" Lịch Sử Tư Tưởng Quân Sự Việt Nam 5: Tổng luận PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lịch Sử Tư Tưởng Quân Sự Việt Nam 5: Tổng luận PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Lời Nhà xuất bản Mở đầu Chương I I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC, Ý THỨC ĐẤU TRANH BẢO VỆ CHỦ QUYÊN DÂN TỘC TỪ BUỔI ĐẦU GIỮ NƯỚC ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX II. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TINH THẦN YÊU NƯỚC VÀ Ý THỨC ĐỘC LẬP DÂN TỘC TỪ GIỮA THẾ KỶ XIX ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XX (1858-1945) III. CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC, TINH THẦN ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP, TỰ DO VÀ TƯ TƯỞNG QUYẾT CHIẾN QUYẾT THẮNG TRONG BA MƯƠI NĂM CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG Ở VIỆT NAM (1945-1975) Chương II I. KHỞI NGHĨA VŨ TRANG: CÓ ĐƯỜNG LỐI ĐÚNG THÌ THÀNH CÔNG II. KHỞI NGHĨA VŨ TRANG TOÀN DÂN, TOÀN DÂN TỘC TIẾN HÀNH III. CHÚ TRỌNG XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG, KẾT HỢP CÁC HÌNH THỨC ĐẤU TRANH TRONG QUÁ TRÌNH KHỞI NGHĨA IV. KHỞI NGHĨA TỪNG PHẦN TIẾN LÊN TỔNG KHỞI NGHĨA V. CHỚP THỜI CƠ LỊCH SỬ ĐẬP TAN CƠ CẤU QUYỀN LỰC ĐỊCH, GIÀNH CHÍNH QUYỀN GẮN LIỀN VỚI BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN TRONG CẢ NƯỚC Chương III I- TƯ TƯỞNG CHIẾN TRANH NHÂN DÂN 1. Tư tưởng chiến tranh tự vệ, bảo vệ cộng đồng, bảo vệ độc lập dân tộc và hòa bình 2. Tư tưởng kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình II- NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ TRONG CHIẾN TRANH NHÂN DÂN VIỆT NAM 1. Tư tưởng chỉ đạo nghệ thuật quân sự toàn dân đánh giặc 2. Tư tưởng "lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn" 3. Tư tưởng tích cực tiến công 4. Tư tưởng tích cực tiêu diệt sinh lực địch 5. Tư tưởng đánh địch một cách tích cực, chủ động, kiên quyết, linh hoạt, mưu trí sáng tạo, bí mật, bất ngờ Chương IV I- TƯ TƯỞNG XÂY DỰNG CĂN CỨ ĐỊA, HẬU PHƯƠNG CHIẾN TRANH 1. Dựa vào dân để xây dựng căn cứ địa, hậu phương, từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, từ chưa hoàn chỉnh đến ngày càng hoàn chỉnh 2.Dựa vào địa hình hiểm trở, dựa vào các vùng nông thôn rừng núi để xây dựng căn cứ địa, từng bước mở rộng căn cứ địa, hậu phương xuống vùng nông thôn đồng bằng và đô thị - những nơi giàu sức người, sức của 3. Kết hợp xây dựng căn cứ địa, hậu phương tại chỗ ở khắp nơi với xây dựng căn cứ địa, hậu phương chung của cả nước; tranh thủ hậu phương quốc tế 4. Xây dựng căn cứ địa, hậu phương vững mạnh toàn diện 5. Vừa chiến đấu vừa xây dựng và bảo vệ căn cứ địa II- TƯ TƯỞNG QUỐC PHÒNG 1. Tư tưởng quốc phòng trong các triều đại phong kiến 2. Tư tưởng quốc phòng của Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Chương V I- XÁC ĐỊNH VAI TRÒ LỰC LƯỢNG VŨ TRANG TRONG TIẾN TRÌNH ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC II- VŨ TRANG TOÀN DÂN, XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG VŨ TRANG TỪ NHÂN DÂN III- TỔ CHỨC CHẶT CHẼ, CƠ CẤU NHIỀU THỨ QUÂN IV. CHÚ TRỌNG XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI "CỐT TINH", VỮNG MẠNH TOÀN DIỆN V- CHĂM LO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TRUNG THÀNH, TÀI TRÍ VI- QUAN TÂM GIẢI QUYẾT TRANG BỊ VŨ KHÍ, XÁC ĐỊNH LỐI ĐÁNH GIẶC CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG Chương VI I- TƯ TƯỞNG VỀ PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN 1. Cơ sở của tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam 2.Tư tưởng về xây dựng khối đoàn kết toàn dân thời phong kiến 3. Sự phát triển của tư tưởng đoàn kết dân tộc trong thời hiện đại II- TƯ TƯỞNG VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ, KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI 1.Tư tưởng đoàn kết quốc tế trong thời phong kiến 2. Tư tưởng đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong thời hiện đại Kết luận Lời Nhà xuất bản Nằm ở Đông Nam châu Á, vừa gắn liền với lục địa, vừa thông rộng với đại dương, từ rất sớm Việt Nam đã trở thành đối tượng nhòm ngó của các thế lực ngoại xâm đến từ nhiều phía. Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam phải thường xuyên đương đầu với nhiều đội quân xâm lược lớn mạnh. Dựng nước đi đôi với giữ nước đã trở thành quy luật sinh tồn và phát triển của dân tộc, một đặc điểm hằng xuyên của văn hóa Việt Nam. Trải qua các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc, từ rất sớm, tư duy, tư tưởng quân sự Việt Nam đã xuất hiện và ngày càng phát triển, hoàn thiện với nội dung phong phú, sâu sắc. Cùng với quá trình đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam cũng hình thành, phát triển, trở thành một bộ phận hữu cơ quan trọng của lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nghiên cứu những giá trị tiêu biểu của lịch sử tư tưởng quân sự việt Nam, rút ra những vấn đề có tính quy luật, những bài học kinh nghiệm, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền quốc phòng vững mạnh, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới là nhiệm vụ hết sức quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Tổng luận là tập cuối cùng của bộ sách Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam, gồm 5 tập. Dựa trên thành quả nghiên cứu của bốn tập sách viết về lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam qua các giai đoạn, cuốn sách tập trung trình bày và làm rõ hệ giá trị nền tảng và những nội dung cơ bản của tư tưởng quân sự Việt Nam từ khởi nguồn đến năm 1975. Cuốn sách là một công trình khoa học có giá trị giúp cho độc giả hiểu được một cách khái quát và có hệ thống những giá trị truyền thống của tư tưởng quân sự Việt Nam, đồng thời cung cấp cho các nhà quân sự Việt Nam cũng như các nhà hoạch định chính sách những cứ liệu khoa học để xây dựng chiến lược quân sự - quốc phòng thích hợp cho công cuộc phòng thủ, xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy các tác giả đã rất cố gắng, nhưng cuốn sách khó tránh khỏi thiếu sót. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với đông đảo độc giả. Tháng 11 năm 2014 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT Mở đầu Trong tiến trình lịch sử hàng ngàn năm, dân tộc Việt Nam đã bao lần phải chiến đấu với các thế lực ngoại xâm có tiềm lực và sức mạnh kinh tế, quân sự lớn hơn gấp nhiều lần để giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Dựng nước đi đôi với giữ nước trở thành quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam. Trên hành trình lịch sử nhiều gian nan thử thách đó, đã hình thành nên truyền thống quân sự của con người Viết Nam, văn hóa Việt Nam. Những tư tưởng định hướng cho nền quân sự Việt Nam quan hệ chặt chẽ với những tư tưởng định hướng cho sự phát triển của toàn thể dân tộc trong từng thời kỳ. Mục đích của nền quân sự Việt Nam không phải chiến tranh và chiến công, mà là hòa bình và phát triển - tư tưởng quân sự Việt Nam, vì thế, phản ánh tính cách của một dân tộc yêu chuộng hòa bình, hòa hiếu, nhưng đầy tinh thần tự tôn dân tộc và lòng yêu nước mãnh liệt. Cũng vì một liên hệ đặc biệt giữa lĩnh vực quân sự với mọi lĩnh vực khác của quốc gia, trong thời bình cũng như trong thời chiến, những nhà tư tưởng quân sự Việt Nam đồng thời là những nhà chính trị kiệt xuất. Lịch sử cổ - trung đại Việt Nam đã sinh ra biết bao nhà quân sự xuất chúng, với những quan điểm tư tưởng quân sự tiến bộ, như Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ... Kế thừa truyền thống thượng võ của dân tộc và tiếp thu những tư tưởng mới của thời đại, trong thời kỳ cận - hiện đại, tư tưởng quân sự Việt Nam tiếp tục có bước phát triển vượt bậc, đặc biệt là từ khi có lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tổng luận khái quát, rút ra những vấn đề chung nhất, có tính quy luật, xuyên suất tiến trình lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam, trong đó tập trung trình bày những quan điểm tư tưởng tiêu biểu, tiến bộ, được biểu hiện chủ yếu trên các phương diện sau đây: - Những giá trị truyền thống yêu nước, tư tưởng đấu tranh vì độc lập tự do, bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. - Tư tưởng khởi nghĩa vũ trang. - Tư tưởng chiến tranh nhân dân và nghệ thuật quân sự Việt Nam. - Tư tưởng xây dựng căn cứ địa, hậu phương và tư tưởng quốc phòng. - Tư tưởng xây dựng lực lượng vũ trang. - Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Những vấn đề trên tuy không thể bao hàm được toàn bộ lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam qua các thời đại, nhưng đó là những nội dung quan trọng, nổi bật nhất, được trình bày khái quát theo tiến trình lịch sử, để từ đó rút ra những kết luận, những đặc điểm chủ yếu của lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam. Chương I NHỮNG GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC, ĐẤU TRANH VÌ ĐỘC LẬP TỰ DO, BẢO VỆCHỦ QUYỀN QUỐC GIA VÀ TOÀN VẸN LÃNH THỔ Trên dặm dài lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dựng nước luôn đi đôi với giữ nước, dân tộc Việt Nam đã trải qua những thử thách khốc liệt, những biến động dữ dội và đã anh dũng vượt qua bằng tình yêu quê hương, đất nước thiết tha, bằng trí tuệ và ý chí kiên cường, bằng sức mạnh cố kết và viết nên những trang sử oanh liệt. Hàng nghìn năm lao động quên mình và chiến đấu chống mọi kẻ thù đã trui rèn bản lĩnh con Lạc cháu Hồng, hun đúc nên những phẩm giá cao đẹp của con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam, hình thành và bồi tụ thành truyền thống rất đáng tự hào của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tư tưởng đấu tranh vì độc lập tự do, bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam cũng nảy sinh và phát triển trong quá trình chiến đấu để bảo vệ quê hương, đất nước. Lòng yêu nước, ý chí độc lập tự do, tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược là cội nguồn tư tưởng quân sự và cũng là một nội dung xuyên suốt, cốt lõi của tư tưởng quân sự Việt Nam. I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC, Ý THỨC ĐẤU TRANH BẢO VỆ CHỦ QUYÊN DÂN TỘC TỪ BUỔI ĐẦU GIỮ NƯỚC ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX Cũng như các dân tộc khác, tổ tiên dân tộc Việt Nam xưa kia bắt đầu cuộc sống của mình bằng những bước đi chập chững trong một thời kỳ dài của thời đại công cụ bằng đá và chế độ công xã nguyên thủy. Nước Văn Lang ra đời trên nền tảng của sức sản xuất bấy giờ đã tương đối phát triển, với kết cấu chính trị - xã hội khá bền chặt. Từ đó bắt đầu một thời đại mới trong lịch sử Việt Nam: thời đại các Vua Hùng dựng nước. Quan sát những trống đồng cổ thành tựu nổi bật của văn hóa Đông Sơn thời đại các vua Hùng, có thể nhận thấy ánh lên từ những họa tiết trang trí trên mặt trống, ở tang trống cảnh làm ăn sinh động thấm đẫm sự hòa đồng mộc mạc, sự cố kết bền chặt của cư dân thời đó. Nhưng vừa dựng nước thì nhân dân Việt Nam đã phải liên tiếp đương đầu với nhiều mối đe dọa từ bên ngoài. Truyền thuyết về cậu bé làng Phù Đồng vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân là câu chuyện đánh giặc giữ nước đượm màu thần thoại. Nhưng có cái cốt lõi lịch sử của nó, thể hiện tinh thần và ý chí quyết tâm chống ngoại xâm của người Việt cổ trong đó nổi bật lên chiến công của con em những người dân thường, được minh họa trong thành phần đội quân của Gióng từ những người nông dân cầm vồ, người đánh cá vác cần câu, kẻ mục đồng cầm khăng cưỡi trâu trên đồng ruộng... "Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn, đằng vân do hận cửu thiên đê" (Ba tuổi đánh giặc vẫn lo là muộn, cưỡi mây còn hận chín tầng trời là thấp. Đó là tinh thần, là ý chí, là khí phách của người Việt xưa. Tiếp nối quá trình và những thành quả lao động, đấu tranh của các tầng lớp cư dân hàng nghìn năm về trước, thế hệ người Việt thời Hùng Vương - An Dương Vương đã lao động và đấu tranh bền bỉ, sáng tạo, xây dựng nên cơ đồ của đất nước với sự hình thành ngày càng rõ nét bản sắc văn hóa cùng bản sắc chính trị của mình, từ đó đặt định và phát triển những giá trị văn minh của một dân tộc thống nhất. Cuộc kháng chiến chống Tần (thế kỷ III tr. CN) đã được sử sách ghi chép lại là cuộc đụng đầu lịch sử đầu tiên của dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, mà kẻ đại diện là thế lực phong kiến Tần Thủy Hoàng, một đế chế lớn mạnh nhất thời đó. Thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân Văn Lang - Âu Lạc đã ghi vào lịch sử trang mở đầu về truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam. Sử chép rằng, trước sự tiến công mạnh mẽ của quân Tần, người Việt đều trốn vào rừng ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt, không hợp tác với giặc, "đêm đêm ra đánh quân Tần". Người Việt tập hợp nhau lại, "cử người kiệt tuấn lên làm tướng", kiên trì cuộc chiến đấu lâu dài, dùng lối đánh du kích "ngày ẩn đêm hiện", nhằm tiêu hao quân giặc, triệt đường lương thảo của chúng. Quân Tần "đóng binh ở đất vô dụng, tiến không được, thoái cũng không xong", chúng ngày càng nguy khốn và tuyệt vọng, nhiều quân lính và phu chuyên chở tự vẫn. Sau mười năm, quân Tần đại bại, nhà Tần buộc phải bãi binh (năm 208 tr.CN). Như vậy, từ rất sớm, người Việt đã có ý thức về địa bàn cư trú, về cương vực lãnh thổ nơi đã sản sinh và nuôi dưỡng mình - đây chính là những tiền đề căn bản cho sự hình thành ý thức dân tộc. Cuộc đấu tranh kiên cường chống lại hiểm họa xâm lược - thôn tính của các thế lực mạnh hơn đòi hỏi mỗi thành viên trong cộng đồng - xã hội phải liên kết, đồng lòng hợp sức với nhau để có đủ sức đánh bại cuộc tiến công xâm lược của kẻ thù, và chính trong quá trình đấu tranh ấy mà bản sắc có cộng đồng ra đời. Từ thế kỷ III tr.CN, vừa dựng nước, nhân dân Việt cổ đã phải đứng lên chống ngoại xâm để giữ nước. Sự gắn bó với lãnh thổ, với địa bàn cư trú tần dần phát triển thành lòng yêu nước, ý thức cộng đồng quốc gia, ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và tư duy quân sự của dân tộc Việt Nam. Đó là cơ sở để nhân dân Việt Nam giành được những thắng lợi đầu tiên trong tiến trình lịch sử đấu tranh giữ nước của mình. Đánh thắng giặc ngoại xâm, An Dương Vương kế tục Hùng Vương lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước. Cổ Loa trở thành kinh đô nước Âu Lạc với tòa thành lớn, vừa là trung tâm chính trị vừa là căn cứ quân sự kiên cố. Trong suốt hơn 10 thế kỷ sau đó, truyền thống đô thị - thành trì, trung tâm chính trị - kinh tế cũng là trung tâm quân sự, vua cũng là chỉ huy tối cao này sẽ là đặc trưng của nền chính trị Việt Nam thời đó. Quân đội Âu Lạc được trang bị những vũ khí tinh xảo (nỏ Liên Châu) để bảo vệ kinh thành. Thành Cổ Loa với nhiều vòng thành vững chãi hình xoáy ốc và nỏ Liên Châu có uy lực sát thương lớn là mẫu mực của sự sáng tạo và tư duy quân sự độc đáo của người Việt cổ. Quân đội và nhân dân Âu Lạc đã chiến đấu anh dũng, nhiều lần đẩy lùi cuộc tiến công của quân xâm lược. Dẫu cuộc kháng chiến chống quân Triệu Đà xâm lược bị thất bại, nhưng ý thức quốc phòng, ý thức bảo vệ kinh đô của triều đình và ý chí chiến đấu của quân dân Âu Lạc đã phát triển một bước. Hai cuộc kháng chiến giữ nước đầu tiên thời Hùng Vương - An Dương Vương chứng tỏ ý thức cộng đồng, ý thức quốc gia - lãnh thổ của người dân sống trong cương vực Việt cổ đã xuất hiện, phát triển và chủ nhân của những chiếc trống đồng Đông Sơn đã rút ra được nhiều bài học cho mình. Từ thế kỷ II trước Công nguyên, nước Việt Nam rơi vào thảm họa bị phong kiến phương Bắc qua nhiều triều đại như Triệu, Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Tùy và Đường đô hộ. Đây là thời kỳ lịch sử đen tối, đầy thử thách đối với sự mất còn của giống nòi, của dân tộc. Kẻ thù vơ vét, bóc lột nhân dân và thực hiện nhiều thủ đoạn, biện pháp tàn độc hòng triệt tiêu văn hóa, loi sống của người Việt: xóa tên nước, chia Âu Lạc thành quận huyện, sáp nhập vào lãnh thổ Trung Quốc; phá trống đồng, hủy hoại di sản văn hóa dân tộc; bắt dân Việt phải thay đổi phong tục tập quán, tuân theo pháp luật và lễ giáo của phong kiến phương Bắc... Nhưng ngọn lửa hỏa ngục của các triều đại phía Bắc đã không thể thiêu cháy được văn hóa Việt; không khuất phục được ý chí cưỡng chống, đấu tranh của lớp lớp người Việt Nam. Trên thực tế chính trong thời gian mất nước kéo dài hơn một nghìn năm này, những cộng đồng người Việt cổ đã nêu cao tinh thần bất khuất, kiên cường và bền bỉ đấu tranh bảo tồn lối sống, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa lâu đời, quyết giành bằng được nền độc lập tự chủ. Thuở ấy người Việt mất nước nhưng ở khắp các bản làng vẫn bảo tồn được các giá trị truyền thống của dân tộc. Bám vào làng xã, đoàn kết đùm bọc lấy nhau, người Việt đã đấu tranh hiệu quả chống lại chính sách nô dịch và đồng hóa của người Hán. Trong các làng xã, nhân dân vẫn giữ được cốt cách làm ăn và phong tục tập quán riêng; không chỉ bảo lưu những giá trị văn hóa truyền thống, mà còn tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hóa ngoại nhập phù hợp với cuộc sống của mình và liên kết với nhau trong cuộc đấu tranh giành lại đất nước. Chính quyền đô hộ không thể can thiệp hoặc làm thay đổi được đời sống chính trị - xã hội ở làng của người Việt. Cũng dựa vào tổ chức làng xã, người Việt duy trì và phát triển sản xuất. Nhờ vậy, nền kinh tế vẫn có những bước phát triển. Những thành quả đấu tranh trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa làm tăng thêm sức mạnh của dân tộc trong cuộc chiến đấu đánh đổ ách thống trị ngoại bang, giành lại chủ quyền dân tộc. Người Việt đầu tiên chống lại ách đô hộ của Nam Việt là Tây Vu Vương - một thủ lĩnh thuộc dòng dõi quý tộc Âu Lạc cũ ở vùng Tây Vu (Cổ Loa). Tuy nhiên, do lực lượng yếu hơn, nên cuộc khởi nghĩa ở Giao Chỉ bị viên Tả tướng nhà Triệu là Hoàng Đồng đem quân dập tắt. Cuộc khởi nghĩa này chứng tỏ phần nào cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc của nhân dân Việt Nam diễn ra từ rất sớm. Trong những năm đầu công nguyên, nhà Hán thống trị Âu Lạc. Chính sách nô dịch và đồng hóa của triều đình phong kiến Đông Hán đã xô đẩy nhân dân Âu Lạc vào cảnh ngộ lầm than không kể xiết; mâu thuẫn dân tộc càng mạnh mẽ hơn. Phong trào nổi dậy của nhân dân Việt Nam nổ ra khắp nơi, mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào mùa Xuân năm 40 với lời thề "Đền nợ nước, trả thù nhà". Khởi nghĩa Hai Bà Trưng với khí thế vùng dậy mãnh liệt, đã lật đổ nền thống trị của nhà Đông Hán đang lúc cường thịnh, khôi phục nền tự chủ. Cả những người Man, người Lý ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Cuộc khởi nghĩa toàn dân rộng lớn này để lại biết bao tấm gương cảm động. Nhiều gia đình hầu như cả nhà cùng đánh giặc: ba mẹ con bà Man Thiện, năm mẹ con bà Lê Thị Hoa (Thanh Hóa), vợ chồng Phương Dung - Đào Kỳ và ba anh em họ Đào (Hà Nội), hai chị em Nguyệt Thai - Nguyệt Độ (Nam Định), v.v.. Nhiều nữ tướng đại diện cho phụ nữ Việt thuở đó đã chiến đấu dưới ngọn cờ khởi nghĩa Hai Bà. Các thủ lĩnh địa phương cũng tham gia đông đảo đã phần nào cho thấy sự liên kết rộng lớn về mặt chính trị giữa các vùng trong ranh giới Việt cổ. Tuy nhiên, để mối liên kết này trở thành một quyền lực tập trung thì phải trải qua một quá trình lịch sử lâu dài. Dẫu sao, cuộc khởi nghĩa vẫn là sự nối tiếp và phát triển tinh thần độc lập tự chủ, tiêu biểu cho ý chí chính trị của dân tộc; đó là kết quả của sự thức tỉnh dân tộc trong cả một quá trình đấu tranh, khi âm thầm lúc công khai của người Việt cổ. Đó là thắng lợi của phong trào nổi dậy của toàn dân dưới sự lãnh đạo của hai vị nữ anh hùng Trưng Trắc và Trưng Nhị. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đã gây nên một chấn động lớn cả trong và ngoài cộng đồng người Việt cổ, khiến triều đình Hán Quang Vũ rất lo lắng và cử Phục Ba tướng quân Mã Viện đưa đại quân sang xâm lược đất nước của Trưng vương. Sau hơn hai năm, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam do Hai Bà Trưng lãnh đạo bị thất bại. Hai Bà Trưng và nhiều tướng sĩ nghĩa quân đã chiến đấu và hy sinh anh dũng tại Cổ Loa, Lãng Bạc, Cấm Khê. Cuộc chiến ở Cấm Khê đã đi vào lịch sử dân tộc như một trận đánh cuối cùng của hai vị nữ anh hùng dân tộc. Đó là một trận đánh lớn, trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, nó làm sáng ngời truyền thống dân tộc: thà chết chứ không làm nô lệ, không chịu khom lưng, quỳ gọi trước quân xâm lược, tất cả vì nền độc lập tự chủ. Sự nghiệp của Hai Bà Trưng chứng minh hùng hồn, tập trung bước phát triển mới của tinh thần dân tộc Việt Nam. Tinh thần và ý chí đó là sản phẩm của một quá trình lịch sử lâu dài, kết tinh của nền văn minh sông Hồng trong thời đại dựng nước và trước thảm họa mất nước, nó bùng lên thành sức mạnh quật khởi của nhân dân. Hai Bà Trưng đã để lại tấm gương bất khuất cho muôn đời sau. Tiếp nối truyền thống Hai Bà Trưng, năm 248, Triệu Thị Trinh lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa ở Cửu Chân (vùng Thanh Hóa). Cuộc khởi nghĩa lan rộng vào Cửu Đức Nhật Nam và ra tận Giao Chỉ, khiến cho "toàn thể Giao Châu chấn động, thứ sử Giao Châu mất tích". Các thế hệ người Việt Nam luôn truyền nhau câu nói nổi tiếng đầy khí phách tương truyền là của Bà Triệu phát ra từ núi Nưa: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người ta". Đây là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu, mạnh nhất và rộng lớn nhất và "là đỉnh cao của phong trào nhân dân thế kỷ II-III, nổ ra ngày trong thời kỳ mà bọn đô hộ có lực lượng hùng mạnh, đã củng cố được ách thống trị trên đất nước Việt Nam và đang đẩy mạnh dã tâm đồng hóa của chúng"1. Khởi nghĩa Bà Triệu thất bại, nhưng hình ảnh của người con gái kiên trinh bất khuất, người phụ nữ anh hùng dân tộc siêu việt quyết nối chí Bà Trưng "giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ" vẫn muôn thuở không phai mờ trong tâm trí người Việt Nam. Các cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng và Bà Triệu là sự phản chiếu của một giai đoạn quan trọng trong quá trình hình thành các giá trị dân tộc, đặc biệt là biểu trưng cho khí phách dân tộc, cho tư tưởng, ý chí quật cường, quyết tâm đánh giặc, giành độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam. Hình ảnh của các bà lẫm liệt, hiên ngang trên mình voi chiến, chỉ huy nghĩa quân đánh giặc đã trở thành một biểu tượng chính trị - văn hóa trong tâm trí người Việt Nam, biểu tượng của tinh thần yêu nước, của khát vọng độc lập tự do, và của ý chí chính trị không gì và không bao giờ lay chuyển được, là tư tưởng quyết tâm giành lại độc lập và giữ gìn đất nước của tổ tiên. Từ đó, các cuộc khởi nghĩa nổ ra ngày càng nhiều với quy mô và hiệu quả càng lớn. Lý Bí đánh tan quân Lương, lập ra nước Vạn Xuân, tự xưng là Nam Đế (vua nước Nam). Ông là người Việt đầu tiên xưng đế, "Việt đế" theo sử Trung Quốc hay "Nam Việt đế" theo sử nước Việt Nam. Xưng đế, định niên hiệu riêng, định đô ngay trên vùng đất Hà Nội xưa, đúc tiền riêng, coi phương Nam là một cõi riêng với phương Bắc, lấy Việt đối với Hoa..., những điều đó nói lên một bước trưởng thành quan trọng của ý thức chính trị - dân tộc, lòng tin ở khả năng tự mình vươn lên, phát triển một cách độc lập. Đó là sự hiên ngang phủ định quyền "bá chủ thiên hạ" của hoàng đế phương Bắc, vạch rõ sơn hà, cương vực và là sự khẳng định dứt khoát rằng: nòi giống Việt phương Nam là một thực thể độc lập, là chủ nhân của đất nước và nhất quyết phải giành quyền làm chủ vận mệnh của mình. Đây là một bước phát triển mới của ý chí độc lập tự chủ; có thể coi là một "hành động cách mạng" của nhân dân Việt Nam kiên quyết chống lại sự thống trị của phong kiến Trung Hoa để giành lại nền độc lập, tự do dân tộc. Và người kế nghiệp Lý Nam Đế cũng đã xứng danh anh hùng, tự xưng Triệu Việt Vương, lãnh đạo nhân dân kiên trì kháng chiến, đánh đuổi quân xâm lược Lương, bảo vệ nền độc lập cho nước Vạn Xuân. Thời Tùy, Đường thống trị, nhiều cuộc khởi nghĩa và kháng chiến nổ ra. Kháng chiến chống Tùy (năm 602), các cuộc khởi nghĩa chống chính quyền đô hộ nhà Đường của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến (687) của Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế, 713-722), của Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương, 766- 791), của Dương Thanh (819-820)... là những minh chứng hùng hồn cho sự trưởng thành của ý thức dân tộc, của tinh thần quyết chiến đấu vì độc lập tự chủ. Mai Thúc Loan tiếp nối ý chí của Lý Bí, đã xưng "đế" và giành được quyền tự chủ trong nhiều năm. Phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống ách đô hộ nhà Đường có tính chất phổ biến, tương đối liên tục suốt