"Lịch Sử Tư Tưởng Quân Sự Việt Nam 2: Từ năm 1428 đến năm 1858 PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lịch Sử Tư Tưởng Quân Sự Việt Nam 2: Từ năm 1428 đến năm 1858 PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Lời Nhà xuất bản Cuốn sách Lịch sử tu tuởng quân sự Việt Nam, tập II - từ nam 1428 dến nam 1858 trình bày tu tuởng quân sự từ thời Lê So dến thời Nguyễn. Kế thừa truyền thống của các vuong triều truớc, tu tuởng quân sự thời Lê So duợc bổ sung, mở rộng những luận diểm mới trong bối cảnh dất nuớc có nhiều thay dổi. Truớc hết, dó là tu tuởng kết hợp "kiến quốc" với "vệ quốc" (kết hợp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc); tu tuởng xây dựng quân dội tập trung thống nhất, hùng mạnh; tu tuởng quân sự thời Lê So vẫn là "Biên phòng hảo vị trù phuong luợc", dối ngoại quân sự mềm dẻo nhung cuong quyết trong quan hệ với các nuớc láng giềng nhằm giữ vững dộc lập dân tộc và chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Sau thời Lê So, lịch sử Việt Nam diễn ra nhiều biến dộng, bối cảnh xã hội vô cùng phức tạp, những mâu thuẫn chính trị, xã hội có xu huớng giải quyết bằng xung dột quân sự, cho nên xuất hiện nhiều thế lực nhu triều Mạc (Bắc triều), Lê - Trịnh (Nam triều và Ðàng Ngoài), họ Nguyễn (Ðàng Trong). Ðặc diểm chung nhất và nổi bật về tu tuởng quân sự thời kỳ này của các thế lực phong kiến là xây dựng lực luợng quân dội mạnh làm công cụ dể tranh giành quyền lực, làm chỗ dựa cho sự tồn tại của mình; xây dựng và sử dụng thành lũy trong chiến dấu, bảo vệ vùng lãnh thổ cát cứ.... Từ thế kỷ XVII, cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn dã dẩy cuộc sống của nhân dân dến chỗ vô cùng bi thuong, khổ cực. Nhà Tây Son với sự nghiệp của Quang Trung - Nguyễn Huệ dã thực hiện duợc một nhiệm vụ lớn lao dối với dân tộc, dó là xóa bỏ cục diện Trịnh - Nguyễn phân tranh, thống nhất dất nuớc; dánh bại quân Xiêm ở phía Nam, quân Thanh ở phía Bắc. Duới triều dại Tây Son - Nguyễn Huệ, tu duy quân sự là diệt thù trong, dánh giặc ngoài, giữ yên bờ cõi, nâng cao vị thế của dất nuớc, nổi bật là nghệ thuật dùng binh thần tốc, xây dựng quân dội "cốt tinh không cốt dông", dựa vào dân dể xây dựng quân dội và tạo dựng sức mạnh uu thế cho khởi nghĩa và chiến tranh trong những thời diểm quyết dịnh,... Tu tuởng quân sự của các triều dại truớc dã duợc các vua triều Nguyễn tiếp tục kế thừa và phát huy, nhất là trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ở vùng biên giới và vùng biển, dảo của Tổ quốc, tuy có nhiều hạn chế so với các triều d ại truớc. Với sự phân tích sâu sắc nhằm nêu bật những nội dung co bản về tu tuởng quân sự từ nam 1428 dến nam 1858, cuốn sách thực sự có giá trị dể nghiên cứu, phục vụ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Tuy nhiên, dây là giai doạn lịch sử dầy biến dộng với nhiều sự kiện liên tục diễn ra, nên cuốn sách khó tránh khỏi còn có những nội dung chua duợc dề cập một cách dầy dủ. Nhà xuất bản và các tác giả rất mong nhận duợc sự góp ý của bạn dọc dể cuốn sách hoàn thiện hon ở lần xuất bản sau. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 12 năm 2014 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT Mở đầu Lịch sử Việt Nam từ năm 1428 (Lê Lợi lên ngôi vua, khôi phục tên nước là Đại Việt) đến năm 1858 (thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta) được gắn liền với sự tồn tại của các thể chế phong kiến cầm quyền kế tiếp nhau, gồm: Lê Sơ, Mạc, chúa Nguyễn, vua Lê - chúa Trịnh, Tây Sơn và Nguyễn. Đây là thời kỳ Đại Việt xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong hòa bình, ổn định xen với những thời kỳ nội chiến, tranh giành quyền lực "sinh tử" giữa các tập đoàn phong kiến, gây nên bao cảnh đau thương tang tóc hao người, tốn của cho nhân dân (nội chiến Nam - Bắc triều, phân tranh Trịnh - Nguyễn); kèm theo đó là những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh nông dân dưới sự lãnh đạo của các thủ lĩnh địa phương nổi dậy chống lại các thế lực phong kiến thống trị phản động, mưu cầu bình yên, thống nhất đất nước, ổn định đời sống cho nhân dân liên tiếp diễn ra trên nhiều địa bàn lãnh thổ của đất nước. Trong đó đỉnh cao nhất của phong trào nông dân diễn ra vào nửa cuối thế kỷ XVIII do các thủ lĩnh Tây Sơn tổ chức và lãnh đạo đã nhanh chóng phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc quy mô rộng lớn, không chỉ đánh dẹp các tập đoàn phong kiến cát cứ Nguyễn, Lê - Trịnh, lập nên triều Tây Sơn, mà còn lần lượt đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của quân Xiêm (Thái Lan) ở phía Nam, quân Thanh ở phía Bắc, giành lại chủ quyền dân tộc tạo tiền đề trực tiếp cho công cuộc thống nhất đất nước. Nhưng do những bất đồng của nội bộ anh em nhà Tây Sơn, đặc biệt nhất là khi Quang Trung - Nguyễn Huệ đột ngột qua đời, tập đoàn phong kiến Nguyễn đứng đầu là Nguyễn Ánh đã cầu cứu tư bản Pháp và được Pháp giúp sức lật đổ triều Tây Sơn, lập nên triều Nguyễn - triều đại phong kiến chuyên chế cuối cùng ở Việt Nam. Với tiến trình lịch sử như vậy, dưới góc độ chuyên ngành lịch sử tư tưởng quân sự, chúng tôi chỉ đi sâu vào tìm hiểu về một số nội dung liên quan đến tư tưởng quân sự "hệ thống quan điểm, luận điểm của cá nhân, giai cấp, chính đảng về quân sự và các vấn đề liên quan đến quân sự như: quan hệ giữa chiến tranh và quân sự, chiến tranh và hòa bình, chính trị với quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quốc phòng và tiến hành chiến tranh, nghệ thuật quân sự"1 - của các triều đại phong kiến (có khi là của các tập đoàn phong kiến thống trị trên một vùng lãnh thổ nhất định, trong khoảng thời gian nhất định). Nói một cách khác, đây là những quan điểm tư tưởng quân sự mang tính định hướng, chỉ đạo có tính chiến lược cơ bản, nhất quán về xây dựng quân đội, khởi nghĩa và chiến tranh, xây dựng quốc phòng bảo vệ Tổ quốc... của các triều đình phong kiến (trong đó có những nhà tư tưởng quân sự tiêu biểu đại diện cho mỗi triều đại), nhằm xây dựng, bảo vệ quyền lợi cho chính cá nhân, giai cấp cầm quyền, tiếp đến là lợi ích quốc gia, dân tộc... Đây cũng chính là những nội dung được làm rõ trong tập II (1428- 1858) bộ Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam. Tuy nhiên, lịch sử Việt Nam từ năm 1428 đến năm 1858 là thời đoạn lịch sử đã lùi xa vào quá khứ, nguồn tư liệu là vô cùng hạn chế, nhất là các tư liệu thành văn - vấn đề rất trọng yếu của việc thực hiện các công trình nghiên cứu về tư tưởng quân sự nói chung và lịch sử tư tưởng quân sự nói riêng; do vậy, khi biên soạn, chúng tôi phải dựa trên cơ sở phương pháp quy nạp - tức là phải thông qua thực tế diễn biến lịch sử để khái quát nên những quan điểm, luận điểm tư tưởng quân sự cho từng triều đại phong kiến gắn với từng thời kỳ lịch sử. Theo đó, trên cơ sở những tư liệu, sự kiện có được từ triều Lê (thường gọi là Lê Sơ) đến triều Nguyễn, tập II sẽ khái quát nên những quan điểm tư tưởng quân sự cốt yếu của các triều đại phong kiến về xây dựng quân đội, tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh, xây dựng quốc phòng bảo vệ Tổ quốc... Mục đích và yêu cầu đặt ra là như vậy, song do những hạn chế rất cơ bản nêu trên, chúng tôi chỉ hy vọng đóng góp được một số nội dung cơ bản ban đầu - với ý nghĩa như một hướng mở cho một lĩnh vực nghiên cứu chuyên ngành còn rất mới mẻ này. Thực hiện được như vậy, tập II sẽ đóng góp một phần trong việc tìm hiểu, nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam trong tiến trình lịch sử xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Theo phân kỳ tiến trình lịch sử Việt Nam, nội dung của tập II được bố cục thành 4 chương. Tuy nhiên, trên thực tế, về thời gian ấn định cho một số chương có chỗ không tương thích với sự tồn tại của các triều đại (hay thế lực) phong kiến cầm quyền (ví dụ: chương III đề cập về Tây Sơn được bắt đầu từ năm 1771, nhưng mãi đến năm 1778 triều đình Tây Sơn mới ra đời;...); do vậy, để đảm bảo tính thống nhất, chúng tôi quyết định lấy chính thời gian ấn định cho từng chương làm thành phần chính cho tên chương. Dù đã có rất nhiều cố gắng, song đây là một chuyên ngành mới, nguồn tư liệu cũng như năng lực và kinh nghiệm chuyên môn của đội ngũ cán bộ biên soạn còn hạn chế, nên cuốn sách khó tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định trên cả phương diện nội dung cũng như phương pháp thể hiện. Chương I TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ TỪ NĂM 1428 ĐẾN NĂM 1527 I- TÌNH HÌNH ĐẠI VIỆT THỜI LÊ SƠ 1. Vương triều Lê Sơ thành lập Cuối năm Đinh Hợi (1407), sau gần một năm dồn sức chiến đấu trong mối tương quan lực lượng không cân sức, cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhà Hồ thất bại. Từ đây, phong kiến nhà Minh trực tiếp đô hộ nước ta. Với bản chất hung bạo và thâm độc, chúng không chỉ duy trì ách thống trị tàn bạo, cướp bóc tài nguyên, nhân tài mà còn thực thi chính sách hủy diệt và đồng hoá dân tộc Việt. Không cam chịu mất nước, nhân dân ta trên khắp mọi miền đã vùng lên chống lại chính quyền đô hộ. Từ trong bão lửa của phong trào đấu tranh yêu nước, cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi khởi phát ở đất Lam Sơn nhanh chóng phát triển thành phong trào giải phóng dân tộc lan rộng trên quy mô khắp cả nước. Sau 10 năm anh dũng chiến đấu (1418-1427), nghĩa quân Lam Sơn đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại chủ quyền đất nước, khôi phục nền độc lập dân tộc. Ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân (1428), tại thành Đông Đô (Thăng Long), Lê Lợi chính thức lên ngôi Hoàng đế với niên hiệu Thuận Thiên, khôi phục quốc hiệu Đại Việt. Từ đây, quyền trị vì đất nước thuộc về nhà Lê, thường gọi là Hậu Lê để phân biệt với nhà Tiền Lê (980-1009). Nhà Hậu Lê cầm quyền 360 năm (1428-1788), là vương triều tồn tại lâu nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Vương triều Lê Sơ (1428-1527) là thời kỳ đầu của nhà Lê với các đời vua: Lê Thái Tổ (1428-1433); Lê Thái Tông (1433- 1442); Lê Nhân Tông (1442-1459); Lê Nghi Dân (1459-1460); Lê Thánh Tông (1460-1497); Lê Hiến Tông (1498-1504); Lê Túc Tông (1504-1505); Lê Uy Mục (1505-1509); Lê Tương Dực (1510-1516); Lê Chiêu Tông (1516- 1522); Lê Cung Hoàng (1522-1527). Trong thời kỳ hình thành và bước đầu phát triển của vương triều, với ánh hào quang của chiến công đánh thắng quân xâm lược nhà Minh, giành lại nền độc lập dân tộc, Lê Thái Tổ sau khi lên ngôi nhanh chóng xác lập được quyền lực và thu phục nhân tâm tạo nên sức mạnh đoàn kết toàn dân trong công cuộc khôi phục và dựng xây đất nước sau chiến tranh. Trong 6 năm cầm quyền (1428-1433), ông đã đặt nền móng và củng cố vững chắc nền độc lập dân tộc; xây dựng chính quyền, lập lại trật tự kỷ cương, an ninh xã hội; thực hiện nhiều chính sách tích cực nhằm hồi phục nền kinh tế, khắc phục những hậu quả của thời thuộc Minh, đặt những viên đá tảng đầu tiên cho sự phát triển của vương triều mới trên mọi lĩnh vực. Các đời vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông tiếp tục giữ vững thành quả và từng bước đưa đất nước đi lên. Trong 44 năm tiếp theo dưới sự trị vì của vua Lê Thánh Tông (1460-1497) và Lê Hiến Tông (1498-1504), trên nền tảng vững chắc được xây dựng từ các triều vua trước, Đại Việt có bước phát triển vượt bậc về mọi mặt. Nhưng sang thế kỷ XVI, từ đời vua Lê Uy Mục trở đi, triều Lê Sơ dần suy yếu, đến năm Đinh Hợi (1527) thì bị nhà Mạc giành quyền thống trị. Một thế kỷ xây dựng và phát triển đất nước trong điều kiện khu vực Đông Nam Á vẫn xảy ra những cuộc chiến tranh, lại thường xuyên phải chịu những áp lực chính trị từ đế chế phong kiến Trung Hoa ở phương Bắc, các cuộc cướp phá, xâm lấn của Chămpa ở phía Nam và của Ai Lao ở phía Tây, nhưng Đại Việt vẫn vững vàng phát triển. Với khí thế quật khởi của một dân tộc tự cường, với tầm nhìn chiến lược, tư duy năng động, sáng tạo và nhiều chủ trương phương lược đúng đắn của vương triều Lê Sơ, quốc gia Đại Việt không chỉ nhanh chóng phục hồi mà còn có những bước phát triển mới với nhiều thành tựu rực rỡ trong phát triển kinh tế, văn hóa, ổn định xã hội và trở thành một quốc gia cường thịnh bậc nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ, có ảnh hưởng lớn đối với các nước trong khu vực. 2. Khái quát tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội a) Chính trị - xã hội Trên cơ sở lãnh thổ quốc gia thống nhất bao gồm toàn bộ vùng Bắc Bộ đến bắc đèo Hải Vân, những người sáng lập vương triều Lê Sơ và các thế hệ nối tiếp luôn nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường nhằm bảo vệ và xây dựng một quốc gia thống nhất và ngày càng vững mạnh. Về thể chế chính trị: Lê Sơ là một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền ngày càng phát triển với một bộ máy hành chính thống nhất, chặt chẽ từ trung ương đến tận làng xã. Sau khi lên ngôi năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi chia đất nước thành 5 đạo: Đông đạo, Bắc đạo, Nam đạo, Tây đạo và Hải Đông đạo. Dưới đạo là các trấn, lộ, phủ, huyện, châu, xã. Đứng đầu mỗi đạo là chức hành khiển trông coi mọi việc quân, dân chính và tư pháp; đứng đầu trấn là chức trấn phủ sứ; an phủ sứ đứng đầu lộ; ở phủ có chức tri phủ; huyện có chức chuyển vận sứ; đứng đầu xã là chức xã quan. Số xã quan tuỳ theo số lượng dân từng xã: Đại xã (từ 100 người trở lên) có 3 xã quan; Trung xã (từ 50 người trở lên) có 2 xã quan; Tiểu xã (từ là người trở lên) có 1 xã quan1. Đến đời vua Lê Thánh Tông, năm Bính Tuất (1466), cả nước được chia thành 12 đạo Thừa tuyên: Thuận Hoá, Nghệ An, Thanh Hoá, Thiên Trường, Quốc Oai, Hưng Hoá, Nam Sách, Bắc Giang, An Bang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn và một phủ Trung đô (khu vực Kinh đô Thăng Long). Năm Tân Mão (1471), sau cuộc tiến đánh Chămpa, lãnh thổ Đại Việt mở rộng, có thêm đạo Thừa tuyên thứ 13 là Quảng Nam (vùng đất từ phía nam đèo Hải Vân đến đèo Đại Lãnh). Nhằm đơn giản bớt hệ thống tổ chức chính quyền và tăng cường quyền chi phối của triều đình trung ương, Lê Thánh Tông cho bãi bỏ một số đơn vị hành chính trung gian như trấn, lộ. Đơn vị xã được quy định lại với quy mô lớn hơn: Từ 500 hộ trở lên là Đại xã; Trung xã từ 300 hộ; Tiểu xã từ 100 hộ2. Quyền hành ở đạo trước tập trung vào chức Hành khiển nay thuộc về 3 ty: Đô ty cai quản việc quân; Thừa ty phụ trách công việc hành chính, tài chính và tư pháp; Hiến ty phụ trách việc thanh tra quan lại, xử án và thi hành pháp luật. Sự phân lập quyền hành này nhằm ngăn ngừa khuynh hướng cát cứ ở địa phương và tăng cường quyền lực cho chính quyền trung ương. Đứng đầu phủ là chức tri phủ; đứng đầu các huyện, châu là chức tri huyện, tri châu; ở xã chức xã quan được đổi gọi là xã trưởng. Đối với vùng thượng du, về cơ bản, quyền cai quản vẫn được giao cho các tù trưởng địa phương. Triều đình đặt ra các chức đoàn luyện, thủ ngự, tri châu, đại tri châu để bổ nhiệm cho các tù trưởng nhằm tranh thủ, ràng buộc và kiềm chế họ. Lê Thánh Tông chủ trương đảm bảo sự thống nhất trong chính quyền từ trên xuống dưới, từ trung ương đến địa phương: "Các chức lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, nặng nhẹ cùng gìn giữ nhau, lẽ phải của nước không bị chuyện riêng, việc lớn của nước không đến lung lay, khiến có thói tốt làm hợp đạo đúng phép"3. Không chỉ thống nhất về mặt hành chính, bộ máy chính quyền các cấp cũng được xây dựng thành một hệ thống chặt chẽ, thống nhất từ trung ương đến địa phương và dần dần được cải tổ theo hướng tăng cường sự chi phối của triều đình trung ương và hạn chế quyền lực địa phương. Cơ quan quyền lực tối cao là triều đình, đứng đầu là vua. Thời Lê Thái Tổ, dưới vua là các chức tả hữu tướng quốc Kiểm hiệu bình chương quân quốc trọng sự; sau đó là các chức: tam thiếu, tam thái, tam tư. Tiếp đến là ban văn và ban võ. Đứng đầu ban văn là chức đại hành khiển, rồi đến thượng thư và các cơ quan chuyên trách như Nội mật viện, Hàn lâm viện, Ngự sử đài. Đứng đầu ban võ là các chức đại tổng quản, đại đô đốc, đô tổng quản. Trải qua các đời vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lê Nghi Dân, chính quyền ngày càng được củng cố, hoàn thiện. Năm Canh Thìn (1460), vua Lê Nghi Dân củng cố lại triều đình trung ương, đặt thêm 4 bộ: Hộ, Binh, Hình, Công cùng với hai bộ là Bộ Lại, Bộ Lễ do Lê Lợi đặt từ trước thành 6 bộ. Sáu khoa gồm có: Trung thư khoa, Hải khoa, Đông khoa, Tây khoa, Nam khoa và Bắc khoa. Các quan chức ở phủ, huyện, châu trong thời Lê Nghi Dân (1459-1460) cũng có sắp xếp lại nhưng các tài liệu cũ không ghi chép cụ thể. Đến thời Lê Thánh Tông (1460-1497) bắt đầu tiến hành một cuộc chỉnh đốn, sắp xếp lại đơn vị hành chính và bộ máy chính quyền các cấp. Sau một thời gian tiến hành, tổ chức chính quyền thời Lê Sơ đã đạt đến đỉnh cao. Chính quyền trung ương gồm có 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công do các thượng thư đứng đầu, bên cạnh bộ là 6 khoa có nhiệm vụ kiểm soát công việc các bộ. Ngoài ra còn có 6 tự và một số cơ quan chuyên trách như Ngự sử đài kiểm soát quan lại; Hàn lâm viện khởi thảo văn kiện; Quốc tử giám trông nom giáo dục; Quốc sử quán biên soạn chính sử. Năm Hồng Đức thứ 2 Tân Mão (1471), Lê Thánh Tông cho cải tổ lại bộ máy chính quyền trung ương nhằm tập trung mọi quyền vào tay hoàng đế và kiểm soát chặt chẽ các cấp địa phương. Theo đó, chức Tể tướng bị bãi bỏ, triều đình được đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của nhà vua. Vua trực tiếp nắm quyền chỉ đạo mọi công việc quan trọng của nhà nước cũng như mối liên hệ với các cơ quan thừa hành. Mọi công việc trong triều đình phải được trình báo với vua và phải được vua đưa ra quyết định. Vua trực tiếp chỉ đạo 6 bộ, đồng thời là người chỉ huy tối cao về mặt quân sự. Trong dụ "Hiệu định quan chế", Lê Thánh Tông khẳng định: "Ngày nay đất đai, bản chương so với thời trước khác xa nhau lắm, không thể không tự mình cầm lấy quyền chế tác, hết sức theo cái đạo biến thông"4. Nhà vua cũng ra lệnh ngăn cấm các quý tộc, quan lại tổ chức quân đội riêng. Vua được coi là "con trời", là hiện thân của "sức mạnh" và "chân lý". Uy quyền của vua là tuyệt đối. Nhằm xây dựng và củng cố một bộ máy quan liêu trung thành, triều đình ban cho quan lại nhiều quyền lợi: ruộng đất, bổng lộc, chức tước. Những quan lại trong bộ máy nhà nước phong kiến Lê Sơ giai đoạn đầu chủ yếu là những tướng sĩ có công trong cuộc khởi nghĩa. Ở các giai đoạn sau là những người trúng tuyển trong các kỳ thi do triều đình tổ chức; ngoài ra còn là những con em tầng lớp quý tộc được tuyển lựa hoặc là do các quan lại địa phương tiến cử theo yêu cầu của triều đình. Chế độ tuyển dụng, bổ nhiệm, lương bổng, phẩm tước của quan lại đều có quy chế rõ ràng, thống nhất. Những quan lại thời Lê Sơ tuy không được ban cấp thái ấp, điền trang như các vương hầu quý tộc thời Lý - Trần, nhưng nhà nước vẫn có chế độ ban cấp ruộng đất bảo đảm cho họ được quyền sở hữu (ban cấp vĩnh viễn) và chiếm hữu (ban cấp tạm thời) một số ruộng đất khá lớn khiến hầu hết những người đã gia nhập vào bộ máy nhà nước đều trở thành địa chủ phong kiến. Ngoài ruộng đất được ban cấp theo phẩm tước, các quan lại còn được cấp một số tiền hằng năm gọi là tuế bổng. Ví dụ: Chánh nhất phẩm được cấp 82 quan tuế bổng; Chánh cửu phẩm được cấp 16 quan; những quan lại ở các địa phương khi thừa hành công việc còn được cấp tiền chức vụ; khi đến nhậm chức được thu tiền gạo cung mừng, v.v.. Nhằm ngăn ngừa khuynh hướng cát cứ, triều đình Lê Sơ thi hành một số biện pháp hạn chế quyền lực của tầng lớp quý tộc quan liêu như không được phân phong đi trấn trị các nơi và rất ít người được tham dự triều chính, không được lập điền trang, thái ấp và tổ chức lực lượng vũ trang riêng như ở thời Lý - Trần. Nhà Lê còn quy định nhiều điều luật nghiêm ngặt và hình thức nghi lễ nhằm bảo đảm sự trung thành của tầng lớp quý tộc quan liêu đối với triều đình trung ương. Sự phát triển ngày càng cao của chế độ phong kiến trung ương tập quyền đặt ra yêu cầu phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nhằm bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị và ổn định trật tự xã hội. Dưới thời Lê Lợi, việc đặt luật pháp đã được tiến hành. Ông lệnh cho các quan Tư Không, Tư Đồ, Tư Mã, Thiếu Uý, Hành Khiển bàn định pháp lệnh cai trị quân dân vì theo ông: "Từ xưa tới nay, trị nước phải có pháp luật, không có pháp luật thì sẽ loạn. Cho nên học tập đời xưa đặt ra pháp luật là để dạy các tướng hiệu quan lại, dưới đến dân chúng trăm họ biết thế nào là thiện, là ác, điều thiện thì làm, điều chẳng lành thì tránh. Chớ để đến nỗi phạm pháp"5. Lê Thái Tổ cũng định ra một số luật lệ về kiện tụng và phân chia ruộng đất công của các thôn xã. Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông ban hành thêm một số điều luật về xét xử kiện tụng, sở hữu tài sản. Đến Lê Thánh Tông lại ban bố nhiều điều lệ về kế thừa hương hoả; về bảo vệ tôn ty trật tự và đạo đức phong kiến; việc trấn áp các hành vi chống đối hay làm nguy hại đến quyền thống trị của giai cấp phong kiến. Năm Quý Mão (1483), Lê Thánh Tông sai các đình thần sưu tập tất cả các điều luật, các pháp lệnh đã ban bố và thi hành từ các triều vua trước rồi bổ sung biên soạn thành một bộ pháp điển hoàn chỉnh với tên thường gọi là Luật Hồng Đức. Bộ luật Hồng Đức trở thành pháp luật của triều Lê, gồm có 721 điều, chia làm 6 quyển, 16 chương với nội dung cơ bản là bảo vệ lợi ích và đặc quyền của giai cấp thống trị, củng cố chế độ quân chủ chuyên chế. Bộ luật cũng phản ánh và tôn trọng một số phong tục tập quán của nhân dân, đề cao ý thức bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bênh vực quyền lợi của người phụ nữ. Luật Hồng Đức là bộ luật hoàn chỉnh đầu tiên của nhà nước phong kiến Việt Nam, cũng là bộ luật xưa nhất mà hiện nay chúng ta còn biết được nội dung tương đối đầy đủ. Về cơ bản, Bộ luật Hồng Đức là bộ luật hình, nhưng về thực chất, đây là bộ luật tổng hợp bao gồm cả luật hình, luật hành chính, luật dân sự, luật tố tụng, luật hôn nhân và gia đình. Luật Hồng Đức đã phản ánh được một cách tương đối toàn diện các mặt đời sống và tập quán của nhân dân ta ở thế kỷ XV. Bộ luật Hồng Đức được các đời vua kế tiếp bổ sung, sửa đổi và sử dụng trong suốt hơn ba thế kỷ trị vì của nhà Lê với tên gọi "Lê triều hình luật". Tình hình xã hội: Trong xã hội thời Lê Sơ có hai giai cấp cơ bản là địa chủ phong kiến và nông dân, bên cạnh đó còn có các tầng lớp thương nhân, thợ thủ công và nô tỳ. Địa chủ là giai cấp thống trị, giai cấp nắm chính quyền, bao gồm địa chủ thường, địa chủ quan liêu và một số quý tộc nhà Lê. Đó là những người có ruộng đất tư hữu, lấy quyền sở hữu tư nhân làm cơ sở tồn tại và tiến hành bóc lột tô đối với nông dân. Ngoài ruộng đất tư hữu, tầng lớp địa chủ quan liêu còn được nhà nước ban cấp cho nhiều ruộng đất theo chế độ vĩnh viễn hoặc tạm thời. Hầu hết các địa chủ thời Lê Sơ đều bóc lột nông dân theo phương thức phát canh thu tô. Giai cấp nông dân gồm nhiều tầng lớp khác nhau: nông dân tự canh, nông dân tá điền, nông dân phá sản phải đi làm thuê. Trong đó nông dân tá điền chiếm số lượng đông nhất. Nông dân là lực lượng đông đảo trong xã hội, là lực lượng lao động sản xuất chủ yếu, làm ra hầu hết của cải trong xã hội thời bấy giờ, nhưng cũng là tầng lớp bị áp bức bóc lột nặng nề nhất. Quan hệ giữa địa chủ và nông dân là quan hệ giữa chủ sở hữu ruộng đất với người lao động sản xuất, quan hệ giữa kẻ bóc lột với người bị bóc lột. Thời Lê Sơ vẫn còn tồn tại một số lượng đáng kể tầng lớp nô tỳ, mặc dù vào cuối thời Trần và qua cuộc chiến tranh đầu thế kỷ XV, một số lượng lớn tầng lớp này đã được giải phóng. Trong xã hội, nô tỳ là tầng lớp thấp kém nhất, bị bóc lột và phân biệt đối xử tàn nhẫn nhất. Nô tỳ không được xem là thần dân của nhà vua, không được ghi vào sổ hộ, không được cấp ruộng khẩu phần. Tuy vậy, trong một chừng mực nhất định, pháp luật nhà Lê cũng quy định một số quyền hạn của chủ đối với nô tỳ, coi việc chủ giết nô tỳ là một hành động phạm pháp. Do sự phát triển của công thương nghiệp và kinh tế hàng hoá, tầng lớp thương nhân và thợ thủ công trong xã hội Lê Sơ có đông đảo hơn trước nhưng bởi chính sách không chú trọng đến sự phát triển của kinh tế hàng hoá của triều Lê và quan niệm xem thường thương nhân, coi họ là những kẻ "bỏ gốc theo ngọn" không phù hợp với tinh thần độc tôn nông nghiệp và chính sách "ức thương" của chế độ phong kiến nên tầng lớp này chỉ chiếm một phần nhỏ trong xã hội. Lê Sơ là thời kỳ phát triển cường thịnh của chế độ phong kiến Việt Nam. Các sử gia phong kiến ca tụng đây là thời thái bình thịnh trị; kinh tế nông nghiệp được nhà nước quan tâm, chú ý phát triển nhưng nông dân, tầng lớp chiếm tuyệt đại đa số lúc bấy giờ cũng vẫn phải chịu những hình thức áp bức nặng nề. Ngoài tô thuế ruộng đất là hình thức bóc lột chính, họ còn bị uy hiếp thường xuyên bởi nạn kiêm tinh ruộng đất, nạn cho vay nặng lãi và nạn ức hiếp tham nhũng của tầng lớp cường hào. Thêm vào đó là nạn thiên tai bão lụt, hạn hán, mất mùa đói kém vẫn luôn xảy ra khiến người nông dân càng thêm cùng cực. Tuy nhiên xét về phạm vi tổng thể chế độ phong kiến Việt Nam thì đời sống của người nông dân thời Lê Sơ nhìn chung tương đối được bảo đảm và ổn định hơn các thời khác. Các chính sách triệt bỏ căn bản chế độ điền trang, giải phóng tầng lớp nô tỳ; thực thi chính sách quân điền... của nhà nước đã tạo điều kiện cho sức sản xuất phát triển, kinh tế nông nghiệp nhanh chóng phục hồi. Triều đình cũng đề ra được một số chính sách, biện pháp cứu tế xã hội chăm lo đến đời sống của nhân dân như: lập nhà tế sinh để nuôi dưỡng những người đau yếu, bắt các xã trưởng, các quan lại địa phương phải thu dưỡng những người tàn phế, tật bệnh không có thân thuộc trông nom. Lê Lợi- người lãnh đạo cuộc chiến tranh giải phóng từng nhận được sự giúp đỡ và đồng cam cộng khổ với nhân dân, khi lên làm vua thường khuyên bảo triều thần và dặn dò con cái nên khoan dân, không nên phí sức dân, không nên xây dựng cung đài và phung phí tiền của, để cho dân nghỉ ngơi. Điều này được các triều vua sau chú ý và noi theo. Những việc làm trên góp phần tạo nên một sự "thái bình, thịnh trị" tương đối của xã hội thời Lê Sơ trong thế kỷ XV. Trong xã hội phong kiến, mâu thuẫn giữa địa chủ phong kiến với nông dân luôn tồn tại. Khi mâu thuẫn giai cấp quyết liệt sẽ dẫn đến sự bùng nổ các cuộc đấu tranh. Trong thế kỷ XV không thấy sử cũ ghi chép về khởi nghĩa nông dân ở miền xuôi. Nguồn tư liệu chỉ cho biết về một số cuộc nổi dậy của đồng bào thiểu số ở vùng núi phía Bắc do các tù trưởng của họ cầm đầu nhằm chống lại sự áp bức bóc lột, sự chi phối của triều đình trung ương và có khuynh hướng cát cứ địa phương. Ít có nông dân nổi dậy chống đối triều đình là một biểu hiện của tình trạng ổn định tạm thời của xã hội thời Lê Sơ, của sự thịnh trị tương đối của chế độ phong kiến đang trong thời kỳ phát triển. Sự ổn định này chiếm hơn 2 phần 3 thời gian tồn tại của vương triều (từ năm 1504 trở đi, dưới các đời vua Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, thời thái bình, thịnh trị không còn nữa). Trên cơ sở quốc gia thống nhất, chế độ chính trị và tình hình xã hội tương đối ổn định trong một thời gian dài, vị thế vương triều được nhiều quốc gia trong khu vực vị nể, nhà nước Lê Sơ có điều kiện tập trung vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. b) Khôi phục và phát triển kinh tế Sau nhiều năm tháng chiến tranh, nền kinh tế Đại Việt bị tàn phá nghiêm trọng: đồng ruộng bỏ hoang, đê điều hư hỏng, làng xóm tiêu điều, nông dân phiêu tán hàng loạt; thương nghiệp bị đình trệ, nhiều ngành nghề bị phá sản. Nhiệm vụ cấp bách đặt ra đối với vương triều Lê Sơ là phải thúc đẩy sản xuất, khôi phục và phát triển kinh tế, ổn định đời sống cư dân, nhất là nông dân nhằm thực hiện "quốc phú binh cường". Nhiệm vụ này được thực hiện dần từng bước, các biện pháp tích cực của nhà nước cùng sự lao động cần cù, sáng tạo của nhân dân đã mang lại hiệu quả thiết thực trong các ngành kinh tế. - Kinh tế nông nghiệp. Nông nghiệp là ngành kinh tế cơ bản của quốc gia, là cơ sở của chế độ phong kiến. Cũng như các triều đại phong kiến trước, triều Lê Sơ rất coi trọng nghề nông, nông nghiệp được xem là nghề gốc, nhà nước có nhiều chính sách tích cực nhằm phục hồi và phát triển ngành kinh tế chủ đạo này. Trước tiên là nhanh chóng phục hồi diện tích canh tác: Sau những năm chiến tranh, tình trạng nông dân bỏ làng đi phiêu tán và bỏ hoang đồng ruộng diễn ra ở nhiều nơi trong nước. Trước thực trạng đó, năm Đinh Mùi (1427), khi còn bao vây giặc ở Đông Đô, Lê Lợi đã ra lệnh bắt dân phiêu tán phải trở về nguyên quán nhận ruộng cày cấy. Năm Ất Tỵ (1485), Lê Thánh Tông ra lệnh cho các phủ, huyện nếu có ruộng đất bỏ hoang chưa khai khẩn hết thì phải khám xét cẩn thận và đôn đốc nhân dân canh khẩn. Do những biện pháp tích cực của nhà nước, chỉ trong thời gian ngắn, ruộng đất bỏ hoang được khai thác hết và nền sản xuất nông nghiệp căn bản được phục hồi. Phân chia lại ruộng đất công làng xã: Trước hiện trạng "Người đi đánh giặc thì nghèo, kẻ rong chơi thì giàu, người đi chiến đấu thì không có một thước một tấc đất mà ở còn những kẻ du thủ du thực, không có ích gì cho nước lại có quá thừa ruộng đất"6, năm Kỷ Dậu (1429), Lê Thái Tổ lệnh cho các quan văn võ đại thần bàn định việc phân cấp ruộng đất cho quan lại, binh lính và dân chúng từ đại thần trở xuống đến người già yếu, phụ nữ, trẻ mồ côi. Đây là sự mở đầu cho việc ban hành và thực thi "Chính sách quân điền" của nhà nước Lê Sơ - một chính sách có tác động rất lớn đối với sự phát triển nền kinh tế nông nghiệp thời bấy giờ. Tuy nhiên, dưới thời Lê Thái Tổ, chính sách quân điền mới chỉ được bàn định và "phép còn chưa đủ", sang thời Lê Nhân Tông, được bổ sung thêm một số điều và đến thời Lê Thánh Tông, năm Hồng Đức thứ 8 (Đinh Dậu - 1477), quy chế về quân điền mới được hoàn chỉnh và được thực hiện rộng khắp. Chính sách quân điền của triều Lê Sơ được thực hiện theo nguyên tắc: + Tất cả mọi người dân trong xã đều được chia ruộng, nhưng tùy theo phẩm hàm, chức tước và thứ bậc trong xã hội. + Ruộng xã nào chia cho dân xã ấy. Nhưng đầu thời Lê Sơ, do hậu quả của 20 năm đô hộ của quân Minh, có nhiều xã cư dân phiêu tán, đồng ruộng bỏ hoang, nên nhà nước quy định thêm những xã nào dân ít, ruộng công nhiều thì có thể chia bớt cho dân xã bên cạnh thiếu ruộng. + Thời gian quân cấp là 6 năm một lần. Mỗi lần đến kỳ quân cấp, quan phủ huyện phải xuống đo đạc lại ruộng đất và định việc phân cấp. Việc đo đạc và phân cấp này phải được tiến hành vào lúc đồng ruộng đã thu hoạch xong để không trở ngại đến sản xuất nông nghiệp. + Những người cày ruộng có nghĩa vụ nộp tô thuế cho nhà nước. Riêng quan viên từ tứ phẩm trở lên nếu được cấp thêm ruộng công ở xã, thì phần ruộng cấp thêm này không phải nộp tô. Vì vậy, thực tế phần ruộng cấp thêm ấy có tính chất như lộc điền và có thể coi như là phần bổ sung lộc điền... Với những nội dung trên, chính sách quân điền ít nhiều đã mang lại ruộng đất cho mọi tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là nông dân, bảo đảm cho họ có một mảnh ruộng để cày cấy sinh sống. Trên cơ sở đó người nông dân yên tâm sản xuất, nền kinh tế tiểu nông được tạo điều kiện để xây dựng và phát triển. Đồng thời cũng mang lại cho nhà nước một nguồn thu đáng kể từ kinh tế làng xã. Chính sách quân điền đã có tác dụng tích cực trong việc phục hồi và phát triển kinh tế nông nghiệp. Ngoài ra, nhà Lê còn thực thi các chính sách: lập đồn điền, khẩn hoang,... để mở rộng diện tích canh tác. Cùng với sự hình thành các sở đồn điền của nhà nước, nhiều công trình khẩn hoang của nhân dân cũng được đẩy mạnh ở vùng đất bồi ven biển và đất hoang vùng trung du, lập nên nhiều làng xóm mới. Năm Bính Ngọ (1486), Lê Thánh Tông ra lệnh cho các phủ huyện nào có đất bồi ven biển phải cho người ít ruộng tình nguyện bồi đắp, khai khẩn nộp thuế. Theo chú thích của sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục thì miền duyên hải Bắc Bộ ngày nay từ thời Lê Sơ đã có những con đê ngăn nước mặn đắp bằng đá hay bằng đất để bảo vệ đồng ruộng; riêng miền ven biển Ninh Bình còn có một con đê ngăn nước mặn gọi là đê Hồng Đức. Để khai khẩn những vùng đất hoang rộng lớn ở miền trung du, năm Kỷ Mùi (1499) triều đình sai Thừa ty Thanh Hoá cho phép những người lương thiện đưa gia đình lên khai khẩn. Những vùng đất hoang lại được khai thác thêm một phần. Khuyến khích và tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển: Nhằm tăng cường nhân lực cho sản xuất nông nghiệp, ngay sau khi kết thúc chiến tranh, Lê Lợi chỉ giữ lại 10 vạn quân thường trực, còn 25 vạn quân sĩ cho về sản xuất. Số quân giải ngũ này góp phần đáng kể vào việc tăng cường sức sản xuất cho nông nghiệp. Sức kéo đóng một vai trò rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Ý thức được điều đó nên triều Lê Sơ chú trọng đến việc bảo vệ trâu bò. Pháp luật triều Lê có những điều khoản quy định bảo vệ sức kéo; tội ăn trộm trâu bò bị trừng trị nặng hơn các tội trộm cắp khác; việc mua bán, di chuyển trâu bò, đến cả việc trâu bò bị chết, giết trâu bò làm thịt đều bị kiểm soát chặt chẽ để tránh tình trạng gian lận hay giết mổ bừa bãi. Năm Kỷ Dậu (1489), vua Lê Thánh Tông còn xuống chỉ cấm giết trâu bò vào lúc ban đêm và chỉ có trâu bò chết được khám nghiệm rồi mới cho mổ làm thịt. Các vua Lê nhiều lần ban hành chiếu khuyến nông, đồng thời khôi phục lại "lễ tịch điền": Hằng năm, vào đầu mùa xuân, nhà vua đích thân ra cày mấy đường ở thửa ruộng đặc biệt gọi là tịch điền để mở đầu mùa cày cấy cho nông dân. Triều đình ban hành nhiều chính sách rất cụ thể quan tâm đến nông nghiệp như: không huy động sức dân vào những lúc đang mùa vụ; chỉ được phép chuộc ruộng vào những tháng rỗi rãi của đồng ruộng. Năm Ất Mão (1435), triều đình ra lệnh cho các quan địa phương nếu việc công dịch mà có hại đến nghề nông thì "không được khinh động sức dân". Triều Lê Sơ cũng rất chú trọng đến xây dựng, bảo vệ đê điều và các công trình thủy lợi. Trong hệ thống quan lại triều đình có chức Hà đê quan - quan chuyên trông coi đê điều. Chức quan này đặt đến cấp phủ, huyện. Công việc kiểm tra, sửa sang đê điều được tiến hành thường xuyên trong năm với quy chế chặt chẽ. Những lúc việc đắp đê điều cấp thiết, nhà nước huy động nhân dân, quân lính cho đến cả học sinh Quốc Tử Giám. Học sinh Quốc Tử Giám là "sinh viên đại học" của chế độ phong kiến hầu hết là con em của tầng lớp quý tộc quan liêu, được miễn trừ mọi thứ công dịch, chỉ phải huy động trong hai trường hợp tối quan trọng là khi có giặc uy hiếp kinh thành và khi đê điều cấp thiết. Vừa quản lý tu sửa, bảo vệ tốt các công trình đê điều được xây dựng ở các triều trước nhà Lê Sơ còn cho xây dựng một hệ thống đê ngăn nước mặn ở vùng ven biển, nhiều sông, kênh ở các địa phương được nạo vét, khơi dòng để tưới tiêu đồng ruộng và phục vụ nhu cầu vận chuyển. Năm Mậu Ngọ (1438), Lê Thái Tông sai khơi lại các kênh ở Trường An, Thanh Hoá, Nghệ An. Năm Đinh Hợi (1467), vua Lê Thánh Tông sai khơi lại các kênh ở Thanh Hoá, Nghệ An. Mọi biện pháp tích cực của triều đình cùng sức lao động sáng tạo của quần chúng nhân dân đã đưa nền sản xuất nông nghiệp thời Lê Sơ dần phục hồi và nhanh chóng phát triển. Thành quả của nền kinh tế nông nghiệp thời ấy còn lưu lại trong ký ức dân gian: "Đời vua Thái Tổ, Thái Tông Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng muốn ăn". - Công thương nghiệp. Công thương nghiệp tuy không được chú trọng như nông nghiệp nhưng vẫn có những chuyển biến đáng kể so với giai đoạn trước. Do nhu cầu của xã hội, sau khi đất nước hoà bình, các ngành nghề thủ công nhanh chóng được phục hồi và có những bước phát triển mới. Nhiều làng nghề thủ công truyền thống ở các làng xã được hồi sinh như kéo tơ, dệt lụa, đan lát, làm nón, đúc đồng, rèn sắt... Trong đó có những làng làm ra các sản phẩm nổi tiếng như: làng Bát Tràng (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội) chuyên làm đồ gốm sứ, làng Huê Cầu (nay thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) nhuộm thâm, làng Bình Vọng (nay thuộc huyện Thường Tín, Hà Nội) có nghề sơn, làng chạm khắc đá Kính Chủ (nay thuộc huyện Kinh Môn, Hải Dương), làng Đại Bái đúc đồng (thuộc huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh), làng Vân Chàng rèn sắt... Tại Kinh thành Thăng Long, những người làm nghề thủ công tổ chức thành 36 phường chuyên môn như: phường Yên Thái làm giấy, phường Hàng Đào nhuộm điều, phường Nghi Tàm dệt lụa... Bên cạnh các nghề thủ công trong nhân dân, nhà nước cũng thành lập các công xưởng để sản xuất những mặt hàng phục vụ cho nhu cầu của triều đình và quan lại như: đúc tiền, sản xuất vũ khí và các đồ dùng của vua quan. Những người sản xuất trong các công xưởng gọi là công tượng, họ là những thợ thủ công giỏi trong dân gian bị nhà nước trưng tập vào đây làm việc theo chế độ lao dịch, cưỡng bức. Do mạng lưới giao thông được mở rộng, việc giao lưu hàng hoá và tiền tệ giữa các địa phương thuận tiện hơn trước. Hệ thống chợ làng -những trung tâm buôn bán của các địa phương mọc lên ngày càng nhiều và được nhà nước khuyến khích tạo điều kiện khi có nhu cầu. Năm Đinh Dậu (1477), nhà nước quy định thể lệ chia mở chợ mới để tiện cho việc trao đổi, mua bán của nhân dân: "Sinh dân các huyện, châu, xã ở các xứ trong nước mỗi ngày một đông, nếu muốn mở thêm chợ mới để tiện mua bán thì quan phủ, huyện, châu phải khám xét thực tế, nếu quả là tiện cho dân thì làm bản tâu lên, cho theo tiện lợi mà họp chợ"7. Sự ra đời ngày càng nhiều của các chợ chứng tỏ thị trường địa phương ngày càng phát triển. Để tiện lợi cho việc buôn bán, trao đổi và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hàng hoá, triều Lê bỏ tiền giấy thời Hồ, khôi phục việc tiêu tiền đồng. Đến năm Bính Tý (1456), số tiền đồng đúc ra đã tương đối đủ lưu thông trong nước. Đơn vị tiền tệ và đo lường được quy định thống nhất: năm Mậu Thân (1428), định 50 đồng là 1 tiền; năm Kỷ Mùi (1439), định 60 đồng là 1 tiền. Cùng năm Kỷ Mùi (1439), vua Lê Thái Tông quy định kích thước của một số hàng hoá chính như vải, lụa, giấy. Năm Ất Mùi (1475), vua Lê Thánh Tông ban hành mẫu thống nhất các đơn vị