" Lịch Sử Tư Tưởng Quân Sự Việt Nam 4: Từ năm 1945 đến năm 1975 PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lịch Sử Tư Tưởng Quân Sự Việt Nam 4: Từ năm 1945 đến năm 1975 PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Contents No table of contents entries found. Lời Nhà xuất bản Bằng cuộc Tổng khởi nghĩa long trời lở đất trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dân tộc ta đánh đổ ách thống trị của phát xít Nhật, thực dân Pháp và chế độ phong kiến nhà Nguyễn, thiết lập nhà nước kiểu mới - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á - Nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam vào ngày 2-9-1945 lịch sử. Vừa giành được độc lập, tự do sau gần một thế kỷ bị ngoại bang đô hộ, dân tộc ta thiết tha mong muốn có hòa bình để xây dựng lại đất nước. Trong tình thế thù trong, giặc ngoài, "Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa". Chỉ ba tuần sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhân dân Sài Gòn - Gia Định, nhân dân Nam Bộ đã buộc phải cầm vũ khí đứng lên chống lại quân Pháp tái vũ trang xâm lược và để rồi hơn một năm sau đó, Hà Nội mở đầu cho toàn quốc kháng chiến vào đêm 19-12-1946. Sau chín năm kháng chiến trường kỳ gian khổ, tự lực cánh sinh, sức mạnh của cả dân tộc hội tụ về Điện Biên để làm nên chiến thắng "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, nhưng dân tộc ta mới giải phóng được nửa đất nước, miền Nam thành đồng Tổ quốc đi trước về sau vẫn còn bị rên xiết dưới gót giày xâm lược của đế quốc Mỹ - tên đế quốc đầu sỏ và bè lũ tay sai bán nước. Dân tộc ta phải tiếp tục cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt, đầy hy sinh, gian khổ suốt 21 năm ròng rã mới quét sạch quân viễn chinh Mỹ và quân các nước phụ thuộc ra khỏi miền Nam, đánh đổ ngụy quân, ngụy quyền, giải phóng hoàn toàn miền Nam thân yêu, thống nhất Tổ quốc. Cuộc chiến tranh cách mạng kéo dài 30 năm (1945 - 1975) với hai cuộc kháng chiến thần thánh đánh thắng hai tên đế quốc xâm lược đầu sỏ, đã làm rạng rỡ, sáng ngời học thuyết và tư tưởng quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, thể hiện sự kết tinh, hội tụ văn hóa dựng nước, văn hóa giữ nước Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử được nhân lên bởi tư tưởng tiến bộ của thời đại - chủ nghĩa Mác - Lênin và tinh hoa các học thuyết quân sự cổ - kim - Đông - Tây mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa, chọn lọc. Trong bộ Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam gồm 5 tập, tập IV được dành riêng để trình bày tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và tư tưởng quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam qua 30 năm chiến tranh cách mạng. Giai đoạn lịch sử quang vinh nhưng nhiều hy sinh, mất mát, đau thương này đã được nghiên cứu, phản ánh trong nhiều bộ sử lớn đã được công bố: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Lịch sử Quốc hội Việt Nam, Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954- 1975) và lịch sử các quân binh chủng, các quân khu, quân đoàn, các địa phương, đơn vị... Bộ Lịch sử quân sự Việt Nam 14 tập đã dành tập 10, tập 11 tập 12 để viết về hai cuộc kháng chiến vĩ đại này. Đặc biệt, bộ tổng kết chiến tranh gồm: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) - Thắng lợi và bài học; Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954- 1975) - Thắng lợi và bài học; 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945-1975) - Thắng lợi và bài học của Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị đã được xuất bản nhiều năm qua. Đây vừa là thuận lợi rất cơ bản, nhưng đồng thời cũng là thách thức mà các tác giả của tập sách phải vượt qua để vừa kế thừa những kết quả nghiên cứu đã được công bố, vừa trình bày những kết quả nghiên cứu mới có sức thuyết phục trong yêu cầu chung của bộ Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam. Mặc dù các tác giả đã rất nỗ lực để cấu trúc hợp lý những nội dung cần truyền tải nhưng khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam cùng các tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp, phê bình của bạn đọc. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 12 năm 2014 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT Mở đầu Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước gắn liền với giữ nước, dân tộc Việt Nam đã phải tiến hành nhiều cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc chống lại các kẻ thù xâm lược mạnh hơn, lớn hơn gấp nhiều lần về sức mạnh kinh tế, quân sự. Quá nửa thời gian trong lịch sử hàng nghìn năm đó, các thế hệ người Việt Nam phải dồn tâm lực vào các hoạt động quân sự để giành và giữ vững nền tự do, độc lập, vẹn toàn lãnh thổ. Tiến trình lịch sử đầy gian khó, thử thách, hy sinh ấy đã hun đúc tinh thần đấu tranh bất khuất, ý chí tự lực, tự cường và truyền thống đánh giặc của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Xuất hiện do nhu cầu chống ngoại xâm, đặt trong mối quan hệ giữa chiến tranh và hoà bình, giữa dựng nước và giữ nước, tài thao lược, tư tưởng và nghệ thuật quân sự Việt Nam không ngừng phát triển đạt đến đỉnh cao trong 30 năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc (1945- 1975). Là một nhân tố quan trọng có ý nghĩa quyết định thành bại trong kháng chiến, tư tưởng quân sự Việt Nam trong 30 năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc (1945-1975) là sự kết hợp nhuần nhuyễn, sự kế thừa, hấp thụ tinh hoa quân sự của dân tộc và thế giới; là bước phát triển mới, đạt tới đỉnh cao; vừa hàm chứa tính hiện đại của hoạt động chiến tranh ở thế kỷ XX, vừa mang nét đặc trưng nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc. Tư tưởng quân sự Việt Nam trong 30 năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc (1945-1975) vừa mang nội dung rộng lớn, có tính toàn diện và tổng hợp cao, vừa nối kết lĩnh vực quân sự với các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, đối ngoại... Đó là tư tưởng quân sự về chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, kết hợp chặt chẽ quân sự với chính trị, tác chiến với binh vận, kết hợp tiêu diệt địch và phát động quần chúng giành quyền làm chủ, kết hợp đánh du kích và đánh tập trung, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn. Đó còn là tư tưởng về hoạt động xây dựng hậu phương căn cứ địa kháng chiến; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc... Những nội dung cơ bản trên đây của tư tưởng quân sự Việt Nam trong 30 năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc (1945-1975) làm giàu thêm kho tàng lý luận và tư tưởng quân sự Việt Nam - kho tàng ấy cần được giữ gìn, nghiên cứu, khai thác, vận dụng và phát triển trong điều kiện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Dựa trên việc khai thác và xử lý tư liệu một cách khoa học, phân tích cẩn trọng các nguồn tư liệu, cập nhật những quan điểm, thành tựu nghiên cứu mới nhất, công trình Tư tưởng quân sự Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945- 1975) làm rõ những nội dung cơ bản, cốt yếu của tư tưởng quân sự Việt Nam hiện đại trên mọi chiều cạnh, chỉ ra tính độc đáo, đặc sắc và vận dụng những giá trị của nó vào bảo vệ Tổ quốc và xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Trên tinh thần khách quan, trung thực, cố gắng khai thác tối đa các nguồn tư liệu, nhất là các tư liệu gốc, tư liệu lưu trữ, mục tiêu xuyên suốt mà tập thể tác giả đặt ra khi bắt tay nghiên cứu và hoàn thành là công trình làm sáng rõ một số vấn đề hoặc liên quan, hoặc thuộc về tư tưởng quân sự Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đạt được mục tiêu đặt ra không phải đơn giản, với tinh thần thực sự cầu thị, chúng tôi mong nhận được những đóng góp và phê bình của độc giả. Nhân dịp cuốn sách Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập IV (từ năm 1945 đến năm 1975), ra mắt bạn đọc, tập thể tác giả xin chân thành cám ơn Lãnh đạo Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, các cơ quan chức năng, bạn bè đồng nghiệp đã cộng tác và tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu, nghiệm thu và xuất bản công trình. Chương I QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945 - 1975) Trong thế kỷ XX, loài người đã chứng kiến những biến động nhanh chóng và dữ dội nhất trong lịch sử. Nếu trong nửa đầu thế kỷ XX, hai cuộc đại chiến thế giới cùng sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã ảnh hưởng trực tiếp đi gốc nền của thế giới cũ, thì trong nửa cuối thế kỷ XX, lại là thời gian diễn ra sự sụp đổ cơ bản của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và kiểu mới lẫn chủ nghĩa xã hội hiện thực - vốn là mô hình chưa hoàn thành của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản trong hình thái chủ nghĩa thực dân, bắt đầu bị tan rã từ những thất bại trước phong trào dân tộc của Thế giới thứ ba. Bất ngờ, nhưng không ngẫu nhiên, hai trụ cột của chủ nghĩa thực dân là Pháp và Mỹ đều lần lượt bắt đầu sự suy tàn của mình tại Việt Nam. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thống nhất đất nước đã để lại những trang sử có ý nghĩa sâu sắc không chỉ đối với bản thân dân tộc Việt Nam, mà còn với lịch sử nhân loại. Bao giờ cũng vậy, có những sự kiện trong lịch sử đánh dấu sự mở đầu cho những thời đại mới - trong chừng mực đó, nó có tầm vóc vượt ra ngoài bản thân nó, cũng như có sức sống vượt ra khỏi giới hạn sự kiện. Như vậy, có thể nói rằng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam (1945-1975) kết thúc thắng lợi là một biểu tượng về sự toàn thắng của chủ nghĩa dân tộc chân chính và trí tuệ con người, sẽ đi vào lịch sử thế giới như một sự kiện có tầm quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc. Trong khoảng thời gian 30 năm ấy, chiến tranh nhân dân từng bước phát triển, vượt qua các thách thức lịch sử, vươn tới đỉnh cao, đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi hoàn toàn: lần lượt đánh bại quân xâm lược Pháp và Mỹ, giữ vững và phát triển thành quả cách mạng, giành lại độc lập dân tộc, mang lại tự do trọn vẹn cho Tổ quốc. Chiến thắng ấy đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam: chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở Việt Nam. Quá trình ấy trải qua hai chặng đường liên tục kế tiếp nhau đầy gian nan, thử thách -từ cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp (1945-1954) đến cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ 21 năm trường kỳ (1954-1975). Công tác tìm hiểu bối cảnh lịch sử của tư tưởng, học thuyết là cần thiết để thấy được những nhân tố lịch đại, đồng đại cấu thành nên đặc tính của mỗi tư tưởng, học thuyết. Trên cơ sở đó, nghiên cứu lịch sử Việt Nam trong 30 năm kháng chiến sẽ cho thấy vai trò lịch sử và sự phát triển của tư tưởng quân sự Việt Nam nói chung, tư tưởng quân sự Việt Nam hiện đại nói riêng. Dĩ nhiên, học thuyết chiến tranh, tư tưởng quân sự và nghệ thuật quân sự có mối quan hệ mật thiết, nhưng sự phát triển về mặt lịch đại của từng lĩnh vực là không đồng nhất với nhau. Việc làm rõ hoàn cảnh lịch sử sẽ chỉ ra hai phương diện khi nghiên cứu tư tưởng quân sự là: (a) những khuynh hướng chính trị quyết định đối tượng và phương pháp luận của học thuyết chiến tranh cùng tư tưởng quân sự; (b) những nền tảng thực tiễn đóng vai trò quyết định trong quá trình ra đời nghệ thuật quân sự, từ đó củng cố và mở rộng hơn nữa các nhân tố của tư tưởng quân sự. Với quan điểm này, mối quan hệ biện chứng giữa chính trị và quân sự, giữa nhà nước và quân đội, giữa thực tiễn và tư tưởng là tiền đề cho nhận thức và công tác nghiên cứu. I. KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945-1954) 1. Những vận động, biến đổi chính trị trên thế giới và ở Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ hai Tháng 5-1945, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc ở châu Âu, tháng 8-1945 kết thúc trên toàn thế giới với sự thất bại hoàn toàn của phe phát xít. Hai sự kiện ấy tạo nên những biến đổi quan trọng trên toàn cầu. Tại châu Âu, cuối năm 1944, đầu năm 1945, khi Hồng quân Liên Xô truy kích quân phát xít, lực lượng vũ trang và nhân dân các nước Đông Âu đã phối hợp nổi dậy giành độc lập thành lập nhà nước cộng hoà dân chủ nhân dân: Ba Lan, Tiệp Khắc, Bungari, Hunggari, Anbani, Nam Tư, Rumani, Cộng hoà Dân chủ Đức. Tại châu Á, dưới sự lãnh đạo của các đảng cộng sản, nhân dân nhiều nước đã giành lại được nền độc lập của mình như Việt Nam, Cộng hoà Dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Tại những nước này, sau khi giành được độc lập Đảng Cộng sản đã lãnh đạo nhân dân lao động bắt tay ngay vào xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Như vậy, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thực tế đã hình thành với Liên Xô là trung tâm, là một trong những biến đổi to lớn nhất của lịch sử thế giới trong thế kỷ XX, ảnh hưởng đến bước đường phát triển của lịch sử thế giới nói chung là vận mệnh của nhiều dân tộc nói riêng. Phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân, các cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ đã bùng nổ ngày càng mạnh mẽ. Nhân dân các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc ở Á, Phi, Mỹ - La tinh đẩy mạnh phong trào đấu tranh đòi độc lập dân tộc. Ở châu Á, các nước như Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên..., dưới sự lãnh đạo của các chính đảng giai cấp công nhân bắt tay vào xây dựng chế độ dân chủ nhân dân theo con đường xã hội chủ nghĩa. Ở nhiều nước khác (như Ấn Độ, Mianma, Inđônêxia, Ai Cập, Xyri...), các đảng phái của giai cấp tư sản dân tộc đã tập hợp, lãnh đạo nhân dân đứng lên giành độc lập và phát triển đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa mang tính dân tộc, thực hiện đường lối đối ngoại hoà bình và trung lập. Đảng Cộng sản và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản vì lợi ích chung của những người lao động; cũng như trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và phát xít vì hoà bình, dân sinh và dân chủ là hiện tượng đặc biệt của thế kỷ XX. Tại các nước tư bản Tây Âu đã xuất hiện nhiều Đảng Cộng sản với 3,1 triệu đảng viên, có vị trí vững chắc trong các tổ chức công đoàn và các tổ chức dân chủ khác. Đây thật sự là một lực lượng chính trị vững mạnh. Tại một số nước (như Pháp, Italia...), các Đảng Cộng sản đã tham gia liên minh cầm quyền trong chính phủ của giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh trực diện của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân tiến bộ vào chủ nghĩa tư bản chính là động lực đồng thời cũng là như đồng minh của phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Góp phần to lớn vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới chính là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, các nước mới giành được độc lập, trong đó có Việt Nam. Trong khi đó, các nước phát xít bại trận (Đức, Italia, Nhật Bản) phải đầu hàng quân Đồng minh không điều kiện, chịu những hậu quả chiến tranh tàn khốc, buộc phải bồi thường chiến phí hết sức nặng nề, khiến cho tình hình chính trị, kinh tế - xã hội ở các nước đó càng trở nên khủng hoảng nghiêm trọng. Các nước đế quốc châu Âu khác tuy thắng trận nhưng cũng bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề. Sản xuất công nghiệp, nông nghiệp đều giảm sút nghiêm trọng, góp phần đưa nền kinh tế của các nước này vào tình trạng trì trệ, đình đốn. Bên cạnh đó, các cuộc đấu tranh của phong trào công nhân và các tầng lớp nhân dân không ngừng phát triển, đặt giai cấp tư sản vào những thử thách nghiêm trọng. Bên cạnh đó, các nước này đang phải đối phó với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa đang ngày càng lên cao. Sau chiến tranh, các nước này đều trở thành con nợ của Mỹ và đều thiếu nguồn vốn để phục hồi nền sản xuất. Để duy trì sự thống trị của mình, đối phó với các cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, giai cấp tư sản ở các nước này phải dựa vào nguồn viện trợ của Mỹ (thông qua kế hoạch của Ngoại trưởng Mỹ Mácsan). Từ năm 1948 đến năm 1952, việc nhận viện trợ của Mỹ tới 15 tỉ đôla1, khiến các nước tư bản Tây Âu càng phụ thuộc Mỹ nhiều hơn về kinh tế, chính trị... Mỹ là nước thu được những lợi nhuận khổng lồ từ việc buôn bán vũ khí và bồi thường chiến tranh (Mỹ đã thu được 114 tỉ đôla lợi nhuận chiến tranh), lại không bị chiến tranh thế giới tàn phá. Nhờ vậy, sau chiến tranh, Mỹ vươn lên trở thành cường quốc số một về kinh tế, tài chính, quốc phòng trong hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa2. Với ưu thế vượt trội, giới cầm quyền Mỹ đã đề ra và theo đuổi chiến lược toàn cầu, thực hiện “sứ mệnh lãnh đạo thế giới”. Ba mục tiêu chiến lược toàn cầu được Mỹ đặt ra là: ngăn chặn, đẩy lùi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa; ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc, phong trào hoà bình, dân chủ trên thế giới; củng cố quan hệ với các nước đồng minh. Để đạt được mục tiêu đó, Mỹ tiến hành cuộc chạy đua vũ trang, phát triển lực lượng hạt nhân, xúc tiến thành lập các khối liên minh quân sự, xây dựng các căn cứ quân sự ở nước ngoài. Tháng 3-1947, trong bài diễn văn đọc trước Quốc hội Mỹ, Tổng thống Tơruman đã đưa ra “học thuyết Tơruman”3, chính thức phát động cuộc Chiến tranh lạnh4. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, theo thỏa thuận giữa các nước thắng trận, thuộc địa cũ của những nước thuộc phe Đồng minh được bảo đảm, trong đó, Đông Dương “chịu ảnh hưởng truyền thống của nước Pháp”. Ngay sau khi vừa giành lại nền độc lập, nước Việt Nam mới đã phải đối diện với tình thế hết sức hiểm nghèo: Chỉ 10 ngày sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thành công trong cả nước, theo quyết định của Hội nghị Pốtxđam, quân Đồng minh đã lần lượt kéo vào Việt Nam thực hiện nhiệm vụ giải giáp quân Nhật (giải giáp khoảng 6 vạn lính Nhật). Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, dưới danh nghĩa quân Đồng minh, 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch đã tràn vào Hà Nội và hầu khắp các tỉnh miền Bắc. Có “kim bài” của Hội nghị Pốtxđam, quân Tưởng lộng hành, nuôi ý đồ thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền cách mạng và thành lập một chính phủ thân Tưởng. Do vậy, theo quân Tưởng vào Việt Nam là lực lượng Việt Nam Quốc dân Đảng (còn gọi là Việt Quốc) và Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội (còn gọi là Việt Cách). Được sự hậu thuẫn của quân Tưởng Giới Thạch, những lực lượng này giúp các thế lực phản cách mạng tiến hành chống phá, cướp chính quyền ở nhiều nơi như: Yên Bái, Móng Cái, Vĩnh Yên. Đội quân này gây ra nhiều vụ cướp bóc, giết người và tuyên truyền, kích động quẩn chúng chống lại chính quyền cách mạng... Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, dưới danh nghĩa giải giáp quân Nhật, quân Anh tiến vào Việt Nam, nhưng thực chất là để dọn đường, tạo điều kiện cho thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Đông Dương. Về phía thực dân Pháp, ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng minh, chính phủ Đờ Gôn (De Gaulle) đã cử một đạo quân viễn chinh sang Đông Dương do tướng Lơcơléc (Leclerc) chỉ huy; đồng thời, cử Đô đốc Đácgiăngliơ (D' Argenlieu) sang làm Cao uỷ Pháp ở Đông Dương với “sứ mệnh đầu tiên của Cao uỷ là khôi phục lại chủ quyền của Pháp trên lãnh thổ Liên bang Đông Dương. Tướng chỉ huy tối cao của các lực lượng quân sự tại Viễn Đông chịu trách nhiệm dưới quyền Cao uỷ thi hành mọi biện pháp quân sự cần thiết nhằm khôi phục chủ quyền đó”5. Ngày 2-9-1945, trong khi nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn tổ chức mít tinh chào mừng ngày độc lập quân Pháp đã nấp trong Nhà thờ lớn và xả súng bắn, làm 47 người chết, nhiều người bị thương. Khi đó, nền kinh tế Việt Nam vốn nghèo nàn, lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Nạn lụt lớn vào tháng 8-1945 làm vỡ đê 9 tỉnh đồng bằng Bắc Bộ khiến cho mùa màng thu được rất thấp. Sau lụt lớn lại là hạn hán kéo dài làm cho nhiều diện tích đất canh tác bị bỏ hoang. Sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp vốn nhỏ bé, kiệt quệ nay càng trở nên đình đốn dẫn đến hàng hoá trên thị trường ngày càng khan hiếm, giá cả tăng vọt làm đời sống nhân dân gặp muôn vàn khó khăn. Đất nước tuy mới giành được độc lập, nhưng chính quyền mới lại không kiểm soát được Ngân hàng Đông Dương, nên vấn đề tài chính lúc này rất khó khăn. Ngân sách Trung ương chỉ có 1.230.000 đồng, gần một nửa rách nát không lưu hành được ở miền Bắc, quân Tưởng tung ra các loại tiền quan kim, quốc tệ đã mất giá trị, làm cho nền tài chính Việt Nam thêm rối loạn. Những di sản văn hoá của xã hội cũ như hơn 90% dân số không biết chữ, các tệ nạn xã hội như: rượu chè, cờ bạc, mại dâm, nghiện hút... vẫn còn phổ biến, cũng là một trở lực đối với cách mạng Việt Nam cũng như đối với sự phát triển nói chung của dân tộc. Chính quyền dân chủ nhân dân vừa mới ra đời nên khả năng quản lý, điều hành còn hạn chế. Tại một số địa phương, cơ cấu tổ chức chính quyền không hợp lý dẫn đến tình trạng bao biện, nảy sinh mâu thuẫn, chồng chéo giữa các cơ quan, các cấp. Cơ cấu quản lý cán bộ còn lỏng lẻo, thiếu giám sát đối với công tác cán bộ nên ở một số nơi, bọn phản động đã chui được vào các tổ chức đảng, chính quyền cách mạng. Quân đội quốc gia là lực lượng chủ yếu bảo vệ đất nước lúc này vừa được xây dựng, tổ chức lại. Cán bộ chỉ huy thiếu, đa số chưa trải qua những khóa huấn luyện quân sự, đào tạo cơ bản; chỉ một số ít được học trong các trường võ bị của thực dân Pháp, Trung Hoa dân quốc. Vũ khí, trang bị cho quân đội còn thiếu nhiều, lại rất lạc hậu. Kinh nghiệm chiến đấu của lực lượng vũ trang chưa nhiều, lại phải đối đầu với các đạo quân xâm lược nhà nghề, hung bạo. Thực vậy, trong lịch sử, ngoại trừ các dân tộc phát triển bằng bạo lực quân sự để gia tăng chiến tranh và cướp bóc, thường thì sự phát triển của lực lượng quân sự là theo sau sự phát triển của nhà nước và các điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Cho dù Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ được phát triển dựa vào một lực lượng cách mạng, nhưng mối quan hệ giữa Nhà nước và quân đội cho thấy bản chất hòa bình của dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh Nhà nước được thành lập dựa trên khát vọng tự do, hòa bình, độc lập của dân tộc, tư tưởng quân sự và nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại có động lực và mục đích lớn lao nhất là: phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc, vì nền độc lập, tự do của dân tộc, vì khát vọng dân tộc. Tuy vận mệnh dân tộc lâm vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, nhưng bên cạnh đó, đất nước cũng có những điều kiện thuận lợi: nhân dân lao động đã giành được quyền làm chủ và bước đầu được hưởng những quyền lợi do chính quyền cách mạng đưa lại nên vô cùng phấn khởi, tin tưởng và ủng hộ Chính phủ. Ý thức tự hào dân tộc và mong muốn được sống trong chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn đã thực sự trở thành động lực thúc đẩy sự đoàn kết của các tầng lớp nhân dân nhằm bảo vệ chính quyền cách mạng, giữ vững nền độc lập, tự do của nước nhà. Khắp nơi trên cả nước, các hoạt động, phong trào thi đua yêu nước, ủng hộ Chính phủ, thu hút được đông đảo tầng lớp nhân dân, mọi lứa tuổi, mọi thành phần, tôn giáo tham gia. Trong đó, giai cấp công nhân, nông dân là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong xây dựng tiềm lực mọi mặt của đất nước. Nhiều công chức trong chế độ cũ đã tự nguyện xin tham gia phục vụ chính quyền cách mạng. Đồng bào ở nước ngoài đều mở nhiều hoạt động quyên góp, ủng hộ chính quyền nhân dân trong nước. Chính quyền đó do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo - một chính đảng đại diện cho sức mạnh dân tộc cũng như xu thế tiến bộ của thời đại. Trải qua quá trình hoạt động cách mạng, Đảng đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quý báu, là nhân tố quyết định đưa đến cuộc vận động giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám. Thêm nữa, sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Việt Nam luôn gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp kháng chiến của nhân dân hai nước anh em Lào, Campuchia cùng chống lại kẻ thù chung. Liên minh đoàn kết chiến đấu của ba nước Đông Dương là nhân tố quan trọng góp phần vào sự thành công của cách mạng ba nước nói chung và của Việt Nam nói riêng. Cũng cần thấy rằng, về phương diện quân sự, sự phát triển từ hiện thực quân lực còn hạn chế về mọi phương diện cho đến tư tưởng quân sự Việt Nam hiện đại trong 30 năm chiến tranh là một quá trình đặc biệt diễn ra trong quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa điều kiện khó khăn của lực lượng quân sự Việt Nam với nhu cầu kháng chiến chống lại những thế lực quân sự hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ. Nằm trong tổng thể của thế chiến tranh nhân dân, quá trình chính quy hóa quân đội Giải phóng và các hoạt động quân sự là then chốt cho sự thành công của công cuộc vệ quốc trên phương diện quân sự. 2. Các bước phát triển của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp a) Giai đoạn từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 12 năm 1947 Đêm 22, rạng ngày 23-9-1945, được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng đánh úp trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Sáng ngày 23-9-1945, Xứ uỷ và Uỷ ban nhân dân Nam Bộ họp tại phố Cây Mai (Chợ Lớn). Hội nghị xác định chủ trương phát động toàn Nam Bộ đứng lên kháng chiến. Sau Hội nghị, nhân dân miền Nam nổi dậy tiến công địch khắp mọi nơi. Nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn anh dũng chiến đấu, đánh địch bằng mọi thứ vũ khí dưới mọi hình thức: triệt nguồn tiếp tế của quân đội Pháp ở thành phố, tiến hành tổng bãi công, bãi thị, bãi khoá, dựng chướng ngại vật, đắp chiến luỹ trên khắp đường phố. Lực lượng vũ trang đột nhập tấn công sân bay Tân Sơn Nhất, phá hoại máy bay, đốt cháy tàu Pháp vừa cập bến Sài Gòn, phá khám lớn... Trước sự tiến công của quân và dân Việt Nam, quân Pháp lâm vào tình thế bị động, luôn lo sợ bị tập kích, đánh úp. Để đối phó, Pháp buộc phải tăng cường viện binh. Ngày 5-10-1945, tướng Lơcơléc6 đến Sài Gòn cùng với các đơn vị bộ binh, xe bọc thép. Với sự giúp đỡ của quân Anh và quân Nhật, thực dân Pháp đã phá được vòng vây xung quanh Sài Gòn - Chợ Lớn, mở rộng ra đánh chiếm các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Thực dân Pháp đẩy mạnh tiến hành công cuộc “bình định”, lập ra bộ máy cai trị ở những vùng chúng chiếm đóng. Vì thời gian chuẩn bị gấp, lại phải đương đầu với một đội quân xâm lược đông đảo, nhà nghề, được trang bị vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại, nên lực lượng vũ trang Việt Nam gặp khó khăn. Trong tình hình đó, cuối tháng 10-1945, Hội nghị Xứ uỷ Nam Bộ mở rộng được triệu tập. Hội nghị tiến hành kiểm điểm, rút kinh nghiệm và đề ra đường lối, phương hướng giải quyết những vấn đề cấp bách, đặt trọng tâm chỉnh đốn tổ chức, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tiến hành xây dựng cơ sở bí mật trong những vùng địch kiểm soát; khôi phục lại chính quyền cách mạng ở những nơi bị tan vỡ. Chấp hành chủ trương trên, không quản ngại khó khăn, gian khổ, nhiều cán bộ, đảng lên trung kiên kiên trì bám sát quần chúng, gây dựng lại cơ sở chính trị và vũ trang, nhằm nhanh chóng đưa phong trào cách mạng phát triển. “Đồng cam, cộng khổ” với đồng bào Nam Bộ “đi trước, về sau”, Trung ương Đảng, Chính phủ phát động phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến; đồng thời, tích cực chuẩn bị đối phó với tình huống chiến tranh lan rộng ra cả nước. Ngày 26-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: “Tôi chắc và đồng bào cả nước đều chắc vào lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam Bộ...“Thà chết tự do hơn sống nô lệ”“7. Hưởng ứng lời kêu gọi ủng hộ Nam Bộ kháng chiến, hàng vạn thanh niên miền Bắc hăng hái lên đường nhập ngũ. Hầu hết các tỉnh ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đều thành lập các chi đội (tương đương một tiểu đoàn hoặc một trung đoàn) gửi vào Nam sát cánh chiến đấu cùng đồng bào Nam Bộ. Những cán bộ, chiến sĩ hăng hái, có tinh thần và ít nhiều kinh nghiệm chiến đấu đều lên đường ra trận. Vũ khí, trang bị tốt nhất đều dành cho bộ đội Nam tiến. Nhân dân miền Bắc tổ chức vận động quyên góp tiền bạc, quần áo, thuốc men... ủng hộ đồng bào Nam Bộ. Trong lúc đó, tại miền Bắc, Trung ương Đảng chủ trương hoà hoãn với quân Tưởng để tránh cùng một lúc phải đương đầu với nhiều kẻ thù. Tránh xung đột, giao thiệp thân thiện, đấu tranh khôn khéo, Đảng, Chính phủ tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình tập hợp hàng ngàn người biểu dương lực lượng, nêu cao các khẩu hiệu: “Nước Việt Nam của người Việt Nam!”, “Ủng hộ Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà!”, “Ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh!”... Không công khai gây xung đột, song chỉ đạo chống phá từ bên trong, quân Tưởng yêu sách cải tổ chính phủ, gạt đảng viên cộng sản khỏi chính quyền... Để hạn chế sự chống phá của quân Tưởng, Chính phủ ta chủ trương “hòa để tiến”, nhượng bộ một số quyền lợi8. Nhưng đối với các tổ chức phản động, tay sai của Tưởng (Việt Quốc, Việt Cách), chính quyền dựa vào quần chúng cách mạng kiên quyết vạch trần âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại của chúng. Những tên cầm đầu phá hoại khi ta có đủ bằng chứng đều bị trừng trị theo pháp luật. Chính quyền cách mạng kiên quyết ban hành nhiều sắc lệnh nhằm giải tán các tổ chức phản động tay sai của phát xít Nhật trước đây (như Đại Việt Quốc gia xã hội Đảng, Đại Việt Quốc dân Đảng), lập toà án quân sự để xét xử các phần tử phản động... Về phía thực dân Pháp, sau khi chiếm đóng các đô thị, mở rộng quyền kiểm soát ở miền Nam, chúng đẩy mạnh việc chuẩn bị đưa quân ra miền Bắc. Tuy nhiên, trong lúc này, Pháp gặp phải nhiều khó khăn. Lực lượng quân Pháp còn mỏng (3,5 vạn người), lại phải rải quân khắp chiến trường miền Nam để đối phó với các cuộc tiến công của quân và dân Nam Bộ, nếu chúng đưa quân ra miền Bắc thì sẽ khó đạt được mục đích trước sự kháng cự quyết liệt của ta. Hơn nữa, sự có mặt của quân Tưởng đang làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật trên miền Bắc là một trở ngại buộc Pháp không thể bỏ qua. Thực dân Pháp đã tiến hành điều đình, thoả hiệp với Tưởng Giới Thạch để được thay thế quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thực chất là đưa quân hợp pháp ra miền Bắc Việt Nam thực hiện âm mưu thôn tính cả nước. Trong khi đó, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc đang phát triển mạnh mẽ, đe dọa đến nền thống trị của Mỹ - Tưởng ở đại lục. Tưởng Giới Thạch và đế quốc Mỹ thấy cần phải tập trung lực lượng về đối phó với cách mạng trong nước, do đó đã đồng ý đề nghị thoả hiệp của đế quốc Pháp để rút quân về nước. Ngày 28-2-1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết9. Thoả hiệp giữa Tưởng - Pháp đặt ra cho cách mạng Việt Nam hai lựa chọn: một là, lập tức cầm súng, kiên quyết tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ngay khi chúng đưa quân ra miền Bắc; hai là, chủ động đàm phán ngay với Pháp để nhanh chóng gạt 20 vạn quân Tưởng về nước và tranh thủ thời gian nhằm chuẩn bị những tiền đề cần thiết để bước vào cuộc kháng chiến với Pháp sau này. Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã quyết định chọn giải pháp thứ hai. Ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ký với Xanhtơni10 là đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ11. Nhưng ngay sau khi ký Hiệp định, thực dân Pháp vẫn tiếp tục gây nên những cuộc xung đột vũ trang ở Nam Bộ, thành lập Chính phủ Nam Kỳ tự trị do Nguyễn Văn Thinh12 cầm đầu hòng thực hiện âm mưu tách Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam. Cuộc đàm phán giữa hai bên (được tổ chức tại Phôngtennơblô - Pháp), diễn ra rất gay go. Sau hơn hai tháng, cuộc đàm phán không đạt được bất kỳ kết quả nào. Trong khi đó, tại Đông Dương, quân đội Pháp tăng cường các hoạt động khiêu khích, quan hệ Việt - Pháp căng thẳng. Để có thêm thời gian hoà bình xây dựng lực lượng, chuẩn bị tiềm lực mọi mặt cho cuộc kháng chiến, ngày 14-9-1946, Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp bản Tạm ước, tiếp tục nhượng bộ cho Pháp một số quyền lợi ở Việt Nam. Tranh thủ thời gian hoà hoãn, nhân dân Việt Nam ra sức củng cố và phát triển lực lượng về mọi mặt. Nhằm củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, xây dựng nền móng của chế độ mới, ngay sau khi ra đời, Chính phủ đã công bố lệnh Tổng tuyển cử trong cả nước; ban hành sắc lệnh thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp ngày 20-9-1945. Ngày 6-1-1946, hơn 90% cử tri trong cả nước nô nức đi bầu những đại biểu ưu tú vào Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Có 333 đại biểu từ mọi miền đất nước, thuộc mọi thành phần tôn giáo, tầng lớp xã hội tượng trưng cho khối đại đoàn kết toàn dân đã được nhân dân lựa chọn. Ngày 2-3-1946, trong phiên họp đầu tiên tại Hà Nội, Quốc hội đã lập ra Ban dự thảo Hiến pháp, thông qua danh sách 70 đại biểu bổ sung vào Quốc hội, nhất trí bầu Cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến13. Sau ngày bầu cử Quốc hội, các địa phương từ tỉnh đến xã ở Bắc Bộ và Trung Bộ đều tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, lập ra bộ máy chính quyền cách mạng (các Uỷ ban nhân dân). Thắng lợi của Tổng tuyển cử cũng như bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp là một đòn giáng mạnh vào âm mưu chia rẽ, lật đổ, xâm lược của kẻ thù; góp phần nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho sự tồn tại của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tháng 10-1946, Quốc hội họp phiên thứ hai. Ngày 3-11-1946, Quốc hội đã thông qua danh sách thành viên chính phủ mới do Hồ Chí Minh đứng đầu14. Tiếp đó, ngày 9-11-1946, Quốc hội chính thức thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trung ương Đảng tiếp tục chủ trương không ngừng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Tháng 5-1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) được thành lập nhằm đoàn kết rộng rãi các tổ chức, các đảng phái, cá nhân chưa tham gia mặt trận Việt Minh, đánh dấu bước phát triển mới của tinh thần đoàn kết toàn dân tộc. Để giải quyết nạn đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào lập các hũ gạo tiết kiệm, không dùng gạo, ngô để nấu rượu. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ba bữa. Đem gạo đó để cứu dân nghèo”, đồng bào đã tổ chức quyên góp, tiết kiệm được nhiều lương thực, góp phần cùng Chính phủ vượt qua nạn đói. Việc nhanh chóng chăm lo đến sản xuất là việc làm cấp thiết, là biện pháp cơ bản nhằm giải quyết nạn đói và xây dựng tiềm lực kinh tế nước nhà. Nhận thức đầy đủ ý nghĩa - vai trò của việc đó, Chính phủ đã phát động phong trào thi đua sản xuất. Nhiều khẩu hiệu cổ động sản xuất được đưa ra như “Không một tấc đất bỏ hoang!”, “Tấc đất tấc vàng!”, “Tăng gia sản xuất ngay”, “Tăng gia sản xuất nữa!”... đã thật sự trở thành một động lực cho mọi người dân đẩy mạnh sản xuất hơn nữa. Trên khắp các địa phương, đồng bào hăng hái tham gia hưởng ứng. Ruộng đất hoang hoá nhanh chóng được đưa vào sản xuất, gieo trồng nhiều loại cây lương thực và hoa màu. Chính phủ cùng nhân dân đã đắp được những đoạn đê bị vỡ trong nạn lụt hồi tháng 8-1945, củng cố một số đoạn đê xung yếu. Trong các ngành sản xuất, nông nghiệp được ưu tiên hàng đầu. Nhà nước kêu gọi giai cấp công nhân, bộ đội, cán bộ, viên chức nhà nước tổ chức thành từng đội đi về nông thôn giúp bà con đắp đê, khai hoang, phòng, chống lụt bão... Chính phủ còn ban hành một số sắc lệnh để kích thích sản xuất như: tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho nông dân nghèo; chia lại ruộng đất công theo nguyên tắc công bằng, dân chủ; giảm tô 25%, bãi bỏ các thứ thuế vô lý khác... Nhờ những biện pháp đúng đắn của Chính phủ, sản xuất nông nghiệp Việt Nam nhanh chóng được khôi phục. Sản lượng các loại cây lương thực tăng lên nhanh chóng. Miền Bắc cơ bản thoát khỏi nạn đói. Song song với khôi phục sản xuất, Đảng và Chính phủ chủ trương đề ra các biện pháp nhằm nâng cao trình độ văn hoá cho nhân dân. Trong phiên họp ngày 3-9-1945, Hội đồng Chính phủ đã xemđây là một trong những nhiệm vụ cấp bách. Ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ, kêu gọi toàn dân tham gia xoá nạn mù chữ. Đến tháng 3-1946, ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã có gần 3 vạn lớp học với hơn 81 vạn học viên. Các trường tiểu học, trung học được khôi phục và phát triển. Nội dung và phương pháp giáo dục bước đầu được đổi mới theo tinh thần dân tộc, dân chủ. Để khắc phục tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng về ngân sách, Chính phủ chủ trương kêu gọi đồng bào tự nguyện quyên góp. Nhân dân khắp nơi trên cả nước đã hưởng ứng nhiệt liệt, tham gia tích cực vào xây dựng “Quỹ độc lập” cũng như phong trào “Tuần lễ vàng” do Chính phủ phát động. Chỉ trong thời gian ngắn, đồng bào cả nước đã đóng góp hơn 20 triệu đồng tiền Đông Dương và 370 kg vàng. Ngày 31-1-1946, Chính phủ ra sắc lệnh ban hành đồng tiền Việt Nam. Đến ngày 23-11-1946, Quốc hội chính thức thông qua cho lưu hành đồng tiền Việt Nam trên cả nước. Đảng và Chính phủ đặc biệt quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Từ các đoàn thể cứu quốc thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Nhà nước tuyển chọn những chiến sĩ có tinh thần cách mạng cao, đủ sức khoẻ để xây dựng lực lượng bộ đội tập trung. Ngày 22-5-1946, Nhà nước ra sắc lệnh quy định Vệ quốc quân chính thức trở thành Quân đội quốc gia của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Một số binh chủng kỹ thuật bước đầu được xây dựng. Đến cuối năm 1946, tổng quân số đạt hơn 82.000 quân, tăng 32.000 quân so với năm 1945. Toàn quốc có gần 1.000.000 tự vệ và du kích16. Bên cạnh đó, Chính phủ chủ trương đoàn kết chặt chẽ với nhân dân hai nước Campuchia và Lào để cùng chiến đấu. Uỷ ban nhân dân Nam Bộ đã giúp đỡ những chiến sĩ cách mạng Campuchia xây dựng cơ sở; liên quân hai nước Việt - Lào đã có sự đoàn kết chiến đấu trong một số trận đánh. Nhờ những chủ trương, biện pháp đúng đắn trên đây, nhân dân Việt Nam đã tránh được tình trạng phải đối đầu với nhiều kẻ thù một lúc, tạm thời củng cố được tiềm lực về mọi mặt để sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến khi thực dân Pháp trở mặt. Sau khi ký Hiệp định Sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9 với ta, thực dân Pháp cũng ráo riết đôn quân bắt lính đưa sang chiến trường Đông Dương, quyết tâm thực hiện mưu đồ tái chiếm toàn bộ bán đảo này. Sau khi được tăng viện, ngày 20-11-1946, quân Pháp cố tình tranh giành quyền thu thuế ở cảng Hải Phòng và gây xung đột với lực lượng vũ trang cách mạng. Tiếp đó, trong ngày 24-11, Pháp ngang nhiên cho quân đội bắn đại bác vào Hải Phòng để khiêu chiến. Ngày 27-11-1946, quân Pháp chính thức nhận lệnh chiếm Hải Phòng, bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược miền Bắc Việt Nam. Trước hành động đó của thực dân Pháp, Trung ương Đảng và Chính phủ chủ trương yêu cầu thực dân Pháp tôn trọng những điều đã ký kết, kêu gọi tiến hành các cuộc tiếp xúc, đàm phán nhằm giải quyết các tranh chấp. Tuy nhiên, đáp lại những thiện chí của Việt Nam, thực dân Pháp tăng cường cho quân tiến hành các hoạt động khiêu khích. Tại Hà Nội, trong tháng 12- 1946, quân Pháp liên tiếp gây xung đột với lực lượng vũ trang cách mạng. Ngang nhiên hơn, ngày 17-12-1946, quân Pháp đã bắn đại bác và súng cối vào khu phố Hàng Bún, cho quân chiếm trụ sở Bộ Tài chính và một số cơ quan trong thành phố. Ngày 18-12-1946, Pháp đã gửi tối hậu thư cho Chính phủ Việt Nam, yêu cầu giải tán lực lượng vũ trang và giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng. Hành động đó của thực dân Pháp buộc nhân dân Việt Nam chỉ có lựa chọn duy nhất: cầm vũ khí tiến hành cuộc kháng chiến để bảo vệ độc lập tự do. Trong hai ngày 18 và 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị phân tích tình hình, quyết định phát động toàn quốc kháng chiến. Hội nghị còn đề ra những đường lối cơ bản của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh của nhân dân Việt Nam. Ngay trong đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Sáng 20-12-1946, lời kêu gọi đó được truyền đi khắp đất nước. Toàn bộ văn bản Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến cũng chính là tuyên ngôn về tư tưởng quân sự Việt Nam hiện đại: “... Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước. Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta”17. Hình thức thực tiễn của cuộc chiến tranh vệ quốc, đúng như tên của văn bản quan trọng này, là “toàn quốc kháng chiến”. Cuộc kháng chiến toàn quốc đó gồm 3 nhân tố chính: a) mục đích hòa bình; b) lực lượng toàn dân; và c) trường kỳ kháng chiến. Thực vậy, đường lối quân sự và những quan điểm chỉ đạo chiến tranh về sau đều thể hiện những tính chất căn bản đã đề ra trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khoảng 20 giờ ngày 19-12-1946, công nhân nhà máy điện Yên Phụ phá máy, toàn Hà Nội tắt điện. Đó là hiệu lệnh chiến đấu. Pháo tại các pháo đài Láng, Xuân Canh liên tiếp bắn vào khu đồn trú của quân Pháp. Quân đội tổ chức vây hãm đối phương trong thành phố. Ngày 12-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến, nêu lên một cách khái quát những nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến. Tiếp đó tháng 3- 1947, Trường Chinh - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã viết một loạt các bài đăng trên báo Sự thật18 để giải thích rõ thêm về đường lối kháng chiến. Như vậy, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh đã xác định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh. Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng chỉ huy, nhân dân Việt Nam đã đứng lên đồng loạt nổ súng. Cuộc chiến đấu lúc này chủ yếu ở các thành phố, thị xã. Tiêu biểu là cuộc chiến đấu của quân và dân tại Thủ đô Hà Nội trong 60 ngày đêm. Quân Pháp ở Hà Nội có 6.500 tên, ngoài ra còn có khoảng 13.000 Pháp kiều (số đông được trang bị vũ khí). Về lực lượng vũ trang cách mạng gồm 5 tiểu đoàn bộ binh, 8 trung đội công an xung phong; lực lượng tự vệ nội, ngoại thành khoảng 28.500 người và các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia kháng chiến đánh địch. Quân đội cách mạng chiến đấu dũng cảm, kiên cường bám trụ giành giật từng căn nhà, từng góc phố. Những trận đánh diễn ra ác liệt tại chợ Đồng Xuân, Bắc Bộ phủ, nhà Bưu điện. Nhân dân đã dựng nhiều chướng ngại vật trên đường phố. Đến ngày 17-2-1947, sau gần 2tháng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, giam chân địch trong thành phố, lực lượng vũ trang cách mạng đã rút ra khỏi thành phố, đã diệt trên 500 địch, phá huỷ 30 xe cơ giới. Đến tháng 2-1947, thực dân Pháp tăng viện và tiến hành giải tỏa. Quân đội Việt Minh đã rút ra ngoại thành để chuyển sang một giai đoạn chiến đấu mới. Thực hiện đường lối kháng chiến đã đề ra, song song với cuộc chiến đấu ở các đô thị nhằm tiêu hao, tiêu diệt và giam chân địch trong các thành phố, thị xã, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nhanh chóng di chuyển các cơ quan, kho tàng, tổ chức cho nhân dân tản cư chuyển cả nước vào thời chiến. Các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận... di chuyển về phía Hà Đông, Sơn Tây và đến tháng 3-1947 đã lên đến căn cứ Việt Bắc. Quân và dân Việt Nam đã vận chuyển được hàng vạn tấn máy móc, gạo, muối, vải từ những vùng tạm chiếm về các khu căn cứ địa an toàn nhằm xây dựng cơ sở vật chất của kháng chiến. Riêng trong vòng 3 tháng đầu năm 1947, đã chuyển được khoảng 40.000 tấn máy móc, nguyên vật liệu. Chỉ tính tại Bắc Bộ, đã chuyển được gần 2/3 số máy móc lên chiến khu, nhờ đó mà đã xây dựng được 57 cơ sở sản xuất, đáp ứng nhu cầu bức thiết về kinh tế, quốc phòng. Bên cạnh đó, Đảng và Chính phủ đã phát động nhân dân tiến hành tiêu thổ kháng chiến để ngăn không cho thực dân Pháp chiếm dụng phục vụ cho mục đích chiến tranh. Trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, ta đã phá hoại 1.060 km đường sắt, 5.640 km đường ôtô, 30.500 cầu cống, gần 60.000 nhà cửa, 84 đầu máy và 868 toa xe lửa. Mặc dù điều kiện còn rất khó khăn, Nhà nước Việt Nam vẫn đưa ra nhiều biện pháp nhằm ổn định đời sống nhân dân, đẩy mạnh sản xuất để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách về sản xuất nông nghiệp, động viên, tổ chức mọi ngành, mọi giới, từ công nhân, nông dân, bộ đội, giáo viên, học sinh,... tham gia tích cực vào phát triển sản xuất theo khẩu hiệu: “thực túc binh cường”, “ăn no đánh thắng”. Đặc biệt, chính sách giảm tô 25% của Nhà nước, ban hành từ tháng 11-1945, đã có tác dụng động viên nhân dân hăng hái sản xuất, đấu tranh với địa chủ phong kiến để bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mình. Ruộng đất tịch thu được của Việt gian, địa chủ, thực dân được phân chia cho nông dân. Để bảo vệ mùa màng, giữ vững sản xuất trước thiên tai cũng như sự đánh phá của địch, Chính phủ đã động viên các tầng lớp nhân dân tích cực cải tạo các công trình thuỷ lợi. Bộ đội và du kích các địa phương đẩy mạnh hoạt động đánh địch, giúp bà con nông dân bảo vệ mùa màng cũng như thu hoạch sản xuất, cất giấu thóc gạo phục vụ kháng chiến. Đối với công nghiệp và thủ công nghiệp, Nhà nước chủ trương tập trung xây dựng và phát triển những ngành tối cần thiết cho công cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam (như vải, giấy, muối, xà phòng, diêm,...). Đồng bào tản cư theo kháng chiến được thu xếp hợp lý, nhanh chóng ổn định đời sống. Tính đến tháng 6-1947, ta đã tổ chức được hơn 200 trại sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp với trên 40.000 nhân khẩu. Phong trào Bình dân học vụ tiếp tục được đẩy mạnh nhằm thanh toán nạn mù chữ trong nhân dân. Nhiều trường mới được xây dựng đã thu hút học sinh đến trường. Một số cơ sở đại học và trung học từ thành phố chuyển lên tiếp tục được dược duy trì. Đến cuối năm 1967, nhiều tỉnh đã thực hiện xoá xong nạn mù chữ cho 60-70% đồng bào. Nhà nước cũng chú trọng các hoạt động chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, xây dựng đời sống mới. Những thành tựu đó có ý nghĩa rất to lớn đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Nó cho thấy thế trận chiến tranh nhân dân được xây dựng trên nền tảng sức mạnh toàn dân, đã trở thành cơ sở vững chắc cho quân và dân Việt Nam càng đánh càng mạnh, bẻ gẫy các cuộc tiến công của đối phương. Năm 1946 là thời điểm rất đặc biệt của lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử quân sự Việt Nam hiện đại nói riêng. Đó là giai đoạn thiết lập một hệ thống Đảng - Nhà nước - Quân đội - Nhân dân của nước Việt Nam mới. Nói cách khác, đó là thời điểm hình thành nước Việt Nam với hệ thống chính trị độc lập - tự chủ. Bao giờ cũng vậy, những tính chất của một quốc gia - dân tộc -cộng đồng thường được xác lập, củng cố và phát triển dựa trên những nền tảng đặt định bước ngoặt của quốc gia - dân tộc - cộng đồng ấy. Ngay từ buổi sơ khai của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, những hoạt động quân sự đã gắn liền, bổ sung và tỏa rộng trên nền tảng cách mạng, toàn dân, toàn diện. Tính chất ấy gắn liền với một nhà nước kháng chiến để đi đến thế chiến tranh nhân dân của dân tộc Việt Nam, chính từ đó tạo nên sức mạnh vô địch chiến thắng những thế lực lớn mạnh nhất của thế giới tư bản trong thế kỷ XX. Từ khi lực lượng kháng chiến rút khỏi các đô thị, thực dân Pháp mở rộng đánh chiếm một số thành phố, thị xã. Tuy nhiên, Chính phủ kháng chiến vẫn không bị tiêu diệt, cuộc chiến tranh phải kéo dài. Trong khi đó, nước Pháp phải đối mặt với những vấn đề khó khăn về kinh tế, tài chính, chính trị - xã hội... Cuộc đấu tranh của những tầng lớp nhân dân Pháp nhằm cải thiện quyền dân sinh, dân chủ ngày càng bùng lên mạnh mẽ buộc Chính phủ Pháp phải ứng phó. Bên cạnh đó, Chính phủ Pháp vẫn chủ trương tăng cường sức mạnh quân sự hòng “thiết lập” chế độ cai trị của Pháp tại các thuộc địa cũ của mình, trong đó có Đông Dương. Tháng 3-1947, tướng Bôlae19 được cử