc chi thị thuỷ học hán văn. Dụng hán tự nhĩ. Hán văn thông hành ký cửu. Quốc tự toại bất phục truyền vô phục khả kháo. Thí quan, thượng du sơn đổng chi dân các hữu văn tự tương vi hành dụng khởi ưng quốc trung độc vô hồ ? » Nước Nam đời xưa đáng lý phải có chữ. Nếu không thì những việc cũ theo đâu mà ghi nhớ ? Lúc Sĩ Thứ Sử (Sĩ Nhiếp) dạy chữ thì khi ấy mới học văn hán, dùng chữ hán vậy. Vì văn hán thông dụng đã lâu nên quốc tự không còn truyền, không thể khảo ở đâu được. Thử xem dân rừng núi miền thượng-du đều có chữ, dân cùng dùng với nhau, há lại riêng nước ta không có ru ?). Quả thực thì Lào, Chăm, Mường, Thổ cũng đều có chữ viết dùng từ xưa đến bây giờ. Người Mường ở Phủ Tương, Phủ Quỳ (Nghệ-An) tiếp cận nhau mà cũng có tới hai thứ chữ khác nhau nữa. Vương-duy-Trinh đã viết trong sách Thanh-Hoá Quan Phong : « Tỉnh Thanh-Hoá một châu quan có chữ là lối chữ thập châu đó. Người ta thường nói : « Nước ta không có chữ ». Ta nghĩ rằng không phải. Thập châu vốn là đất nước ta, trên châu còn có chữ, lẽ nào dưới chợ lại không ? Lối chữ châu là lối chữ nước ta đó ». Lối chữ ấy theo ông Vương là lối chữ có dòng họ xa gần chi đó với lối chữ của người Lào, người Miên. Nó có 35 chữ cái mà ông Nguyễn-Đổng-Chi trong sách Việt-Nam cổ văn học sử đã lục đăng 35 chữ cái ấy phiên âm ra như sau đây : Giả thuyết của ông có lý phần nào trong chỗ người Người Mường ít bị ảnh-hưởng của văn-hoá Trung-Quốc và họ lại là di-duệ chính của người Việt-Thường cũ. Song cũng chưa thể lấy làm chắc vì : 1) Những chữ cái này khi ghép vào với nhau không tạo thành một chữ nào để chỉ định một tiếng Việt cũ nào còn sót lại. 2) Nếu quả thực là chữ cũ còn lại thì ít ra cũng phải còn vài ba động khác nữa còn, hay ít ra cũng phải còn một vài nét nào trong những đền đài lịch-sử, chả hạn như đền Hùng Vương Phú-Thọ. Đành là trong vấn-đề này, ngoài việc tin chắc thế nào ta cũng phải đã có chữ viết, ta vẫn còn phải chịu để lòng dòng chưa thể xác-định nổi về chỗ chữ viết ấy như thế nào. SỰ THÀNH-HÌNH CỦA NỀN VĂN-CHƯƠNG TRUYỀN KHẨU Dù có chữ viết hay dù không có chữ viết đi nữa, nền văn chương truyền-khẩu của ta cũng vẫn đã có. Nếu nó không phát-xuất ngay từ đầu đời Hùng-Vương, thì những điều-kiện tâm-lý, xã-hội cùng những đặc-tính của tiếng nói trong 1000 năm trước Tây-Lịch cũng đã phải tạo thành những câu hát, câu hò, những lời tục-ngữ, ngạn-ngữ, vừa làm căn bản cho nền thi-ca của ta sau này, vừa biểu-hiện những lối hiểu, lối nghĩ, lối nói của người xưa. Có thể chắc chắn rằng chính những danh-từ như phương ngôn, ngạn-ngữ, tục-ngữ, ca-dao v.v… hồi xưa không có trong bộ tiếng nói của ta. Và người xưa đã làm phương-ngôn, làm ngạn-ngữ, làm ca-dao mà không tự biết. Trong cuộc sống nông-nghiệp giản-dị với những tính-tình phong-tục « thuần-phác » mà người Tàu đã nhìn nhận3 người ta đã chẳng cần nghĩ gì đến sự tạo ra những tác-phẩm thi-ca, mà người ta đã chỉ biểu-hiện ra bằng lời nói, những tâm-tình xúc-động của người ta mà thôi. Người ta cũng chẳng nghĩ gì đến việc để đời về sau những câu ca câu hát giản-dị bột-phát theo ngẫu-hứng trong một lúc của người ta. Sự tự-nhiên được truyền-tụng và ghi nhớ của những thi ca ấy chứng tỏ tính-cách phù-hợp với đặc tính của mọi người và tính-cách dễ-dàng cho sự nhớ và sự nhắc lại của mọi người. Tính-cách thông-dụng ấy gần đây ta gọi là tính-cách bình-dân, khiến nhiều người tưởng lầm là bình-dân đã sáng tạo ra những tác-phẩm thi-ca ấy. Sự tưởng lầm đã được đẩy quá tới cái mức coi như cả một nền kinh thi Việt-Nam ấy đã là hoàn toàn do nông-dân tạo ra và kẻ sĩ đã chỉ những học theo mà không kịp. Thực ra những câu ca, câu hát để được truyền-tụng hay để hy-vọng được truyền-tụng, trước phải đã có một nội-dung thú-vị, và một hình-thức tao-nhã nào, khiến nhận-định ra được tác-giả là một trong những phần-tử ưu-tú trong xã-hội. Phải đã là một phần-tử ưu-tú trong xã-hội thì mới có được những phút xuất-thần để tự vượt mình trong cuộc sống thực-tại mà tìm tòi những lời, những ý, và để bố-trí những lời, những ý ấy cho đến độ nó khêu gợi ra được những thú-vị ở mình và ở người. Phải đã là một phần-tử ứu-tú trong xã-hội thì mới có được một cơ-cấu tinh-thần và tình-cảm đặc-biệt để thích thú những công việc tìm tòi ấy trong khi mọi người khác thích thú những công việc khác. Bất cứ một xã-hội nào ở trong một thời kỳ nào cũng có những phần-tử ưu-tú ấy. Thời tối cổ của xã-hội ta lại càng có nữa. Bởi trong khung cảnh thiên nhiên « gió trăng bỡn cợt » con người càng sống ở nội-tâm bao nhiêu thì tâm hồn thơ mộng lại càng dạt-dào bấy nhiêu. Để mà yêu quý những thơ mộng đẹp, để mà yêu quý những người giúp mình thêu dệt nên những thơ mộng đẹp ấy. Một điều chắc-chắn là xã-hội đã chiều-chuộng những người nào vẽ mình khéo nhất, nhuộm hàm răng tươi nhất, có giọng hát hay nhất và sẵn làm ra được những lời ca, lời thơ thú nhất. Xã-hội vì vậy đã an bài ra một lớp kẻ sĩ để khi có mặt ở bất cứ một chỗ đông người nào cũng nổi bật lên vì tài năng của mình. Giòng kẻ sĩ ấy, cho đến về sau này mãi mãi trong duyên trường lịch-sử Việt-Nam, vẫn là tác-giả chính của những câu ca-dao, tục-ngữ để cho dân-chúng nhắc đi nhắc lại và truyền-tụng từ người này qua người khác, từ đời này qua kiếp khác. Ngay trong nền Kinh thi của Tàu, quá-trình thành-tạo của nó cũng không khác gì vậy. Nó gồm những bài ca-dao ở nơi thôn-quê và những nhạc chương ở nơi triều miếu. Các thiên trong Thương tụng có lẽ làm từ đời nhà Thương (1800-1200 tr. T.L.) còn các thiên khác đều làm từ đời nhà Chu về thế-kỷ thứ XII đến thế-kỷ thứ VI tr. T.L. Đó là những bài hát trong khi có yến tiệc tế lễ nơi triều miếu. Nguyên trước có đến 3000 thiên. Sau đức Khổng-Tử san định-lại, lược bỏ bớt và lấy lại hơn ba trăm thiên sắp đặt thành bốn phần là : quốc phong, tiểu nhã, đại nhà, và tụng. Quốc phong là những bài ca-dao truyền-tụng trong các nước chư hầu, đã được nhạc quan của nhà Vua sưu-tập lại. Có 15 quyển tất cả ; 13 quyển gồm ca-dao của 13 nước chư hầu gọi là Biến-phong, và hai quyển Chu-Nam, Thiệu-Nam gọi là Chính phong, gồm những bài hát từ trong cung điện nhà Vua truyền ra thiên-hạ : - Tiểu nhã : gồm những bài hát chính đính dùng trong những trường-hợp như khi có yến tiệc nơi triều-đình. - Đại nhã : gồm những bài hát dùng trong những trường-hợp quan-trọng như khi đại-hội chư hầu hay khi tế lễ ở miếu đường. - Tụng : gồm những bài ngợi khen các vua đời trước dùng để hát ở nơi miếu đường. Ta tất thấy rõ vai trò của những kẻ sĩ của Tàu trong sự trước-tác nền Kinh thi của họ : Trong việc xây dựng nền Kinh-thi của ta những kẻ sĩ của ta cũng đã dự phần rất lớn. Dẫu người ta muốn nhắm mắt lại để xoá bỏ vai trò ấy đi cũng không được. Tuy nhiên, ta cũng phải công-bình để nhận rằng khi dân chúng truyền những bài ca-dao từ người này qua người khác thì hoặc nhớ nhớ quên quên, hoặc có dụng ý, đã có thể khiến cho những câu truyền đến chúng ta bây giờ không còn gì chắc đúng với nguyên-tác nữa. Vậy mà chúng ta đọc lên vẫn thấy thú. Ấy là thú ở nhạc điệu, ở bố-cục, ở lời và ý của tác-giả đầu tiên và thú ở chi tiết do sự góp phần của dân chúng sau này khi truyền tụng. Ca-dao tục-ngữ vì vậy phải kể là tinh-hoa chung của dân tộc. Cũng như phần nữa của văn-chương truyền khẩu, phần truyện cổ-tích, truyện tiếu-lâm, người ta kể cho nhau nghe ở trong nhà hay ở những nơi hội họp đông người. CHƯƠNG I : VĂN-CHƯƠNG TRUYỀN KHẨU – CA-DAO, TỤC-NGỮ Trong cái rừng văn-chương truyền khẩu của chúng ta hiện nay khó mà tìm tòi và chỉ đích ra được những câu nào hay những truyện nào đã phát-xuất ở thời tối-cổ. Có người cho những câu ca-dao sau đây là ở thời Trưng-Vương : Trời mưa nước chảy sông Đoài Cỏ lên đè lúa, cá trôi lềnh-bềnh Thương chồng nên phải gắng công Nào ai xương sắt da đồng chi đây Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước thì thương nhau cùng Ông Ngẫu-Tri Trịnh-đình-Rư còn viết trong Phụ-Nữ Tân Văn (số 42 ngày 6-3-1930) nói câu hát sau đây cũng phát xuất từ hồi ấy để cho dân quân đi công-tác : Ta lên núi, ta lên núi Đuổi đàn hươu, đuổi đàn hươu Ta lên núi, ta lên núi