ba thế kỷ và nổ ra ở khắp nơi, miền xuôi cũng như miền núi, từ miền Bắc đến Hoành Sơn. Phong trào mang tính chất dân tộc - quần chúng khá rõ nét, bao gồm mọi tầng lớp xã hội như quân sĩ hào trưởng, quan lại yêu nước và nhân dân các dân tộc trên lãnh thổ nước Việt Nam. Có những cuộc khởi nghĩa đã phát triển thành chiến tranh giải phóng dân tộc, đánh vào tận sào huyệt, đại bản doanh của quân thù (Tống Bình). Lực lượng địch tan rã nhanh chóng trước khí thế tiến công của quần chúng khởi nghĩa. Bọn kinh lược sứ, quan đô hộ...hoặc bị giết, hoặc bỏ chạy. Trong những nhân tố trên, nhân tố quần chúng nhân dân tham gia đông đảo, với khí thế tiến công ngày càng mạnh là rất quan trọng, khiến quân giặc hoảng sợ nhất. Trong các thế kỷ dưới sự thống trị của nhà Đường, nhân dân Việt Nam liên tục đứng lên chống chính quyền đô hộ. Khác với những giai đoạn trước, sự phân biệt giữa chính quyền đô hộ và nhân dân Việt Nam trong thời gian này rất rạch ròi. Những quý tộc hay quan lại nhà Đường sang sinh sống lâu dài bên An Nam không được tham gia chính quyền và không giữ chức vụ cao cấp như trước. Do đó cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam cũng nhằm đúng kẻ thù hơn. Quy mô của các cuộc khởi nghĩa dưới thời thuộc Đường ngày càng lớn. Phong trào đấu tranh ngày càng tập trung mũi nhọn vào chính những kẻ cầm đầu chính quyền đô hộ. Qua những cuộc đấu tranh anh dũng đó, tinh thần quốc gia tự chủ, ý thức dân tộc được củng cố và phát triển mạnh mẽ hơn. Chính quyền đô hộ bị đả kích mãnh liệt. Tuy chính quyền đô hộ đã sử dụng nhiều biện pháp trấn áp quân sự, nhưng kết quả rất hạn chế và sự tan rã của nó cũng đã bắt đầu và không thể tránh khỏi. Phong trào đấu tranh chống chính quyền đô hộ nhà Đường đến cuối thế kỷ IX đầu thế kỷ X đã báo hiệu sự xuất hiện của bình minh sau một đêm dài tăm tối dưới ách thống trị của ngoại bang. Đó là đêm trước để Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa thành công, xây dựng chính quyền tự chủ họ Khúc (905-930), rồi chuyển sang chính quyền họ Dương (931-937) dẫn đến chiến thắng Bạch Đằng, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán (938). Công cuộc xây dựng nền tự chủ của họ Khúc mở ra một thời kỳ phát triển mới của xã hội nước Việt Nam mà các triều đại sau đó sẽ hoàn thành. Những cống hiến của Khúc Thừa Dụ và Khúc Hạo thể hiện rõ tinh thần tự chủ của nhân dân Việt Nam, cũng biểu lộ quyết tâm lớn thoát khỏi ách thống trị của chính quyền ngoại tộc. Công cuộc đấu tranh vì nền độc lập tự chủ đến đây đã giành được thắng lợi căn bản. Bộ mặt chính trị - xã hội nước Việt Nam cổ từ đầu thế kỷ X đã đổi mới. Tất cả những sự kiện và nhân vật lịch sử nối tiếp nhau cho đến thế kỷ thứ X đã liên tục bồi đắp một tinh thần chính trị rộng khắp, đẩy mạnh xu hướng quân sự hóa ở các địa phương; cũng chính trong bối cảnh đó những tiền đề cùng nỗ lực xây dựng một nhà nước có tính dân tộc với quyền lực trung ương mạnh cũng được thiết lập. Điều đó đã tăng thêm lòng tin của toàn thể nhân dân từ trên xuống dưới vào tương lai độc lập, do đó nâng cao quyết tâm bảo vệ đất nước trước nạn ngoại xâm. Hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nam Hán do Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền lãnh đạo đầu thế kỷ X có ý nghĩa lịch sử to lớn; nó chứng tỏ sự trưởng thành của ý thức dân tộc Việt Nam, sự lớn mạnh của nhân dân Việt Nam về trí tuệ và khả năng đánh thắng quân xâm lược, thể hiện sức mạnh trỗi dậy của cả dân tộc, của chiến tranh yêu nước trong những giờ phút quyết định của cuộc chiến đấu giành quyền tự chủ đất nước. Trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, vận mệnh của đất nước, của dân tộc trải qua những thử thách cực kỳ hiểm nguy. Trong cuộc đấu tranh trường kỳ vì nền tự chủ đó, tinh thần yêu nước, ý chí quật cường và sức mạnh chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam ngày càng được củng cố và phát triển. Trải qua các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan và nền tự chủ của họ Khúc, ý thức dân tộc Việt Nam từng bước trưởng thành; chiến công năm 931 của Dương Đình Nghệ và đặc biệt là chiến thắng Bạch Đằng năm 988 phản ánh sức mạnh trỗi dậy của nền văn hóa giữ nước của dân tộc Việt Nam nhằm kết thúc thắng lợi cuộc đấu tranh vì nền độc lập tự chủ của nhân dân ta trải qua các thời kỳ. Chính ý chí quyết tâm giành lại nền độc lập, trở lại với "nghiệp Hùng" lưu tồn và càng vun đắp bằng xương máu trong nhiều thế hệ đã trở thành sức sống lâu bền, không thế lực nào, hoàn cảnh nào làm mai một. Chính giá trị tinh thần ẩy là nguồn gốc sâu xa nhất để dân tộc Việt Nam thoát khỏi đêm trường nô lệ, thảm họa hơn một nghìn năm bị đô hộ. Thế kỷ X xứng đáng là thế kỷ bản lề với bao sự kiện lịch sử quân sự trọng đại. Họ Khúc giành quyền tự chủ (905), hai lần đánh thắng giặc Nam Hán (931, 938). Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, xây dựng nhà nước tập quyền đầu tiên, đặt các quan văn võ, đặt ra nghi lễ triều đình, thể hiện nền độc lập tự chủ của nước nhà, thực sự chấm dứt một nghìn năm Bắc thuộc. Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên "loạn 12 sứ quân", thống nhất giang sơn, lập triều Đinh (969-979), đặt quốc hiệu mới, xây dựng kinh thành Hoa Lư. Đông đảo nhân dân ủng hộ Đinh Bộ Lĩnh, tôn ông là Vạn Thắng Vương, thể hiện tinh thần dân tộc, ý chí độc lập thống nhất quốc gia, coi giang sơn - đất nước Việt Nam là một mối. Lê Hoàn xây dựng nhà nước Tiền Lê (980-1009) và đánh tan cuộc tiến công xâm lược của nhà Tống (981), bảo vệ vững chắc nền độc lập tự chủ. Những sự kiện đó nói lên sự trưởng thành của tinh thần làm chủ đất nước của nhân dân Việt Nam, ý thức bảo vệ nền độc lập và thống nhất đất nước của dân tộc Việt. Trong đó, cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược do Lê Hoàn lãnh đạo đã khẳng định chủ quyền quốc gia, tạo điều kiện đưa đất nước bước vào thời kỳ phục hưng dân tộc và phát triển mạnh mẽ dưới các vương triều Lý (1009-1226), Trần (1226-1400), Hồ (1400-1407) và Lê Sơ (1428-1527). Từ thời Lý, công cuộc xây dựng đất nước được tiến hành trên quy mô lớn. Nước Đại Việt thời Lý - Trần - Lê Sơ với kinh đô Thăng Long, là một quốc gia thịnh vượng ở châu Á. Đây là một trong những thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của đất nước Việt Nam, được tích sứ mệnh danh là kỷ nguyên văn minh Đại Việt, kỷ nguyên của nền văn hóa Thăng Long nổi tiếng. Việc dời kinh đô từ Hoa Lư ra Thăng Long là bước chuyển quyết định và dứt khoát trung tâm phát triển của đất nước từ vùng núi đồi hiểm trở đến vùng đồng bằng rộng lớn - vùng đất quan trọng có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quốc gia độc lập, hùng cường. Bước chuyển dịch này như một mốc son khẳng định sự trưởng thành của ý thức dân tộc Việt Nam, một dân tộc đang vươn mình đứng dậy sau cả thiên niên kỷ bị đô hộ với chí lớn "Nam quốc sơn hà Nam đế cư". Trên một phương diện khác, sự chuyển dịch từ trung tâm quân sự Hoa Lư ra trung tâm kinh tế Thăng Long cũng cho thấy một triết lý phát triển sẽ làm nên những thế kỷ vàng son kế tiếp của dân tộc. Chính từ đó, nền chính trị nặng tính quân sự phòng thủ sẽ chuyển sang giai đoạn chính trị tự chủ ổn định vốn là nền tảng cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Nước Đại Việt độc lập, đang vươn lên xây dựng một quốc gia ngày càng có uy tín trong vùng, thì ở phương Bắc xuất hiện những thế lực bành trướng, xâm lược lớn mạnh, nạn ngoại xâm vẫn thường xuyên đe dọa. Vừa dựng nước vừa giữ nước là hai mặt không thể tách rời của nhân dân Việt Nam, xuyên suốt lịch sử Việt Nam. Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, không có thế kỷ nào dân tộc Việt Nam không phải chống ngoại xâm. Trong năm thế kỷ phục hưng đất nước, quân dân Đại Việt đã nhiều lần cầm vũ khí đánh giặc giữ nước và lập nên bao chiến công hiển hách. Đó là hai lần kháng chiến chống Tống dưới thời Tiền Lê (981) và thời Lý (1075-1077) do Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt lãnh đạo; ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên (1258, 1285, 1287-1288) dưới thời Trần với vị thống soái kiệt xuất Trần Quốc Tuấn; đó là cuộc kháng chiến chống Minh dưới triều Hồ (1406-1407); là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo, lật đổ ách thống trị của nhà Minh, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ông cha ta đã sớm biết đoàn kết để giữ nước, đã sớm gắn quyền lợi của Tổ quốc với quyền lợi của gia đình và bản thân, gắn bó nước với nhà, làng với nước trong mối quan hệ keo sơn bền chặt. "Nước mất thì nhà tan", câu nói đó đã có từ lâu đời và nói lên ý thức của nhân dân Việt Nam. Ý thức đấu tranh vì độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ trong giai đoạn này đã phát triển cao độ. Kẻ thù dân tộc là những thế lực xâm lược cực kỳ lớn mạnh như nhà Tống, đế chế Mông - Nguyên và nhà Minh đều có quân hùng tướng giỏi; nhưng quân và dân Việt Nam quyết không sợ, đã quyết tâm kháng chiến và kháng chiến thắng lợi. Người Việt đã dám đánh, biết đánh và quyết thắng những kẻ thù lớn mạnh. Thắng lợi của quân và dân Việt Nam thời Lý trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược là kết quả của một bước phát triển vượt bậc của dân tộc Việt Nam về mọi mặt - tinh thần, vật chất và nghệ thuật tổ chức kháng chiến. Xuất phát từ những quan điểm quân sự đúng đắn, nhà Lý đã tiến hành một cuộc kháng chiến với tinh thần chủ động, với tư thế đạp lên đầu thù, khí phách hiên ngang và ý thức sâu sắc về quyền bất khả xâm phạm của dân tộc Việt Nam làm chủ đất nước và vận mệnh của mình. Bài thơ thần bên sông Như Nguyệt, được coi là tuyên ngôn chính trị của nước Việt mới, đã nói lên khí phách, tư thế và quyết tâm của dân tộc Việt Nam thủa ấy: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư, Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư"2 Đó là một bước phát triển mới của tinh thần tự tôn dân tộc, của tư tưởng vì độc lập, tự do. Bằng bài thơ đó, dân tộc Việt Nam tuyên bố khẳng định quyền độc lập thiêng liêng và quyền bình đẳng của mình, cảnh cáo nghiêm khắc kẻ xâm lược. Tinh thần đó, khí phách đó là nhân tố quan trọng làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến. Trong vòng 30 năm(1258-1288), dân tộc Việt Nam đã ba lần đương đầu với những đạo quân xâm lược hùng mạnh bậc nhất của đế chế Mông - Nguyên đã và đang chiến thắng khắp nơi trên thế giới. Mỗi lần xâm lược, quy mô và mức độ chiến tranh lại càng lớn, ác liệt hơn; nhưng mỗi lần kháng chiến, dân tộc Việt Nam lại càng vững vàng, kiên cường, sáng tạo và thắng lợi càng vang dội hơn. Cuộc kháng chiến chống xâm lược hồi thế kỷ XIII là một bản anh hùng ca bất hủ, là sự thể hiện sâu sắc và rực rỡ lòng yêu nước, khí phách anh hùng, trí thông minh sáng tạo và sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Từ mọi tầng lớp xã hội, từ các thành phần dân tộc và các lứa tuổi khác nhau, qua kháng chiến, đã xuất hiện bao con người và sự tích anh hùng tiêu biểu cho phẩm chất cao quý của dân tộc. Cuộc kháng chiến đời Trần, do đó, đã đạt đến trình độ của một cuộc chiến tranh nhân dân chống ngoại xâm. Người vận dụng thiên tài chiến lược, chiến thuật cuộc chiến tranh nhân dân đó chính là nhà quân sự lỗi lạc Trần Quốc Tuấn. Với tri thức quân sự uyên bác kết hợp với tinh thần yêu nước nồng nàn, ông đã góp phần lớn lao vào việc tổ chức và lãnh đạo kháng chiến, đưa khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam tiến bước vượt bậc. Những quy lý về tổ chức quân sự từ trung ương đến địa phương cũng như hoạt động đào tạo quân đội quốc gia của ông sẽ là chuẩn mực cho nhiều thế kỷ sau đó. Trần Quốc Tuấn là tấm gương tiêu biểu cho tinh thần, ý chí quyết chiến quyết thắng trước kẻ thù lớn mạnh. Trước họa xâm lăng, ông luôn đặt lợi ích của dân tộc, của đất nước, của muôn dân lên trên hết - đó là nhận thức tiền đề cho tư duy về vận động chiến tranh và lực lượng tiến hành chiến tranh. Sức mạnh của cả nước, ý chí chiến đấu của toàn dân đã được ông và triều đình nhà Trần huy động và phát huy, làm nêncác chiến công oanh liệt ở Đông Bộ Đầu, Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp..., nhất là chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, đã tiêu diệt hàng chục vạn quân xâm lược, khiến kẻ thù phải khiếp sợ, không dám xâm phạm đến nước Việt Nam nữa. Chính vì thế mà rất nhiều quan điểm tư tưởng quân sự tiến bộ đã nảy sinh và phát triển trong triều đại này. Từ thế hệ này qua thế hệ khác, ngọn lửa chiến tranh vì đại nghĩa đã tôi luyện truyền thống yêu nước và ý chí độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam. Trước họa xâm lăng, thái độ duy nhất của toàn dân, của cả nước là quyết đứng lên chiến đấu "quét sạch nó đi". Lời tuyên bố đanh thép của Trần Thủ Độ vào lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo" (1258); những tiếng hô: "Quyết đánh" của các bô lão vang lên trong Hội nghị Diên Hồng mùa Đông năm Giáp Thân (1284); lời thề "Sát Thái" (giết giặc Mông – Thát) trên cánh tay mỗi tướng lĩnh và quân sĩ nhà Trần (1285); tinh thần quyết chiến của Trần Quốc Tuấn: "Bệ hạ muốn hàng trước hết hãy chém đầu tôi đi đã" (1287); tinh thần chiến đấu của Lê Tần, Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản3, v.v. trong kháng chiến chống Mông - Nguyên là ý chí, khí phách của toàn quân, toàn dân, là tiếng nói chung của cả dân tộc... Dưới thời Trần, lòng tự hào, tinh thần tự tôn dân tộc thể hiện rõ trong nhiều tác phẩm văn học và sử học, như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, bài thơ Cối kê cựu sự... của vua Trần Nhân Tông, Đoạt sáo Chương Dương độ của Trần Quang Khải, bài Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu hay sách Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, v.v.. Tư tưởng, lý luận quân sự của Trần Quốc Tuấn thể hiện nổi bật trong Hịch tướng sĩ trong Binh thư yếu lược, Vạn Kiếp tông bí truyền thư và trong lời căn dặn của ông về kế sách giữ nước trước vua Trần Anh Tông năm 1300. Không chỉ tỏ rõ trong thơ văn, trong các bộ sử, mà cả trong các tác phẩm còn đậm chất thần thoại, cổ tích, như Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái,... Tư duy, tư tưởng quân sự thời Lý - Trần phát triển ở tầm cao mới. Đầu thế kỷ XV, dân tộc Việt Nam một lần nữa phải đứng trước hiểm họa bị diệt vong bởi thế lực bành trướng, xâm lược phương Bắc. Nhà Minh đã đánh tan lực lượng kháng chiến của nhà Hồ và đặt ách đô hộ trên đất nước Việt Nam. Cuộc chiến tranh giữ nước do triều Hồ lãnh đạo cũng như nhiều cuộc khởi nghĩa chống xâm lược trước khởi nghĩa Lam Sơn bị thất bại không phải bấy giờ nhân dân Việt Nam thiếu ý thức đấu tranh vì độc lập, tự do; mà chủ yếu bởi những người lãnh đạo không có một đường lối chiến lược và cách đánh đúng đắn, hoặc do bản thân họ chưa đủ uy tín để tập hợp sức mạnh cả nước đánh giặc. Tuy phải chiến đấu đơn độc, thiếu sự sát cánh của nhân dân và đã chịu thất bại cay đắng, nhưng cha con Hồ Quý Ly và các tướng sĩ nhà Hồ cũng đã thể hiện một tinh thần quyết tâm kháng chiến đến cùng. Giặc Minh đánh bại cuộc kháng chiến của nhà Hồ trong vòng 6 tháng (11-1406 - 6-1407), nhưng phải mất hơn 8 năm (1407-1414) chúng mới bình định được phong trào kháng chiến tự phát của nhân dân Việt Nam. Điều này nói lên tinh thần quật khởi, tư tưởng, ý chí quyết tâm đánh giặc của nhân dân Việt Nam. Sử cũ của ta chép rằng: "Lúc ấy quân Minh tham lam sách nhiễu không biết thế nào là cùng, tên Mã Kỳ làm nhiều việc phi pháp, bắt dân nộp châu báu quá nhiều, dân không sao kham được khổ sở. Vì thế lòng dân náo động, binh lính bốn phương nổi lên, mà người Minh không thể nào chống lại được"4. Sử nhà Minh (Minh sử) thì cho rằng: "Người Giao Chỉ vốn thích làm loạn" và thừa nhận lúc đó "dân tình náo động", "cường hào các nơi nổi lên làm loạn"5, "giặc cướp nổi lên như ong. Gọi là dẹp yên thì chỉ có một thành Giao Châu mà thôi"6. Cuộc khởi nghĩa này bị đàn áp thì cuộc khởi nghĩa khác lại dâng lên, phong trào tiếp diễn một cách liên tục và chĩa mũi nhọn tiến công vào chính quyền đô hộ của nhà Minh. Suốt thời gian đô hộ, quân Minh luôn luôn như ngồi trên đống lửa. Trong cuộc đấu tranh đó của dân tộc, xuất hiện biết bao tấm gương hy sinh và hành động yêu nước tiêu biểu cho khí phách anh hùng của dân tộc, như Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Cảnh Dị... dù bị thất bại, vẫn giữ trọn tiết tháo của người anh hùng. Với lòng yêu nước và chí căm thù sôi sục, nhân dân đã liên tiếp nổi đậy đấu tranh. Biết bao cuộc khởi nghĩa đã bị nhấn chìm trong biển máu, nhưng lòng yêu nước và chí căm thù vẫn rực cháy trong tâm can mọi người. Ngay sau khi đánh bại lực lượng kháng chiến của nhà Hồ, quân Minh đã phải đối phó thực sự với một loạt các cuộc khởi nghĩa rộng khắp. Mặc dù phần lớn các cuộc khởi nghĩa này đều bị đàn áp, nhưng phong trào đã thể hiện ý thức dân tộc, tư tưởng, quyết tâm chống ngoại xâm giành độc lập của nhân dân Việt Nam. Tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập, ý chí quật cường, bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân vẫn nung nấu và bùng cháy dữ dội khi Lê Lợi phát động cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh Hóa. Năm 1416, tại núi rừng Lam Sơn (Thọ Xuân, Thanh Hóa), Lê Lợi cùng 18 người bạn chiến đấu thân tín nhất làm lễ tuyên thệ nguyện một lòng sống chết vì sự nghiệp đánh giặc cứu nước. Lời thề đó đặt cơ sở đầu tiên cho việc tổ chức cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) đã khắc phục được những nhược điểm và sai lầm của những cuộc khởi nghĩa trước đây, tập hợp được đông đảo những người yêu nước thuộc mọi tầng lớp xã hội, từng bước đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi. Do mục đích chiến đấu chính nghĩa, hợp với lòng người, nên "một khi cờ nghĩa mới phất, bốn phương nổi dậy như ong"7 "quân đi đến đâu nghĩa thanh vang dậy, dân chúng bốn phương dắt díu nhau mà đến theo", "chật đất người theo, đầy đường rượu bày, dân chúng kéo đến như đi chợ"8, "họ tranh nhau đến cửa quân, nguyện liều chết đánh thành diệt giặc"9. Tuy khác nhau về thân phận, khác nhau về thành phần xuất thân và chức vị, nhưng tình yêu quê hương đất nước, mục đích chiến đấu cao cả vì độc lập là sợi dây vô hình thắt chặt mối quan hệ trong hàng ngũ nghĩa quân. Mọi người "hết thảy đều chung một lòng, trên dưới đều cùng một dạ". Tuy là "manh lệ bốn phương tụ họp", nhưng lại có lòng "phụ tử một dạ"10, "ai ai cũng mến vua mà liều chết", "ai ai cũng muốn ra sức đền ơn"11. Từ miền núi rừng Thanh Hóa, khởi nghĩa Lam Sơn đã dần phát triển thành trung tâm của phong trào đấu tranh trong phạm vi cả nước, thành một cuộc chiến tranh giải phóng có tính chất nhân dân rộng rãi. Tinh thần dân tộc, tính chất yêu nước và chính nghĩa, sự tham gia ủng hộ nhiệt tình và đông đảo của toàn dân, đó là sức mạnh tinh thần và vật chất của cuộc khởi nghĩa và cũng là nguồn gốc sâu xa của mọi thắng lợi của cuộc khởi nghĩa. Sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn trước hết là sức mạnh của tinh thần yêu nước và chí căm thù giặc sục sôi, là sức mạnh của tinh thần chiến đấu ngoan cường, cứu dân cứu nước. Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã khơi dậy tinh thần dân tộc, biết thổi bùng ngọn lửa yêu nước của nhân dân; có đường lối chiến lược, chiến thuật đúng đắn, nên cuộc chiến tranh giải phóng đã giành được thắng lợi. Cuộc chiến đấu anh dũng, lâu dài của quân và dân Việt Nam đầu thế kỷ XV đã lật đổ hoàn toàn ách thống trị của phong kiến nước ngoài, giành lại độc lập dân tộc sau 20 năm dưới ách thống trị tàn bạo của ngoại xâm. Một nước nhỏ bị nước lớn trong lúc cường thịnh chinh phục và nô dịch, đã tự vươn lên giải phóng bằng những chiến thắng quân sự hết sức lẫy lừng. Điều đó chứng tỏ rằng, đến thế kỷ XV, dân tộc Việt Nam đã trưởng thành, tự tin ở chính mình; người Việt đã có ý thức sâu sắc về chủ quyền lãnh thổ, có sức sống phi thường và năng lực sáng tạo phong phú. Tư tưởng quân sự của dân tộc đã có bước phát triển, trưởng thành trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Bình Ngô đại cáo thể hiện lòng tự hào dân tộc, ý chí quyết chiến quyết thắng và tinh thần độc lập cao cả của dân tộc. Đó là một thiên anh hùng ca tuyệt vời, một bức tranh sinh động và trung thực về hình ảnh của một dân tộc anh hùng đang vươn lên, quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do và toàn vẹn lãnh thổ; một dân tộc đã có hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, đã có năm thế kỷ sống độc lập hoàn toàn với tư cách là một quốc gia tiên tiến ở châu Á, một dân tộc anh hùng mà không một thế lực xâm lược nào có thể khuất phục nổi: "Xét như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Bờ cõi núi sông đã riêng, Phong tục Nam - Bắc cũng khác. Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương, Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, Mà hào kiệt không bao giờ thiếu"12. Trong Thư dụ thành Xương Giang, Nguyễn Trãi cũng nêu rõ: "Nước An Nam ta tuy ở ngoài Ngũ Lĩnh mà có tiếng là một nước thi thư, những bậc mưu trí, tài thức đời nào cũng có"13. Ông nói: "Nước Nam xưa bị phương Bắc xâm chiếm, là từ Tần, Hán trở đi, trời đã phân cách Nam - Bắc có núi cao, sông lớn bờ cõi rành rành, dẫu mạnh như Tần, giàu như Tùy nào có thể dùng thế, lực được đâu"14. Tinh thần tự tôn dân tộc của Nguyễn Trãi cùng lúc lại cho ta thấy một hiện thực lịch sử đáng lưu ý: mâu thuẫn giữa tinh thần dân tộc và nhu cầu tổ chức một nhà nước có tính "chuyên nghiệp" với một bộ máy quan lại hoàn chỉnh. Những thế kỷ trước đó, những nỗ lực từ phía thượng tầng xã hội nhằm tạo lập sự cách biệt với phương Bắc tuy có nhưng chưa trở thành những tuyên ngôn chính trị hay chính sách cụ thể. Thực vậy, trước thế kỷ XV, đa phần nỗ lực từ thượng tầng xã hội vẫn đang đặt vào các hoạt động kiến tạo nhà nước cũng như điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước với địa phương, vốn là vướng mắc của một nền tảng xã hội phân tán và nền tảng chính trị tản quyền. Ý thức chính trị về cương vực và dân tộc tuy đã tồn tại, nhưng nhất thiết cần phải trải qua giai đoạn hiện thực hóa với sự sinh thành một chính quyền dân tộc mạnh, có khả năng đại diện cho toàn thể dân tộc và có quyền lực chính trị thống nhất đối với các thành phần của dân tộc - đây là bước phát triển bắt buộc của mọi nền văn minh15. Nước Việt Nam thời Lê Sơ, trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa, khoa học... đều phát triển rực rỡ. Chế độ của triều Lê là chế độ quân chủ tập quyền theo mô hình Nho giáo, nhưng xây dựng trên tinh thần và ý thức dân tộc sâu sắc. Ý thức tự tôn, tự lập, tự cường dân tộc càng trở nên mạnh mẽ. Tư tưởng chính trị về tư cách một dân tộc được thể hiện rõ ràng nhất qua tư tưởng về cương vực - lãnh thổ. Vua Lê Thánh Tông luôn thể hiện quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, thường xuyên nhắc nhở các quần thần, tướng lĩnh không được tự tiện vứt bỏ một thước núi, một tấc sông của tổ tiên để lại16. Mọi đe dọa đến an ninh và lãnh thổ, chủ quyền quốc gia đều bị trừng trị một cách kiên quyết. Từ thế kỷ XVI, giai cấp phong kiến Việt Nam suy yếu dần, nạn cát cứ, nội chiến kéo dài. Các tập đoàn phong kiến xung đột vì quyền lợi riêng, gây khổ đau cho nhân dân, thế nước vì thế suy yếu. Và như một quy luật "trong không ấm, ngoài không yên", khi thế nước suy yếu, lòng dân hoang mang, cũng chính là lúc hiểm họa ngoại xâm lại rình rập. Tuy nhiên, trong các thế lực phong kiến suy tàn lúc ấy, cũng có những người vẫn giữ được tinh thần tự tôn dân tộc. Khi nhà Mạc và nhà Lê đánh nhau tranh giành quyền thống trị, có người trong thế lực nhà Mạc định sang cầu cứu nhà Minh để đánh bại nhà Lê, thì chính Mạc Ngọc Liễn - một tướng cao cấp của nhà Mạc trước khi chết đã dặn lại: "Nhất thiết không được mời nhà Minh vào nước mình để đến nỗi dân ta phải lầm than"17. Ông phân tích rằng: "Nếu nhà Lê đánh bại được nhà Mạc, giữ được đất đai nước Việt Nam, đó là trời ủng hộ nhà Lê, khi trời đã ủng hộ nhà Lê thì phải để cho nhà Lê làm chủ đất nước Việt Nam, nhà Mạc không thể dựa vào việc quân Minh vào đánh như Lê để hòng đưa nhà Mạc làm chủ đất nước được. Đưa quân Minh vào, không những nhà Lê có thể bị nhà Minh đánh bại, ngay nhà Mạc cũng bị nhà Minh thống trị mà thôi, kết quả dân tộc Việt Nam sẽ mất quyền tự chủ"18. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, sau khi đánh tan hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn, khôi phục quốc gia thống nhất, tiến lên làm nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập dân tộc. Đầu năm 1785, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã đánh trận Rạch Gầm - Xoài Mút nổi tiếng, tiêu diệt gần 4 vạn quân xâm lược Xiêm (Thái Lan). Với chiến công này, nghĩa quân Tây Sơn cùng nhân dân Nam Bộ đã nêu cao truyền thống anh hùng và ý chí quyết tâm chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc. Năm 1788, trước khi xuất quân đánh quân Thanh xâm lược, người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ đã tuyên bố một nguyên tắc hiển nhiên trong quan hệ các quốc gia - dân tộc: "Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao nấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị... Từ đời Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước Việt Nam, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không thể ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa binh, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Nam - Bắc riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời Minh đến nay, dân ta không đến nỗi khổ như thời nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi hại, được mất, đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng"19. Trong lời dụ tướng sĩ tại Thanh Hóa, Quang Trung - Nguyễn Huệ đã nói lên quyết tâm sắt đá đánh tan quân ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc: "Đánh cho để dài tóc Đánh cho để đen răng. Đánh cho nó chích luân bất phản Đánh cho nó phiền giáp bất hoàn. Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ". Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Thanh xâm lược đầu xuân năm Kỷ Dậu (1789) là một trong những chiến công vĩ đại và hiển hách trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi đó thể hiện tinh thần và ý chí quyết chiến quyết thắng của nhân dân Việt Nam; ý thức dân tộc, tư tưởng độc lập tự chủ đạt đến một đỉnh cao mới. Chủ nghĩa yêu nước, tư tưởng độc lập tự chủ, bảo vệ chủ quyền quốc gia... là kết quả của cả một quá trình vừa dựng nước, vừa giữ nước: kết quả của bao nhiêu mồ hôi, xương máu mà lớp lớp các thế hệ người Việt Nam đã đổ xuống trên những dặm dài lịch sử nhiều nhọc nhằn và gian khó, nhiều thử thách cam go... Có lẽ cũng vì thế, khát vọng hòa bình luôn thẳm sâu trong tâm thức của người Việt Nam bên cạnh những tư tưởng anh hùng của dân tộc Việt Nam. II. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TINH THẦN YÊU NƯỚC VÀ Ý THỨC ĐỘC LẬP DÂN TỘC TỪ GIỮA THẾ KỶ XIX ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XX (1858-1945) Đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn thành lập, đổi tên nước là Việt Nam, đóng đô ở Phú Xuân (Huê). Trong nửa đầu thế kỷ XIX. các đời vua Gia Long, Minh Mạng đã ban hành và thực thi những chủ trương nhằm cải cách hành chính, củng cố nền thống nhất, mở mang văn hóa, giáo dục, thực hiện chính sách đồn điền, khai phá những vùng đất mới, xây dựng quân đội, thiết lập hệ thống phòng thủ ở các cửa biển, hải đảo và vùng biên ải để bảo vệ đất nước. Đất nước có những bước phát triển mới. Trên thế giới, bước sang thế kỷ XIX, các nước tư bản phương Tây, đặc biệt là Anh, Pháp, Mỹ đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, ráo riết chạy đua tìm kiếm thị trường và từng bước xâm chiếm thuộc địa. Phương Đông đầy quyến rũ trở thành đích hướng tới không gì ngăn được của tư bản phương Tây. Thời kỳ đóng cửa chỉ biết mình của châu Á đã qua. Những đội truyền giáo, những thương thuyền, hạm đội của tư bản Âu - Mỹ đã căng buồm, chĩa súng, tiến vào lục địa đông người, lắm của này. Vốn đã có dã tâm xâm lược Việt Nam từ rất sớm, đồng thời thông qua con đường truyền đạo, thương mại và do sự liên kết với các "cựu triều" chúa Nguyễn từ trước, tư bản Pháp đã tạo được một cơ sở chính trị - xã hội cùng những tri thức về văn hóa bản địa cần thiết ở Việt Nam. Kẻ thù dân tộc Việt Nam giờ đây không phải là một quốc gia phong kiến phương Đông nữa, mà là một cường quốc tư bản phương Tây hiện đại vượt bậc về phương thức sản xuất, có nền kinh tế phát triển, có quân đội mạnh được trang bị vũ khí kỹ thuật tiên tiến. Không phải triều Nguyễn không có tinh thần dân tộc và không nhìn thấy hiểm họa ngoại xâm đang rình rập, đe dọa tới độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nhưng thể thống nhất giữa tinh thần dân tộc và quyền lợi hoàng tộc vốn là một trong những nhân tố quan trọng bậc nhất tạo ra và nhân lên sức mạnh của đất nước từng được những vương triều tiến bộ trước đây gây dựng, bồi đắp bằng các chủ trương, biện pháp "thân dân" hợp lòng người thì giờ đây mối quan hệ đó trở thành một vấn đề không dễ và không thể giải quyết. Thật vậy, làm sao triều Nguyễn có thể vượt ra khỏi ranh giới lợi ích của nó; đặt lợi ích của đất nước lên trên lợi ích của tập đoàn cầm quyền trong khi có thể điều nó cần làm để tạo nên sức mạnh, đương đầu với kẻ thù xâm lược lại sẽ dẫn đến sự chấm dứt từng bước của cả một giai tầng? Vua Tự Đức cũng như một số triều thần nhà Nguyễn đã đối lập quyền lợi vương triều với quyền lợi tối cao của dân tộc, đã tìm cách kìm hãm phong trào chống Pháp của nhân dân Việt Nam; mặt khác, triều Nguyễn còn tin vào những biện pháp đối phó tiêu cực của mình. Đó là nguyên nhân khiến thực dân Pháp xúc tiến nhanh kế hoạch thôn tính Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử của mình, dân tộc Việt Nam phải đương đầu với họa xâm lược đến từ một nước công nghiệp phương Tây. Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, yêu cầu bảo vệ độc lập phải gắn liền với yêu cầu cải cách đưa đất nước thoát khỏi tình trạng chậm tiến, trì trệ của phương Đông. Một số trí thức Việt Nam yêu nước tiến bộ, có ý thức tự tôn dân tộc cao đã nhận thức được điều đó và đệ trình những bản điều trần canh tân đất nước, tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871), Đặng Huy Trứ (1825 - 1874), Nguyễn Lộ Trạch (1852 - 1895), Bùi Viện (1841 - 1878), Phạm Phú Thứ (1820 - 1884)...20. Nhưng triều Nguyễn bảo thủ đã khước từ mọi đề nghị canh tân, thực hiện chính sách đóng cửa, không tiếp xúc với tư bản phương Tây, trong khi đó lại thần phục triều đình phong kiến Mãn Thanh (Trung Quốc), đẩy đất nước vào tình trạng lạc hậu, bế tắc, dẫn đến tình trạng mất nước kéo dài. Việt Nam trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến trong suốt 80 năm. Giặc Pháp có thể khuất phục được triều đình nhà Nguyễn bạc nhược, song chúng không thể đè bẹp nổi ý chí phản kháng của nhân dân Việt Nam. Trong hàng ngũ tướng lĩnh, quan lại triều đình cũng không ít tấm gương chiến đấu như Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu... đã nêu gương quyết tâm chỉ huy quân đội chiến đấu chống thực dân Pháp đến cùng và anh dũng hy sinh để bảo vệ thành Hà Nội. Khắp nơi, từ Nam ra Bắc, từ miền xuôi lên miền ngược, quân Pháp vấp phải một phong trào kháng chiến sôi nổi, bền bỉ với tinh thần: "Bao giờ nước Nam hết cỏ thì mới hết người Nam đánh Tây"21. Ngay từ khi quân Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhiều đội nghĩa binh đã chủ động kéo tới phối hợp chiến đấu cùng với quân triều đình, tiêu biểu là các đội quân do Phạm Gia Vĩnh, Nguyễn Huy Hiệu... chỉ huy chống giặc rất dũng cảm. Hướng về Quảng Nam - Đà Nẵng, phong trào "Nam tiến" xuất hiện ở một số địa phương miền Bắc. Đội nghĩa binh do Phạm Văn Nghị chỉ huy từ Bắc hành quân vào Nam đánh giặc. Mặc dù triều đình không chấp thuận yêu cầu, nhưng nghĩa cử của đoàn quân Nam tiến đầu tiên này thể hiện ý chí: Đất nước Việt Nam là một, hễ đâu có giặc thì cứ đi, cứ đánh để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Sau 5 tháng, kế hoạch "đánh nhanh thắng nhanh" của quân xâm lược tại Đà Nẵng bị thất bại (1858). Liên quân Pháp - Tây Ban Nha phải quay vào tiến công Gia Định (tháng 2-1859). Tiếp theo trận Sơn Trà - Đà Nẵng là cuộc chiến đấu dũng cảm của nhân dân Nam Bộ. Cũng như nhân dân cả nước thời đó, nhân dân Nam Bộ, chủ yếu là nông dân "việc cày, việc cuốc, việc cấy tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó"22, nhưng đã rất kiên cường đứng lên chống Pháp. Nhiều cuộc khởi nghĩa do các văn thân, sĩ phu yêu nước lãnh đạo đã bùng nổ và phát triển mạnh mẽ ở khắp Nam Bộ. tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa Trương Định (Gò Công), Nguyễn Trung Trực (Tân An), Võ Duy Dương (Đồng Tháp), Nguyễn Hữu Huân (Mỹ Tho), Trương Quyền (Tây Ninh), Trần Văn Thành (An Giang), Lê Đình Đường (Trà Vinh), Lâm Lễ (Cần Thơ)... Nhân dân các tỉnh miền Nam đã quyết tử vì nền độc lập, viết nên những trang sử hào hùng đầu tiên của dân tộc Việt Nam chống chủ nghĩa tư bản phương Tây xâm lược góp phần làm thất bại ý đồ đánh nhanh thắng nhanh của giặc Pháp. Tinh thần Nam Bộ kháng chiến tiếp tục được phát huy mạnh mẽ khi thực dân Pháp mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược ra cả nước. Ngay cả những năm 1873 - 1874 và 1882 - 1884, khi quân Pháp mở rộng đánh chiếm ra đất Bắc, nhân dân vùng đồng bằng Bắc Bộ đã đứng lên chống Pháp. Vì thế, thực dân Pháp rất hoang mang lo sợ và phải mất gần 30 năm (1858 - 1884) quân Pháp mới chiếm được Việt Nam. Từ khi quân Pháp gây chiến tranh xâm lược, nội bộ vua quan triều Nguyễn luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai phái chủ chiến và chủ hòa. Với tinh thần dân tộc cao, lực lượng chủ chiến đòi thay đổi quyết sách, quyết tâm kháng chiến, nhưng đều bị từ chối và trấn áp; phái chủ hòa do vua Tự Đức cầm đầu thắng thế. Tuy vậy, phe chủ chiến do Tôn Thất Thuyết cầm đầu vẫn chuẩn bị lực lượng chống Pháp, nuôi hy vọng khôi phục chủ quyền dân tộc khi thời cơ đến. Cuộc nổi dậy ở kinh thành Huế vào đêm mùng 4 rạng sáng mùng 5-7-1885 đã bị thực dân Pháp đàn áp. Vua Hàm Nghi cùng Tôn Thất Thuyết buộc phải lánh ra căn cứ Tân Sở (Quảng Trị) và xuống chiếu Cần Vương. Một phong trào chống Pháp với danh nghĩa Cần Vương dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước nổ ra sôi nổi trên phạm vi rộng lớn khắp Bắc - Trung - Nam, kéo đi 12 năm liền (1885 - 1896); nhiều cuộc khởi nghĩa đã diễn ra cùng một lúc trong nhiều địa phương và kéo dài trong nhiều năm. Tiêu biểu cho các phong trào kháng Pháp nửa cuối thế kỷ XIX là các cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng và Cao Thắng ở Hà Tĩnh (1885 - 1896), khởi nghĩa Ba Đình của Đinh Công Tráng (1886 - 1887) và Hùng Lĩnh của Tống Duy Tân (1886 - 1892) ở Thanh Hóa, khởi nghĩa Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng Yên (1885 - 1889), khởi nghĩa Nguyễn Quang Bích ở Hưng Hóa (1885 - 1889) và cuộc khởi nghĩa của nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1885 - 1913). Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược nửa cuối thế kỷ XIX diễn ra rất kiên cường, dũng cảm. Bằng nhiều hình thức đấu tranh và khởi nghĩa vũ trang, nhân dân Việt Nam do các sĩ phu yêu nước lãnh đạo, dựa vào thế hiểm của núi rừng, sông suối, đầm lầy; dựa vào làng xã mà lực lượng chủ yếu là những người nông dân vừa chống địch càn quét, vừa chủ động tìm những sơ hở của chúng để tập kích, đánh úp đồn giặc. Thực dân Pháp phải vất vả điều quân từ nơi này sang nơi khác, bị động đối phó và chịu thiệt hại nặng nề. Cho dù các cuộc khởi nghĩa vũ trang đó cuối cùng đều bị thất bại, song sự tồn tại và phát triển của nó thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí quật khởi của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập, chủ quyền dân tộc tô thắm truyền thống đánh giặc giữ nước của nhân dân Việt Nam. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, kinh tế, xã hội và văn hóa Việt Nam trải qua nhiều biến đổi sâu sắc. Do tác động của những thay đổi trong nước và những ảnh hưởng từ bên ngoài, phong trào yêu nước cũng chuyển biến theo những xu hướng, tư tưởng mới. Cần nhấn mạnh rằng, những xu hướng mới và các giai tầng mới xuất hiện trong xã hội báo hiệu những nền tảng mới cũng như sự phát triển của ý thức dân tộc và ý thức chính trị. Đầu thế kỷ XX, phong trào chống Pháp phát triển lên một bước mang màu sắc dân chủ tư sản với những hoạt động sôi nổi của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Đông Kinh Nghĩa Thục, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ, khởi nghĩa của binh lính Thái Nguyên, v.v.. Phong trào Đông Du (1904 - 1909) do Phan Bội Châu chủ xướng là sự khởi đầu cuộc chuyển hướng quan trọng trong phong trào đấu tranh yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược. Phan Bội Châu chủ trương dùng phương thức bạo động vũ trang để giành lại độc lập, chủ quyền dân tộc. Tuy nhiên, cùng với bạo động vũ trang, ông cũng rất coi trọng việc vận động duy tân đất nước, cải cách chính trị, kinh tế, văn hóa để tự cường dân tộc. Chính vì vậy, ông và các đồng chí của mình nỗ lực vận động đưa thanh niên sang Nhật Bản học tập để mong về nước đánh đuổi thực dân Pháp. Duy Tân hội23 được thành lập năm 1904 với mục đích "cốm sao khôi phục được Việt Nam, lập ra một chính phủ độc lập". Ngoài ra, ông cũng đồng thời sử dụng văn thơ cách mạng "thức tỉnh quốc dân", góp phần nâng cao lòng yêu nước, ý thức dân tộc, chí căm thù giặc, truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc, lòng tin vào khả năng chiến đấu và chiến thắng của dân tộc mình. Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục24 diễn ra sôi nổi ở Hà Nội do nhóm sĩ phu tiến bộ Lương Văn Can và Nguyễn Quyền lãnh đạo. Những hoạt động của tổ chức cách mạng này đã thúc đẩy tinh thần dân tộc, góp phần tích cực vào việc phát triển văn hóa. ngôn ngữ và văn tự của dân tộc Việt Nam. Phong trào Duy Tân (1906 - 1908) do Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng lãnh đạo ra đời ở Trung Kỳ, với mục đích là vận động cải cách văn hóa, xã hội, gắn với động viên lòng yêu nước, chí căm thù giặc, thực hiện đấu tranh cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang. Mặc dù phong trào Duy Tân có hai khuynh hướng cải cách ôn hòa và bạo động vũ trang, nhưng các sĩ phu tiến bộ và đông đảo nhân dân do lòng nhiệt tình yêu nước đều tán thành và hưởng ứng tất cả mọi biện pháp đấu tranh có lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ở các tỉnh Trung Bộ có các phong trào chống đi phu, chống sưu thuế và trừng trị bọn quan lại tay sai phản động. Thực chất đây là cuộc bạo động của nông dân, kết hợp đấu tranh chính trị với bạo động vũ trang, lan rộng ở khắp các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Thừa Thiên, Hà Tĩnh, Nghệ An và Thanh Hóa. Các phong trào nói trên, ngoài việc phát huy tinh thần yêu nước và truyền thống đấu tranh của dân tộc, còn tiếp thu được trào lưu tư tưởng tư sản phương Tây; đã được đông đảo quần chúng tham gia trên các mặt chính trị, quân sự, văn hóa, tư tưởng và trở thành một phong trào yêu nước rộng lớn với những nội dung, sắc thái mới. Với các hình thức đấu tranh mới như "bạo động", "xuất dương cầu viện", "cải cách văn hóa, xã hội", phong trào yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX đã góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và hòa nhập vào cao trào "Phương Đông thức tỉnh" như Lênin đã từng nói đến. Bấy giờ, ở các nước phương Đông, các nhà yêu nước đều thiên về vận động cải cách, nhưng ở Việt Nam cải cách không tách rời hoạt động vũ trang. Đấu tranh đòi hỏi cải cách phát triển tới bạo động vũ trang, cũng như đấu tranh vũ trang kết hợp với vận động cải cách đã tạo nên sức mạnh, tính phong phú, đa dạng của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Nổi bật trong phong trào đấu tranh vũ trang đầu thế kỷ XX là cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế. Những hoạt động của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám gây cho quân Pháp nhiều tổn thất và có ảnh hưởng rất lớn, thu hút sự chú ý của nhiều nhà yêu nước lúc đó như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, v.v.. Ở các địa phương trong nước, nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang khác, nhất là của đồng bào các dân tộc thiểu số, vẫn tiếp tục nổ ra mạnh mẽ. Đó là các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Văn Kiêm, Nguyễn Đình Nguyên (Hòa Bình), Giàng Tả Chay (Sơn La), Sùng Mi Chảng (Hà Giang), Trịnh Văn Cần, Lương Ngọc Quyến (Thái Nguyên), Thăng Mậu (Quảng Ninh), Nơ Trang Long (Tây Nguyên)... Những cuộc cuộc khởi nghĩa này tuy tồn tại không lâu nhưng đã thức tỉnh ý thức dân tộc, ý chí độc lập trong nhân dân, gây cho thực dân Pháp nhiều thiệt hại, nền thống trị của chúng không lúc nào yên. Tuy vậy, thời đại của tinh thần dân tộc dưới hình thức phong kiến, thời đại của khởi nghĩa địa phương chống ngoại xâm sẽ phải nhường chỗ cho thời đại mới, với những hình thức mới của tinh thần dân tộc: đảng chính trị, các hoạt động vận động quần chúng nhân dân, mặt trận chính trị, các tư tưởng cách mạng... Sự thất bại tất yếu của các cuộc khởi nghĩa chống Pháp đầu thế kỷ XX là ánh sáng bùng lên cuối cùng của nền phong kiến Việt Nam. Thất bại của phong trào Cần Vương25 vào cuối thế kỷ XIX chính là một thất bại tiêu biểu - thất bại của tư tưởng, ý thức hệ phong kiến, thất bại của một chế độ xã hội đã suy tàn. Nho giáo và hệ tư tưởng phong kiến mà nhà Nguyễn khôi phục đã tỏ ra bất lực và hết vai trò lịch sử trong bối cảnh mới của đất nước và thế giới. Một trong những bài học quý báu được rút ra là, trong điều kiện giai cấp cầm quyền đã bỏ rơi ngọn cờ vốn đã mục nát mà phong trào đấu tranh vẫn tiếp tục giương ngọn cờ ấy thì dù có cố gắng đến mấy cũng không thể thành công được. Thực vậy sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), với ảnh hưởng của việc khai thác thuộc địa và các trào lưu tư tưởng tư sản từ bên ngoài dội vào, ý thức dân tộc và phong trào yêu nước ở Việt Nam có những bước phát triển mạnh mẽ, có quy mô rộng lớn hơn, hình thức đấu tranh phong phú hơn và gồm nhiều xu hướng chính trị khác nhau. Tầng lớp tư sản dân tộc với phong trào chấn hưng nội hóa, thành lập Đảng Lập hiến đấu tranh chống chuyên quyền của tư bản Pháp, đòi tự do dân chủ. Giới trí thức tiểu tư sản với những hoạt động xuất bản, báo chí sôi nổi, đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân. Việt Nam Quốc dân Đảng theo tư tưởng dân chủ tư sản ra đời (1927), tổ chức cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930). Các phong trào chống Pháp tuy phát triển sôi nổi, rộng khắp và gây được tiếng vang lớn, nhưng cuối cùng đều bị đàn áp; nhiều người Việt Nam yêu nước bị bắn giết, giam cầm, tù tội hay bị lưu đày biệt xứ. Những phong trào yêu nước chống thực dân Pháp nói trên tuy đã biểu lộ một tinh thần dân tộc mạnh mẽ, nhưng rốt cuộc đều bị thất bại, bởi thiếu sự lãnh đạo của một lực lượng xã hội tiên tiến với những lãnh tụ có uy tín lớn, có đường lối phù hợp với khát vọng giải phóng dân tộc triệt để của dân tộc Việt Nam, với xu hướng mới của thời đại. Phong trào đòi tự do dân chủ sôi nổi của nhân dân Việt Nam đầu thế kỷ XX đứng trước sự khủng hoảng bế tắc "dường như bị chìm trong đêm tôi không có đường ra". Ý thức dân tộc và những giá trị yêu nước truyền thống bấy giờ vẫn là một động lực to lớn, nhưng chỉ với những nhân tố đó, quả thực dân tộc Việt Nam chưa thể giải đáp được bài toán thời đại: bằng con đường nào, phương thức nào, với lực lượng xã hội nào, các dân tộc bị áp bức có thể đánh bại được ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập, tự do? Thực vậy, các hình thức phong kiến và những lực lượng xã hội đại diện cho ý thức dân tộc, ý thức chính trị từ trước đều không phải là giải pháp cho tình thế mới của dân tộc. Đi tìm một con đường mới, một tư duy mới để giải phóng dân tộc là vấn đề cấp bách của phong trào cách mạng, của lịch sử Việt Nam giai đoạn này. Chính vì thế, sau khi phong trào Cần Vương và những cuộc khởi nghĩa nông dân thất bại, nhiều nhà yêu nước Việt Nam với tinh thần dân tộc mạnh mẽ đã hướng ra nước ngoài, hy vọng tìm ra con đường mới để tự giải phóng. Đó là con đường duy tân của Nhật Bản, con đường Cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc, con đường nghị viện tư sản ở các nước phương Tây. Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh là những nhân vật tiêu biểu cho xu hướng mới của con đường cứu nước kiểu tư sản, những nhà cách mạng dân tộc đại diện cho một lớp người Việt Nam yêu nước trong giai đoạn chuyển giao giữa hai thời đại và hai thế kỷ. Tư tưởng và hoạt động nhiệt huyết của các ông có ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển của ý thức dân tộc, với phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Thất bại của cuộc vận động yêu nước đầu thế kỷ XX chứng tỏ con đường dân chủ tư sản không phải là con đường cứu nước phù hợp với xu thế thời đại, với đòi hỏi của cách mạng Việt Nam. Những nhà yêu nước thuở ấy tuy có tinh thần và ý thức dân tộc cao và lòng yêu nước nhiệt thành, nhưng vẫn chưa nhìn thấy ánh sáng trong đêm tối nô lệ. Giữa lúc đó xuất hiện một xu hướng cách mạng mới do Nguyễn Ái Quốc khởi xướng và lãnh đạo, một nhân tố mới phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Vượt qua tầm nhìn và hạn chế của những người yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam yêu nước đầu tiên đã tìm ra con đường giải phóng đúng đắn cho giai cấp công nhân, cho nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Bằng trí tuệ và sự hoạt động tích cực của mình, Người đã kịp thời đáp ứng nhu cầu bức thiết của lịch sử. Nguyễn Ái Quốc rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám, nhưng không đi theo con đường của vị nào. Mang trong mình lòng yêu nước nồng nàn và tình yêu thương bao la đối với đồng bào cùng khổ, truyền thống quật cường của dân tộc, với hoài bão và tư duy vượt qua mọi lối mòn của những người đi trước, năm 1911, Nguyễn Ái Quốc (lúc đó là Nguyễn Tất Thành) đã rời Tổ quốc sang phương Tây để nhận thức thế giới, tìm hiểu tận gốc nền văn minh phương Tây để tìm một con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Năm 1919, nhân danh những người yêu nước Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã gửi tới Hội nghị Vécxây tám yêu sách đòi quyền tự do, dân chủ và bình đẳng dân tộc. Từ năm 1921 đến năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành một cuộc đấu tranh kiên trì, gian khổ trên phạm vi quốc tế cũng như trong nước. truyền bá quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường cách mạng Việt Nam do Người đề xướng vào công nhân, nông dân và những người Việt Nam có tinh thần yêu nước, đồng thời tích cực chuẩn bị về mọi mặt để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 6-1-1930, Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc triệu tập họp tại Cửu Long, Hương Cảng, Trung Quốc để thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản chung nhất. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với Chính cương, Sách lược, Điều lệ tóm tắt của Đảng là một bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc trở thành đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, của cách mạng Việt Nam do Người sáng lập và lãnh đạo. Những quan điểm tư tưởng quân sự mới phù hợp yêu cầu thời đại đã xuất hiện. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trở thành lãnh tụ của Đảng và của cả dân tộc. Cách mạng Việt Nam đã chuyển sang một kỷ nguyên mới. Được lý luận cách mạng soi đường, được một tổ chức tiên tiến lãnh đạo, phong trào yêu nước Việt Nam phát triển vượt bậc. Từ đây, tinh thần yêu nước, ý chí độc lập tự chủ của nhân dân Việt Nam được phát huy mạnh mẽ. Ý thức tự tôn, tự lập, tự cường được củng cố trên cơ sở niềm tin vững chắc vào sự nghiệp giải phóng, vào tiền đồ của dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, những truyền thống cao quý của dân tộc từ ngàn năm được kế thừa, phát huy cao độ và được nhân lên một trình độ mới, một chất lượng mới. Đảng đã kết hợp tinh thần cách mạng của giai cấp công nhân với truyền thống kiên cường, bất khuất, mưu trí, dũng cảm của dân tộc, tạo nên một khí thế cách mạng mới. Từ năm 1930 đến năm 1945, những cao trào cách mạng thới xuất hiện, trở thành những cuộc tổng diễn tập để tiến tới cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Ý thức dân tộc Việt Nam từng bước phát triển, trưởng thành. Nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra như khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940), khởi nghĩa Nam Kỳ (11-1940) và khởi nghĩa Đô Lương (1-1941) báo hiệu một thời kỳ cách mạng mới: thời kỳ những cuộc khởi nghĩa từng phần có thể nổ ra để chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa trong cả nước. Trong thời kỳ này, nhiều chiến sĩ cộng sản đã dấn thân vào con đường cách mạng, chấp nhận hy sinh, tù đày vì sự nghiệp cứu nước. Các liệt sĩ cách mạng Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai... đã "giữ vững chí khí chiến đấu" đến hơi thở cuối cùng. Biết bao chiến sĩ yêu nước đã hy sinh anh dũng vì nền độc lập. Ngày 27-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Mặt trận Việt Minh được thành lập, chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa. Đây là thời kỳ động viên quần chúng sôi nổi, mạnh mẽ, phát triển lực lượng chính trị sâu rộng ở nông thôn và thành thị, đồng bằng và rừng núi, kết hợp phát triển lực lượng vũ trang, chuẩn bị mọi mặt tiến tới Tổng khởi nghĩa. Ngọn lửa cách mạng bốc cao chưa từng thấy, tinh thần dân tộc được huy động mạnh mẽ. Những điều kiện chủ quan và khách quan đã hoàn toàn chín muồi. Đảng và Mặt trận đã lãnh đạo nhân dân chớp thời cơ, tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa bàn thắng. Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945 là thể hiện ý chí "Dù phải đốt cháy có dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được tự do độc lập". Những đoàn người đủ các tầng lớp, tay cầm cờ đỏ sao vàng, cùng vũ khí thô sơ, gậy gộc, dao kiếm, miệng hô những khẩu hiệu cách mạng, tràn lên áp đảo vũ khí và binh lính Nhật; đó là hình ảnh tiêu biểu của Cách mạng Tháng Tám. Trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, Đảng đã động viên toàn thể nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Nam, tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, trên nền tảng liên minh công nông vững chắc, nhất tề nổi dậy ở khắp thành thị và nông thôn, đập tan ách thống trị của đế quốc và phong kiến, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân. Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là thành quả quyết tâm chiến đấu của nhân dân Việt Nam vì độc lập tự do và hòa bình dưới sự lãnh đạo của Đảng; là thành tựu tuyệt vời của tinh thần, ý chí, của trí tuệ con người Việt Nam, của truyền thống văn hóa Việt Nam. Tinh thần, trí tuệ ấy xuất hiện từ buổi đầu lịch sử dân tộc, được nâng lên một tầm cao mới. Nó kết tinh những truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của một dân tộc có lịch sử hàng nghìn năm chống phong kiến bành trướng xâm lược và gần một thế kỷ đấu tranh chống ách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Một dân tộc nô lệ, rên xiết dưới ba tầng áp bức, đã anh dũng đứng lên quét sạch bộ máy thống trị của đế quốc thực dân, phong kiến, giành lại độc lập, tự do, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân. Đây là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc, một đỉnh cao của tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Ngày 2-9-1945, trong bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy"26. Như vậy, từ giữa thế kỷ XIX, đối tượng đấu tranh của dân tộc Việt Nam đã đổi thay, đó không còn là chủ nghĩa bành trướng Đại Hán và những thế lực xâm lược ở phương Đông nữa, mà là chủ nghĩa tư bản phương Tây. Các phong trào đấu tranh chống xâm lược mang tư tưởng - hình thái phong kiến đều bị thất bại. Đầu thế kỷ XX, nhiều trào lưu, tư tưởng yêu nước, giải phóng dân tộc theo xu hướng mới đã xuất hiện. Tuy nhiên, phải đến khi có sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, phong trào yêu nước, ý thức độc lập dân tộc mới đi đúng hướng, vận động được quần chúng nhân dân, quy tụ được sức mạnh dân tộc, phát triển cao và giành thắng lợi vĩ đại. III. CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC, TINH THẦN ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP, TỰ DO VÀ TƯ TƯỞNG QUYẾT CHIẾN QUYẾT THẮNG TRONG BA MƯƠI NĂM CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG Ở VIỆT NAM (1945-1975) Cách mạng Tháng Tám vừa thành công, chỉ ít ngày sau giặc Pháp đã tái xâm lược Đông Dương. Hàng nghìn quân Pháp được quân Anh giúp sức đã đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Ở miền Bắc, gần 20 vạn quân Tưởng mượn cớ giải giáp quân Nhật cũng đã tiến vào nước Việt Nam. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời đã phải đứng trước một thử thách "ngàn cân treo sợi tóc". Dân tộc Việt Nam lại bước vào tình thế "một cổ đôi tròng". Lợi dụng Việt Nam đang chồng chất khó khăn, bè lũ đế quốc "định hãm ta trong thế cô độc, buộc ta phải đánh với nhiều kẻ thù một lúc". Để giữ vững hòa bình, chuẩn bị kháng chiến, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương hòa hoãn nhân nhượng, tập trung ngọn lửa đấu tranh vào kẻ thù nguy hiểm nhất. Với quân Tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu khẩu hiệu "Hoa - Việt thân thiện", hòa hoãn với quân Tưởng và bọn tay sai để tập trung lực lượng chống Pháp, giữ vững chính quyền cách mạng. Sau đó lại hòa với Pháp để đẩy quân Tưởng về nước và mong muốn giải quyết cuộc xung đột Việt - Pháp bằng con đường hòa bình, nếu không thành cũng kéo dài thêm thời gian để chuẩn bị kháng chiến. Để bảo vệ nền độc lập tự do vừa giành được, nhân dân Việt Nam đã phải chấp nhận chiến đấu chống thực dân Pháp. Một lần nữa nhân dân Việt Nam buộc phải đứng lên cầm vũ khí chống ngoại xâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Bọn thực dân Pháp phải biết rằng: dân Việt Nam không muốn đổ máu, dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình. Nhưng nếu cần phải hy sinh mấy triệu chiến sĩ, nếu cần phải kháng chiến bao nhiêu năm để giữ gìn quyền độc lập của Việt Nam, để cho con cháu Việt Nam khỏi kiếp nô lệ, thì chúng ta vẫn kiên quyết hy sinh và kháng chiến. Vì dân Việt Nam tin chắc rằng thế nào cuộc kháng chiến này cũng thành công"27. Đêm 19-12-1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ.Cả dân tộc Việt Nam nhất tề đứng lên theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết chặt chẽ, quyết chiến đấu đến cùng vì độc lập tự do, với tinh thần "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, theo tiếng gọi thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu, cả nước "bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước"28. Hình tượng những chiến sĩ tự vệ Thủ đô "quyết tử để Tổ quốc quyết sinh" mãi mãi là bức tượng đài bất hủ về một cuộc chiến tranh mà mỗi người dân Việt Nam đều sẵn sàng hy sinh tất cả vì Tổ quốc. Sáu mươi ngày đêm chiến đấu anh dũng ở Hà Nội (19-12- 1946 - 17-2-1947), lực lượng vũ trang Thủ đô đã hoàn thành nhiệm vụ tiêu hao và giam chân quân địch để bảo vệ Trung ương Đảng và Chính phủ rút lui an toàn về căn cứ địa. Đó không chỉ là thắng lợi của tinh thần quyết chiến quyết thắng của Vệ quốc đoàn và tự vệ, của những người tình nguyện ở lại "sống chết với Thủ đô", mà còn là thắng lợi của ý chí độc lập, tự do, đại diện cho quyết tâm, trí tuệ của cả dân tộc. Từ năm 1945 đến năm 1954, quân và dân cả nước đã tiến hành một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh, giành được những thắng lợi rực rỡ, làm thất bại nhiều kế hoạch chiến lược của thực dân Pháp. Với ý thức dân tộc cao, với tinh thần chiến đấu dũng cảm và sáng tạo, quân và dân Việt Nam đã giành được nhiều chiến công; tiêu biểu là chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947, chiến thắng Biên giới (1950), chiến thắng Hòa Bình, Tây Bắc (1952), và cuối cùng là chiến cuộc Đông - Xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao là trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là biểu tượng của ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân Việt Nam: Chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc và vì nền hòa bình thế giới. Trước bối cảnh trong nước và quốc tế lúc đó, chiến dịch Điện Biên Phủ có một vị trí hết sức quan trọng. Đây là cuộc đọ sức lớn nhất, quyết liệt nhất, toàn diện nhất giữa quân đội Việt Nam và quân đội Pháp. Khi bước vào chiến dịch này, quân đội và nhân dân Việt Nam đứng trước muôn vàn khó khăn tưởng chừng không thể nào vượt qua nổi. Làm thế nào có thể cung cấp đầy đủ lương thực, vũ khí, đạn dược cho một binh lực lớn ở ra hậu phương hàng 500 - 700km, trong một thời gian dài và trong điều kiện thời tiết, giao thông vận tải cực kỳ khó khăn, lại bị địch thường xuyên bắn phá? Chính trong những khó khăn, khắc nghiệt đó, ý thức dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí và quyết tâm chiến đấu của nhân dân Việt Nam, vì độc lập, tự do của Tổ quốc lại được tôi luyện và phát huy mạnh mẽ. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nêu cao tinh thần "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết", "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng", nhân dân cả nước, từ vùng tự do, cũng như trong các vùng tạm bị chiếm đều hăng hái tự nguyện đóng góp sức người, sức của, sẵn sàng hy sinh hết thảy vì độc lập, tự do. Cả nước ra trận, cả dân tộc, từ đồng bào người Kinh đến đồng bào các dân tộc thiểu số, từ thanh niên, phụ nữ đến người già, trẻ nhỏ đều tham gia đánh giặc, cứu nước bằng trí tuệ, lòng dũng cảm và bằng mọi phương tiện sẵn có của mình. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, sức mạnh của hậu phương lại được phát huy cao độ, đặc biệt trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Cả hậu phương rộng lớn của đất nước, từ vùng tự do Việt Bắc. Liên khu III, Liên khu IV, vùng mới giải phóng Tây Bắc, vùng du kích và căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ, vùng mới giải phóng ở Thượng Lào đều dồn sức người, sức của cho chiến dịch. Đồng bào Tây Bắc, Việt Bắc. Liên khu III, Liên khu IV đã đóng góp 4.720.000 ngày công với 260.000 dân công, 20.991 xe đạp thồ và hàng chục nghìn phương tiện vận chuyển thô sơ, bán thô sơ khác. Chỉ riêng số vật phẩm đã chuyển được ra mặt trận hơn 2 vạn tấn, trong đó có 14.950 tấn gạo, 266 tấn muối, 62,7 tấn đường, 577 tấn thịt và 565 tấn thức ăn khô29. Trong các chiến dịch của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, truyền thống yêu nước, ý chí quyết chiến quyết thắng vì độc lập, tự do của Tổ quốc và truyền thống "Cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc", đã được phát huy mạnh mẽ. Trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, đã xuất hiện nhiều tấm gương chiến đấu hy sinh, kiên cường, dũng cảm, sáng tạo tuyệt vời, làm rạng rỡ thêm truyền thống yêu nước, ý chí quyết chiến quyết thắng. Tiêu biểu là Mạc Thị Bưởi, Võ Thị Sáu, anh hùng Núp, Nguyễn Thị Chiến, Ngô Gia Khảm... Các chiến sĩ Tô Vĩnh Diện và Nguyễn Viết Chức đã hy sinh thân mình để bảo vệ pháo; Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng; Phan Đình Giót đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai tạo điều kiện cho toàn đơn vị tiến vào diệt địch... Cuộc chiến đấu lúc đầu không cân sức giữa dân tộc Việt Nam và kẻ xâm lược như "châu chấu đá xe". nhưng dân tộc Việt Nam vẫn "Gan không núng. Chí không mòn", để cuối cùng làm nên một Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Chính ý thức dân tộc, tinh thần quyết chiến quyết thắng vì độc lập, tự do đã tạo nên sức mạnh to lớn, góp phần quan trọng đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vượt qua những khó khăn chồng chất, giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn, đánh bại thực dân Pháp xâm lược. Đến đây, có thể nói rằng, những hình thức hiện thực hay lực lượng thực tiễn của tinh thần dân tộc, chủ nghĩa yêu nước đã tựu thành không chỉ trên nền tảng dân tộc mà còn trên đà phát triển tiến tới sự hình thành một xã hội mới. Thực vậy, chính cuộc chiến tranh vệ quốc là môi trường tốt nhất để dân tộc Việt Nam giải quyết triệt để mâu thuẫn giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, giữa tinh thần dân tộc và hiện thực mất nước. Hiệp định Giơnevơ sau chiến thắng Điện Biên Phủ là minh chứng cho sự trưởng thành chính trị của những người lãnh đạo xã hội mới, cũng cho thấy tư cách của một chính phủ thực sự, đại diện cho dân tộc Việt Nam độc lập, tự do. Nhưng đế quốc Mỹ đã phá hoại Hiệp định Giơnevơ, dựng nên chính quyền tay sai và biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự của Mỹ, nhằm chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam, ngăn chặn làn sóng cách mạng thế gian, dẫn đến cuộc đụng đầu lịch sử giữa dân tộc Việt Nam anh hùng với đế quốc Mỹ - thế lực hiếu chiến lớn mạnh và tàn bạo nhất thời đại. Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ là thử thách lớn nhất đối với dân tộc Việt Nam. Cuộc xâm lược của đế quốc Mỹ đe dọa thủ tiêu những thành quả cách mạng mà nhân dân Việt Nam đã giành được, đưa dân tộc Việt Nam trở lại ách nô lệ dưới hình thức mới. Lúc đầu, các lực lượng tiến bộ không tránh khỏi nghi ngại và lo âu cho nhân dân Việt Nam trong một cuộc chiến không cân sức, trước một kẻ địch có sức mạnh quân sự và kinh tế hùng hậu. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa cùng chung lý tưởng với Việt Nam, nhiệt tình ủng hộ cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, nhưng cũng có nước khuyên ta nên tập trung xây dựng kinh tế hoặc "trường kỳ mai phục để chờ thời cơ thuận lợi. Sự lo lắng này không phải không có cơ sở. Đế quốc Mỹ có thế mạnh tuyệt đôi về quân sự, kinh tế, thậm chí cả về chính trị. Nhưng họ tiến vào Đông Dương mà không hiểu biết về Đông Dương. Chỉ có dân tộc Việt Nam, với tất cả sức mạnh tiềm tàng và hiện có bấy giờ mới dám hiên ngang chấp nhận cuộc đụng đầu lịch sử đó với tinh thần quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược. "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một", "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước Việt Nam thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi"; đó là chân lý, là khẩu hiệu, là mệnh lệnh chiến đấu của cả dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã thức tỉnh lòng yêu nước, khơi dậy và cổ vũ ý thức dân tộc tiềm ẩn ở mỗi người Việt Nam, phát triển nó thành chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Vì thế, nhân dân Việt Nam sẵn sàng đứng lên chiến đấu chống lại thế lực hùng cường nhất thế giới để bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, chẳng những không sợ mà còn dám đánh, quyết đánh và quyết thắng. Mấy chục triệu người trong cả nước cùng đánh giặc chứ không phải chỉ có quân đội đánh giặc. Cả dân tộc thực hiện một cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh. Tuổi trẻ Việt Nam "xẻ dọc đường Sơn đi cứu nước". Nơi nào có giặc là nơi ấy có người đánh giặc, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi đường phố là một trận địa, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi tỉnh, huyện là một chiến trường. Quân và dân Việt Nam kiên quyết tiến công, bám địch mà đánh, một người cũng tiến công, đánh lâu dài, lâu bao nhiêu cũng đánh, quyết tâm đánh bại và quét sạch bè lũ xâm lược ra khỏi đất nước. Với tinh thần và ý chí vì độc lập tự do, vì đại nghĩa dân tộc, vì nghĩa vụ quốc tế cao cả, người Việt Nam biết dẹp tình riêng, chịu đựng những hy sinh tổn thất lớn nhất. Hầu hết các gia đình trong cả nước đã gửi con em ra trận, có nhiều gia đình có từ 2 đến 7 con, tất cả đều là liệt sĩ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, biết bao anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống vì Tổ quốc máu của hàng triệu người Việt Nam đã đổ, tô thắm thêm truyền thống Việt Nam. Tinh thần Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân... sống mãi trong lòng dân tộc. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời chống Mỹ, cứu nước là một hiện tượng độc đáo trong xã hội Việt Nam. Nó là sản phẩm của sự kết hợp truyền thống dân tộc với tinh thần cách mạng mới, nó có tính quần chúng hết sức rộng rãi, đã trở thành đạo đức mới, chuẩn mực cuộc sống mới của hàng triệu con người, thể hiện trong câu ngạn ngữ mới: "Việt Nam ra ngõ gặp anh hùng". Tinh thần và ý chí dân tộc chủ nghĩa anh hùng cách mạng ấy là chủ nghĩa anh hùng tập thể của những con người bình thường làm nên sự nghiệp phi thường. Hàng chục triệu người trong mấy chục năm trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay, đồng cam cộng khổ, chống địch trên mọi mặt trận, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, cả nước đánh giặc. Họ đã vươn lên như Phù Đồng với sức mạnh mới, quyết tâm mới, tập trung cố gắng lớn nhất, dốc toàn lực giành lấy thắng lợi cuối cùng. Có những thời điểm khó khăn tưởng chừng không qua nổi, có khi hơn 50 vạn quân Mỹ và đồng minh đã tràn ngập miền Nam, đế quốc Mỹ đã sử dụng nhiều loại phương tiện, vũ khí tối tân, hiện đại nhất, kể cả vũ khí lược và máy bay chiến lược B.52 bắn phá cầu đường, tàn phá nhiều thành phố, làng quê, hòng đè bẹp tinh thần, ý chí chiến đấu của nhân dân Việt Nam, ngăn chặn sự chi viện cho miền Nam. Chỉ riêng năm 1965, chúng đã thực hiện 55.000 phi vụ, ném xuống miền Bắc 33.000 tấn bom đạn, trong đó 50% số lần đánh phá tập trung vào các mục tiêu giao thông vận tải; trung bình mỗi ngày máy bay địch xuất kích từ 100 đến 150 lần/chiếc, ngày cao nhất là 250 lần/chiếc. Trong cuộc tập kích chiến lược đường không 12 ngày đêm cuối năm 1972, đế quốc Mỹ đã sử dụng 729 lần/chiếc máy bay chiến lược B.52, gần 4.000 lần/chiếc máy bay chiến thuật ném bom xuống Hà Nội, Hải Phòng và một số mục tiêu khác, với một khối lượng bom đạn tương đương 35.000 tấn thuốc nổ. Nhưng dưới bom đạn ác liệt của quân thù, nhân dân Việt Nam không nao núng. Đảng ta đã khẳng định: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước dù phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ và trong bất cứ tình huống nào, nhân dân Việt Nam trong cả nước cũng nêu cao quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược. Trên mọi chiến trường, người Việt Nam nêu cao tinh thần: "Nhằm thẳng quân thù, bắn", "Nắm thắt lưng Mỹ mà đánh". Bằng ý chí, bằng tài năng và lòng dũng cảm, quân và dân Việt Nam đã kiên cường đánh trả, bắn rơi nhiều máy bay, bắt sống nhiều giặc lái. Đế quốc Mỹ chẳng những không đạt được mục tiêu đánh phá, mà còn bị thất bại nặng nề. Quân địch càng đánh thì nhân dân Việt Nam càng kiên định, lòng yêu nước càng dâng cao, sự quyết tâm đánh giặc càng lớn hơn, mạnh mẽ hơn. Quân và dân miền Bắc thực hiện "vừa sản xuất vừa chiến đấu, vừa quyết tâm đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của địch ở miền Bắc, vừa ra sức giúp đỡ cách mạng miền Nam". Phong trào thi đua yêu nước diễn ra sôi nổi khắp nơi. Đó là phong trào "Thanh niên xung phong", "Thanh niên ba sẵn sàng", "Phụ nữ ba đảm đang", "Tay cày tay súng", "Tay búa tay súng"... "Nhà nhà thi đua, người người thi đua", "Một người làm việc bằng hai", "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", "Giặc phá ta sửa ta đi", "Xe chưa qua nhà không tiếc" nhằm chi viện tốt nhất cho chiến trường miền Nam. Quân và dân Việt Nam anh hùng đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược trải qua năm đời tổng thống Mỹ nối tiếp nhau, làm thất bại bốn chiến lược chiến tranh xâm lược quy mô ngày càng lớn, với tính ác liệt, dã man nhất. Đòn tiến công chiến lược Tết Mậu Thân năm 1968, thắng lợi của cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1972, cùng với chiến công xuất sắc của quân và dân Việt Nam đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của Mỹ vào Hà Nội và Hải Phòng đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, rút quân về nước. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Quân và dân cả nước thực hiện trọn vẹn quyết tâm chiến lược "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc chiến tranh vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm vô cùng oanh liệt của nhân dân Việt Nam. Thắng lợi đó "mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sự thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX. một sự kiện có tầm cỡ quan trọng quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc"31. Đó là thắng lợi vĩ đại của tinh thần và ý chí độc lập của dân tộc Việt Nam. * * * Cội nguồn của tư tưởng trên bất cứ phương diện nào chính là tinh thần, vốn là di sản kế thừa giữa các thế hệ thông qua truyền thống và văn hóa. Một dân tộc được cấu thành từ hai mặt: một mặt là toàn thể con người tham gia vào dân tộc ấy, và mặt khác là tinh thần đã nối kết cộng đồng để mỗi thành viên tự ý thức mình là một thành viên của cộng đồng ấy. Chính vì thế, một mặt thì dân tộc chỉ có thể lớn mạnh và đối phó với những nguy cơ của nó nếu động viên được toàn thể lực lượng dân tộc; mặt khác thì không gì có thể động viên được lực lượng dân tộc nếu tinh thần dân tộc không được khơi dậy đủ để thúc đẩy mọi thành viên trong dân tộc ấy. Nhiệm vụ thức tỉnh tinh thần dân tộc, cũng như nhiệm vụ điều chuyển lực lượng toàn dân, bao giờ cũng đặt vào tay lực lượng chính trị đại diện cho dân tộc ấy, và vì thế mà tinh thần dân tộc buộc phải mang lấy hình thái thực tiễn của lực lượng chính trị đại diện cho nó. Trong thời phong kiến, tinh thần dân tộc ấy là trung quân - ái quốc. Trong thời đại cách mạng, tinh thần dân tộc lòng yêu nước ấy hòa nhập với chủ nghĩa cộng sản để trở thành chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa anh hùng cách mạng... Và còn có một thực tế nữa: nếu một dân tộc phải thường xuyên đối mặt với kẻ thù xâm lược, thì tinh thần dân tộc, lòng yêu nước lại sẽ thường xuyên trở thành một ý thức - thực tiễn trong tinh thần và tâm hồn người dân. Trong trường hợp Việt Nam, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ... đã trở thành truyền thống, thành một giá trị trong đời sống mỗi con người Việt Nam. Vì thế, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước"32. ------ Chú thích 1. Lịch sử Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972, t.I, tr.109. 2. (Dịch thơ: Sông núi nước Nam vua Nam ở, Vằng vặc sách trời chia xứ sở Giặc dữ cớ sao phạm đến đây, Chúng mày nhất định phải tan vỡ) Trích: Thơ văn Lý – Trần, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, t.I, tr.332. 3. Lê Tần đã chiến đấu hết sức dũng cảm ở trận Bình Lệ Nguyên (1258), ông đã bảo vệ vua Trần Thái Tông và hiến kế đề nghị nhà vua rút lui để bảo toàn lực lượng. Trần Bình Trọng, một vị tướng nổi tiếng dũng cảm và trung thành; khi bị giặc bắt, chúng dụ dỗ ông đầu hàng, ông đã mắng giặc rằng: "Ta thà làm ma nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc". Trần Quốc Toản hận mình còn nhỏ tuổi không được dự Hội nghị Bình Than đã bóp nát quả cam trong tay; sau đó về thái ấp tự lập đội quân riêng, tham gia chiến đấu lập nhiều chiến công và đã hy sinh anh dũng trong trận chặn đánh quân Thoát Hoan ở bến Như Nguyệt (1285). 4. Việt sử thông giám cương mục,Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, T.I, tr.759. 5. Minh sử, q.321. Dẫn theo Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2013, t.5, tr.107. 6. Khâu Tuấn: Bình định Giao Nam lục. Dẫn theo Lịch sử quân sự Việt Nam, Sđd, t.5, tr.87. 7. Nguyễn Trãi: Bình Ngô đại cáo (Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích, Hà Văn Tấn hiệu đính) (Trích trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, t.II, tr.285). 8. Lam Sơn thực lục (Trần Nghĩa dịch), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội 1992, tr. 35. 9. Lam Sơn thực lục, Sđd, tr.42. 10. Nguyễn Trãi: Bình Ngô đại cáo, Sđd, tr.285. 11. Lam Sơn thực lục, Sđd, tr.33. 12. Nguyễn Trãi: Bình Ngô đại cáo, Sđd, tr.282. 13,14. Nguyễn Trãi Toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, tr.127, 122. 15. Giáo sư dân Quốc vượng từng phân tích rất xác đáng mâu thuẫn này: "Ra khỏi thời Bắc thuộc, giai tầng thống trị Việt bị mắc vào một thế lưỡng, do có hai hệ quy chiếu: a) Hệ quy chiếu Trung Quốc: di sản có sẵn của quá khứ Bắc thuộc, do quyền lợi giai cấp, do học Tàu đe chống Tàu, do tư tưởng rập khuôn, do tự ti "Nam nhân Bắc hướng" mà cũng do tự an muốn "bất dị Trung Quốc", "vô tốn Trung Quốc", v.v. Có xu hướng Bắc hoà về chính trị - hành chính, văn hóa, giáo dục thi cử, v.v.. b) Hệ quy chiếu dân tộc: đã chống Bắc thuộc và còn phải chống bành trướng Trung Quốc, giai tầng thống trị Việt đại biểu cho dân tộc Việt Nam khi ấy - phải cố gắng thoát ly ảnh hưởng của Trung Quốc sâu gốc bền rễ trong nhân dân và dân tộc để tự tạo cho mình một bản lĩnh riêng. Muốn thế phải gần dân, thân dân, khoan dân, hạn chế chuyên quyền độc đoán, kết hợp mềm dẻo giữa tập trung nhà nước và dân chủ xóm làng, cái nhà nước và cái xã hội, cái chính thức (chính thống) và cái dân gian, cái ngoại sinh và cái nội sinh, cái bảo lưu truyền thống và cái bung ra đổi mới,.. Có ưu thế dân tộc hóa, cả pháp độ, văn hóa, giáo dục,... Mắc vào thế lưỡng này, là cả tầng lớp cầm quyền trị nước, cả tầng lớp trí thức, tăng đồ, nho gia, đạo sĩ... khó có ai có một diện mạo nhất định ở đương thời mà thoát được cái thế lưỡng này, kể cả Nguyễn Trãi; duy chỉ có điều ở người này, ở thời này, xu thế nào là xu thế chính, có tính chất chi phối mà thôi... Người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, kế tục và phát huy truyền thống "dân tộc và thân dân" thời Lý - Trần, đã có những cố gắng để khôi phục và phát triển nền văn hóa dân tộc... Trong Bình Ngô đại cáo, ông nhấn mạnh sự "dị thù" giữa Đại Việt và Trung Quốc cả về cương vực, cả về văn hóa, Dư địa chí ghi lệnh cấm Việt bắt chước phong tục Ngô. Bản chất tư tưởng Nguyễn Trãi có thể gọi là tư tưởng Nho giáo dân gian (Confucianisme populaiie)" (Trần Quốc Vượng: Nguyễn Trãi trong bối cảnh văn hoá Việt Nam, trích trong Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2003, tr. 727-742). 