đo diện tích ruộng đất và đong lường thóc gạo. Thương nghiệp cũng có những bước phát triển nhất định. Kinh sư (Thăng Long) - một trung tâm kinh tế lớn của Đại Việt là nơi tập trung nhiều thợ thủ công và thương nhân trong cả nước. Dân các nơi tụ tập về đây làm ăn ngày càng đông đúc, việc buôn bán có phát đạt hơn các vùng khác, nhưng nhà nước không chủ trương khuyến khích thương mại ở các thành thị, sợ rằng việc buôn bán sẽ ảnh hưởng xấu đến quan lại, làm cho họ chểnh mảng "việc nước". Xuất phát từ quan niệm đó, năm Tân Sửu (1481), viên quan phủ Phụng Thiên đề nghị triều đình đuổi tất cả những người tạp cư phải trở về quê quán làm ăn. Kiến nghị này không được thực thi vì làm như vậy "sợ rằng việc buôn bán ở đất Kinh sư sẽ giảm sút, không giữ được vẻ phồn thịnh, không những kẻ buôn bán sẽ bị thất nghiệp, mà chợ búa, phố xá rồi sẽ vắng vẻ, thuế ngạch sẽ thiếu hụt, thật là bất tiện"8. Ngoại thương dưới thời Lê Sơ có phần kém phát triển hơn thời Lý - Trần do triều đình hạn chế, kiểm soát khắt khe thuyền buôn và thương nhân nước ngoài nhằm giữ vững an ninh quốc gia. Các cơ quan kiểm soát ngoại thương được đặt khắp các cửa ải vùng biên giới và các cửa biển dọc theo miền duyên hải. Nhà nước quy định những người nước ngoài và các thuyền buôn không được vào nội trấn, chỉ được buôn bán ở một số địa điểm nhất định như: Vân Đồn, Vạn Ninh (Quảng Ninh); Càn Hải, Hội Thống (Nghệ An); Thông Lãnh (Lạng Sơn); Cửa Triều (Thanh Hoá). Nhân dân dọc biên giới và miền ven biển nếu tự ý mua bán hàng hoá hoặc đón tiếp thuyền buôn ngoại quốc đều bị nghiêm trị. Năm Quang Thuận thứ 8 (Đinh Hợi – 1467), tàu buôn nước Xiêm La đến Vân Đồn, dâng tờ biểu làm bằng vàng lá và hiến phương vật để được buôn bán nhưng bị vua Lê Thánh Tông từ chối. Do có những quy định như vậy nên ngoại thương thời Lê Sơ kém phát triển. Thuyền buôn các nước ra vào thưa dần. Tuy nhiên những quy định nghiêm ngặt của nhà nước chỉ hạn chế chứ không thủ tiêu được xu hướng phát triển của kinh tế hàng hoá, việc buôn bán với người nước ngoài vẫn diễn ra. Sử cũ ghi lại khá nhiều sự kiện các sứ thần nước ta cũng như Trung Quốc mỗi lần đi sứ đều đem theo hàng hoá khi về nước. Mặc dù triều đình đã đặt ra lệ hễ sứ thần nào mua hàng hoá về đều bị tạm thu rồi đem bày ra giữa sân điện cho mọi người biết, sau đó mới cho lấy về nhưng vẫn không thể cấm được việc mang hàng hóa của những viên quan đi sứ. Chính sách kiểm soát chặt chẽ quan hệ buôn bán với nước ngoài của nhà nước Lê Sơ đã hạn chế sự phát triển kinh tế hàng hoá và là nguyên nhân của tình trạng sa sút ngoại thương ở thế kỷ XV. Đất nước độc lập, lãnh thổ ngày càng được mở mang, đó là những điều kiện thuận lợi để kinh tế Đại Việt thời Lê Sơ phục hồi và phát triển trong những năm sau chiến tranh. Nhà nước đã có những chính sách tích cực trong sản xuất nông nghiệp, mở mang nội thương nên nền kinh tế nước ta ở thế kỷ XV có những chuyển biến căn bản, góp phần vào công cuộc ổn định đời sống nhân dân và tăng cường sức mạnh phòng thủ quốc gia. c) Phát triển giáo dục - văn hoá Ngay sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc Tử Giám ở Kinh thành Thăng Long và mở trường học ở các lộ, mở khoa thi cho phép những người có học đều được tham gia dự thi. Quốc Tử Giám không chỉ dành cho con em tầng lớp quý tộc, một số ít con em của tầng lớp bình dân học hành ưu tú cũng được lựa chọn vào học. Trường ở các lộ dành cho tất cả mọi người có điều kiện học tập. Những người giảng dạy ở các trường đều do nhà nước tuyển chọn và bổ nhiệm gọi là giáo quan. Các giáo quan yếu kém sẽ bị sa thải. Ngoài hệ thống trường công do nhà nước tổ chức còn có những lớp học tư tại các địa phương do những nho sĩ không đỗ đạt, lỡ vận hoặc các quan lại về hưu mở, thu nạp khá nhiều người đến học. Dưới triều Lê Thánh Tông, sự nghiệp giáo dục càng được coi trọng hơn nữa. Hệ thống các trường được mở rộng và có quy củ hơn. Năm Quý Mão (1483), nhà vua cho xây dựng lại Văn Miếu, mở rộng Thái học viện. Các tài liệu học tập đều lấy từ Tứ thư, Ngũ kinh. Đề thi trong các kỳ thi Hội đều lấy trong các sách Luận ngữ, Mạnh tử, Xuân thu, Trung dung, Đại học. Năm Đinh Hợi (1467), vua Lê Thánh Tông đặt ra chức Bác sĩ dạy ngũ kinh (Dịch, Thi, Thư, Lễ, Xuân thu), mỗi người chuyên nghiên cứu một kinh để giảng dạy cho giám sinh Quốc Tử Giám. Chế độ thi cử được tổ chức thường xuyên và có quy định rõ ràng. Khoa thi đầu tiên của thời Lê Sơ được tổ chức vào năm Đinh Mùi (1427), khi Lê Lợi còn bao vây giặc Minh ở thành Đông Quan, kỳ thi này đã chọn 36 người trúng tuyển bổ nhiệm làm An phủ sứ các lộ và Viên ngoại lang ở các bộ. Năm Kỷ Dậu (1429), Lê Thái Tổ mở khoa thi thứ hai gọi là khoa Minh kinh ở thành Đông Kinh để khảo xét lại các quan văn võ từ tứ phẩm trở xuống và tuyển lựa thêm nhân tài bổ sung vào bộ máy nhà nước. Năm Tân Hợi (1431), Lê Thái Tổ mở khoa thi Hoành từ ở Bồ Đề. Như vậy, ngay trong những năm đầu nhà Lê Sơ đã mở các khoa thi để tuyển dụng quan lại nhưng việc thi cử chưa thành quy chế rõ ràng, chỉ khi nào cần người thì nhà nước mới mở khoa thi. Đến thời vua Lê Thái Tông (1433- 1442), việc thi cử được chú trọng. Với quan điểm: "Muốn có nhân tài, trước hết phải lựa chọn kẻ sĩ, mà phép chọn lựa kẻ sĩ phải lấy thi cử làm đầu"9, Lê Thái Tông đã quy định các thể lệ thi cử rất quy củ: cứ 3 năm mở một khoa thi Hương. Năm trước thi Hương ở các đạo, năm sau thi Hội ở Kinh đô. Kỳ thi Hương ở các đạo bắt đầu được mở vào năm Thiệu Bình thứ 5 (Mậu Ngọ - 1438). Khoa thi Hội đầu tiên được mở vào năm Nhâm Tuất (1422). Trong kỳ thi này có 450 thí sinh ứng thi và có 33 người trúng tuyển, trong đó có những tài năng xuất chúng như Ngô Sĩ Liên, Nguyễn Như Đổ. Dưới các triều vua nối tiếp, số người tham gia thi Hội ngày càng đông. Có những kỳ thi số thí sinh tham dự có tới hàng ngàn người như kỳ thi năm Ất Mùi (1475). Dưới thời vua Lê Thánh Tông, thể lệ thi cử được bổ sung thêm nhiều quy định, mọi thiết chế về giáo dục được hoàn chỉnh. Năm Quý Mùi (1463), định rõ: cứ cách 3 năm mở một kỳ thi Hội vào những năm Sửu, Thìn, Tỵ và Tuất. Nội dung thi Hội cũng được định lại với 4 kỳ thi và người thi được lựa chọn trong một số đầu đề thi nhất định. Kỳ thi Hương vẫn được tổ chức ở các đạo, giám quan do triều đình cử. Các sĩ tử muốn dự thi Hội đều phải trúng tuyển các kỳ thi Hương. Vua Lê Thánh Tông đặt ra lệ "bảo kết hương thí" và lệ "cung khai tam đại" tức là bắt các xã phải bảo đảm người ứng thi phải là người có đức hạnh (trung thành với chế độ phong kiến), phải khai lý lịch ba đời, nếu là con cháu nhà xướng ca, con cháu những kẻ chống đối lại triều đình thì nhất thiết không cho tham gia dự thi. Từ năm Mậu Thân (1428) đến năm Đinh Hợi (1527), nhà nước Lê Sơ đã tổ chức được 31 khoa thi Hội, tuyển được 1.007 tiến sĩ, riêng thời Lê Thánh Tông có 12 khoa thi Hội lấy 501 tiến sĩ. So với tổng số 2.335 tiến sĩ từ thời nhà Lý đến thời Khải Định cho thấy giáo dục khoa cử thời Lê Sơ rất thịnh đạt, nhất là triều Lê Thánh Tông. Có được kết quả trên do nhà nước rất chú trọng đến việc giáo dục đào tạo và sử dụng nhân tài. Triều đình đề ra nhiều chính sách ưu đãi đối với kẻ sĩ. Năm Giáp Dần (1434), định lệnh tuyển lính, các giám sinh Quốc Tử Giám đều được miễn. Năm Hồng Đức thứ 19 (Mậu Thân- 1488), vua Lê Thánh Tông xuống chiếu: "Từ nay trở đi, phàm học trò đã từng đọc sách, biết làm văn mà có hạnh kiểm đã thi đỗ và được miễn tuyển thì miễn cho nửa phần thuế và sai dịch, để mở rộng đức ý nuôi dưỡng nhân tài của triều đình"10. Các tiến sĩ được nhà nước trọng vọng, tôn vinh và ban cho nhiều ân điển như: Vua ban yến tiệc, mũ áo, làm bảng vàng treo ở cửa Đông Hoa; cấp cho ngựa tốt về quê vinh quy bái tổ... Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, vua Lê Thái Tông là người khởi xướng việc dựng bia tiến sĩ, sang đời vua Lê Thánh Tông, năm Hồng Đức thứ 15 (Giáp Thìn - 1484) việc dựng bia bắt đầu được thực hiện và trở thành định lệ. Trong tấm bia ghi tên tiến sĩ khoa thi Nhâm Tuất (1442) - năm Đại Bảo thứ ba do Thân Nhân Trung soạn, ghi rõ: "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp. Vì vậy, các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên"11.Điều này càng cho thấy "việc học được triều Lê Sơ rất chú trọng". Chế độ giáo dục thi cử thời Lê Sơ đã đào tạo ra một đội ngũ quan lại đông đảo đáp ứng yêu cầu của bộ máy hành chính nhà nước quân chủ phong kiến, đồng thời cũng sản sinh ra nhiều tài năng trên các lĩnh vực văn học, sử học, toán học làm rạng danh nền văn hiến nước nhà. Văn học chữ Hán vẫn chiếm ưu thế. Lực lượng sáng tác văn học chủ yếu vẫn là các nho sĩ, quan lại. Nội dung các tác phẩm có nhiều xu hướng khác nhau nhưng nhìn chung đều phản ánh khí thế vươn lên của tầng lớp nho sĩ, bộc lộ ý thức tự cường quốc gia mạnh mẽ, đồng thời phản ánh địa vị thống trị của Nho giáo. Có nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng ra đời trong thời kỳ này như: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Quỳnh uyển cửu ca, Phú núi Chí Linh, Phú Xương giang, Phú Lam Sơn.... Bên cạnh văn học chữ Hán chiếm ưu thế, văn học chữ Nôm thời Lê Sơ cũng có một vị trí quan trọng trên văn đàn với nhiều tác phẩm có giá trị. Tiêu biểu là bộ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi gồm 254 bài thơ ca ngợi cảnh đẹp của đất nước, phản ánh lòng tự hào dân tộc hoặc bất mãn, căm ghét bọn quan lại tham nhũng. Ngoài ra còn có Hồng Đức quốc âm thi tập gồm 300 bài xướng họa của vua tôi đời Lê Thánh Tông. Về sử học, xuất hiện hai nhà sử học lớn là Phan Phu Tiên và Ngô Sĩ Liên. Năm Ất Hợi (1455), vua Lê Nhân Tông lệnh cho Phan Phu Tiên soạn bộ Đại Việt sử ký ức biên, chép tiếp bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu từ đầu thời Trần (1225) cho đến khi quân Minh rút về nước (Đinh Mùi - 1427). Năm Kỷ Hợi (1479), nhà sử học Ngô Sĩ Liên theo lệnh của vua Lê Thánh Tông biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Đây là bộ sử biên niên gồm 15 quyển chia làm hai phần là Ngoại kỷ và Bản kỷ, là một trong những bộ sử xưa nhất còn lại cho đến ngày nay. Một tác phẩm nữa có giá trị về mặt lịch sử là bộ Lam Sơn thực lục do Nguyễn Trãi viết, Lê Lợi đề tựa. Đây là một tập lịch sử ký sự ghi lại một cách súc tích quá trình phát triển của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ lúc bắt đầu cho đến khi giành thắng lợi hoàn toàn... Bên cạnh những công trình văn học, sử học, thế kỷ XV còn có một số tác phẩm phản ánh những thành tựu nghiên cứu về địa lý, y học và toán học. Sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi là tác phẩm địa lý học lịch sử đầu tiên của nước ta, kê rõ những khu vực hành chính, đặc điểm về địa thế, sản vật nghề nghiệp của từng vùng, đặc biệt là những hoạt động kinh tế hàng hoá đương thời. Ngoài ra còn có Tùng hiên văn tập của Vũ Cán, một tác phẩm đề cập nhiều về lịch sử, địa lý, sinh hoạt xã hội và An Nam bình thắng đồ của Đàm Văn Lễ, cũng là một cuốn sách có giá trị về mặt địa lý. Về y học, có cuốn Bản thảo thực vật toản yếu của Phan Phu Tiên, nghiên cứu về thuốc nam và nhấn mạnh vấn đề phòng bệnh; cuốn Bảo anh lương phương của Nguyễn Trực dạy cách giữ gìn sức khoẻ của trẻ em. Về toán học: có hai nhà toán học nổi tiếng là Lương Thế Vinh và Vũ Hữu. Về nghệ thuật: Âm nhạc tương đối phát triển, nhất là nhạc cung đình. Năm Đinh Tỵ (1437), Lương Đăng được triều đình cử chế định nhã nhạc (âm nhạc dùng trong các nghi lễ của triều đình). Tháng 6 năm Đinh Tỵ (1437), Lương Đăng định xong nhã nhạc, quy định các loại nhạc và các thứ nhạc khí dùng trong các nghi lễ của triều đình. Sang thời Lê Thánh Tông, nhà vua sai Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Lương Thế Vinh nghiên cứu âm nhạc của Trung Quốc để chế định lại lễ nhạc trong triều và lập ra bộ đồng văn để luyện tập nhạc khí và bộ Nhã nhạc để dạy ca hát bằng lời. Bấy giờ nổi tiếng nhất là bản nhạcBình Ngô phá trận, ca ngợi cuộc kháng chiến trường kỳ chống Minh thắng lợi. Bên cạnh nhạc cung đình có tính chất nghi lễ trong dân gian còn có cả một nền âm nhạc phong phú độc đáo do nhân dân sáng tạo phản ánh cuộc sống tình cảm, tinh thần đấu tranh và công cuộc lao động sản xuất của những người dân lao động. Nghệ thuật sân khấu, các lối hát tuồng và hát chèo là những hình thức biểu đạt tình cảm phổ biến của nhân dân. Năm Tân Dậu (1501), Lương Thế Vinh cho in cuốn Hý phường phả lục, đây là một tác phẩm lý luận đầu tiên của nghệ thuật chèo, trong đó những quy tắc về nghệ thuật diễn viên, về biểu diễn, múa hát trống chầu đã được tác giả tổng kết. Nghệ thuật kiến trúc điêu khắc thời Lê Sơ không còn lại nhiều. Tiêu biểu cho nền nghệ thuật và kiến trúc thời này là những di tích của điện Lam Kinh và những tấm bia đá ở Lam Sơn. Điện Lam Kinh ngày nay chỉ còn lại một số ít di tích đã bị hư hỏng nhưng vẫn cho chúng ta biết được cung điện được xây trên một khu đất hình chữ nhật dài 314m, rộng 254m, có tường thành bao bọc dày 1m. Trong số những tấm bia đá ở Lam Sơn, nổi bật nhất là bia Vĩnh Lăng cao 2,79m, rộng 1,92m, dày 0,29m, dựng trên một con rùa đá dài 3,46m, rộng l,94m. Nội dung bài văn bia do Nguyễn Trãi viết ghi lại sự tích và công đức của Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nghệ thuật điêu khắc ở nửa đầu thế kỷ XV có phần sa sút hơn thời Lý - Trần. Nhưng đến nửa sau thể kỷ, điêu khắc đã chuyển sang một phong cách mới, kỹ thuật điêu luyện, hình khối đồ sộ, chịu ảnh hưởng rõ rệt của nghệ thuật đời Minh (ví dụ, hình rồng trang trí trong cung điện gần giống hình rồng đời Minh: đầu to có sừng, râu, lông gáy dựng đứng). Như vậy, vương triều Lê Sơ trong 100 năm tồn tại (1428-1527) với những định hướng và giải pháp đáp ứng được yêu cầu của lịch sử, dân tộc, đất nước và xu thế thời đại đã nhanh chóng khắc phục những hậu quả của hơn hai mươi năm dưới ách đô hộ của phong kiến ngoại bang; thiết lập và củng cố vững chắc thể chế chính trị mới; từng bước đem lại nhiều thành tựu trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục. Đại Việt dưới thời Lê Sơ được hồi sinh và vươn lên trở thành quốc gia cường thịnh trong khu vực Đông Nam Á thời bấy giờ. Trên nền tảng chế độ phong kiến trung ương tập quyền vững mạnh, nền kinh tế có những bước phát triển mới cùng những thành tựu của văn hoá, giáo dục và xã hội tương đối ổn định, những tư tưởng quân sự của thời Lê Sơ được hình thành theo xu hướng tích cực nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra là bảo vệ nền độc lập tự chủ và chủ quyền lãnh thổ quốc gia cùng những thành quả của công cuộc dựng xây đất nước trong bối cảnh khu vực vẫn luôn có những cuộc xung đột giữa các quốc gia. II- TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ Tư tưởng quân sự thời Lê Sơ chịu ảnh hưởng sâu sắc của điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa của dân tộc ở thế kỷ XV. Nội dung tư tưởng quân sự của thời kỳ này tập trung chủ yếu vào vấn đề phòng thủ bảo vệ lãnh thổ quốc gia. Bên cạnh việc kế thừa và phát triển di sản của các vương triều trước, tư tưởng quân sự thời Lê Sơ còn được bổ sung, mở rộng những luận điểm mới trong bối cảnh đất nước có nhiều thay đổi theo xu hướng phát triển. Về cơ bản, những nội dung tư tưởng quân sự được trình bày dưới đây được hình thành trong giai đoạn hưng thịnh của vương triều Lê Sơ trong khoảng thời gian từ năm 1428 đến năm 1504, dưới các đời vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Thánh Tông và Lê Hiến Tông. 1. Kết hợp "kiến quốc" với "vệ quốc" (kết hợp xây dựng với bảo vệ đất nước) Với nguồn tài nguyên phong phú và địa chính trị, quân sự quan trọng của vùng Đông Nam Á, nước ta liên tiếp là mục tiêu thôn tính của các thế lực ngoại xâm. Kẻ thù của nhân dân ta thường là những thế lực lớn mạnh và xảo quyệt. Hoàn cảnh đó đã buộc ông cha ta ở bất cứ thời kỳ nào, triều đại nào trong quá trình dựng xây đất nước cũng luôn phải đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng thực lực để đối phó với kẻ thù, bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Vào thế kỷ XV, tuy đã đánh đổ chính quyền đô hộ nhà Minh, giành lại độc lập dân tộc, nhưng quốc gia Đại Việt vẫn luôn phải chịu nhiều áp lực chính trị và những hành động cướp phá, xâm lấn của các thế lực ngoại bang từ phía Bắc, phía Tây và phía Nam. Vì thế, cũng như các triều đại trước, vương triều Lê Sơ trong quá trình "kiến quốc" không thể không chăm lo, tăng cường tạo dựng sức mạnh giữ nước. Từ kinh nghiệm của các triều đại trước, từ thực tiễn của cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc và tình hình đất nước, khu vực đương thời, những người đứng đầu nhà nước Lê Sơ trong khi xây dựng đất nước luôn có ý thức chuẩn bị binh lực và vật lực đề phòng chiến tranh xảy ra. Triều Lê luôn chú trọng song song xây dựng, phát triển đất nước với không ngừng nâng cao sức mạnh giữ nước. Trong đó chú trọng đến phát triển kinh tế bởi kinh tế là nền tảng cho việc củng cố quốc phòng; quốc phòng mạnh để giữ yên thế nước, bảo vệ công cuộc chấn hưng, phát triển kinh tế. Do kế thừa truyền thống của các vương triều trước nên quan điểm kết hợp dựng nước với giữ nước, tức là vừa xây dựng phát triển đất nước vừa củng cố, tăng cường sức mạnh bảo vệ đất nước đã sớm hình thành ngay từ buổi đầu thành lập vương triều Lê Sơ. Trong năm đầu trị vì đất nước, trước bộn bề công việc của một dân tộc mới hồi sinh, của một đất nước vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh kéo dài hàng chục năm, mặc dù phải tập trung vào công cuộc khôi phục nền kinh tế, ổn định xã hội, phát triển đất nước trên mọi lĩnh vực, Lê Thái Tổ vẫn không quên chú ý đến việc giữ nước. Ông lệnh cho các quan lại triều đình luôn phải vừa chăm lo phát triển sản xuất vừa chú ý đến việc quân. Tháng 9 năm Kỷ Dậu (1429), vua Lê Thái Tổ ra chỉ lệnh: "Đại thần văn võ, trăm quan các ngươi hãy chăm việc nông trang, chỉnh đốn quân ngũ, sửa sang chiến khí, thuyền bè"12. Ước muốn quốc gia trường tồn là điều Lê Thái Tổ luôn trăn trở, bằng thực tế của những năm trị vì đất nước, ông đã đúc kết và định thành một kế sách để lại cho con cháu là: "Phải nghĩ giữ nước từ lúc nước chưa nguy"13. Tức là ngay trong khi đất nước thái bình, yên vui, không được lơ là đối với sự nghiệp chăm lo, củng cố sức mạnh để bảo vệ quốc gia, dân tộc. Nguyễn Trãi, người luôn sát cánh cùng Lê Lợi trong sự nghiệp giải phóng đất nước, khi vương triều Lê Sơ thành lập, ông là một trong những trọng thần, cũng có chung quan điểm với Lê Thái Tổ. Trong bài thơ "Quan duyệt thủy trận" (Xem duyệt thủy trận), ông viết: "Bắc hải đương niên dĩ lục kình Yến an do lự cật nhung binh"14 (Biển Bắc năm ấy đã giết cá kình Yên ổn rồi nhưng vẫn phải lo rèn luyện việc quân). Nguyễn Trãi muốn nhắc nhở người đương thời: mặc dù ta đã đánh được "cá kình" (ám chỉ quân xâm lược Minh) rồi nhưng đâu phải "Biển Bắc" đã hết "cá kình", cho nên hãy luôn đề cao cảnh giác. Kế tục sự nghiệp Lê Thái Tổ, các vua kế nhiệm đều vừa tập trung xây dựng, phát triển đất nước, vừa chú trọng đến tăng cường tiềm lực quốc phòng để giữ vững độc lập dân tộc và bảo vệ chủ quyền quốc gia, vương triều. Trong một thế kỷ khôi phục và dựng xây đất nước, tư tưởng kết hợp "kiến quốc" với "vệ quốc" được biểu hiện qua những chính sách của nhà nước Lê Sơ trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, tập trung hơn cả ở các chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp như: "lập đồn điền", "ngụ binh ư nông", việc chăm lo củng cố, phát triển các công trình giao thông, thuỷ lợi. Những chính sách này thể hiện rất rõ sự gắn kết kinh tế với quốc phòng, mối quan hệ chặt chẽ giữa "nông" với "binh", xây dựng phát triển lực lượng quân đội với bảo đảm nhân lực cho sản xuất nông nghiệp. Đồn điền là nơi đóng quân (đồn binh) đồng thời cũng là một cơ sở sản xuất nông nghiệp. Đây là một phương thức kết hợp kinh tế với quốc phòng. Thời bình, kinh tế là hoạt động chính của đồn điền; khi có chiến sự, hoạt động quân sự là hàng đầu. Lúc hoà bình, dân đồn điền là nông dân sản xuất, khi chiến tranh họ là những người lính xung trận. Tuy nhiên, trong quá trình vận động và phát triển của các đồn điền, hai mục đích trên luôn đan xen, kết hợp cùng nhau. Lập đồn điền đã được thực hiện dưới thời nhà Trần, năm 1344 triều đình cho đặt chức quan Đồn điền sứ và Đồn điền phó sứ ở ty Khuyến nông để chuyên lo việc mộ dân khai hoang. Dưới thời Lê Sơ, trong quá trình phục hồi và phát triển kinh tế nông nghiệp, trước yêu cầu cần phải thanh toán tình trạng đất bỏ hoang và mở rộng diện tích đất trồng trọt, một số viên quan đề nghị triều đình cho thành lập các đồn điền nhằm mục đích vừa phát triển sản xuất, vừa củng cố bảo vệ các vùng biên giới. Năm Nhâm Ngọ (1462), Tham tri Hải Tây đạo là Hoàng Thanh dâng sớ lên triều đình đề nghị 7 điều, trong đó có điều thứ 7 là "cho lập đồn điền để tích lũy đầy đủ chốn biên phòng"15. Năm Đinh Hợi (1467), Tham nghị Hoá Châu là Đặng Thiếp dâng sớ trình bày 5 điều, điều thứ 5 đề nghị: "Chiêu mộ những kẻ lưu vong đến khi khi ruộng hoang ở châu Bố Chính"16. Những đề nghị này đều được vua và triều đình chấp nhận và dần trở thành một chính sách khẩn hoang tương đối quy mô của nhà nước Lê Sơ. Tháng 5 năm Tân Sửu (1481), Lê Thánh Tông ban chiếu cho lập các sở đồn điền trong cả nước. Chiếu nêu rõ: "Mở đồn điền là để dùng hết tiềm lực của nghề nông, mở nguồn tích trữ cho nhà nước. Nay lệnh cho các xứ định đồn điền thành ba bậc: thượng, trung, hạ"17. Với chiếu chỉ này, lập đồn điền đã trở thành chủ trương lớn của nhà nước, nhằm mục đích tăng cường diện tích đất trồng trọt, giải quyết tình trạng thiếu ruộng, ổn định xã hội, tăng cường nguồn thu cho quốc gia. Chủ trương lập đồn điền được cả nhà vua cùng quan lại các cấp của nhà Lê coi trọng và xem đây là một trong những biện pháp thiết yếu nhằm vừa phát triển kinh tế, vừa nâng cao tiềm lực quốc phòng dưới thời Lê Sơ. Thời Lê Thánh Tông đã thành lập được 43 sở đồn điền trong cả nước: vùng Bắc Bộ (ngày nay) có 30 sở; Thanh Hoá có 5 sở; Nghệ An có 4 sở; Thuận Hoá có 2 sở; Quảng Nam có 2 sở. Các đồn điền được chia thành ba hạng: thượng, trung, hạ tuỳ theo quy mô. Quản lý mỗi đồn điền có chức Chánh đồn điền sứ và Phó đồn điền sứ. Các quan Chánh, Phó đồn điền sứ có nhiệm vụ trông coi công cuộc khẩn hoang và mở mang đồn điền, phân phối ruộng đất và thu tô cho nhà nước. Bộ máy quản lý này trực thuộc triều đình trung ương. Nhân lực khai phá lập đồn điền chủ yếu là tù binh và tội nhân được tổ chức thành đội ngũ gọi là đồn điền binh. Lực lượng này khai phá đất hoang thành đồng ruộng để canh tác và thành lập các xóm làng để định cư. Ruộng đất đồn điền thuộc quyền sở hữu của nhà nước sản phẩm lao động, trừ chi phí sản xuất đều nhập vào kho nhà nước. Vùng đất phía Nam tiếp giáp với Chiêm Thành là nơi còn nhiều ruộng đất hoang chưa khai phá, đây cũng là vùng đất trọng yếu của đất nước, luôn xảy ra các cuộc xâm lấn cướp phá của quốc gia láng giềng nên được nhà Lê luôn chú ý và thường cử những người thân tín, trấn giữ. Sử cũ chép: "Hóa Châu gần kề Chiêm Thành nên phải sai bầy tôi họ thân đi trấn thủ, vỗ về để phòng giữ đất ấy"18. Năm Canh Tuất (1430), vua Lê Thái Tổ bổ nhiệm Lê Khôi làm Hành quân tổng quản vào trấn giữ Hoá Châu. Sau khi đến Hoá Châu, Lê Khôi đã "chiêu tập dân xiêu tán, khuyên cấy ruộng trồng dâu, luyện tập sĩ tốt, giữ vững bờ cõi"19. Việc lập đồn điền ở đây nhằm triển khai công việc di dân, chiếm giữ đất đai, gia tăng lực lượng lao động xây dựng cơ sở kinh tế tại chỗ, đồng thời tăng cường thêm khả năng phòng thủ ở những vùng đất này. Như vậy, lập đồn điền không chỉ nhằm mở rộng diện tích canh tác nông nghiệp, giải quyết tình trạng bỏ đất hoang, tăng nguồn thu cho nhà nước, mà còn đồng thời bảo đảm nguồn quân lương tại chỗ cho miền biên viễn, tăng cường các đồn trạm tiền tiêu, bảo vệ đất nước. Lập đồn điền là một trong những nội dung được thực thi nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định đời sống nhân dân, đồng thời tạo dựng được một hệ thống đồn điền - góp phần xây dựng vùng biên giới thành phên dậu vững chắc để bảo vệ chủ quyền an ninh đất nước. Đó là sự thể hiện rõ nét quan điểm kết hợp "kiến quốc" (phát triển kinh tế với "vệ quốc" (phòng thủ bảo vệ đất nước) dưới triều Lê Sơ. Lập đồn điền có tác dụng thiết thực đối với vấn đề nâng cao sức mạnh quốc phòng đồng thời với phát triển kinh tế nên không chỉ được thực thi dưới thời Lê Sơ mà còn được tiếp tục dưới các triều đại phong kiến sau đó ở nước ta. "Ngụ binh ư nông" (tức gửi lính ở nhà nông) là một quốc sách ra đời dưới triều Lý, được mở rộng thực hiện dưới triều Trần và Lê Sơ. Đây là một phương thức xây dựng lực lượng vũ trang kết hợp kinh tế với quốc phòng vừa đảm bảo được lực lượng thường trực chiến đấu mà không ảnh hưởng đến lực lượng sản xuất, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất chi phí dành cho quốc phòng. Thực chất của "ngụ binh ư nông" là vấn đề sử dụng nhân lực trong việc xây dựng lực lượng vũ trang kết hợp với phát triển kinh tế, gắn "binh" với "nông". Phương sách này đã có tác dụng thiết thực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước dưới thời Lý - Trần. Việc thực thi "ngụ binh ư nông" xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh nước ta là một quốc gia nông nghiệp. Kinh tế nông nghiệp với cư dân là nông dân chiếm chủ yếu trong hoạt động sản xuất cũng như thành phần xã hội của các nhà nước phong kiến Việt Nam; từ yêu cầu về xây dựng lực lượng vũ trang, tăng cường tiềm lực quốc phòng trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta; nảy sinh từ tương quan lực lượng giữa dân tộc ta với các thế lực ngoại xâm hùng mạnh trong các cuộc chiến tranh giữ nước dưới các triều đại phong kiến độc lập. Trải qua cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài hàng chục năm, triều đình Lê Sơ đã có những bài học sâu sắc về tạo dựng nguồn sức mạnh từ trong dân để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Công cuộc xây dựng đất nước trong thời bình cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải có lương nhiều, binh mạnh mới tạo dựng được tiềm lực quốc phòng mạnh để giữ nước. Xây dựng đất nước trong điều kiện sau nhiều năm chiến tranh, nền kinh tế bị kiệt quệ, đời sống nhân dân khốn khó, công việc cấp thiết đặt ra với nhà nước Lê Sơ là nhanh chóng ổn định đời sống nhân dân, tập trung nhân lực cho sản xuất, phát triển kinh tế. Công cuộc giữ vững nền độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia trước những âm mưu của các thế lực thù địch cũng đòi hỏi cần phải có lực lượng mạnh. Nhằm giải quyết những vấn đề trên, triều đình Lê Sơ kế thừa kinh nghiệm của các vương triều trước thực thi chính sách "ngụ binh ư nông". Nội dung cơ bản của chính sách "ngụ binh ư nông" là chế độ binh dịch đối với tất cả đinh tráng và chế độ binh lính chia phiên về sản xuất. Việc binh lính chia phiên về sản xuất ở thời Lê Sơ có những điểm khác so với các triều đại trước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết, ngày 21 tháng 2 năm Thuận Thiên thứ hai (Kỷ Dậu - 1429), vua Lê Thái Tổ chỉ dụ cho tướng hiệu quân nhân các vệ và quân 5 đạo: "Hạn đến ngày 27 thì tập trận thuỷ bộ, ai vắng mặt sẽ bị trị tội. Tập xong rồi, đều chia ra 5 phiên, 1 phiêu lưu lại quân ngũ và 4 phiên chia về làm ruộng"20. Tháng 5 năm Mậu Thìn (1448), trước tình hình mấy năm liền bị hạn hán và sâu cắn lúa, từ nhà nước đến tư gia đều túng thiếu, lương cấp cho vệ sĩ không đủ, Lê Nhân Tông bèn chỉ dụ cho Quản lĩnh Ngự Tiền Vũ đội (đội quân túc vệ, có chức quản lĩnh đứng đầu) rằng: "Bọn các ngươi từ thời Thái Tổ đến giờ giữ phận túc trực mãi mãi, không được nhìn đến cửa nhà. Nay thiên hạ vô sự, nên chia ra làm ba phiên thay nhau túc trực, để được về thăm cha mẹ"21. Tháng chạp năm (1465), Lê Thánh Tông trong lời dụ các tổng quản, tổng tri (phụ trách các vệ quân 5 đạo và các quân trấn phủ) nêu rõ: "cứ ngày rằm hằng tháng, thì vào phiên để điểm mục". Tức là hằng tháng vào ngày rằm (15 âm lịch), quân 5 đạo và quân các phủ trấn (về sau đổi thành quân Ngũ phủ và quân các Đô ty) vào phiên để điểm mục. Tháng 6 năm Bính Dần (1446), Thái bộc tự thiếu khanh Lê Đình Tuấn tâu rằng: Vào kỳ tháng 5, tháng 6 đương là mùa làm ruộng, các quân nhân ứng dịch ở thường ban thì cho ở lại túc trực và làm các việc giữ cửa, coi nhà, canh điếm, lợp nhà, cắt cỏ, nuôi voi, còn các sắc quân ở các sảnh viện và những thợ ở cục bách tác thì giữ lại một nửa làm việc, còn thì cho về làm ruộng. Lời tâu này được nhà vua chuẩn y. Theo đó, trong hai tháng 5 và 6 của mỗi năm, quân phục dịch ở các sảnh, viện và thợ cục bách tác được chia làm hai phiên: một phiên ở lại làm việc, một phiên cho về sản xuất. Năm Kỷ Sửu (1469), vua Lê Thánh Tông ban sắc chỉ cho các vệ, ty Thần vũ, Du nỗ, Thần tý, Vũ lâm (thuộc Cấm quân) mỗi khi đến phiên túc trực, thì thay ban nhau mà chuyên tập võ nghệ, và sắc chỉ cho các vệ thuộc Ngũ uy (quân ngũ phủ) cùng các sở súng nỏ ngoại vệ (quân đô ty): liệu định số người để canh giữ các nơi, còn thì đều chuyên tập luyện võ nghệ. Năm Canh Tuất (1490), theo như định lệ hằng năm, nhà vua hội họp các quân điểm mục xong cho về, thay phiên nhau ở lại canh giữ. Các chính sách quy định ở thời Lê Thánh Tông vẫn tiếp tục được thực hiện dưới thời Lê Hiến Tông (1498-1504). Tháng 10 năm Mậu Ngọ (1498), theo đề nghị của Lễ bộ thượng thư Vũ Hữu, nhà vua đồng ý cho cả những người đầu bếp ở Thái quan thụ "cứ đến tháng 6, tháng 10 thì nhất luật chia cho về làm ruộng"22. Những sự kiện trên cho thấy ở thời Lê Sơ, việc chia phiên cho quân lính về làm ruộng được mở rộng hơn và tiến hành thường xuyên có quy củ hơn so với các triều đại trước. Về diện chia phiên: đời Lê Thái Tổ việc chia phiên được thực hiện từ 6 quân Ngự tiền cho tới quân các đạo, các phủ, trấn. Đời Lê Nhân Tông, thêm quân Ngự tiền Vũ đội. Đến đời Lê Thánh Tông lại thêm cả các vệ, ty cấm quân như Thần vũ, Du nỗ, Thần tý, Vũ lâm... Về cách chia phiên: đời Lê Thái Tổ, quân lính được chia làm 5 phiên, một phiên tại ngũ canh phòng và luyện tập còn 4 phiên trở về sản xuất. Đời Lê Nhân Tông, quân Ngự tiền Vũ đội chia ra làm 3 phiên, một phiên tại ngũ canh phòng và luyện tập, còn 2 phiên trở về sản xuất (thời gian mỗi lần thay phiên thế nào không rõ). Cách chia phiên dưới đời Lê Thánh Tông là: Vào ngày rằm hằng tháng, ngoại binh lên phiên để điểm mục rồi canh phòng và luyện tập; những quân nhân làm việc ở các sảnh, viện, cục và những thợ làm việc trong quân ngũ đến ngày mùa (tháng 5, 6 và tháng 9, 10 âm lịch) đều được chia làm hai, một nửa ở lại túc trực, một nửa trở về nhà gặt hái, cứ thế mà luân chuyển nhau. Đời Lê Hiến Tông, việc chia phiên cũng theo lệ như trước. Việc chia phiên về sản xuất nhằm vừa tăng cường lực lượng lao động cho nông nghiệp, đồng thời vẫn đảm bảo số quân thường trực tại ngũ và luôn có một lực lượng dự bị đông đảo, đáp ứng kịp thời mỗi khi triều đình cần huy động lực lượng. Hiệu quả thiết thực của chính sách "ngụ binh ư nông" được thể hiện rõ trong những lần động binh lớn của triều đình. Do cần phải tập trung nhân lực cho công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế nên số quân thường trực tại ngũ của triều Lê Sơ không đông lắm (thời Lê Thái Tổ có 10 vạn quân; thời Lê Thánh Tông có khoảng 16 vạn quân) nhưng khi có chiến sự, triều đình vẫn có thể "tận dân vi binh", nên có được số quân cần thiết theo yêu cầu. Năm Giáp Tý (1444), người Chămpa vào cướp Hoá Châu, Lê Nhân Tông lệnh cho Thái bảo Lê Bôi và Tổng quản Lê Khả đem 10 vạn quân đi đánh. Tháng 8 năm Canh Dần (1470), Chămpa lại cho quân đánh vào Hoá Châu, tin cấp báo về triều đình, tháng 9 vua Lê Thánh Tông ra lệnh tuyển quân, huy động được 26 vạn. Ngày 6-10, vua thân chinh dẫn quân đi đánh. Hơn hai mươi vạn quân đã được huy động chỉ trong vòng hơn một tháng. Năm Kỷ Hợi (1479), vua Lê Thánh Tông sai các tướng đem 18 vạn quân đánh đuổi quân Ai Lao, Bồn Man, Lão Qua xâm phạm biên giới phía tây. Năm Canh Tý (1480), Lê Thánh Tông huy động 30 vạn quân chinh phạt tù trưởng Cầm Công ở vùng Tây Bắc. Trong những lần xuất quân kể trên, số quân được huy động thường nhiều hơn số quân thường trực tại ngũ. Mặc dù phải huy động số lượng lớn, nhưng chỉ trong thời gian ngắn triều đình đã có đủ số quân. Không thể huy động một lực lượng quân lớn như vậy nếu như không có một nguồn binh lực đông đảo, rộng khắp, một chính sách quản lý nhân đinh chặt chẽ của chính sách "ngụ binh ư nông". "Ngụ binh ư nông" đã đảm bảo cho nhà nước có một lực lượng quân dự bị đông đảo nhưng lực lượng sản xuất không bị ảnh hưởng và cũng không quá tốn chi phí cho quốc phòng, nhà nước vẫn có một lực lượng vũ trang mạnh làm tốt nhiệm vụ bảo vệ quốc gia. Theo Phan Huy Chú thì đây là một "phép hay của thời cận cổ", là một phương thức xây dựng lực lượng vũ trang phòng giữ đất nước độc đáo của ông cha ta. Chính sách này xuất hiện ở thời Lý, được tiếp tục duy trì ở thời Trần, đến thời Lê Sơ được phát triển đến mức hoàn bị. Với chế độ binh dịch đối với tất cả đinh tráng (dân đinh đến tuổi trưởng thành đều được đặt trong quân ngũ: hoặc quân thường trực, hoặc quân dự bị), nhà nước có được số quân thường trực cần thiết, đồng thời lại có sẵn số quân dự bị đông đảo nằm trong các làng xã, sẵn sàng nhập ngũ khi đất nước lâm nguy, giảm được chi phí của nhà nước cho quân đội. Với chế độ quân lính chia phiên về sản xuất, quân lính vừa được thường xuyên luyện tập quân sự để sẵn sàng chiến đấu vừa có thời gian tham gia sản xuất nông nghiệp góp phần phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh đó, dưới triều Lê Sơ, các công trình thuỷ lợi được chú trọng phát triển, nhằm bảo đảm tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp, đồng thời đáp ứng cho nhu cầu giao thông vận tải của đất nước. Năm Ất Mão (1435), vua Lê Thái Tông "lệnh cho vệ quân các đạo và năm quân Thiết đột vét sông Đông Ngàn"23. Đây là đoạn đầu sông Đường, tiếp giáp với sông Hồng, là con đường thuỷ quan trọng nối liền Kinh đô với các trấn miền đông và đông bắc nước ta ở thời đó. Năm Mậu Ngọ (1438), nhà vua lại sai dân bốn đạo đào các kênh ở Trường Yên, Thanh Hoá, Nghệ An. Năm Kỷ Tỵ (1449), vua Lê Nhân Tông "sai Tư khấu Lê Khắc Phục đem người của các cục Bách tác, quân vệ Thiên Quan, Tứ Sương và quân dân trấn Thái Nguyên đào lại sông Bình Lỗ, đoạn từ bãi Lãnh Canh đến cầu Phù Lỗ dài 2.500 trượng (khoảng 10 km) thông với Bình Than để tiện đi lại trong trấn Thái Nguyên"24. Năm Đinh Hợi (1467), vua Lê Thánh Tông cho khai thông lại các kênh ở Thanh Hóa, Nghệ An. Hệ thống kênh đào này kết hợp với sông ngòi tự nhiên tạo thành một mạng lưới giao thông đường thủy ven biển đã phát huy nhiều tác dụng trong phát triển kinh tế, đời sống xã hội và trong việc vận chuyển quân sự. Những công trình thuỷ lợi tương đối quy mô của nhà nước Lê Sơ và phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế đất nước đồng thời kết hợp với việc phục vụ nhiệm vụ quốc phòng. Vậy là, "lập đồn điền", "ngụ binh ư nông" là những chính sách lớn được nhà nước Lê Sơ thực thi nhằm vừa tiến hành xây dựng, phát triển kinh tế, vừa củng cố, tăng cường lực lượng và khả năng phòng thủ đất nước. Đây chính là những nội dung rất quan trọng thể hiện tư tưởng kết hợp "kiến quốc" với "vệ quốc" nhằm thực hiện "quốc phú binh cường" của triều đại Lê Sơ. Ngay từ buổi đầu dựng nước, trong điều kiện luôn phải đối phó với các thế lực ngoại xâm, nhân dân ta đã sớm có nhận thức cần phải kết hợp dựng nước với giữ nước. Trải qua các triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, nhận thức đó càng trở nên sâu sắc, trở thành một trong những tư tưởng chỉ đạo luôn được các vương triều quan tâm. Đến thế kỷ XV, mặc dù tồn tại trong điều kiện tương đối hòa bình, triều đại Lê Sơ vẫn tiếp tục kế thừa và phát triển quan điểm kết hợp dựng nước với giữ nước. Quan điểm đó được biểu hiện trên nhiều chính sách và hoạt động của nhà nước, đem lại hiệu quả thiết thực: Đại Việt dưới thời Lê Sơ là một quốc gia phát triển trên nhiều phương diện, có một tiềm lực quốc phòng mạnh để bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ quốc gia. 2. Xây dựng quân đội tập trung thống nhất, hùng mạnh để giữ nước Nhà nước phong kiến thời Lê Sơ đang ở thời kỳ phát triển, quân đội vừa là công cụ thống trị của nhà nước, đồng thời cũng là lực lượng nòng cốt trong việc củng cố quốc phòng, bảo vệ nền độc lập tự chủ và bảo toàn, mở rộng lãnh thổ quốc gia. Đại Việt vừa trải qua nhiều năm tháng chiến tranh và đang bước vào thời kỳ xây dựng một thể chế mới trong hoàn cảnh các thế lực bên ngoài chưa từ bỏ âm mưu xâm chiếm. Thực tiễn của công cuộc giữ vững, ổn định trật tự xã hội và bảo toàn biên cương lãnh thổ yêu cầu nhà nước luôn cần phải có một lực lượng quân sự mạnh. Trong quá trình đánh đổ ách đô hộ nhà Minh, giải phóng đất nước, những lãnh tụ của quân khởi nghĩa - sau trở thành những người đứng đầu nhà nước Lê Sơ, đã gây dựng và phát triển được 35 vạn quân. Đạo quân này đã làm nên thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Sau khi đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, đất nước bước vào thời kỳ mới - thời kỳ khôi phục, xây dựng quốc gia phong kiến độc lập tự chủ. Trước yêu cầu cần phải tập trung nhân lực cho công cuộc dựng nước, Lê Thái Tổ cho giảm bớt số quân thường trực. Trong tổng số 35 vạn quân, ông cho 25 vạn về nhà làm ruộng, chỉ để lại 10 vạn "để đề phòng việc nước"25. Mặc dù đất nước đã hòa bình, công cuộc phục hồi phát triển đất nước sau chiến tranh đang rất cần sức lao động nhưng người đứng đầu quốc gia hiểu rất rõ rằng kẻ thù không thể nào quên được nỗi nhục thất bại, mộng xâm lăng Đại Việt lần nữa của chúng rất dễ xảy ra. Với tinh thần cảnh giác, ông vẫn lưu giữ một số lượng quân không nhỏ so với số nhân đinh khi ấy (thời Lê Thái Tổ cả nước có 700.910 suất đinh) và xác định giữ nước là trọng trách của lực lượng quân đội. Dưới các đời vua kế tiếp, vai trò, vị trí của quân đội trong sự nghiệp bảo vệ quốc gia càng được khẳng định. Năm Canh Thìn (1460), Lê Thánh Tông lên nắm quyền trị vì đất nước sau khi triều đình vừa trải qua những xung đột (cuối năm Kỷ Mão 1459), Lạng Sơn vương Nghi dân đang đêm lẻn vào cung cấm giết chết vua Lê Nhân Tông và Hoàng Thái hậu, tự lên ngôi Hoàng đế, tháng 6 năm Canh Thìn (1460), các đại thần trung nghĩa đứng đầu là Nguyễn Xí, Đinh Liệt giáng Nghi Dân làm Lệ Đức hầu và đưa Tư Thành lên làm vua - tức vua Lê Thánh Tông). Trong hoàn cảnh đó, để lập lại kỷ cương quốc gia, tạo lập sự ổn định chính trị nhằm đẩy mạnh sự nghiệp phục hưng dân tộc, một tháng sau khi lên ngôi - tháng 7- 1460, trong sắc chỉ gửi cho năm đạo quân và các phủ, trấn, vua Lê Thánh Tông khẳng định: "Có quốc gia là phải có võ bị"26. Đến tháng 11 năm Ất Dậu (1465), một lần nữa Lê Thánh Tông nhắc lại quan điểm của mình: "Hễ có quốc gia là phải có võ bị"27. Theo thống kê chưa thật đầy đủ, trong 38 năm trị vì, vua Lê Thánh Tông có 37 chỉ, dụ, chiếu đề cập đến vấn đề quốc phòng, trong đó có tới 28 chỉ, dụ, chiếu về xây dựng, tổ chức quân đội. Trong một số bài thơ tự sáng tác, tư tưởng chăm lo đến quân đội của Lê Thánh Tông cũng được thể hiện. Lê Thánh Tông cho rằng chăm lo võ bị là nhiệm vụ, là trách nhiệm của người đứng đầu đất nước. Ông cho rằng một trong những nhiệm vụ của người làm vua là phải:"Chăm lo hỏi han việc võ bị, coi trọng tướng quyền" (Bài thơ ngự chế: Đạo làm vua)28. Hơn thế nữa, Lê Thánh Tông luôn mong muốn vương triều có đạo quân hùng mạnh, trong bài thơ Khải hành thi, ông viết: "Cờ xí rợp bay như ráng đỏ ôm quanh mặt trời, chiến thuyền ngàn dặm tựa mây đùn buổi sớm"29 hàng chục vạn quân có thể "một sớm cưỡi thuyền lầu vượt quan biển lớn, cờ trận bay phần phật..." để sẵn sàng "đánh kẻ có tội, cứu vớt dân lành, ấy là quân của các bậc đế vương"30. Không chỉ những người đứng đầu quốc gia mà những viên quan có trách nhiệm của triều đình Lê Sơ cũng có quan điểm coi việc binh là việc hàng đầu của triều đình. Hoàng Thanh, một viên quan trải bốn đời vua Lê, từng giữ chức Nội Mật viện, năm Nhâm Ngọ (1462), nhân dịp vua ban chiếu cầu lời nói thẳng, ông dâng sớ lên triều đình đề nghị 7 điểm trong đó có 2 điểm đề cập đến việc quân. Đó là: "tiết kiệm của dùng để chi cho binh phí và thường xuyên huấn luyện để nghiêm võ bị"31. Theo ông, đó là những điều cần kíp, thiết thực cho việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Bản tấu nhận được sự đồng thuận của triều đình. Để giữ nghiêm phép nước, việc quân, trong luật pháp của nhà Lê có những điều khoản riêng dành cho võ quan và binh lính. Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức) có hẳn một chương quy định về các việc trong quân đội - chương Quân chính với 43 điều. Những nhận thức về vai trò, vị trí của quân đội đối với quốc gia và triều đình được bắt nguồn từ hoàn cảnh, điều kiện của đất nước và vương triều khi ấy là luôn phải đối phó với những hành động chống đối của thù trong giặc ngoài. Sau khi thiết lập vương triều, trong những thập niên đầu, đế chế Minh luôn hạch sách, quấy nhiễu, bắt nhà Lê phải đáp ứng nhiều đòi hỏi vô lý, phong kiến Minh luôn có mưu đồ thiết lập trở lại quyền thống trị Đại Việt. Tại các vùng biên cương, một số tù trưởng có ý đồ cát cứ. Nội bộ triều đình cũng xảy ra những cuộc tranh giành quyền lực. Giải quyết những vấn đề trên không thể không cần đến lực lượng quân sự mạnh. Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của lực lượng quân đội trong dựng nước cũng như giữ nước, các vua triều Lê Sơ càng chú trọng đến xây dựng, phát triển mọi mặt để có được một quân đội hùng mạnh. Quan điểm về xây dựng một quân đội tập trung, thống nhất và thiện chiến được thể hiện rõ qua những biện pháp xây dựng quân đội của nhà Lê. Đó là: - Lực lượng quân đội được tổ chức thống nhất, tập trung. Cùng với quá trình xây dựng một chính quyền trung ương tập quyền, lực lượng quân đội cũng được nhà Lê tổ chức lại. Dưới triều Lê không có một lực lượng vũ trang nào khác ngoài lực lượng quân đội do triều đình trực tiếp quản lý. Sau khi lên ngôi, với 10 vạn quân thường trực giữ lại, Lê Thái Tổ chia làm hai loại: quân Cấm vệ và quân Các đạo. Quân Cấm vệ được chia thành 11 quân gồm có 6 quân Ngự tiền và 5 quân Thiết đột. Quân Ngự tiền đóng ở Kinh thành có nhiệm vụ bảo vệ nhà vua và Hoàng thành. Quân Thiết đột làm nhiệm vụ bảo vệ Kinh thành và cơ động chiến đấu. Ngoài ra còn có một số vệ, đội thuỷ binh, tượng binh, kỵ binh. Quân các đạo đóng giữ ở các địa phương được chia thành các vệ theo 5 đạo hành chính: Đông, Tây, Nam, Bắc và Hải Tây. Đứng đầu vệ là các chức Tổng quản, Đô tổng quản, Đồng tổng quản chỉ huy. Dưới vệ là các đơn vị sở, đội, ngũ. Đứng đầu đội là chức chánh, phó đội trưởng; đứng đầu ngũ là chức chánh phó ngũ trưởng. Dưới các triều vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lê Nghi Dân hệ thống tổ chức quân sự được củng cố thêm một bước. Đến triều vua Lê Thánh Tông (1460-1497), cùng với việc thực hiện công cuộc cải cách hành chính chia cả nước thành 13 đạo, tổ chức quân đội cũng được cải tổ một cách toàn diện tạo thành một quân đội thống nhất, với hệ thống tổ chức chặt chẽ có quy củ. Sau gần một tháng cầm quyền, vua Lê Thánh Tông đã ra sắc chỉ cho vệ quân các đạo, phủ, trấn, các tổng quản, tổng tri phải chỉnh đốn đội ngũ. Năm Bính Tuất (1466), Lê Thánh Tông tiến hành cuộc cải cách toàn diện quân đội với mục đích làm cho quân đội gọn nhẹ nhưng tinh nhuệ, có quân thường trực tại ngũ mạnh và có lực lượng dự bị đông đảo để huy động khi cần thiết. Lực lượng quân đội được chia thành hai bộ phận: quân triều đình và quân các địa phương. Quân triều đình gồm có quân Cấm binh (còn gọi là Cấm vệ quân) và quân Ngũ phủ. Chế độ quân 5 đạo tồn tại từ thời Lê Thái Tổ đến thời Lê Nhân Tông, nay bị bãi bỏ. Cấm binh là lực lượng bảo vệ Kinh thành và Hoàng cung, được chia thành các vệ, sở. Năm Đinh Hợi (1467), Lê Thánh Tông quy định mỗi vệ có 5 sở, mỗi sở gồm 20 đội, mỗi đội có 20 người. Tổng số quân Cấm vệ dưới thời Lê Thánh Tông có khoảng 45.400 người. Quân Ngũ phủ là một bộ phận quan trọng của quân đội do triều đình trực tiếp quản lý, thường trực đóng giữ trên các địa bàn trọng yếu của đất nước. Lê Thánh Tông không phân chia lực lượng này theo đơn vị hành chính mà chia binh thành các phủ. Các phủ quân dưới thời Lê Thánh Tông lớn hơn các đạo trước kia, bao gồm 2 hoặc 3 đơn vị hành chính: + Phủ Trung quân gồm Thanh Hoá, Nghệ An. + Phủ Đông quân gồm Nam Sách, An Bang. + Phủ Nam quân gồm Thiên Trường và Thuận Hoá. + Phủ Tây quân gồm Quốc Oai, Thanh Hóa. + Phủ Bắc quân gồm Bắc Giang và Lạng Sơn. Dưới phủ là vệ, sở, ty, đội. Mỗi phủ gồm 6 vệ, mỗi vệ gồm 5 hoặc 6 sở. Mỗi phủ đặt một Đô đốc phủ thống suất gồm có các chức Tả, Hữu đô đốc, Đô đốc đồng tri và Đô đốc thiêm sự đóng ở Kinh đô. Đứng đầu mỗi vệ có các chức Tổng tri, Đồng tổng tri, Thiêm tổng tri. Đứng đầu mỗi sở là chức Quản lãnh, Phó quản lãnh. Nhận xét về tổ chức quân Ngũ phủ, sử gia Phan Huy Chú viết: "Binh chế đời Hồng Đức, đại lược ngoài Cấm Binh ra thì binh các đạo chia thành 5 phủ chức Đô đốc đứng đầu nắm đại cương, các đô ty đốc suất các bộ thuộc, mà các vệ, các sở thì ở đạo nào chia thuộc vào đạo ấy"32. Quân số ở mỗi cấp cũng được quy định thống nhất. Mỗi ty có 100 người, mỗi sở có 400 người, chia thành 20 đội mỗi đội 20 người. TheoThiên Nam dư hạ tập, năm Đinh Hợi (1467), ngoại binh có 154 sở gồm 61.600 người và số Thân binh trong kinh là 66 ty và 51 vệ; số quân các đạo Thừa tuyên là 26 vệ. Tại các đạo Thừa tuyên, nhà Lê đều tổ chức những đạo quân đóng giữ và quản lãnh trong phạm vi Thừa tuyên đó. Quyền nắm giữ quân đội ở các đạo Thừa tuyên thuộc về Đô ty. Mỗi Đô ty có Đô tổng binh sứ đứng đầu, dưới có các quan Tổng binh đồng tri và Tổng binh thiêm sự giúp việc Như vậy, đến triều vua Lê Thánh Tông, tổ chức quân đội Lê Sơ ngày càng được củng cố, có một hệ thống tổ chức chặt chẽ và thống nhất, quân số dần tăng lên. Tổ chức quân đội Lê Sơ không chỉ chặt chẽ, có hệ thống mà còn mọi quyền lực quân sự đều tập trung trong tay vua. Vua trực tiếp nắm giữ quyền điều hành quân đội. Năm đô đốc phủ thống suất lực lượng quân đội ở các phủ về phương diện sổ sách quân số nhưng không có quyền điều động binh lính. Bộ binh phụ trách việc tuyển bổ các quan võ, điều khiển và huấn luyện quân đội nhưng cũng không có quyền sai phái các tướng sĩ. Triều Lê Sơ không đặt chức Tổng chỉ huy quân đội và bãi bỏ chức Tể tướng nhằm tập trung quyền lực quân chính vào tay vua. Trong những lần xuất quân lớn, vua là người trực tiếp cầm quân. Dưới triều Lê Sơ, ngoài lực lượng quân đội do nhà nước tổ chức, quản lý theo một hệ thống nhất quán, chúng ta không thấy có những đội quân của các vương hầu quý tộc như ở các vương triều trước đó. - Quy chế tuyển chọn binh lính và võ quan rõ ràng nghiêm ngặt. Cũng giống như các triều đại Lý, Trần, việc tuyển chọn binh lính thời Lê Sơ được dựa trên số nhân đinh trong cả nước. Triều đình giao việc quản lý nhân đinh cho các địa phương. Hằng năm, các địa phương phải lập sổ hộ tịch kê khai sắp xếp nhân đinh theo thứ hạng. Đinh nam từ 18 đến 20 tuổi gọi là hoàng nam, từ 20 đến 60 tuổi gọi là đại hoàng nam, được ghi tên vào sổ điệu phát. Nhà nước căn cứ vào sổ này để tuyển binh. Năm Đinh Mùi (1427), sau khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại độc lập, Lê Lợi (Lê Thái Tổ) đã hạ lệnh cho quan các lộ cùng với quan các sảnh, cục và các tướng hiệu tiến hành lập sổ hộ, căn cứ theo trú quán chứ không theo nguyên quán của dân. Từ đó nhà vua đặt lệ cứ 3 năm làm lại hộ tịch một lần, gọi là phép "kế tu" (kế tiếp và tu sửa). Đầu năm Mậu Thân (1428), Lê Thái Tổ hạ lệnh lập hộ tịch và sổ điền bạ trong cả nước. Vấn đề khôi phục và phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng đã đặt ra yêu cầu nhà nước cần phải nắm vững nguồn nhân lực, vì thế triều đình lệnh cho các phủ, huyện và trấn phải gấp rút hoàn thành sổ hộ, hạn cuối cùng là tháng 2 năm Kỷ Dậu (1429), phải đệ trình kết quả. Năm Canh Tuất (1430), vua ra lệnh gộp sổ hộ trong cả nước. Năm Quý Sửu (1433), sổ hộ tịch đã được hoàn tất. Từ đó cứ 2 hoặc 3 năm một lần, nhà nước tiến hành kiểm kê nhân đinh. Các đời vua kế tục đều noi theo Lê Thái Tổ, khi mới lên cầm quyền đều ra lệnh thống kê hộ khẩu, quản lý nhân lực trong cả nước, lấy đó làm cơ sở để tuyển mộ binh lực cho quân đội. Dưới đời Lê Thái Tổ, việc tuyển quân nhằm chọn những đinh nam trẻ khoẻ thay thế số quân cũ già yếu. Một quy chế mới về binh dịch đã được ban hành. Đó là: Một nhà 3 người thì lấy 1 làm quân, phu dịch tha cho 3 năm. Nhà nước cũng quy định miễn cho con cháu những người đã tham gia kháng chiến từ những ngày đầu. Tháng 12 năm Mậu Thân (1428), nhà vua dụ cho các quan văn, võ: Người nào đã đem vợ con ẩn tránh ở núi rừng cùng trẫm lo việc nước, từ Mường Thôi, Bồ Đằng, Chí Linh, Khả Lam, thì hoặc con hoặc cháu đều được miễn dịch quân dân. Nếu làm quan thì không thuộc lệ này. Con cháu anh em nào không thuận đạo mà quên nghĩa, cầu an giặc thì không được nhận. Ai làm trái thì xử biếm hay bãi. Kế tục Lê Thái Tổ, năm Giáp Dần (1434), vua Lê Thái Tông cử Đại tư đồ Lê Sát, Tư khấu Lê Ngân, Tư mã Lê Liệt và Lê Bôi tuyển lựa đinh tráng các đạo để bổ sung quân số. Trừ con các quan viên từ Lục phẩm trở lên, giám sinh Quốc Tử Giám và các hạng nô tỳ được miễn quân dịch, còn tất cả các hạng đinh tráng đều phải tuyển. Nếu là quân Ngự tiền Võ đội và quân Thiết đột mà có từ một đến ba con trai thì một được miễn binh dịch. Đối với các gia đình quân, dân thường có từ 3 đinh tráng trở lên thì được miễn giảm một người, còn thì đều phải chịu nghĩa vụ binh dịch. Năm Ất Mão (1435), triều đình quy định tuyển người khoẻ mạnh để bổ sung quân. Vua Lê Nhân Tông sau khi làm xong sổ hộ tịch đã ra lệnh tuyển quân. Mùa xuân năm Giáp Tý (1444), nhà vua cho tuyển đinh tráng bổ vào quân ngũ. Từ năm Kỷ Tỵ (1449), vua mở rộng ấm trạch cho con cháu các quan. Điều này cũng thực hiện cả trong chế độ nghĩa vụ binh dịch; các hoạn quan được phép chọn một người thân thích miễn lính. Nhìn chung, các đời vua đầu chế độ tuyển mộ chưa có quy định rõ ràng, khi cần bổ sung quân số triều đình mới tuyển. Từ năm Canh Dần (1470), trên cơ sở chế độ hộ tịch “tiểu điển”, “đại điển”, vua Lê Thánh Tông đã quy định phép duyệt tuyển. Việc tuyển lính được thực hiện một lần cùng với việc điều tra nhân khẩu lập sổ hộ tịch. Cứ 3 năm nhà nước sửa lại hộ tịch một lần gọi là “tiểu điển”, 6 năm làm lại một lần gọi là "đại điển”. Mỗi lần đến kỳ duyệt tuyển, triều đình cử các quan đại thần về các địa phương lập các trường tuyển duyệt, bắt nhân dân kê khai lại nhân khẩu. Trừ các quan lại, chức sắc, tất cả các dân đinh từ 18 tuổi trở lên đều phải vào hộ tịch, được phân chia thành 6 hạng: Tráng hạng, Quân hạng, Dân hạng, Lão hạng, Cố hạng và Cùng hạng. Hạng Tráng phải nhập ngũ ngay, hạng Quân là quân dự bị, khi nào nhà nước cần điều động mới nhập ngũ, hạng Dân là những người phải đóng sưu thuế. Phép duyệt tuyển thời Lê Thánh Tông cũng quy định: Gia đình nào có từ 3 đến 4 suất đinh thì một người sung vào hạng Tráng, một người sung vào hạng Quân, còn thì sung vào hạng Dân. Nhà có 5 đến 6 suất đinh thì 2 người sung vào hạng Tráng, 1 người sung vào hạng Quân, còn lại là hạng Dân. Theo lệ cũ: + Con cái quan văn võ hàm nhất, nhị phẩm, con trưởng của quan hàm tam phẩm: cháu của tước công, tước hầu, tước bá, nếu người nào không thể theo học được thì sung quân Tuấn sĩ vệ Cẩm Y. + Con các quan văn võ hàm tam phẩm, con trưởng hàm tứ, ngũ, lục, thất, bát phẩm, hai con của quan cửu phẩm, cháu của quan lục phẩm trở lên, nếu người nào không theo học được thì sung vào làm quân ở vệ Vũ Lâm. + Con của quan hàm cửu phẩm, cháu của quan hàm bát phẩm thì lựa chọn sung làm lính cũng như con bách tính. Đến tháng 3 năm Đinh Dậu (1477), vua Lê Thánh Tông ra chỉ định lại thể lệ tuyển dụng con cháu các quan viên: "Cháu trưởng của các bậc công, hầu, bá, tử, nam; con trưởng của các quan văn, võ nhị tam phẩm, con trưởng của các quan tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát phẩm, nếu ai tuổi trẻ và thông minh ham học thì cho vào Sùng Văn quán làm học sinh đọc sách. Nếu tuổi đã lớn mà đần độn, muốn học võ nghệ, thì cho vào học tập ở vệ Cẩm Y, mỗi ngày tới trường đấu võ ở phía tây kinh thành tập luyện các nghề cung tên, thủ tiễn, đánh mộc. Đến cuối mùa đông vệ Cẩm Y sai quan khảo xét, cứ 3 năm một lần, quan phụ trách làm danh sách tâu lên, đưa sang Binh bộ, tổ chức thi theo lệ đã định. Người nào đỗ thì bổ các chức quan võ"33. Tháng 3 năm Bính Ngọ (1486), nhân một kỳ tuyển quân, vua Lê Thánh Tông ban hành điều lệ “Hồng Đức quân vụ” gồm 27 điều, trong đó có 3 điều bổ sung cho lệ tuyển binh dịch năm Canh Dần (1470) như sau: + Các con của quan văn võ nhất phẩm, nhị phẩm và con trưởng của quan tam phẩm, các cháu của công, hầu, bá, nếu không biết chữ thì sung làm Tuấn sĩ của vệ Cẩm Y, nếu biết đọc sách thi đỗ thì sung nho sinh Tứ Lâm cục; nếu có tài làm quan mà thi đỗ thì bổ làm nha môn ở trong ngoài. Cửu phẩm thì được hai con như bát phẩm, còn các con khác cũng như dân thường. Cháu của quan thất phẩm trở xuống thì tuyển duyệt sung quân, như lệ của dân. + Nhà có cha con, anh em ruột từ ba đinh trở lên cùng ở trong sổ của xã thì miễn cho một đinh không phải tuyển duyệt sung quân, nếu ở xã huyện khác thì không được miễn. + Những người làm thuê, làm mướn có biết chữ mà đã có ty Thừa tuyên bản xứ chuẩn cho thì được miễn không phải sung quân. Theo điều lệ này thì đối tượng tuyển lính thời Lê Sơ chủ yếu là nông dân, địa chủ trong các địa phương, những thợ thủ công và thương nhân, con cái quân nhân và quan lại không biết chữ. Những người được miễn tuyển là con cháu các quan lại đương chức hàm từ lục phẩm trở lên, hoặc bản thân người đó là quan viên, chức dịch, học sinh Quốc Tử Giám, một số quan nô và tư nô do vua ban hoặc con các nhà độc đinh (nhà chỉ có một con trai). Nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có ghi dưới thời Lê Sơ có việc miễn tuyển lính cho bản thân và con cái của những người giàu có nhiều thóc nộp cho nhà nước. Đó là vào tháng 8 năm Canh Thìn (1460), sau khi phế truất Lê Nghi Dân, Lê Tư Thành (tức Lê Thánh Tông) lên ngôi lúc 18 tuổi, do cần có một số lớn lương thực, triều đình cho phép người giàu tình nguyện dâng nộp thóc để có quan tước và được miễn tuyển lính. Người nộp 70 hộc được thưởng 1 tư và miễn tuyển; nộp từ 100 đến 200 hộc thì được làm quan tòng bát phẩm đến chánh nhất phẩm nhàn tản, con cái họ cũng được miễn tuyển lính. Thời Lê Thánh Tông, các quy chế, luật định về tuyển lính được bổ sung hoàn chỉnh hơn trước. Do nhu cầu phát triển của quốc phòng và chất lượng quân đội, những quy định về tuyển chọn và miễn trừ chặt chẽ hơn, nhất là đối với diện nho sinh giỏi. Nhà vua muốn thu hút được nhiều nhân tài và những người đỗ đạt trong các địa phương, cho nên trong các loại nhân đinh được phân hạng thì các quan viên và các học nhiêu chưa phải là đối tượng tuyển quân. Không kể hạng lão nhiêu và những người tàn tật, trong số những đinh tráng từ 18 tuổi đã được ghi trong sổ hộ, nhà nước căn cứ vào đó để xét tuyển. Việc xét tuyển được sắp xếp theo thứ tự: Trước hết tuyển những người cường tráng vào quân thường trực, rồi đến dân tráng sung vào hạng Quân nhưng ở nhà làm ruộng, khi nào cần nhà nước chiếu theo sổ gọi bổ sung vào. Khi điều kiện kinh tế và xã hội cho phép, nhà nước còn mở rộng diện miễn tuyển cho cả nông dân - tầng lớp đông đảo có nhiều đóng góp trong sự nghiệp giữ nước; đó là trường hợp trong một gia đình có từ 3 nhân đinh trở lên hoặc các nho sinh nghèo phải đi làm thuê, làm mướn được các đô ty Thừa tuyên công nhận. Với cách tuyển trên, triều Lê Sơ không cần phải "bắt" mà vẫn có đủ số quân khi cần. Đã có lúc vua Lê Thánh Tông huy động một lúc tới 26 vạn quân (cuộc chinh phạt Chiêm Thành năm Tân Mão - 1471). Những dân đinh hạng Tráng, sau khi nhập ngũ được phân chia về các vệ, sở Thân binh là lực lượng tin cậy nhất của triều đình nên nhà Lê thường lựa chọn những con cháu các quan văn võ không học hành đỗ đạt sung vào. Năm Quý Mão (1483), Lê Thánh Tông quy định: Con thứ các quan nhất, nhị phẩm; con trưởng quan tam phẩm; cháu các Công, Hầu, Bá, không biết chữ thì sung làm Tuấn sĩ vệ Cẩm Y; con thứ quan tam phẩm và con các quan từ tứ phẩm đến bát phẩm không học hành sung vào quân vệ Vũ lâm. Tất cả các hạng quân đều được cấp ruộng đất công theo thứ bậc với khẩu phần từ 4 đến 8 phần rưỡi. Khẩu phần của binh lính trong chế độ quân điền được ưu tiên hơn các thành phần khác. Với số ruộng được quân cấp, quân lính được chia ban về làm ruộng theo chế độ “ngụ binh ư nông”. Thời Lê Thái Tổ, quân lính được chia làm 5 phiên, chỉ giữ 1 phiên tại ngũ để thường trực, còn 4 phiên thay nhau về sản xuất. Năm Bính Tuất (1466), Lê Thánh Tông đổi lại lệ chia phiên, chia quân số thành 2 ban, cứ lần lượt thay nhau một ban tại ngũ, một ban về làm ruộng. Việc sửa đổi này nhằm tăng cường thêm số quân thường trực tại ngũ. Chế độ tuyển binh thời Lê Sơ lúc đầu chưa có quy chế rõ ràng nhưng sau một thời gian do nhu cầu phát triển của nhà nước quân chủ chuyên chế và nhu cầu quốc phòng, những quy chế về tuyển chọn dần được thể chế hoá, đến thời Lê Thánh Tông được hoàn thiện. Hơn tất cả các vị vua khác, Lê Thánh Tông là một ông vua rất coi trọng công việc tuyển chọn binh tráng bổ sung quân ngũ. Ông ý thức rất rõ rằng muốn xây dựng một quân đội thiện chiến, hùng mạnh phải bắt đầu ngay từ việc