Đuổi đàn nai, đuổi đàn nai Nỗi niềm tâm-sự tỏ cùng ai ? Đoái trông phương Đông nước trắng mênh mông Đoái trông phương Tây đá trắng gồ ghề Đoái trông phương Nam, mây che đầu ngàn Đoái trông phương Bắc, núi cao ngất Ta lên núi, ta lên núi Đuổi đàn hươu. Đuổi đàn hươu Ta lên núi. Ta lên núi Đuổi đàn nai. Đuổi đàn nai Chúng ta liệu có thể tin được chăng, khi mà thời ấy làm gì ra đã có thành-ngữ có lẫn chữ nho như « nỗi niềm tâm-sự ». Và làm gì ra được nhiễu điều với giá gương, làm gì ra đã có được chữ « thương » việt-hoá ? Và làm gì ra đã có được những câu thơ lục bát chải chuốt gọn gàng ? Thiết tưởng chúng ta nên trước tránh cho nhau sự mất thì giờ và mất công đi tìm những cái không thể tìm được để rồi cố gán ép và giả-tạo ra. Cái điều mà trước chúng ta, những người đáng kính ở lòng chân-thành muốn rẫy rụa cho có những chứng tích cụ-thể của nền cổ văn-học của ta, cái điều ấy chúng ta không nỡ nói là vô ích. Song với sự suy-nghĩ kỹ càng của chúng ta bây giờ thì chứng-tích cụ thể của nền cổ văn-học ấy đã có ở ngay trong tiếng nói, ngay trong âm-thanh, ngay trong khả-năng tạo thêm tiếng mới để diễn-dịch tâm-tình và tư-tưởng, và thêm nữa ở ngay trong phong-tục hát ví giữa trai gái các thôn ấp trong những dịp hội hè về mùa xuân.4 Tuy nhiên ta cũng không nên quá tự dối mình mà không chịu nhìn nhận rằng trong thời tối-cổ, cuộc sống của ta còn đơn giản lắm, như nếu có văn-chương truyền-khẩu thì văn chương ấy cũng phải hết sức đơn giản với những lời lẽ hết sức mộc mạc. Theo sự phỏng-đoán của chúng tôi thì văn-chương truyền-khẩu của ta có lẽ đã phát-triển theo trình-tự này : - Đầu tiên ra đời là những thành-ngữ thuộc về cuộc sống gia-đình và nông-nghiệp, gồm hai tiếng, ba tiếng hoặc bốn tiếng để so-sánh sự giống nhau giữa hai vật sau khi chiêm nghiệm, với mục-đích không ngoài việc dặn bảo nhau để cho dễ nhớ như : cá lứa, chim đàn. - Thứ nữa, cũng là những thành-ngữ 2, 3 hoặc 4 tiếng để hình-dung những sự việc so-sánh với những vật chung quanh trong đời sống. Những thành-ngữ này đã giúp cho người xưa nẩy-nở óc nhận-định về mùa màng, thời-tiết, sự vật như : chào mào đỏ đít, chân cứng đá mềm, đánh rắn dập đầu, mặt sứa gan lim. - Rồi thứ nữa, từ chỗ nhận-định những sự vật quanh mình ấy người ta mới quay về nhận-định tâm-tình để biến những thành-ngữ trên ra tục-ngữ sau khi chiêm-nghiệm thấy đúng và rồi có những câu cũng 2, 3 hoặc 4 hoặc 5 tiếng để trao đổi tâm-tình giữa trai và gái như : mèo hay ỉa bếp, mẹ gà con vịt, tươi như hoa nở. - Đến cuối cùng mới là những câu hát ru, hát huê-tình, hát chơi, gồm nhiều câu 2, 3 hay 4 tiếng có vần có điệu giản dị mà nội-dung cũng chưa có gì sâu-sắc như kiểu « con vỏi, con voi… », « ông giẳng ông giăng… » hay « mồng một lá trai, mồng hai lá lúa… » với con chim chích choè… », « mày tát chuôm tao… » Điều đặc-biệt trong những câu ấy là không có một tiếng hán-việt nào cũng không có một tiếng nào chỉ-định những sự-trạng về tâm-tình rắc-rối hay phức-tạp. Những câu ấy là những câu gốc trong nền thi ca của ta. Có thể nói đó là những bông hoa chỉ mọc ở xứ ta vì đã hợp với phong thổ khí hậu của ta để rồi sinh sôi nẩy nở ra những bông hoa khác về sau. Điều mà ai cũng nhìn nhận thấy ngay là những vần điệu của những câu ấy hết sức rộng rãi. Có những câu chỉ có một vế bốn tiếng thôi, mà cũng có vần với nhau. - Khi thì tiếng thứ ba vần với tiếng thứ hai : Bồi ở, lở đi Tay làm, hàm nhai Bới đất, nhặt cỏ Lắm thóc, nhọc xay - Khi thì tiếng thứ hai vần với tiếng thứ nhất : Thắm lắm phai nhiều Lo bò trắng răng Mèo trèo cây cau - Khi thì tiếng thứ tư vần với tiếng thứ hai : Người chết, của hết Ngỗng ông, lễ ông Thương thân trách phận Vào nhỏ ra to - Khi thì tiếng thứ ba vần với tiếng thứ nhất : Tay dao, tay thớt Tay chèo, tay lái Ước sao được vậy Tát cạn bắt lấy Còn nói về điệu thì điệu cao thấp của những tiếng chắc, tiếng bằng xen nhau, câu nào cũng có đủ. Hoặc là : - B B C C như : tai qua nạn khỏi - C B B C : ngọn nguồn chân sóng - C B C B : ngọt như mía lùi - B B C B : mồm năm miệng mười - B C C B : mưa ngọ gió mùi - C C B C : miệng cắn chân đá - C C C B : mật ngọt chết ruồi - C C B B : mặt rác mày dơ Không hề có câu nào toàn bằng cả hay toàn chắc cả. Thành ra đứng đơn-độc, mỗi thành-ngữ có một nhịp điệu, mà đặt vào trong giữa câu thì thành ngữ ấy lại khiến cho câu có nhịp điệu. Đó là nhạc-tố tự-nhiên của tiếng nói mà khi nhập tâm rồi, người ta cứ đặt theo nhau, câu nọ tiếp câu kia, là có ngay được bài hát nhịp nhàng. Tỉ như những câu có hai vế, Người ta có thể bắt vần một cách rất rộng rãi : - Tiếng thứ nhất của vế dưới vần với tiếng cuối của vế trên : Khôn cho người ta dái Dại cho người ta thương - Tiếng thứ ba của vế dưới vần với tiếng cuối của vế trên : Ai trông thấy ma Biết đàn bà ăn bớt - Tiếng thứ tư của vế dưới vần với tiếng cuối của vế trên : Có của thèm vào Chẳng có của bào ra - Tiếng thứ năm của vế dưới vần với tiếng cuối của vế trên : Biết thì thưa thốt Không biết thì dựa cột mà nghe - Tiếng thứ sáu của vế dưới vần với tiếng cuối của vế trên : Ăn lấy thơm tho Chứ không ai ăn lấy no lấy béo Với tính cách uyển-chuyển tự-nhiên của tiếng nói và với cách đặt câu thực phóng-khoáng như vậy, ta có thể tin chắc rằng ca-dao tục-ngữ của ta xưa là nhiều vô tận. Bởi nếu không nhớ được thực đúng thì ai cũng lại có thể biến báo được ra một câu tương tự. Và bất cứ gặp một trường-hợp nào người ta lại cũng có thể đối đáp được với nhau bằng những câu có vần có điệu. Thơ lục bát, song thất lục bát sau này của ta là hình-thức tiến-hoá tự-nhiên của tiếng nói và bắt gốc ở ngay từ những câu ca-dao vừa nói trên đây vậy.5 Ở thời sơ-khai này của văn-chương truyền-khẩu, hình thức của câu văn câu thơ như ta đã thấy, là giản-dị và tự nhiên có nhạc điệu, theo với nhạc tính trong tiếng nói của ta. Nhưng nội-dung của những câu văn thơ ấy, cùng với cách nói và cách phô-diễn ý-tưởng (là những gì dùng làm nền tảng sau này cho nền học thuật tư-tưởng của ta) thì lại là thế nào ? Thiết-tưởng ai cũng cần tìm để biết vậy. Song sự tìm-tòi ấy cũng không dễ-dàng gì, bởi không có gì chỉ-định đích-xác hẳn câu nào ở vào thời nào ngoài những tính-cách của câu nói tối-cổ đã nêu ở trên : 1. Nói xuôi 2. Toàn nôm 3. Hai, ba hay bốn năm tiếng một 4. Vần điệu rộng rãi không gò bó vào quy-luật nào. Nếu chúng ta đồng ý ở những tính-cách quy-định ấy của những câu ca-dao, thành-ngữ, tục-ngữ để liệt vào loại câu nói thời tối-cổ thì công-việc tìm-tòi sẽ dễ đi được một phần rất lớn. Chúng ta dựa theo sự ước-định ấy để làm công việc tìm tòi ở đây. Chúng tôi thấy ngoài những lối nói thẳng đến đích mà ai nấy đã biết, tất cả những lối nói tế-nhị, nó xa-xôi bóng gió, nói đâm hông, nói bâng quơ, nói ngược-ngạo, nói mỉa-mai, nói quanh co, nói xỏ-xiên, nói đay nghiến… của ta sau này đều đã có mầm mống ngay từ những câu nói tối-cổ ấy. - Xa xôi bóng gió thì như : Ai ăn trầu thì nấy đỏ môi Bán bó tậu ĩnh ương Cõng rắn cắn gà nhà Bò chết chẳng khỏi rơm - Mỉa mai thì như : Ăn cháo để gạo cho vay Có nghén thì đẻ có ghẻ đâu mà lây Bồ nông dài mỏ, khó kiếm ăn Bắt chấy cho mẹ chồng Trông thấy bồ nông đáy bể Cố đấm ăn xôi - Ví von thì như : Cốc mò cò ăn Dùi đục chấm mắm cáy Lầm lầm như chó ăn vụng bột Giá áo túi cơm Gắp lửa bỏ bàn tay Chó dữ mất láng giềng Chuột sa chĩnh gạo Chở củi về rừng Con ngô con khoai Giọt máu đào hơn ao nước lã - Xỏ xiên thì như : Bọ chó múa bấc Họ nhà tôm cứt lộn lên đầu Chó ngáp phải ruồi - Quanh co thì như : Cóc lại có lông nách Chết đuối đọi đèn Chó đá vẫy đuôi - Bâng quơ thì như : Cà cuống chết đến đít còn cay Chào mào đỏ đít Chó ghẻ có mỡ đàng đuôi Cóc vái giời - Đâm hông thì như : Làm trai nói phân hai dễ chối Lậy ông tôi ở bụi này Khéo để cái méo ra ngoài Đóm đóm sáng đàng đít Chắc như tên bắn đụn rạ Khôn ngoan có nọc Ngoài ra tất cả những thành-ngữ, tục-ngữ như vậy, đặt vào giữa một đoạn câu lại tuỳ theo nghĩa toàn đoạn và tuỳ theo giọng của từng người đương sự mà có thể đổi tính-cách đi. Tựa hồ những đơn chất tốt có sẵn để người pha thuốc tuỳ theo sự cần dùng mà pha phách. Tất cả những nhà