16. Nguyên văn câu nói của vua Lê Thánh Tông là: "Một thước núi, một tấc sông của ta không thể vứt bỏ... nếu ai dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ để lại mà làm mồi cho giặc thì tội phải tru di". 17. Nguyên lời Mạc Ngọc Liễn dặn Mạc Kính Cung vào tháng 7-1594 như sau: "Nay khí vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Dân ta là người vô tội mà khiến để phải mắc án binh đao, ai nỡ lòng nào! Chúng ta nên lánh ra ở nước khác, nuôi dưỡng uy lực, chịu khuất đợi thời, chờ khi nào mệnh trời trở lại mới làm được, chứ không thể lấy lực chọi với lực. Khi hai con hổ tranh nhau, tất phải có một con bị thương, không có ích gì cho công việc. Nếu thấy quân họ đến đây thì chúng ta nên tránh đi, chớ có đánh nhau với họ, cốt phòng thủ cẩn thận là chính; là chớ nên mời người Minh vào trong nước Việt Nam mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng. (Xem Đại Việt sử ký Bản kỷ Tục biên, Quyển XVII, Kỷ Nhà Lê: Thế Tông Nghị Hoàng Đế, phụ: Họ Mạc (Mậu Hợp 20 năm) (Nxb. Văn hóa thông tin tái bản, 2011). Nguyên tắc của một nền chính trị nội quốc thực thụ, nguyên tắc không bị can thiệp là nền tảng căn bản nhất cho mọi nền nội chính của mỗi quốc gia - dân tộc. Nó cũng là biểu hiện cho tính chất độc lập, tự chủ, cũng như bản lĩnh chính trị của quốc gia - dân tộc ấy. 18. Dẫn theo Phạm Ngọc Phụng: Tổ tiên ta đánh giặc, Nxb. Quân giải phóng, Sài Gòn, 1975, tr.256. 19. Ngô gia văn phái: Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1964, tr.359. 20. Cho dù vậy, tất thảy những đề xuất ấy đều mắc phải hai nhược điểm: Một là, không cân nhắc được những biến đổi xã hội mà những cải cách có thể gây nên, do đó không thấy được sự phản ứng của các tầng lớp có lợi ích liên quan đối với các cải cách. Hai là, các cải cách đều có dự định, thậm chí chi tiết, nhưng lại không tính đến vốn cho những cải cách đó. Ngay cả một dự án chi tiết như của Nguyễn Trường Tộ cũng có những thiếu sót như vậy. Xem thêm những phân tích về vấn đề này trong Yoshiharu Tsuboi: Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2013. 21. Đây là câu nói nổi tiếng vỉa Nguyễn Trung Trực (1839-1868). Năm 1861, phối hợp với Trương Định, ông chỉ huy đánh thắng một trận lớn trên sông Nhật Tảo, đốt cháy tàu Espérance của Pháp. Năm 1867, ông về Hà Tiên lập căn cứ ở Hòn Chông, rồi bị Pháp vây bắt và tử hình tháng 10-1868. 22. Thơ và yêu nước thế kỷ XIX, Nxb. Văn học, Hà Nội, 197S, tr.31. 23. Tên gọi khác của Duy Tân hội là Ám Xã. Hình thức Duy Tân hội là một minh chứng cho sự chuyển biến của ý thức dân tộc, ý thức chính trị ở Việt Nam. Duy Tân hội là một tổ chức kháng Pháp do Phan Bội Châu, Nguyễn Tiểu La và một số người khác lập ra tại Quảng Nam năm 1904, giải tán năm 1912. Hội đóng vai trò như một đảng chính trị. Nói cách khác, trên thượng tầng xã hội, một nhóm tinh hoa nhỏ kết hợp với các tri thức trôi giạt trong xã hội đã chính thức trở thành một lực lượng chính trị tân tiến của dân tộc, tách ra khỏi truyền thống khởi phát vũ trang dựa trên lá cờtrung quân – ái quốc của thời trung đại. Xu hướng trí thức hiện thực hóa tinh thần dân tộc qua một đảng chính trị sẽ là xu hướng lôi cuốn nhất và chi phối toàn bộ thế kỷ XX không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới. Xem thêm: Phạm Văn Sơn: Việt sử tân biên (quyển 5, tập thượng), tác giả tự xuất bản, Sài Gòn, 1963. Cũng có thể tham khảo: Nguyễn Văn Trung: Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, thực chất và huyền thoại, Nam Sơn xuất bản, Sài Gòn, 1963. 24. Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục tồn tại ngắn ngủi từ tháng 3 đến tháng 11-1907. Đây là phong trào cải cách xã hội nhằm khai dân trí, mở lớp học miễn phí và tổ chức các buổi diễn thuyết trao đổi cổ động quần chúng. Điểm đặc biệt đáng nói đầu tiên của phong trào này là hai tư tưởng: Một là, bài Khổng giáo, Tống Nho, Hán Nho; hai là, phát triển công thương nghiệp. Những tư tưởng tiến bộ của chính tầng lớp trí thức tân tiến như thế là sự chuẩn bị cho sứ mệnh mới của tầng lớp trí thức đầu thế kỷ XX: cách tân tư tưởng. Đây cũng chính là giai đoạn tinh thần dân tộc khước từ các hình thức phong kiến của nó. Tham khảo: Nhiều tác giả: Một trăm năm Đông Kinh Nghĩa Thục, Nxb.Tri thức Hà Nội, 2008. 25. Phong trào Cần Vương nổ ra vào cuối thế kỷ XIX do đại thần Tôn Thất Thuyết, nhân danh hoàng đế Hàm Nghi đề xướng. Phong trào được coi là chấm dứt với sự thất bại của Phan Đình Phùng và khởi nghĩa Hương Khê. Theo GS. Đào Duy Anh, có thể kể những nguyên nhân thất bại sau của phong trào này: Một là, nền tảng sản xuất xã hội kém, vũ khí lạc hậu; hai là, lực lượng khởi nghĩa yếu, không đủ khả năng tấn công trực diện với quân đội chính quy của Pháp; ba là, tinh thần chiến đấu không đủ ngoan cường, nhiều thủ lĩnh đầu hàng khi tương quan bắt đầu bất lợi, khiến phong trào tan rã từng mảng nhanh chóng. Xem thêm Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam từ thời cổ đại đến thế kỷ XIX, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2007. 26. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr.4. 27. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.4, tr.91-92. 28. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.4, tr.480. 29. Theo Hậu cần chiến dịch trong kháng chiến chống Pháp, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.138. 30. Trong bối cảnh thế giới bấy giờ, và trong nhận thức của chính giới Mỹ, chủ nghĩa dân tộc của các nước thuộc địa có vẻ đã tìm thấy một hình thái thích đáng có thể phát huy sức mạnh tối đa của dân tộc ấy: chủ nghĩa cộng sản. Tổng thống Aixenhao (D. Eienhower) đã phát biểu nói rõ rằng cần ngăn cản chủ nghĩa cộng sản tại Đông Dương, mà trọng tâm là miền Nam Việt Nam, nếu không làn sóng cộng sản sẽ cuốn phăng Đông Nam Á. Kế hoạch của Mỹ là phế truất Bảo Đại một cách hợp thức (để Bảo Đại tự thoái vị lập ra một chính quyền bản địa (chính quyền Ngô Đình Diệm), để cho chính quyền này nắm giữ cùng lúc hai ngọn cờ quốc gia và chống cộng. Kế hoạch này, rốt cuộc, đã không như dự định của Mỹ. Xem thêm: Pentagon Papers: Evolution of the War. U.S. and France 8 Withdrawal from Vietnam, 1954-56, The U.S. National Achives and Records Administratỉon, p.5-6. 31. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.5-6. 32. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.171. Chương II TƯ TƯỞNG KHỞI NGHĨA VŨ TRANG Trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc, nhân dân Việt Nam đã tiến hành nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang chống ách áp bức ngoại bang để giải phóng dân tộc. Bên cạnh đó còn có nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân chống ách áp bức nặng nề của giai cấp phong kiến, giành lại quyền sống yên bình. Chính trong quá trình chống ngoại xâm và ách áp bức, bóc lột, tư tưởng khởi nghĩa vũ trang từng bước hình thành, không ngừng được bổ sung và phát triển với nhiều nội dung phong phú, đặc sắc. Nhiều luận điểm cơ bản trong tư tưởng khởi nghĩa vũ trang có giá to lớn, hợp thành bộ phận quan trọng của tư tưởng quân sự Việt Nam. I. KHỞI NGHĨA VŨ TRANG: CÓ ĐƯỜNG LỐI ĐÚNG THÌ THÀNH CÔNG Khởi nghĩa vũ trang là nhân dân vùng dậy dùng vũ khí đánh đuổi quân cướp nước, đánh đổ sự thống trị của tập đoàn cầm quyền suy tàn, thối nát, đối lập với lợi ích dân tộc, lợi ích nhân dân; là cuộc đấu tranh to tát về chính trị và quân sự, là việc quan trọng, làm đúng thì thành công, làm sai thì thất bại. Đây là luận điểm then chốt trong tư tưởng khởi nghĩa vũ trang. “Làm đúng thì thành công” nghĩa là trước hết phải có đường lối đúng, biểu hiện tập trung ở việc xác định mục tiêu khởi nghĩa và những chủ trương, quyết sách đúng trong quá trình tiến hành khởi nghĩa. Từ các cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Lý Bí, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng cho đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Tây Sơn... giành được thắng lợi là do ngay từ đầu đã xác định đúng mục tiêu khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã xác định rõ tôn chỉ, mục đích khởi nghĩa: “Một xin rửa sạch thù nhà. Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng. Ba kẻo oan ức lòng chồng. Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này”1. Mục tiêu đấu tranh là giành lại đất nước, khôi phục lại “nghiệp xưa họ Hùng” đã cổ vũ mạnh mẽ dân chúng tham gia khởi nghĩa, trở thành động lực to lớn của công cuộc cứu nước. Chính vì thế, chỉ trong một thời gian ngắn, dưới sự lãnh đạo của Trưng Trắc và Trưng Nhị, cuộc khởi nghĩa đã thành công, việc “dựng nước, xưng vương dễ như trở bàn tay”2. Nếu như các cuộc khởi nghĩa trong giai đoạn đầu Bắc thuộc, đỉnh cao là khởi nghĩa Hai Bà Trưng có mục tiêu đấu tranh giành lại đất nước, khôi phục lại chế độ Hùng Vương, thì đến thế kỷ VI, cuộc khởi nghĩa Lý Bí có bước phát triển mới về mục tiêu đấu tranh. Sau khi đánh đuổi quân xâm lược nhà Lương, Lý Bí chủ trương xây dựng quốc gia độc lập, ngang hàng với phương Bắc và trên thực tế “nhân thắng giặc”, ông đã “tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu, lập trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân... Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội”3. Đồng thời, ông còn lấy niên hiệu riêng là Đại Đức (đức lớn), xây chùa ở kinh đô và đặt tên là chùa Khai Quốc4 (mở nước). Kể từ đó trở đi, ngoại trừ khởi nghĩa của Trần Ngỗi, Trần Quý Khoáng5 có mục tiêu đánh đuổi quân Minh, khôi phục lại vương triều Trần, còn hầu hết các cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi đều xác định đúng mục tiêu đấu tranh là cứu dân, cứu nước, giành lại độc lập dân tộc, xây dựng vương triều mới thay thế chính quyền đô hộ hoặc vương triều cũ đã suy tàn không còn có vai trò lịch sử nữa. Có mục tiêu đấu tranh đúng lại phải có những chủ trương chiến lược đúng và quyết sách sáng tạo trong quá trình tiến hành khởi nghĩa. Bởi vì, trong lịch sử, không ít trường hợp có đường lối đúng nhưng phương pháp sai, thiếu nhạy bén và quyết đoán sai lầm nênkhởi nghĩa không giành được thắng lợi. Khởi nghĩa Lam Sơn và khởi nghĩa Tây Sơn vượt qua được tình thế hiểm nghèo để tiếp tục tồn tại rồi xây dựng lại lực lượng, nhanh chóng phát triển thành chiến tranh giải phóng quét sạch quân thù là do không chỉ có đường lối đúng mà còn có những quyết sách phù hợp sáng tạo. Chính thức khởi binh ngày 2 tháng Giêng năm Mậu Tuất (7-2- 1418), nhưng trong thời kỳ đầu (1418-1424), nghĩa quân Lam Sơn chủ yếu hoạt động ở vùng núi rừng Thanh Hóa. Suốt thời gian đó, có lúc nghĩa quân gặp muôn vàn khó khăn: “Khi Lương Sơn lương cạn mấy tuần, lúc Khôi Huyện quân không đầy một lữ”; lại có lúc nghĩa quân bị tổn thất nặng nề, quân còn hơn 100 người, ở trong tình thế bị bao vây chặt đến mức “Lê Lai phải liều mình cứu Chúa”. Được nhân dân đùm bọc, che chở, nghĩa quân đã vượt qua được khó khăn, từ đó khôi phục được lực lượng. Nhưng khởi nghĩa Lam Sơn chỉ thực sự phát triển vượt bậc kể từ khi lãnh đạo khởi nghĩa chấp nhận kế hoạch của Nguyễn Chích, chuyển hướng chiến lược vào Nghệ An, “nơi hiểm yếu, đất rộng, người đông” để xây dựng địa bàn đứng chân, tiến công quân giặc. Với quyết sách chiến lược đúng đắn đó, chỉ trong một thời gian ngắn (1425-1427), nghĩa quân Lam Sơn nên tiếp giành được thắng lợi và phát triển nhanh chóng về mọi mặt, trở thành lực lượng chiến đấu hùng mạnh có hàng vạn người, đủ các thành phần gồm bộ binh, thủy binh, kỳ binh, tượng binh; cuối cùng đánh thắng quân Minh, giải phóng đất nước. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn thời kỳ đầu cũng gặp nhiều khó khăn. Có lúc, nghĩa quân lâm vào tình thế hiểm nghèo “lưỡng đầu thọ địch”, nghĩa là mặt Bắc thì quân chúa Trịnh, mặt Nam thì quân của chúa Nguyễn. Trước nguy cơ mất còn, Nguyễn Nhạc đã có quyết sách sáng tạo là cử người mang lễ vật đến gặp tướng cầm đầu quân Trịnh với lời lẽ nhún nhường là Nguyễn Nhạc “xin làm tướng tiên phong” cho quân Trịnh để đánh quân Nguyễn. Với nhiều toan tính, người cầm đầu quân Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc đồng ý, từ đó quân Tây Sơn tránh được cuộc tiến công của quân Trịnh ở mặt Bắc, tập trung lực lượng đối phó với quân Nguyễn ở mặt Nam. Khi quân Trịnh rút khỏi Quảng Nam về Thuận Hóa, Nguyễn Nhạc nhanh chóng cho quân tiếp quản, đồng thời cử người ra Bắc xin chúa Trịnh cho Nguyễn Nhạc làm trấn thủ vùng đất này và đã được Trịnh Sâm đồng ý. Có được Quảng Nam, Nguyễn Nhạc cho sắm sửa vũ khí, tích trữ lương thực, đóng quân chốt giữ những nơi hiểm yếu. Khi thế và lực đã vững, ông cho rằng không cần phải nhún nhường nữa. Bởi thế năm 1776, Nguyễn Nhạc quyết định danh xưng mới là Tây Sơn Vương, hai năm sau lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Thái Đức, lấy thành Đồ Bàn làm kinh đô, phong cho Nguyễn Lữ làm tiết chế, Nguyễn Huệ làm Long Nhượng tướng quân6. Từ đó, nghĩa quân Tây Sơn phát triển mạnh mẽ, lập nhiều chiến công, cuối cùng lật đổ hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn, quét sạch quân xâm lược Xiêm và Thanh, giữ yên bờ cõi. Trong khi nhiều cuộc khởi nghĩa xác định mục tiêu đúng, có quyết sách đúng trong quá trình khởi nghĩa thì có không ít cuộc khởi nghĩa do thiếu linh hoạt, chủ trương sai nên dẫn đến thất bại. Năm 1802, triều Nguyễn - triều đại cuối cùng trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam được thiết lập. Do chính sách đối nội hà khắc gây cho dân chúng đói khổ, bất bình, thêm vào đó là sự bạc nhược trước các thế lực tư bản phương Tây, đặc biệt là từng bước đầu hàng thực dân Pháp, nên nhân dân nổi dậy chống “cả Triều lẫn Tây”; phong trào nhanh chóng lan tỏa khắp ba miền đất nước dưới sự lãnh đạo của triều đình kháng chiến. Sau khi vua Hàm Nghi bị bắt (11-1888), vai trò lãnh đạo phong trào Cần Vương chuyển hẳn sang văn thân, sĩ phu. Dưới sự lãnh đạo của tầng lớp đó, phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp tiếp tục phát triển, hình thành những trung tâm kháng chiến lớn như Hương Sơn - Hương Khê (Hà Tĩnh), Ba Đình - Hùng Lĩnh (Thanh Hóa), Bãi Sậy - Hai Sông (Hải Dương - Hưng Yên). Từ khi phong trào Cần Vương bị thực dân Pháp dập tắt năm 1896 (bên cạnh đó còn cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế kéo dài đến năm 1913), quyền lãnh đạo công cuộc giải phóng dân tộc chuyển sang những nhà yêu nước có xu hướng dân chủ tư sản. Tuy đã tiến lên một bước mới so với phong trào Cần Vương, nhưng các cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang Phục hội ở Nam Trung Kỳ và Huế (tháng 5-1916)7 đến cuộc khởi nghĩa Yên Bái8 của Việt Nam Quốc dân Đảng (1930) đều không thành công. Nguyên nhân sâu xa và căn bản mà các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp từ năm 1858 đến năm 1930 thất bại chính là tình trạng khủng hoảng về đường lối, thực chất là khủng hoảng về vai trò lãnh đạo, vì chưa có sự lãnh đạo của giai cấp tiên tiến nhất trong xã hội. Giai cấp phong kiến trong những thế kỷ trước từng đóng vai trò tích cực đối với tiến trình lịch sử Việt Nam nhưng từ thế kỷ XVI trở về sau bắt đầu đi xuống. Đặc biệt, khi thực dân Pháp xâm lược nước Việt Nam, giai cấp phong kiến từng bước đầu hàng thực dân Pháp, trở thành lực lượng phản động trên phương diện là một giai cấp. Thất bại của phong trào Cần Vương, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo đánh dấu sự chấm dứt của thời kỳ đấu tranh chống thực dân Pháp giải phóng dân tộc dưới khẩu hiệu “phò vua giúp nước”. Đoạn tuyệt với con đường cứu nước theo ý thức hệ phong kiến lỗi thời, nhiều sĩ phu hướng ra nước ngoài tìm đường cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản, nhưng lúc đó khuynh hướng ấy cũng đã bị lịch sử vượt qua. Cho nên, tuy đầy nhiệt huyết cứu nước, nhưng những người yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản vẫn không tìm thấy ánh sáng soi đường để đưa công cuộc giải phóng dân tộc đến thắng lợi. Khởi nghĩa Yên Bái - nỗ lực cuối cùng của Việt Nam Quốc dân Đảng thất bại. Khẩu hiệu “Không thành công thì cũng thành nhân” biểu lộ tính chất hăng hái nhất thời, đồng thời cũng “biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu của phong trào tư sản”9. Không có con đường cứu nước đúng đắn, các phong trào yêu nước nói chung, hàng chục cuộc khởi nghĩa nói riêng của nhân dân Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1930, tuy diễn ra khắp nơi trong cả nước và đã gây cho kẻ thù những thiệt hại to lớn; nhưng rốt cuộc, không lật đổ được nền thống trị của thực dân Pháp. Giữa lúc những hoạt động của các nhà yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản, cũng như các cuộc đấu tranh vũ trang của phong trào Duy Tân (1908), Việt Nam Quang Phục hội (1915-1916), khởi nghĩa Thái Nguyên (1917)... không thành công, thì một xu hướng cách mạng mới hình thành do Nguyễn Ái Quốc khởi xướng và lãnh đạo. Trải qua nhiều năm, đi qua nhiều nơi, hòa mình vào cuộc sống lao động và đấu tranh của nhân dân nhiều nước ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ, châu Âu, hoạt động sôi nổi trong phong trào công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên (1920). Kể từ đó, Người hướng cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo cách mạng vô sản. Năm 1927, các bài giảng của Người tại Trường huấn huyện chính trị ở Quảng Châu được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông tập hợp lại, in thành cuốn sách nhan đề Đường kách mệnh10. Tác phẩm Đường kách mệnh đề cập đến nhiều vấn đề then chốt của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng bao trùm là thực hiện ở Việt Nam cuộc cách mạng “đến nơi” với mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu đó “cũng là mục tiêu của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, gắn cứu nước với cứu dân, giải phóng Tổ quốc và xây dựng chế độ mới tốt đẹp”11. Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị hợp nhất các nhóm cộng sản, thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Sau những ngày làm việc khẩn trương trong hoàn cảnh bí mật, các đại biểu dự Hội nghị nhất trí thông qua các văn kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt,... Chính cương vắn tắt “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”12. Nhiệm vụ cách mạng là đánh đuổi đế quốc Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do, lấy ruộng đất của thực dân Pháp và phong kiến chia cho nông dân nghèo. Thành lập chính phủ công nông binh. Tổ chức ra quân đội công nông. Các nhiệm vụ đó bao hàm hai nội dung dân tộc và dân chủ, trong đó nổi lên mục tiêu trước mắt là giành lấy độc lập tự do cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Trong khi Nguyễn Ái Quốc xác định chính xác đường lối, mục tiêu, động lực cách mạng Việt Nam, xác định đúng đối tượng cách mạng thì Quốc tế Cộng sản do thiếu thông tin, thiếu thực tế về phương Đông và tình hình các nước thuộc địa; hơn nữa trong thời điểm sau Đại hội VI Quốc tế Cộng sản (1928), khuynh hướng “tả” giữ vai trò chủ đạo nên chưa thấy đúng khả năng và lực lượng các giai cấp, các tầng lớp khác ngoài hai giai cấp công nhân và nông dân, chủ trương không liên minh với tư sản dân tộc và phú nông. Theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Trần Phú soạn thảo Luận cương chính trị (tháng 10-1930), đặt hai nhiệm vụ phản đế và phản phong đồng thời, ngang nhau13. Nhưng sau đó, Đảng đã điều chỉnh lại. Quá trình chuyển hướng chiến lược đó biểu hiện tập trung ở các Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, bảy và tám của Đảng Cộng sản Đông Dương. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (11-1939) nhấn mạnh: “Cách mệnh phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mệnh tư sản dân quyền. Không giải quyết được cách mệnh điền địa thì không giải quyết được cách mệnh phản đế. Trái lại không giải quyết được cách mệnh phản đế thì không giải quyết được cách mệnh điền địa - cái nguyên tắc chính ấy không bao giờ thay đổi được, nhưng nó phải ứng dụng một cách khôn khéo thế nào để thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc. Hiện nay tình hình có đổi mới. Đế quốc chiến tranh, khủng hoảng cùng với ách thống trị phát xít thuộc địa đã đưa vấn đề dân tộc thành một vấn đề khẩn cấp rất quan trọng. Đám đông trung tiểu địa chủ và tư sản bổn xứ cũng căm tức đế quốc. Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền ta cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”14. Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (11-1940) xác định kẻ thù chính của cách mạng lúc này là “phát xít Pháp – Nhật”. Nghị quyết phân tích phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương và nhận định: “Quần chúng đã bắt đầu dùng hình thức đấu tranh cao - đấu tranh chính trị và võ trang”; tuy vậy, “ta chưa đứng trước một tình thế trực tiếp cách mạng”. Nhưng Nghị quyết cũng lưu ý rằng, một phong trào cách mạng nhất định sẽ nổi lên; do đó, “Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: lĩnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập”15. Phát triển tư tưởng của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu và bảy, Hội nghị Trung ương lần thứ tám Đảng Cộng sản Đông Dương (5-1941) khẳng định: “Trong lúc này khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp - Nhật... Vấn đề giai cấp đấu tranh vẫn tồn tại mãi. Nhưng trong giai đoạn hiện tại, quốc gia trước hết, thì tất thảy những yêu sách của bộ phận mà có hại đến quyền lợi của toàn thể, của giai cấp mà có hại đến quyền lợi của dân tộc, thì phải gác lại để giải quyết sau”16. Để rõ thêm quan điểm mấu chốt này, Nghị quyết giải thích rõ: Vì cuộc đấu tranh trong lúc này, Đảng Cộng sản Việt Nam phải chú ý lãnh đạo cuộc đấu tranh chống Pháp - Nhật, chĩa tất cả mũi nhọn vào kẻ thù của dân tộc hơn là chú ý lãnh đạo cuộc tranh đấu giành quyền lợi cho giai cấp. Phải giải thích cho nhân dân biết rằng, lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi của toàn thể dân tộc. Cho nên, trong lúc này “cuộc tranh đấu chống địa chủ, tư bản bản xứ không quan trọng bằng cuộc tranh đấu chống Pháp - Nhật”17. Tuy nhiên, Đảng xác định không bỏ qua quyền lợi của bộ phận. Mỗi khi quyền lợi của thợ thuyền và dân cày bị bọn tư bản và địa chủ thẳng tay đục khoét, mỗi khi quyền lợi của giai cấp xung đột nhau đến cực điểm mà Đảng xét cuộc tranh đấu là cần thiết thì Đảng phải cương quyết lãnh đạo cuộc tranh đấu ấy. Để lãnh đạo cuộc cách mạng thắng lợi, Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh: “Cần phải thay đổi chiến lược. Sự thay đổi về kinh tế, chính trị Đông Dương, sự thay đổi thái độ, lực lượng các giai cấp Đông Dương, buộc Đảng ta phải thay đổi chính sách cách mạng ở Đông Dương cho hợp với nguyện vọng chung của toàn thể nhân dân Đông Dương, cho hợp với tình hình thay đổi, Đảng ta phải có một chính sách cách mạng thích hợp với tình trạng ấy, mới chỉ dẫn cuộc cách mạng đến thắng lợi chắc chắn được”18. Về phương pháp cách mạng, Nghị quyết nêu rõ: “Cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang”19. Do tầm quan trọng của vấn đề, lần đầu tiên Hội nghị Trung ương Đảng trực tiếp bàn về khởi nghĩa vũ trang và đã xác định những điều kiện thắng lợi của khởi nghĩa vũ trang một cách hệ thống. Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng có tầm quan trọng đặc biệt, đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chiến lược cách mạng của Đảng, khẳng định mạnh mẽ nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết thảy, chuyển hướng hình thức đấu tranh, từ đấu tranh chính trị tiến lên đấu tranh vũ trang và cách tiến hành tổ chức, phát triển lực lượng cách mạng. Do tầm quan trọng của việc xây dựng lý luận cách mạng giải phóng dân tộc, mà trọng tâm lúc đó là lý luận khởi nghĩa vũ trang, đầu năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hoàn chỉnh tác phẩm Con đường giải phóng20. Tác phẩm Con đường giải phóng đề cập đến nhiều nội dung, trong đó có việc trù liệu các công việc: Trước khởi nghĩa, phải lập những đội tuyên truyền để động viên đông đảo quần chúng tham gia khởi nghĩa, phải xây dựng lực lượng vũ trang làm “quân chủ lực” trong khởi nghĩa, phải chuẩn bị lực lượng cán bộ nắm chính quyền cách mạng; chia các địa phương và định nhiệm vụ cho các cấp ủy, các bộ nhận phụ trách; định ra kế hoạch tiến công, điều tra những mục tiêu cần nắm giữ hoặc phá hủy trong quá trình khởi nghĩa... Trong khởi nghĩa, phải kiên quyết tiến công, quân khởi nghĩa phải tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh, cơ quan chỉ huy phải hăng hái, mưu trí; phải đề phòng bọn mật thám của đế quốc lẻn vào phá hoại... Sau khởi nghĩa thắng lợi, phải lập tức đem vũ khí chiếm được vũ trang cho quần chúng có tổ chức, đồng thời phải lập ngay chính phủ cách mạng thực hiện các nhiệm vụ: thủ tiêu chính quyền cũ, ban bố quyền tự do dân chủ cho nhân dân, lập quân đội cách mạng giữ gìn trật tự và tiếp tục chiến đấu bảo vệ chính quyền21. Như thế, tư tưởng khởi nghĩa ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, với ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự xuất hiện tư tưởng Nguyễn Ái Quốc về cách mạng Việt Nam, đã có một chuyển biến quan trọng: khởi nghĩa là một bộ phận của cách mạng, và khởi nghĩa là khởi nghĩa giành chính quyền, thay đổi chế độ, chứ không còn thuần túy là khởi nghĩa vũ trang, bạo lực quân sự xét như một công cụ của những người tiến hành khởi nghĩa. Cuộc chuyển biến quan trọng này đi liền với một bước thay đổi toàn diện của tư tưởng quân sự Việt Nam, đánh dấu sự ra đời của tư tưởng quân sự Việt Nam thời hiện đại. Dưới ánh sáng tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và đường lối phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng, lại do chính Người và Đảng trực tiếp lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang, nên cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi vĩ đại. “Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một đảng mới 15 tuổi đã lãnh cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”22. II. KHỞI NGHĨA VŨ TRANG TOÀN DÂN, TOÀN DÂN TỘC TIẾN HÀNH Trong hoàn cảnh Việt Nam bị xâm lăng, kẻ thù áp đặt ách thống trị và dùng mọi thủ đoạn tàn bạo để bảo vệ hệ thống chính quyền cai trị của chúng, bất cứ cuộc khởi nghĩa nào được khởi phát và để giành thắng lợi, ngoài việc xác định đường lối phù hợp, đúng đắn, nhất thiết phải tập hợp được đông đảo dân chúng tham gia, cuộc khởi nghĩa do toàn dân tộc tiến hành. Ngay từ đầu Công nguyên, để tiến hành khởi nghĩa, Hai Bà Trưng đã tổ chức tại căn cứ Mê Linh một đội quân làm lực lượng nòng cốt và kêu gọi hào kiệt cùng dân chúng tham gia. Hưởng ứng lời kêu gọi, các Lạc tướng, Lạc dân không chỉ ở Mê Linh, Chu Diện mà còn ở các địa phương khác rầm rộ kéo về tụ nghĩa. Sách Hậu Hán thư cho biết: Những người Man, người Lý (chỉ chung các dân tộc phương Nam) ở 4 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều nhất tề nổi dậy hưởng ứng. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết cụ thể hơn là cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở quận Giao Chỉ và “các quận Nam Hải, Cửu Chân, Hợp Phố đều hưởng ứng”. Phong trào nhanh chóng trở thành cuộc nổi dậy của toàn dân. Chỉ trong một thời gian ngắn, nghĩa quân và dân chúng tham gia khởi nghĩa đã đập tan bộ máy chính quyền đô hộ, giành lại quyền làm chủ trên tất cả 65 huyện thành (tức là toàn bộ lãnh thổ nước Việt Nam lúc đó). Nền độc lập dân tộc được khôi phục sau hơn 200 năm chìm đắm dưới ách đô hộ của phong kiến Trung Quốc. Nhận xét về tính chất toàn dân của cuộc khởi nghĩa, nhà sử học Lê Văn Hưu đã viết: “Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay”23. Nhà sử học Ngô Sĩ Liên cũng viết: “Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, vung tay hô một tiếng mà quốc thống nước Việt Nam cơ đồ được khôi phục”24. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thực chất là cuộc đồng khởi của toàn dân trên phạm vi cả nước, phản ánh ý thức dân tộc của các Lạc tướng, Lạc dân trong các bộ lạc hợp thành nước Âu Lạc. Sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40-43), hàng loạt các cuộc khởi nghĩa lần lượt nổ ra trong thời kỳ đấu tranh chống ách đô hộ phương Bắc, tiêu biểu là khởi nghĩa Bà Triệu (248), khởi nghĩa Lý Bí (542-548), khởi nghĩa Mai Thúc Loan (713-722), khởi nghĩa Phùng Hưng (766-791), khởi nghĩa Dương Thanh (819-820) và cuộc nổi dậy của Khúc Thừa Dụ (905). Các cuộc khởi nghĩa đó có tính chất toàn dân cao, có thanh thế và ảnh hưởng rộng. Điển hình là cuộc khởi nghĩa do Mai Thúc Loan tổ chức và lãnh đạo không những tập hợp được đông đảo các thành phần xã hội, từ những người dân phu, phường săn, nông dân và hào kiệt trong vùng mà còn mở rộng hoạt động chống quân Đường ra cả nước, liên kết với Chăm Pa phía Nam, Chân Lạp phía Tây Nam để có thêm lực lượng. Ghi nhận về sự kiện đặc sắc này, sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Mai Thúc Loan chiếm giữ châu, xưng là Hắc Đế, bên ngoài liên kết với người Lâm ấp, Chân Lạp, số quân là 30 vạn”25. Sách Đại Nam nhất thống chí cũng cho rằng số quân của Mai Hắc Đế đông tới 30 vạn người26. Tuy các cuốn sách đó không viết rõ số lượng quân Lâm Ấp, Chân Lạp tham gia khởi nghĩa là bao nhiêu, nhưng rõ ràng là Mai Hắc Đế đã liên kết được với một số quốc gia trong khu vực cùng chống ách đô hộ phương Bắc. Sự tham gia đông đảo của dân chúng khiến cho cuộc khởi nghĩa có quy mô rộng lớn, tính chất toàn dân rộng rãi. Trên cơ sở đó, Mai Hắc Đế quyết định đưa quân ra Bắc đánh vào sào huyệt của chính quyền đô hộ nhà Đường, thu lại giang sơn, giữ nền độc lập được gần 10 năm. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) cũng là cuộc khởi nghĩa có tính chất toàn dân rộng rãi, đánh dấu một bước chuyển quan trọng. Nguyễn Trãi - nhà tư tưởng lớn của thời đại đến với Lê Lợi bằng cuốn Bình Ngô sách, tác phẩm kết tinh những suy nghĩ sâu sắc của ông về kế sách đánh đuổi quân xâm lược. Bình Ngô sách là tập sách “hiến mưu chước lớn, không nói đến việc đánh vào thành mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người”. Lê Lợi đánh giá cao kế sách đó và phong cho Nguyễn Trãi chức Tuyên phụng đại phu Hàn lâm thừa chỉ, luôn giữ bên cạnh để cùng bàn mưu, tính kế lãnh đạo khởi nghĩa. Đáp lại niềm tin cậy của Lê Lợi, Nguyễn Trãi đem tất cả tài năng và nghị lực cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tư tưởng lớn và bao trùm của Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa. Ông khẳng định: “Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu. Chỉ có nhân nghĩa thì công việc mới vẹn toàn”27. “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”28. Nội dung cơ bản của tư tưởng đó là lòng yêu nước, thương dân kết hợp với ý chí hòa bình và lòng nhân đạo cao cả. Theo ông, lòng yêu nước phải gắn liền với thương dân; bởi nước với dân là một và dưới bầu trời dân là “quý nhất”. Vì vậy, ông luôn hướng về dân, cảm thông sâu sắc nỗi thống khổ của nhân dân dưới ách thống trị của quân xâm lược. Ông thấy rõ vai trò của nhân dân trong lao động sản xuất và ghi nhớ công ơn đó: “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”29. Đồng thời, ông cũng thấy rõ sức mạnh vĩ đại của dân chúng, sức mạnh đó có thể “chở thuyền” và cũng có thể “lật thuyền”. Sáng tạo lớn của Nguyễn Trãi là đã đề ra chiến lược “tâm công” đánh vào lòng người. Với chiến lược đó, ông quan tâm đến việc bồi dưỡng tinh thần yêu nước thiết tha và lòng căm thù giặc sâu sắc của mọi tầng lớp nhân dân. Theo ông, nếu khơi dậy niềm tự tôn dân tộc, niềm tự hào về nền văn hiến nước nhà, làm cho dân chúng nhận thức sâu sắc việc cứu nước cũng là cứu nhà, thì chắc chắn rằng lực lượng nghĩa quân lúc đầu nhỏ yếu nhưng được dân chúng ủng hộ và tham gia sẽ mạnh dần lên, không ngừng phát triển, đủ sức đánh bại đối phương. Đối với quân xâm lược, “tâm công” là đánh vào tư tưởng, tâm lý đối phương, làm cho chúng kiêu căng, mất cảnh giác hoặc hoang mang, giảm sút tinh thần chiến đấu; cuối cùng đạt được mục đích không đánh mà giặc hàng, chịu thua. Tư tưởng của Nguyễn Trãi được Bộ chỉ huy, đứng đầu là Lê Lợi, đánh giá cao và trở thành nền tảng tư tưởng lý luận của khởi nghĩa Lam Sơn. Từ nhận thức sâu sắc vai trò và sức mạnh của nhân dân, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương dựa vào dân để xây dựng lực lượng và thực hiện cuộc khởi nghĩa toàn dân. Theo hai ông, khi đất nước bị quân Minh xâm lược và thống trị thì tầng lớp chịu nhiều đau khổ nhất chính là “manh lệ”, “dân đen” ở các làng xã. Vì vậy, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương dựa vào lực lượng đông đảo này để xây dựng lực lượng: “Giương gậy làm cờ, dân chúng bốn phương tụ họp”30. Quá trình tiến hành khởi nghĩa, Bộ chỉ huy Lam Sơn, đứng đầu là Lê Lợi, đã khuyên dạy quân sĩ rằng: “Dân ta khổ vì giặc đã lâu, phàm đến châu huyện nào, mảy may không được xâm phạm”31. Do đó, nghĩa quân Lam Sơn đã tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng: “Quân đi đến đâu, nghĩa thanh vang dậy, dân chúng bốn phương dắt díu nhau mà đến theo”32, “gạo nước đưa rước, người theo đầy đường”, “ai ai cũng muốn ra sức đền ân”. Chính nhờ phát huy được sức mạnh tiềm tàng trong dân chúng, Bộ chỉ huy Lam Sơn đã có đội nghĩa binh đông tới 35 vạn quân. Họ là những “manh lệ” bốn phương tụ về “nguyện đồng lòng hợp sức liều chết vây thành diệt giặc”33. Tư tưởng dựa vào dân, phát động cuộc khởi nghĩa toàn dân là tư tưởng lớn của Lê Lợi và Nguyễn Trãi. Với tư tưởng đó, nghĩa quân không chiến đấu cô độc và lẻ loi như quân đội nhà Hồ trước đó, mà phát triển và lập công trong sự tham gia, ủng hộ nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân yêu nước. Tất nhiên, trong thời đại phong kiến và dưới sự lãnh đạo của giai cấp phong kiến, khởi nghĩa toàn dân trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn không thể vượt qua hạn chế của thời đại và giai cấp, không thể đạt đến mức độ triệt để như khởi nghĩa toàn dân do giai cấp vô sản lãnh đạo. Nhưng trong thời kỳ phong kiến, khởi nghĩa Lam Sơn thực sự là một cuộc khởi nghĩa toàn dân rộng rãi. Thật thế, còn có thể thấy rằng, thế kỷ XV mở đầu với sự ra đời của tư tưởng khởi nghĩa toàn dân có tính nhân dân sâu sắc với nhận thức rõ ràng về vai trò của “dân”, nhân dân và dân tộc. Không ngạc nhiên gì, thế kỷ XV cũng là thế kỷ huy hoàng của chế độ phong kiến ở Việt Nam, với sự ra đời của một nhà nước phong kiến hùng mạnh, có tổ chức chặt chẽ, có quyền lực rộng khắp, trở thành trung tâm của sự liên kết toàn thể các cộng đồng trong lãnh thổ Đại Việt bấy giờ. Cũng còn có thể thấy rằng, sự phát triển của tư tưởng quân sự luôn gắn liền với sự phát triển của các tư tưởng chính trị, đó là đặc trưng trong lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam. Thế kỷ XVIII, lịch sử Việt Nam chứng kiến một cuộc khởi nghĩa toàn dân của một lực lượng từ nhân dân mà ra với những chiến công quân sự vang dội, làm thay đổi cục diện chính trị bế tắc của toàn dân tộc kéo dài gần 2 thế kỷ: nghĩa quân Tây Sơn. Với cuộc khởi nghĩa Tây Sơn (1771-1789), tư tưởng chỉ đạo hành động lúc đầu xác định là “lấy tiền của, thóc lúa của bọn nhà giàu chia cho người nghèo”, nên anh em Tây Sơn được nhân dân địa phương hết lòng ủng hộ, thanh thế ngày càng lớn và lan tỏa khắp nơi. Để xây dựng được lực lượng không ngừng lớn mạnh, Bộ chỉ huy Tây Sơn không những thống nhất tư tưởng “tận suất vi binh” (toàn dân tòng quân) mà còn hết sức quan tâm mối quan hệ giữa nghĩa quân với dân chúng. Tại buổi lễ tế cờ xuất quân được tổ chức trên đỉnh đèo An Khê, Nguyễn Nhạc chính thức ban bố 3 điều quân luật, trong đó điều đầu tiên là “không được xâm phạm tính mạng và tài sản của nhân dân”, nếu vi phạm sẽ bị xử chém. Về sau, tại lễ đăng quang ở Phú Xuân, Hoàng đế Quang Trung đã kêu gọi toàn dân tập hợp sức mạnh dưới ngọn cờ của Tây Sơn. Do biết dựa vào dân để xây dựng lực lượng, lại có quân lệnh nghiêm minh trong mối quan hệ với nhân dân, nên nghĩa quân Tây Sơn được dân chúng hăng hái tham gia, nhiệt tình ủng hộ về vật chất và tinh thần. Nhận xét về tính chất toàn dân của khởi nghĩa Tây Sơn, một nhà sử học nước ngoài đã viết: “Động lực cơ bản của cuộc khởi nghĩa là nông dân... chính họ đã hợp thành trụ cột của quân đội Tây Sơn, một quân đội đông đảo và thiện chiến; đó cũng là yếu tố quan trọng để họ tiêu diệt lực lượng quân đội phong kiến Việt Nam cũng như bọn xâm lược nhà Thanh”34. Như thế, liên kết các lực lượng địa phương, nhận thức đúng vai trò của nhân dân và bảo vệ quyền lợi của nhân dân đã trở thành những giá trị cốt lõi của tư tưởng khởi nghĩa toàn dân thời phong kiến. Kế thừa và phát triển tư tưởng khởi nghĩa vũ trang của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa quân sự nhân loại, mà cốt lõi là học thuyết quân sự Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh đứng đầu đã xác định cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam là khởi nghĩa toàn dân, khởi nghĩa dân tộc, mang tính chất cách mạng. Ngay từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh: “...Tổ chức càng nhiều càng tốt những nhóm vũ trang của nông dân và công nhân Việt Nam. Đó là tế bào hợp thành hạt nhân của cuộc khởi nghĩa”35. Cũng trong năm 1924, trên cơ sở nghiên cứu cơ bản truyền thống lịch sử, nền văn hóa dân tộc Việt Nam và các giá trị phương Đông, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương... phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng”36. Qua nghiên cứu, Nguyễn Ái Quốc phát hiện ra nội dung lớn mà các tác phẩm lý luận thời ấy ít đề cập, đó là sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc. Với Nguyễn Ái Quốc: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người của biết phản đối, nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối... Cũng chủ nghĩa dân tộc... đã thúc giục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917”37. Yếu tố dân tộc chẳng những có thể ảnh hưởng đến phong trào của giai cấp công nhân, nông dân mà nó còn có khả năng thay đổi lập trường của các giai cấp khác như tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận trong giai cấp địa chủ. Cần nhắc lại rằng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân tộc không chỉ là một cộng đồng người ý thức mình như là dân tộc, mà còn là dân tộc trong quan hệ với thế giới, và như thế, khởi nghĩa toàn dân của dân tộc được đặt trong quan hệ với cách mạng thế giới và nhân loại tiến bộ. Quay trở lại, trong quá trình cách mạng, đặc biệt là trong thời kỳ chuẩn bị và thực hành khởi nghĩa vũ trang, Nguyễn Ái Quốc cho rằng điều cốt yếu là phải huy động được sức mạnh của toàn dân tộc, có như vậy, công cuộc giải phóng đất nước mới giành được thắng lợi. Sự sáng tạo lớn của Nguyễn Ái Quốc là không những phát hiện ra vị trí, tầm quan trọng của sức mạnh dân tộc mà còn đặt đúng vị trí vấn đề dân tộc theo lập trường vô sản, cũng là lập trường tiến bộ của thế giới bấy giờ, từ đó, xác định đúng động lực của cách mạng là giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân; ngoài ra, “yếu tố dân tộc” còn bao gồm cả một số tư sản, địa chủ phần nào có ý thức dân tộc chưa lộ rõ chống đối, phản động. Quan điểm cơ bản này được thể hiện rõ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930). Tuy nhiên, sự sáng tạo quan trọng này của Nguyễn Ái Quốc không phải đã dễ dàng được chấp thuận. Do sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị Trung ương Đảng (10-1930) nhấn mạnh vấn đề giai cấp, đã xác định: “Đến ngày thành thục điều kiện, nhất thiết phải có một cuộc lưu huyết công nông dưới quyền chỉ huy của Đảng làm võ trang bạo động cướp chính quyền”. Về sau, đã có sự chuyển hướng mới. Tháng 7-1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương được triệu tập dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Hồng Phong. Nghị quyết Hội nghị được trình bày cụ thể trong tài liệu Chung quanh vấn đề chiến sách mới, xuất bản ngày 30-10-1936. Tài liệu nêu chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương. Mặt trận đó là cuộc liên hiệp hết thảy các giai cấp trong toàn thể dân tộc bị áp bức đặng tranh đấu đòi những quyền lợi hàng ngày cho toàn dân, chống chế độ thuộc địa vô nhân đạo, để dự bị điều kiện cho cuộc vận động giải phóng được phát triển... Đồng thời, Mặt trận nhân dân có thể là cuộc vũ trang tranh đấu dân tộc giải phóng. Có thể thấy, với những nhận thức đó, Hội nghị Trung ương Đảng (tháng 7-1936) là sự kiện đánh dấu bước chuyển biến của Đảng trong việc đánh giá khả năng của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân nhằm “dự bị” cho cuộc giải phóng dân tộc. Đó là sự trở về với tư tưởng của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930). Đến Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (5- 1941), Trung ương Đảng bàn về những vấn đề trọng đại của đất nước dưới ánh sáng tư tưởng Nguyễn Ái Quốc mà điểm cốt lõi là đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết. Nghị quyết Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc... Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”38. Đây chính là điểm mấu chốt, là ánh sáng soi đường cho khởi nghĩa vũ trang trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám mang tính toàn dân rộng rãi và đó cũng chính là nhân tố cốt lõi bảo đảm cho cuộc Cách mạng Tháng Tám thực sự là cuộc khởi nghĩa toàn dân tộc. Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc viết lời kêu gọi toàn dân: “Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm: người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng. Riêng phần tôi, xin đem hết tâm lực đi cùng các bạn, vì đồng bào mưu giành tự do độc lập, dầu phải hy sinh tính mệnh cũng không nề”39. Tư tưởng khởi nghĩa toàn dân, khởi nghĩa dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về khởi nghĩa vũ trang. Tư tưởng đó đi vào thực tiễn cách mạng Việt Nam đã tạo ra sức mạnh vĩ đại và đó là một trong những nhân tố quyết định bảo đảm cho sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. III. CHÚ TRỌNG XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG, KẾT HỢP CÁC HÌNH THỨC ĐẤU TRANH TRONG QUÁ TRÌNH KHỞI NGHĨA Các cuộc khởi nghĩa chống ngoại bang của nhân dân Việt Nam diễn ra trong tình thế quân xâm lược đã chiếm đóng Việt Nam và không từ một thủ đoạn tàn bạo nào để đàn áp, khủng bố nhằm bảo vệ sự thống trị của chúng. Bởi thế, muốn đập tan cơ cấu quyền lực của địch, giành chính quyền về tay mình, những người khởi xướng và lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa đều hết sức chăm lo xây dựng lực lượng vững mạnh, đồng thời chủ trương kết hợp các hình thức đấu tranh để qua đó vừa rèn luyện dân chúng, phát triển lực lượng ta, vừa từng bước làm suy yếu lực lượng địch, tạo thời cơ tiến lên đánh đuổi quân xâm lược, giải phóng đất nước. Trong thời kỳ chống ách đô hộ phong kiến phương Bắc, dựa vào hình thức tổ chức cộng đồng căn bản lúc bấy giờ là làng bản, các thủ lĩnh nghĩa quân ra sức xây dựng lực lượng, chiêu tập hiền tài, kêu gọi nhân dân hưởng ứng khởi nghĩa. Được nhân dân nhiệt tình ủng hộ, hăng hái tham gia, nghĩa quân phát triển nhanh chóng, cùng với dân chúng nổi dậy tiến công đánh thắng quân thù. Điển hình của việc xây dựng lực lượng khởi nghĩa nhanh và mạnh trong thời kỳ lịch sử đó là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Theo sách Thiên nam ngũ lục và nhiều thần tích thì hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng, chỉ trong 10 ngày đã có 10 vạn người tham gia khởi nghĩa. Với sức mạnh của dân chúng trong cả nước, chỉ trong hơn một tháng hoạt động, quân khởi nghĩa đã đập tan ách đô hộ của nhà Đông Hán, khôi phục nền độc lập tự chủ của đất nước, giữ được chính quyền trong ba năm. Tuy vậy, trước thế kỷ X, tư tưởng về xây dựng lực lượng không biểu hiện rõ nét quan hệ giữa vận động nhân dân kết hợp với đào tạo quân đội chính quy. Tính tự phát và tính địa phương của các lực lượng quân sự trước thế kỷ X, ngay cả dưới thời Đinh và Tiền Lê, chính là biểu hiện của một nền chính trị còn chưa được xây dựng với những nền tảng rộng lớn, thống nhất - đó cũng là hạn chế lớn của lịch sử đối với tư tưởng quân sự trước thế kỷ X, trước kỷ nguyên phục hưng Đại Việt. Khởi nghĩa Lam Sơn cũng là một điển hình về xây dựng lực lượng khởi nghĩa. Những ngày đầu dựng cơ khởi nghĩa, Lê Lợi đã dồn hết tâm sức và của cải để xây dựng nghĩa quân, ông đã “hậu đãi tân khách, vời hiền tài, đón người trốn tránh ngầm nuôi kẻ mưu sĩ, bỏ của phát thóc giúp người cơ bần, nhún lời hậu lễ để thu hào kiệt” (Bia Vĩnh Lăng). Nhờ đó, lực lượng nghĩa quân ngày càng đông. Nếu như đầu năm 1416. Lê Lợi mới có 18 người thân tín nhất làm lễ thề kết nghĩa anh em ở Lũng Nhai thì đến năm 1418 - năm chính thức phát động cuộc khởi nghĩa, Lê Lợi đã có hơn 600 người40, bao gồm 35 quan võ và một số quan văn, 200 quân thiết đột, 200 nghĩa sĩ, 200 dũng sĩ và 14 thớt voi. Với lực lượng đó, nghĩa quân vừa đánh du kích vừa xây dựng lực lượng. Khi cuộc khởi nghĩa đã có ảnh hưởng lớn, quy tụ được nhiều cuộc khởi nghĩa khác, Lê Lợi và Nguyễn Trãi nhận thấy rằng cần phải tổ chức quân đội dân tộc. Phương châm xây dựng lực lượng của hai ông là: “Vỗ nuối sĩ tốt, vời đón hiền giả, thu dụng nhân tài, sửa rèn khí giới, luyện tập binh tượng, dạy bảo những phương pháp ngồi, đứng, tiến, lùi; lại hun đúc điều nhân nghĩa...”41. Quan điểm của Lê Lợi và Nguyễn Trãi là vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng, chú trọng huấn luyện để có tinh binh ngày càng nhiều. Về vấn đề này, Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Vua rèn luyện tướng sĩ, sửa sang khí giới... dạy bảo phép ngồi, đứng, đánh, đâm; chỉ bảo những thế kỳ, chính, phân, hợp; cho biết hiệu chiêng, hiệu trống, hiệu cờ. Kỷ luật quân đã nghiêm, khí thế quân lại càng hăng...”42. Nhờ có quan điểm đúng đắn trong việc xây dựng lực lượng, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn đã thực sự xây dựng được lực lượng nghĩa binh ngày càng lớn mạnh. Từ một đội nghĩa quân nhỏ bé ban đầu ở núi rừng Thanh Hóa đã trở thành quân đội giải phóng chính quy hùng mạnh có số lượng lên đến 35 vạn người, bao gồm nhiều đạo tinh binh, có cả quân bộ và quân thủy với nhiều voi chiến và chiến thuyền. Sự lớn mạnh của nghĩa binh về số lượng và chất lượng đã từng bước tạo ra chuyển biến tương quan lực lượng và cục diện cuộc chiến đôi bên; từ lực lượng mạnh tạo ra thế tốt vây thành, diệt viện, đánh bại quân xâm lược nhà Minh. Có được kết quả đó là do Bộ chỉ huy Lam Sơn có quan điểm tư tưởng đúng đắn trong việc tổ chức, xây dựng lực lượng nghĩa quân. Khởi nghĩa Tây Sơn có nét tương đồng với khởi nghĩa Lam Sơn về xây dựng lực lượng thông qua việc kêu gọi dân chúng ủng hộ, tham gia và chú trọng xây dựng nghĩa quân, nhưng phương thức tiến hành có điểm mới nên nghĩa quân phát triển nhanh từ buổi đầu khởi binh. Năm Tân Mão (1771), ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ dấy binh khởi nghĩa chống lại ách áp bức. bóc lột của tập đoàn cát cứ chúa Nguyễn. Tư tưởng chỉ đạo ban đầu là lấy của người giàu chia cho người nghèo, nghĩa là thực hiện “phân chia lại” quyền sở hữu vật chất, nên đã tranh thủ được sự ủng hộ của đại bộ phận dân chúng lao động nghèo. Không những thế, anh em Nguyễn Nhạc đã khéo khai thác mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ quan lại chúa Nguyễn, đưa ra khẩu hiệu: “Đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương”43. Sách lược khôn ngoan của anh em Nguyễn Nhạc không chỉ nhanh chóng lôi kéo, thu hút được rất nhiều tráng đinh nông thôn đến đầu quân cho nghĩa quân Tây Sơn mà còn lôi kéo được một bộ phận quan lại trong bộ máy chúa Nguyễn có mối bất bình với phe Trương Phúc Loan nên họ đã đưa nhiều tiền ủng hộ quân khởi nghĩa. Nhờ đó, chỉ một thời gian ngắn sau ngày dấy binh, lực lượng nghĩa quân Tây Sơn đã có số lượng hàng nghìn người. Với lực lượng đó, Bộ chỉ huy Tây Sơn chia nghĩa quân làm nhiều đạo tiến đánh các đồn binh, trừng trị bọn quan lại, địa chủ có nhiều tội ác với dân, tuyên bố bãi bỏ các thứ thuế, giải phóng làng xã. Những làng mạc “bị thuế khóa hà khắc đè nặng đã nhiệt liệt tuyên thệ hưởng ứng khởi nghĩa”. Vừa tác chiến, vừa xây dựng lực lượng, đến năm Quý Tỵ (1773), nghĩa là chỉ hai năm sau ngày dấy binh, lực lượng nghĩa quân đã lên đến vài vạn người. Tiếp đó, trải qua những năm tháng hoạt động tác chiến trên các địa bàn Trung, Nam, Bắc, lực lượng nghĩa quân Tây Sơn không ngừng được bổ sung, phát triển về số lượng và chất lượng, quân số lên đến hàng chục vạn người. Cũng cần nói thêm, với uy tín và thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, ông không chỉ thu hút được đông đảo dân chúng lao động nghèo tham gia khởi nghĩa mà còn quy tụ được nhiều nhân sĩ, trí thức ủng hộ, tham gia, làm cho thanh thế nghĩa quân thêm mạnh. Điển hình là trong cuộc hành quân ra Bắc phá giặc Thanh, lúc xuất phát ở Phú Xuân (12-1888) nghĩa quân chỉ độ vài vạn (bộ phận quan trọng ở lại bảo vệ Phú Xuân), nhưng không đầy một tháng trên đường hành quân, nghĩa quân đã lên đến 10 vạn, gồm đủ các thành phần: bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ binh, đại bác thần công... Thực tiễn đó chứng tỏ tài năng kiệt xuất của Hoàng đế Quang Trung trong việc tổ chức, xây dựng lực lượng nghĩa quân. Có thực lực mạnh và cách đánh tài giỏi, nghĩa quân Tây Sơn lần lượt đánh dẹp các tập đoàn phong kiến chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, đánh bại quân xâm lược Xiêm La và Mãn Thanh, để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử quân sự dân tộc. Lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra lúc thăng, lúc trầm, nhưng ngay cả lúc trầm, dân tộc Việt Nam vẫn không ngưng nghỉ xây dựng lực lượng chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới. Trong cái nhìn biện chứng, sự thất bại của mỗi cuộc khởi nghĩa lại chuẩn bị nền tảng cho những cuộc khởi nghĩa lớn hơn, cũng là nền tảng thực tiễn cho sự phát triển của tư tưởng quân sự nói chung và tư tưởng khởi nghĩa nói riêng. Kể từ khi thực dân Pháp xâm lược nước Việt Nam (1858), nhân dân Việt Nam liên tiếp đứng lên chống quân xâm lược nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra. Trong các cuộc khởi nghĩa đó, những người khởi xướng khởi nghĩa hết sức quan tâm đến việc xây dựng lực lượng nghĩa quân. Sau khi khởi nghĩa Phan Đình Phùng bị thực dân Pháp đàn áp, đánh dấu sự kết thúc phong trào Cần Vương (1896), thì đầu thế kỷ XX, phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp phát triển lên một bước mang màu sắc dân chủ tư sản. Tháng 5-1912, Việt Nam Quang Phục hội được thành lập thay cho Duy Tân hội được tổ chức từ năm 1904. Việt Nam Quang Phục hội chủ trương đánh Pháp bằng vũ lực nên quyết định thành lập Quang Phục quân. Để xây dựng lực lượng, Phan Bội Châu và Hoàng Trọng Mậu đã viết tác phẩm Việt Nam Quang Phục quân phương lược gồm 4 chương, xác định rõ tôn chỉ, nghĩa vụ, kỷ luật, kế hoạch thực hiện. Đây là tác phẩm thể hiện rõ quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang, phác họa mô hình xây dựng quân đội khác với quân đội triều Nguyễn về lý tưởng chiến đấu, tổ chức biên chế và tính kỷ luật. Dẫu rằng các điều quy định trong các chương đó không được thực hiện đầy đủ trong thực tiễn bởi nhiều lý do, trong đó có việc Phan Bội Châu bị bắt (12-1923), nhưng đã đánh dấu bước nhận thức mới về xây dựng lực lượng để đánh Pháp. Tháng 12-1927, sau những nỗ lực vận động của Nguyễn Thái Học và một số người khác, một tổ chức mới mang tên Việt Nam Quốc dân Đảng ra đời. Để chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, trong chương trình hoạt động đầu tiên (1927), Việt Nam Quốc dân Đảng đã xác định điều kiện khởi nghĩa và chia quá trình hành động theo ba thời kỳ: thời kỳ thứ nhất, phát triển đảng viên, xây dựng cơ sở đảng; thời kỳ thứ hai, chú trọng xây dựng lực lượng, phát triển các đoàn thể quần chúng; thời kỳ thứ ba, tiến hành khởi nghĩa. Trong Chương trình hành động năm 1929, Việt Nam Quốc dân Đảng chủ trương tiến hành theo 4 thời kỳ: Thời kỳ phôi thai, đảng sẽ bí mật tập hợp lực lượng...; thời kỳ dự bị, bí mật chuẩn bị lương thực, vũ khí, quân trang và vật chất cần thiết...; thời kỳ công khai, tổ chức bãi khóa, bãi công, đánh đuổi giặc Pháp và tay sai; thời kỳ kiến thiết, lập chính phủ cộng hòa, nâng cao dân trí, thực hiện tự do, dân chủ44. Với bản chương trình hành động sau, quan điểm xây dựng lực lượng của Việt Nam Quốc dân Đảng được bổ sung hoàn chỉnh hơn. Tuy nhiên trên thực tế. Việt Nam Quốc dân Đảng không tuân theo các bước đó. Khi quyết định khởi nghĩa Yên Bái, Việt Nam Quốc dân Đảng vẫn chưa vượt qua thời kỳ thứ nhất, tức là thời kỳ tập hợp, xây dựng lực lượng. Do chưa có lực lượng đông đảo để có thể phối hợp chiến đấu giữa các vùng, các khu vực khởi nghĩa, cuộc khởi nghĩa do Việt Nam Quốc dân Đảng khởi xướng và lãnh đạo bị thất bại nhanh chóng trước sự đàn áp khốc liệt của thực dân Pháp. Tiếp thu và phát triển truyền thống quân sự đặc sắc của dân tộc và tinh hoa quân sự thế giới, Nguyễn Ái Quốc cho rằng, công cuộc giải phóng dân tộc trong thời đại mới muốn thành công, phải giải quyết được mối quan hệ giữa yếu tố bên trong và bên ngoài, trong đó yếu tố bên trong mang tính quyết định. Chính vì thế mà từ năm 1923, trong bức thư gửi những người bạn cùng hoạt động ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Chúng ta phải làm gì?... Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”45. Từ quan điểm đó, khi về nước cùng Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến khâu then chốt là xây dựng lực lượng cách mạng (chính trị, quân sự). Do hoàn cảnh dân tộc bị thực dân Pháp thống từ lâu ngày, nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang nổ ra không thành công, tâm lý tự ti, thất vọng, thậm chí mất phương hướng xuất hiện trong một bộ phận của các tầng lớp xã hội. Bởi vậy, để “thức tỉnh” nhân dân, Người viết bức thư Kính cáo đồng bào phân tích rõ nguyên nhân các cuộc khởi nghĩa trước đây không thành công “không phải vì đế quốc mạnh, nhưng một là vì cơ hội chưa chín, hai là vì dân ta chưa hiệp lực đồng tâm”46. Kế đó, Người sáng lập tờ báo Việt Nam độc lập làm công cụ tuyên truyền tập thể và sáng tác nhiều bài thơ dễ hiểu, sát với trình độ nhân dân, động viên các giới đồng bào, các đoàn thể tham gia tranh đấu. Ngày 19-5-1941, theo sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh chính thức được thành lập. Theo sự chỉ đạo của Người, ngày 25-10-1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ. Chương trình Việt Minh gồm 44 điểm, tinh thần cơ bản là cốt thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước: Một là, làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập. Hai là, làm cho dân tộc Việt Nam được sung sướng, tự do. Tuyên ngôn và chương trình Việt Minh phản ánh nguyện vọng thiết tha của toàn dân tộc, có giá trị to lớn trong việc động viên, cổ vũ toàn dân tham gia cách mạng. Về sau, chương trình Việt Minh được đúc kết thành 10 chính sách lớn đem thực hiện ở vùng giải phóng và là nền tảng chính sách cơ bản của nước Việt Nam mới sau khi giành được độc lập. Nhiều người nghiên cứu Mặt trận Việt Minh đã cho rằng đó là một hình thức mặt trận có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng lực lượng để tiến tới khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Vấn đề đoàn kết, tổ chức được Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, xác định là khâu then chốt. Theo quan điểm đó, tháng 12-1941, Trung ương Đảng đã ra chỉ thị về công tác tổ chức, chỉ thị nêu rõ: “Biết tổ chức thì dù bọn phát xít quỷ quyệt tàn nhẫn đến đâu cũng không làm gì nổi. Biết tổ chức, tức là có thêm cán bộ, có võ khí, có tài chính, có chiến đấu lực”47. Chấp hành chỉ thị của Trung ương Đảng, các cấp ủy địa phương đã đẩy mạnh công tác tổ chức, xây dựng lực lượng. Các hội như Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc... được thành lập, tạo nên một lực lượng chính trị hùng hậu và không ngừng phát triển. Đến cuối năm 1944 đầu năm 1945, lực lượng Việt Minh vững mạnh và có ảnh hưởng tới mức mà nhóm tình báo chiến lược Mỹ đã phải ghi nhận là ở Đông Dương chỉ có Đảng Cộng sản là tổ chức duy nhất có thực lực và có một hệ thống cơ sở từ nông thôn đến thành thị, còn các tổ chức khác ngoài Việt Minh đều không có thực lực và không có cơ sở trong dân chúng48. Trên cơ sở lực lượng chính trị hùng hậu, Đảng Cộng sản Đông Dương và Nguyễn Ái Quốc chủ trương xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang với quy mô thích hợp. Nhưng để phát triển lực lượng đó, vấn đề đặt ra là phải xây dựng lý luận về lực lượng vũ trang sao cho phù hợp với đặc điểm, truyền thống xây dựng lực lượng vũ trang của dân tộc và phù hợp với nguyên lý xây dựng quân đội kiểu mới mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã đúc kết. Nhận thức rõ điều đó, Nguyễn Ái Quốc hết sức lưu tâm đến việc xây dựng lý luận về tổ chức quân sự - một vấn đề mà các hội nghị Trung ương Đảng trước đó đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau, nhưng chưa đầy đủ và hệ thống do nhu cầu thực tiễn chưa cấp bách. Người cho rằng, trên cơ sở lực lượng chính trị hùng hậu của quần chúng mà xây dựng lực lượng vũ trang cơ sở song song với việc xây dựng quân đội cách mạng. Để làm sáng tỏ những nguyên tắc cơ bản về xây dựng lực lượng vũ trang, Nguyễn Ái Quốc viết một số tác phẩm tập trung lý giải làm sáng tỏ bản chất lực lượng vũ trang; xác định cơ cấu lực lượng; các mối quan hệ nội bộ, quân với dân; vấn đề đoàn kết, kỷ luật, địa bàn đứng chân và xác định phương pháp đánh giặc... Trên cơ sở lý luận của Người, các cấp ủy đảng đã vận dụng vào thực tiễn rất sáng tạo. Nhờ đó, lực lượng vũ trang phát triển nhanh về số lượng, vững chắc về tổ chức. Từ tiểu tổ du kích, đội du kích chính thức được tổ chức rộng khắp, cuối năm 1944, đội quân chủ lực đầu tiên đã được thành lập. Trên cơ sở lực lượng vũ trang, nòng cốt là đội quân chủ lực phát triển nhanh chóng, tháng 4-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự Bắc Kỳ, quyết định thống nhất Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân thành Việt Nam giải phóng quân, thành lập ủy ban quân sự cách mạng, thúc đẩy phong trào cách mạng, phát triển lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhanh, mạnh mẽ hơn nữa. Việc xây dựng được lực lượng cách mạng (chính trị, quân sự) hùng hậu trong thời kỳ này là một thành công to lớn của cách mạng Việt Nam. Thành công đó khẳng định quan điểm đúng đắn, sáng tạo của Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong việc xây dựng lực lượng tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Đồng thời với việc chú trọng xây dựng lực lượng khởi nghĩa, tư tưởng quân sự Việt Nam còn chú trọng đến việc kết hợp các hình thức đấu tranh trong quá trình khởi nghĩa nhằm chuyển hóa lúc lượng có lợi cho Việt Nam, tiến lên đánh đổ chính quyền địch. Dân tộc Việt Nam tiến hành khởi nghĩa trong điều kiện lúc đầu thường chỉ có một lực lượng quân sự (nghĩa quân) không nhiều, vũ khí ít và thô sơ. Trong điều kiện đó, những người khởi xướng và lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa chủ trương vừa chiến đấu vừa xây dựng, đi từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến mạnh; đồng thời, đề ra các phương thức đấu tranh thích hợp để giành thắng lợi. Đó là phương thức kết hợp tác chiến của nghĩa quân với nổi dậy của dân chúng để tiêu diệt địch, đập tan ách thống trị của kẻ thù, giành lại chính quyền trên toàn bộ đất nước. Phương thức đấu tranh đó vừa khai thác, phát huy được sức mạnh của dân chúng, thực hiện cả nước nổi dậy tiến công giặc, vừa tạo điều kiện để lực lượng quân sự tiến công, giáng cho địch những đòn đau, làm tan rã hàng ngũ quân xâm lược. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Lý Bí, Mai Thúc Loan...là kiểu mẫu thành công của sự phối hợp tác chiến giữa nghĩa quân với nổi dậy của dân chúng trên cả nước. Bên cạnh phương thức đấu tranh cơ bản đó, phương thức tác chiến kết hợp với địch vận cũng được quân khởi nghĩa áp dụng nhằm đưa đến kết quả cao nhất. Tiêu biểu cho việc áp dụng phương thức này là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn Trong cuộc khởi nghĩa đó, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương đánh lâu dài, kết hợp các hình thức đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, địch vận. Theo hai ông, một nước nhỏ cầm vũ khí chống lại quân xâm lược lớn mạnh thì phải kháng chiến lâu dài để từng bước làm chuyển biến tương quan lực lượng, quân ta ngày càng mạnh, đối phương ngày càng suy yếu. Như thế, quá trình kháng chiến phải kết hợp các hình thức đấu tranh, trong đó có địch vận, góp phần vào thắng lợi chung. Từ những bức thư gửi cho đối phương, có thể nói rằng, Nguyễn Trãi là người đầu tiên trong lịch sử quân sự Việt Nam đã nêu lên và thực hiện chủ trương địch vận một cách hệ thống. Trong các bức thư gửi tướng nhà Minh, Nguyễn Trãi đặc biệt chú ý phân tích tính chất chính nghĩa, sự lớn mạnh của nghĩa quân và nguy cơ diệt vong của quân xâm lược ông đứng trên tư thế của người chiến thắng dùng lý lẽ để vận động, thuyết phục quân thù. Sự vận động, thuyết phục đó tất nhiên chưa thể lay chuyển được thái độ ngoan cố của những kẻ cầm đầu quân Minh; nhưng sau đó, kết hợp với đòn quân sự tiêu diệt lực lượng viện binh, chém đầu Liễu Thăng Vương Thông và các tướng khác của quân Minh mới chịu khuất phục. Không chỉ viết thư vận động, thuyết phục quân Minh, Nguyễn Trãi còn viết thư cho bọn tay sai nhằm phân hóa, thuyết phục họ quay giáo đánh quân xâm lược, trở về với chính nghĩa. Qua 68 bức thư gửi cho quân giặc, tiếng nói và ngòi bút tuyệt vời của Nguyễn Trãi có sức mạnh chẳng kém gì “cả vạn quân thiện chiến”. Về thành công của tư tưởng chiến lược này, chính Nguyễn Trãi đã viết trong Lam Sơn thực lục: “Xưa quân sĩ đói thiếu thì lại nhờ vào lương của giặc mà lương của ta thêm đầy đủ, xưa khi quân sĩ trốn tan, thì lại nhờ binh của giặc trở giáo đánh nhau. Phàm cung tên, giáo mộc của giặc đều là chiến khí của ta, vàng bạc châu báu của giặc đều là quân tư của ta; cái nó dùng để hại ta ngược lại lại hại nó, cái nó muốn dùng để đánh úp ta, ngược lại lại đánh nó”49. Ngoài hai phương thức đấu tranh trên đây, các cuộc khởi nghĩa còn sử dụng phương thức tác chiến kết hợp với hoạt động ly gián nội bộ địch, tiêu biểu cho phương thức này là khởi nghĩa Tây Sơn. Biết Phạm Ngô Cầu, tướng giữ thành Phú Xuân, bản tính nhu nhược và mê tín, Nguyễn Huệ lập mưu cho người đến phán tướng số họa phúc, khiến cho Cầu hoảng sợ, sai quân sĩ xây đàn, tổ chức cúng lễ nhiều ngày đêm gây hao tổn sức lực của quân lính. Đã thế, Nguyễn Huệ còn sai người viết thư dụ hàng phó tướng là Nguyễn Đình Thể, nhưng lại “gửi nhầm” cho chủ tướng Cầu để ly gián nội bộ. Nhờ kế hiểm lừa địch, lại giỏi tính toán thủy triều, quân Tây Sơn dễ dàng hành binh, vượt tường thành đột nhập vào bên trong giáp chiến tiêu diệt đối phương. Các hình thức đấu tranh trong khởi nghĩa vũ trang của dân tộc được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa và phát triển lên một bước mới. Thông qua Mặt trận Việt Minh, Đảng đã lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân, học sinh, tiểu thương ở ngay các trung tâm kinh tế, chính trị của chính quyền thuộc địa. Đó là cuộc đấu tranh của công nhân bến tàu Sài Gòn (11-1941); mít tinh chống cướp thóc ở Quảng Nam (1-1942); đình công đòi phát lương của công nhân Hòn Gai (2-1942); đấu tranh đòi chia lại ruộng công của nông dân Tiền Hải - Thái Bình (6-1942); bãi thị chống tăng thuế của tiểu thương Hà Nội (1-1943), v.v.. Nổi bật nhất của phong trào đấu tranh thời kỳ này là phong trào phá kho thóc của Nhật chia cho nhân dân. Phá kho thóc của Nhật cứu đói đồng bào là một hình thức đấu tranh mới, nhân văn, có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển lực lượng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, không khí cách mạng sục sôi, lan rộng khắp các tỉnh từ Bắc chí Nam. Nhân dân ở nhiều nơi đã sẵn sàng khởi nghĩa. Để phong trào phát triển đồng đều và mạnh hơn nữa, cuối năm 1944, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh chủ trương từng bước đẩy mạnh đấu tranh vũ trang trên cơ sở phong trào đấu tranh chính trị. Người nói: “Nếu bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới. Nhưng nếu phát động khởi nghĩa vũ trang ngay thì quân thù sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Song hiện nay chính trị còn trọng hơn quân sự”50. Chủ trương sáng suốt thay đổi hình thức đấu tranh từ chính trị tiến lên quân sự và Người chỉ rõ cho đến thời điểm đó chính trị còn trọng hơn quân sự, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc chỉ đạo các hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở định hướng đó, đến đầu năm 1945, phong trào cách mạng có những bước phát triển mới. Cũng từ định hướng đó, khi Hồ Chí Minh ra nước ngoài thực hiện chiến lược ngoại giao quốc tế thì Tổng Bí thư Trung ương Đảng Trường Chinh đã quyết định triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (mở rộng) ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945). Hội nghị quyết định thay đổi khẩu hiệu và hình thức đấu tranh trong cả nước, sẵn sàng chuyển lên Tổng khởi nghĩa khi đã hội đủ điều kiện. Chủ trương đúng đắn của Thường vụ Trung ương Đảng đã lập tức dấy lên cao trào chống Nhật, cứu nước mạnh mẽ trong toàn quốc. Hàng triệu hội viên mới gia nhập Việt Minh. Lực lượng chính trị ở thành thị và nông thôn cũng như lực lượng vũ trang phát triển nhanh chóng. Khởi nghĩa từng phần nổ ra ở nhiều địa phương. Thế và lực cách mạng phát triển mạnh. Có được kết quả đó là do lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam có quan điểm đúng đắn trong xây dựng lực lượng chính trị, quân sự và xác định các hình thức đấu tranh phù hợp, sáng tạo. Tư tưởng xây dựng lực lượng và tư tưởng về các hình thức đấu tranh, xét đến cùng, đều có cốt lõi là tính nhân dân trong công tác tổ chức các hoạt động quân sự. Tính nhân dân, bao giờ cũng vậy, tự nó biểu hiện trên hai phương diện: phương diện thứ nhất là sự tham gia và thái độ của nhân dân đối với các hoạt động quân sự được tổ chức và vận động; phương diện thứ hai chính là công tác tổ chức và vận động quần chúng nhân dân khi tiến hành các hoạt động quân sự. Thật vậy, trong khi phương diện thứ nhất là nền tảng cho phương diện thứ hai, thì phương diện thứ hai của tính nhân dân, như đã được trình bày. chính là cốt lõi của tư tưởng quân sự về xây dựng lực lượng cũng như tư tưởng quân sự về các hình thức đấu tranh trong khởi nghĩa. Còn có thể thấy rằng, khi tính nhân dân trên hai phương diện đó được biểu hiện ở mức cao nhất, nghĩa là hai phương diện của tính nhân dân trong tư tưởng quân sự thống nhất trong các biểu hiện của nó, thì khởi nghĩa đến rất gần giai đoạn tổng khởi nghĩa. IV. KHỞI NGHĨA TỪNG PHẦN TIẾN LÊN TỔNG KHỞI NGHĨA Trong khởi nghĩa vũ trang, việc xác định đúng hình thái khởi nghĩa có ý nghĩa rất quan trọng. Nếu xác định đúng về lý luận, thì từ đó công tác tổ chức khởi nghĩa sẽ có những bước chuyển quan trọng trong giai đoạn khởi nghĩa, từ đó tạo điều kiện cho sự phong phú trong hoạt động và thành công trong thực tiễn của khởi nghĩa. Khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa là luận điểm mới được Đảng khái quát và nêu rõ trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương của Đảng tháng 5-1941. Trước đây, tuy không có nhiều tài liệu đề cập đến hình thái khởi nghĩa về tư tưởng lý luận, nhưng trong thực tiễn lại diễn ra khá đa dạng, nhiều màu sắc. Nhìn chung, các cuộc khởi nghĩa trong lịch sử, có cuộc diễn ra ngắn, có nhiều cuộc kéo dài, nhưng có điểm chung là các cuộc khởi nghĩa đó đều bắt đầu khởi sự từ địa phương các vị thủ lĩnh, sau đó mới lan ra các địa phương khác trong vùng hoặc phát triển thành cuộc khởi nghĩa có tính chất toàn quốc. Nếu các cuộc khởi nghĩa chỉ có tính chất địa phương, hoạt động trong địa phương của một tỉnh hoặc một vùng gồm nhiều tỉnh lân cận thì các cuộc khởi nghĩa đó dù kéo dài nhiều năm, thậm chí trên 30 năm, cuối cùng vẫn bị kẻ thù đàn áp tàn khốc. Đó là trường hợp khởi nghĩa của Lê Duy Mật (1738-1769), khởi nghĩa Hoàng Công Chất (1739-1769), khởi nghĩa Yên Thế (1884- 1913)... Nhưng lại có nhiều cuộc khởi nghĩa thời gian ngắn, lúc đầu khởi sự tại quê hương người khởi xướng, sau đó lan rộng ra toàn quốc, được bàn dân ủng hộ, hăng hái hưởng ứng tham gia, nên cuối cùng giành được thắng lợi, xét trên phương diện những mục tiêu ban đầu của khởi nghĩa. Đó là khởi nghĩa Hai Bà Trưng, khởi nghĩa Lý Bí, khởi nghĩa Mai Thúc Loan, khởi nghĩa Phùng Hưng. Đặc biệt, có những cuộc khởi nghĩa, tiêu biểu là khởi nghĩa Lam Sơn và khởi nghĩa Tây Sơn đã chuyển hóa hình thái và tính chất, lúc đầu nổ ra ở địa phương người thủ lĩnh nghĩa quân và mang tính chất khởi nghĩa, về sau phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng, có quân đội hàng chục vạn người, tác chiến trên nhiều địa bàn của cả nước, đánh bại quân xâm lược trên chiến trường, kết thúc thắng lợi sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Kế thừa và phát triển truyền thống quân sự của dân tộc và vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về khởi nghĩa vũ trang, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã xác định đúng hình thái khởi nghĩa - khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa trong cả nước. Ngay từ những năm hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã dành nhiều thời gian nghiên cứu lý luận, khảo sát các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như khởi nghĩa ở Đa Hô Mây, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, cách mạng tư sản Pháp, Mỹ và nhất là lưu ý đến các cuộc khởi nghĩa do giai cấp vô sản lãnh đạo như Công xã Pari (1871), Tổng khởi nghĩa Tháng Mười Nga (1917), khởi nghĩa Quảng Châu (1927). Nhận thấy những bài học sâu sắc của cuộc Tổng khởi nghĩa ở Nga, nên khi về nước cùng với Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã dành thời gian dịch tác phẩm Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô51 -một tác phẩm trình bày khá rõ kinh nghiệm đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang thắng lợi ở Nga. Người nhận xét rằng, cuộc khởi nghĩa ở Nga thành công, mở ra thời đại mới. Xét về hình thái, khởi nghĩa chủ yếu nổ ra ở thành thị, nơi tập trung lực lượng giai cấp công nhân đông đảo. Những bài học kinh nghiệm Tổng khởi nghĩa Tháng Mười Nga rất quý, nhưng khỉ áp dụng vào thực tiễn phải lưu ý đến bối cảnh và đặc điểm của các nước thuộc địa, bởi ở đó đội ngũ công nhân vừa ít, vừa không tập trung do hệ thống công nghiệp non kém và rời rạc. Do tầm quan trọng của việc xây dựng lý luận cách mạng giải phóng mà trọng tâm lúc đó là lý luận về khởi nghĩa vũ trang, Nguyễn Ái Quốc bổ sung và hoàn chỉnh tác phẩm Con đường giải phóng. Tác phẩm xác định: Muốn giải phóng, ta phải đánh đuổi Nhật - Tây. Cuộc khởi nghĩa vũ trang sắp diễn ra ở Việt Nam là một cuộc khởi nghĩa giải phóng dân tộc do toàn dân tiến hành, lấy công nhân và nông dân làm lực lượng chủ yếu. Hình thái cuộc khởi nghĩa ở Việt Nam không giống như hình thái khởi nghĩa ở các nước châu Âu. Nếu như các nước châu Âu, châu Mỹ, khởi nghĩa vũ trang thường bắt đầu từ các cuộc bãi công chính trị ở thành thị rồi chuyển tiếp tới bạo động vũ trang thì ở Việt Nam, cuộc khởi nghĩa có thể bùng nổ ở một vài địa phương rồi lan dần khắp nước. Điểm xuất phát các cuộc khởi nghĩa địa phương có thể là những vùng rừng núi, nơi tiện cho lối đánh du kích, tiện cho việc xây dựng căn cứ địa cách mạng52. Tinh thần cơ bản đó dược Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng (5-1941) tiếp nhận. Nghị quyết Hội nghị đã dành hẳn một phần viết về “võ trang khởi nghĩa”. Phân tích xu hướng phát triển của tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị cho rằng tình hình thế giới chuyển biến sẽ làm cho tình hình Đông Dương thay đổi có lợi cho cách mạng; ách thống trị của Pháp - Nhật tuy chưa bước vào thời kỳ khủng hoảng đến cực điểm, nhưng nhất định trong thời gian tới, khi cuộc chiến tranh chuyển sang có lợi cho phe dân chủ, chính quyền Pêtanh và chính quyền phát xít Nhật lung lay, đổ nát thì lúc đó chúng không thể “đem sức đàn áp cách mạng của ta”. Còn đối với nhân dân Việt Nam, tuy đã khổ sở nhiều, nhưng cũng chưa phải đã hết đường sống, cho nên chưa quyết liệt bước vào con đường tranh đấu. Nhưng rồi đây một khi tình thế đã khác, quần chúng nhất định đứng lên chống lại quân giặc. Đến lúc đó, cả thế giới như một nồi nước sôi, cách mạng Đông Dương sẽ có một bước phát triển nhảy vọt để “dọn đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa mạnh mẽ”. Tiếp thu tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị phân tích và chỉ ra mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, từ đó khẳng định hình thái khởi nghĩa ởViệt Nam trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai: “Mai đây cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và cuộc kháng chiến của nhân dân Tàu xoay ra hoàn toàn cho cuộc cách mạng Đông Dương thắng lợi, thì lúc đó với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”53. Như vậy, “khởi nghĩa từng phần” được Hội nghị đề ra có nội dung khác với khởi nghĩa địa phương. Khởi nghĩa từng phần đóng vai trò đòn bẩy thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển nhảy vọt, nó là cơ sở để tổng khởi nghĩa thành công. Chỉ trong điều kiện cuộc tổng khởi nghĩa đang vận động tới chín muồi thì các địa phương mới cô điều kiện phát động khởi nghĩa từng phần thắng lợi. Khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa là hình thái vận động đặc thù của quy luật tổng khởi nghĩa ởViệt Nam được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc phát hiện, sau đó được Đảng khẳng định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng (5-1941). Không chỉ quan tâm xây dựng lý luận khởi nghĩa, xác định hình thái đặc thù khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng còn rất nhạy bén trong chỉ đạo thực tiễn khởi nghĩa vũ trang. Ngay trong đêm phát xít Nhật nổ súng đảo chính pháp (9-3-1945), Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp (mở rộng), chủ trương đưa quần chúng ra đấu tranh bằng nhiều hình thức nhằm tập dượt cho quần chúng mạnh dạn tiến lên khởi nghĩa, đồng thời quyết định cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ. Với chủ trương đúng đắn này của Đảng, phong trào đấu tranh của quần chúng dâng lên mạnh mẽ. Đến tháng 8-1945, thực lực cách mạng đã phát triển hùng hậu. Lúc này, tình hình quốc tế cũng chuyển biến mau lẹ, có lợi cho cách mạng Việt Nam. Trước thời cơ lịch sử xuất hiện, theo quyết định của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đảng họp Hội nghị toàn quốc (từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945) và ngay sau đó, Đại hội Quốc dân khai mạc (16-8) tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng. Sự kiện lịch sử đó chứng tỏ rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa không những là hạt nhân của đường lối khởi nghĩa vũ trang của Đảng mà tư tưởng đó đã thâm nhập vào thực tiễn, được toàn dân quyết tâm thực hiện với nghị lực và sức mạnh vĩ đại trong những ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 lịch sử. Từ một phương diện nhất định, tư tưởng tổng khởi nghĩa là một bước tiến lớn trong tư tưởng quân sự Việt Nam, và là bộ phận quan trọng trong tư tưởng quân sự Việt Nam hiện đại. Trước hết, tư tưởng tổng khởi nghĩa không chỉ bao gồm hai bộ phận (a) lực lượng khởi nghĩa - phương thức chiến tranh (b) công tác tiến hành khởi nghĩa từ bộ phận đến toàn thể, mà còn bao gồm (c) thời cơ khởi nghĩa. Trong đó, nhân tố (c) cho thấy tính chất hiện đại của tư tưởng tổng khởi nghĩa với hai nhân tố: thời cơ trong nước và thời cơ quốc tế. Như thế, tư tưởng tổng khởi nghĩa và tư tưởng giành chính quyền có mối quan hệ biện chứng, vừa là hai tiến trình độc lập trong tổng thể một cuộc chiến tranh cách mạng giành chính quyền, vừa là hai tiến trình thống nhất và kế tiếp nhau trong tổng thể cách mạng. V. CHỚP THỜI CƠ LỊCH SỬ ĐẬP TAN CƠ CẤU QUYỀN LỰC ĐỊCH, GIÀNH CHÍNH QUYỀN GẮN LIỀN VỚI BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN TRONG CẢ NƯỚC Mục tiêu hàng đầu của khởi nghĩa vũ trang là đập tan cơ cấu quyền lực của địch, giành chính quyền. Để thực hiện mục tiêu đó, công tác cần có là phải xác định đúng thời cơ thuận lợi để tiến hành những bước cuối của khởi nghĩa vũ trang, nhất là khi thời cơ đã xuất hiện thì phải nhạy bén chớp lấy để phát động quần chúng và lực lượng vũ trang đứng lên giành lại chính quyền gắn liền với bảo vệ chính quyền trong cả nước. Tư tưởng về chớp thời cơ lịch sử đập tan cơ cấu quyền lực địch giành chính quyền là khớp nối quan trọng và là khâu quyết định trong tổng thể quá trình thực hiện và tiến hành chiến tranh cách mạng. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Lý Bí, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng... được đông đảo toàn dân ủng hộ, hăng hái tham gia nên giành được thắng lợi. Sau thắng lợi, các vị thủ lĩnh của các cuộc khởi nghĩa đó đều xưng đế hoặc xưng vương, thành lập chính quyền, củng cố lực lượng bảo vệ chính quyền. Tuy nhiên, do ở sát biên giới với các thế lực xâm lược phong kiến phương Bắc có tiềm lực mạnh, bổ sung quân số nhanh, nên việc bảo vệ thành quả khởi nghĩa đều bất thành, bị kẻ thù thẳng tay đàn áp, lập lại ách đô hộ của chúng. Cuối thế kỷ IX đầu thế kỷ X, phong trào đấu tranh giành quyền tự chủ của nhân dân Việt Nam nổ ra mạnh mẽ. Lúc này, ở Trung Quốc, triều đình phong kiến bắt đầu đổ nát. Nạn cát cứ của các tập đoàn quân phiệt phong kiến và cuộc khởi nghĩa nông dân Hoàng Sào (874-884) đã làm lung lay tận gốc nền thống trị nhà Đường. Chớp thời cơ viên Tiết độ sứ Độc Cô Tổn về nước (6-905), Khúc Thừa Dụ - một hào trưởng đất Hồng Châu (Hải Dương) được nhân dân ủng hộ đã nổi dậy tiến quân chiếm phủ Tống Bình (Hà Nội), tự xưng là Tiết độ sứ, xóa bỏ thực chất chính quyền đô hộ (nhưng lại lợi dụng danh nghĩa của chính quyền đó), chuyển sang giành quyền tự chủ. Nắm được thực quyền, Khúc Thừa Dụ khôn khéo ứng xử với triều đình phong kiến phương Bắc theo phương châm “độc lập thật sự, thần thuộc trên danh nghĩa”. Buộc phải công nhận một việc đã rồi, vua Đường phong tước và phong chức “Tĩnh hải quân Tiết độ sứ” cho Khúc Thừa Dụ. Sau khi Khúc Thừa Dụ qua đời, Khúc Hạo lên thay (7-907); khoảng năm 917-918, Khúc Thừa Mỹ thay Khúc Hạo làm Tiết độ sứ cho đến năm 930 thì bị Nam Hán khởi binh đàn áp. Mặc dù Khúc Thừa Mỹ bị quân xâm lược bắt, nhưng chúng không thể đè bẹp được ý chí của lực lượng kháng chiến; Dương Đình Nghệ, tiếp đến là Ngô Quyền đã chỉ huy quân sĩ đánh bại quân Nam Hán, giành lại quyền tự chủ lâu dài cho đất nước vào năm 938. Chớp thời cơ nổi dậy xóa bỏ thực chất chính quyền đô hộ, nắm thực quyền của họ Khúc và những cải cách quan trọng của Khúc Hạo có ý nghĩa to lớn trong “giai đoạn bản lề” của lịch sử. Tiếp nối truyền thống đấu tranh chống ách đô hộ phong kiến phương Bắc, từ đầu thế kỷ XV cho đến cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng ở Yên Bái (1930), nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra. Xét về quy mô, khởi nghĩa Lam Sơn và khởi nghĩa Tây Sơn là nổi bật nhất, đánh dấu bước phát triển mới về tạo thời cơ và chớp thời cơ tiến công địch, giành chính quyền và bảo vệ chính quyền. Đối với khởi nghĩa Lam Sơn, thời kỳ đầu (1418-1424), nghĩa quân hoạt động ở núi rừng Thanh Hóa gặp nhiều khó khăn, nhưng khi tiến vào đất Nghệ An theo kế của Nguyễn Chích thì thế và lực nghĩa quân có bước phát triển mới. Chỉ trong vòng một năm (1424-1425), nghĩa quân đã giải phóng một vùng đất rộng lớn từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa. Nhằm đối phó với nghĩa quân, quân Minh đưa lực lượng vào chống đỡ, đồng thời cho người về nước cầu cứu viện binh. Nhận thấy “tinh binh của giặc tất ở Nghệ An, còn các thành Đông Đô đều ruỗng yếu”54, viện binh chưa kịp sang, Lê Lợi và Bộ Chỉ huy nghĩa quân quyết định tranh thủ thời cơ mở cuộc tiến công ra Bắc tiêu diệt địch, mở rộng vùng giải phóng. Sau khi tiêu diệt 6 vạn quân Minh55 ở Cổ Lãm, Tốt Động, Chúc Động và Ninh Kiều, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương củng cố hậu phương, xây dựng chính quyền trong đại bộ phận đất nước đã được giải phóng; tiếp tục vây các thành và công hãm thành Đông Quan, chuẩn bị tiêu diệt viện binh của giặc. Bằng nghệ thuật tác chiến độc đáo, quân Lam Sơn nhanh chóng đánh bại hai đạo quân tiếp viện gồm 15 vạn tên do Liễu Thăng và Mộc Thành cầm đầu. Quân tiếp viện bị đánh bại, tướng sĩ quân Minh ở Đông Quan vô cùng hoảng sợ nhưng vẫn rất ngoan cố. Với thiện chí hòa bình, kết thúc chiến tranh trên tinh thần đại nghĩa và nhân văn, Lê Lợi và Nguyễn Trãi kiên trì thuyết phục, mở đường thoát danh dự cho quân địch. Mười vạn quân Minh bị đại bộ phận tinh binh (trong tổng số 35 vạn quân Lam Sơn) vây chặt trong thành, không còn con đường nào khác buộc phải “giảng hòa”. Bộ chỉ huy Lam Sơn tổ chức “hội thề Đông Quan”, cấp ngựa, cấp thuyền cho quân Minh về nước. Việc “tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh”56, rồi cấp phương tiện cho chúng về nước đã tác động mạnh mẽ đến chủ trương của triều Minh, không dám gây sự báo thù. Sau thắng lợi trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, vương triều Lê Sơ được thành lập. Quốc gia Đại Việt bước vào thời kỳ phát triển mới và không bị nạn xâm lược của phong kiến phương Bắc trong nhiều thế kỷ. Khởi nghĩa Tây Sơn cũng có nét đặc sắc riêng trong việc tạo thời cơ diệt địch giành chính quyền và bảo vệ chính quyền. Đó là sau khi lấy được vùng đất Quảng Nam, trên cơ sở thế và lực đã mạnh, Nguyễn Nhạc quyết định danh xưng mới là Tây Sơn Vương (1776). Hai năm sau, ông lên ngôi Hoàng đế, lấy thành Đồ Bàn làm kinh đô. Sau khi đánh bại quân Nguyễn Ánh ở Gia Định (1782) và chiến công vang dội quét sạch quân xâm lược Xiêm ra khỏi đất nước (1785), Nguyên Nhạc quyết định tiến công quân Trịnh ở Phú Xuân, đánh chiếm toàn bộ Thuận Hóa57. Thực hiện kế hoạch, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã đánh bật hơn 3 vạn quân Trịnh khỏi lãnh thổ Đàng Trong, lấy được Phú Xuân (6-1786). Chớp thời cơ thuận lợi, Nguyễn Huệ cử người về trình báo Nguyễn Nhạc tin đại thắng, đồng thời ra lệnh cho quân sĩ vượt sông Gianh tiến thẳng ra Bắc đập tan sự thống trị của chúa Trình đang bị lung lay bởi nạn kiêu binh. Sau chiến thắng, quân Tây Sơn rút về Nam, Bắc Hà lại rơi vào tình trạng hỗn loạn nghiêm trọng. Bởi thế, Nguyễn Huệ lại cầm quân ra Bắc diệt quân phản loạn (5-1788). Để đề phòng sự bất trắc có thể xảy ra, trước khi trở về Phú Xuân, Nguyễn Huệ thành lập Bộ chỉ huy Tây Sơn để cai quản 11 trấn Bắc Hà. Cuối năm 1788, nhà Thanh cho quân tràn sang xâm lược nước ta. Nhận được tin, ngày 25-11 năm Mậu Thân (22-12-1788), Nguyễn Huệ xưng Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, trực tiếp cầm quân ra Bắc phá giặc Thanh. Khi dẫn đại quân đến Tam Điệp - Biện Sơn, Hoàng đế Quang Trung đã nói với các tướng sĩ: Lần này, ta thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đều đã được tính toán sẵn, chẳng qua chỉ độ mươi ngày là đã có thể đánh được người Thanh. Nhưng chúng là nước lớn gấp mười lần nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt sẽ lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù, như thế thì họa binh đao chẳng bao giờ dứt, đó không phải là điều phúc cho dân, ai nỡ lòng nào mà làm được. Đến lúc ấy chỉ có người khéo lời lẽ mới mong dập nổi binh đao58. Đúng như lời Hoàng đế Quang Trung, chỉ bằng một cuộc tiến quân thần tốc với “phương lược tiến đánh” tài tình, quân đội Tây Sơn đã nhanh chóng quét sạch 29 vạn quân xâm lược nhà Thanh ra khỏi bờ cõi nước Việt Nam. Sau chiến thắng vang dội đó, để bảo vệ chính quyền Tây Sơn, hoàng đế Quang Trung cử Ngô Thì Nhậm đảm nhiệm việc bang giao với nhà Thanh59. Năm 1790, Hoàng đế Quang Trung còn giao cho Ngô Văn Sở dẫn đầu đoàn sứ đưa người đóng giả Quang Trung là Phạm Công Trị sang Yên Kinh mừng thọ vua Thanh nhân dịp 80 tuổi. Cùng với chiến thắng to lớn về quân sự, hoạt động bang giao của Ngô Thì Nhậm một năm ba lần lên ải Nam Quan (Nhất niên tam độ đảo Nam Quan) để gặp các quan triều Thanh bàn việc hữu hảo và hoạt động của phái bộ do Ngô Văn Sở dẫn đầu đã góp phần chấm dứt nguy cơ một cuộc chiến tranh xâm lược mới từ phía nhà Thanh (trước đó, vua nhà Thanh đã cử Phúc An Khang làm Tổng đốc Lưỡng Quảng, phao tin điều động 50 vạn quân sang báo thù). Không những thế, vua Thanh còn chính thức công nhận triều Tây Sơn, ra lệnh an trí bọn lưu vong Lê Chiêu Thống, bãi bỏ lệ cống người bằng vàng, bỏ việc đòi đất đai. Rõ ràng, tư tưởng kiên quyết tiến công đánh bại đối phương bằng đòn quân sự sấm sét trên chiến trường kết hợp với ngoại giao mềm dẻo để bảo vệ nền độc lập đất nước, bảo vệ chính quyền thời Tây Sơn là bước phát triển mới, làm phong phú thêm tư tưởng quân sự của dân tộc. Tiếp thu truyền thống quân sự đặc sắc của dân tộc, vận dụng sáng tạo chỉ dẫn của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về thời cơ khởi nghĩa, giành chính quyền gắn liền với bảo vệ chính quyền cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Hồ Chí Minh, đã đề ra những chủ trương phù hợp với điều kiện và đặc điểm của cách mạng Việt Nam. Cần nhấn mạnh rằng, khi đang hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã hiểu sâu sắc vấn đề thời cơ trong khởi nghĩa vũ trang. Trong bài giảng cho học viên Việt Nam tại lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu (Trung Quốc), Người đã viết: “Cuối tháng 10, đâu cũng có tổ chức cả rồi, ai cũng muốn cử sự. Nhưng ông Lênin bảo: “Khoan đã! Chờ ít bữa nữa cho ai ai cũng phản đối chính phủ, lúc ấy sẽ cử sự”. Đến ngày 5 tháng 11, chính phủ khai hội để ban bố phép luật mới, mà phép luật ấy thì lợi cho tư bản mà hại cho công, nông. Ông Lênin nói với đảng viên rằng: Mồng 6 cử sự thì sớm quá, vì dân chưa biết hết luật lệ xấu ấy, mà chưa biết luật lệ ấy thì chưa ghét chính phủ lắm. Mồng 8 cử sự thì muộn quá vì khi ấy thì chính phủ đã biết rằng dân oán và đã phòng bị nghiêm ngặt rồi. Quả nhiên ngày mồng 7 Đảng Cộng sản hạ lịnh cách mạng, thì thợ thuyền ào đến vây chính phủ, dân cày ào đến đuổi địa chủ... Từ bữa ấy, chính phủ hoạt đầu bỏ chạy, Đảng Cộng sản cầm quyền, tổ chức ra Chính phủ công, nông, binh”60. Nguyễn Ái Quốc, qua bài giảng, đã truyền thụ cho học viên hiểu rõ về vấn đề thời cơ trong khởi nghĩa vũ trang. Về sau, khi về nước cùng với Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Người đặc biệt lưu ý đến vấn đề thời cơ.Trong tác phẩm Con đường giải phóng do Người chỉ đạo biên soạn, chỉnh lý và Nghị quyết Trung ương lần thứ tám của Đảng (5-1941) do Người chủ trì, lý luận về thời cơ khởi nghĩa ở Việt Nam được trình bày sáng rõ. Theo đó, thời cơ xuất hiện khi: Một là, lực lượng đế quốc thống trị lung lay, bối rối, không đủ sức giữ địa vị của chúng như trước nữa. Hai là, dân chúng căm tức kẻ thù cực điểm, quyết hy sinh nổi dậy đấu tranh với đế quốc đến cùng vì hiểu rằng ngồi yên cũng chết. Ba là, chính đảng cách mạng có chính sách đúng lãnh đạo dân chúng khởi nghĩa và được dân chúng tin cậy. Từ những nét tổng quát về lý luận thời cơ khởi nghĩa được xác định vấn đề đặt ra là phải theo dõi sát và đánh giá đúng cũng như lượng định chính xác xu hướng diễn biến của tình hình quốc tế và trong nước để vận dụng lý luận đó vào công tác tổ chức và chỉ đạo thực tiễn. Trong thời gian này, những nhân tố nội lực bảo đảm cho cuộc tổng khởi nghĩa mà lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam xác định trong lý luận và dày công tổ chức đã thành hiện thực. Các điều kiện quốc tế cũng đang vận động thuận lợi, nhất là khi Hồng quân Liên Xô mở cuộc tiến công vào đạo quân Nhật ở Mãn Châu (Trung Quốc); phát xít Nhật đứng trước tình thế sụp đổ chỉ tính từng ngày. Bởi vậy, lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ thị: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”61. Tuy nhiên, theo Người, thời điểm phát lệnh tổng khởi nghĩa lại phải chính xác, khoa học. Phát lệnh tổng khởi nghĩa sớm hoặc muộn đều không có lợi cho cách mạng, bởi Pháp đang lăm le quay trở lại thuộc địa cũ, Tưởng cũng đang ấp ủ mưu đồ của họ, còn lực lượng phát xít Nhật trên đất nước Việt Nam lúc đó rất lớn. Bởi vậy thời điểm phát lệnh tổng khởi nghĩa không thể trước lúc quân Nhật có biểu hiện ngoại giao đầu hàng. Nhưng nếu đợi đến lúc Chính phủ Nhật đầu hàng Đồng minh và chỉ thị cho quân Nhật trên chiến trường hạ vũ khí thì sẽ rất phức tạp vì đội quân “nhập Việt” của Tưởng đã đóng sát biên giới sẽ lập tức tràn vào Việt Nam. Chính vì vậy, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã theo dõi sát tình hình, nhất là các tin tức từ thủ đô nước Nhật. Qua bản tin của đài Xan Phranxicô (Mỹ) loan báo Chính phủ Thụy Sỹ đã chuyển công hàm của Nhật đến Chính phủ Mỹ đề nghị sửa đổi bốn điều trong bản Tuyên bố Pốtxđam, lãnh tụ Hồ Chí Minh nhận thấy động thái sắp sửa đầu hàng của Nhật Bản. Ngay trong đêm 12-8, Người đã bàn với Tổng Bí thư Trường Chinh họp ngay Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng, mặc dầu giấy triệu tập ấn định ngày 18-8-1945. Theo gợi ý và chỉ đạo của Người, Thường vụ Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã quyết định thành lập ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Đúng 23 giờ ngày 13-8, bản Quân lệnh số 1 về Tổng khởi nghĩa được công bố. Ngày 15-8, trong khi Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng đang họp phiên cuối cùng để quyết định những chủ trương lớn trong đối nội, đối ngoại, thì trưa hôm đó Đài phát thanh phương Tây đưa tin Nhật Bản tuyên bố đầu hàng Đồng minh. Ngày hôm sau (16-8), Đại hội quốc dân Tân Trào họp và bàn ngay những vấn đề then chốt, tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng, quyết định thành lập ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Cũng ngay trong ngày 16-8, Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa đến toàn thể quốc dân Việt Nam. Bức thư nhấn mạnh: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ”62. Lệnh Tổng khởi nghĩa đã phát. Lời hiệu triệu của lãnh tụ dân tộc đã gửi quốc dân. Toàn dân Việt Nam nhất tề vùng dậy. Ngày 19-8, khởi nghĩa thành công ở Hà Nội; ngày 23- 8, chính quyền cách mạng được thiết lập ở Huế, ngày 25, ta giành chính quyền ở Sài Gòn. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công trong cả nước. Hiểu rõ nguyên lý mà V.I. Lênin đã nêu về giá trị của cuộc cách mạng khi biết tự bảo vệ thành quả, nên trong quá trình lãnh đạo chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa vũ trang, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng không chỉ quan tâm đến xây dựng lực lượng cách mạng (chính trị, quân sự) và vấn đề thời cơ khởi nghĩa mà còn rất quan tâm đến việc bảo vệ thành quả cách mạng, gắn việc đấu tranh giành chính quyền với bảo vệ chính quyền. Quá trình lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nêu rõ quan điểm về xây dựng chế độ mới, xây dựng chính quyền và bảo vệ chính quyền cách mạng. Điều đó phản ánh sâu sắc trong tác phẩm Con đường giải phóng và các nghị quyết của Đảng. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối khởi nghĩa vũ trang của Đảng, Việt Nam đã xây dựng chính quyền cách mạng ở các căn cứ địa. khu giải phóng; chiến đấu chống các cuộc càn quét của địch bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ chính quyền cách mạng. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, trịnh trọng tuyên bố với thế giới và toàn thể quốc dân sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời khẳng định mạnh mẽ quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ nền độc lập dân tộc: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”63. Như vậy, cách mạng Việt Nam vừa tạo nên thành quả giành được chính quyền trong cả nước, vừa tạo nên tiền đề vững chắc về tinh thần và lực lượng để bảo vệ thành quả ấy, tiến lên giành những thắng lợi mới trong các giai đoạn lịch sử tiếp theo. Tóm lại, xuất phát từ nhu cầu của công cuộc đấu tranh cứu nước, cứu dân khỏi ách áp bức ngoại bang, tư tưởng khởi nghĩa vũ trang của dân tộc Việt Nam từng bước hình thành, được bổ sung, hoàn chỉnh và phát triển đến đỉnh cao trong thời kỳ khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư tưởng đó đề cập nhiều nội dung: Khẳng định khởi nghĩa vũ trang thắng lợi trước hết phải có đường lối đúng; tính chất khởi nghĩa toàn dân, do toàn dân tộc tiến hành; chú trọng xây dựng lực lượng, kết hợp các hình thức đấu tranh; xác định hình thái khởi nghĩa, thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền gắn liền với bảo vệ chính quyền. Các quan điểm cơ bản trong tư tưởng khởi nghĩa vũ trang không chỉ soi sáng cho thực tiễn đấu tranh chống ách áp bức ngoại bang trước đây mà còn giúp cho các thế hệ kế tiếp những định hướng có tính nguyên tắc, phương pháp xem xét và vận dụng trong điều kiện lịch sử mới (về sự đúng đắn, sáng tạo trong việc hoạch định chủ trương, đường lối; về phương thức xây dựng lực lượng; phát huy sức mạnh toàn dân tộc; tạo thời cơ và chớp thời cơ...) để xây dựng đất nước giàu mạnh và bảo vệ Tổ quốc bình yên. ---------- Chú thích 1. Dẫn theo Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Danh nhân quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, t.1, tr.20. 2. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, t.I, tr.178. 3. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.179. 4. Ngày nay là chùa Trấn Quốc, nằm trên một hòn đảo phía đông Hồ Tây (thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội). Việc dựng “chùa Khai Quốc” có một ý nghĩa quan trọng: rõ ràng Phật giáo đã trở thành một phần lực lượng chính trị thời bấy giờ, và hành động lập chùa còn có nghĩa lực lượng tinh thần ấy nghiễm nhiên có được hình thái thực tiễn của mình trong quá trình giữ nước từ buổi ban sơ. Như thế, từ một góc nhìn khác, đối với Lý Bí, trong khởi nghĩa, nhiệm vụ động viên và biểu hiện lá cờ tinh thần dân tộc cũng như thể hiện tính chính danh của cuộc khởi nghĩa là hết sức cần thiết. Thực vậy, vào thế kỷ VI, nguồn lực vật chất và tinh thần từ phía tăng lữ Phật giáo chắc chắn là một động lực quan trọng cho khởi nghĩa của Lý Bí. Xem thêm: Nguyễn Duy Hinh: Văn minh Đại Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2005. 5. Cuộc khởi nghĩa của Giản Định Đế Trần Ngỗi (mất năm 1410) và sau đó là Trùng Quang Đế Trần Quý Khoáng (mất năm 1414) là một ví dụ lịch sử quan trọng. Ban đầu, mục tiêu của cuộc khởi nghĩa là hợp đề của a- sự phục hưng một triều đại và b- độc lập, tự chủ chính tả của một quốc gia. Nhưng khi lợi ích dòng họ và sự ích kỉ cá nhân của Trần Khoáng trở thành động lực cho hành xử của người đứng đầu khởi nghĩa, thì cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng đi đến chỗ tự hủy hoại với việc Trần Khoáng, vì nghi kị, đã chém hai người quan trọng của cuộc khơi nghĩa là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Xem thêm: Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2004. 6. Xem Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Danh nhân quân sự Việt Nam thời Lê Trung Hưng - Tây Sơn, Sđd, tr. 59. 7. Việt Nam Quang Phục hội được thành lập năm 1912 do Phan Bội Châu đề xướng với tôn chỉ Khôi phục Việt Nam, kiến lập dân quốc cộng hòa. Những hoạt động của hội này một mặt cho thấy sự yếu kém trong tư tưởng khởi nghĩa vũ trang, mặt khác thì sự yếu kém ấy lại phản ánh tình trạng bế tắc của các lực lượng yêu nước bấy giờ. Nỗ lực đáng nói nhất về công tác tổ chức lực lượng tiến đến khởi nghĩa của Việt Nam Quang Phục hội là cuộc vận động phối hợp với vua Duy Tân năm 1916 ở Huế và Nam Trung Kỳ lại là một thảm kịch của công tác tổ chức và đường lối khởi nghĩa. Xem thêm: Dương Kinh Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858-1918), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 365. Cũng xem thêm: 100 năm phong trào Duy Tân ở miền Trung (Tạp chí Xưa và Nay, số 148/2003). 8. Khởi nghĩa Yên Bái là một phần trong cuộc khởi nghĩa do Việt Nam Quốc dân Đảng (thành lập năm 1927) tổ chức và lãnh đạo nhằm vào một số thành phố trọng yếu ở miền Bắc Việt Nam, vào tháng 2-1930. Cần thấy rằng, trong tư tưởng khởi nghĩa vũ trang của ban lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng, đường lối khởi nghĩa vũ trang khá mù mờ, công tác tổ chức và kế hoạch khởi nghĩa đều mang tính chất nhất thời nhỏ hẹp, thậm chí có xu hướng tự phát, thiếu lực lượng, thiếu liên kết thực sự giữa các khâu đoạn của “tổng khởi nghĩa”. Cuộc tổng khởi nghĩa như dự tính của họ đã thất bại nhanh chóng. 9. Lê Duẩn: Một vài đặc điểm có cách mạng Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1959, tr. 41. 10. Tác phẩm Đường Kách mệnh, do Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông ấn hành lần đầu tiên tại Quảng Châu (Trung Quốc) năm 1927. Có thể coi tác phẩm này là “đề cương”, “dự án” cách mạng Việt Nam khái quát nhất và cơ bản nhất. Cái nhìn về sự liên kết giữa dân tộc cách mệnh và giai cấp cách mệnh, dân tộc cách mệnh và thế giới cách mệnh, cách mệnh An Nam và cách mệnh Pháp, lực lượng cách mệnh và các tổ chức cách mệnh... là kim chỉ nam quan trọng cho đường lối cách mạng nói chung và đường lối tổ chức khởi nghĩa nói riêng. 11. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh với quá trình hình thành và chiến thắng của quân đội ta, Tạp chí Cộng sản, số 24, tháng 12-1999. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr.2. 13. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 94. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6, tr.538- 539. 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.58, 112-113. 17,18. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.128,118. 19. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.129. 20. Trước khi về nước, Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện cán bộ tại một địa điểm gần biên giới Trung - Việt. Người hướng dẫn đồng chí Phùng Chí Kiên, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh biên soạn các bài giảng. Tập tài liệu này về sau được Người bổ sung và hoàn chỉnh, in thành cuốn sách Con đường giải phóng. 21. Xem Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Hồ Chí """