tạo dựng một nguồn dự trữ nhân lực dồi dào, phải tuyển lựa được những đinh tráng khoẻ mạnh nhất. Trong 38 năm cầm quyền, Lê Thánh Tông đã 10 lần tổ chức tuyển chọn đinh tráng bổ sung quân ngũ vào các năm: 1460, 1465 (2 lần), 1467, 1470, 1471, 1475, 1481, 1486, 1491. Trung bình cứ 3,8 năm có một đợt quân đội được bổ sung những người khoẻ mạnh, giảm bớt những người già yếu. Do được chú trọng nên quân đội thời kỳ này hùng mạnh, lập được nhiều chiến công trong bảo vệ và mở mang lãnh thổ. Nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét: “Phép tuyển binh đời Hồng Đức rất rõ ràng chu đáo. Bấy giờ dân đinh không ai sót tên trong sổ mà số binh thường có nhiều là vì kén chọn được đúng số. Ba năm một lần xét lại tưởng như phiền phức, nhưng quy chế đã nhất định, dân cũng yên lòng)”34. Đối với Cấm binh, lính Thị vệ bảo vệ Cấm thành, triều Lê Sơ có chế độ tuyển chọn riêng, với những tiêu chuẩn cao hơn. Ngoài sức vóc còn chú ý đến phẩm chất, lòng trung thành của họ. Thường đó là lớp con em những gia đình giàu có, là những người đã trải qua rèn luyện, trưởng thành trong quân ngũ; là con em của các võ quan, của Cấm quân, con cháu các công thần, quan lại cao cấp được hưởng quyền tập ấm. Tóm lại, đó là các thành phần có quyền lợi gắn liền với giai cấp thống trị, hàng ngũ quý tộc phong kiến. Ngoài các nguồn cung cấp binh lính kể trên, triều đình Lê Sơ còn tuyển binh từ một nguồn nhân lực khác nữa đó là từ những tội nhân. Tuy nhiên, số lính này chỉ được biên chế trong những đơn vị không quan trọng của quân đội, có thể là lính lao dịch hay sản xuất, có khi là những đơn vị đóng ở những vùng đất mới khai phá ở phía Nam. Năm Giáp Ngọ (1474), vua Lê Thánh Tông ra sắc chỉ rằng: Đối với các tù bị tội lưu, người lưu châu gần thì sung quân ở vệ Thăng Hoa, lưu châu ngoài thì sung quân ở vệ Tư Nghĩa, lưu châu xa thì sung quân ở vệ Hoài Nhân. Kẻ được tha tội chết thì được lưu ở vệ Hoài Nhân. Cũng năm đó, nhà vua lại ra sắc chỉ: Lại viên các nha môn tự tiện về nhà thì đồ khao đinh, sung quân. Đến năm Quý Mão (1483), có sắc chỉ: Sinh đồ từng thi Hương mà không trúng kỳ thi nào thì phải sung quân. Trong các chương Vệ cấm, Vi chế, Quân chính, Hộ hôn, Điền sản, Đạo tặc của Quốc triều hình vật có nhiều điều quy định những ai phạm tội nhẹ thì xử đồ lâm "tượng phường binh” hay "chủng điền binh" - tức lính nuôi voi hay binh lính sản xuất. Đó là những hình phạt đặc biệt hay những hình thức tuyển lính độc đáo của thời Lê Sơ. Việc miễn trừ tuyển lính cũng được phân định một cách rõ ràng. Triều đình quy định đối tượng miễn tuyển gồm: con trai các quan văn võ từ lục phẩm trở lên có chức cai quản; các giám sinh Quốc Tử Giám. Các đối tượng khác và dân thường nếu có 3 con trai chỉ được miễn một người. Triều đình cũng quy định những luật lệ nghiêm cấm hoặc trừng phạt nặng tội ẩn giấu, bán thả quân nhân và tội bỏ trốn quân ngũ. Điều thứ 8 trong 10 điều quân luật buổi đầu thời Lê Sơ quy định: Tướng hiệu nào bán thả quân nhân thì bị tội chém. Năm Mậu Thân (1428), vua Lê Thái Tổ hạ lệnh cho các quan phủ, huyện, lộ đi điều tra và tịch thu sung công ruộng đất của lính trốn. Năm Đinh Hợi (1467), vua Lê Thánh Tông ra chỉ dụ cho các quan trấn thủ và phó tổng binh các vệ ở Yên Bang, Lạng Sơn, Tuyên Quang rằng: Các ngươi coi giữ chức vụ chống giữ biên cương, nên phòng bị những sự không ngờ để ngăn chặn giặc ngoài, cần phải báo các tướng hiệu răn dạy quân sĩ không được quen thói cũ trốn về bỏ phế chức vụ. Điều 23 trong chương Quân chính của Luật Hồng Đức ghi rằng: Những quân lính tại ngũ mà bỏ trốn thì xử tội đồ làm Tượng phường binh; tái phạm thì xử tội lưu; người chứa lính trốn thì xử tội đồ làm khao đinh; quan xã dung túng mà không bắt thì tội nhẹ hơn người lính trốn một bậc; quan lộ, quan huyện không biết thì phải biếm hay cách chức. Nếu người lính ra thú tội thì được giảm tội và phải nộp số tiền khoá dịch sung công. Người chứa lính trốn phải chịu nửa số tiền sung công ấy. Triều đình còn quy định cấm trong một xã, đàn ông, đàn bà cùng họ không được đặt cùng tên, bắt những người phiêu tán phải định cư, ghi tên vào sổ hộ. Lê Thánh Tông còn yêu cầu các quan lại đều phải "đem hết lòng thành, nén lòng tham" mà chăm lo việc xét tuyển, đồng thời phải làm một cách kỹ càng. Do có những quy định nghiêm ngặt như vậy nên nhà nước thời Lê Sơ đã có một đội quân thường trực hùng mạnh, bảo vệ được đất nước hoà bình, ổn định trong một thời kỳ lâu dài. Việc tuyển dụng võ quan, tướng lĩnh ở thời Lê Sơ cũng rất được coi trọng. Trong lịch sử, vai trò của các tướng lĩnh được đánh giá rất cao, Binh pháp Tôn Tử đã viết: Tướng soái là người phò tá cho quốc vương. Phò tá giỏi thì quốc gia cường thịnh, phò tá kém cỏi thì quốc gia suy nhược. Các vua triều Lê Sơ luôn có quan điểm đề cao vai trò của người làm tướng. Khi đang còn chiến tranh, trong thư gửi cho Vương Thông (tướng nhà Minh), Lê Lợi và Nguyễn Trãi viết: “Tôi nghe, thiên hạ được yên hay phải nguy, sinh dân bị hoạ hay hưởng phúc, thực do ở việc binh, mà binh quyền giữ lấy hay bỏ, cho hay cướp lấy, quan hệ ở người làm tướng. Cho nên có câu nói rằng: Tướng là người giữ vận mệnh của quân”35. Khi đất nước hết chiến tranh, vua Lê Thái Tổ vẫn rất coi trọng người cầm quân. Tháng 10 năm Kỷ Dậu (1429), trong buổi cùng các quan đại thần, tổng quản, hành khiển bàn công việc của đất nước, ông nói: "Người xưa có câu: Vua không chọn tướng thì khác gì dâng nước mình cho giặc. Trẫm luôn suy nghĩ điều đó, ngày đêm không quên"36. Vua Lê Thánh Tông - người rất quan tâm đến sự nghiệp quốc phòng của đất nước luôn cho rằng quyền giữ việc quân là quyền lớn của nước và giữ việc quân quốc là một trách nhiệm rất quan trọng. Do nhận thức được vai trò quan trọng của đội ngũ tướng lĩnh trong xây dựng quân đội cũng như công cuộc phát triển, bảo vệ đất nước nên nhà nước Lê Sơ có yêu cầu cao đối với việc tuyển lựa, đào tạo võ tướng. Đó phải là những người có cả đức và tài. Lê Thái Tổ yêu cầu người làm tướng phải hội đủ các phẩm chất: trung thành, nhân nghĩa, tài trí và dũng cảm. Đạo làm tướng phải lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm đầu. Tiêu chuẩn của người làm quan, làm tướng theo quan điểm của Lê Thánh Tông là phải làm hết chức phận với triều đình. Để có được đội ngũ tướng lĩnh hội đủ những yêu cầu như mong muốn, vương triều Lê Sơ có nhiều phương thức tuyển chọn. Ngay sau khi lên ngôi, Lê Lợi ban chiếu cầu hiền, cho tìm kiếm những người có tài văn, võ có thể trị dân, coi quân để trao chức vụ. Trong chiếu gửi tướng thần có công, ông viết: "Sáng nghiệp là khó; giữ cơ nghiệp sẵn có không phải dễ cho nên phải tìm người hiền tài để bảo người sau”37. Lê Thái Tông cũng hạ lệnh cho các quan văn võ phải vì nước mà tiến cử hiền tài. Đến đời vua Lê Thánh Tông, khi nhà nước ở vào thời kỳ hưng thịnh, vấn đề bổ dụng nhân tài để coi quân trị dân càng được coi trọng. Năm Đinh Mùi (1487), khi định cách bảo tuyển chức quan Tổng binh, Lê Thánh Tông yêu cầu: "Chức quan Tổng binh nhận ký thác trong một địa phương, không nên uỷ nhiệm người không tốt. Các quan khoa đài nên tuyển ở vệ quan các nha môn, người nào đảm lược, hình thức, tư cách, tài cán, liêm khiết và siêng năng thì bổ chức ấy. Ai dám tư tình bảo cử bậy người bị ổi, hèn kém, tham ô, lười nhác thì bị trị tội"38. Đối tượng tuyển chọn võ tướng ở thời Lê Sơ không chỉ là con em thuộc tầng lớp quý tộc mà được mở rộng trong thiên hạ không câu nệ vào đường xuất thân để tìm được người tài. Trong chiếu cầu hiền tài, Lê Thái Tổ chỉ rõ: "Bất kể ai, là người hiền, hoặc ở triều đình, hoặc ở nơi thôn dã, là người tài bị khuất trong hàng ngũ quan nhỏ, là người hào kiệt náu mình nơi đồng nội, lẫn ở hàng binh lính đều được trọng dụng và trao chức quyền xứng đáng”39. Tất nhiên dù có xuất thân từ tầng lớp nào, dù là nho sĩ, quan lại hay bình dân, một khi đã gia nhập đội ngũ tướng lĩnh của triều đình, họ đều được phong chức tước, ban cấp bổng lộc và trở thành quan lại phong kiến, phục vụ cho lợi ích của vương triều thống trị. Chính vì thế, vấn đề chọn dùng võ quan, tướng lĩnh luôn bị chi phối bởi ý thức về quyền lợi của dòng họ thống trị. Về phương thức tuyển chọn, ngoài hình thức nhiệm cử, tức triều đình bổ nhiệm những nhân tài thuộc hàng ngũ quý tộc tôn thất, những người có công, nhà Lê Sơ còn sử dụng các hình thức: tiến cử, bảo cử, khảo xét và thi cử. Tiến cử, bảo cử là hình thức giới thiệu những người có tài, có đức để triều đình xem xét và bổ dụng, hình thức này được thi hành chủ yếu dưới thời Lê Thái Tổ. Trong buổi dựng xây chính quyền, đội ngũ quan lại rất cần những người có năng lực nên Lê Thái Tổ chủ trương “vời đón hiền giả, thu dụng nhân tài". Ông nhiều lần hạ lệnh cho các quan văn võ tiến cử người hiền tài. Tháng 10 năm Kỷ Dậu (1429), chiếu của vua chỉ võ: "Ta nghĩ việc thịnh trị tất do dụng được người hiền; muốn có người hiền phải có người tiến cử; cho nên người làm vua thiên hạ tất phải lấy việc ấy làm công việc trước nhất"40. Đến đời Lê Thánh Tông, phương thức tiến cử đã chuyển thành bảo cử. Bảo cử cũng là tiến cử nhưng thông qua bộ Lại. Những người có tài được đề cử lên bộ Lại, bộ Lại xem xét và tâu xin vua bổ dụng. Năm Hồng Đức thứ năm (Giáp Thìn - 1484), vua Lê Thánh Tông lệnh cho các nha môn trong ngoài nếu có chức nào khuyết thì có thể tìm người tài cán, học thức thanh liêm, làm việc giỏi, đề nghị bổ vào chức đó. Lê Thánh Tông cho rằng: Trong triều đình nếu quân tử được tiến dụng là gốc rễ tiến lên đời thịnh trị; nếu tiểu nhân được tiến dụng là đường ngõ bước vào đời loạn lạc. Nhiều lần nhà vua ra sắc chỉ xác nhận lệ bảo cử để áp dụng cho các quan văn, võ ở các huyện, thừa ty và quan tổng binh với quy định rất nghiêm khắc là: "Ai dám thiên tư cử người hèn kém, tham lười sẽ bị trị tội”41. Sử gia Phan Huy Chú nhận xét: "Lệ bảo cử mới đó từ đời Hồng Đức. Bấy giờ việc ấy làm thận trọng, trừng phạt lại rất nghiêm, cho nên không ai dám bảo cử thiên tư, các chức đều xứng đáng, rốt cuộc thu được hiện quả là chọn được nhiều người hiền tài cho nước"42. Tiến cử, bảo cử nhằm cung cấp thêm nhân tài vào bộ máy chính quyền, giúp cho một số người vì lý do nào đó không ứng thí được, có cơ hội đóng góp tài năng của mình cho xã hội. Trong giai đoạn đầu phần lớn các võ quan là những người trưởng thành trong kháng chiến, có nhiều đóng góp cho công cuộc giải phóng đất nước. Sau khi ổn định tình hình, để đáp ứng yêu cầu của xã hội trong thời bình và nhiệm vụ xây dựng phát triển đất nước, vua Lê Thái Tổ tiến hành khảo xét quan lại, thải bớt những người thiếu năng lực, bổ sung nhiều tướng trẻ. Năm Mậu Thân (1428), đợt đầu khảo xét chia thành 4 bậc, bậc nhất là những quan viên văn võ có tài cán, làm việc giỏi. Năm sau, vua lại truyền lệnh các quan ôn luyện để chuẩn bị cho kỳ thi Minh Kinh. Trong đó quan văn thi Kinh sử, quan võ thi võ kinh, pháp lệnh và kỳ thư. Từ đời vua Lê Thái Tông, việc thi cử và khảo xét quan lại chặt chẽ hơn. Lê Thái Tông cho rằng: Muốn có nhân tài, trước hết phải chọn người có học, phép chọn người có học thì thi cử là đầu. Nhà vua định phép sát hạch: Các quan văn võ đều phải do Tổng quản nơi mình trực thuộc đứng ma sát hạch. Các tướng hiệu và võ quan ở đạo do Tổng quản bản đạo khảo xét. Kết quả chia làm 3 bậc, bậc nhất thưởng tước 1 tư và 5 tiền, bậc hai thưởng tước 1 tư. Từ năm Đinh Tỵ (1437), việc khảo xét võ quan được tách riêng đi sâu vào chuyên môn võ nghệ. Mỗi quan phải thi ba môn: bắn cung, phóng lao, sử dụng áo giáp và lá chắn. Người trúng cách (trúng cả 3 môn) thì cấp toàn bổng, nếu không trúng thì lượng bổng giảm dần. Quy định này trở thành quân lệnh. Dưới thời Lê Thánh Tông, hệ thống võ quan qua thời gian được đào thải, chọn lọc, chất lượng ngày càng cao. Các đợt khảo sát được tiến hành dưới hình thức Đô thí. Nhà nước quy định cứ 3 năm mở một kỳ thi bắt buộc cho các võ quan tướng lĩnh. Mỗi người bắn 5 mũi tên, phóng 5 phát lao và đấu khiên một đường. Kết quả chia thành 5 cấp, lấy đó làm tiêu chuẩn để thăng, giáng. Năm Bính Ngọ (1486), nhà vua ban sắc chỉ bổ nhiệm quan chỉ huy các ty. Theo sắc này, bộ Lại cùng các quan ở vệ được quyền lập hội đồng, xét chọn những ai trúng trường, thân thể cường tráng, được bổ nhiệm túc trực làm việc ở các ty, vệ. Năm Mậu Thân (1488), định rõ phép khảo xét công trạng các quan: 3 năm thi sơ khảo, 6 năm tái khảo, 9 năm thông khảo; nếu ai có tài năng đặc sắc khác thường sẽ có lệnh chỉ nhà vua đặc cách cân nhắc, không tính niên hạn. Đồng thời ra sắc chỉ cho các trưởng quan các nha môn ở Ngữ Phủ và các Vệ kén chọn tướng hiệu thuộc quyền mình cai quản, người nào có quân công, am tường lão luyện võ nghệ và tài năng kiến thức, thanh liêm, mẫn cán thì để giữ chức cũ; còn kẻ bỉ ổi, tham nhũng, làm việc một cách cầu may thì tâu lên để bãi chức. Chế độ tuyển chọn nói trên đã cung cấp cho chính quyền Lê Sơ một đội ngũ võ quan ngày một đông đảo. Việc bổ dụng, cất nhắc, thăng giáng đều có quy chế rõ ràng. Nhận xét về thành quả của quy chế tuyển chọn quan văn võ triều Lê Sơ, Phan Huy Chú viết: "Bấy giờ, các quan đều làm việc giỏi, gọi là đời thịnh trị"43. - Thường xuyên rèn luyện quân sĩ, thực hiện chế độ kỷ luật nghiêm minh. Mặc dù tồn tại trong điều kiện tương đối hoà bình nhưng triều đình Lê Sơ không hề lơ là trong việc rèn luyện quân sĩ. Trong những năm chiến đấu chống Minh, trước thế giặc mạnh, Lê Lợi luôn mong có được đội quân tinh nhuệ để đánh thắng kẻ thù. Ông nhiều lần ra chỉ dụ cho các tướng lĩnh phải dạy cho binh sĩ phép ngồi, đứng, đánh,..., chỉ bảo các thế kỳ, chính phân, hợp, cho họ biết hiệu chiêng, hiệu trống, hiệu cờ. Sau khi lên ngôi, mặc dù chiến tranh đã qua, đất nước độc lập nhưng công cuộc ổn định quốc gia và bảo toàn lãnh thổ trước các thế lực thù địch vẫn luôn đòi hỏi cần phải có một lực lượng vũ trang tinh nhuệ. Trong điều kiện đó, các vua triều Lê Sơ đã thi hành một chế độ luyện tập thường xuyên đối với các tướng sĩ để có được một đội quân thiện chiến. Nhà nước đưa việc tập luyện quân sự thành hoạt động thường kỳ, liên tục và có định chế rõ ràng. Các hạng quân thường trực, ngoài các việc tạp dịch, chia nhau canh gác, trấn giữ các nơi, còn có nhiệm vụ rất quan trọng là luyện tập võ nghệ và trận pháp. Năm Giáp Dần (1434), Lê Thái Tông định lệ hằng năm cứ vào đầu mùa xuân các, đạo phải tập trung về Kinh thành để diễn tập gọi là đại tập quân kỳ. Riêng các đạo từ Thanh Hoá, Nghệ An trở vào vì đường xa nên cho tập trung ở bản phủ để diễn tập, nếu trái lệnh sẽ bị trị tội. Lệ này đã trở thành lệ thường ở các đời vua sau. Năm Ất Mão (1435), Lê Thái Tông lại ra lệnh cho quân các đạo đến những nơi gần gũi thuận tiện trong đạo mình chia quân tập trận, các quân Ngự tiền thi tập võ nghệ ở điện đình. Đôi khi triều đình còn tổ chức những buổi tập trận riêng cho từng binh chủng như bộ binh, thuỷ binh, tượng binh, kỵ binh. Sang đời Lê Thánh Tông, chế độ luyện tập được thực hiện có quy củ với phép tắc rõ ràng hơn. Việc luyện tập ở giai đoạn này được thực thi theo từng chủng loại quân (binh chủng). Kế thừa và phát triển các định chế tập luyện có từ trước, tháng 11 năm Ất Dậu, Hồng Đức thứ 6 (1465) Lê Thánh Tông ban bố 31 điều quân lệnh về thuỷ trận, 22 điều quân lệnh về tượng trận, 27 điều quân lệnh về mã trận và 42 điều quân lệnh về bộ trận. Năm Ất Dậu (1465), cùng với việc ban hành các điều quân lệnh tập trận, Lê Thánh Tông cũng ban hành phép duyệt tập trận đồ thủy bộ. Theo quy định tập luyện về thuỷ trận thì có các đồ pháp: Trung hư (trận quây tròn trống giữa), Thường Sơn xà (trận kéo dài uốn lượn hình rắn Thường Sơn), Mãn thiên tinh (trận tản như sao đầy trời), Nhạn hàng (trận hình chữ V như chim nhạn bay sóng hàng), Ngư đội (trận hai đầu hình nêm như đàn cá). Trận đồ về bộ quân thì có các đồ pháp: Trương cơ, Tương kích, Kỳ binh. Sử liệu không cho ta biết rõ nội dung của các trận đồ nhưng với những điều trận đã ban bố có thể nhận xét: Việc tập luyện quân sự rất được coi trọng dưới thời Lê Thánh Tông. Mỗi loại quân đã có một nội dung tập luyện phù hợp. Việc duy trì kỷ luật trong tập luyện cũng rất nghiêm khắc. Đại Việt sử ký toàn thư chép: Ngày 23 tháng 2 năm Đinh Hợi Quang Thuận thứ 8 (1467), trong lúc tập trận đồ Tam Tài và Thất Môn ở sông Vi, nhóm Tây quân phủ đô đốc Lê Thiệt làm trái mệnh lệnh, đã bị Lê Thánh Tông sai trói đưa đến trước cửa doanh, mãi sau mới được tha. Cùng ngày hôm đó, Lê Thánh Tông cũng đã kiên quyết bãi quan chức của Trấn điện phó tướng quân Lê Hán Đình vì đã không tổ chức được buổi luyện tập theo đúng trận đồ đã đưa ra. Ông còn ra chỉ dụ cho các tổng quản, tổng tri, các vệ quân 5 đạo và quân các phủ, trấn rằng: “Những lúc rỗi việc làm ruộng, phải ngừng những việc không cần kíp, cứ ngày rằm hằng tháng, thì vào phiên để điểm mục, liệu cắt quân nhân vào những việc như giữ cửa nhà, điếm canh, liếm cỏ lợp nhà, nuôi voi. Còn thì trước đó một, hai ngày, phải theo các trận đồ nhà nước ban xuống, ở ngay địa phận của vệ mình đóng, tiến hành chỉnh đốn quân ngũ, dạy quân lính những phép ngồi, đứng, tiến, lui, tập nghe những tiếng hiệu lệnh, chiêng, trống, cho quân lính quen nới cung tên, không quên võ bị. Đến ngày thứ tư trở đi, mới sai lầm tạp dịch. Nếu quan nào không biết để tâm răn dạy, rèn tập quân lính, dám sai chúng làm những việc tạp nhiễu thì sử biếm chức hoặc bãi chức"44. Tháng 4 năm Kỷ Sửu, Quang Thuận thứ 10 (1469) nhà vua ra sắc chỉ: “Các vệ, ty Thần vũ, Du nỗ, Thần tý, Vũ lâm, Thiên uy mỗi khi đến phiên túc trực thì thay ban nhau mà chuyên tập võ nghệ, còn các vệ Ngũ uy (Phấn uy, Chính uy, Hùng uy, Lôi uy và Tuyên uy) và các sở Súng Nỗ ở vệ ngoài thì đều phải ngừng các việc tạp sai, dành ra số ngươi canh giữ các nơi, còn thì chuyên tập luyện võ nghệ. Đến khi hết ban thì tiến hành khảo duyệt, theo lệ mà thưởng phạt"45. Không chỉ chú trọng việc luyện tập quân sĩ, triều Lê Sơ còn định rõ kỳ hạn cho việc luyện tập, có khảo duyệt kiểm tra và thưởng phạt công bằng, nghiêm túc. Năm Đinh Hợi (1467), Lê Thánh Tông ra định lệ 3 năm mở một kỳ khảo hạch võ nghệ của quân sĩ. Đây không phải là một kỳ thi võ để tuyển dụng võ quan, mà là một kỳ thi khảo hạch để kiểm tra lại kết quả luyện tập và động viên tinh thần luyện tập của quân sĩ. Trong kỳ khảo hạch này, người nào đạt mức trung bình trở lên thì được ban thưởng tiền, áo, người nào kém thì bị phạt. Hằng năm, vào dịp đầu xuân, nhà vua thường thân chinh tiến hành các cuộc duyệt quân và tập trận lớn. Sử cũ ghi lại khá nhiều các cuộc tập trận của quân đội, nhiều lần có sự chứng kiến của nhà vua, đặc biệt vua Lê Thánh Tông: - Tháng 3 năm Bính Tuất (1466), tập thuỷ trận ở Giao Thuỷ. - Tháng Giêng năm Đinh Hợi (1467), vua ngự về Tây kinh. Khi trở về tập trận ở sông Thiên Phái (đoạn sông Đáy chảy qua huyện Ý Yên tỉnh Nam Định ngày nay). - Tháng chạp năm Đinh Hợi (1467), diễn tập trận đồ Trung hư ở Lỗ Giang (khúc sông Hồng chảy qua huyện Lý Nhân, Hà Nam). Lê Thánh Tông còn lệnh cho các quân sĩ tiến hành tập trận ngay cả khi chuẩn bị bước vào các trận đánh lớn. Đại Việt sử ký toàn thư chép:"Ngày 18 tháng 12 năm 1470, Hồng Đức năm thứ nhất, đại quân đã hội đủ gần đất Chiêm Thành. Đến ngày 2 tháng 1 năm 1471, Hồng