văn nhà thơ về sau đều đã nuôi nấng tài hoa của mình bằng những chất-liệu của cái kho tàng vô giá ấy. Và tất cả những lối nói có sẵn từ trước ấy mỗi ngày về sau người ta chỉ vun-đắp thêm và làm cho phong-phú thêm. Trong giai-đoạn lịch-sử đầu tiên từ hồi lập quốc cho tới hết đời Hồng-Bàng, có thể rằng nền thi ca truyền-khẩu của ta chỉ có bấy nhiêu. Nhưng bấy nhiêu đó cũng đã là quá đủ để người ta sáng-tác ra : - Những câu nói ngược như : Bong bóng thì chìm Gỗ lim thì nổi Đào ao bằng chổi Quét nhà bằng mai Hòn đá dẻo dai Gan lợn thì đắng Bồ hòn thì bùi - Những câu nói lối như : Mày tát chuôm tao Tao tát chuôm mày Mày đầy rỏ cá Tao đầy rỏ tôm Mày đi chợ Nôm Tao đi chợ Rền Mày bán cửa đền Tao bán cửa Vua Mày làm mắm chua Tao làm mắm thính Mày con ông chánh Tao con ông xã Mày là cái Ả Tao là thằng Hai - Những câu nói giễu cợt như : Ổng giẳng ông giăng Ông giằng búi tóc Ông khóc ông cười Mười ông một cỗ Đánh nhau vỡ đầu Đi kiện nhà quan Đi van nhà giầu… - Những câu nói mỉa mai như : Con chim chích choè Nó đậu cành tre Tôi lấy hòn xành Tôi ve phải nó Đem về nấu nướng Được ba mâm đầy Ông thầy ăn một Bà cốt ăn hai Còn cái thủ cái tai Đem về biếu chú Chú hỏi thịt gì Thịt con chim chích choè Nó đậu cành tre… - Những câu nói ngộ nghĩnh như : Con vỏi con voi Cái vòi đi trước Hai chân trước đi trước Hai chân sau đi sau Còn cái đuôi đi sau rốt Tôi xin kể nốt Cái chuyện con voi Con vỏi con voi… Tất cả những lối nói ấy là để chuyên-chở một tư-tưởng. Vậy tư-tưởng người xưa ra sao, chúng ta hãy thử đi tìm nội dung tư-tưởng ấy. Hồi gần đây người ta đua nhau nói đến giai-cấp tính trong ca-dao nói riêng và trong văn-chương nói chung. Chúng tôi thấy là người ta đã chỉ cố đeo vào mắt hai miếng che mắt ngựa để nhìn thấy có một lối đi. Ca-dao hay văn-chương có thể ví như tất cả những cái núi mỏ tuỳ theo lúc mưa, gió, nắng, rét, sáng, tối, mà hiện ra những mầu sắc khác nhau, tuỳ theo người ta đứng gần, đứng xa, đứng góc náy, góc nọ nhìn mà nó hiện ra hình giáng khác nhau và tuỳ theo lúc lòng người ta lành-mạnh hay bệnh-hoạn mà nó hiện ra thành tốt, xấu, hay, dở. Khi nhìn vào một sự kiện văn-chương với hai miếng da che mắt ngựa đã tự mình lựa chọn (nghĩa là với một dụng-ý khai-thác văn-chương ấy cho chính-trị trong một lúc) người ta đã mặc-nhiên là duy-tâm và chủ-quan rồi. Nếu lại còn đặt điều ra để rêu-rao là khách-quan khoa-học, thì ấy là người ta đã muốn bịp-bợm độc-giả một cách trâng-tráo vậy. Đối với bất cứ một áng thi văn nào, trước hết người thưởng-thức phải nhớ đinh-ninh về khả-năng biến-hoá vô cùng của nó và cái thiên-tài văn-nghệ đã cấu-tạo ra nó với khả-năng biến-hoá ấy, thì khi đeo cái kính vào mắt mình (nghĩa là vào lòng mình) người ta mới nhận-định ra tất cả cái thích-thú mà áng thi văn ấy đem lại, cho tuỳ từng lúc và tuỳ từng tâm trạng. Càng đối với những áng thi văn cổ lại càng cần phải như thế nữa. Thứ nhất là quan-niệm giai-cấp chỉ có ở thời này mà không có ở thời trước, thời phát-sinh-ra những áng thi văn ấy. Vấn-đề giai-cấp tính trong ca-dao cổ vì vậy là vấn-đề không có vậy. Như trên chúng tôi đã nói ca-dao là tinh-hoa của dân-tộc thì chúng ta chỉ có thể đứng ở khía dân-tộc mới tìm hiểu được tất cả chân-tướng của nó. Dân-tộc của ta là một dân-tộc nông-nghiệp định-cư ở trung-du và đồng-bằng sông Nhĩ-Hà và sông Mã. Suốt một thời-kỳ tối-cổ gần ba ngàn năm (từ 2789 tới 258 tr. T.L.) ngoài không có tranh-chiến, trong không có lục-đục, người ta sống giữa những con vật hiền-lành như con trâu, con bò, giữa những cây cối thanh-đạm như cây tre, cây cau, giữa một khí-hậu không nóng quá như ở sa-mạc Phi-Châu, không lạnh quá như ở Bắc-cực. Người ta bạn với ngọn gió hây-hẩy đùa ngọn cỏ với những con sáo sậu nhẩy trên lưng bò. Người ta nhìn thấy được cả ông giăng khóc, thấy được cả ông giăng cười, và không những thấy được một ông mà thấy được cả mười ông ngồi một chỗ, chè chén say-sưa với nhau, rồi điều ra tiếng vào, rồi giằng búi tóc mà đánh nhau vỡ đầu, rồi đi kiện nhà quan, đi van nhà giầu… như người ta vậy. Người ta trông thấy được cả trên cung trăng có một thằng Cuội đương ngồi ở gốc cây đa và biết được rằng trước kia nó cũng ở dưới này với người ta sống như người ta vậy, nhưng vì vợ nó lỡ đái vào bên phía tây của gốc đa khiến cây bay lên trời nên nó phải nhảy theo để bây giờ ngồi ở đó… Người ta đã hoà mình vào làm một với thiên-nhiên, cái thiên-nhiên hiền-dịu không có âm-u, rùng-rợn như ở rừng núi, không có sóng nổi ngất trời để rồi lại dìm sâu xuống tận vực thẳm như ở biển cả. Cái thiên-nhiên hiền-dịu của người ta là gió mát, là trăng thanh, là ngọn lúa cây đa, là giòng sông, miệng giếng… là gần như tất cả những gì tạo nên một tâm-hồn người thanh-thản, không hậm-hực vì quyền lợi vật-chất, không day tay mắm miệng để cưỡng-đoạt bất cứ một cái gì. Đố ai tìm thấy trong mớ ca-dao mà ta ước-định là tối-cổ như trên, những câu nào chứng tỏ là xã-hội đã chia ra giai cấp để lục-đục với nhau. Và đố ai tìm thấy gì là căm-hờn thù oán. Toàn một giọng chất-phác dạy-dỗ : - Dạy dỗ về luân-lý : Tốt danh hơn lành áo Giấy rách giữ lấy lề Sống đục sao bằng thác trong Ở hiền lại gặp lành Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài - Dạy dỗ về cuộc sống thực-tiễn : Ăn đi trước, lội nước đi sau Phí của trời mười đời chẳng có Quen mui thấy mùi ăn mãi Rậm người hơn rậm cỏ Rỏ nhà ai quai nhà nấy Voi chết về ngà, chim chết về lông. - Dạy dỗ về tâm-lý người đời : Yêu nên tốt, ghét nên xấu Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ Sáng tai họ điếc tay cầy. - Dạy dỗ cách thủ-tiếp ở đời : Ăn trông nồi, ngồi trông hướng Làm thầy tớ thằng khôn còn hơn làm thầy thằng dại Làm rể chớ nấu thịt trâu Làm dâu chớ đồ xôi lại Tiếng chào cao hơn mâm cỗ. - Dạy dỗ về canh nông : Lang đuôi thì bán, lang trán thì cầy Nắng tốt dưa mưa tốt lúa Làm ruộng ba năm không bằng chăn tầm một lứa Lợn đói một năm không bằng tầm đói một bữa Tát nước theo mưa Tát cạn bắt lấy Lo trẻ mùa hè không bằng lo bò què tháng sáu. - Dạy dỗ về phong-tục : Cao nấm ấm mồ Sống về mồ về mả không ai sống về cả bát cơm Tối như đêm ba mươi Tết đến sau lưng Ông vải thì mừng con cháu thì lo. - Dạy kinh-nghiệm về thiên-văn, thời-tiết : Quầng cạn, tán mưa Cơn đàng đông vừa trông vừa chạy Cơn đàng nam vừa làm vừa chơi Chuồn chuồn ra dông bão Mống đông vồng tây Chẳng mưa giây cũng bão giật Đang mưa quạ kêu thì nắng Đang nắng quạ kêu thì mưa. Tất cả xã-hội cũ với những lời dạy nhau giản-dị ấy, có thể nói là đã gần như một gia-tộc lớn, sống yên vui với nhau giữa một khung cảnh thiên-nhiên hiền-dịu. Cuộc sống của người ta không vui, không buồn, không đáng lo, cũng không đáng sợ. Cái chết của con người cũng không mong được mà cũng không tránh được. Những vinh-hoa phú-quý ở đời cũng không có gì khiến người ta hăm hở theo đòi hay ganh đua chật vật. Tâm-lý người đời vì đó cũng giản-dị như không. Công việc làm ăn sinh sống hàng ngày cũng chất-phác như sự « thắt nút để ghi nhớ » vậy. Trong khung cảnh thiên-nhiên và xã-hội ấy, người hiền muốn chỉ dạy cho con cháu thì có thể chỉ dạy những gì nếu không là những kinh-nghiệm sống trong cuộc đời với những thái-độ thanh-thản hoà nhã, mà ca-dao, tục-ngữ và những câu chuyện cổ-tích là những hình-thức thông-thường nhất ? Cho nên, nội-dung tư-tưởng thực của người xưa trong ca dao tục-ngữ là gì, dầu ta chưa nói ra được ngay, ta cũng có thể đinh ninh được là không có thù oán, căm hờn, không có lục đục giai-cấp. CHƯƠNG II : VĂN-CHƯƠNG TRUYỀN KHẨU – CHUYỆN CỔ TÍCH Nghiên-cứu chuyện cổ tích với mục-đích tìm hiểu nền tư tưởng riêng biệt của dân-tộc chúng ta ở đời thượng cổ, là thời chưa bị ảnh-hưởng của Trung-hoa và Ấn-độ, chúng ta cũng cần phải theo cùng một phương-pháp như đã dùng đối với ca-dao. Ấy là ước-định tính-cách cho những chuyện nào phát-xuất hồi gần đây, chuyện nào ở thời trung-cổ, chuyện nào đã chịu ảnh-hưởng của Nho, của Lão, của Phật và chuyện nào còn thuần-tuý là của ta. Đó là một công việc sửa-soạn mà khi sửa-soạn xong thì chúng ta đã đạt tới chín phần mười mục-đích. Tuy nhiên, cũng như ca-dao, chuyện