sang giữ chức Cao uỷ Pháp tại Đông Dương thay tướng Đácgiăngliơ. Với trọng trách được giao là sử dụng mọi biện pháp cần thiết để tiêu diệt cơ quan đầu não của Việt Minh để nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Bôlae một mặt tập hợp tay chân để thành lập chính phủ bù nhìn do Bảo Đại đứng đầu20, mặt khác, tiếp tục tích cực chuẩn bị mọi mặt nhằm tiến công lên Việt Bắc, phá tan cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực Việt Minh, thực hiện khoá chặt biên giới Việt - Trung, nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh, lập lại “hoà bình” ở xứ Đông Dương. Trên cơ sở đó, ngày 7-10-1947, thực dân Pháp huy động 12.000 quân tấn công Việt Bắc. Quân, dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng đã bố trí sẵn thế trận, tổ chức tiến công quân địch ngay khi chúng vừa đặt chân lên căn cứ. Quân đội nhân dân Việt Nam đã giành được những thắng lợi lớn tại Khe Lau, Khoan Bộ, Đoan Hùng, Bông Lau, Chợ Đồn, Chợ Mới,... Những thất bại liên tiếp đã buộc đại quân Pháp phải rút chạy về Hà Nội vào ngày 19-12-1947, Cuộc hành quân lớn đánh lên căn cứ địa Việt Bắc của Pháp kết thúc. Chiến dịch chống lại cuộc tiến công tham vọng của Pháp - chiến dịch Việt Bắc - đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 tên địch; phá huỷ 16 máy bay, 11 tàu chiến và canô, hàng trăm xe các loại; thu giữ hơn 100 khẩu pháo và hàng ngàn khẩu súng các loại. Thắng lợi này có một ý nghĩa vô cùng quan trọng: đã đánh bại hoàn toàn chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của địch, buộc đối phương phải chuyển sang đánh lâu dài. Cơ quan đầu não kháng chiến của Việt Nam được bảo vệ; bộ đội chủ lực không những không bị tiêu diệt mà còn phát triển ngày càng lớn mạnh, tạo điều kiện cho kháng chiến củng cố toàn diện về mọi mặt bước vào một giai đoạn phát triển mới. b) Giai đoạn từ đầu năm 1948 đến cuối năm 1950 Sau khi cuộc tiến công Việt Bắc thất bại, nhận thấy không thể kết thúc chiến tranh trong một thời gian ngắn, Pháp buộc phải chuyển sang đánh lâu dài, tăng cường đẩy mạnh chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Để thực hiện chính sách đó, Pháp cho quân xây dựng đồn bốt ở nhiều nơi, tăng cường mở các cuộc hành quân càn quét vùng tạm chiếm để vơ vét của cải, bắt lính phục vụ cho cuộc chiến tranh của chúng. Bên cạnh đó, Pháp tập trung lực lượng hành quân đánh ra vùng giải phóng, nhất là những địa bàn đông dân, nhiều của ở trung du và đồng bằng. Mặt khác, Pháp còn sử dụng chiêu bài lập “chính phủ quốc gia”, thực chất là tập hợp lực lượng thân Pháp thành lập một chính phủ làm công cụ chính trị. Với những kế hoạch đó, trong nửa đầu năm 1948, Pháp đã thu được một số kết quả nhất định: phong trào chiến tranh du kích ở một số địa phương giảm sút, trên một số địa bàn ta bị mất đất, mất dân,... Trước những âm mưu và hành động mới của Pháp, Đảng và Chính phủ chủ trương đẩy mạnh chiến tranh du kích. Những cán bộ đã trải qua thử thách, có nhiều kinh nghiệm, được tăng cường đến các vùng bị địch chiếm. Chỉ tính từ Liên khu 5 trở ra, 1/3 cán bộ, bộ đội chủ lực được phân tán thành các đơn vị nhỏ (những đại đội độc lập) đi sâu vào các vùng sau lưng địch, vừa tiến hành tác chiến, vừa vận động nhân dân, tham gia bồi dưỡng, dìu dắt lực lượng vũ trang và nửa vũ trang địa phương, xây dựng và bảo vệ các cơ sở kháng chiến. Phong trào cách mạng ngày càng chuyển biến mạnh mẽ, nhất là các vùng sau lưng địch. Tại nông thôn, phong trào đấu tranh chống thu thóc, chống bắt lính, chống nộp thuế, đi phu,... diễn ra rất sôi nổi. Tình đoàn kết quân dân ngày càng gắn bó. Nhân dân đã phối hợp chặt chẽ với bộ đội du kích tiến hành các hoạt động trừ gian, diệt ác, bao vây đồn địch, vận động binh lính người Việt tham gia quân đội xâm lược trở về với nhân dân, với cách mạng,... Nhờ có chủ trương đúng đắn, lực lượng kháng chiến ngày càng lớn mạnh, tổ chức được nhiều cuộc tiến công gây chấn động đối với địch21. Phát huy những kết quả đạt được, dân quân du kích đẩy mạnh các hoạt động chống càn, bảo vệ làng mạc. Quần chúng nhân dân đã sáng tạo nhiều hình thức đánh địch như đào hầm bí mật, giao thông hào, làm hầm chông, đặt bẫy, xây dựng làng chiến đấu... Các đội du kích ngày càng phát triển, góp phần quan trọng đánh bại các cuộc hành quân lớn của Pháp. Phối hợp với các hoạt động trên, từ tháng 1-1948, thực hiện chủ trương của Đảng, nhiều địa phương đã phát động phong trào phá tề. Đến cuối năm 1948, phong trào tổng phá tề được phát triển mạnh mẽ, nhất là ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Phong trào phá tề đã thu được những kết quả to lớn, tạo điều kiện cho chiến tranh du kích phát triển, làm cho nhân dân thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. Bên cạnh việc đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích, Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh đã chủ trương cho bộ đội tích cực tập đánh vận động23 nhằm tăng cường khả năng tác chiến của bộ đội chủ lực, hỗ trợ cho các phong trào cách mạng khác phát triển. Ngày 18-3-1948, Quân đội nhân dân Việt Nam mở chiến dịch Nghĩa Lộ (Tây Bắc), giải phóng thị trấn Nghĩa Lộ và bức rút 7 vị trí khác của đối phương. Ngày 1-6-1948, chiến dịch Yên Bình bắt đầu, tiêu diệt đồn địch ở Phố Ràng và hơn 300 tên địch. Trong thời gian từ 1949-1950, Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục mở một số chiến dịch tiến công địch như chiến dịch Lào - Hà (cuối tháng 2-1949) tiêu diệt vị trí Phố Lu và bản Lầu, bức rút 22 vị trí của địch, giải phóng hơn 22.789 km2; chiến dịch Đông Bắc (từ tháng 3 đến tháng 5-1949) phá huỷ 53 xe quân sự của địch ở Lũng Phầy. Phối hợp với các hoạt động quân sự, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng trong các đô thị lớn cũng ngày càng phát triển. Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống khủng bố,... đã nổ ra liên tục trên cả nước. Bước sang năm 1950, phong trào này bùng lên mạnh mẽ, tiêu biểu như cuộc biểu tình của 2.000 học sinh, sinh viên ở Sài Gòn - Chợ Lớn ngày 9-1-1950, hay cuộc biểu tình của 300.000 đồng bào Sài Gòn ngày 19-3-1950. Xây dựng và tăng cường thực lực của cuộc kháng chiến, Đảng và Chính phủ chủ trương củng cố chính quyền dân chủ nhân dân từ Trung ương đến địa phương. Năm 1948, tại Nam Bộ, lần đầu tiên tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân từ cấp xã đến cấp tỉnh, được tổ chức tại những vùng giải phóng. Tại Bắc Bộ và Trung Bộ, Hội đồng nhân dân các địa phương đi vào hoạt động có nền nếp. Những nơi quân Pháp đánh phá dữ dội hay trong vùng cách tạm chiếm, chính quyền cách mạng vẫn từng bước được củng cố. Bước sang năm 1950, Đảng chủ trương kiện toàn nhà nước dân chủ nhân dân theo hướng “mạnh mẽ, nhanh chóng, quyết đoán, thống nhất, tập trung”, đáp ứng được yêu cầu “điều khiển chiến tranh và kiến thiết chế độ dân chủ nhân dân”. Để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, hai mặt trận là Việt Minh và Liên Việt đã thu hút đông đảo nhân dân thuộc đủ mọi thành phần tham gia. Đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới, Đảng chủ trương thống nhất hai tổ chức mặt trận này. Ở ngoài nước, bà con Việt kiều hăng hái tham gia vào các tổ chức cứu quốc, tích cực đóng góp vật chất cho cuộc kháng chiến của đồng bào trong nước, đồng thời tích cực đấu tranh làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ tính chất chính nghĩa, ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Mặt trận dân tộc thống nhất thực sự trở thành một trong những trụ cột của nhà nước dân chủ nhân dân, là một áo giáp vững bền, góp phần phá tan âm mưu chính trị “chia để trị” của thực dân Pháp. Trên mặt trận kinh tế, bên cạnh việc tăng cường đấu tranh để bảo vệ mùa màng, thóc gạo; kiểm soát việc giao lưu hàng hoá giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm..., chính quyền đồng thời ra sức phát triển nền kinh tế kháng chiến có khả năng đáp ứng nhu cầu chiến tranh. Tháng 3-1948, Đảng, Chính phủ phát động phong trào thi đua ái quốc, đẩy mạnh sản xuất. Nhằm tạo ra động lực mới cho sản xuất Đảng và Chính phủ tiếp tục thực hiện một số chính sách khuyến nông. Năm 1949, Chính phủ ra sắc lệnh giảm tô 25%, sắc lệnh chia lại ruộng đất công, tạm cấp ruộng đất của đế quốc, Việt gian, ruộng bỏ hoang cho nông dân. Năm 1950, Chính phủ ban hành sắc lệnh giảm tức, xoá nợ và hoãn nợ của nông dân vay địa chủ, ban hành quy chế lĩnh canh nhằm bảo vệ quyền lợi cho tá điền. Nhờ có những chủ trương, chính sách nêu trên, diện tích và sản lượng nông nghiệp đều tăng. Năm 1950, tính từ Liên khu 4 trở ra, tổng sản lượng lúa ở vùng tự do và căn cứ du kích đạt 2.414.830 tấn. Đảng và Chính phủ chủ trương đẩy mạnh xây dựng các cơ sở công nghiệp quốc phòng nhằm phục vụ nhu cầu quân sự thiết yếu. Đến năm 1949, trên cả nước, chính quyền cách mạng đã xây dựng được 130 xưởng sản xuất vũ khí, 21 cơ sở quân dược, 20 cơ sở sản xuất quân nhu đáp ứng một phần nhu cầu về thuốc men và quần áo cho bộ đội. Vượt lên trên những điều kiện khó khăn, gian khổ, nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh và phát huy tính sáng tạo, cán bộ, công nhân viên quốc phòng đã sản xuất được một số loại vũ khí như SKZ, ống phóng bom, súng cối 60 ly và 120 ly... Bên cạnh đó, chính quyền đẩy mạnh phát triển các cơ sở công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và các mặt hàng nhu yếu phẩm như dệt vải, xà phòng, làm giấy, thuộc da, bào chế thuốc.... Trên mặt trận văn hoá, chính quyền nhân dân vừa đấu tranh để xoá bỏ tàn dư văn hoá phong kiến, vừa tích cực xây dựng nền văn hoá mới theo phương châm “dân tộc - khoa học - đại chúng”. Tại Hội nghị văn hoá toàn quốc năm 1948, Tổng Bí thư Trường Chinh đọc bản báo cáo quan trọng Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam, định hướng xây dựng và phát triển nền văn hoá của đất nước. Các ngành văn học, nghệ thuật ngày càng bám sát nhu cầu kháng chiến, lấy đối tượng phục vụ là quần chúng nhân dân và bộ đội, du kích, tích cực phục vụ kháng chiến. Những quan điểm nghệ thuật đi ngược lợi ích kháng chiến được đấu tranh và khắc phục. Đông đảo văn nghệ sĩ nhanh chóng hoà nhập vào cuộc sống sôi động của cả dân tộc, sẵn sàng vượt qua những thử thách, khó khăn để phục vụ kháng chiến, và họ đã trở thành những chiến sĩ thực thụ trên mặt trận văn hoá. Mặc dù cuộc kháng chiến đang trong giai đoạn khó khăn nhưng phong trào xoá nạn mù chữ tiếp tục có bước phát triển, giáo dục phổ thông không ngừng được mở rộng. Nhiều địa phương, nhân dân đã tổ chức quyên góp tiền bạc lập các hội bảo trợ Bình dân học vụ, quỹ học bổng giúp học sinh nghèo. Cuối năm 1950, đã có 7.500 thôn của 1.500 xã ở 10 tỉnh hoàn thành xoá nạn mù chữ. Về giáo dục phổ thông, đến cuối năm 1950, riêng Liên khu Việt Bắc có 950 trường tiểu học, 16 trường trung học; tại Liên khu 5, phần lớn các huyện có trường cấp II và tỉnh có trường cấp III. Chương trình giáo dục phổ thông được cải tiến theo nội dung dân tộc - dân chủ - nhân dân. Một số trường trung học chuyên nghiệp và đại học được mở ngay tại chiến khu Việt Bắc (Đại học Sư phạm, Đại học Y - Dược). Chính quyền cách mạng chú trọng công tác phát triển y tế, thực hiện vệ sinh phòng bệnh và chăm lo sức khoẻ cho nhân dân. Với phương châm phòng bệnh là chính, cuộc vận động thực hiện “ba sạch” (ăn sạch, uống sạch, ở sạch) được phát động rộng rãi. Hệ thống cơ sở y tế từ tỉnh đến xã được xây dựng và củng cố thực hiện khám, chữa bệnh cho nhân dân. Giữa lúc quân và dân Việt Nam đang đẩy mạnh cuộc kháng chiến và giành thắng lợi trên nhiều lĩnh vực thì tình hình thế giới có nhiều diễn biến, có ảnh hưởng cả tích cực và tiêu cực đến cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Năm 1949, cách mạng Trung Quốc thắng lợi và ngày 1-10-1949, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời. Từ tháng 1-1950, các nước xã hội chủ nghĩa lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam, góp phần tăng vị thế và uy tín của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên trường quốc tế. Cùng lúc đó, cuộc kháng chiến của nhân dân hai nước Lào và Campuchia cũng có bước phát triển quan trọng: tháng 6-1950, Uỷ ban Dân tộc giải phóng Campuchia được thành lập; tháng 8-1950, Chính phủ kháng chiến Pathét Lào ra đời và cùng với Mặt trận Neo Lào - Ítxala lãnh đạo nhân dân đoàn kết cứu nước. Trong khi đó, phong trào đấu tranh của nhân dân tiến bộ Pháp và nhân dân các thuộc địa của Pháp ngày càng dâng cao khiến chính quyền Pháp lúng túng về kinh tế tài chính... Lợi dụng lúc thực dân Pháp gặp khó khăn, Mỹ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương, tích cực giúp Pháp triển khai Kế hoạch Rơve (Revers) nhằm “khoá chặt biên giới Việt – Trung”24. Tranh thủ thuận lợi, khắc phục khó khăn để đưa cuộc kháng chiến bước sang một giai đoạn mới, tháng 6-1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch; khai thông biên giới Việt - Trung, mở đường liên lạc trực tiếp giữa Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa, củng cố và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc. Trải qua gần một tháng (từ ngày 16-9 đến ngày 14-10-1950) chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi. 8.300 tên địch bị tiêu diệt hoặc bắt sống, thu trên 3.000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh, giải phóng hoàn toàn khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập, phá bỏ thế bao vây cả trong lẫn ngoài của đối phương đối với căn cứ địa Việt Bắc. Với chiến thắng này, quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ đã về tay lực lượng vũ trang cách mạng, mở ra bước ngoặt chuyển cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam từ hình thái chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy; kết hợp chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích ở trình độ cao hơn. Sau năm 1950, các loại hình chiến tranh chính quy và du kích phát triển ở một mức độ mới, kết nối với những phong trào chính trị được phát động trên diện rộng ở nông thôn. Đây cũng là bước tiến mới về công tác tổ chức mặt trận chính trị kết hợp với mặt trận quân sự ở cơ sở và liên vùng. Bên cạnh đó, đường lối kháng chiến được triển khai ngày càng đi vào quy củ, các cơ sở cách mạng - kháng chiến và dân - quân địa phương ngày càng hoạt động hiệu quả, thúc đẩy thế chiến tranh nhân dân tiến một bước quan trọng. Nhờ gắn chặt một cách hữu cơ với các hoạt động kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa - xã hội, mặt trận quân sự đã phát triển từng bước vững chắc và đạt những thành tựu có tính nền tảng, thúc đẩy nêu trên. Sự thống nhất về tư tưởng - đường lối - quan điểm chỉ đạo trên mọi phương diện cùng sự gắn kết trong triển khai trên thực tiễn là nhân tố quan trọng tạo nên đặc tính của cách mạng Việt Nam nói chung và tính chất của nền quân sự Việt Nam nói riêng. c) Giai đoạn từ tháng 1-1951 đến tháng 7-1954 Sau thất bại tại mặt trận Biên giới Thu - Đông 1950, thực dân Pháp ngày càng lâm vào tình trạng khó khăn và phải tiếp tục nhờ đến sự viện trợ của Mỹ để theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương. Tháng 12- 1950, Pháp cử tướng Đờ Lát Đờ Tátxinhi làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh kiêm Cao uỷ Pháp ở Đông Dương. Tướng Đờ Lát đề ra một kế hoạch mới gồm những điểm chính: 1- Gấp rút tập trung quân Âu - Phi để xây dựng một lực lượng cơ động chiến lược mạnh và ra sức phát triển quân đội người Việt; 2-Lập tuyến phòng thủ boong ke và một “vành đai trắng” bao quanh khu vực trung du và đồng bằng Bắc Bộ nhằm cô lập căn cứ địa Việt Bắc với vùng địch tạm chiếm; 3- Đánh phá ác liệt các căn cứ và hậu phương của Việt Minh, chuẩn bị cho một cuộc tiến công lớn nhằm giành lại quyền chủ động chiến lược trên chiến trường. Thực hiện ý đồ chiến lược nêu trên, ngay trong tháng là và đầu năm 1951, Pháp ra sức triển khai kế hoạch mới và đã đạt được một số mục tiêu đề ra ban đầu25, gây cho lực lượng vũ trang Việt Nam một số thiệt hại. Cuộc chiến tranh ngày càng trở nên quyết liệt. Trước tình hình mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi được đặt ra bức thiết. Nhằm đáp ứng yêu cầu đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II26 của Đảng được triệu tập vào tháng 2- 1951. Đại hội thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Hồ Chí Minh trình bày; Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam do Trường Chinh trình bày và thông qua Tuyên ngôn, Chính cương và Điều lệ mới của Đảng. Nội dung bao trùm của Đại hội là bàn về đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam. Đại hội thảo luận và quyết định nhiều chính sách về công tác xây dựng chính quyền nhân dân, xây dựng và phát triển quân đội, công tác tài chính, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân,... nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến về mọi mặt. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng. Đảng ra hoạt động công khai với một Cương lĩnh chính trị phù hợp với yêu cầu thực tiễn đã góp phần tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng và cũng tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Đó là một trong những nhân tố then chốt dẫn đến thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến. Trên lĩnh vực quân sự, trước những hành động chiến tranh mới của Pháp, Bộ Tổng tư lệnh đã đề ra phương châm tác chiến cho từng chiến trường. Tại chiến trường chính (Bắc Bộ), đẩy mạnh vận động chiến; tại các chiến trường khác, phải giữ vững và phát triển chiến tranh du kích nhằm kiềm chế đối phương và phối hợp chặt chẽ với chiến trường chính, biến những vùng tạm chiếm thành căn cứ đánh địch, đặc biệt là giành những vùng đông dân, nhiều của, nhằm làm thất bại âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”, của Pháp. Chấp hành chủ trương trên, cùng với việc đẩy mạnh chiến tranh du kích trên các chiến trường, quân và dân ta đẩy mạnh đánh vận động, liên tiếp mở những chiến dịch đánh vào phòng tuyến của Pháp ở vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ: chiến dịch Trung du (Trần Hưng Đạo) từ ngày 25-12-1950 đến ngày 17-1-1951, chiến dịch Đường số 18 (Hoàng Hoa Thám) từ 20-3 đến 7- 4-1951, chiến dịch Quang Trung từ 28-5 đến 20-6-1951, chiến dịch Hoà Bình từ 10-12-1951 đến 25-2-1951, chiến dịch Tây Bắc từ 4-10 đến 10-12-1952. Những chiến dịch này đã góp phần đánh bại âm mưu mở rộng chiến tranh, tiêu diệt một bộ phận sinh lực đối phương, mở rộng vùng giải phóng. Qua chiến đấu, bộ đội Việt Nam rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Tuy nhiên, trong các chiến dịch đó, lực lượng vũ trang cách mạng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định, có phần chủ quan, nóng vội, nên hiệu suất tiêu diệt đối phương không cao. Bên cạnh việc đẩy mạnh hoạt động quân sự, Trung ương Đảng và Chính phủ còn tăng cường củng cố và phát triển hậu phương về mọi mặt, nhằm đáp ứng hơn nữa nhu cầu về nhân tài, vật lực cho tiền tuyến. Ngày 3-3- 1951, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Viện hợp nhất, thành lập một mặt trận duy nhất lấy tên là Mặt trận Liên Việt. Mặt trận Liên Việt ra đời đánh dấu bước phát triển mới của khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc kháng chiến chống xâm lược và xây dựng chế độ mới. Bên cạnh đó, chính quyền nhân dân các cấp được kiện toàn về tổ chức, ổn định đi vào hoạt động, trở thành một công cụ sắc bén đủ sức động viên sức mạnh toàn dân tham gia kháng chiến, kiến quốc. Để đẩy mạnh sản xuất lượng thực, tăng cường tiềm lực kháng chiến, phong trào vận động sản xuất và tiết kiệm được phát động, thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Tại các vùng giải phóng, bà con nông dân tích cực khai khẩn ruộng đất, thâm canh, tăng vụ, phát triển trồng lúa kết hợp với hoa màu, chăn nuôi và các ngành nghề tiểu thủ công. Các đơn vị bộ đội, cơ quan, trường học đều dành quỹ đất lập các vườn tăng gia, tích cực giúp bà con nông dân gieo trồng, chống hạn, thu hoạch mùa màng,... Tại các vùng tạm chiếm, lực lượng vũ trang du kích tăng cường chiến đấu bảo vệ sản xuất cho nông dân. Nhiều cuộc đấu tranh chống địch càn quét, đánh phá làng xóm, hoa màu diễn ra quyết liệt ở khắp nơi. Nhằm động viên nhân dân, đặc biệt là nông dân tích cực đẩy mạnh sản xuất, năm 1951, Chính phủ ban hành sắc lệnh về thuế nông nghiệp, thực hiện sự đóng góp công bằng và hợp lý trong các tầng lớp nhân dân, huy động một khối lượng lương thực cần thiết phục vụ cho tiền tuyến. Tiếp đó, năm 1953, Trung ương Đảng và Chính phủ phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức và tiến hành cải cách ruộng đất. Đến cuối năm 1953, tính từ Liên khu 4 trở ra, chính quyền cách mạng đã tạm cấp cho nông dân 184.434 ha ruộng đất của thực dân, địa chủ và ruộng bỏ hoang... Kết quả bước đầu khi thực hiện chủ trương này đã làm cho nông dân có thêm động lực sản xuất tăng năng suất cây trồng, vật nuôi. Năm 1953, chỉ tính từ Liên khu 4 trở ra, vùng tự do và vùng căn cứ du kích, sản lượng lương thực đã đạt 2.757.700 tấn thóc và 650.850 tấn hoa màu. Ngành công nghiệp quốc phòng ngày càng được củng cố, đẩy mạnh sản xuất. Riêng năm 1953, toàn ngành đã sản xuất được 3.552 tấn vũ khí, đạn dược. Kế hoạch sản xuất thuốc men, quân trang, quân dụng cũng được đẩy mạnh. Đảng và Chính phủ tăng cường xây dựng các ngành thương nghiệp, tài chính, ngân hàng. Tháng 6-1951, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập, phát hành đồng tiền Việt Nam mới. Tiếp đó, các cửa hàng mậu dịch quốc doanh - mầm mống đầu tiên của thương nghiệp xã hội chủ nghĩa - ra đời. Nhà nước ta căn bản đã cân bằng được thu - chi. Sự nghiệp văn hoá - giáo dục - y tế được quan tâm, chú trọng phát triển. Nhiều văn nghệ sĩ đã tham gia tiền tuyến, xông pha những nơi bom đạn, theo gót các chiến sĩ trên khắp các chiến trường, đi vào từng nhà máy, từng công xưởng, từng cánh đồng để phục vụ cho sản xuất. Đi sâu vào đời sống hiện thực, thấm đẫm tinh thần, không khí cuộc chiến đấu của dân tộc, các văn nghệ sĩ đã sáng tạo nên nhiều tác phẩm văn học - nghệ thuật giàu tính hiện thực, có giá trị cao. Về giáo dục, đến năm 1952, cả nước có khoảng 14 triệu người đã thoát khỏi nạn mù chữ. Năm 1953, các trường phổ thông cấp I, cấp II, cấp III trong vùng tự do đã có gần 770.000 học sinh theo học. Từ năm 1951 đến 1953, nước ta đã đào tạo được 7.000 cán bộ kỹ thuật. Sau chiến dịch Biên giới 1950, Đảng, Chính phủ Việt Nam cử nhiều học sinh đi học ở nước ngoài để chuẩn bị cho sự nghiệp xây dựng đất nước khi chiến tranh kết thúc. Công tác chăm lo sức khoẻ được đẩy mạnh. Hầu hết các vùng tự do đều xây dựng các bệnh viện, bệnh xá, phòng y tế, trạm cứu thương. Công tác vận động vệ sinh phòng bệnh, bài trừ mê tín dị đoan, xây dựng nếp sống mới... ngày càng mở rộng và được nhân dân tích cực hưởng ứng. Đến năm 1953, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam đã bước sang năm thứ tám. Cuộc chiến tranh càng kéo dài, những khó khăn của Pháp gặp phải càng lớn. Cho đến năm 1953, lực lượng quân Pháp trên chiến trường Đông Dương bị suy yếu rõ rệt: gần 390.000 tên bị loại khỏi vòng chiến đấu; vùng tạm chiếm ngày càng bị thu hẹp; mâu thuẫn giữa việc tập trung và phân tán lực lượng ngày càng rõ rệt... Trong khi đó, tình hình nước Pháp cũng có những biến chuyển mạnh: phong trào phản đối chiến tranh của nhân dân Pháp lên cao, nền kinh tế Pháp bị suy yếu và Chính phủ Pháp lúng túng trước những tổn thất của cuộc chiến tranh Đông Dương. Tuy nhiên, do không muốn buông bỏ Đông Dương, thực dân Pháp tiếp tục dựa vào sự giúp đỡ của Mỹ, quyết tâm thực hiện một thắng lợi quân sự để tạo cho nước Pháp “một lối thoát danh dự”. Ngày 7-5-1953, được Mỹ đồng ý, Chính phủ Pháp đã cử tướng Nava27 sang làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Sau khi chính thức nhậm chức, Nava đưa ra một bản kế hoạch quân sự mới, gọi là kế hoạch Nava. Kế hoạch này được chia thành hai bước: Bước 1- Trong Thu - Đông 1953 và Xuân 1954, cố gắng giữ thế phòng ngự chiến lược trên chiến trường miền Bắc, tránh giao chiến với chủ lực Việt Minh, thực hiện tiến công chiến lược trên chiến trường miền Nam, đồng thời, đẩy mạnh bắt lính mở rộng với lực lượng người bản xứ, tập trung binh lực xây dựng những đơn vị cơ động