cổ tích mà đời nọ kể cho đời kia nghe, truyền lại cho đến chúng ta cũng đã có nhiều thêm thắt lắm. Nếu dựa theo một cách cứng dắn vào quá-trình phát-triển của ca-dao để nói rằng những chuyện cổ nào có kèm câu thơ lục bát, tứ-tuyệt, đường-luật v.v… đều không phải phát-xuất ở đời thượng-cổ thì không đúng. Ta cần phải tước bỏ phần văn-hoá mà ta đoán là đã được thêm vào về sau, còn giữ lại phần nội-dung của câu chuyện thì mới là phải lẽ. Rồi trong phần nội-dung ấy ta mới đi tìm những tính-cách nào là không thể có được ở thời thượng-cổ. Theo sự phỏng-đoán của chúng tôi thì đó là những tính cách này : 1. Không có việc đi học, đi thi không có thầy đồ, học trò, báo ân, báo oán về thi cử và không có khuyến học. 2. Không có nhà chùa, nhà sư, ông bụt và quan-niệm luân hồi, nhân quả. 3. Không có thầy cúng, phù thuỷ, thầy bói, địa-lý. 4. Không có sứ Tàu, Trạng lỡm. 5. Không có chơi tổ-tôm, chơi cờ, quán ăn 6. Không có nông-cụ canh-tiến như cày bừa, cào, không có công-cụ như cưa đục, không có dụng-cụ như cái vạc, cái bào 7. Không có thơ chải-chuốt với niêm-luật gọn gàng. 8. Không có thằng mõ, tư-văn, ông Chánh, ông Xã Dùng những tính-cách này để lựa lọc những chuyện cổ do cụ Ôn-Như Nguyễn-văn-Ngọc đã dầy công sưu-tập lại6cùng với những chuyện truyền khẩu khác ai cũng đã biết, chúng ta đã có được chừng 30 chuyện, sắp đặt theo loại như sau đây : 1. Quan-niệm siêu-hình về số phận, ông trời và các vị thần linh. 2. Quan-niệm về vũ-trụ. 3. Quan-niệm về trật-tự xã-hội : Ông quan cùng cách xử án. 4. Quan-niệm về đời sống thực-tiễn. 5. Quan-niệm về con người liêm-khiết và gian-xảo. 6. Quan-niệm về tình vợ chồng. 7. Quan-niệm về cái cười. Nay chúng ta xét từng mục một : QUAN-NIỆM SIÊU-HÌNH Ông Nghiêm Toản trong sách Văn-học sử trích-yếu, có dẫn một đoạn văn của giáo-sư Trần-văn-Khang7như sau đây : 1. Cảnh-tượng đất Giao-Chỉ …Phát-sinh xứ của nòi giống ta hồi sơ-khai là một phần đất hà-khẩu của hai con sông Hồng-Hà và Thái-Bình, phù-sa bồi chưa toàn-mãn nên nước còn lai-láng nhiều nơi, ngày ngày theo thuỷ-triều lên xuống. Lại nhân ở vào nhiệt-đới, đất đã mầu mỡ lại nắng to mưa nhiều, nên thảo-mộc rất phồn thịnh, đa, đề, tre, mương, cỏ gianh, lau, xậy… mọc um-tùm khắp nơi. Ruộng, vườn, làng-mạc hồi bấy giờ tuy đã mở mang khắp trong nước ; song trong một thời-gian rất lâu, hoang-lâm hãy còn chiếm một phần lớn diện-tích nước nhà làm sào-huyệt cho các giống hổ báo, rắn rết, lợn rừng, voi, tê-giác. Còn các sông ngòi, kênh, lạch của ta thì thời bấy giờ ngoài các loài tôm cá, ngày nay vẫn có, lại còn lắm lắm những thuồng luồng và cá sấu. 2. Ảnh-cảm của đất Giao-Chỉ Sinh trưởng ở một xứ lắm ao chuôm, hồ, đầm nhiều sông lớn, sông con, ngòi lạch, ở một xứ nước nhiều có lẽ hơn đất ; nòi giống Việt-Nam ta lâu ngày thành ra một « lưỡng-thê chủng » về sau này chỉ hưng-thịnh được ở những đất ẩm thấp mà không ưa sinh-hoạt ở các cao-nguyên cao ráo. Vì ở nước ta sinh-trưởng lực của thảo mộc rất xung-dật, hễ cây cỏ này chết đi hoá đất mùn thì cây cỏ khác lại do ngay ở đất mùn đó tiếp tục mọc lên ngay, nên ta mới có cái cảm tưởng là linh-hồn bất diệt, nên ta mới có cái tín-nhiệm về thoát-sinh luân-hồi. Lại cũng vì cái sinh lực quá mạnh đó, cũng vì rừng rú phá đi, cây cỏ bốc lại, thường bạo phát hơn xưa, nên chúng ta mới nhận thấy nhân-lực không tài nào thắng thiên-lực, mà thiên về mệnh thuyết, rồi thành ra ít hoạt-động. Sau hết vì ở phát-sinh xứ của ta, trong khối nước mênh mông cũng như trong thâm lâm rải rác khắp nước, chỗ nào cũng lắm lắm man-lực cừu thị, nên ngoài các thiên-lực phong-thần mà thờ phụng y như muôn vàn các dân-tộc khác, tổ tiên ta lại còn tưởng-tượng ra lắm các vị lâm thần và thuỷ thần, ngày nay ta hãy còn thấy trong dân-chúng sùng-bái thường lại hơn các vị thiên thần và thổ thần nữa. 3. Tôn-giáo : đạo tam phủ và tứ phủ Bị ảnh-cảm của thổ-vũ nước nhà, người Giao Chỉ tin là : a) Linh-hồn bất diệt, theo luật luân hồi. b) Xác thịt cũng như cây cỏ hay xác của một con vật nào, chỉ như là một cái nhà ở cho linh hồn. c) Người ta vốn là một vị tiên hay thần thánh, hoặc ở thiên cung, hoặc ở lâm cung, hoặc ở thuỷ cung vì có tội nên bị đầy xuống hạ-giới, bao giờ vua mẫu thương xá tội cho thì lại được về phủ cũ. Người Giao-Chỉ tưởng-tượng trên Tam-Phủ mọi việc đều y như ở hạ-giới : a) Mỗi phủ có một đức Vua và một đức Mẫu ; nhưng mọi quyền đều ở tay đức Mẫu hơn là đứa Vua. b) Đức Vua và đức Mẫu vừa là cha mẹ, vừa là chủ các vị thần thánh khác. Vua, Mẫu, các ông Hoàng cùng các vị thần thánh đều tài tình y như người thường ở hạ-giới. c) Ở Thiên-Phủ thì Mẫu đứng đầu là Cửu-Thiên, ở thuỷ phủ thì đức Mẫu Thoải, ở rừng rú thì đức Mẫu Thượng ngàn. Về sau người Giao-Chỉ lại thêm một Phủ nữa có đức Mẫu Liễu-Hạnh để cai-trị thổ cung. Chúng tôi không thể nào đồng-ý được với ông Trần-văn Khang về những nhận xét của ông, mặc dầu vẫn muốn kính trọng ông vì thiện-ý muốn nói rằng người Giao-Chỉ chúng ta đã có một tôn-giáo khác với tôn-giáo của Trung-Hoa cổ. Không đồng-ý vì sự gắng-gượng, gán ép, một cách quá mâu-thuẫn. Trước hết, nếu hiểu như hết thẩy mọi người chúng ta vẫn hiểu là thời Giao-Chỉ, chúng ta chưa có chữ Nho, chúng ta còn gọi mẹ là cái (Bố cái đại-vương) sau này gọi mẹ là nạ (dòng dòng theo nạ ; chờ được nạ thì má đã xưng) thì chúng ta làm sao mà biết tôn các thứ đức mẫu ? Sau nữa, nếu lại hiểu rằng con người đã tạo ra một cõi siêu-hình theo mẫu của cuộc sống thực-tại8thì thời Giao-Chỉ chúng ta làm gì ra đã có trât-tự của một quốc-gia để mà có ông Vua bà Vua rồi mà theo mẫu ấy tôn ở Thiên-cung, Lâm cung, Thuỷ-cung những Vua với những Mẫu như ông nói ? Sau nữa, luận rằng tại thấy cỏ cây này chết đi hoá đất mùn rồi cây cỏ khác lại do ngay đất mùn ấy mà mọc lên, nên ta mới có cảm-tưởng là linh hồn bất diệt và tin ở thoát sinh luân hồi… thế thì cuộc sống của thổ mộc ở những xứ Âu-Châu có khác gì không mà sao họ đã không cùng một đức tin về thoát sinh, luân hồi ấy ? Đặc-tính tôn-giáo mà ông Trần-văn-Khang nói ở đây có thể là đặc-tính tôn giáo Việt-Nam của thời đã có đạo Lão xa đoạ về thời Tống ảnh-hưởng qua chứ không phải ở thời Giao Chỉ vậy. Chúng ta sẽ xét sau, ở phần nói về văn-học thời ấy. Riêng ở đây, chúng tôi nghĩ rằng bây giờ muốn tìm hiểu, chúng ta cũng không làm thế nào hơn được sự căn-cứ vào giả-thuyết. Theo các giả-thuyết nói về nguồn-gốc dân-tộc Việt-Nam thì có giả-thuyết của ông Đào-duy-Anh là có vẻ gần sự thực hơn cả. Ông Đào cho rằng : « Có lẽ ở miền bờ biển Phúc-Kiến ngày xưa đã có một nhóm Việt chuyên làm nghề đánh cá và vượt biển. Họ thường dùng thuyền gỗ hay mảng tre cờ buồm để hàng năm theo gió mùa, nhân gió bấc vượt biển đến các miền duyên hải phương Nam… rồi đến tiết gió nồm họ lại vượt biển về nơi căn-cứ. Có lẽ sau nhiều cuộc vượt biển ấy người Việt trong thị-tộc Lạc ở Phúc-Kiến đã để lại miền Bắc Việt-Nam một ít nhóm thực-dân rải rác, rồi dần dần những nhóm thực-dân ấy một ngày một đông ; sau nước Việt bị nước Sở diệt thì có lẽ họ kéo nhau cả bộ-lạc xuống ở miền trung châu, sông Nhị-Hạ và sông Mã mà xưa nay họ vẫn biết là miền đất rộng rãi phì nhiêu (vì cũng còn có những người Lạc ở sót lại Phúc-Kiến nên Từ-Quảng mới nói rằng người Mân-Việt họ Lạc ». Giả-thuyết như vậy ông Đào cũng không khỏi còn đôi phần chủ-quan, nhất là về điểm đất rộng rãi phì nhiêu ở miền trung-châu sông Nhị và sông Mã. Chính ra thì khí-hậu thời đó ở trên giải đất của ta là rất độc. Hồi sau này (43 sau T.L.) quân Đông-hán do Mã-Viện chỉ-huy sang đánh Trưng-Vương, khi tới Lãng-Bạc đang mùa nắng bức, Mã-Viện lo sợ quân-sĩ có hại nên truyền đóng quân lại. Sách Đông-quan hán chí còn chép : « Khi đóng quân ở Lãng-Bạc chưa thắng nổi Nam quân, có hôm giữa buổi trưa trời nắng chang chang hơi bốc ở hồ lên ngùn-ngụt, Mã trông thấy một con diều hâu đang bay qua ngã xuống chết vì gập phải hơi thấp nhiệt rất độc ». Tuy nhiên không phải vì khí-hậu quá độc mà khi cần tránh loạn người ta đã chẳng dám tràn qua. Song trong thời bình mà để sẵn lại nơi nước độc ấy một số thực-dân trong khi đồng bằng sông Dương-Tử còn phì nhiều hơn thì ta có quyền ngờ. Vả chăng, nhóm Việt-Tộc mà ông Đào nói đây chỉ di-cư qua rất đông khi bị Sở diệt (trong thời Xuân-Thu chiến quốc khoảng 800-300 tr. T.L.) Thế còn trước nữa từ hồi 2789 tr . T.L. giống người Giao-Chỉ, Việt-Thường lại là giống người nào ? Dựa vào những nhận xét ấy để đi đến một kết luận cụ thể, ta có thể cho rằng : tại miền trung châu Bắc-Việt ngày xưa (Bạch-Hạc, Phú-Thọ, Hưng-Hoá) từ hồi 2789 tr. T.L. đã có bộ-lạc Giao-Chỉ định cư và sống quen với khí hậu vùng ấy. Và ven bể trên những cù-lao Món-cày, Hòn-gáy, Quảng-Yên, Đông-triều, Ninh-Bình… mới là đất cho người Việt ở Dương-tử tạm trú cùng với những giống dân chài lưới khác ở các quần đảo Thái-bình-Dương. Còn mạn núi ở trên thì là đường xê dịch của giống Thái (Khi phỏng đoán về chuyện sơn-tinh, thuỷ-tinh, cụ Nguyễn-văn-Tố có viết trong Tao-Đàn : « Có nhà sử học nghiên-cứu đoán rằng : Thuỷ Tinh người Hải-Hậu, dòng dõi người Học-Lão tỉnh Phúc-Kiến đến trú-ngụ ven bờ sông Nhị, theo dòng tràn lên đánh trung-châu, lập căn-cứ ở Lay-lâu phía Nam sông Đuống. Họ định tràn qua sông nhưng bị Sơn-Tinh người ở Sơn địa chống lại ». Trải mấy ngàn năm với một vài đụng chạm như vậy, sự pha giống đã diễn ra giữa những dân thượng-cổ cùng cư-ngụ trên một mảnh đất ấy. Đến khi người Việt trong thị-tộc Lạc ở Dương-tử tránh loạn Xuân-Thu mà di-cư tới thì không còn ai lạ-lùng và ngăn trở nữa. Vì những lẽ đó, về sử-học cũng như về văn-học ở uyên nguyên, ta phải xét làm hai chặng : chặng đầu của thị-tộc Giao-Chỉ và chặng sau đã có sự hôn-phối với thị-tộc Lạc-Việt. Còn ở đây, chúng ta có thể kết-luận về quan-niệm siêu hình của người Giao-Chỉ sau khi đã đọc những mẩu chuyện cổ-tích còn sót lại ; đó là mấy chuyện sau đây : - « ĂN MÀY ĐÁNH ĐỔ CẦU AO » : Xưa có người nghèo đói đi xin ăn đã bao lâu, nay mới được một nhà giầu cho một bát gạo. Anh ăn mày mừng rỡ đem gạo xuống cầu ao vo. Chẳng may lúc đang vo thì gió nổi tứ tung làm lật rá gạo đổ cả xuống ao. Anh khóc lóc thảm thiết và kêu xin Giời soi xét. Giời sai đòi thần gió lên tra hỏi. Thần gió khai rằng : « Phải buổi đi vắng, đứa con ở nhà làm gió thổi chơi nên mới thổi loạn lên như vậy ». Giời sai đánh chết đứa con ấy. Hồn nó xuống trần không biết làm gì phải đi ở chăn trâu bò cho người ta. Sau lại chết mà hoá ra cây ngải gió. Bởi vậy người ta nghiệm thấy khi nào cây ngải gió cuốn bông, cuốn lá lại là sắp có gió vì cây ấy biết trước. - « MỘT HẠT GIỜI CHO » : Xưa có một nhà có hai anh em. Anh thì giầu có còn em thì nghèo khổ. Em đến nơi xin anh ít ruộng để cầy. Anh nghĩ cũng thương tình chia cho em một nửa ruộng. Khu ruộng của anh thì lúa mọc đều đặn tốt tươi, còn khu ruộng của em thì chỉ được có một bông và một hạt thật to. Em chăm chút cho hạt lúa ấy. Nhưng đến khi lúc vừa chín thì có con quạ từ đâu bay tới mổ vào cái hạt mà tha đi. Em luống cuống chạy theo đuổi quạ, đuổi mãi đến một nơi rừng rậm thấy con quạ nhả hạt lúc trao cho một bà Tiên. Bà cầm hột lúa thấy người đứng tần ngần ở đó thì gọi lại bảo rằng : « Ngươi muốn gì cho ngươi ước ba điều ta cho được như ý ». Anh ta cuống quít nói : « Tôi chỉ ước được nhiều lúa, nhiều người, và nhiều tiền bạc ». Nói vừa xong cả bà Tiên, cả hạt lúa, cả con quạ đều biến đi mất. Anh thất vọng đành quay trở về nhà. Nhưng về tới nơi thì quái lại anh thấy trong nhà đầy lúa, đầy người và đầy vàng bạc. - « PHƯỢNG-HOÀNG ĐẬU CÂY KHẾ » : Xưa một nhà có hai anh em. Khi cha mẹ mất đi ngươi anh tranh hết cả ruộng vườn chỉ để cho người em có một cây khế. Người em cũng vui lòng chịu cũng không dám nói gì đến anh. Sau một hôm đàn phượng-hoàng từ đâu bay lại, đậu trên cây khế có bao nhiêu quả ăn hết. Người em thấy vậy ra ngồi dưới gốc cây vừa khóc vừa nói với chim rằng : « Cơ-nghiệp tôi chỉ có một cây khế đó thôi. Bây giờ các ngài lại xơi hết cả, thì tôi biết trông cậy vào đâu cho có ăn ! » Chim nghe nói bảo : « Ta vốn hay đậu nơi cây ngô-đồng và tắm mát chốn hồ sen. Ta đến đây chỉ để nghỉ chân chốc lát thôi. Ta có ăn mất trái khế nào thì ta sẽ đền ơn trả lại cho không sợ thiệt ». Nói rồi chim nhả trong mồm ra một cây khế khác, bao nhiêu hoa tính là bạc, bao nhiêu quả tính là vàng cả. Người em vì thế mà được giầu có hơn anh nhiều. Anh thấy em giầu thì hỏi tại duyên cớ làm sao. Em kể lại chuyện anh nghe. Anh bèn ngỏ ý đổi cả ruộng vườn cho em để lấy cây khế, những mong phượng-hoàng đến ăn quả và nhả lại cây khế bằng vàng bằng bạc cho. Em bằng lòng. Nhưng anh được cây khế đợi mãi chẳng thấy phượng-hoàng tới chỉ thấy một lũ quạ đen ngày nào cũng rủ nhau tới kêu : « xấu hổ, xấu hổ ». - « CHUM VÀNG BẮT ĐƯỢC » : Xưa có người nhà nghèo một hôm ra ruộng cuốc đất. Cuốc thấy một chum vàng. Anh ta đào lên lễ-mễ mang để trên bờ ruộng. Tối về nhà khoe với vợ rằng : « Hôm nay tao bắt được một chum vàng. Tao bưng để trên bờ ruộng ». Vợ bảo : « Của Giời cho sao không mang về ? Ngộ đêm nay có đứa nào lấy mất thì làm thế nào ? » Chồng nói : « Thật có phải Giời cho thì tự nhiên mang về nhà này, chẳng đứa nào lấy được. Mà không phải của Giời cho thì đứa nào nó lấy thì lấy không tiếc ». Đang lúc hai vợ chồng trò chuyện với nhau thì có hai thằng ăn trộm rình nghe biết cả. Hai thằng bèn bảo nhau tìm ra bờ ruộng. Quả nhiên thấy có chum vàng ở đó. Hai thằng lấy làm mừng rỡ, vội vàng khiêng về nhà. Nhưng đến lúc mở ra định chia nhau thì vàng chẳng thấy đâu, chỉ thấy chum đầy rắn. Hai thằng sợ hãi chưa kịp giở ra xem thì trời vừa sáng vội đậy nắp lại và để dấu một nơi. Sáng hôm sau người kia ra ruộng thì chẳng thấy chum vàng đâu nữa. Xong buổi về nhà nói với vợ : « Hôm nay không thấy chum vàng đâu nữa, không biết có đứa nào đem đi đâu mất rồi ». Vợ tiếc : « Ai bảo khờ dại thế ? Của bắt được mà không đem về nhà. Bỏ giữa trời tất có đứa nó phải khiêng đi, yên làm sao được ? » Lúc hai vợ chồng đang nói chuyện thì hai thằng ăn trộm lại rình nghe, khi rõ đầu đuôi thì hai đứa gian nói : « Rắn mà trông ra vàng, hai vợ chồng nó đang tức với nhau. Có phải thế thì ta lại đem ra bờ ruộng trả nó, cho nó biết. Nói rồi hai đứa trở về nhà khiêng cái chum đem ra bờ ruộng để y chỗ cũ. Sáng hôm sau người kia ra ruộng lại thấy chum vàng mở ra thấy vàng vẫn còn nguyên tại đó. Nhưng không đem về. Tối về nhà lại khoe với vợ ». - Này nhà nó, tao đã bảo mà, của Giời đã cho mình thì chẳng ai lấy được. Chum vàng lại bò về ở bờ ruộng như cũ rồi. - Thôi đi ! Đừng nói nữa. Cứ nay bắt được chum vàng, mai đã mất chum vàng, rồi kia lại thấy… Ai mà tin được. - Thực đấy mà. Tao lại thấy chum vàng ở bờ ruộng, tao mở ra xem rõ ràng còn vàng thật mà. Nhưng tao chẳng đem về làm gì. Có phải của Giời cho thì tự khắc nó phải bò về nhà. Đêm ấy hai thằng ăn trộm còn rình nghe nữa. Khi thấy hai vợ chồng nói như vậy thì chúng tức lắm : « Ừ, mày bảo nó bò về nhà thì ông cho nó bò về để nó cắn chết cả hai vợ chồng cho bõ ghét ». Rồi hai thằng ra bờ ruộng, con mắt tráo trưng mở chum ra xem lại quả chỉ thấy lúc nhúc những rắn. Chúng vội vàng đậy nắp lại và khiêng về bỏ vào nhà hai vợ chồng ấy và chạy mất. Sáng dậy người kia ra vườn thấy chum vàng đã đấy rồi, bèn gọi vợ bảo : « Này nhà nó ! tao nói có sai đâu. Của Giời đã cho thì tự-nhiên nó phải bò về nhà. Chum vàng ở kia rồi, mau ra mà xem ». Vợ chạy vội ra xem thì quả nhiên đầy chum vàng thật. Bấy giờ vợ chồng mới chịu lấy vàng cất vào trong nhà. * Ta thấy trong các chuyện ấy cùng trong một vài chuyện khác như « Kéo cầy trả nợ » của anh Văn-Địch (trang 13) Sinh con rồi mới sinh cha (trang 24) Kêu một việc được ba việc (trang 96)… ông Giời đối với người xưa không có gì đáng sợ hãi như người ta vẫn tưởng. Chỗ ở của ông ấy người ta còn có thể đi tới được, để kêu xin việc này việc nọ, mà nếu không thể đi được thì như anh ăn mày đánh đổ gạo ở cầu ao, cứ đứng một chỗ mà kêu gào cũng vẫn tới được tai của ông. - Ông là ai ? - Không biết, chỉ biết rằng ông cai trị tất cả ông Sấm, ông Sét, ông Thần mưa, ông Thần gió và ông muốn gì được nấy, các bà Tiên cũng phải chịu ông. Ông bênh vực kẻ yếu đuối, đau khổ, ông thương kẻ lành, ghét kẻ dữ. Ông muốn cho ai chỉ riêng người ấy được. Ông muốn trừng phạt ai người ấy phải chịu. Hình như ông Giời hồi ấy chưa có cung-điện và muốn như cả mũ vàng đai ngọc cũng chưa có, cũng kẻ hầu người hạ với các thiên quan cũng chưa có nữa. Cách làm việc vủa ông ra sao ? Hình như hồi ấy cũng chưa ai tìm tòi để tự hỏi mà hiểu nữa. Cả đến bà Giời cùng các con của Giời cũng không ai tìm hiểu nữa. Quan-niệm siêu-hình về Thượng-đế thời xưa chỉ chất phác là có một đấng vạn-năng ngồi ở trên chín từng mây mà dưới này ai nói gì cũng nghe thấy, ai nghĩ gì cũng biết cả. Sự sống chết của con người cũng tuỳ ở Giời định và người ta được hưởng tới đâu thì biết tới đó… Oán không giám, giận không giám mà sợ thì cũng không có gì để mà sợ, trừ phi mình làm điều dữ. Hễ mình làm điều dữ thì Giời bắt phạt, có khi phạt kiếp sau đầu thai làm con trâu để trả nợ, có khi phạt mất hết của cải ruộng vườn ở ngay nhãn tiền. Cái gì cũng do Giời làm ra cả. Giời mưa, Giời nắng, Giời sáng, Giời tối, Giời rét, Giời nóng, Giời ấm. Cây cao bóng cả, bể rộng sông dài, núi cao, rừng sâu, đất rộng, hồ, ao, người, vật, trăng, sao, cái gì cũng là Giời sinh hết. Con bò, con trâu hiền lành, con mèo, con chó ngoan ngoãn, mà cho tới con cọp, con beo cũng là Giời sinh hết. Những con cọp mình nói vụng nó cũng nghe được, Giời lại sinh ra cho nó cái tai chạm vào cái lá trong rừng là quên ngay. Sự thờ cúng ông Giời chưa có một hình-thức nào khác với việc bất cứ lúc nào kêu gọi ông cũng có thể tới được tai ông. Nhưng rồi sau, những man-lực cừu-thị của gió, mưa, bão, sấm, sét… không như Giời đã phạt kẻ dữ giúp người lành, mà đã làm dữ chung đối với tất cả, khiến người ta đã phải van vái thờ cúng và lập thành tôn-giáo đa thần. Tôn-giáo ấy trong buổi sơ-khai cũng chưa thể có thành trật-tự trên dưới gì như ông Trần-văn-Khang phỏng-đoán. Mà nó chỉ mới là lộn-xộn lung tung giữa một khung-cảnh hoang rợ với một tinh-thần sợ sệt không chịu suy-nghĩ. Trái lại, cái điều không ai ngờ là việc thờ kính cha mẹ tổ tiên thì lại thành hẳn một hình thức tôn-giáo (không ai ngờ có lẽ là tại không thấy các sách Âu-châu liệt vào là thứ tôn giáo đa-thần hay độc-thần chăng ?) Ta xem như việc Chử Đồng-Tử kính trọng xác chết của cha và tục quấn xác cha mẹ lại của người Mường thì rõ. Người Giao-Chỉ đã tính kể là ngang nhau cái tình thương của cha mẹ với tình thương của Giời Đất. Người con được kể là hiếu thảo xứng đáng lựa chọn để truyền ngôi là người biết dâng cha mẹ cái bánh dầy bánh chưng là hai vật tượng-hình cho trời đất (Chuyện bánh dầy bánh chưng) và tất cả cái cõi gọi là siêu-hình của người ta tưởng-tượng chỉ là do ở cõi lòng của cha mẹ, phóng ra mà thôi vậy. (Xin đọc thêm những chuyện Mẹ hiền con thảo (tr. 144), Bát canh hẹ (tr. 72), Không ăn bí (tr. 101), Con đẻ con nuôi (tr. 102) để hiểu về tình con cái đối với cha mẹ). 4. Quan-niệm vũ-trụ và trật-tự xã-hội Quan-niệm vũ-trụ còn mù-mịt và thấy như là quá xa-xôi đối với cuộc sống quá giản-dị của người xưa. Cho tới quan-niệm về trật-tự xã-hội cũng không có gì rắc rối cả. Hình như chỉ có một ông Tù trưởng (quan lang) để mà xử án hoà-giải mọi người, còn việc ai nấy làm, nhà ai nấy ở, không thấy có đóng thuế má gì hết. Ông quan là tượng-trưng cho công-lý để giữ dìn yên-ổn cho thôn xóm. Hình như cũng chẳng ai kiện thưa gì. Người ta dùng đỉa tra tội đứa con gái chửa hoang. Nó sợ đỉa nó phải thú tội. Rồi người ta khảo cây đa để cây đa doạ nói tên kẻ trộm mà rồi anh ăn trộm phải ra thú. 5. Quan-niệm về đời sống thực-tiễn Có lẽ chỉ đối với đời sống thực-tiễn là người xưa có nhiều chuyện nhất. - « CHIÊM-BAO THẤY LỢN KÊU » Xưa có người đoán mộng rất hay : Một hôm có người làng khác muốn thử, mới tìm đến nơi đặt điều ra nói rằng : « Đêm qua tôi nằm mê thấy lợn kêu, thầy thử đoán xem là điềm gì ». Người kia đoán rằng : « Tất rồi có ai đem miếng ăn đến cho ». Quả nhiên hôm sau có người đem xôi thịt đến cho anh ta thật. Cách mấy hôm, anh ta lại tìm đến nói rằng : « Thầy đoán tài lắm nhưng đêm qua tôi lại nằm mơ thấy lợn kêu nữa, thế là điềm gì thầy đoán dùm cho ». Người kia đoán rằng : « Tất rồi có ai đem cho cái khăn cái áo chi đó ». Cách một vài ngày quả-nhiên có người đem cho anh cái khăn thật. Ít lâu anh ta lại tìm đến người kia mà nói : « Thầy đoán thực đúng cả hai lần, song đêm qua tôi lại nằm mơ thấy lợn kêu nữa. Vậy thầy đoán thử xem ? » Người kia đoán rằng : « Ngày mai phải giữ mình cho khéo, chớ có đi đâu kẻo có người nó đánh cho ». Anh ta nghe thấy lấy làm lo sợ, nghĩ bụng : hai lần trước hắn đã đoán đúng thì không lẽ chuyến này lại sai được. Cả ngày hôm sau anh ro-ró ở nhà không dám bước chân đi đâu. Đến lúc nhá nhem tối anh mót đi đại-tiện, không sao nhịn được và nghĩ rằng đã gần qua ngày mới liền bước chân ra ngoài. Nhưng không kịp đi xa, anh ta phải vội ngồi ngay bên cạnh nhà hàng xóm. Người trong nhà thấy vậy vác gậy ra choảng cho anh một trận nên thân. Anh ôm quần chạy bán mạng. Về đến nhà càng nghĩ càng phục người đoán mộng giỏi nhưng không hiểu đoán trúng vì lẽ gì. Tinh mơ hôm sau anh sang hỏi người kia rằng : « Ba bậntôi đều bịa đặt là nằm mơ thấy lợn kêu mà cả ba bận thầy đều đoán trúng là tại sao vậy ? » - Có khó gì, anh tưởng-tượng thì cũng như là người nằm mê vậy. - Kẻ nuôi lợn nghe thấy lợn kêu thì nghĩ rằng nó đói nên cho nó ăn. Đã cho ăn rồi nó lại còn kêu thì nghĩ rằng nó rét nên cho nó ấm. Ăn đã no, ở đã ấm mà nó vẫn còn kêu thì là con lợn ấy nó quấy thì người ta phải đánh cho. Lấy cái lẽ đó luận ra, anh nằm mơ lần đầu thấy lợn kêu thì tôi đoán là được ăn, lần thứ hai thấy lợn kêu nữa thì tôi đoán là được mặc, đến lần thứ ba quá lắm thì đoán là phải đòn. Nào có gì là cao đoán ? Câu chuyện ngụ-ngôn ấy bao-hàm một lời dạy khôn đã không kém gì chuyện cái lưỡi lợn của ông Esope vậy. - « VỊ THUỐC QUÍ HOÁ » Xưa có một người lỡ độ đường đói quá, không biết làm thế nào phải tạm vào một nhà kia nói với bà chủ rằng : Tôi có một bài thuốc gia-truyền, ai gần chết cũng cứu cho sống lại được. Bài thuốc ấy thật là quí hoá, xưa nay tôi chưa truyền cho ai cả. Song bây giờ tôi không có ăn, tôi mà chết đói thì bài thuốc ấy cũng chết không được việc gì nữa. Nên tôi muốn nhờ bà cho tôi một bữa cơm, rồi tôi xin truyền bài thuốc lại cho bà để tạ ơn bà vậy. Bà chủ nhà nghe nói lấy làm sướng lắm, vội vàng đi thổi cơm cho người ấy ăn. Ăn no nê rồi, bà chủ nhà mới hỏi rằng : « Bài thuốc ấy thế nào ? » Người kia nói : « Bài thuốc ấy quí lắm. Ta phải giữ kín. Bà hãy đi với tôi. Đi gần thôi, tôi đưa bà đến tận nơi có vị thuốc ấy. Tôi chỉ bảo rõ ràng cho bà mới được ». Bà chủ nhà vui lòng đi theo. Đi một lúc lâu, không thấy người kia nói gì cả, bà ta nóng ruột hỏi giục rằng : « Thế nào đã đến nơi chưa ? Hay có phải định đánh lừa tôi để kiếm một bữa thì bảo ». Người kia nói : « Xin bà cố đi ít nữa. Tôi đưa đến chỗ có vị thuốc ấy, tôi sẽ đưa tận tay bà rồi bà xem ». Khi hai người đi đến một thửa ruộng, lúa chín sắp gặt được, người kia dừng lại bứt một bông lúa, vừa chỉ vào ruộng lúa cho bà chủ nhà xem, vừa nói : « Bẩm đây, cái vị thuốc quí hoá cứu người sống được là cái vị này đây, bà cứ xem ngay như tôi lúc nãy mà không có nó thì có phải tôi đã chết quách rồi, còn đâu đến bây giờ ». Bà chủ nhà nghe nói ngẩn người nhưng thấy có lý, không bắt bẻ làm sao được. Người kia lại nói thêm : « Bà không phải nghi-ngờ gì nữa. Thật vậy, vị thuốc này thật là quí hoá. Bà cứ tin ở lời tôi, bà kiếm lấy nó cho nhiều để hòng cứu lấy thiên-hạ. Còn phúc đứcgì bằng ? » Đó thật là một lời dạy khôn không ngây-thơ chút nào vậy. - « BỮA RƯỢU CHÁY NHÀ » Xưa có người làm bếp trong nhà, lại làm ngay giữa chỗ cửa mở thẳng vào và ở bên chỗ chứa củi. Một hôm có người khách đến chơi, thấy vậy bảo rằng : « Bác không nên đun bếp như thế, gió có thể lùa qua cửa thổi mạnh thì lửa sẽ bén vào củi và bốc to lên cháy nhà ». Người chủ nhà không nghe. Chẳng bao lâu quả nhiên lửa ở bếp bén vào đống củi lại nhờ luồng gió ở chỗ cửa thổi mạnh, ngọn lửa bốc lên to : nhà cháy. Làng xóm đổ đến chữa, may dập tắt được ngọn lửa, tổn hại cũng không mấy. Nhờ ơn cứu giúp, mấy hôm