mạnh; bước 2- Từ mùa thu năm 1954, chuyển lực lượng ra chiến trường miền Bắc thực hiện tiến công chiến lược đánh bại các lực lượng chủ lực Việt Minh, giành thắng lợi quyết định, buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đàm phán theo những điều kiện mà Pháp đưa ra. Thực hiện kế hoạch Nava, Pháp quyết định rút 12 tiểu đoàn quân Pháp từ trong nước, Bắc Phi và Triều Tiên tăng viện cho Đông Dương, đưa tổng số quân Pháp trên chiến trường Đông Dương đạt 84 tiểu đoàn, trong đó, tập trung tại đồng bằng Bắc Bộ là 44 tiểu đoàn; đồng thời, Pháp tích cực bắt lính. Sau khi có thêm quân, quân đội Pháp tiến hành nhiều cuộc hành quân càn quét đánh vào những vùng giải phóng, gây cho kháng chiến một số khó khăn. Trước tình hình đó, từ tháng 9-1953, phương hướng chiến lược trong Đông - Xuân 1953-1954 được xác định là “tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa điểm xung yếu mà chúng không thể bỏ, do phải phân tán binh lực mà tạo ra cho ta những điều kiện thuận lợi mới để tiêu diệt thêm từng bộ phận sinh lực của chúng”28. Phương châm cơ bản thực hiện phương hướng chiến lược là: tích cực, chủ động, cơ động và linh hoạt; đánh ăn chắc, tiến ăn chắc, chắc thắng thì đánh cho kỳ thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh. Thực hiện chủ trương trên, quân đội ta đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang cách mạng Lào đồng loạt mở nhiều cuộc tiến công lớn đánh vào phòng tuyến của đối phương trên những hướng đã được lựa chọn: Tây Bắc, Trung Lào, Tây Nguyên, Thượng Lào. Để đối phó, quân đội Pháp buộc phải phân tán lực lượng. Từ tập trung quân ở một khu vực là đồng bằng Bắc Bộ, Pháp đã buộc phải phân tán binh lực ra 5 khu vực khác nhau (Tây Bắc, Trung Lào, Tây Nguyên, Thượng Lào, đồng bằng Bắc Bộ) - kế hoạch Nava bước đầu bị phá san. Để đối phó, quân đội Pháp tập trung binh lực lớn tại Điện Biên Phủ thuộc Tây Bắc. Đến đầu tháng 3-1954, lực lượng quân Pháp lên tới 16.200 người, bao gồm những đơn vị bộ binh, pháo binh, công binh, xe tăng, không quân vào loại tinh nhuệ bậc nhất ở Đông Dương. Lực lượng này được bố trí thành một tập đoàn cứ điểm xây dựng thành hệ thống phòng thủ mạnh, gồm 49 cứ điểm, chia thành 3 phân khu với những loại vũ khí hiện đại. Cả Pháp và Mỹ đều coi Điện Biên Phủ là một “pháo đài không thể công phá”, Việt Minh sẽ bị “nghiền nát” nếu như tiến công vào đây. Sau khi xem xét, phân tích kỹ các yếu tố, tương quan so sánh lực lượng đôi bên, Trung ương Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết tâm thực hiện một đòn quyết chiến chiến lược, xoay chuyển cục diện chiến trường. Chiến trường được lựa chọn để thực hiện nhiệm vụ lịch sử trên là Điện Biên Phủ. Thực hiện quyết tâm đó, quân, dân Việt Nam gấp rút chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch Điện Biên Phủ theo tinh thần: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng!”29. Ngày 13-3-1954, Quân đội nhân dân Việt Nam bắt đầu nổ súng tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch diễn ra 3 đợt: Đợt 1 từ ngày 13 đến 17-3-1954; đợt 2 từ ngày 30-3 đến 26-4; đợt 3 từ ngày 1 đến ngày 7-5. Sau 56 ngày đêm chiến đấu, ta đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân Pháp tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch kết thúc thắng lợi. Kế hoạch Nava của đế quốc Pháp - Mỹ bị phá sản hoàn toàn. Sau thất bại tại Điện Biên Phủ, thực dân Pháp buộc phải tiến hành đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 8-5-1954, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương khai mạc tại Giơnevơ (Thụy Sỹ). Tham dự Hội nghị có đại diện của 9 đoàn: Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Anh, Pháp, Mỹ và ba đoàn đại diện của chính quyền ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Trong quá trình Hội nghị, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kiên trì đấu tranh để đạt kết quả đàm phán cao nhất. Ngày 21-7-1954, các hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia lần lượt được ký kết. Bản tuyên bố cuối cùng về lập lại hoà bình ở Đông Dương được đại diện các nước tham dự Hội nghị chấp thuận và thông qua. Mỹ từ chối không tham gia vào tuyên bố cuối cùng của Hội nghị. Nội dung chủ yếu của Hiệp định Giơnevơ gồm những điểm sau: - Các bên tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia và không can thiệp vào công việc nội bộ của ba nước đó. - Các nước ngoài không được đưa vũ khí, quân đội, nhân viên quân sự vào ba nước Đông Dương, không được đặt căn cứ quân sự ở Đông Dương. Các nước Đông Dương không được gia nhập các khối liên minh quân sự và không được để cho các nước khác sử dụng lãnh thổ của mình để gây chiến tranh hoặc phục vụ cho mục đích xâm lược. - Để chấm dứt chiến tranh và lập lại hoà bình ở Việt Nam, các bên thực hiện ngừng bắn, tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu vực. Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 (dọc sông Bến Hải) làm giới tuyến quân sự tạm thời: miền Bắc do Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà quản lý, miền Nam do Chính phủ Pháp tạm thời quản lý, sau 2 năm sẽ tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. - Trách nhiệm thi hành Hiệp định Giơnevơ thuộc về những người ký kết Hiệp định và những người kế tiếp nhiệm vụ của họ. Như vậy, với Hiệp định Giơnevơ, Việt Nam mới chỉ giải phóng được một nửa nước từ vĩ tuyến 17 ra Bắc; Lào có 2 tỉnh được giải phóng (Sầm Nưa và Phôngxalỳ); ở Campuchia, không còn vùng giải phóng nên lực lượng vũ trang phải giải ngũ tại chỗ. Mặc dù có những hạn chế nhất định, nhưng Hiệp định Giơnevơ cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ có ý rất to lớn đối với ba nước Đông Dương. Miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân hai nước Lào và Campuchia bước vào thời kỳ mới, gay go, quyết liệt. II. KHÁNG CHIẾN CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1954-1975) 1. Tình hình thế giới và Việt Nam sau năm 1954 Thắng lợi Đông - Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ của nhân dân Việt Nam đã buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ (ngày 21-7-1954), công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, rút hết quân Pháp về nước. Đây là cột mốc quan trọng trên con đường giải phóng dân tộc của quân và dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, mở ra một thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt Nam. Do tương quan lực lượng đôi bên và tình hình chính trị thế giới phức tạp lúc đó, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia làm hai miền với hai chế độ chính trị. Sự nghiệp giai phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam chưa hoàn thành. Cuộc đấu tranh giành toàn vẹn độc lập, thống nhất đất nước còn phải tiếp tục trong những điều kiện mới, vừa thuận lợi nhưng cũng rất phức tạp, xét cả trên bình diện trong nước và trên thế giới. Ở trong nước, miền Bắc hoàn toàn giải phóng trở thành hậu phương căn cứ địa của cả nước, có chính quyền vững mạnh, có lực lượng vũ trang chính quy đang từng bước tiến lên hiện đại, có mặt trận tập hợp và đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân. Nhân dân miền Nam được giác ngộ chính trị, tha thiết mong thống nhất đất nước. Sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam được Đảng Lao động Việt Nam dày kinh nghiệm lãnh đạo, được đông đảo nhân dân tiến bộ và nhiều quốc gia trên thế giới đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ. Đó là những thuận lợi rất cơ bản của quân và dân ta khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bên cạnh đó, bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn: Kinh tế miền Bắc nghèo nàn, kỹ thuật sản xuất lạc hậu, tình hình an ninh chính trị phức tạp, bộ máy chính quyền các cấp chưa được củng cố, trình độ nhận thức, kinh nghiệm và năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội của đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế. Ở miền Nam, từ chỗ có chính quyền, có quân đội, có vùng giải phóng, giờ đây, phần lớn cán bộ, đảng viên, chiến sĩ tập kết ra Bắc, cách mạng miền Nam chuyển sang phương thức hoạt động vừa hợp pháp vừa không hợp pháp; vừa công khai, vừa bí mật. Tất cả những thay đổi đó, ở một mức độ đáng kể, đã đặt ra cho cách mạng Việt Nam những nhiệm vụ mới đầy phức tạp, khó khăn. Đối với thế giới, thắng lợi của nhân dân Việt Nam sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp đã tác động lớn đến phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh. Các phong trào này tìm thấy ở thắng lợi của nhân dân Việt Nam nguồn cổ vũ, sự động viên mạnh mẽ cùng những bài học kinh nghiệm để vận dụng vào điều kiện cụ thể từng nước trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Từ giữa những năm 60 của thế kỷ XX, đã có khoảng 40 nước giành độc lập mà phần lớn trong số đó vốn là thuộc địa của Pháp. Thực tế đó có tác động trực tiếp tới tình hình chính trị thế giới. Nếu trước kia, Liên hợp quốc chỉ có khoảng 50 nước thành viên, chủ yếu là các nước châu Âu và Mỹ Latinh thì đến giữa những năm 50 của thế kỷ XX, tổ chức này đã có tới 100 thành viên. Chương trình nghị sự về các vấn đề chính trị thế giới, vì vậy không còn do những nước lớn thao túng, định đoạt, áp đặt cho Đại hội đồng Liên hợp quốc như trước nữa. Sự thất bại của chủ nghĩa thực dân cũ trước phong trào giải phóng dân tộc tác động trực tiếp tới nguồn lợi nhuận của nhiều nước tư bản phát triển, làm cho khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội ở các nước này ngày càng sâu sắc, buộc các chính phủ đó phải tìm mọi cách ứng phó nhằm duy trì vị trí ở nước ngoài, đồng thời tăng cường bóc lột các lực lượng lao động trong nước. Phong trào đấu tranh của nhân dân lao động, đi đầu là giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, ngày càng phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu, khiến cho nhiều nước tư bản ở châu âu, châu Mỹ, châu Á lâm vào tình trạng bất ổn về chính trị, xã hội... Cùng lúc đó, chiến thắng Điện Biên Phủ của nhân dân Việt Nam góp phần làm suy yếu một bước chủ nghĩa đế quốc đã tạo cho các nước xã hội chủ nghĩa có thêm điều kiện để mở rộng phạm vi ảnh hưởng cũng như tăng cường tiềm lực, sức mạnh kinh tế, quân sự của mình. Hệ thống xã hội chủ nghĩa được củng cố, tăng cường, mở rộng phạm vi nối liền từ châu Âu sang châu Á đã thực sự là nhân tố đóng vai trò to lớn và quan trọng trong đời sống chính trị quốc tế, có ý nghĩa quyết định trong việc bảo vệ hoà bình và giữ gìn an ninh trên thế giới. Tuy nhiên, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cũng như nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa lúc này lại nảy sinh bất đồng về đường lối quan điểm và đang ngày càng trở nên sâu sắc, đặc biệt giữa Liên Xô và Trung Quốc. Sự hình thành và lớn mạnh của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân ở các nước tư bản làm cho các nước đế quốc, đứng đầu là Mỹ lo sợ. Mỹ và các nước Đồng minh tìm mọi cách đối phó, tiếp tục hướng nỗ lực vào việc chống chủ nghĩa cộng sản trên khắp các châu lục. Chiến lược toàn cầu của Mỹ nhằm bao vây, ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, đến năm 1955, đạt tới đỉnh cao với việc ra đời nhiều khối quân sự do Mỹ cầm đầu với 1.400 căn cứ quân sự Mỹ có mặt tại 31 nước. Những nỗ lực trên đây của Mỹ và Đồng minh khiến cho tình hình thế giới diễn biến ngày càng thêm căng thẳng, Chiến tranh lạnh ngày càng gay gắt, dù có hoà hoãn bộ phận. Thế giới phân thành hai cực, hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa vừa chống đối nhau quyết liệt nhưng đồng thời vẫn phải hợp tác với nhau trong chừng mực có thể để giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực có liên quan. Tình hình trên đây đã tác động không nhỏ đến sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các nước tư bản thuộc phe Đồng minh (trừ Mỹ), tuy thắng trận những nền kinh tế lại bị suy giảm; còn Đức, Italia và Nhật Bản bại trận và bị các nước Đồng minh chiếm đóng. Liên Xô, nước có vai trò to lớn trong việc ngăn chặn chủ nghĩa phát xít thì bị tàn phá rất nặng nề do chiến tranh. Các nước dân chủ nhân dân ra đời sau chiến tranh phần lớn là những nước kinh tế chưa phát triển... Do vị thế của mình, bước ra khỏi chiến tranh, nước Mỹ vươn lên mạnh mẽ, trở thành cường quốc số một, duy nhất về kinh tế trên thế giới. Trước những biến chuyển mạnh mẽ của tình hình thế giới, Mỹ thực hiện chiến lược toàn cầu, bao vây, ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, nhắm tới Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc mà Việt Nam là một mắt xích quan trọng. Việt Nam có vị trí địa - chiến lược rất quan trọng ở khu vực Đông Nam Á, là bao lơn nhô ra biển Thái Bình Dương, điểm giao hội các tuyến hàng hải quốc tế, lại có nguồn tài nguyên phong phú, được các nhà chiến lược Mỹ đánh giá là một tiền tiêu trọng yếu trên tuyến bao vây ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản. Cho đến giữa năm 1955, hiểu biết của Mỹ về tình hình chính trị đang diễn biến trên bán đảo Đông nương còn hạn chế. Trong con mắt của Mỹ, phong trào Việt Minh lúc đó là tập hợp các đảng phái quốc gia có thể lợi dụng để sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Mỹ thực hiện kế hoạch biến khu vực này thành đồn lũy ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản. Thế nhưng, khi nhận ra chính quyền mới ở Việt Nam được thiết lập trong Cách mạng Tháng Tám là do những người cộng sản lãnh đạo, Mỹ lập tức ủng hộ Tưởng Giới Thạch mở rộng ảnh hưởng. Sau khi cách mạng thành công, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời, khiến từ cuối năm 1949 trở đi, Mỹ dính líu ngày càng sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Việt Nam. Một mặt, Mỹ viện trợ cho Pháp những khoản viện trợ lớn: đến năm 1954, lên tới 78% trong tổng số chi phí chiến tranh của Pháp ở Đông Dương; mặt khác, chuẩn bị thế chân Pháp đặt chân ở Đông Dương khi Pháp không còn khả năng trụ lại. Sau khi Pháp bại trận, buộc phải ký Hiệp định Giơnevơ, Mỹ ngay lập tức tuyên bố không bị ràng buộc bởi Hiệp định này. Ngay sau đó, Mỹ đã đặt chân vào miền Nam Việt Nam, gây nên cuộc chiến tranh kéo dài và rất tàn khốc. Chọn Việt Nam làm nơi thí nghiệm chiến lược toàn cầu, mục tiêu của Mỹ là đè bẹp cách mạng Việt Nam, chia cắt Việt Nam, đẩy lùi chủ nghĩa cộng sản ở Đông Dương và Đông Nam Á, từ đó bao vây, uy hiếp Trung Quốc, ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Năm đời tổng thống Mỹ kế tiếp nhau đã theo đuổi và thực hiện kế hoạch trên đây bằng các chiến lược chiến tranh được thay đổi liên tục cho phù hợp. Chiến tranh Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong chiến lược toàn cầu đầy tham vọng của Mỹ. Về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản, lâu dài và cũng là nguyện vọng chính đáng, thiêng liêng của mọi người Việt Nam yêu nước. Sau ngày cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc, mục tiêu và nguyện vọng đó vẫn chưa hoàn thành là do kế hoạch và hành động chiến tranh xâm lược của Mỹ. Nhân dân Việt Nam buộc phải tiến hành cuộc kháng chiến để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thu nonsông về một mối, thực hiện thắng lợi mục tiêu thống nhất đất nước. Từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Nam trở thành nơi tập trung mâu thuẫn cơ bản của thế giới, nơi diễn ra cuộc đụng đầu lịch sử mang tính ý thức hệ. Sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam do đó có ý nghĩa và tầm ảnh hưởng vượt khỏi biên giới quốc gia dân tộc. 2. Quá trình phát triển của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ Căn cứ vào những biến chuyển về mặt chiến lược của cả hai phía đặt trong diễn biến thực tế của cuộc chiến tranh, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam (từ tháng 7-1954 đến tháng 4-1975) đã trải qua 5 giai đoạn. Mỗi giai đoạn chứa đựng trong đó những nội dung chiến lược, vừa là sự kế tiếp, vừa mang tính khác biệt so với giai đoạn nước. Nói cách khác, mỗi giai đoạn đều có nội dung riêng, phản ánh bước phát triển của cuộc kháng chiến, đánh dấu bước chuyển biến về chất của cục diện chiến tranh dẫn đến thắng lợi hoàn toàn của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. a) Giai đoạn từ tháng 7-1954 đến hết năm 1960 Sau hơn 80 năm thống trị của thực dân Pháp và 15 năm tàn phá của chiến tranh, hoà bình lập lại, miền Bắc lại đứng trước một loạt khó khăn gay gắt trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh - quốc phòng. Song bên cạnh những khó khăn, miền Bắc hoàn toàn giải phóng là một thắng lợi to lớn, một điều kiện thuận lợi rất cơ bản cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới. Phát huy khí thế chiến thắng và trên nền tảng của những điều kiện thuận lợi, nhân dân Việt Nam bắt tay vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, hoàn thành cải cách ruộng đất và sửa sai, phục hồi kinh tế, phát triển văn hoá - xã hội, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế, củng cố quan hệ sản xuất mới với hai hình thức cơ bản là quốc doanh và tập thể, củng cố và tăng cường sức mạnh an ninh - quốc phòng... Thắng lợi của cách mạng Việt Nam nói chung, thắng lợi của 5 năm xây dựng và phát triển của miền Bắc nói riêng sau ngày hoà bình lập lại được phản ánh trong bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của Việt Nam mà Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thông qua trong kỳ họp thứ 11, ngày 31-12-1959. Trong khi quân và dân miền Bắc đang ra sức ổn định, củng cố mọi mặt nhằm biến miền Bắc thành nền móng vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà thì ở phía nam vĩ tuyến là cách mạng miền Nam đang trải qua những tháng năm đầy gian khổ hy sinh. Ngày 7-7-1954, trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết 13 ngày, Ngô Đình Diệm được Mỹ đưa về miền Nam làm Thủ tướng thay Bửu Lộc. Từ đây, bắt đầu quá trình mà ở đó, Mỹ ráo riết thực hiện một loạt biện pháp tầm chiến lược xây dựng miền Nam Việt Nam thành con đê ngăn chặn “làn sóng đỏ”. Ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, Trung ương Đảng đã nhận rõ ý đồ can thiệp của Mỹ đối với Việt Nam và Đông Dương. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (7-1954) xác định: đế quốc Mỹ đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương. Nhận thức ngày càng rõ các kế hoạch chiến tranh của Mỹ, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chiến lược cho cách mạng hai miền. Tuy nhiên, việc tìm đường giải phóng miền Nam là một quá trình không đơn giản. Để tìm ra con đường đưa cách mạng đi lên, cần tính toán, lượng định các nhân tố trong nước và quốc tế có liên quan. Hai năm đầu sau Hiệp định Giơnevơ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam trên cả hai miền đấu tranh đòi thực hiện Hiệp định, đòi củng cố hoà bình, đòi các quyền tự do, dân chủ, dân sinh, thực hiện tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo các điều khoản mà Hiệp định Giơnevơ quy định. Các cuộc đấu tranh này của nhân dân Việt Nam ở miền Nam trong những năm từ 1955 đến 1958 đã bị trấn áp bằng các chiến dịch “tố Cộng”, “diệt Cộng”. “Tố Cộng”, “diệt Cộng” được Mỹ - Diệm nâng lên tầm “quốc sách”. Chính sách và hoạt động chống Cộng khiến cho lực lượng yêu nước và cách mạng ở miền Nam bị tổn thất nặng nề30. Tổn thất của cách mạng miền Nam là do nhiều nguyên nhân, trong đó “chủ yếu là do về mặt chỉ đạo chiến tranh cách mạng, Đảng chưa tìm ra được phương pháp và hình thức thích hợp để quần chúng chủ động chống trả địch một cách hiệu quả”31. Trong thực tế hình thức đấu tranh chính trị có sử dụng bạo lực chính trị ngày càng tỏ ra không đủ mạnh để đối phó với bạo lực phản cách mạng ở miền Nam. Từ tháng 8-1956, đồng chí Lê Duẩn, trên cương vị là Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ đã từ thực tiễn của tình hình miền Nam, viết Đề cương cách mạng miền Nam. Cuối năm đó, đồng chí Lê Duẩn dự kiến mức độ bạo lực phải được nâng cao, nhưng chưa đề ra được các biện pháp cụ thể. Như thế, so với quá trình hoạch định đường lối kháng chiến chống Pháp, quá trình soạn thảo đường lối kháng chiến chống Mỹ còn gay go, gian khổ, phức tạp, đòi hỏi nhiều công phu. Khi bắt tay vào kháng chiến chống thực dân Pháp, quân, dân Việt Nam đã có ngay đường lối cơ bản của cuộc kháng chiến dẫn đường, nhưng khi bắt đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, từ năm 1954 đến năm 1958, nhân dân ta mới chỉ có những định hướng chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Hội nghị Trung ương 6, 7, 8... Theo dõi sát diễn biến của tình hình miền Nam, nghiên cứu những kiến nghị khẩn thiết của nhiều cán bộ, đảng viên cũng như một số cấp uỷ đảng miền Nam gửi ra, Bộ Chính trị đã dành nhiều tâm lực vào việc tìm ra một giải pháp cơ bản cho cách mạng miền Nam. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 1532 do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa đã họp và ra quyết nghị. Nghị quyết 15 xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam; nhiệm vụ trước mắt là đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm - tay sai của đế quốc Mỹ; phương pháp cách mạng và phương pháp chiến tranh là dùng bạo lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; xu hướng phát triển của phong trào cách mạng miền Nam là từ khởi nghĩa của nhân dân có thể tiến lên cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ. Với tất cả những nội dung cốt lõi trên đây, Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng là một Nghị quyết lịch sử, đánh dấu bước phát triển mới về tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn của Đảng trong sự nghiệp giải phóng miền Nam. Nghị quyết đó phản ánh đúng tình thế chín muồi của cách mạng miền Nam, đáp ứng đòi hỏi bức xúc của phong trào cách mạng miền Nam, của cán bộ và đồng bào yêu nước miền Nam. Để kịp thời chi viện cho cách mạng miền Nam, tháng 5-1959, Trung ương Đảng quyết định tổ chức Đoàn 559 và tháng 7-1959, quyết định tổ chức Đoàn 759. Trước khi Nghị quyết 15 ra đời cũng như trong lúc Nghị quyết chưa được truyền đạt tới, ở nhiều địa phương miền Nam, dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ cơ sở, quần chúng cách mạng đã tổ chức một số cuộc đấu tranh vũ trang hoặc đấu tranh chính trị kết hợp có vũ trang. Đến giữa năm 1959, miền Nam ở trong quá trình xuất hiện khởi nghĩa từng phần. Trong điều kiện đó, Nghị quyết 15 đã thổi bùng lên ngọn lửa Đồng khởi, làm tan rã hàng loạt bộ máy kìm kẹp của chính quyền cơ sở, giành quyền làm chủ hàng nghìn xã, ấp, thôn, bản, đẩy quân đội và chính quyền Ngô Đình Diệm lâm vào thế bị động, lúng túng, khủng hoảng trầm trọng. Sau cao trào Đồng khởi, Đảng bộ miền Nam được khôi phục, đội quân chính trị, “đội quân tóc dài” của phụ nữ Nam Bộ ra đời; lực lượng vũ trang ba thứ quân và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp hình thành, các căn cứ địa tại chỗ được khôi phục, mở rộng... Trên đà thắng lợi, ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành tỉnh Tây Ninh, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch. Đại hội thông qua Tuyên ngôn và Chương trình hành động. Cách mạng miền Nam đã từ tình trạng thoái trào và thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công. Nghị quyết 15, tiếp đó là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) đã hoàn chỉnh đường lối cách mạng Việt Nam nói chung, đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam nói riêng. Nhìn chung lại, từ tháng 7-1954 đến tháng 12-1960 là giai đoạn Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm gây ra muôn vàn tổn thất, phức tạp và khó khăn cho cách mạng miền Nam. Đây cũng là giai đoạn Đảng phải tính toán, cân nhắc, lựa chọn để tìm ra con đường và phương pháp đúng đắn cho cách mạng miền Nam, đưa cách mạng miền Nam vượt qua tổn thất hiểm nghèo, tiếp tục phát triển trong những điều kiện mới. Về phương diện đó, Nghị quyết 15 và phong trào Đồng khởi chiếm giữ một vị trí rất quan trọng trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, một thành công điển hình của Đảng và nhân dân Việt Nam trong tiến hành cách mạng bạo lực, trong nghệ thuật chỉ đạo khởi sự chiến tranh ở miền Nam. b) Giai đoạn từ năm 1961 đến giữa năm 1965 Phong trào Đồng khởi đã khiến Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm lúng túng, buộc Mỹ phải bị động chuyển sang dùng “Chiến tranh đặc biệt” để đối phó với cách mạng miền Nam. Đây là một loại hình chiến tranh trong khuôn khổ chiến lược quân sự toàn cầu “phản ứng linh hoạt” của đế quốc Mỹ33. Đặc điểm của loại chiến tranh này là sử dụng quân đội bản xứ làm công cụ tiến hành chiến tranh với sự hỗ trợ của đôla, vũ khí của Mỹ, do Mỹ chỉ huy. Vận dụng vào miền Nam, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã triển khai thực hiện các nội dung lớn sau: - Dồn dân vào ấp chiến lược trên quy mô lớn hòng “tát nước bắt cá”, tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân. Nội dung này được xem là “xương sống” của chiến lược Chiến tranh đặc biệt. - Tăng cường quân đội Sài Gòn, mở các cuộc hành quân càn quét để tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng và hỗ trợ cho việc dồn dân lập ấp chiến lược. - Tiến hành các hoạt động chiến tranh bí mật phá hoại miền Bắc. Để thực hiện chiến tranh đặc biệt, Mỹ tập trung vào việc tăng cường lực lượng quân đội Sài Gòn, bộ máy cảnh sát; tăng cường viện trợ (quân sự và kinh tên cố vấn, lực lượng yểm trợ... nhằm “bình định” miền Nam trong 18 tháng (từ giữa năm 1961 đến hết năm 1962) theo kế hoạch Xtalây Taylo; sau đó là hai năm (1963-1964) theo kế hoạch Giônxơn Mc Namara. Với sự tăng viện về đôla, vũ khí, thiết bị chiến tranh, đội ngũ cố vấn của Mỹ, trong những năm khiến tranh đặc biệt Mỹ, chính quyền và quân đội Sài Gòn đã dồn sức vào việc gom dân lập ấp chiến lược bằng nhiều thủ đoạn và biện pháp khốc liệt, đẫm máu; mở nhiều cuộc hành quân càn quét, sử dụng các loại vũ khí hiện đại và triển khai các chiến thuật “tân kỳ” như “thiết xa vận”, vận dụng thành công các thủ đoạn chiến thuật được mệnh danh là “bủa lưới phóng lao”, “trên đe dưới búa”, “phượng hoàng vồ mồi”... đánh phá phong trào cách mạng, đánh sâu vào toàn bộ hệ thống căn cứ kháng chiến, bịt kín vùng biên giới nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam... Để đánh bại chiến lược chiến tranh mới của Mỹ, Đảng chủ trương, trên cơ sở thế và lực mới do phong trào Đồng khởi tạo ra, chuyển cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn miền. Thực hiện chủ trương chuyển hướng chiến lược đó, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, ta đã: - Tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang (cả khối cơ động và lực lượng tại chỗ trên chiến trường miền Nam. - Phát triển mạnh chiến tranh du kích trên cả ba vùng chiến lược đi đôi với tăng cường đánh phá các vị trí xung yếu, nâng dần trình độ tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực. Quân uỷ Trung ương cùng Ban Thống nhất Trung ương được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ giúp Trung ương trực tiếp chỉ đạo công tác quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam; tăng cường các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy ở miền Nam như Trung ương Cục, Khu uỷ, Bộ chỉ huy Miền và Bộ chỉ huy quân sự các quân khu. - Phân chia lại chiến trường theo yêu cầu phát triển của chiến tranh. - Tăng cường sự chi viện từ miền Bắc cho cách mạng miền Nam (mở rộng hành lang vận chuyển chiến lược bằng đường bộ, đường biển). - Đẩy mạnh công cuộc xây dựng miền Bắc, thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất về kinh tế - xã hội và kế hoạch 5 năm lần thứ hai về xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng. Ở miền Nam, thực hiện chỉ thị ngày 31-1-1961 của Quân ủy Trung ương, ngày 15-2-1961, Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam họp bàn về việc nâng đấu tranh vũ trang lên ngang tầm với đấu tranh chính trị, quyết định lấy ngày 15-2-1961 là ngày thành lập Quân giải phóng thống nhất trên toàn miền Nam. Tiếp đó, chiến thắng ấp Bắc (Cai Lậy, Mỹ Tho) ngày 2-1-1963 là sự kiện quan trọng, cho thấy khả năng quânvà dân miền Nam hoàn toàn có thể đánh bại các biện pháp chiến lược của địch trong chiến tranh đặc biệt. Với phương châm chiến lược “hai chân”, “ba mũi”, “ba vùng”, “bốn bám”, phong trào phá ấp chiến lược dâng cao kể từ sau chiến thắng Ấp Bắc. Kế hoạch “bình định” miền Nam trong 18 tháng của Xtalây Taylo bị phá sản. Đồng thời, mặt trận đấu tranh vũ trang có bước phát triển mới. Lực lượng vũ trang ba thứ quân không ngừng tăng lên về số lượng và chất lượng. Chiến tranh du kích phát triển rộng khắp, kết hợp chặt chẽ với phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Tác chiến của bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực ngày càng phát triển. Nhiều trận đánh tiêu diệt gọn cả đại đội, tiểu đoàn địch đã chứng tỏ khả năng tác chiến tập trung với quy mô ngày càng lớn của bộ đội chủ lực. Trong khi đó, phong trào đấu tranh ở các đô thị đòi quyền dân sinh, dân chủ, bình đẳng tôn giáo, chống bắt lính... dâng cao. Tình hình đó khiến cho nội bộ Mỹ và quân đội Sài Gòn lâm vào cuộc khủng hoảng ngày càng sâu sắc. Mỹ buộc phải “thay ngựa giữa đường”, phế bỏ Diệm - Nhu (11-1963). Nhưng với ngay cả cố gắng này, Mỹ cũng không cứu vãn nổi tình hình. Công cuộc xây dựng miền Bắc vững mạnh tiếp tục thu được những thành tựu trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh - quốc phòng. Trong khi đó, cách mạng Lào có những bước phát triển mới với việc thiết lập chính quyền liên minh ba phái gồm cả Pathét Lào. Song, bối cảnh quốc tế liên quan đến sự nghiệp cách mạng Việt Nam bấy giờ lại diễn biến phức tạp, đặc biệt là mâu thuẫn Xô - Trung trở nên gay gắt, tác động không nhỏ tới tư tưởng, tâm lý của cán bộ, đảng viên... Trong bối cảnh trên đây, tháng 11-1963, Hội nghị Trung ương lần thứ chín của Đảng đã kịp thời xác định nhiều vấn đề quan trọng về đường lối đoàn kết quốc tế của Đảng, về đường lối cách mạng và chiến tranh cách mạng Việt Nam. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, miền Bắc nỗ lực đẩy mạnh sản xuất, phấn đấu đạt các mục tiêu về kinh tế, văn hoá, xã hội của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất; đồng thời ra sức chuẩn bị mọi mặt nhằm bảo vệ vững chắc hậu phương miền Bắc, chi viện tiền tuyến miền Nam. Trước sự lớn mạnh của cách mạng miền Nam. Mỹ càng tăng cường các hoạt động chống phá nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Mỹ dùng hạm tàu Mađốc vi phạm lãnh hải Việt Nam, dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ (5-8- 1964), để tạo cớ ném bom miền Bắc và tạo điều kiện cho Quốc hội Mỹ thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ (7-8-1964) trao cho Tổng thống Mỹ Giônxơn quyền sử dụng lực lượng quân sự Mỹ trực tiếp tiến hành chiến tranh ở Việt Nam. Hành động trên đây của Mỹ khiến cho tình hình diễn biến ngày càng thêm căng thẳng. Tháng 3-1964 , Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt, biểu thị ý chí đoàn kết chống Mỹ, cứu nước của toàn dân tộc Việt Nam. Cũng trong năm 1964 và đầu năm 1985, một số hội nghị lớn được tổ chức nhằm chuẩn bị mọi mặt cho miền Bắc sẵn sàng và có đủ sức mạnh đánh thắng mọi âm mưu và hành động mở rộng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Trên chiến trường miền Nam, năm 1964 và những tháng đầu năm 1985, chiến tranh nhân dân phát triển rộng khắp cả ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn, đồng bằng, đô thị). Tiếp tục vận dụng các phương châm chiến lược trong cuộc đấu tranh chống phá bình định, quân, dân các chiến trường đã làm thất bại “quốc sách” ấp chiến lược của Mỹ và tay sai. Bộ đội chủ lực ta mở nhiều trận đánh và một số chiến dịch tiến công. Các chiến dịch Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài thắng lợi, đánh dấu bước tiến mới về trình độ tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực, góp phần quan trọng vào việc tạo ra bước ngoặt cho hình thái đấu tranh vũ trang của chiến tranh cách mạng miền Nam. Chiến tranh du kích tiếp tục phát triển rộng khắp, đặc biệt là hoạt động của bộ đội đặc công, biệt động ở sâu trong vùng hậu cứ, hậu phương của địch. Các nỗ lực chống phá miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ngày càng tỏ ra không hiệu quả. Trong khi đó, chính quyền Sài Gòn tiếp tục lún sâu vào cuộc khủng hoảng nội bộ với 14 lần đảo chính và phản đảo chính trong hơn 1 năm rưỡi kể từ ngày Diệm và Nhu bị lật đổ (11-1963 đến 6- 1965). Như thế, đến giữa năm 1965, hơn 50 vạn quân Việt Nam cộng hòa - nòng cốt của chiến tranh đặc biệt, không đủ sức đương đầu với Quân giải phóng miền Nam; chương trình “bình định” được coi là xương sống của cuộc chiến tranh này cũng bị phong trào tiến công và nổi dậy của nhân dân miền Nam làm phá sản. Cuối cùng, chính quyền Sài Gòn - chỗ dựa về chính trị để Mỹ tiến hành chiến tranh đặc biệt, ngày càng lâm vào tình trạng khủng hoảng. Chiến lược Chiến tranh đặc biệt, sau 4 năm triển khai thực hiện, về cơ bản đã bị đánh bại trên chiến trường miền Nam. Nhìn chung lại, trong giai đoạn này, thực hiện chiến lược Chiến tranh đặc biệt, một trong ba hình thức chiến tranh của chiến lược quân sự toàn cầu “Phản ứng linh hoạt”, Mỹ quyết định dùng chiến tranh bằng quân đội bản xứ do Mỹ trang bị với hệ thống cố vấn Mỹ chỉ huy, dùng biện pháp chiến lược “càn quét và bình định” để tiêu diệt cách mạng miền Nam... Trước tình hình đó, quân, dân miền Nam kịp thời chuyển cuộc đấu tranh từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, tập trung đánh bại các biện pháp lớn của chiến lược Chiến tranh đặc biệt; đồng thời, ra sức xây dựng miền Bắc, kiềm chế và thắng địch ở miền Nam, sẵn sàng đối phó với chiến lược Chiến tranh cục bộ. Đây là thời kỳ mà hình thái cuộc đấu tranh kết hợp chính trị và quân sự, tiến công và nổi dậy, tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ phát triển rất cao; đấu tranh quân sự có bước phát triển mới với sự xuất hiện một số chiến dịch khởi đầu. c) Giai đoạn từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968 Thất bại trong Chiến tranh đặc biệt, từ giữa năm 1965, Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược Chiến tranh cục bộ bằng việc đưa quân chiến đấu Mỹ vào tham chiến ở miền Nam và dùng không quân, hải quân mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Mục tiêu chiến lược của Mỹ là sử dụng sức mạnh quân sự trực tiếp đánh bại cách mạng miền Nam dự định chỉ trong vòng khoảng từ 25 đến 30 tháng (từ giữa năm 1965 đến hết năm 1967). Kế hoạch giành thắng lợi quyết định ở miền Nam của quân Mỹ được phân thành ba giai đoạn: Giai đoạn đầu, triển khai quân Mỹ, chặn thế thua của quân đội Sài Gòn; giai đoạn hai, mở các cuộc tiến công chiến lược “tìm diệt” Quân giải phóng và kiểm soát vùng nông thôn; giai đoạn ba, hoàn tất các mục tiêu, rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam. Hỗ trợ cho các hoạt động quân sự ở miền Nam, không quân và hải quân Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc nhằm khủng bố tinh thần kháng chiến của nhân dân Việt Nam, ngăn chặn nguồn tiếp tế từ ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam, củng cố tinh thần quân đội Sài Gòn... Đây là nỗ lực quân sự lớn nhất, bước leo thang chiến tranh cao nhất của đế quốc Mỹ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Hành động chiến tranh mới này của Mỹ đã đặt cuộc kháng chiến của quân dân Việt Nam trước những thử thách lớn lao và tình thế rất hiểm nghèo. Cả thế giới lo lắng dõi theo diễn biến chiến tranh ở Việt Nam. Trước tình thế hiểm nghèo đó, các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 11 (3-1965) và 12 (12-1965) trên cơ sở so sánh đúng lực lượng ta - địch, chỉ ra chính xác chỗ mạnh, chỗ yếu và khả năng thực tế của cả hai bên trong cuộc đối đầu trực tiếp này, lượng định xu hướng diễn biến của tình hình... đã hạ quyết tâm động viên cao độ sức mạnh của cả nước, ra sức tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân tiến bộ thế giới, trước hết là các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, tiếp tục giữ vững và phát huy tư tưởng chiến lược tiến công, ghìm chân và đánh thắng quân Mỹ trên chiến trường miền Nam, bảo vệ vững chắc miền Bắc, làm thất bại chiến lược Chiến tranh cục bộ của Mỹ. Theo phương hướng Nghị quyết Hội nghị Trung ương 11 và 12, từ năm 1965, miền Bắc chuyển nhanh mọi mặt từ thời bình sang thời chiến: chuyển hướng về tư tưởng, tổ chức; chuyển hướng về kinh tế, tăng cường sức mạnh quân sự. Đó là một quyết định kịp thời và đúng đắn, bảo đảm cho miền Bắc có đủ điều kiện và sức mạnh để cùng một lúc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ, duy trì và giữ vững sản xuất, tăng sức chi viện cho chiến trường. Khắp nơi trên miền Bắc dấy lên các phong trào thi đua sôi nổi trong mọi tầng lớp nhân dân: “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Tay cày, tay súng”, “Tay búa, tay súng”, “Thiếu nhi làm nghìn việc tốt chống Mỹ, cứu nước”, “Tiếng hát át tiếng bom”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Sống bám cầu đường, chết kiên cường dũng cảm”... Dưới đạn bom đánh phá của máy bay, tàu chiến Mỹ, miền Bắc vẫn vững vàng, không nao núng quyết tâm; sản xuất nông nghiệp, công nghiệp vẫn được giữ vững. Đời sống nhân dân nhìn chung vẫn ổn định mặc dù thiếu thốn, khó khăn hơn. Lực lượng phòng không ba thứ quân trên miền Bắc phát triển nhanh chóng, đánh trả quyết liệt, hiệu quả không quân, hải quân Mỹ. Giao thông vận tải chẳng những không bị ngừng trệ mà hơn thế, ngày càng vươn sâu, vươn xa về phía Nam. Sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến tăng nhanh theo từng năm, đáp ứng kịp thời và tương đối đầy đủ nhu cầu về người, vũ khí, phương tiện chiến tranh của cách mạng miền Nam... Được miền Bắc chi viện sức người, sức của và dựa trên thế trận chiến tranh nhân dân phát triển mạnh trong những năm đánh bại chiến lược Chiến tranh đặc biệt, ngay từ những ngày đầu Chiến tranh cục bộ và trong những năm sau đó, lực lượng vũ trang ba thứ quân của cách mạng miền Nam đã đón đánh quyết liệt quân viễn chinh Mỹ. Tiếp theo là các trận đánh phủ đầu quân Mỹ ở Núi Thành (Quảng Nam) đêm 25 rạng 26-5-1965, Vạn Tường (Quảng Nghị) hạ tuần tháng 8-1965, Đất Cuốc (phía bắc Biên Hoà) ngày 8-11-1965, Bầu Bàng ngày 12- 11-1965, Plây Me (tây nam thị xã Plâyku) từ ngày 19-10 đến ngày 20-11-1965, trong mùa khô 1965-1966, quân dân miền Nam đã đánh thắng cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất, làm thất bại chương trình bình định của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Tháng 6-1966, Quân uỷ Trung ương quyết định mở Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, tạo hướng tiến công chiến lược mới vào mắt xích yếu nhất trên chiến trường, buộc đối phương phải tiếp tục phân tán binh lực lên vùng rừng núi - nơi lực lượng quân giải phóng có điều kiện tiêu diệt lực lượng lớn cơ động chủ lực của đối phương bằng chủ lực mạnh của miền Bắc, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của đối phương ở miền Nam, ngăn chặn không để Mỹ và quân đội Sài Gòn mở rộng cuộc tiến công trên bộ ra khu vực Nam Quân khu IV. Tháng 1-1967, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 13 họp và quyết định mở mặt trận đấu tranh ngoại giao. Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh: Mở mặt trận đấu tranh ngoại giao lúc này là đúng lúc nhằm phối hợp với mặt trận quân sự, chính trị, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, đánh bại các cố gắng chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Bước vào mùa khô 1966-1967, Mỹ và chính quyền Sài Gòn dồn sức mở liên tiếp ba cuộc hành quân lớn là Áttơnborơ, Xiđaphôn, Gianxơn Xity, tập trung đánh vào miền Đông Nam Bộ. Đặc biệt, trong cuộc hành quân Gianxơn Xity, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ (MACV) đã sử dụng tới 45.000 quân nhằm chụp bắt cơ quan chỉ đạo cách mạng miền Nam bấy giờ ở chiến khu Dương Minh Châu... Dựa trên thế trận chiến tranh nhân dân được chuẩn bị sẵn sàng, sự kết hợp tác chiến của lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động, quân và dân trên khắp chiến trường miền Nam nói chung, ở Đông Nam Bộ nói riêng, đã mở các trận đánh các chiến dịch phản công, tiến công, đánh bại các nỗ lực quân sự trên đây của Mỹ. Đồng thời, lực lượng đặc biệt tinh nhuệ của ta đẩy mạnh các hoạt động sâu trong nội đô, tiến công vào nhiều mục tiêu hiểm yếu ở hậu phương, hậu cứ của đối phương. Thất bại trong hai cuộc phản công chiến lược ở miền Nam cùng với sự bất lực của không quân, hải quân trong việc ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam đã đặt giới lãnh đạo hiếu chiến Mỹ vào thế “tiến thoái lưỡng nan” về chiến lược, làm cho nội bộ nước Mỹ, đặc biệt trong giới cầm quyền, bị chia rẽ. Theo dõi chặt chẽ mọi diễn biến của tình hình chiến trường trong nước và trên thế giới, từ giữa năm 1967, các cơ quan chiến lược tại Hà Nội bắt tay xây dựng kế hoạch quân sự Đông - Xuân 1967-1968. Tháng 10-1967, Bộ Chính trị họp Hội nghị mở rộng, quyết định chuyển hướng tiến công chiến lược vào các đô thị miền Nam. Bắt đầu từ đó các chiến trường, các mặt trận khẩn trương và bí mật chuẩn bị theo phương hướng này. Tháng 1-1968, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp thông qua Nghị quyết của Hội nghị Bộ Chính trị tháng 12-1967, chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân năm 1968. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đêm 20, rạng ngày 21-1-1968, bộ đội chủ lực bất ngờ nổ súng đánh vào tập đoàn cứ điểm Khe Sanh, một vị trí có tầm quan trọng chiến lược phía tây phòng tuyến Mc Namara mà Mỹ lập ra nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Trong khi quân Mỹ và quân đội Sài Gòn buộc phải tăng cường cho Khe Sanh và dồn mối quan tâm vào chiến sự ở nơi này, thì vào đêm giao thừa và đêm mồng Một Tết Mậu Thân (30 và 31-l-1968), bộ đội giải phóng đồng loạt tiến công vào 4 thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn; đánh thẳng vào hầu hết các cơ quan đầu não trung ương, địa phương của chính quyền Sài Gòn trên toàn miền Nam. Ở vùng nông thôn đồng bằng, với sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ trên những khu vực rộng lớn... Cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt, bất ngờ, táo bạo Tết Mậu Thân đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của Mỹ, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của chúng trên chiến trường, làm bất lực một đội quân đông tới hơn một triệu quân. Hai tháng kể từ ngày xảy ra “biến cố Tết Mậu Thân”, sau rất nhiều tính toán và lượng định tình hình, đến ngày 31-3-1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn đơn phương tuyến bố, chấm dứt thời kỳ đưa quân Mỹ vào tham chiến ở miền Nam Việt Nam, ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, sẵn sàng cử đại diện đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và không ra tranh cử nhiệm kỳ tổng thống tiếp theo... Những quyết định trên đây đã cho thấy Mỹ mặc nhiên thừa nhận sự phá sản hoàn toàn của chiến lược Chiến tranh cục bộ. Tháng 5 và tháng 8-1968, bộ đội giải phóng mở tiếp các đợt tiến công mà hướng chính vẫn là mặt trận đô thị. Mặc dù bồi tiếp đòn mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ nhưng việc mở các cuộc tiến công trên đây cũng gây cho ta những hao tổn nặng nề về lực lượng, thế trận chiến tranh nhân dân trên ba vùng chiến lược bị suy giảm mạnh. Chủ lực ta bị đánh bật khỏi nhiều vùng ven đô, đồng bằng; phải lùi lên vùng rừng núi, thậm chí ra khỏi ranh giới miền Nam, nhiều vùng giải phóng bị quân đội Sài Gòn chiếm lại... Dù vậy, ngày 1-11-1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn vẫn buộc phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện mọi hành động chống phá nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chấp nhận Hội nghị 4 bên ở Pari. Nhìn chung, Chiến tranh cục bộ là cố gắng cao nhất trong toàn bộ nỗ lực chiến tranh xâm lược miền Nam của Mỹ. Những năm tháng ấy, khắp hai miền Nam, Bắc Việt Nam, khí thế và quyết tâm đánh Mỹ dâng cao. Đây là giai đoạn mà bản lĩnh, sức mạnh và sự sáng tạo của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam được thể hiện đầy đủ nhất qua việc đương đầu và chiến thắng nỗ lực chiến tranh cao nhất của lục quân, không quân và hải quân Mỹ. Thất bại này, xét trên nhiều khía cạnh, là sự khởi đầu cho cả một quá trình đi xuống về chiến lược trong cuộc chiến tranh Việt Nam của Mỹ và quá trình đó là không thể đảo ngược. Thất bại ở Việt Nam và những hệ lụy của nó là một nhân tố quan trọng buộc Mỹ phải từ bỏ chiến lược quân sự toàn cầu “Phản ứng linh hoạt”. Với cách mạng miền Nam, những thắng lợi có ý nghĩa quyết định trong giai đoạn này đã tạo điều kiện thực hiện vừa đánh vừa đàm trong những năm tiếp sau. d) Giai đoạn từ năm 1969 đến tháng 1-1973 Thất bại trên chiến trường Việt Nam đã đẩy nước Mỹ lâm vào thời kỳ khủng hoảng kéo dài nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, xã hội và đối ngoại. Trong bối cảnh đó trong nhiệm kỳ 1969-1972, Níchxơn và giới cầm quyền Mỹ quyết định điều chỉnh chiến lược hòng tiếp tục thực hiện chính sách bá chủ toàn cầu và duy trì sự thống trị ở miền Nam Việt Nam bằng chủ nghĩa thực dân mới. Chiến lược toàn cầu mới này mang tên “học thuyết Níchxơn” và chiến lược quân sự “Răn đe thực tế” thay thế cho chiến lược “Phản ứng linh hoạt” đã bị phá sản. Với chiến lược mới này, Mỹ chủ trương duy trì lực lượng quân sự mạnh để “răn đe”, giữ vững cam kết với Đồng minh trên cơ sở “chia sẻ trách nhiệm” và Mỹ tiếp tục khẳng định vị trí “lãnh đạo thế giới tự do”. Đồng thời, chiến lược mới này còn chủ trương lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là giữa Liên Xô và Trung Quốc, cũng như triệt để khai thác tính đa cực về chính trị trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế để chia rẽ, lôi kéo các nước lớn; mua chuộc, uy hiếp các nước nhỏ... Ứng dụng Học thuyết Níchxơn vào Việt Nam, chính quyền Mỹ điều chỉnh chủ trương “Phi - Mỹ hoá” của thời Giônxơn thành chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”. Nhưng khác với “Phi - Mỹ hóa” là một kế hoạch thuần tuý về quân sự nhằm đảm bảo cho quân đội Mỹ trên chiến trường Việt Nam giảm thiểu tổn thất bằng cách trút dần gánh nặng chiến tranh lên vai quân đội Sài Gòn. “Việt Nam hóa” là một chiến lược hoàn chỉnh về quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao nhằm tiếp tục thực hiện âm mưu cơ bản của Mỹ là bám giữ miền Nam Việt Nam, giảm bớt sự dính líu quân sự trực tiếp trên bộ nhưng vẫn phải giành thế mạnh trên chiến trường để ép đối phương ở bàn hội nghị theo những điều kiện của Mỹ. Về thực chất, đây là một chiến lược chiến tranh “thay đổi màu da trên xác chết”. Chiến lược này dự định trải qua 3 giai đoạn và mỗi giai đoạn gắn liền với việc trao dần gánh nặng chiến tranh lên vai chính quyền và quân đội Sài Gòn trên cơ sở đánh giá những tiến bộ của chương trình “Việt Nam hoá”. Thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, Mỹ đã tiến hành một loạt các biện pháp về quân sự, chính trị, ngoại giao mà tựu trung, các biện pháp đó được mệnh danh là “chiến tranh huỷ diệt”, “chiến tranh giành dân”, “chiến tranh bóp nghẹt”. Âm mưu, thủ đoạn và những hành động chiến tranh mới của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đặt sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Việt Nam trước tình thế mới, vừa thuận lợi nhưng cũng nhiều phức tạp, khó khăn. Trên thực tế, từ giữa năm 1968 đến những tháng đầu năm 1970, cách mạng miền Nam lâm vào thời kỳ rất khó khăn, các lực lượng cách mạng, yêu nước ở miền Nam phải đối mặt với những thử thách nặng nề trước sự đánh phá dữ dội và những âm mưu, thủ đoạn “bình định” thâm độc, tàn bạo của kẻ thù34. Cơ sở chính trị ở vùng địch tạm chiếm bị hao tổn; vùng giải phóng, vùng làm chủ bị thu hẹp dần. Mất chỗ đứng chân, các đơn vị chủ lực Quân giải phóng phải lùi dần lên vùng rừng núi, thậm chí bật sang biên giới Campuchia, một số đơn vị phải ra Nam Quân khu IV để củng cố lực lượng... Giữa những ngày tháng gian nan đó, ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời tại Thủ đô Hà Nội. Trong tình hình đó, Mỹ và chính quyền Sài Gòn tăng cường các hoạt động tâm lý chiến nhằm làm lung lạc tinh thần kháng chiến của quân và dân Việt Nam. “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, trong khó khăn ác liệt, quân dân ở cả hai miền Nam, Bắc vẫn giữ vững ý chí, quyết tâm, kiên cường và bền bỉ kháng chiến. Từ tháng 4-196935, nhất là từ đầu năm 1970, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã từng bước đúc kết, chỉ ra những khuyết điểm của cuộc Tổng tiến công, chủ trương chuyển hướng tiến công, lấy nông thôn làm hướng chính, tập trung nỗ lực ngăn chặn và đẩy lùi các chương trình bình định nông thôn của địch, ra sức chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng đối phó có hiệu quả nếu địch liều lĩnh mở rộng chiến tranh sang Campuchia và Lào... Trên cơ sở đánh giá tình hình nội bộ miền Nam cơ bản đã được ổn định, tháng 4-1970, Mỹ và chính quyền Sài Gòn sử dụng 10 vạn quân tràn qua biên giới Campuchia, phối hợp với quân đội Lonnon đánh vào hai khu vực Moóc Câu và Mỏ Vẹt nhằm tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng và chụp bắt cơ quan chỉ đạo cách mạng miền Nam. Cùng lúc đó, Mỹ tăng cường chiến tranh ở Lào, dùng máy bay ném bom ở các tỉnh Nam Quân khu IV. Theo dõi sát diễn biến của tình hình, Bộ Chính trị kịp thời nhận định: từ đây, Đông Dương đã trở thành một chiến trường thống nhất, trong đó, chiến trường chính vẫn là miền Nam Việt Nam; Campuchia là chiến trường yếu của địch; Lào ngày càng có vị trí hiểm yếu; miền Bắc là hậu phương chung của cách mạng ba nước Đông Dương. Bộ Chính trị chủ trương phối hợp chặt chẽ với nước bạn đẩy mạnh tiến công tiêu diệt địch, giải phóng đất đai; đồng thời phá kế hoạch “bình định” ở chiến trường miền Nam. Theo phương hướng đó, lực lượng vũ trang giải phóng Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang Lào và Campuchia hành động kiên quyết, dũng cảm, giành thắng lợi quyết định ở chiến trường Campuchia, ở Lào36 và ở Nam Việt Nam. Phát huy thắng lợi đã giành được trong năm 1970, những tháng đầu năm 1971, quân giải phóng tiến hành thắng lợi chiến dịch phản công có ý nghĩa chiến lược, đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 - một cuộc hành quân nhằm đánh chiếm Sêpôn, phá tận gốc đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam, chia cắt ba nước Đông Dương và thử nghiệm công thức chiến lược: quân đội Sài Gòn (bộ binh) + hoả lực + hậu cần Mỹ. Đây là cố gắng quân sự cao nhất của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong giai đoạn Việt Nam hoá chiến tranh. Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào đã chấm dứt thời kỳ mà ở đó, Mỹ và chính quyền Sài Gòn tổ chức các cuộc hành quân quy mô lớn tiến công và phản kích ra vòng ngoài trên chiến trường 3 nước Đông Dương. Thắng lợi to lớn, toàn diện của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ trong 2 năm 1970, 1971 đã tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân miền Nam mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972, năm nước Mỹ bước vào cuộc vận động tranh cử tổng thống nhiệm kỳ mới. Đây là thời điểm rất nhạy cảm trong đời sống chính trị nước Mỹ mà bộ não lãnh đạo cách mạng Việt Nam cần phải và có thể lợi dụng để làm thay đổi cục diện chiến tranh. Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 bắt đầu từ ngày 30-3-1972, bằng 3 chiến dịch tiến công của quân chủ lực ta trên 3 hướng (Đường 9 - Trị Thiên, bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ), kết hợp với các chiến dịch tiến công tổng hợp (ở đồng bằng Nam Bộ và đồng bằng Khu 5). Thời gian mở màn, hướng tiến công, quy mô sử dụng lực lượng và cường độ của cuộc tiến công chiến lược đã khiến Mỹ và quân đội Sài Gòn bất ngờ, choáng váng, bị thiệt hại nặng. Quân giải phóng đập vỡ nhiều tuyến phòng ngự cơ bản của quân đội Sài Gòn, chiếm giữ thêm những địa bàn xung yếu có sức uy hiếp các căn cứ, chi khu, đô thị; giải phóng nhiều vùng rộng lớn gồm hầu hất các tỉnh Quảng Trị, Kon Tum, Bắc Bình Định; hoàn chỉnh vùng giải phóng Đông Nam Bộ (Tây Ninh, Bình Long, Phước Long), mở ra vùng giai phóng mới ở đồng bằng Khu 5, đồng bằng sông Cửu Long. Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 nổ ra, Mỹ bị động phải dùng không quân, hải quân đánh phá ác liệt ở miền Nam và mở lại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Đi đôi với sự phản ứng quyết liệt về quân sự, Mỹ đồng thời xúc tiến mạnh mẽ các hoạt động ngoại giao hòng gây sức ép buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải dừng cuộc tiến công. Tiếp đó, tháng 12-1972, Mỹ mở cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng hòng buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải chấp nhận điều kiện đàm phán của Mỹ. Song, những nỗ lực quân sự, ngoại giao trên đây của Mỹ đều bị thất bại. Mỹ buộc phải ký kết Hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân đội ra khỏi miền Nam, chấp nhận việc quân đội miền Bắc vẫn ở lại chiến trường. Nhìn chung lại, khoảng thời gian từ năm 1969 đến năm 1972 là giai đoạn Mỹ và chính quyền Sài Gòn tuy phải xuống thang chiến tranh nhưng lại thay đổi chiến lược, dồn sức phản công quyết liệt, toàn diện, bằng những biện pháp thâm độc, tàn bạo hòng gỡ thể diện cho việc buộc phải rút dần quân chiến đấu Mỹ ra khỏi miền Nam, chấm dứt sự dính líu quân sự trực tiếp của Mỹ tại Việt Nam. Thời kỳ đầu, Bộ Tổng tư lệnh có khuyết điểm trong chỉ đạo chiến lược, đặc biệt là tình huống kéo dài tập trung chiến tranh ở đô thị, bỏ trống vùng nông thôn. Địch đã kịp thời lợi dụng sơ hở, dồn sức thực hiện kế hoạch bình định nông thôn, đẩy lùi thế tiến công của cách mạng miền Nam. Nhưng, từ giữa năm 1970 trở đi, ta đã kịp thời lợi dụng sai lầm của đối phương để đưa quân tràn sang biên giới Campuchia, tổ chức phản công và tiến công giành thắng lợi to lớn, toàn diện; kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các mặt đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari mà nội dung cơ bản nhất là “Quân Mỹ phải ra còn quân ta thì ở lại” như nhận định của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, mở ra giai đoạn mới - giai đoạn “đánh cho Nguỵ nhào”. đ) Giai đoạn từ tháng 1-1973 đến tháng 4-1975 Thực ra, khi ký Hiệp định Pari, Mỹ không còn mong giành thắng lợi ở Việt Nam, nhưng chính quyền Níchxơn vẫn chưa chịu từ bỏ chính sách đối với miền Nam Việt Nam, vẫn nuôi hy vọng tiếp tục cuộc chiến tranh bằng việc sử dụng quân đội Sài Gòn nhằm tạo ra một khoảng cách cần thiết giữa việc Mỹ rút ra với sự sụp đổ của chế độ Thiệu, qua đó, gỡ gạc thể diện cho Mỹ. Vì vậy, trước, trong và sau khi Hiệp định ký kết, Mỹ không ngừng chuyển vũ khí, gài nhân viên, cố vấn Mỹ ở lại làm nhiệm vụ chỉ huy, hỗ trợ cho chính quyền và quân đội Sài Gòn. Sau ngày Hiệp định Pari được ký kết, quân đội Sài Gòn liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét, các chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”, lấn chiếm vùng giải phóng. Trong khi đó, Mỹ duy trì lực lượng “ngăn đe” ở các vùng phụ cận quanh Việt Nam, đồng thời tiếp tục các hoạt động ngoại giao nhằm ngăn chặn sự phát triển của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Các hoạt động chống phá Hiệp định Pari của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ngày càng tăng, gây cho chúng ta một số lúng túng khi đối phó. Đến giữa năm 1973, ở Khu 5, chính quyền giải phóng mất 26 vạn dân, 45 xã, 302 ấp, địch đóng thêm 200 bốt; Khu 6 và Khu 7, ta mất 29 vạn dân, 308 ấp, chính quyền Sài Gòn đóng thêm 287 đồn bốt. Tháng 5-1973, Bộ Chính trị họp và chỉ ra những sơ hở, khuyết điểm của ta trong thời điểm này. Tiếp đó, tháng 7- 1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 họp, khẳng định con đường của cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới này là tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, kẻ thù chính vẫn là đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị do Mỹ bảo trợ. Hội nghị đề ra nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đấu tranh trên cả ba mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao; nhiệm vụ của miền Bắc là ra sức chi viện miền Nam, phục hồi và phát triển kinh tế để luôn là chỗ dựa vững chắc cho cách mạng miền Nam trong sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Dưới ánh sáng Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng, quân dân miền Nam đẩy mạnh các hoạt động phản công và tiến công. Đến giữa năm 1974, trên toàn Miền, quân, dân miền Nam đã xoá được 3.600 đồn bốt, giải phóng thêm 850 ấp với 115 vạn dân. Ở vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát, đặc biệt ở các đô thị lớn, mặt trận đấu tranh chính trị phát triển mạnh mẽ, tập trung vào việc đòi Mỹ và chính quyền Sài Gòn thi hành Hiệp định, tố cáo chính quyền Thiệu tham nhũng, bất công. Trong khi đó tại Mỹ, tháng 7-1974, Níchxơn buộc phải từ chức do vụ bê bối Oatơghết, Phó Tổng thống Mỹ Giêrôn Pho lên thay. Lúc này, trên thực tế, khả năng viện trợ của Mỹ cho chính quyền và quân đội Sài Gòn sụt giảm tới 50% trong khi nền kinh tế của chế độ Sài Gòn lại phụ thuộc vào viện trợ Mỹ tới 90%. Tháng 7-1974, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn đã trực tiếp hướng dẫn Bộ Tổng tham mưu khởi thảo kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Theo dõi sát toàn bộ diễn biến trên chiến trường trong nước và trên thế giới có liên quan tới sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và lượng định đúng khả năng phát triển của tình hình, tháng 10 và tháng 12-1974, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương cùng các bộ chủ chốt ở chiến trường đã họp bàn về quyết tâm và kế hoạch giải phóng miền Nam trong thời gian hai năm 1975-1976. Trong lúc Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng đang tiến hành bàn bạc, thảo luận về kế hoạch chiến lược trên đây, thì tại chiến trường, quân dân miền Nam đẩy mạnh các hoạt động quân sự, nổi bật nhất là chiến thắng Phước Long (tháng 12-1974). Phước Long có vị trí chiến lược quan trọng37. Chiến thắng Phước Long chứng tỏ khả năng đánh chiếm thành phố, thị xã và trụ lại của bộ đội giải phóng; khả năng phản ứng của quân đội Sài Gòn và khả năng trực tiếp can thiệp quân sự trở lại của Mỹ. Bộ Chính trị kết luận: dù Mỹ có can thiệp như thế nào ta cũng có đầy đủ quyết tâm và điều kiện đánh thắng và chúng cũng không thể cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn. Do đó, chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn, chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, để tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc. Bộ Chính trị hạ quyết tâm và thông qua kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Ngoài kế hoạch này, Bộ Chính trị còn dự kiến: Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định chọn Tây Nguyên là hướng tiến công chủ yếu trong năm 1975. Thực hiện quyết tâm chiến lược trên đây của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, hai miền Nam, Bắc khẩn trương hoàn tất các mặt chuẩn bị, cả về thế và lực. Bộ Chính trị, Bộ Tổng tham mưu quyết định thành lập 3 quân đoàn 1, 2, 4; mở rộng và kéo dài tuyến vận tải chiến lược Bắc - Nam tới Nam Bộ; miền Bắc dồn sức chi viện mạnh mẽ, toàn diện, liên tục cho miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giai phóng hoàn toàn miền Nam mở màn từ ngày 4-3-1975 bằng chiến dịch Tây Nguyên mà trận đột phá chiến lược là việc đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột. Qua 20 ngày đêm chiến đấu, đến ngày 24-3-1975, chiến dịch Tây Nguyên đã giành thắng lợi hoàn toàn. Quân, dân miền Nam đánh bại cuộc phản kích của Sư đoàn 23 Việt Nam cộng hòa, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng rút chạy trên đường số 7, tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2, Quân khu II, giải phóng Tây Nguyên, nhanh chóng phát triển xuống các tỉnh ven biển miền Trung. Những thắng lợi to lớn trong chiến dịch Tây Nguyên là cơ sở để Bộ Chính trị kịp thời bổ sung quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong năm 1975. Trong lúc đó, từ ngày 6-3-1975, Quân giải phóng bắt đầu tiến công ở Trị Thiên và Khu 5. Đến ngày 21-3, phát huy thắng lợi nhanh chóng và dồn dập ở Tây Nguyên và đồng bằng miền Trung, hai chiến dịch ở Quân khu V và Quân khu Trị Thiên đã phát triển thành chiến dịch tiến công Huế - Đà Nẵng. Ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị bổ sung quyết tâm giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975. Ngày 26-3-1975, Huế được giải phóng. Ngày 29-3, Đà Nẵng được giải phóng. Sau 25 ngày đêm chiến đấu (6-3 đến 29-3), Quân giải phóng tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng Quân đoàn 1, Quân khu I. Đến ngày 3-4, toàn bộ các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung được giải phóng. Ngày 4-4, Quân uỷ Trung ương giao cho Khu 5 và lực lượng hải quân tiến công giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Từ ngày 14 đến ngày 29-4, toàn bộ các đảo trên được giải phóng. Từ ngày 26-4 đến ngày 30-4-1975, chiến dịch lịch sử mang tên Hồ Chí Minh diễn ra và giành toàn thắng. Sài Gòn - Gia Định và miền Đông Nam Bộ được sạch bóng quân thù. 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, Tổng thống Dương Văn Minh buộc phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Toàn bộ Quân đoàn 3, Quân khu III quân đội Sài Gòn bị tiêu diệt và tan rã. Ở khu vực các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân miền Nam từ đầu tháng 3-1975, đến ngày 1-5-1975 đã giải phóng toàn bộ khu vực này, tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 4, Quân khu IV. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi. Nhìn chung lại, trong giai đoạn cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thời gian đầu sau Hiệp định Pari, về chỉ đạo của ta còn có thiếu sót và hạn chế, nhưng ngay sau đó, đã kịp thời khắc phục và nhanh chóng chuyển thế chiến trường, tạo ra những điều kiện cần, đủ để tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam. Thắng lợi trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là kết quả cuối cùng của cả một quá trình kháng chiến lâu dài, bền bỉ, quyết chiến, quyết thắng của quân và dân trên cả hai miền Nam - Bắc nhằm đánh bại từng chiến lược chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Đó là thắng lợi của bản lĩnh Việt Nam, văn hoá Việt Nam; thắng lợi của sự vận dụng sáng tạo tư tưởng quân sự tiên tiến vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của cách mạng và chiến tranh cách mạng Việt Nam; thắng lợi của sức mạnh khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế, của chế độ xã hội mới được xây dựng trên miền Bắc và ở vùng giải phóng miền Nam, của tình đoàn kết chiến đấu, gắn bó keo sơn, bền chặt giữa nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia. Cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp (1945-1954) và Cuộc kháng chiến 21 năm chống đế quốc Mỹ xâm lược 1954-1975) vì nền tự do, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi là kết quả hợp thành của nhân tố dân tộc và thời đại. Phân tích tình hình thế giới, tương quan so sánh lực lượng, Đảng ta đã đề ra đường lối chiến tranh nhân dân độc lập, tự chủ, lãnh đạo nhân dân Việt Nam vượt qua mọi gian khổ, thiếu thốn, hy sinh, thực hành tư tưởng chiến lược tiến công, đấu tranh bằng hai lực lượng chính trị và quân sự, tiến công đối phương về chính trị, về quân sự, về ngoại giao, tạo ra và nhân lên sức mạnh tổng hợp đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp kháng chiến. Thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ vững chắc nền tự do, độc lập và thống nhất Tổ quốc của nhân dân Việt Nam cũng là thắng lợi của tư tưởng quân sự Việt Nam hiện đại. Đó là một bộ phận hợp thành và gắn bó khăng khít với tư tưởng lãnh đạo cách mạng của Đảng đấu tranh vì lợi ích tối cao của dân tộc, đấu tranh cho khát vọng cháy bỏng của mọi người Việt Nam yêu nước về một nền hòa bình bền vững trên đất nước. Qua chặng đường dài 30 năm cách mạng và kháng chiến, tư tưởng quân sự của Đảng là một nhân tố nền tảng đảm bảo vững chắc cho mọi thắng lợi của dân tộc Việt Nam trong cuộc đương đầu với các thế lực xâm lược lớn mạnh. ------- Chú thích 1. Xem Nguyễn Anh Thái (Chủ biên): Lịch sử thế giới hiện đại Nxb, Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 300. 2. Về quân sự, lục quân Mỹ từ vị trí thứ 17 trước chiến tranh đã vươn lên hàng đầu; hải quân và không quân cũng chiếm ưu thế hơn hẳn so với các nước khác. Những năm đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ lại độc quyền sử dụng bom nguyên tử, độc quyền vận chuyển vũ khí nguyên tử tới đích xa. Về kinh tế, sản xuất công nghiệp của Mỹ đã chiếm hơn một nửa tổng sản lượng công nghiệp của toàn thế giới tư bản (56,4% năm 1948); sản lượng nông nghiệp cũng gấp 2 lần của Anh, Pháp, Cộng hoà liên bang Đức, Italia, Nhật Bản cộng lại (năm 1949). Về tài chính, Mỹ có khối lượng vàng dự trữ lớn nhất thế giới (gần 25 tỉ đôla năm 1949, chiếm gần 3/4 khối lượng vàng của thế giới tư bản), trở thành trung tâm tài chính duy nhất trên thế giới. 3. Học thuyết Tơruman (Truman) dựa trên chính sách chống cộng sản bành trướng được thông qua ngày 22-5-1947, nêu rõ rằng Mỹ sẽ viện trợ cho bất cứ nước nào bị đe dọa bởi chủ nghĩa cộng sản. Học thuyết này là một trong những cội nguồn của thuyết Domino về chiến tranh Việt Nam, một chiêu bài của chủ nghĩa thực dân mới, cho rằng nếu Mỹ không ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam, thì các nước Đông Nam Á và sau đó là châu Á sẽ rơi vào tay chủ nghĩa cộng sản, đe dọa đến Mỹ và Tây Âu. 4. “Chiến tranh lạnh” là từ do Barút (Bernard Baruch) - tác giả của Kế hoạch nguyên tử lực của Mỹ ở Liên hợp quốc sử dụng lần đầu tiên trong bài phát biểu của ông tại Nam Carolina, ngày 16-4-1947. Theo phía Mỹ, “Chiến tranh lạnh” là chiến tranh không nổ súng, không đổ máu nhưng “luôn luôn ở tình trạng chiến tranh” với mục tiêu là “ngăn chặn” rồi tiến tới tiêu diệt Liên Xô. 5. Chỉ thị của Đờ Gôn gửi Đácgiăngliơ ngày 16-8-1945. Dẫn theo Ph. Devillers: Pari - Sài Gòn - Hà Nội, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr.131. 6. Lơcơléc (Leclerc) chính là tướng dẫn đầu quân đội Đồng minh tiến vào Pari ngày 25-8-1944. Ông từng tuyên bố, việc chiếm lại Việt Nam chả là một “cuộc dạo mát quân sự”. 40 năm sau, con gái của ông gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp và hỏi, liệu có một cơ hội hòa bình bị bỏ lỡ hay không? 7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.4, tr. 27. 8. Cụ thể: Trong phiên họp đầu tiên của Quốc hội khoá I, ta đồng ý tăng thêm cho quân Tưởng 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử; nhường cho chúng 4 ghế bộ trưởng (ngoại giao, kinh tế, canh nông, xã hội) trong Chính phủ liên hiệp. Đồng thời ta cũng nhân nhượng một số quyền lợi về kinh tế như cung cấp cho quân Tưởng một phần lương thực, thực phẩm, chấp nhận tiêu tiền “quan kim”, “quốc tệ” của chúng... 9. Theo bản hiệp ước này, Pháp nhận trả một số tô giới của Pháp trên đất Trung Quốc và đường xe lửa Vân Nam, quân Tưởng được phép vận chuyển hàng hoá qua cảng Hải Phòng vào Hoa Nam không phải đóng thuế. Để đổi lại, Pháp được đưa quân ra miền Bắc thay thế quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. 10. Xanhtơni (Jean Sainteny) là nhà ngoại giao người Pháp, có mối quan hệ đặc biệt với Hồ Chí Minh, từng thay mặt Chính phủ Pháp tháp tùng Hồ Chí Minh trong chuyến sang thăm Pháp. Sau năm 1954, Jean Sainteny trở thành Tổng Đại diện của Chính phủ Pháp tại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông thuộc nhóm chính khách ôn hòa đối với Việt Nam, cũng là một trong những người ủng hộ sự thành lập một “chính phủ dân tộc liên hiệp” ở miền Nam Việt Nam sau này. 11. Theo bản Hiệp định, Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng nằm trong khối Liên hiệp Pháp; Chính phủ Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc thay thế quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, số quân này sẽ rút dần về nước trong thời hạn 5 năm; hai bên thực hiện lệnh ngừng bắn ngay ở Nam Bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đàm phán chính thức giữa các bên ở Pari. 12. Ngày 4-2-1946, Cao ủy Pháp tại Đông Dương ký sắc lệnh thành lập Hội đồng tư vấn Nam Kỳ. Ngày 26-3-1946, Hội đồng cử Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh làm Thủ tướng lâm thời của Chính phủ lâm thời Nam kỳ tự trị. 13. Gọi là Chính phủ liên hiệp kháng chiến, gồm: Chủ tịch Hồ Chí Minh; Phó Chủ tịch Nguyễn Hải Thần; Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Tường Tam; Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng; Bộ trưởng Bộ Kinh tế Chu Bá Phượng; Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Anh; Bộ trưởng Bộ Xã hội kiêm Y tế, cứu tế và lao động Trương Đình Tri; Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đặng Thai Mai; Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hoè; Bộ trưởng Bộ Giao thông công chính Trần Đăng Khoa; Bộ trưởng Bộ Canh nông Bồ Xuân Luật. 14. Danh sách chính phủ mới bao gồm 14 thành viên: Hồ Chí Minh Chủ tịch nước, kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp; Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên; Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến; Bộ trưởng Bộ Giao thông công chính Trần Đăng Khoa; Bộ trưởng Bộ Y tế Hoàng Tích Trý; Bộ trưởng Bộ Lao động Nguyễn Văn Tạo; Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hoè; Bộ trưởng Bộ Canh nông Ngô Tấn Nhơn; Bộ trưởng Bộ Cứu tế Chu Bá Phượng; Bộ trưởng Bộ Kinh tế - một vị ở Nam Bộ; Bộ trưởng không Bộ Nguyễn Văn Tố, Bộ trưởng không Bộ Bồ Xuân Luật. 15. Năm 1945, sản lượng lúa mùa ở Bắc Bộ đạt 1.155.000 tấn (năm 1944 đạt 832.000 tấn). Riêng sản lượng ngô năm 1946 đạt 217.020 tấn (năm 1939 đạt 140.000 tấn). 16. Số liệu dẫn theo Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003, t. 4, tr. 132. 17. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.480. 18. Trong dịp kỷ niệm lần thứ hai ngày Nam Bộ kháng chiến, những bài viết này của Trường Chinh được tập hợp và in thành sách lấy tên là “Kháng chiến nhất định thắng lợi”. 19. Bôlae (Bollaert) đã có cuộc gặp với Chủ tịch Hồ Chí Minh tại thị xã Thái Nguyên để trao đổi về điều kiện ngừng bắn hai phía Việt - Pháp. Ông ta đưa ra 4 điều kiện ngừng bắn: (1) Quân đội Việt Nam phải nộp vũ khí cho Pháp; (2) Quân đội Pháp được quyền đi lại tự do trên đất nước Việt Nam; (3) Chính phủ Việt Nam phải trả lại cho Pháp những người bị bắt; (4) Chính phủ Việt Nam phải trao trả cho Pháp những người nước ngoài đã chạy sang phía Việt Nam. 20. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, qua Bảo Đại (Vĩnh Thụy) thoái vị. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời ông ra Hà Nội làm cố vấn cho Chính phủ cách mạng. Lợi dụng việc được Chính phủ cách mạng cử đi sang Trung Quốc điều đình ngoại giao, cố vấn Vĩnh Thụy đã ở lại nước ngoài và rồi sau đó hợp tác với Pháp. 21. Quân dân Tú Hộ (Hưng Yên) đã dùng đòn gánh, dao, cuốc đánh địch ngay giữa chợ. Tại Hải Dương, phụ nữ Cẩm Giàng dùng đòn gánh đánh Tây. Ở Thừa Thiên, quân dân Phú Vinh đã lừa bắt sống địch, thu nhiều vũ khí... Trên các trục đường giao thông quan trọng, quân dân Việt Nam tổ chức nhiều cuộc phục kích tiêu diệt địch, tiêu biểu là trận phục kích La Ngà (tháng 3-1948) trên đường 20 (Sài Gòn - Đà Lạt), đã diệt cả đoàn 60 xe quân sự và trên 150 tên địch. 22. Tổng phá tề thực chất là cuộc nổi dậy đồng loạt của nhân dân ở vùng sau lưng địch, có sự hỗ trợ và phối hợp của lực lượng vũ trang dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của các cấp ủy đảng nhằm làm thất bại âm mưu bình định của Pháp. 23. Đây là hoạt động tác chiến chủ yếu được tiến hành ngoài hệ thống trận địa. Đặc điểm nổi bật của đánh vận động là: biến động cao, khẩn trương, diễn biến mau lẹ. 24. Thực hiện kế hoạch này, Pháp cho tăng cường hệ thống phòng ngự trên đường số 4, đồng thời thiết lập “hành lang đông – tây” (Hải Phòng - Hà Nội - Hoà Bình - Sơn La) nhằm cắt đứt sự liên lạc giữa căn cứ địa Việt Bắc với Liên khu 3 và Liên khu 4. 25. Pháp xây dựng được 7 tiểu đoàn cơ động chiến lược và 4 tiểu đoàn dù. Đến cuối năm 1951, tổng số quân Pháp trên chiến trường Đông Dương đạt 338.000 quân. Pháp đã cho xây dựng 113 vị trí (gồm 1.300 lô cốt) chạy dài từ Hòn Gai - Đông Triều - Lục Nam - Bắc Giang - Bắc Ninh - Vĩnh Phúc - Sơn Tây - Hà Đông - Ninh Bình do 20 tiểu đoàn Âu - Phi chiếm đóng. Ngoài ra, còn tăng cường các hoạt động tuyên truyền chống cộng sản, chống chính phủ kháng chiến... 