sau, người chủ nhà làm rượu mời làng xóm ; lúc mọi người đến đông đủ, chủ nhà thưa rằng : « Bữa nay là bữa tôi mừng đã tránh được cái vạ cháy nhà, cũng nhờ có các ông bà tận tâm cứu chữa cho. Vậy dám xin các ông bà ai bị cháy đầu, xém da, hay phải bỏng, phải thương tích gì thì ngồi lên trên… » Trong đám có người trả lời và hỏi : « Ông còn nhớ cái người trước bảo ông không nên làm bếp ở chỗ cửa mở thẳng vào và liền ngay đống củi không ? » - Có, tôi có nhớ. - Nếu ông sớm biết nghe người ấy thì làm gì đến nỗi ông phải một bữa sợ cháy nhà, lại tốn tiền để làm bữa rượu hôm nay. Mà sao hôm nay tôi lại không thấy người ấy có mặt ở đây ? Tôi thiết nghĩ ông nên cho mời người ấy đến, chúng tôi xin nhường người ấy trên hết mới phải. Những chuyện thuộc về đời sống thực-tiễn trên đây, ta thấy có nhiều so với những chuyện gọi là hoang đường, chứng tỏ trong đời sống giản-dị của người Giao-Chỉ xưa, người ta không chú-ý nhiều đến những gì xa vời mà chỉ nghĩ đến những cái thực-tế, ở ngay trong cuộc sống hàng ngày. Ngay trong cuộc sống hàng ngày, người ta phân-biệt ra có người tốt người xấu, người quân-tử và người tiểu-nhân. 6. Quan-niệm về người quân-tử - « NGƯỜI ĂN MÍA VÀ NGƯỜI CHỦ VƯỜN » : Xưa có một người đi đường, vừa đói vừa khát, trong mình nhược lả đi muốn rụi xuống. Bỗng thấy một vườn mía không có người canh gác. Người ấy muốn mua một cây ăn nhưng không biết hỏi ai để mua. Không sao được, người ấy đành cứ vào vườn mía bẻ một cây mía ăn cho đỡ khát. Ăn xong người ấy buộc tiền vào cây mía bên cạnh, rồi ra đi. Một lát người chủ vườn ra thăm vườn thấy mất cây mía. Nhìn kỹ lại, thấy một xâu tiền treo vào cây mía ở bên, người chủ vườn đem tiền ra đếm thì thấy hơn giá cây mía nhiều lắm. Biết là có người ăn mía để tiền lại trả, nhưng trả quá giá, người chủ vườn vội vàng theo gót người kia để trả lại số tiền dư. Đi mãi lúc lâu mới tìm thấy người kia. Thì người kia đói quá đã nằm chết cỏng queo bên đường rồi. - « CÂY TÁO NHÀ LÁNG GIỀNG » : Xưa có một cây táo, cành mọc trõ sang nhà láng giềng. Đến mùa táo có quả, vợ người láng giếng thấy vừa chín đến, nghĩ rằng ngon ngọt mới ra bứt ít quả đưa chồng ăn. Chồng hỏi, biết là táo đi ăn trộm của người ta, lấy làm giận lắm, cho là đứa không ra gì, có ý muốn bỏ. Nhà có cây táo, biết chuyện như vậy cho là đầu đuôi chỉ tại cây táo của mình mà đến nỗi vợ chồng người ta phải bỏ nhau, thì lấy làm sự không phải là ở mình, nên đem chặt cây táo đi. Cái mẫu người quân-tử ấy có vẻ gàn gàn. Song quân-tử thì ở đời nào người ta chẳng cho là gàn ? 7. Cái cười của người giao-chỉ Phần nhiều là cười vì sự ngây-ngô, hoặc của vợ chồng nhà kia bắt tép để nuôi cò, hoặc của anh kia đi săn vịt giời, hoặc của anh kia muốn cây lúa chóng cao thì kéo cây lúa lên. - Có khi cười vì sự ăn trộm bị mất trộm của hai anh ăn trộm ngựa khi chia nhau thì đánh nhau để anh thứ ba lấy mất. - Có khi cười vì sự nói dối của thằng Cuội với những cái láu-cá, thông-minh, dí-dỏm của nó. - Có khi cười vì sự tham-lam của một bà chủ bắt người làm nghe tiếng cốc kêu mới được về, và đến xẩm tối thì ra bụi tre bắt chước giả làm tiếng cốc kêu khiến bị người ta vác gậy đánh cho, hoặc là sự tham lam của anh kia thấy nhà người ta có cỗ không mời mình thì giả chặt cây cau của mình sang sân nhà người ta rồi qua lấy cho người ta thấy mình thì mời ăn. - Có khi cười một cách thô-lỗ về chuyện ông già chẳng chót đời, mặc áo tơi mà chết. - Có khi cười vì không biết miếng ngon cho mắm tôm là thơm, cà cuống là thối. Chưa thấy có cái cười về sự ngây-thơ của con nít, về sự muốn chế giễu bệnh tật hay sự yếu đuối của người ta. Song nếu nhận định rằng cái cười là một đặc-điểm của con người thì ngàn nào tính-cách để cười của người Giao-chỉ cũ là bấy nhiêu bằng-chứng tỏ rõ về sự không đến nỗi man rợ quá của người xưa vậy. Riêng trong công việc đi tìm nguồn-gốc văn-học Việt Nam, ta nhận thấy cái cười này đã dự phần rất lớn vào tính cách tế-nhị của lối nói, lối phô-diễn, ý-tưởng của dân-tộc bấy giờ vậy. Tóm lại, với những chuyện cổ-tích (có lọc lựa bớt đi những chuyện chịu ảnh-hưởng của Nho, Phật, Lão… sau này), ta đã nhìn thấy được phần nào hình ảnh của người Giao-chỉ cũ với những tính-chất đặc-biệt. Phải chăng đó là do ảnh-cảm của sông núi ? Trên dải đất của ông bà ta xưa định-cư, không có những núi cao chót vót tới mây xanh như núi Thái-sơn, không có những thác nước vĩ-đại gào thét suốt ngày đêm như thác Niagara, không có những cây cao ngút ngàn trông không thấy ngọn, không có nóng quá, lạnh quá, không có những trời vàng rực rỡ quá đến như Nam-Vang, không có tuyết phủ trắng quá đến như Đông-Kinh. Cho nên những tư-tưởng siêu hình không sâu đến như của Ấn-Độ giáo mà cũng không có thấp quá đến như không có gì. Người ta sống thầm lặng với những quan-niệm thiết-thực về cuộc đời, không thích những gì rực rỡ quá, không thích khoe khoang những gì to lớn quá, mà chỉ muốn sống nhũn-nhặn và nhẫn-nại với hòn đất mầu nâu, con trâu mầu nâu, cái nhà lợp rạ mầu nâu, cái áo nhuộm nâu giữa những cây tre thanh-đạm và chất phác. Bởi đã quen lo những gì thiết-thực, quen nghĩ những gì không xa vời nên cái chất-phác không đến ngây-ngô để dễ bị lừa và sự bám chặt lấy đất đai để sinh sống đã khiến giữ vững được ưu-thế trên mảnh đất của mình khi pha giống với các bộ-lạc khác. Mà đến khi gặp những ảnh-hưởng văn hóa ngoại lai, thì vẫn lọc được tất cả qua những ống kính thiết thực ấy để giữ vững bản-thể của mình. Đó là điều ta đáng lấy làm mừng vậy. CHƯƠNG III : VĂN-CHƯƠNG TRUYỀN KHẨU – CÂU ĐỐ Câu đố là một thể-cách thay đổi câu chuyện để cuộc nói chuyện giữa gia-đình kéo dài trong những ngày chờ cho hạt lúc mọc lên hay chờ cho hết mưa, hay chờ cho tàn khúc củi về đêm để đi ngủ. Nó bắt người nghe phải vận-dụng trí-tuệ để tìm tòi, để nhớ lại những vật, những hình-ảnh, những mầu sắc thường gặp trong cuộc sống. Nhớ để vui vì sự giống nhau không ngờ, để tiếc sao mình tìm không ra và để cười ồ lên với nhau khi thấy bị câu đố lừa trí óc mình đi tìm một đàng mà nó giảng ra một ngả. Nếu chuyện cổ-tích khi kể khiến được người nghe im lặng để thả trí óc tưởng-tượng theo những sự việc xẩy ra trong chuyện thì câu đố khi đưa ra đã bắt được tất cả người nghe phải hoạt-động thân trí để tham-dự. Nó là một cách chơi về tinh-thần, một cách đánh lừa mà trên nguyên-tắc người nói và người nghe đều mặc-nhiên thoả-thuận. - Khi thì lừa bằng nội-dung công việc : Con đánh bố, bố kêu làng Làng chạy ra, Con chui vào bụng bố. (Để giảng là cái mõ và cái dùi mõ) - Khi thì lừa bằng tác động của vật : Vừa bằng hạt đỗ Ăn giỗ cả làng (Để giảng là con ruồi) - Khi thì lừa bằng hình dáng của vật : Chồng có phép giơ bụng ra ngoài Vợ có tài thắt lưng cho gọn (Để giảng là miếng cau và miếng trầu không) - Khi thì lừa bằng hình tượng : Vừa bằng cái vung mà vùng xuống ao Đào không thấy, lấy không được (Để giảng là mặt trăng) - khi thì lừa bằng mầu sắc : Không sơn mà đỏ (Để giảng là mặt trời). - Khi thì lừa bằng âm-thanh : Không gõ mà kêu (Để giảng là sấm). - Khi thì lừa bằng nói lái : Kiển tố vừa đố vừa giảng (Để giảng là tổ kiến). Nghĩa là, tóm lại, lừa bằng đủ các cách để cho sự tìm tòi lạc hướng. Vật thì tìm ở phía người, người thì tìm ở phía vật. Thiên-nhiên thì tìm ở nhân-tạo. Nhân-tạo thì tìm ở thiên nhiên. Cụ-thể thì tìm ở trừu-tượng. Trừu-tượng thì tìm ở cụ thể. Sau này cách chơi câu đố ấy, còn phát-triển thêm đến lừa bằng chữ, bằng nghĩa, bằng tả cảnh, tả tình, bằng những câu thơ lục bát chải chuốt gọn gàng, bằng những điển-tích, những nhân-danh, địa-danh, những công-cụ canh tiến. Song tất cả nền móng của cách chơi đặc-biệt ấy thì đã có ngay từ bước đầu của lịch-sử. Nó gây một hứng-thú cho sự vận-động trí-tuệ, gây một thú-vị về văn-từ. Nó là một trong những cái gốc của nền văn học Việt-Nam vậy. Cái gốc ấy người ta tất muốn hiểu sẽ tạo nên những gì sau này. Xin thưa : Tạo nên cái lối hiểu cách bức, lối nói xa xôi bóng gió, tạo nên một tinh-thần tế-nhị, sâu-sắc, tạo nên những lối nói mà là không nói, không nói mà là nói. Công-dụng của câu đố là chơi mà học đã quan-trọng vô cùng trong nền văn-học của ta. Nó còn quan-trọng hơn bởi nó huấn-luyện một tinh-thần dân-tộc cho những trẻ nhỏ ngay từ khi mới biết nói. Đến sau này, có những người bị phiêu bạt đi những chân trời góc bể ở đâu đâu, khi trở về nói chuyện với người nhà cũng vẫn thích nghe lại một hai cấu đố mà chính mình ngày xưa nằm võng với bà, đã nát óc ra để tìm lời giải. Bởi nghe lại những câu đố ấy là nghe lại tiếng ngân dài của cả năm ngàn năm lịch-sử. Khảo về câu đố chúng ta còn một vấn-đề cần xác-định. Ấy là vấn-đề ai làm ra những câu đố ấy ? Nếu chúng ta ngược giòng thời-gian đem trí tưởng-tượng về cuộc sống từ bốn năm ngàn năm trước trong những túp lều sùm-sụp che bằng lá giữa những người thân của một gia đình, giữa những xóm làng thưa-thớt mà người ta đã thành tục-lệ đốt lửa lên sưởi ấm để ngồi chung quanh ngọn lửa ấy nói chuyện. Rồi nếu chúng ta lại tưởng-tượng được ngồi một góc mà nghe, chúng ta sẽ thấy cuộc sống ban ngày là nguồn cảm hứng cho những câu chuyện về ban đêm và những lúc gặp người lạ, gặp việc lạ, gặp vật lạ là những đầu-đề của những câu chuyện ấy. Chuyện cổ-tích không phải là những chuyện cố tình bịa đặt ra để làm một tác-phẩm gì về văn-nghệ. Chuyện cổ-tích là những chuyện có thực nhưng hiểu theo óc tưởng-tượng và trí xuy-xét của người xưa kể lại cho nhau. Rồi truyền từ người này qua người khác nó thành có đầu có đuôi cho dễ hiểu. Giá-trị văn-nghệ của chuyện cổ-tích vì vậy kém hẳn giá trị văn-nghệ của những câu đố. Không phải người có một cơ cấu tinh-thần cao hơn người thường thì không tạo được những câu có vần có điệu lại có ý-nghĩa ở nội dung. Ngay bây giờ đây, có những người có học, đã tiến-hoá sau gần năm ngàn năm, lại đã được hiểu lối chơi câu đố thế nào, lại đã được nghe nhiều câu đố nữa, vậy mà đã chắc ai xuất khẩu thành chương nổi được một câu đố chưa. Câu đố cũng như ca-dao chính là những sáng-tác phẩm văn-chương nho nhỏ do người ta hoàn toàn tạo ra từ chỗ không có gì để ném vào giữa cuộc sống cho nó có một cái gì. Đại-chúng dân quê chất-phác không thể nào tạo được ra câu đối. Đại-chúng có thể nhắc lại và phóng-tác theo. Như người ta dựng đứng quả trứng trên mặt bàn, một cách dễ dàng, sau khi nghe Christophe Colomb đã dựng vậy. Tác-giả của những câu đố đầu tiên phải là những phần tử ưu-tú nổi lên ở đại-chúng nhân-dân và truyền mãi về sau thành một dòng kẻ sĩ của xã-hội. Chính họ là những người đã làm ra ca-dao tục-ngữ nói ở trên. Họ đến với một gia-đình xum họp chung quanh ngọn lửa thì gia-đình ấy vui, tiếp đãi cho ăn cho uống để họ bông lơn, họ pha trò, họ đố họ giảng. Khi họ đi thì gia đình ấy lại nhắc lại những câu chuyện họ nói, những câu thơ họ đố, họ giảng để cười chơi với nhau. Nhiều khi những câu đố ấy họ đã nghĩ sẵn. Nhiều khi đến tại chỗ họ mới cảm-hứng đặt ra. Cần phải nghiên-cứu câu đố theo khía là những tác-phẩm văn-nghệ thì mới đỡ oan-ức cho người xưa. Cần phải « trả cho César những gì của César » thì chính mình mới khỏi lạc đường trong sự tìm học. Một vấn-đề nữa cần minh-xác đối với lý-luận của những người chịu ảnh-hưởng của phương-pháp xuy-lý hình-thức tây-phương. Vấn-đề ấy là nội-dung của câu đố có những hình-ảnh tục-tĩu : Trương-Tửu đã viết trong Kinh-thi Việt-Nam : « …nếu không có giả-thuyết này (giả-thuyết có một tôn-giáo thờ phụng sự sinh đẻ) thì làm sao cắt nghĩa được cái tính hiếu dâm rất ngây-thơ của người Việt-Nam ? Ngoài sự phát-hiện ra việc làm và ý-tưởng, tính ấy còn phát-hiện ra ở lời nói, lời hát và nhất là ở cái trò chơi« câu đố » rất đặc-biệt của ta. Chắc hẳn bạn đọc đã biết ít nhiều câu đố ấy tôi xin cử ra đây vài kiểu mẫu « thanh » nhất để khỏi làm đỏ mặt các bạn nào hay cả thẹn : Lưng tròn vành vạnh đít bảnh bao Mân mân mó mó đút ngay vào Thuỷ hoả tương giao xôi sình sịch Âm dương nhị khí sướng làm sao. (Thưa các bạn đấy là điếu thuốc lào và sự hút thuốc lào) Xưa kia em trắng như ngà Bời chàng ngủ lắm nên đà em thâm Lúc bẩn chàng đánh chàng đâm Đến khi rửa sạch chàng nằm lên trên. (Đó là cái chiếu) Cử ra vài câu đố ấy các bạn đủ thấy rằng cái óc Việt-Nam lúc nào cũng có cái hình « tục tĩu » kia ám-ảnh. Đến nỗi hình ấy đã thành cái khuôn, bao nhiêu ngoại-vật phải chiếu qua nó rồi mới vào được trong đầu. Có thể nói người Việt-Nam trông sự vật, tả sự vật bằng cái « giống » (le sexe). Trước hết những câu đố có lẫn chữ nho, theo thể thơ Tầu và thể lục bát với những vần điệu tròn trặn, chải chuốt, không phải ở thời sơ-khai của Văn-học Việt-Nam. Chúng ta sẽ xét đến sau trong giai-đoạn phát-triển của văn-chương truyền-khẩu. Ở đây, chúng ta sẽ chỉ xét đến nội-dung của việc tác-giả muốn gán cho người Việt-Nam cái bản-tính hiếu-dâm kia, đến cái độ « bị hình tục-tĩu ám-ảnh » và đến cái độ « bao nhiêu sự vật đều chiếu qua nó rồi mới vào được trong đầu ». Tác-giả đã nắm được một hiện-tượng nhỏ để cái hiện tượng ấy nó lừa, cuối cùng tưởng nó là sự thật, để rồi dùng những lý-luận hình-thức mà tự lừa mình một lần nữa. Quả thực thì những câu như thế này ta không có từ thời Hồng-Bàng là thời mà ta còn sống riêng biệt một góc trời không phải chịu một ách đô-hộ nào của quân Tàu trên cổ. Chỉ đến khi bị Bắc-thuộc thì ta mới bắt đầu có những lối chửi tục-tĩu cay độc cho đến có thể nói là nhất thế-giới. Chửi mà diễn-tả cả những việc làm tục-tĩu trước mặt kẻ bị chửi, chửi như thế không có nghĩa là khiêu-dâm kẻ bị chửi. Cũng không có nghĩa là bị dồn nén nhục-dục rồi phát-hiện bậy bạ ra lời nói. Chửi như thế nghĩa là đem một vật hay một việc nhơ bẩn ném vào cái gì là tôn-trọng, là quý hoá của kẻ kia. Dưới gông cùm, kìm kẹp của quân Tàu hàng ngàn năm, ông cha chúng ta đã chửi và đã bắt đầu quen với những tiếng tục-tĩu để phát-triển nó lên tới cực độ, cho đến khi nói đến, nó không còn khiêu gợi dâm-dục nữa mà người Việt-Nam thì cũng biết nó là chửi. Những cầu đố tục-tĩu đã được sáng-tác ra trong khung cảnh lịch-sử ấy. Có khi là để chửi cái vật ấy, chửi cái hoàn cảnh ấy. Có khi là để phát-hiện sự muốn chửi ra (như người đá thúng đụng nia). Có khi là nói chỉ để mà nói (như là người hết khôn dồn ra dại). Có khi là muốn làm trí-khôn chỉ để mà cười chơi. Không thể vin vào một kết-quả hình-thức bề ngoài mà cho cái nội-dung của nó chỉ là một sự ám-ảnh bởi cái hình tục-tĩu ấy. Vả chăng, nếu hiểu như tác-giả K.T.V.N. rằng những câu đố tục-tĩu là một sự thể-hiện của dồn nén nhục dục thì lại phải tự hỏi để nhận-định là nó đã được đọc lên giữa những ai với ai trong gia-đình những buổi tối xúm nhau ngồi quanh đống lửa ? Không lẽ mà con khiêu-dâm cha mẹ, cháu khiêu dâm ông bà, vợ khiêu-dâm chồng, anh khiêu-dâm em… ? Gia-dĩ nếu tìm hiểu về tác-động tâm-lý của những câu đố, ngay trong định-nghĩa của nó, người ta đã mặc-nhiên nhận trước với nhau rằng đó là lừa rồi, thì tính-cách khiêu dâm đâu mà còn nữa ? Bởi vậy khi học về câu đố cũng như học về tất cả các thể văn khác, cần phải dè chừng cái chủ-quan của mình lắm. Vì càng tưởng đã đuổi được nó đi, nó lại càng quanh trở về đường cũ lúc nào mà không biết. Tác-phẩm văn-chương quả thật là những tấm gương thần. Trước khi nó cho biết chân-tướng của nó thì nó đã cho biết bộ mặt thực của người soi vào nó. CHƯƠNG IV : VĂN CHƯƠNG TRUYỀN KHẨU – NHỮNG CÂU NÓI LÁI, NHỮNG TIẾNG ĐỆM VÀ NHỮNG CÂU HÁT CỦA CON TRẺ Chúng ta sẽ có thể không hiểu được hết tinh-thần văn chương Việt-Nam, nếu chúng ta không tìm hiểu những câu nói lái ngay ở nguồn-gốc là những cách chơi tiếng, chơi âm thanh mà sau này phát-sinh ra những tiếng « đá bèo » của Cống-Quỳnh hay những câu thơ của Hồ-Xuân-Hương : « Trái gió cho nên phải lộn lèo » … … … « Mất mặt anh hùng khi nắng cực » v.v… Nói lái là cách đổi thanh và đổi vị-trí giữa hai tiếng hay đổi bộc-âm giữa hai tiếng, mà người Việt-Nam nào cũng thuộc, cũng hiểu, chỉ nhẩm vài lần là tự mình làm được : - Cái bàn là bán cài hay bái càn - Kêu làng là lang kều hay lêu càng - Không tròn là tron khồng hay trông khòn - Không méo là meo khống hay mông khéo Gặp trường-hợp hai tiếng đồng thanh thì lại đổi bộc-âm của tiếng nọ qua bộc-âm của tiếng kia trong khi đổi vị-trí hai tiếng : - Cái túi là tái cúi """