26. Đại hội họp tại Chiêm Hoá, Tuyên Quang từ ngày 11 đến ngày 19- 2-1951. Tham dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 3 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn 766.000 đảng viên trong cả nước. 27. Tướng Nava (Henri Eugène Navarre) là chỉ huy thứ bảy của quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương. Ông nghỉ hưu năm 1956 và xuất bản cuốn Agonie de I'Indochine 1953-1954 (Đông Dương hấp hối, 1953-1954). 28. Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1964, tr.47. 29. Có 261.464 dân công với trên 10.301.570 ngày công đã tham gia phục vụ chiến dịch. 27.400 tấn vật chất đã được huy động để cung cấp cho mặt trận Điện Biên Phủ. Hàng vạn thanh niên xung phong cùng với bộ đội công binh thực hiện mở đường ra mặt trận dưới làn bom đạn địch. Chỉ trong thời gian ngắn, ta đã xây dựng, sửa chữa hàng ngàn kilômét đường phục vụ chiến dịch. 30. Trong vòng 4 năm (1955-1958), cả miền Nam tổn thất 9/10 số cán bộ đảng viên. Ở Nam Bộ, khoảng 7 vạn cán bộ, đảng viên bị địch giết hại; gần 90 vạn cán bộ, nhân dân bị bắt, bị tù đày; gần 20 vạn cán bộ, đảng viên, nhân dân bị tra tấn thành tàn tật và chỉ còn 5.000 đảng viên so với 60.000 đảng viên lúc đầu. Ở khu 4 (lúc bấy giờ còn gồm cả Trị Thôn và Cực Nam Trung Bộ), khoảng 40% tỉnh uỷ viên, 60% huyện uỷ viên, 70% chi uỷ viên xã bị bắt, bị giết. Riêng Trị Thiên, chỉ còn 160/23.400 đảng viên trước đó. 31. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1995, tr.40. 32. Hội nghị Trung ương 15 họp hai đợt: đợt một từ ngày 12 đến ngày 22-1-1959 là Hội nghị Trung ương mở rộng; đợt hai từ ngày 10 đến ngày 15- 7-1959 chỉ có các Uỷ viên Trung ương dự. Nghị quyết Hội nghị được thông qua trong đợt này. 33. Chiến lược quân sự toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” do Mắcxoen Taylơ đề xướng và được Tổng thống Mỹ Kennơđi chấp thuận, thay thế cho chiến lược “Trả đũa ồ ạt” trước đó của Mỹ. Theo đó, Mỹ vẫn duy trì, phát triển lực lượng hạt nhân chiến lược, đồng thời phát triển lực lượng thông thường để tiến hành chiến tranh hạn chế. Chiến tranh hạn chế gồm hai hình thức: chiến tranh đặc biệt và chiến tranh cục bộ. Cả hai loại hình này là bộ phận hợp thành chiến lược quân sự toàn cầu “Phản ứng linh hoạt”. 34. Sau Tết Mậu Thân 1968, quân đội Mỹ trên chiến trường công khai bộc lộ sự tàn bạo của họ bằng cách gây ra nhiều vụ tàn sát dã man đối với đồng bào ta ở miền Nam, mà Mỹ Lai là một điển hình. Từ những tháng cuối năm 1968, địch triển khai mạnh mẽ các hoạt động gián điệp, tình báo. Thông qua chương trình Phượng Hoàng khét tiếng, chúng tăng cường phát hiện, chỉ điểm, ám sát thủ tiêu, bắt bớ, tra khảo cán bộ, du kích và những người dân bị tình nghi ủng hộ, che giấu lực lượng cách mạng. Chương trình Phượng Hoàng đã gây bao tang tóc, đau thương cho nhân dân Việt Nam. 35. Tháng 4-1968, Hội nghị Bộ Chính trị họp, phân tích, chỉ ra những mâu thuẫn không thể nào khắc phục được của chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và khẳng định phương châm chiến lược: trong khi đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, phải sáng tạo và nắm vững thời cơ để giành thắng lợi trong một thời gian tương đối ngắn. Hội nghị yêu cầu các chiến trường, các địa phương miền Nam, trong khi giữ vững thế tiến công bao vây thành thị, phải đẩy mạnh việc giải phóng vùng nông thôn. Tháng 1-1970, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 18 xác định: nông thôn là hướng tiến công chính của quân và dân ta ở miền Nam. 36. Trong vòng 7 tháng của năm 1970, ta và nước bạn Campuchia đã loại khỏi vòng chiến đấu 54.000 quân địch, giải phóng hoàn toàn 5 tỉnh miền Đông và phần lớn nông thôn thuộc 10 tỉnh của Campuchia. Ta và nước bạn Lào giải phóng Atôpơ và Xaravan, tạo thành một địa bàn chiến lược rộng lớn, hiểm yếu ở khu vực biên giới ba nước Đông Dương. 37. Tỉnh Phước Long nằm ở phía đông bắc và cách Sài Gòn hơn 100 km, bắc giáp Campuchia, đông giáp Quảng Đức, nam giáp Bình Dương, tây giáp Bình Long. Đây là giao điểm của các địa bàn chiến lược nam Tây Nguyên đông nam Campuchia, Đông Nam Bộ, Khu 6 và là cửa ngõ phía tây bắc Sài Gòn. Chương II KHÁNG CHIẾN VÌ HÒA BÌNH, ĐỘC LẬP, TỰ DO THỰC HIỆN ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ QUỐC TẾ I. CUỘC CHIẾN TRANH VỆ QUỐC VÌ HÒA BÌNH, ĐỘC LẬP, TỰ DO Lịch sử Việt Nam là lịch sử song hành dựng và giữ nước, bắt nguồn từ những nguyên nhân căn bản về địa lý đến những nhân tố phức tạp hơn như những cuộc di dân lớn trong lịch sử. Theo lịch sử Việt Nam được ghi nhận qua văn tự, thì có tới 12 thế kỷ dân tộc ta bị đứng trước họa vong thân về văn hóa và lệ thuộc về chính trị. Nhưng với truyền thống hòa ái, đoàn kết của một dân tộc lúa nước, yêu chuộng hòa bình, sau khi kháng chiến chống xâm lược thắng lợi, cha ông ta luôn chủ động thiết lập, duy trì quan hệ hòa bình với chính quốc gia vừa gây chiến. Đó chính là biểu hiện của tinh thần dân tộc kết hợp với lòng yêu nước, tình đoàn kết và khát vọng hòa bình yên ổn của nhân dân, cùng với ý chí dân tộc độc lập, tự chủ của triều đình. Sự phối hợp trên - dưới, dân - quân đồng lòng, cả nước góp sức đã biểu hiện rõ tinh thần đó, vừa duy trì và thúc đẩy tinh thần đó qua nhiều thời kỳ lịch sử, biến nó trở thành tài sản quý báu của dân tộc Việt Nam. Đến thời kỳ hiện đại, cụ thể là từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, truyền thống đó lại được kế thừa và phát huy mạnh mẽ trong hoàn cảnh mới, với những đối tượng xâm lược mới. Truyền thống đó, cùng với ý chí quyết chiến quyết thắng của quân và dân Việt Nam, đã đưa lại thắng lợi to lớn, giành lại được độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, giành lại cuộc sống hòa bình, ấm no cho nhân dân luôn xuyên suốt trong toàn bộ quá trình lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, được hiện thực hóa bằng quyết tâm cao độ của cả dân tộc trong cuộc trường kỳ kháng chiến. Từ giữa tháng Tám năm 1945, khi thời cơ lịch sử xuất hiện - tình hình quốc tế và trong nước tạo cơ hội cho thành công của cuộc vận động cách mạng, từ sự chủ động, sáng tạo của từng địa phương, Đảng Cộng sản Đông Dương và Hồ Chí Minh đã phát động toàn dân trong cả nước nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa, đánh đổ ách thống trị của thực dân, phát xít, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngay sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là thành quả cách mạng to lớn và quan trọng. Ngay sau đó chính quyền dân tộc non trẻ phải đối mặt với hàng loạt những khó khăn, thử thách. Chỉ ba tuần sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thực dân Pháp, được sự giúp sức của quân Anh, đã nổ súng tại Sài Gòn, mở đầu cuộc tái xâm lược Việt Nam. Một dân tộc hòa bình khi đã giành lại được tự do, độc lập thì sẽ không bao giờ chịu đánh mất thành quả đó. Thời gian được sống trong hòa bình, tự do tuy ít ỏi nhưng cũng đủ để người dân Việt Nam hiểu được giá trị được làm người dân của một nước độc lập, vì vậy tất cả nhân dân Việt Nam sẵn sàng “đem hết tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Ngày 5-11-1945, trong diễn văn đọc trong “Ngày kháng chiến toàn quốc”2, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Bọn thực dân Pháp phải biết rằng: dân Việt Nam không muốn đổ máu, dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình. Nhưng nếu cần phải hy sinh mấy triệu chiến sĩ, nếu cần phải kháng chiến bao nhiêu năm để giữ gìn quyền độc lập của Việt Nam, để cho con cháu Việt Nam khỏi kiếp nô lệ, thì chúng ta vẫn kiên quyết hy sinh và kháng chiến. Vì dân Việt Nam tin chắc rằng thế nào cuộc kháng chiến này cũng thành công”3. Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị Về kháng chiến kiến quốc, nêu rõ nhiệm vụ kháng chiến ở miền Nam, xây dựng, củng cố chế độ mới ở miền Bắc vững mạnh, làm cơ sở cho cuộc kháng chiến lâu dài khi thực dân Pháp mở rộng chiến tranh ra cả nước. Chỉ thị xác định: kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Chỉ thị cũng đồng thời đề ra các nhiệm vụ cụ thể về chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, nội chính, văn hóa, tuyên truyền, xây dựng đảng, về công tác Mặt trận Việt Minh, về cải tổ chính phủ, về cứu tế... Đây chính là cương lĩnh hành động của toàn Đảng, toàn dân trong tình hình mới. Chỉ thị phản ánh hai nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam lúc này: (1) vừa phải kháng chiến để đánh đuổi quân xâm lược, (2) vừa phải kiến quốc để xóa bỏ tàn dư chế độ cũ, xây dựng đất nước để có đủ khả năng, sức mạnh giành thắng lợi trong chiến tranh, đem lại hòa bình, độc lập cho dân tộc. Đây cũng chính là tư tưởng chỉ đạo hành động cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong một tình thế rất đặc biệt của đất nước là vừa có chiến tranh, vừa có hòa bình. Nhiệm vụ - tư tưởng vừa kháng chiến vừa kiến quốc còn tiếp tục xuyên suốt những năm tháng kháng chiến, thể hiện trong tinh thần và nội dung của đường lối kháng chiến của Đảng. Trên khía cạnh này, đường lối kháng chiến và đường lối xây dựng đất nước là hai bộ phận không tách rời nhau trong đường lối cách mạng. Nói cách khác, tư tưởng quân sự là một bộ phận hữu cơ của tư tưởng cách mạng. Đường lối kháng chiến liên quan mật thiết đến các vấn đề ngoại giao và cùng nằm trong đường lối chính trị. Cùng lúc với việc “tập trung ngọn lửa đấu tranh” vào quân Pháp xâm lược ở miền Nam, thì ở miền Bắc, quân, dân ta phải đấu tranh chống lại âm mưu và hành động của quân Trung Hoa dân quốc và các lực lượng chống phá cách mạng nhằm bảo vệ, giữ vững chính quyền cách mạng, tranh thủ thời gian hòa hoãn để chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Chủ trương xuyên suốt của Đảng lúc này là kiên quyết giữ vững độc lập, chủ quyền, nhưng mềm dẻo trong đối phó với quân Trung Hoa dân quốc. Chính quyền cách mạng nhấn mạnh trách nhiệm của lực lượng Tưởng Giới Thạch khi vào Việt Nam là để làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật theo phân công của Đồng minh. Vì thế, nếu quân đội Tưởng Giới Thạch có hành động can thiệp, lật đổ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thì nhất định chúng ta sẽ huy động toàn lực bảo vệ đất nước. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định quân Trung Hoa dân quốc vào Việt Nam chỉ là tạm thời, cần tìm cách hòa hoãn, nhân nhượng theo phương châm: Nếu là đại sự (sự việc lớn) thì tìm cách thu giảm thành trung sự (sự vụ vừa); nếu là trung sự thì tìm cách thu giảm xuống thành tiểu sự (sự việc nhỏ); nếu là tiểu sự thì tìm cách làm cho nó trở thành vô sự (coi như không có việc gì xảy ra). Chính vì thế, mặc dù quân đội Trung Hoa dân quốc và lực lượng chống phá đưa ra nhiều đòi hỏi, yêu sách, gây không ít khó khăn, song quân và dân các địa phương đã nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương của Chính phủ, hết sức kiềm chế, nên quân đội Trung Hoa dân quốc đã không tìm được lý do để gây sức ép, lật đổ được chính quyền cách mạng. Thậm chí, trước đòi hỏi ngang ngược của quân Tưởng, Đảng đã tuyên bố “tự giải tán”, tổ chức Việt Nam giải phóng quân phải đổi thành Vệ quốc đoàn (đoàn thể bảo vệ quốc gia) để tránh những xung đột không cần thiết. Hơn thế, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chấp nhận dành 70 ghế trong Quốc hội (không phải qua bầu cử) cho các đại biểu đảng phái phản động Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội (Việt Cách); chấp nhận một số thành viên trong Chính phủ liên hiệp là các phần tử thân với chính quyền Tưởng Giới Thạch ở Trùng Khánh... Những nhượng bộ trên là cần thiết, tuy nhiên, các vị trí chủ chốt trong Chính phủ, Quốc hội, về quốc phòng, an ninh vẫn do Chính phủ Việt Minh nắm giữ nhằm đảm bảo sự lãnh đạo, điều hành đất nước trong mọi tình huống. Việt Nam mong muốn có hòa bình thực sự dựa trên sự giao hảo giữa hai dân tộc Việt - Pháp. Đây là một thực tế đã được chính Cao ủy Pháp Đácgiăngliơ (D.A'rgenlieu), người luôn muốn sử dụng vũ lực trong giải quyết mối quan hệ Việt - Pháp, thừa nhận trong bức thư gửi Đờ Gôn (De Gaulle) ngày 28-12-1945. Ông ta viết: “Chính phủ Cách mạng Việt Nam với lãnh tụ là ông Hồ Chí Minh không mong gì cái việc cắt đứt quan hệ với Chính phủ Cộng hòa (Pháp)... Mặc dù họ đả kích mạnh mẽ những người Pháp thực dân đế quốc (lập trường độc đoán của Đảng), họ vẫn giữ một liên hệ sâu sắc với Pháp. Sau nữa, Chính phủ Cách mạng Việt Nam chắc chắn mong muốn tránh một hành động quân sự mãnh liệt và đi đến một hiệp định với nước Pháp... Do đó mà họ đang tăng cường những cuộc tiếp xúc với người của chúng ta...”4. Để làm rõ hơn lập trường mong muốn độc lập, hòa bình của Việt Nam, ngày 6-1-1946, đúng vào ngày Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời phỏng vấn của nhà báo Pháp M. Đesinh (M. Dessinges): “Chúng tôi không hề thù ghét gì nước Pháp và nhân dân Pháp. Chúng tôi rất khâm phục họ và chúng tôi không muốn cắt đứt những mối quan hệ chặt chẽ nối liền hai dân tộc chúng ta... Nhưng ông nênbiết rằng: Chúng tôi quyết tâm chiến đấu đến cùng, nếu người ta bắt buộc chúng tôi phải chiến đấu”5. Để tránh cùng lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, khi Pháp, Trung Hoa dân quốc ký Hiệp định Trùng Khánh ngày 28-2-1946, trong đó chính quyền Tưởng Giới Thạch đồng ý để cho Pháp đưa quân ra miền Bắc làm nhiệm vụ giải giáp phát xít Nhật, Thường vụ Trung ương Đang đã ra Chỉ thị Tình hình và chủ trương ngày 3-3-1946. Sau khi phân tích tình hình và âm mưu của các thế lực đế quốc, thực dân phản động, Chỉ thị nhấn mạnh: “nếu Pháp giữ chủ trương cho Đông Dương tự trị theo bản Tuyên ngôn ngày 24-3-1945, thì nhất định đánh, và rất có thể đánh lâu dài theo lối du kích, nhưng nếu Pháp công nhận Đông Dương tự chủ thì có thể hòa, hòa để phá tan thâm thù của bọn Tàu trắng, bọn phản động Việt Nam và bọn phát xít Pháp còn sót lại, chúng định hãm ta vào tình thế cô độc, buộc ta phải đánh với nhiều kẻ thù một lúc để giữ thực lực của ta tiêu hao”6. Từ nhận định trên, Thường vụ Trung ương Đảng xác định: “Điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không những không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy, và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta”7. Với tinh thần đó, mặc dù Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký Tạm ước 14-9 với Chính phủ Pháp để tận dụng thời gian hòa hoãn, xây dựng thực lực, song vẫn khẳng định kẻ thù chính là thực dân Pháp đang tìm mọi cách để gây chiến. Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng họp ngày 19-10- 1946, nhận định: Nhất định không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp. Ngày 20-10-1946, Hồ Chí Minh về đến Hải Phòng sau chuyến thăm Pháp hơn bốn tháng rưỡi. Ngay sau đó, Người đã họp với Ban Thường vụ Trung ương Đảng, nhận định: thực dân Pháp vẫn âm mưu lập lại nền thống trị thuộc địa ở Đông Dương. Chiều hướng tình hình chính trường ở Pháp cho phép chúng có thể mở rộng chiến tranh. Vì thế, Ban Thường vụ Trung ương Đảng khẳng định: không còn con đường nào khác ngoài việc tích cực chuẩn bị kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, đồng thời vẫn tìm mọi cách kéo dài thời gian hòa hoãn để chuẩn bị thêm. Từ chủ trương đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết nghị thống nhất Quân sự ủy viên hội (còn gọi là Quân ủy hội) và Bộ Quốc phòng thành Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được cử làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Chỉ huy quân đội. Cả nước được chia thành 12 chiến khu để tiện cho việc chỉ đạo chung và phát huy khả năng độc lập tác chiến của từng địa phương khi chiến sự nổ ra. Các lực lượng vũ trang tiếp tục được xây dựng và củng cố... Từ cuối tháng 11-1946, sau khi thực dân Pháp tạo cớ đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, Đảng đã chỉ rõ: “Sự thật đã chứng tỏ rằng thực dân Pháp ngang nhiên gây hấn. Chúng định dùng vũ lực bắt ta phải nhượng bộ. Nhưng không khi nào ta chịu. Tạm ước 14-9 là một bước nhân nhượng cuối cùng. Nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền đất nước, là hại đến quyền lợi cao trọng của dân tộc...”. Đồng thời, Đảng kêu gọi: “...Tình thế vô cùng nghiêm trọng. Hãy sẵn sàng chiến đấu để tự vệ bất cứ lúc nào và chỗ nào. Mỗi người Việt Nam lúc này phải gánh vác nghĩa vụ thiêng liêng: bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc”8. Dã tâm gây chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đã dẫn tới sự phản kháng đồng loạt của quân và dân Việt Nam. Để bảo vệ thành quả cách mạng, để sớm tạo thế và lực cho cuộc chiến đấu chắc chắn phải kéo dài, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức cho quân và dân các địa phương từ phía Bắc vĩ tuyến 16 trở lên, đặc biệt là ở các đô thị, nhất tề đứng lên đánh quân Pháp xâm lược và tay sai. Như vậy, 9 tháng thực hiện chủ trương hòa hoãn (từ ngày 6-3 đến ngày 19-12-1946), dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Việt Nam một mặt hết sức kìm nén cố gắng tránh cho hai bên khỏi một cuộc chiến nhưng mặt khác tiếp tục ra sức chuẩn bị mọi mặt, kiên quyết chiến đấu đến cùng vì độc lập, tự do của Tổ quốc vì quyền làm chủ cuộc sống mới vừa giành được sau đêm dài sống dưới ách phong kiến, thực dân. Khi chiến tranh bùng nổ trên phạm vi cả nước, Chính phủ Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tìm mọi cách để vãn hồi hòa bình, đưa tình hình trở lại như trước ngày 19-12-1946. Chủ trương đó được thể hiện nhất quán trong các điện, thư, lời kêu gọi gửi Chính phủ, Quốc hội, nhân dân Pháp hoặc gửi cho cá nhân những người trực tiếp liên quan đến việc điều tra nguyên nhân bùng phát cuộc chiến trước và sau ngày 19-12-1946, cũng như trong việc Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp trực tiếp đại diện Cao ủy Pháp Bôlae tại Thái Nguyên (5-1947). Khi phía Pháp vẫn một mực đưa ra những điều kiện thực chất để buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đầu hàng, thì cánh cửa thương lượng mới khép lại. Trong Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước sau cuộc hội kiến với Pôn Muýt, đại diện Cao ủy Pháp Bôlae, ngày 25-5- 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: vì nhân đạo, vì hòa bình, vì muốn giữ cảm tình với dân Pháp, Chính phủ ta đề nghị với Chính phủ Pháp, căn cứ nguyện vọng thống nhất và độc lập của dân ta, tìm cách dàn xếp cuộc chiến tranh. Song... chúng đòi ta đầu hàng...”9. Trước âm mưu và hành động đó của phía Pháp, ý chí của toàn thể nhân dân Việt Nam là “kiên quyết hy sinh chiến đấu để đánh tan bọn quân phiệt thực dân, để tranh lấy thống nhất và độc lập”10. Đến cuối năm 1953, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã giành được những thắng lợi rất quan trọng. Tình hình và dư luận nước Pháp cũng như trên thế giới đều bất lợi cho những thế lực xâm lược hiếu chiến ở cả Pari và Đông Dương. Trước tình hình đó, khả năng giải quyết cuộc chiến tranh bằng đàm phán trở nên rõ ràng hơn. Bên cạnh đó, làn sóng phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Đông Dương cũng dâng cao. Nội bộ giới cầm quyền Pháp mâu thuẫn trong cách thức kết thúc cuộc chiến tranh hao người, tốn của này. Chính vì thế, Đảng và Chính phủ chủ trương mở cuộc tiến công ngoại giao, kết hợp với tiến công quân sự, để kết thúc chiến tranh. Truyền thống chủ động đi đến những giải pháp hòa bình bao giờ cũng là đặc trưng cho tinh thần quân sự của một dân tộc hướng đến hòa bình, vì với người Việt Nam, chiến tranh là để bảo vệ hòa bình, hòa bình luôn là mục đích của chiến tranh. Ngày 26-11-1953, trả lời phỏng vấn Báo Expressen (Thụy Điển), Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố. “...Nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó”11. Người khẳng định: “Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”12. Tiếp theo, ngày 2-12-1953, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra thông tư gửi xứ ủy Nam Bộ, các liên khu ủy và thành ủy, nêu rõ: “Trong lịch sử, có nhiều cuộc chiến tranh do thương lượng hòa bình mà đi đến đình chiến. Chiến tranh Triều Tiên là một thí dụ... Nhân dân ta chiến đấu chống bọn xâm lược là vì độc lập dân tộc, mà cũng vì hòa bình thế giới. Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là kẻ thù của dân tộc ta, đồng thời cũng là kẻ thù của nhân dân thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói hòa bình, không phải để tuyên truyền đối ngoại, mà chính vì vấn đề Việt Nam cũng như các vấn đề tranh chấp khác trên thế giới có thể giải quyết bằng cách thương lượng hòa bình”13. Ban Bí thư Trung ương Đảng khẳng định: “Ngọn cờ hoà bình phải do tay ta nắm lấy và giương cao lên”14. “Tuy vậy, như Hồ Chủ tịch đã căn dặn: chúng ta tuyệt đối không nên có ảo tưởng rằng hoà bình sẽ đến một cách mau chóng và dễ dàng. Hoà bình cũng như độc lập phải đấu tranh gian khổ mới giành được... Ta phải đẩy mạnh kháng chiến, tiêu diệt cho thật nhiều sinh lực địch hơn nữa, thì địch mới chịu nhận thương lượng để giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam, tôn trọng quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam”15. Ban Bí thư đã kịp thời chấn chỉnh những tư tưởng sai lầm nảy sinh như: - Ảo tưởng vào hoà bình, cho rằng đàm phán hoà bình sắp xảy ra, muốn sớm chấm dứt chiến tranh vì cuộc kháng chiến đã bước sang năm thứ 8, tâm lý mỏi mệt đã xuất hiện. - Chủ quan, khinh địch, cho rằng kẻ địch đã yếu mà không hiểu rõ so sánh lực lượng, không hiểu rõ thực tế chiến trường. - Bi quan cho rằng cuộc kháng chiến gặp nhiều tổn thất nên phải thương lượng với Pháp mà không hiểu rõ thắng lợi và lập trường hoà bình của Việt Nam. - Coi việc tuyên bố thương lượng chỉ là để tuyên truyền chứ không chủ trương thương lượng, mà sẽ đánh đến khi có hoà bình mới thôi. - Ỷ lại vào sự giúp đỡ bên ngoài để có hoà bình. Những chấn chỉnh đó thể hiện đặc tính xuyên suốt trong truyền thống quân sự - chính trị Việt Nam là: chiến thắng vừa đủ để hòa bình, và không thể có hòa bình khi chưa có chiến thắng. Trước những kẻ thù xâm lăng, Việt Nam chưa bao giờ là một quốc gia chiếm ưu thế về tài lực hay quân đội, chính ý chí hòa bình và tinh thần dân tộc đoàn kết là sợi chỉ đỏ và là động lực kết nối mọi nhân tố dân tộc lại thành một tổng lực đối kháng để đi tới thắng lợi cuối cùng. Hòa bình là một mục tiêu của chiến tranh chính nghĩa, không phải là ảo tưởng chính trị của những kẻ bị trị đã mất hết tinh thần. Đây cũng là những nhân tổ làm trụ cột cho sách lược chính trị - quân sự của người Việt Nam trước những lực lượng xâm lược trong lịch sử. Trả lời phỏng vấn Hãng thông tấn Nam Dương Antara (Inđônêxia) ngày 14-5-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định lập trường trước sau như một của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị Giơnevơ trong thương thuyết với Pháp để đình chiến và lập lại hoà bình là: “thật sự độc lập, thống nhất và dân chủ tự do”16. Đó là mục đích cuối cùng của nhân dân Việt Nam. Đó cũng là điều kiện căn bản để từ đó Việt Nam đàm phán với Pháp. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng lưu ý: phải có tinh thần cảnh giác rất cao đối với âm mưu của đế quốc Mỹ cản trở việc đình chiến và âm mưu lập khối liên minh quân sự có tính xâm lược nhằm khống chế Đông Dương và Đông Nam Á. Như vậy, quan điểm và thái độ của Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam cơ bản không thay đổi, mặc dù đã giành được thắng lợi lớn về quân sự trên chiến trường và đang tiến hành đàm phán với Pháp để kết thúc chiến tranh. Tuy nhiên, một yếu tố đang ngày càng ảnh hưởng đến tình hình cuộc chiến tranh ở Đông Dương, đó là sự can thiệp có tính leo thang của Mỹ. Báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II), ngày 15-7-1954, đã xác định rõ tư tưởng và nhiệm vụ của quân và dân Việt Nam: “Từ nay đến khi thực hiện hoà bình, ta vẫn tiếp tục đánh Pháp. Nhưng mũi nhọn của ta cũng như mũi nhọn của thế giới đều chĩa vào Mỹ. Chính sách của Mỹ là mở rộng và quốc tế hoá chiến tranh Đông Dương. Chính sách của ta là tranh thủ hoà bình để chống lại chính sách chiến tranh của Mỹ”17. Bởi vì “Muốn hoà bình thì phải chấm dứt chiến tranh, muốn chấm dứt chiến tranh thì phải ngừng bắn... Bất kỳ hoà bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước. Tranh lấy hoà bình không phải là một việc dễ, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ gian khổ phức tạp, nó có những điều kiện có lợi, cũng có những khó khăn...”18. Nhận thức về cuộc đấu tranh trong đàm phán để đi tới ký kết Hiệp định Giơnevơ, ngoài mong muốn chủ quan muốn kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài, còn xuất phát từ những điều kiện thực tế khách quan, cả thuận lợi và khó khăn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Những điều kiện lợi cho ta là: các nước bạn ủng hộ ta, nhân dân thế giới cũng ủng hộ ta, nhân dân ta hăng hái và tin tưởng vào Đảng và Chính phủ ta. Đảng và Chính phủ ta lãnh đạo khéo thì nhân dân ta nhất định đoàn kết đấu tranh trong hoà bình cũng như trong kháng chiến. Những điều khó khăn là: Mỹ ra sức phá hoại việc lập lại hoà bình ở Đông Dương, phe chủ hoà Pháp thì vẫn chưa dứt khỏi ảnh hưởng của Mỹ”19. Khi cuộc đàm phán đi vào giai đoạn quyết định, khả năng chấm dứt chiến tranh trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết, đây cũng chính là thời điểm dễ nảy sinh những tư tưởng sai lầm, vừa tả khuynh vừa hữu khuynh. Đó là lúc chúng ta cần nêu cao tư tưởng phấn đấu giành lấy hoà bình. Vì vậy, cần phải kiên quyết chống tư tưởng tả khuynh, nghĩa là muốn đánh đến cùng, không thấy được âm mưu lâu dài của Pháp cũng như mưu đồ của Mỹ, chỉ thiên về tác chiến mà coi thường ngoại giao, không thấy được quan hệ biện chứng giữa mặt trận ngoại giao và mặt trận quân sự. Tuy quân và dân Việt Nam đã đánh bại quân Pháp ở Điện Biên Phủ, nhưng so sánh lực lượng trên chiến trường chưa có sự thay đổi cơ bản vì toàn bộ binh lực của Pháp ở Điện Biên Phủ chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng binh lực của Pháp trên toàn Đông Dương. Chính vì thế tận dụng những tình thế có lợi trên mặt trận quân sự để đi đến thắng lợi quyết định trên mặt trận ngoại giao mới là một sách lược đúng đắn, cũng là điểm kế thừa truyền thống quân sự Việt Nam. Chủ trương của Đảng và Chính phủ Việt Nam về hoà bình là cần phải chống cả tư tưởng “tả khuynh” và “hữu khuynh”. “Tả khuynh” thì sẽ bị cô lập, sẽ xa rời nhân dân và không thu hút được sự ủng hộ của quốc tế, sẽ dẫn đến thất bại. Còn “hữu khuynh” thì sẽ nảy sinh tư tưởng bi quan, tiêu cực, nhân nhượng vô nguyên tắc, không tin tưởng vào lực lượng và sức mạnh của nhân dân. Vì thế, để đấu tranh có kết quả trên bàn đàm phán, Đảng xác định: Mục đích bất di bất dịch vẫn là hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc thì phải vững chắc nhưng sách lược thì linh hoạt. Báo cáo của đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, tại Hội nghị Trung ương lần thứ sáu mở rộng đã chỉ rõ hai luồng tư tưởng hiện đang ảnh hưởng đến suy nghĩ của cán bộ, đảng viên và nhân dân là: Một là không nhận rõ tình hình mới phức tạp và sự chuyển hướng sách lược đấu tranh của Đảng nên có khuynh hướng đánh giá quá cao lực lượng của mình, coi thường âm mưu, hành động của Pháp, Mỹ, khăng khăng cho rằng cần đánh đến cùng, đánh trong một thời gian ngắn nữa là có thể quét sạch quân xâm lược. Do đó, không tán thành phương pháp đàm phán hoà bình để giải quyết vấn đề Đông Dương hoặc có tán thành dùng phương pháp hoà bình nhưng lại muốn thực hiện ngay những điều chưa giành được trên chiến trường. Một số cán bộ, đảng viên chỉ nhìn thấy khả năng lập lại hoà bình ở Đông Dương mà không nhìn thấy khả năng chiến tranh kéo dài và mở rộng; không nhìn thấy trường hợp đạt được đình chiến nhưng không đạt được hoà bình vững chắc, vì thế nảy sinh tư tưởng chủ quan, thiếu cảnh giác, không chú ý tăng cường sức mạnh quân sự, củng cố hậu phương, phát triển sản xuất, bồi dưỡng lực lượng và nâng cao tinh thần chiến đấu của toàn quân, toàn dân. Hai là, có những cán bộ vì sợ gian khổ, hy sinh, sợ Mỹ trực tiếp can thiệp thì ta sẽ thất bại nên muốn hoà bình bằng bất cứ giá nào. Thực tế là chủ trương đàm phán để lập lại hoà bình của Việt Nam căn cứ trên cơ sở đối phương phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Muốn đàm phán có kết quả thì phải linh hoạt, có khi phải nhân nhượng, nhưng nhân nhượng trong một chừng mực nhất định, có nguyên tắc và đối phương cũng phải thống nhất một số yêu cầu của Chính phủ Việt Nam. Nếu đối phương nhất định phủ nhận những thắng lợi của quân và dân miền Nam, đưa ra các điều kiện vô lý, thì một mặt, phải giương cao ngọn cờ hoà bình, mặt khác, phải tiếp tục chiến đấu để đạt tới mục đích đã xác định, chấp nhận gian khổ, hy sinh để giành lấy thắng lợi cuối cùng. Báo cáo của đồng chí Trường Chinh cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của lực lượng quân sự trong việc đưa đến hoà bình, vì thế cần chống lại tư tưởng cho rằng khi đã ngừng bắn, việc tăng cường lực lượng quân sự chỉ là công tác thứ yếu, hay như quân đội chỉ tham gia vào việc kiến thiết hoà bình chứ không phải là chuẩn bị sẵn sàng để đánh bại các âm mưu gây chiến mới của thực dân, đế quốc. Đó là một tư tưởng sai lầm rất nguy hiểm. Nhiệm vụ tăng cường lực lượng quân sự là một trong những nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân lúc bấy giờ cũng như sau khi đình chiến, đây cũng là một trong những động lực tăng cường sự gắn bó quân - dân đồng lòng, vốn là sức mạnh thường trực và to lớn nhất của quân đội Việt Nam. Đối với những hành động cố tình vi phạm Hiệp định của Pháp, ta phải nhận thức rõ: phản đối hòa bình, không dùng vũ lực hoặc tổ chức những cuộc mít tinh biểu tình rầm rộ, vì như thế dễ xảy ra xung đột, tạo điều kiện cho các thế lực chống đối - thù địch nhân cơ hội đó khiêu khích, gây trở ngại cho việc thực hiện đình chiến. Trong Lời phát biểu tại buổi đón tiếp Uỷ ban quốc tế Kiểm soát và giám sát thi hành Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương, tổ chức tại Thái Nguyên ngày 12-8-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân Việt Nam chúng tôi vốn yêu chuộng hoà bình, cho nên chúng tôi rất phấn khởi đón tiếp cuộc đình chiến. Chúng tôi sẽ đưa hết lực lượng và sẽ cố gắng không ngừng để giữ gìn hoà bình và thi hành đúng đắn tất cả những điều khoản đã ghi trong hiệp định đình chiến... Tôi trịnh trọng hứa với các vị rằng quân đội nhân dân và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhất định tôn trọng và sẽ ra sức thi hành đầy đủ mỗi một điều khoản trong hiệp định đình chiến. Đồng thời, chúng tôi mong rằng Chính phủ Pháp và các bên có quan hệ cũng đảm bảo thi hành đúng đắn hiệp định đình chiến”20. Những nỗ lực hòa bình không phải bao giờ cũng mang đến một nền hòa bình trước mắt, nhưng nó là căn bản cho một nền hòa bình lâu dài. Thực vậy mọi chính sách và sách lược quốc gia - dân tộc vốn đều có tính lôgic và nhân quả, ngay cả khi có những biểu hiện mâu thuẫn nhưng chắc chắn vẫn luôn thống nhất trong bản sắc - truyền thống của dân tộc ấy. Cuộc kháng chiến của người Việt Nam đã luôn là cuộc chiến tranh vệ quốc, vì nền hòa bình và độc lập dân tộc. II. ĐOÀN KẾT DÂN TỘC GẮN VỚI ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ Việt Nam là một quốc gia hình thành sớm, nên ý thức quốc gia, dân tộc, làm chủ đất nước của cộng đồng người Việt có từ ngàn xưa. Lịch sử hàng ngàn năm chiến đấu với thiên nhiên, với giặc ngoại xâm đã hun đúc nên truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam: Yêu nước nồng nàn, độc lập tự chủ, kiên cường bất khuất, đoàn kết thống nhất, nhân ái khoan dung. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, cố kết dân tộc là truyền thống bền vững nổi trội, giữ một vai trò cực kỳ quan trọng. Đó là sản phẩm của cả một quá trình chung lưng đấu cật, làm ăn sinh sống, chống thiên tai và ngoại xâm của nhân dân Việt Nam. Đó vừa là kết quả, vừa là động lực của sự hình thành, lớn mạnh của quốc gia, dân tộc Việt Nam trong trường kỳ lịch sử. Sẽ không thể hình dung và lý giải đầy đủ sức sống bền bỉ, mãnh liệt của dân tộc Việt Nam nếu không đề cập tới tính cố kết dân tộc với tư cách là một trong những giá trị truyền thống của văn hoá dựng nước và giữ nước Việt Nam. Nằm ở phía đông của bán đảo Đông Dương, Việt Nam là đất nước thuộc miền khí hậu nhiệt đới gió mùa, thuận lợi cũng lắm mà khắc nghiệt, thiên tai cũng nhiều. Nhưng thử thách nghiệt ngã đe dọa sự tồn vong của giống nòi, dân tộc do nạn xâm lăng thường trực của các thế lực từ bên ngoài mới là điều đáng chú ý. Chính vì lẽ đó, tâm thế chung của người Việt Nam trong lịch sử là phải sớm cố kết lại để có đủ sức mạnh đương đầu, chống trả với thiên nhiên, giặc dã, gìn giữ cuộc sống bình yên. Từ buổi đầu dựng nước, do nhu cầu tồn tại và phát triển, các bộ tộc thuộc giống nòi Lạc Việt sinh sống bên cùng một địa vực khác nhau sớm cố kết, gắn bó với nhau trong một lợi ích chung. Sự gắn bó này đã dẫn đến việc ra đời nhà nước sơ khai có tên là Văn Lang. Cùng với quá trình ra đời của nhà nước Văn Lang rồi Âu Lạc, sự cố kết trong nội bộ các bộ tộc Việt cổ đã thực sự trở nên bền chặt, ý thức cộng đồng, ý thức dân tộc bao trùm lên ý thức bộ tộc. Đấy chính là lõi cốt của lòng yêu nước, văn hoá Việt Nam - điều kiện quan trọng bậc nhất để Việt Nam có đủ bản lĩnh, sức sống và sức mạnh vượt qua bao thử thách khốc liệt của hơn nghìn năm bị đô hộ và đồng hoá bởi thế lực phong kiến phương Bắc, từ đó giành, giữ chủ quyền, tiến lên xây dựng quốc gia phong kiến tập quyền... Tính cố kết cộng đồng đó còn thể hiện cả trong tôn giáo tín ngưỡng, một lĩnh vực rất hay mâu thuẫn và thường bị kẻ thù lợi dụng để chia rẽ. Nói cách khác, truyền thống cố kết dân tộc là nhân tố chi phối mọi mối quan hệ trong xã hội Việt Nam suốt chiều dài lịch sử. Ở Việt Nam các tôn giáo cùng tồn tại hòa thuận trong một gia đình, một làng, một xã. Cố kết dân tộc, đoàn kết nhân dân, như đã nói ở trên, là một trong số những nhân tố quyết định sự trường tồn, vững mạnh của dân tộc, đất nước Việt Nam. Vì thế, kẻ thù không từ một thủ đoạn nào để hòng phá hoại khối đại đoàn kết đó. Trong quá trình thiết lập ách thống trị, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thực hành chính sách chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo, chia rẽ giữa các địa phương để dễ bề thống trị và thi hành nhiều biện pháp đồng hoá hòng xoá bỏ nền văn hoá của dân tộc Việt Nam, đè bẹp ý thức dân tộc và ý chí tự cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam. Cuối thế kỷ XIX, sau khi cơ bản kết thúc quá trình vũ trang xâm lược, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách thống trị và khai thác thuộc địa ở Việt Nam, khôi phục chế độ thống trị thuộc địa ở Việt Nam và Đông Dương. Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã đề ra đường lối chiến lược cho cách mạng Việt Nam là đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập, tự do cho dân tộc. Cương lĩnh khẳng định: Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản. Đảng phải đoàn kết, tập hợp cho được đại bộ phận giai cấp công nhân và đại đa số dân cày, dựa vững vào hạng dân cày nghèo. Bên cạnh việc xác định hai giai cấp công nhân và nông dân là lực lượng nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc, Đảng đã nêu rõ “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản c.m thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản c.m (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”21. Trong khi thực hiện chủ trương đoàn kết dân tộc, Cương lĩnh cũng nhấn mạnh: “phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”22, nhằm đánh đổ thực dân Pháp xâm lược. Như vậy, ngay từ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng đã có chủ trương đoàn kết các giai cấp, các tổ chức chính trị, các cá nhân yêu nước, nhằm phát huy sức mạnh truyền thống yêu nước, huy động mọi nhân tố dân tộc, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chung là đế quốc và phong kiến, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Chủ trương đại đoàn kết dân tộc của Đảng đã làm dấy lên những cao trào cách mạng. Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, thắng lợi nghiêng về phe đồng minh. Cao trào kháng Nhật cứu nước phát triển mạnh mẽ, rộng lớn chưa từng thấy, đã thúc đẩy tình thế cách mạng chín muồi. Khi thời cơ đến, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”23. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh đã phát động toàn thể nhân dân vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, đưa Cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi. Thắng lợi này là kết quả của đường lối tập hợp lực lượng, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, bên cạnh những thuận lợi, Nhà nước ta phải đối mặt với vô vàn khó khăn, chính quyền cách mạng non trẻ ở vào thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Trong bối cảnh đó, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra và thực hiện chủ trương nhất quán là thống nhất bên trong, tìm bạn bên ngoài, lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, tăng cường thực lực cách mạng trên cơ sở dựa chắc vào khối đại đoàn kết toàn dân được tập hợp trong Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc. Khẩu hiệu: “Dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên hết”, “Tập trung ngọn lửa đấu tranh vào thực dân Pháp xâm lược”... đã thu hút rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, kể cả các quan đại thần cũ, các tư sản, địa chủ yêu nước, nhân sĩ và trí thức tiến bộ. Thông qua các đoàn thể cứu quốc, Mặt trận Việt Minh để tuyên truyền và vận động quần chúng tự nguyện, hăng hái tham gia các phong trào sản xuất, cứu đói, hũ gạo tiết kiệm, tuần lễ vàng, bình dân học vụ... Quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện thông qua cuộc Tổng tuyển cử lịch sử đầu tiên bầu Quốc hội, xây dựng Hiến pháp mới. Chính quyền nhân dân ra đời trong Cách mạng Tháng Tám là của dân, gắn bó với dân, thực hiện chức năng chính là động viên và tổ chức toàn dân đem hết tinh thần, lực lượng để bảo vệ sự nghiệp cách mạng, kháng chiến, kiến quốc. Tiếp đó, để mở rộng hơn nữa khối đoàn kết toàn dân, phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, Đảng chủ trương vận động thành lập Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt, ngày 29-5-1946). Cương lĩnh của Hội nêu rõ mục đích đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước và đồng bào yêu nước không đảng phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc, làm cho nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh. Mặt trận Việt Minh là thành phần tích cực của Hội Liên Việt, tập hợp những thành phần cơ bản của xã hội (công nhân, nông dân, trí thức...), làm cơ sở cho Hội Liên Việt. Nhiều đoàn thể được thành lập như Hội Công nhân cứu quốc, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Việt Nam công giáo cứu quốc hội, Phật giáo cứu quốc hội, Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội... Chính sách đoàn kết được Đảng đề ra trong kháng chiến rất rộng rãi. Bên ngoài, liên hiệp với nhân dân Pháp, đoàn kết với nhân dân Lào, Campuchia, thân thiện với các dân tộc yêu chuộng hoà bình, tự do. Ở trong nước, thực hiện đoàn kết chặt chẽ toàn dân, bảo vệ dân, thu phục lòng dân. Cơ quan chỉ đạo của Hội Liên Việt là ủy ban Liên hiệp quốc dân ủng hộ kháng chiến toàn quốc có nhiệm vụ hiệu triệu, cổ vũ quân và dân cả nước, làm cho cuộc kháng chiến “thật là của toàn dân”; tích cực vận động và tổ chức các tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến tuỳ theo hoàn cảnh và điều kiện từng vùng, từng đối tượng... Với những chủ trương, chính sách cụ thể, Đảng đã tập hợp được đông đảo lực lượng trong Mặt trận Việt Minh, Liên Việt, tăng cường được thực lực mọi mặt cho cuộc kháng chiến, đưa cuộc kháng chiến tiến lên giành những thắng lợi bước đầu quan trọng như Việt Bắc Thu - Đông 1947, Biên giới 1950... đánh bại chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp. Để đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến đến thắng lợi, tháng 2-1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng tổng kết chặng đường 20 năm lãnh đạo cách mạng làm cơ sở cho việc đề ra những chủ trương, chính sách mới, củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất. Đại hội tiếp tục khẳng định nhiệm vụ đoàn kết tất cả mọi đảng phái, đoàn thể, mọi thân sĩ yêu nước, không phân biệt giai cấp, chủng tộc, tôn giáo, nam nữ để cùng nhau kháng chiến, kiến quốc. Đại hội chủ trương thống nhất Mặt trận Việt Minh và Liên Việt nhằm củng cố, mở rộng hơn nữa khôi đại đoàn kết toàn dân để chiến thắng kẻ thù. Từ ngày 3 đến 7-3-1951, tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang, Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt diễn ra trọng thể và thành công rực rỡ. Đây là một bước phát triển mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trong thực hiện chiến lược đại đoàn kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh là linh hồn của khối đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp kháng chiến, xây dựng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra nhiều hình thức tập hợp và tổ chức quần chúng rất đa dạng, phong phú trong Mặt trận dân tộc thống nhất, trong các đoàn thể, các hội quần chúng nhằm thu hút thật đông đảo người Việt Nam vào sự nghiệp cứu nước, cứu nhà. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp được những người tài đức trong cả nước cùng tham gia gánh vác việc chung, mời các chí sĩ yêu nước, các vị quan to của triều đình Huế trước đó ra đảm đương việc nước. Nhiều nhân sĩ, trí thức yêu nước có tên tuổi, trí thức người Việt có tài năng ở nước ngoài đã về nước cùng toàn dân tham gia kháng chiến, kiến quốc. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với đoàn kết quốc tế là một trong những vấn đề mang tính quy luật của cách mạng Việt Nam. Đảng, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nhất quán nguyên tắc ấy trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp. Để củng cố khối đoàn kết ba nước trên bán đảo Đông Dương, ngày 11-3-1951, Hội nghị liên minh ba nước Đông Dương gồm đại biểu của Mặt trận Liên Việt do Chủ tịch Tôn Đức Thắng làm trưởng đoàn, Mặt trận Lào Ítxala do Hoàng thân - Chủ tịch Xuphanuvông làm trưởng đoàn, Mặt trận Khmer Ítxarắc do Chủ tịch Sơn Ngọc Minh làm trưởng đoàn. Hội nghị đánh giá cao những thắng lợi của nhân dân ba nước, khẳng định ý nghĩa quan trọng của sự đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa ba dân tộc. Hội nghị quyết định thành lập ủy ban Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào gồm đại biểu của Mặt trận ba nước, nhằm tăng cường đoàn kết và phát huy sức mạnh của khối đoàn kết ba dân tộc anh em, cùng tập trung tiêu diệt thực dân Pháp, đánh bại can thiệp Mỹ, giành độc lập thật sự cho ba dân tộc, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới. Bên cạnh việc củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết trong nước, đoàn kết ba nước Đông Dương, Đảng khẳng định: phải tăng cường đoàn kết, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới, đặc biệt là nhân dân tiến bộ Pháp, tạo ra sức mạnh to lớn đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Thực hiện chính sách thân bạn bớt thù, trong những năm tháng đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, khi đất nước rơi vào tình trạng thù trong giặc ngoài, Đảng đã phân rõ kẻ thù chủ yếu là thực dân Pháp để tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, nhất là khi cuộc kháng chiến bùng nổ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách để liên hệ với bên ngoài (qua Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ), tranh thủ sự ủng hộ quốc tế. Ngày 1-10-1949, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời. Ngày 18-1-1950, Trung Quốc chính thức công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với ta. Đầu năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm Liên Xô và Trung Quốc, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của nước bạn đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Tháng 9-1950, Chiến thắng Biên giới đã nối liền cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam với hậu phương của cách mạng thế giới. Liên Xô và các nước Đông Âu lần lượt công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ ngày càng lớn của các lực lượng tiến bộ trên thế giới của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc. Như vậy, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng, khối đại đoàn kết dân tộc không ngừng được củng cố và tăng cường, tạo ra sức mạnh to lớn đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc 9 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ nhưng vô cùng oanh liệt của nhân dân Việt Nam, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, lập lại hoà bình ở Đông Dương. Thắng lợi đó là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, nhưng trước hết đó là kết quả và biểu hiện cao độ sức mạnh vĩ đại của khối đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận Dân tộc thống nhất do Đảng lãnh đạo. Tháng 7-1954, Mỹ thay chân Pháp vào miền Nam Việt Nam, chà đạp lên “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”24 của các dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia, đi ngược lại xu thế phát triển của nhân loại. Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Mặt trận đoàn kết toàn dân có bước phát triển mới, với nhiệm vụ mới là động viên và tổ chức toàn dân tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, thực hiện mục tiêu chung là hoàn thành giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Song do tình hình thực tế của cách mạng mà nhiệm vụ của mỗi miền có sự thay đổi, Đảng chủ trương, ở miền Nam dần dần phải hình thành một mặt trận rộng rãi tập hợp lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình. Trên miền Bắc, Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam quyết định lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (9-1955). Mặt trận ra tuyên ngôn kêu gọi các tầng lớp nhân dân, kêu gọi mọi người Việt Nam không phân biệt gái trai, già trẻ, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, khuynh hướng chính trị và tín ngưỡng tôn giáo, không phân biệt trước đây đã đứng về phe nào, nhưng ngày nay tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ hãy xiết chặt hàng ngũ trong Mặt trận dân tộc thống nhất chống Mỹ, cứu nước. Sự kiện tiêu biểu, có ý nghĩa như một “Hội nghị Diên Hồng” trong thời đại mới, biểu thị ý chí mạnh mẽ, tinh thần đoàn kết và thống nhất hành động của toàn dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là Hội nghị chính trị đặc biệt do Hồ Chí Minh triệu tập ngày 27-3-1964. Tại Hội nghị, các bậc tạo thành cách mạng, nhân sĩ yêu nước, những người tiêu biểu cho các giới, các ngành, đại biểu người Việt Nam ở nước ngoài... đã thay mặt toàn dân cùng nhau dân chủ bàn việc nước. Theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào thi đua “mỗi người làm việc bằng hai”, phong trào kết nghĩa Bắc - Nam được toàn dân hưởng ứng sôi nổi. Nhiều khẩu hiệu hành động, nhiều phong trào thi đua có sức động viên, tập hợp rộng rãi các lực lượng, các ngành nghề, lứa tuổi trong mọi lĩnh vực sản xuất, chiến đấu, học tập, công tác đã xuất hiện và phát triển sâu rộng ở khắp các địa phương. Công nhân bám xưởng, bám máy, “tay búa, tay súng”. Nông dân ngày đêm bám ruộng đồng, “tay cày, tay súng” hăng hái góp người, góp của cho kháng chiến với phong trào “thóc thừa cân, quân thừa người”. Thanh niên nam nữ nô nức lên đường trong phong trào “ba sẵn sàng”, “năm xung phong”; phụ nữ có phong trào “ba đảm đang”; trí thức có phong trào “ba quyết tâm”; các cụ phụ lão có phong trào “ba giỏi”; thiếu niên nhi đồng làm “nghìn việc tốt”, các bà mẹ, các chị hăng hái tham gia “Hội Mẹ chiến sĩ”, động viên con em lên đường đánh giặc... Có thể nói, tất cả các lực lượng, các địa phương, các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ tiền tuyến đến hậu phương, từ nông thôn đến thành thị, từ nhà máy đến ruộng đồng... đều có khẩu hiệu tập hợp, đều có phong trào hành động. """