Đức năm thứ 2, Vua cho là đại quân sắp vào đất giặc, quân lính càng phải luyện tập. Do đó xuống chiếu cho quân ở Thuận Hoá ra biển tập thuỷ chiến"46. Ngoài việc quy định chế độ luyện tập hằng tháng, hằng năm, triều Lê Thánh Tông còn tiến hành khảo khoá đối với các tướng sĩ. Triều đình quy định cứ 3 năm một lần bộ binh phải mở một kỳ thi khảo sát quan quân. Đến kỳ, vào mùa đông, các sắc quân thuỷ, bộ trong Kinh ngoài đạo phải tập trung để khảo sát về võ nghệ. Nhằm động viên, khích lệ các tướng sĩ trong việc nâng cao trình độ võ nghệ, triều đình còn định ra chế độ thưởng phạt công bằng, nghiêm túc cho cả binh lính và võ quan trong các kỳ thi võ. Đối với binh lính: người nào đấu võ nghệ thắng luôn 4 lần, được thưởng một chiếc áo và 1 quan 5 tiền sử (một quan tiền sử có 10 tiền). Ba lần thắng, một lần được chấm điểm bình, được thưởng một chiếc áo. Hai lần thắng, hai lần bình được thưởng 6 tiền sử. Một lần thắng, ba lần bình được thưởng 3 tiền sử. Bốn lần được chấm điểm bình cả bốn, được cấp tiền cơm là 20 đồng tiền sử. Binh sĩ nào bị thua đều bị phạt. Đối với các võ tướng: năm Đinh Tỵ (1437), vua Lê Thái Tông đặt luật lệ khảo thí võ nghệ các tướng hiệu trong các quân vệ. Phép thi gồm có 3 môn, thứ tự là bắn cung, ném thủ tiễn và đánh mộc. Người nào thi đạt cả 3 môn thì mới được cấp toàn bổng (lương), nếu không đạt thì bị hạ bớt. Việc này từ đó về sau định làm lệ thường. Năm Mậu Tuất (1478), vua Lê Thánh Tông ra định lệ thưởng phạt như sau: Những quan võ có tước Công, Hầu, Bá cùng các quan trong Kinh ngoài đạo nếu người nào có trách nhiệm quản lý quân sĩ, đều phải về Kinh đô để dự thi khảo về võ nghệ gọi là "Đô thí” tức là thi ở Kinh đô. Nếu vắng mặt bị xử tội. Nội dung thi gồm có thi bắn 5 phát tên bằng cung và đấu khiên. Mũi tên và khiên được làm bằng tre. Nếu ai bắn trúng 8 đến 10 lần là thượng cấp. Bắn trúng 6 đến 7 lần là trung cấp. Trúng từ 4 đến 5 lần là hạ cấp. Những người bắn trúng từ thượng, trung, hạ cấp đều được khen thưởng. Trúng 2,3 lần thì không được thưởng cũng không bị phạt. Trúng một lần hoặc không trúng lần nào sẽ bị phạt tiền. Đây không phải là một kỳ thi võ để tuyển dụng võ quan, mà là một kỳ khảo hạch để kiểm tra lại kết quả luyện tập và động viên tinh thần luyện tập của các tướng sĩ. Quy định này trở thành quân lệnh. Nhà nước quy định cứ 3 năm mở một kỳ thi bắt buộc cho các võ quan. Năm Tân Sửu (1481), Lê Thánh Tông cho xây dựng Điện Giảng Võ ở phía tây Kinh thành làm nơi đào tạo, luyện tập và thao diễn quân đội. “Mùa đông, tháng 10 đào hồ Hải Trì, hồ này quanh co đến 100 dặm. Giữa hồ có điện Thúy Ngọc, bên hồ xây điện Giảng Võ để luyện điểm duyệt binh"47. Dưới thời Lê Sơ, luyện tập quân sĩ là công việc thường xuyên theo những quy chế chặt chẽ. Hằng tháng có việc luyện quân theo tháng. Hằng năm có việc hội quân, tập trận đồ vào mùa thu. Cứ 3 năm một lần lại có khảo thí về võ nghệ. Nhiều lần vua thân chinh chỉ huy việc luyện tập thuỷ binh theo các trận đồ. Tất cả các sắc quân từ phụng trực, quân năm phủ, quân các đạo đều phải theo lịch mà tiến hành tập luyện. Mọi binh lính, võ tướng đều phải luyện tập và phải qua khảo thí. Không có sự miễn trừ cho một ai. Người đấu thắng, bắn trúng được thưởng. Người đấu bại, bắn chệch bị xử phạt: quân lính thì bị thải hồi, quan tướng thì bị biếm chức hoặc bãi chức. Ngoài ra, trong Luật Hồng Đức còn có cả những điều khoản quy định việc xử phạt những người không thực hiện đúng nhiệm vụ tập luyện. Điều 257 quy định: Những quan tướng hiệu không siêng năng huấn luyện quân sĩ, lại sai quân sĩ làm việc riêng cho nhà mình cùng là định để lấy tiền ăn, việc nhẹ thì xử đồ hay lưu, việc nặng thì xử tội lưu. Điều 283 của Bộ luật Hồng Đức cũng quy định: Khi có kỳ đại tập quân đội, quân lính ai thiếu mặt thì xử phạt 80 trượng, biếm làm quân đinh ở bản quân, truy nộp 3 quan tiền sung công. Đội trưởng và chánh, phó ngũ trưởng trong bản đội mà mượn người thay thế thì xử phạt 80 trượng và đều bị giáng cấp xuống 3 bậc. Kỷ luật là sức mạnh của một đạo quân. Nhà nước Lê Sơ rất quan tâm đến việc duy trì kỷ luật quân đội. Ngay từ trong thời kỳ kháng chiến chống Minh, Lê Lợi đã ban 10 điều quân luật cho các tướng hiệu và quân sĩ. Đó là: 1. Giữ cho quân đội không được ồn ào, phải luôn nghiêm chỉnh. 2. Không được đặt chuyện làm cho dân chúng hoang mang và dao động lòng quân. 3. Khi ra trận, nghe tiếng trống, thấy cờ hiệu không được chần chừ không tiến. 4. Thấy kéo cờ, nghe thanh la dừng quân phải dừng lại ngay. 5. Nghe tiếng chuông lui quân lập tức phải lui. 6. Không được bỏ canh phòng, bỏ hàng ngũ trốn về. 7. Không vì chuyện riêng tư mà bỏ việc quân. 8. Không được ăn hối lộ để thả quân lính và che giấu không ghi vào sổ quân. 9. Không vì tình cảm riêng tư mà đảo lộn công tội của người khác. Không được bất hoà với mọi người, trộm cắp, dâm gian. Những điều khoản trên đều được áp dụng với tất cả mọi tướng sĩ nếu ai vi phạm đều bị chém, không có loại hình phạt nào khác. Sau khi đất nước được độc lập, trong quá trình củng cố xây dựng lực lượng quân đội, vấn đề kỷ luật quân ngũ càng được đề cao. Nhiều quân lệnh được biên soạn và ban hành. Kỷ luật quân đội không còn thiên về hình phạt quá hà khắc như thời kỳ trước nữa mà được phân thành nhiều loại hình khác nhau. Chỉ tính riêng dưới thời Lê Thánh Tông đã có 190 điều luật được ban hành, trong đó có 58 điều nằm trong Bộ luật Hồng Đức và 132 điều luật nằm rải rác trong các điều luật khác. Trong 38 năm trị vì, nhiều lần vua Lê Thánh Tông trực tiếp cầm quân đi đánh trận. Trước mỗi lần xuất quân ông đều ban hành các điều lệnh phổ biến cho các tướng sĩ: Tháng 11 năm Canh Dần (1470), khi đem quân đánh Chiêm Thành, nhà vua ban hành 24 điều lệnh về việc hành binh trao cho các quân doanh và các vệ Cẩm y, Kim Ngô, Thần Vũ, Điện Tiền. Tháng 11 năm Nhâm Thìn (1472), nhà vua ban hành 19 điều lệnh đi đánh người Man. Tháng 12 năm Kỷ Hợi (1479), sửa định lại biệt lệnh 25 điều về việc đánh Chiêm Thành và quy định chính lệnh hành quân cùng các lệ thưởng công. Năm Bính Ngọ (1486), ban hành điều lệnh Hồng Đức quân vụ gồm 27 điều. Bộ luật Hồng Đức dành hẳn một chương - chương Quân chính gồm 43 điều (từ Điều 241 đến Điều 283) nêu rõ nghĩa vụ của các tướng lĩnh và binh sĩ. Trong đó có tới 21 điều có nội dung quy định trách nhiệm của người làm tướng lúc bình thường cũng như lúc ra trận. Với 8 điều quy định trách nhiệm của người lính nhưng nếu người làm tướng không biết hoặc biết mà dung túng, không có biện pháp ngăn ngừa thì cả tĩnh lẫn quan đều bị xử phạt. Trong đó có những điều quy định về việc nghiêm trị tướng hiệu, quân nhân không làm đúng nhiệm vụ tập luyện, canh phòng, sẵn sàng chiến đấu như sau: - Các tướng hiệu coi quân từ 30.000 người trở xuống, 50 người trở lên mà không biết vỗ về răn dạy, để đội ngũ không tề chỉnh, binh khí không sửa sang, biếng nhác việc quân, đến nỗi phải sửa chữa thay đổi, hao phí tiền tài, cùng là bớt xén xoay tiền, làm lợi riêng, bỏ ích chung, phàm những tội ấy, nhẹ thì xử biếm bãi, nặng thì xử đồ lưu. - Các tướng hiệu không chăm lo huấn luyện, bắt quân nhân làm việc riêng cho nhà mình, cùng là bóc lột xoay tiền, nhẹ thì xử biếm, đồ, nặng thì xử lưu. - Trong kỳ đại tập quân, nếu quân nhân vắng mặt thì xử 80 trượng, đồ làm quân đinh, truy tiền 3 quan gửi nộp vào nhà nước. Kẻ nhận tên thay mặt, nếu là quân nhân bản bộ thì xử 60 trượng, biếm 2 tư. Những quy định trên cho thấy triều Lê Sơ rất coi trọng vai trò của các võ tướng trong việc rèn luyện kỷ luật quân đội, bởi vì muốn cho đạo quân thực thi nghiêm kỷ luật thì trước hết người tướng phải nghiêm. Người cầm quân không giữ nghiêm kỷ luật thì khó gây được lòng tin đối với quân sĩ. Việc tiến hành huấn luyện quân sự thường xuyên có quy củ và thực hiện chế độ kỷ luật nghiêm minh là một yêu cầu thiết yếu trong xây dựng lực lượng quân đội dưới triều Lê Sơ. Đó chính là một trong những nguyên nhân làm cho quân đội triều Lê Sơ trở thành một quân đội chính quy, tinh nhuệ, một công cụ sắc bén để bảo vệ nhà nước phong kiến Đại Việt và bảo vệ vững chắc nền độc lập của dân tộc, đồng thời góp phần làm nên sức mạnh của quân đội Đại Việt thế kỷ XV - một quân đội hùng mạnh bậc nhất ở khu vực Đông Nam Á. Thời Lê Sơ có thể coi là thời kỳ tương đối thái bình nhưng vẫn có những biến động lớn. Chiến tranh bảo vệ và mở rộng lãnh thổ về phía Tây, phía Nam, những cuộc chinh phạt đối với các thổ tù tạo phản nhằm đè bẹp nguy cơ cát cứ và cả những cuộc đàn áp khởi nghĩa nông dân là những biểu hiện cụ thể cho thấy nhà nước cần phải chú trọng về quốc phòng và an ninh đất nước. Vì vậy, việc quan tâm đến binh lính và các võ tướng là một chủ trương của triều Lê Sơ trong quá trình xây dựng lực lượng quân đội. Nhận rõ vai trò quan trọng của binh lính trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đầu nước, triều đình luôn dành cho họ sự ưu đãi cả về vật chất và tinh thần. Trong lúc cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đang ở đỉnh cao, Lê Lợi luôn động viên binh lính, thưởng phạt đúng mức. Ông từng nói với các tướng lĩnh chỉ huy quân Thiết đột rằng: "Cùng lòng liều chết để phá giặc là công của các người, còn xếp đặt quy hoạch, cơm áo khen thưởng là do ở ta. Bao giờ thấy vợ con ta nghèo thiếu thì vợ con các ngươi mới nghèo thiếu, mong các ngươi một lòng đánh giặc"48. Cùng với việc khen thưởng kịp thời, để tập trung cao nhất cho cuộc kháng chiến, Lê Lợi cùng bộ chỉ huy khởi nghĩa Lam Sơn còn rất chú trọng đến công tác hậu phương quân đội như miễn mọi thuế khoá, lao dịch 3 năm cho những gia đình có người tham gia quân ngũ; cấp ruộng đất cho binh lính. Chủ trương trên đã khích lệ tinh thần chiến đấu của tướng sĩ, góp phần đẩy nhanh cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Năm Mậu Thân (1428), sau khi lên ngôi, vua Lê Thái Tổ đã cho con em các nhà đầu mục và các tướng hiệu được về quê nhận lại ruộng. Cùng năm đó, nhà vua còn hạ lệnh cho quan lại các địa phương phải kê khai tất cả các ruộng đất của các quan lại cũ, những người tuyệt tự, ngụy quan, lính trốn rồi cho lập sổ ruộng. Cho đến nay, chưa có nguồn tư liệu nào nói rõ về chính sách ưu đãi với binh lính ở thời vua Lê Thái Tổ. Nhưng chính sách quân điền của nhà nước được ban hành trong thời gian này đã được xuất phát từ thực tế tình hình đất nước sau chiến tranh mà Lê Lợi đã nhận thấy rất rõ là: Người đi chiến đấu thì không có tấc đất trong tay, kẻ du thực thì có ruộng đất quá nhiều đã cho thấy sự quan tâm của Lê Thái Tổ với những người lính đã từng đồng cam cộng khổ trong kháng chiến. Năm Ất Mão (1435), Lê Thái Tông quy định lấy các vùng đất bãi chia cấp cho quân và dân làm sản nghiệp đời đời theo nguyên tắc quân được cấp 5 sào, dân được cấp 4 sào làm sản nghiệp thường. Năm Đinh Dậu (1477), dưới thời Lê Thánh Tông, chính sách quân điền được chính thức ban hành và thống nhất việc thực hiện trong cả nước. Theo đó phép quân điền áp dụng đối với binh lính như sau: Ngân dũng lực vũ sĩ ở trấn điện ty, Đề sinh dũng sĩ ở lực sĩ ty, Án lại ở hai vệ Cẩm y, Vũ sĩ ở vệ Kim ngô, Tuấn sĩ ở vệ Cẩm y được 8 phần. Tráng sĩ thường ban ở vệ Cẩm y, thường ban ở ty tượng cừu được 7,5 phần. Phiêu kỵ tráng sĩ ở vệ Cẩm y, tráng sĩ các ty thuộc 4 vệ hiệu lực, 5 vệ điền tiền, canh ban xá nhân, lại phiên tráng sĩ ở thần tý ty Kim ngô vệ, tướng sĩ thường ban ở trung thành binh mã được 7 phần. Các vệ thuộc ngũ quân, 4 vệ tuần tượng, 4 vệ mã nhàn được 6 phần. Quân lính ở các nha môn, quân lính ở ngoài, ngực lại ở ngữ hình ty được 5,5 phần. Quân lính các vệ sĩ ở ngoài được 5 phần. Ba bậc quân và 3 bậc sắc thuộc các vệ ở trong đạo được 4,5 phần. Ba đẳng quân ở các nha môn, sở ở ngoài được 4 phần. Nội dung chính sách quân điền cho thấy cùng với quan lại văn, võ các cấp, binh lính là tầng lớp được nhà nước ưu đãi hưởng khẩu phần ruộng quân điền tuy thấp hơn so với quan lại nhưng cao hơn so với các thành phần khác trong xã hội. Chính sách này được các vương triều sau tiếp tục thực hiện. Pháp luật cũng quy định những điều luật bảo vệ quyền lợi cho binh lính khi bị ốm đau: Tướng lĩnh đem quân ra trận, quân lính có người ốm đau mà không nuôi nấng thuốc thang thì phải tội đồ, nếu vì thế mà để quân giặc bắt được, thì xử tội đồ, tội lưu hay tội chết. Như vậy, sau quan lại, binh lính là đối tượng được nhà nước quan tâm đặc biệt. Sự quan tâm đó xuất phát từ yêu cầu cần phải có một lực lượng quân sự mạnh, trung thành, nhằm đối phó với các lực lượng chống đối, bảo vệ triều đình, độc lập chủ quyền của đất nước, mở mang lãnh thổ cũng như giữ yên trật tự xã hội mà nhà nước Lê Sơ đang phải lãnh trách nhiệm trước lịch sử. Như vậy, xuất phát từ hoàn cảnh và thực tế của đất nước luôn phải đối phó với các nguy cơ thôn tính của các thế lực ngoại xâm và nội phản, đồng thời hiểu rõ được tầm quan trọng của lực lượng quân đội trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng vương triều, nhà nước Lê Sơ rất chú ý đến xây dựng và phát triển quân đội trên mọi phương diện với mong muốn có được một đạo quân đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Thông qua các chủ trương, chính sách đã được thực thi, chúng ta nhận thấy quan điểm tư tưởng xuyên suốt về xây dựng lực lượng quân đội dưới triều đại Lê Sơ là tạo dựng được đội quân tập trung thống nhất có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, thường xuyên được rèn luyện, kỷ luật nghiêm minh. Quân đội Lê sơ thực sự là "Quân hùng tề chỉnh" như chính Lê Thánh Tông đã viết trong bài "Ngự chế Thiên Nam động chủ đề" sau khi thân chinh chỉ huy sáu quân duyệt binh trên sông Bạch Đằng tháng 2 năm Mậu Tý (1468). 3. Tích cực, chủ động phòng giữ biên cương, thực hiện "Biên phòng hảo vị trù phương lược" Biên cương, lãnh thổ là vấn đề cơ bản, trọng yếu của mỗi quốc gia. Đó là cơ sở thực tế khẳng định sự tồn tại của một dân tộc, một vương triều. Bảo vệ biên cương luôn là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia bởi biên giới là "phên dậu”, là vấn đề nhạy cảm và tiềm ẩn nguy cơ chiến tranh của mỗi nước. Lãnh thổ quốc gia chỉ được bảo toàn khi biên cương được giữ vững. Trước những âm mưu cướp phá, lấn chiếm của các thế lực nội phản và lân bang, để giữ vững chủ quyền, bảo toàn lãnh thổ quốc gia, ổn định tình hình đất nước, triều đình Lê Sơ luôn chủ động trong việc phòng giữ, bảo vệ lãnh thổ các vùng biên giới. Trong những năm đầu của triều đại Lê Sơ, ánh hào quang của chiến công đánh thắng quân xâm lược nhà Minh đang lan toả. Trước uy thế của người chiến thắng, các quốc gia láng giềng ở phía Nam và phía Tây của Đại Việt phải kiêng nể và chủ động đến xin đặt quan hệ ngoại giao với nhà Lê. Nhưng điều này không đồng nghĩa với vấn đề biên giới và lãnh thổ nhà Lê sẽ được đảm bảo không có tranh chấp, trong điều kiện Đại Việt phải đối diện thường trực với nhiều quốc gia phong kiến lớn mạnh ở thế kỷ XV như đế chế Minh ở phía Bắc, Ai Lao ở phía Tây và Chămpa ở phía Nam. Trong điều kiện đất nước thái bình, các vua Lê vẫn luôn cảnh giác, coi việc an toàn lãnh thổ và bất khả xâm phạm của biên giới là công việc trọng yếu, không thể sao nhãng bởi giữ vững biên cương có tầm quan trọng và ảnh hưởng lớn đến công cuộc xây dựng, phát triển đất nước thành một quốc gia cường thịnh, khiến "người nước ngoài vị nể, man di bốn cõi đều phục”. Tư tưởng tích cực, chủ động phòng giữ biên cương của vương triều Lê Sơ được bắt đầu từ nhận thức về đất đai, bờ cõi và được biểu hiện rõ nét ở những chính sách, biện pháp cụ thể của nhà nước trong quá trình quản lý và bảo vệ lãnh thổ biên giới. Lê Thái Tổ ngay khi nắm quyền cai quản đất nước, đã rất quan tâm đến cương giới quốc gia. Mặc dù chỉ ở ngôi 6 năm, nhưng với kinh nghiệm của người cầm quân bao phen “vào sinh ra tử" đánh đuổi giặc ngoại xâm giành lại chủ quyền quốc gia, dân tộc, Lê Thái Tổ đã có tầm nhìn chiến lược về vấn đề biên cương lãnh thổ. Trong những năm đầu ở ngôi, sự bất an ở vùng biên cương phía Bắc luôn là mối lo của vị vua sáng lập vương triều. Tại vùng biên giới Tây Bắc luôn xảy ra cuộc nổi dậy chống đối chính quyền trung ương của các tù trưởng người dân tộc thiểu số. Để giữ yên vùng biên cương, năm Tân Hợi (1431), hai lần đích thân nhà vua phải cầm quân đi chinh phục. Sau khi dẹp xong nội loạn, trên đường trở về Kinh, Lê Thái Tổ đã có bài thơ khắc vào vách núi Hào Tráng: Gập ghềnh hiểm hóc chẳng từ nan Già vẫn nguyên còn sắt đá gan Hào khí nghìn ma đều quét sạch Tráng tâm muôn núi cũng bằng san Biên phòng tất khéo mưu phương lược Xã tắc nên trù kế cửu an Ghềnh thác ba trăm đừng nói nữa Như nay dòng thuận chỉ xuôi nhàn. Bài thơ đã nói rõ quan điểm và sự kiên quyết của Lê Thái Tổ về công việc gìn giữ biên cương, đồng thời ông cũng nhắn nhủ quần thần cùng con cháu rằng: “Biên phòng tất khéo mưu phương lược. Xã tắc nên trù kế cửu an” - tức là cần phải có phương lược, kế sách trong việc giữ gìn biên cương, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, phải đảm bảo cho đất nước luôn ở trong một thế trận có sẵn để phòng chống ngoại xâm, chỉ có như vậy mới giữ vững được bờ cõi. Kế thừa những thành quả của các đời vua trước. Lê Thánh Tông thấu hiểu giá trị của từng tấc đất, ngọn núi, con sông của cha ông để lại và xác định rõ trách nhiệm của bản thân và quần thần là phải gìn giữ biên cương lãnh thổ quốc gia. Đối với những viên quan làm nhiệm vụ giải quyết vấn đề biên trấn, ông nhắc nhở và chỉ rõ cho họ thấy rõ vai trò, trách nhiệm, chức phận của bản thân trong việc bảo toàn từng tấc đất của tổ tiên để lại và yêu cầu quần thần phải kiên quyết bảo vệ đến cùng. Năm Quý Tỵ (1473), trong chỉ dụ cho quan Thái bảo Lê Cảnh Huy trước khi đi giải quyết vấn đề biên giới, ông căn dặn: “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào là nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay gian. Nếu ngươi dám đem một thước núi, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di”49. Như vậy, từ Lê Thái Tổ đến Lê Thánh Tông, trong khoảng hơn 40 năm, quan điểm về biên cương lãnh thổ của những người đứng đầu vương triều Lê Sơ đã vận động, phát triển, từ một chủ trương, kế sách tiến đến thành một ý chí hành động trong công cuộc bảo toàn lãnh thổ đất nước. Sự tổng kết, đúc rút của Lê Thái Tổ với “Biên phòng hảo vị trù phương lược" đến ý chí kiên quyết "không được tự tiện vứt bỏ một thước núi, một tấc sông" của Lê Thánh Tông trở thành tư tưởng chỉ đạo và định hướng cho việc ban hành chủ trương, chính sách và những biện pháp của nhà nước trong sự nghiệp giữ vững biên cương, bảo toàn lãnh thổ. Tư tưởng tích cực chủ động bảo vệ biên giới lãnh thổ của nhà nước Lê Sơ được thể hiện qua các chính sách thực thi của triều đình nhằm bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc. - Xác định rõ cương vực quốc gia. Định rõ cương vực đất nước là việc thiết yếu của mỗi quốc gia nhằm bảo toàn lãnh thổ, tránh sự tranh chấp, đảm bảo sự ổn định biên giới. Lần đầu tiên ở nước ta, dưới triều Lê Sơ, cương vực lãnh thổ được khẳng định về mặt pháp lý thông qua việc lập bản đồ. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi rõ: thời Lê Thánh Tông, "Nhà vua hạ lệnh cho cơ quan Thừa tuyên thân hành đi khám xét núi sông, nơi hiểm trở, nơi bình thản và sự tích đời xưa, đời nay trong địa hạt mình cai quản, vẽ thành bản đồ ghi chú rõ ràng nộp cho bộ Hộ để sáng tác bản đồ địa dư”50. Cuối năm Kỷ Sửu (1469), bản đồ 12 đạo Thừa tuyên được hoàn thành, thường gọi là bản đồ Hồng Đức. Đây là bằng chứng khẳng định ý thức chủ quyền biên giới, lãnh thổ quốc gia của Lê Thánh Tông cũng như triều đại của ông đối với dân tộc và các quốc gia lân bang. Và đây cũng là bản đồ xưa nhất của nước ta còn lưu giữ được cho đến ngày nay. Năm Tân Mão (147l), sau cuộc tiến đánh Chămpa, lãnh thổ Đại Việt được mở rộng đến đèo Cù Mông. Tại biên giới mới này, Lê Thánh Tông sai tạc bia trên sườn núi đá (núi Thạch Bi - Tuy Hoà, Phú Yên) làm mốc phân chia biên giới giữa hai nước. Cùng với việc lập bản đồ, định mốc giới, triều Lê Sơ cũng là nhà nước đầu tiên cho soạn sách Dư địa chí. Nguyễn Trãi - một trọng thần của nhà Lê đã bỏ ra nhiều công sức đi đến các vùng quê trên mọi miền đất nước, khảo tả và ghi chép công phu về diện mạo, địa hình sông núi, tên đất, tên làng, thổ nhưỡng, thuỷ văn, các sản phẩm đặc trưng và phong tục tập quán của từng vùng. Nguyễn Trãi biên soạn Dư địa chí năm Ất Mão (1435). Công trình của ông được đánh giá là tác phẩm địa lý học lịch sử đầu tiên góp phần vào việc khẳng định chủ quyền quốc gia, xác định cương vực địa giới và ghi nhận những nét cơ bản về nền văn hiến Việt Nam. - Tăng cường quyền lực của triều đình đối với vùng biên viễn. Vùng rừng núi biên giới là địa bàn cư trú của đồng bào các dân tộc thiểu số. Tù trưởng là những người có quyền lực trong các bộ tộc. Thu phục được các tù trưởng đồng nghĩa với thu phục được cả bộ óc và chính họ sẽ là "tai, mắt”, là lực lượng tiên phong của triều đình trong công cuộc giữ gìn, bảo vệ lãnh thổ biên cương. Trong những năm chiến tranh chống Minh, nhiều tù trưởng và đồng bào các dân tộc đã hết lòng ủng hộ nghĩa quân Lam Sơn, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc khởi nghĩa. Sau khi triều Lê Sơ được thiết lập, trong chính sách đối với vùng biên viễn, cũng như các triều đại phong kiến trước, triều Lê vẫn tiếp tục duy trì quyền cai quản của các tù trưởng đối với bộ tộc của mình và cho con cháu họ được quyền thế tập. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có một số tù trưởng có mưu toan nổi dậy cát cứ, không chịu thần phục triều đình. Hành động này chẳng những cản trở việc tăng cường quyền lực của nhà Lê trên phạm vi cả nước, đe dọa sự thống nhất quốc gia, khối đoàn kết dân tộc mà còn tạo ra nguy cơ xâm chiếm của các thế lực ngoại bang đối với đất nước. Ý thức rõ vai trò của các thổ tù và đồng bào dân tộc trong việc bảo vệ lãnh thổ biên giới quốc gia, nhà Lê nhận thấy cần phải thu phục các tù trưởng. Theo gương các nhà nước Lý, Trần, các vua Lê tiếp tục thực hiện chính sách thu phục tầng lớp thống trị ở các miền biên viễn nhằm tăng cường sự quản lý chặt chẽ của chính quyền trung ương đối với vùng biên viễn, không để cho kẻ thù lôi kéo họ chống đối lại triều đình. Triều Lê đặt ra một số chức quan và tước phẩm để bổ nhiệm và ban cho các tù trưởng miền núi nhằm biến họ thành những viên quan của triều đình, ràng buộc họ bằng quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của những viên quan địa phương đối với chính quyền trung ương. Các thổ tù được ban chức tước, được cai quản nhân dân trong địa bàn của họ theo chế độ, phong tục tập quán riêng của từng bộ tộc và có trách nhiệm hằng năm phải nộp cống phú cho triều đình. Năm Mậu Thân (1428), khi sắp đặt đơn vị hành chính và chấn chỉnh bộ máy thống trị, tại các châu, bên cạnh các chức Thiêm phán, Tào vận, Phòng ngự sứ, Chiêu thảo sứ, triều đình Lê Sơ còn đặt chức Tri châu, Đại tri châu dành riêng cho các thổ tù. Sử gia Phan Huy Chú chép rằng: Lê Thái Tổ đã “đặt các chức Thủ ngự, Đoàn luyện, trao cho các tù trưởng ngoại phiên. Giản hoặc có tù trưởng nào quy thuận có công to, cũng giao cho trọng chúc, như những chức Nhập nội, Tư không, Bình chương sự, cùng các chức Thượng tướng quân, Đại tướng quân"51. Nhiều tù trưởng được nhận chức quan, được quyền thế tập như: Xa Khả Tham, tù trưởng người Thái ở Mộc Châu được phong là Nhập nội tư không coi giữ trấn Đà Giang ở vùng lưu vực sông Đà. Các con của Xa Khả Tham đều được phong là Đại tướng quân. Con trai Đèo Cát Hãn, tù trưởng châu Phục Lễ, là Đèo Mạnh Vượng sau khi quy hàng được vua Lê Thái Tông cho làm Nhập nội tư mã tri bản châu quân dân sự, tước Quan phục hầu. Chính sách này đều được thực hiện ở các triều vua kế tiếp. Dưới triều vua Lê Thánh Tông có tù trưởng được ban tước Quận công. Ngoài việc ban chức tước, các vua Lê còn ban hành một số chính sách ưu đãi cho các tù trưởng. Vua Lê Thái Tông cho phép các quan phụ đạo, thủ lĩnh các phiên trấn, người nào có con cháu đích, hoặc cùng một tịch hay khác tịch thì đều được tha thuế và sai dịch. Một số thổ tù khi đem đồ cống nộp cho triều đình, được vua ban thưởng. Đối với các cư dân miền núi, triều Lê Sơ cũng luôn mong họ "hoà hợp cùng cộng đồng và dành cho họ một số ưu đãi như: án trọng tục lệ riêng; thực hiện việc giảm nhẹ tô thuế, những khi đói kém triều đình mở kho phát chẩn cứu tế. Nhà nước còn chú trọng khai hoang, mở rộng diện tích canh tác nhằm phát triển kinh tế những vùng biên giới, ven biển. Cùng với những ưu đãi trên, nhà Lê còn thực thi những biện pháp cứng rắn nhằm kiềm chế các thổ quan: Các tù trưởng nhận chức tước phải chịu sự giám sát chặt chẽ của triều đình và phải thực hiện nghiêm các quy định; khi tiếp kiến với quan triều đình, các thổ quan phải đội mũ, đeo đai và thực hiện các nghi thức triều quan; các tù trưởng không được bí mật liên kết với quan lại ở Kinh thành; các thổ quan được toàn quyền tự trị nhưng con cháu họ không được quyền thế tập chức vụ ở địa phương nếu không được triều đình chấp thuận. Tháng 8 năm Mậu Tuất (1478), triều đình quy định các tù trưởng ở biên viễn phải về Kinh chầu mừng mỗi năm hai lần vào tháng giêng và tháng 7. Nếu tù trưởng nào bỏ lễ chầu một lần bị bãi chức, bỏ hai lần bị bắt về Kinh trị tội. Triều đình kiên quyết trấn áp những hành động chống đối, cát cứ, gây bạo loạn của các tù trưởng. Cuộc nổi dậy cát cứ của hai tù trưởng là Bế Khắc Thiệu và Nông Đắc Thái ở châu Thạch Lâm thuộc trấn Thái Nguyên; cuộc nổi dậy do Đèo Cát Hãn, tù trưởng châu Ninh Viễn* cầm đầu xảy ra ở miền Tây Bắc đều nhanh chóng bị quân triều đình dẹp tan. Đặc biệt, tháng 3 năm Tân Hợi (1431), sau khi đánh tan quân phản nghịch của Nông Đắc Thái, Bế Khắc Thiệu, trước khi rút về Kinh, Lê Thái Tổ cho khắc bài thơ lên vách núi đá ở phía bắc thành Nà Lử - nơi đóng quân, nhằm khẳng định quyết tâm của ông và triều đình trong việc trấn áp phản loạn, bảo vệ chủ quyền quốc gia: Bất từ vạn lý chính sư đồ, Duy dục biên manh xích tử tô Thiên địa bất dung gian đảng tại, Cổ kim thuỳ xá bạn thần tru. (Chẳng từ muôn dặm cất quân đi, Mong cứu dân đen cõi biên thuỳ, Trời đất không dung phường gian ác, Xưa nay tội phản phải tru di). Dưới các triều vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông. các hành động cát cứ cũng đều bị dập tắt. Đặc biệt, đến triều vua Lê Thánh Tông, hầu hết các thổ tù đều quy phục, ít có những hành động tách khỏi sự quản lý của triều đình trung ương. Họ cùng bộ tộc là một lực lượng quan trọng phòng giữ, bảo vệ vùng địa đầu đất nước. Nhiều cuộc cướp phá của các thế lực ngoại bang được các thổ tù kịp thời cấp báo cho triều đình; các thổ binh luôn sát cánh chiến đấu cùng quân triều đình trong công cuộc giữ gìn vùng biên cương quốc gia. - Cắt cử những viên quan tin cậy, có năng lực ở miền xuôi lên trấn trị những vùng biên viễn hiểm yếu với yêu cầu trách nhiệm cao. Ngay sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ đã hạ chiếu cho các đại thần đề cử những người có khả năng đảm nhận chức vụ trấn thủ ở những nơi xung yếu. Chiếu ghi rõ: "Trấn thủ những nơi xung yếu ở đầu nguồn và các cửa biển. Nhũng chức quân này phải dùng người tinh thục, tài năng, thanh liêm, chính trực"52. Những viên quan này có nhiệm vụ cai quản các vùng biên giới và giám sát các thổ quan địa phương. Đây là một nét mới của triều Lê Sơ nhằm tăng cường hơn nữa sức mạnh của cánh quyền trung ương đối với vùng biên giới. Các vua Lê ban nhiều sắc chỉ nhắc nhở nhiệm vụ cho các quan trấn giữ biên cương. Sử cũ còn ghi Lê Thánh Tông nhiều lần phủ dụ quan quân nơi biên trấn phải lo tròn trách nhiệm của mình. Năm Canh Thìn (1460), ngay khi vừa lên ngôi, trong chỉ dụ cho các quan phủ, lộ, trấn, vua Lê Thánh Tông chỉ rõ: "Ai ở cõi biên giới thì phải giữ quan ải cẩn thận, không được thông đồng với người nước ngoài”53. Năm Đinh Hợi (1467), vua Lê Thánh Tông ban một sắc dụ riêng cho các quan trấn thủ và phó binh các vệ ở các xứ An Bang, Lạng Sơn, Tuyên Quang: “Các ngươi chức vụ đứng đầu một phương khống chế cả cõi biên thuỳ, phải phòng bị điều bất trắc, để ngăn ngừa giặc ngoại xâm. Cần phải khuyên bảo các tướng hiệu răn đe quân lính, không được quen thói cũ, bỏ trốn về nhà, để trống vị trí phòng thủ, kẻ nào trái lệnh thì trị tội nặng hơn luật thường"54. Năm Mậu Tý (1468), Lê Thánh Tông ra sắc lệnh về hạn định thời gian đối với những viên quan nhậm trị ở vùng biên viễn. Theo sắc chỉ đó, phàm những viên quan giữ việc ở nơi nước độc chốn biên cương xa xôi, nếu làm tốt phận sự "Biết cách nuôi vỗ dân, đốc thúc không phiền nhiễu dân mà vẫn thu đủ thuế, sau 6 năm sẽ được cho chuyển về miền xuôi; nếu ai kiếm cớ đau ốm để né tránh, nộp thuế thiếu nhiều thì lại phải bổ đi miền biên cương xa, đủ 6 năm nữa mới được quyết định lại"55. Nếu những quan quân nào không làm tốt nhiệm vụ trấn giữ biên giới sẽ bị xử bằng những hình phạt nặng nhất. Trong Bộ luật Hồng Đức, Điều 243 chương Quân chính ghi: Các tướng sĩ phòng giữ nơi quan ải, nếu phòng bị không cẩn thận, dò la không đích thực để quân giặc đến bất ngờ đánh úp thì đều phải chém. Điều 278 ghi: Những quan ải không khám xét cẩn thận, để kẻ gian đưa lọt tin tức ra ngoài hay có kẻ gian lọt vào trong hạt mình thì bị xử tội đồ, tội lưu hay tử...Luật cũng có cả những quy định cụ thể về chế độ kiểm tra, kiểm soát ở các cửa sông, biển, cảng ven biển nhằm giữ gìn an ninh quốc gia và chủ quyền đất nước. Trừ thuyền riêng của những quan đại thần hàm nhị phẩm trở lên và thuyền của những quan coi giữ lăng miếu, việc đi lại của những viên quan khác đều phải khám xét theo lệ. - Tăng cường lực lượng trấn giữ và kiểm soát các hoạt động ở vùng biên giới. Việc gìn giữ thường xuyên các miền biên giới được triều đình giao cho các viên quan Phòng ngự sứ, Chiêu thảo sứ, quân các châu, huyện và thổ binh ở các động, sách. Lực lượng tại chỗ này có nhiệm vụ kiểm soát, canh giữ các cửa ải nhỏ và giữ gìn an ninh trật tự tại các địa phương. Tại các cửa ải quan trọng, triều đình cho đặt các đồn lũy do quân địa phương trấn giữ như các đồn lũy Vạn Ninh, Tân Yên được lập ở An Bang để kiểm soát hoạt động ở vùng này. Nhằm bảo vệ vùng biển quốc gia, triều đình Lê Sơ đã xây dựng thuỷ quân thành lực lượng độc lập với một hệ thống tổ chức chặt chẽ, biên chế thống nhất, có một chế độ huấn luyện riêng biệt phù hợp với tính chất, nhiệm vụ của binh thủy. Chế độ kiểm tra, kiểm soát ở các vùng ven biển, các cửa sông, cửa biển cũng được quy định cụ thể trong Bộ luật Hồng Đức. Với tinh thần chủ động và những biện pháp tích cực trong việc bảo vệ biên cương nên một thế kỷ trị vì của triều Lê Sơ, mọi âm mưu xâm phạm của các thế lực thù địch bị thất bại, đất nước không bị nạn ngoại xâm. Vậy là tích cực chủ động phòng giữ lãnh thổ biên cương, thực hiện "Biên phòng hảo vị tứ phương lược" thực sự là một trong những quan điểm nổi bật trong tư tưởng quân sự của triều đại Lê Sơ. 4. Đối ngoại quân sự khôn khéo để giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia Nhằm tạo lập nền hoà bình để phục hưng đất nước, trong quan hệ với các quốc gia lân bang, triều đình Lê Sơ chủ trương thiết lập mối bang giao hòa bình, không muốn xảy ra chiến tranh. Tùy tình hình, thái độ và thực lực của mỗi nước, triều đình Lê Sơ có những chính sách đối ngoại quân sự khác nhau, khi mềm dẻo, lúc cứng rắn nhằm đạt được mục đích giữ vững độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. - Tránh gây căng thẳng với nhà Minh ở phía Bắc. Nhà Minh là một đế chế mạnh, từng thiết lập ách đô hộ ở nước ta hơn 20 năm. Mặc dù đã bị đánh bại, nhưng cũng như các triều đại trước, triều Minh không bao giờ muốn từ bỏ ý đồ áp đặt ách cai trị đối với Đại Việt. Do vậy, để giữ vững chủ quyền dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, triều đình Lê Sơ chủ trương thực hiện đường lối ngoại giao “vừa nhu vừa cương", một mặt tỏ ra chịu thần phục, thực hiện nghĩa vụ triều cống của nước nhỏ đối với nước lớn; mặt khác, kiên quyết đấu tranh bảo vệ độc lập và chủ quyền lãnh thổ quốc gia trước những hành động gây rối, lấn chiếm vùng biên giới. Vấn đề quan hệ với nhà Minh đã được Lê Lợi - lãnh tụ tối cao của quân Lam Sơn - vị vua đầu tiên của vương triều Lê Sơ suy tính ngay từ năm cuối của cuộc chiến tranh giải phóng đất nước. Cuối năm Bính Ngọ (1426), mặc dù diễn biến chiến sự đã nghiêng hẳn về phía nghĩa quân, nhưng Lê Lợi vẫn quyết định không đánh thành Đông Quan - căn cứ đầu não của quân xâm lược nhà Minh, mà chỉ tổ chức vây hãm để thuyết phục chúng đầu hàng. Quyết định này không chỉ nhằm đỡ tổn thất xương máu cho cả hai bên, mà còn là một chiến lược ngoại giao có tầm nhìn xuyên thế kỷ, với mục đích vì một nền hoà bình, tránh tái diễn chiến tranh. Cuối năm Đinh Mùi (1427), sau khi các đạo viện binh bị tiêu diệt, Vương Thông phải chấp nhận giảng hoà, xin được rút quân về nước. Trước những tội ác của quân thù đối với nhân dân, nhiều tướng sĩ đề nghị Lê Lợi cho giết hết quân giặc; nhưng để tránh một cuộc chiến tranh trong tương lai, buộc kẻ thù phải từ bỏ ý đồ thôn tính và thừa nhận nền độc lập của ta, đồng thời mở đường cho mối quan hệ bình thường sau này, Lê Lợi và bộ thống soái nghĩa quân quyết định kết thúc cuộc chiến một cách nhân đạo, đỡ làm mất mặt "thiên triều”. Giải thích cho tướng sĩ về việc làm này, ông nói: "Phục thù báo oán là thường tình của mọi người. Nhưng không muốn giết người là bản tâm của bậc nhân giả. Vả chăng người ta đã hàng mà mình giết đi thì không còn gì ghê gớm hơn việc làm không lành ấy. Nếu vì hả giận trong chốc lát mà để muôn đời mang tiếng giết kẻ đã hàng thì chi bằng để sống muôn vạn người mà dập tắt mối chiến tranh về sau, sử xanh ghi chép nghìn thủa còn thơm, họ chẳng tốt đẹp sao?"56. Vì lẽ ấy, Lê Lợi đã cho tổ chức Hội thề (thực chất là lễ đầu hàng) ở phía nam thành Đông Quan với sự tham dự của đại diện nghĩa quân và các tướng lĩnh cao cấp của đạo quân xâm lược nhà Minh. Tại hội thề, thay mặt toàn quân, chủ tướng giặc Vương Thông trịnh trọng xin thề rút ngay toàn bộ quân về nước, từ bỏ ý đồ xâm chiếm. Với lòng nhân đạo, nghĩa quân chuẩn bị đầy đủ lương thực, phương tiện và đảm bảo an toàn tính mạng cho quân Minh lên đường về nước. Nhân dân các lộ Bắc Giang, Lạng Giang sửa chữa lại đường sá, cầu cống cho chúng rút quân dễ dàng. Chỉ trong một thời gian ngắn, hơn 500 chiếc thuyền, vài nghìn ngựa cùng lương ăn cho gần 10 vạn quân đã được lo đủ trong hoàn cảnh đất nước ta vừa trải qua nhiều năm chiến tranh. Việc làm của nhân dân ta khiến quân Minh cảm phục, trước ngày lên đường cả quân lẫn tướng kéo đến quân doanh Bồ Đề lạy tạ Bình Định vương Lê Lợi. Cũng trong thời gian này, Lê Lợi còn cử một phái đoàn do Lê Thiếu Dĩnh cầm đầu sang nhà Minh dâng biểu cầu phong. Những việc làm nói trên của Lê Lợi và bộ thống soái nghĩa quân Lam Sơn nhằm thực hiện một mục đích cao cả: "Sửa hoà hiếu cho hai nước. Tắt muôn đời chiến tranh", tạo điều kiện để mối quan hệ bang giao giữa hai nước sang một trang khác. Mặc dù đã phải rút quân ra khỏi Đại Việt, nhưng cậy thế nước lớn, triều Minh không ngừng đưa ra những yêu sách về cống nạp, tù binh, vũ khí... đòi nhà Lê phải đáp ứng. Để giữ vững hoà khí với nhà Minh, vua Lê Thái Tổ cùng triều đình vừa mềm dẻo vừa kiên quyết đấu tranh bác bỏ những đòi hỏi quá đáng của chúng, đồng thời cũng yêu cầu triều Minh phải đáp ứng một số yêu cầu của ta (trả lại những người Việt đã bị quân Minh bắt đưa về Yên Kinh, trong đó có người con gái của Lê Lợi; thừa nhận Lê Lợi là vua Đại Việt...). Sau những cuộc trao đổi giữa sứ thần hai nước, các yêu cầu của hai bên được giải quyết ổn thoả. Năm Canh Tuất (1430), vấn đề người và vũ khí của quân Minh được giải quyết. Điều này được phản ánh rõ qua sắc chỉ của Minh Tuyên Tông gửi cho Lê Thái Tổ do Đào Công Soạn mang về tháng 4 năm Canh Tuất (1430): "Vũ khí là dùng để bảo vệ dân. Dân An Nam tất thảy đều là con đẻ ra trẫm. Nay giữ ở đấy hãy để ở đây cũng vậy thôi, tạm hay gác là không hỏi tới nữa”57. Đến năm Tân Hợi (1431), nhà Minh cho phái đoàn sứ thần do Hữu thị lang Chương Xưởng làm chánh sứ mang sắc phong sang Đại Việt, phong Lê đi làm "Quyền thự An Nam quốc sự". Với sắc phong này, nhà Minh mặc dù chưa phong vương vị nhưng đã công nhận chính quyền của Lê Lợi và thừa nhận quyền đứng đầu nước của ông, tức là đã công nhận nền độc lập của Đại Việt. Cũng từ đây, triều Lê giữ lệ 3 năm nộp cống một lần cho nhà Minh. Sự kiện trên cho thấy mối quan hệ giữa Đại Việt với Đại Minh đã được thiết lập. Đây là thắng lợi đầu tiên của triều Lê Sơ trong lịch sử. Đúng như Phan Huy Chú nhận xét: "Buổi đầu nhà Lê, sau khi đã bình giặc Ngô, chưa tiện nói rõ cầu phong, bấy giờ phải quyền nghi cho xong việc, cho nên trước hết giả lập con cháu họ Trần, dùng lời nói dịu dàng mềm dẻo để nhà Minh thôi việc binh mà nhận việc hoà hiếu. Đến khi Trần Cảo đã chết mới lại một phen bày tỏ, nói rõ cầu phong, thế mà vua Minh hay còn lần lữa chưa cho, trải ba năm mới cho tạm quyền việc nước, chưa chính thức phong vương vị. Như thế cũng đủ thấy sự thế bấy giờ là khó"58. Việc triều Minh không tiếp tục gây chiến tranh, kiến lập quan hệ ngoại giao chính thức với nhà Lê và thông qua quyết định tấn phong Lê Lợi vào tháng 11 năm Tân Hợi (1431) khẳng định sự đúng đắn của đường lối đối ngoại khôn khéo của Lê Thái Tổ. Dưới các đời vua kế tiếp, mối quan hệ bang giao vẫn được giữ vững và tiếp tục phát triển. Mỗi khi triều đình có vua băng hà hoặc lập vua mới hai bên đều thông báo cho nhau và cử đoàn sử thần sang điếu lễ hoặc chúc mừng. Nhưng khi nhà Minh có những hành động xâm lấn ở biên giới nhà Lê kiên quyết bảo vệ lãnh thổ bằng mọi biện pháp, khi giải quyết bằng ngoại giao, khi bằng sức mạnh quân sự. Vua Lê Nhân Tông thường khuyên răn các tướng ngoài biên ải phải cẩn trọng trong việc giải quyết vấn đề biên giới. Năm Mậu Thìn (1448), nghe tin nhà Minh cho sứ sang hội khám biên giới ở Quảng Tây, trước khi có hành động đối phó, vua cho cử quan lại đi khám xét thực hư, sau đó mới lệnh cho các địa phương tập hợp lực lượng. Từ năm Đinh Ty (1437), nhà Minh bắt đầu tấn phong Vương cho các vua triều Lê Sơ, mở đầu là Lê Thái Tông được phong là An Nam quốc vương. Điều này chứng tỏ nhà Minh đã phải thừa nhận quyền làm chủ chính thống của dòng họ Lê ở Đại Việt, sự ngang hàng của các vua Lê với các quốc gia khác. Trong thế kỷ XV, vấn đề biên giới giữa hai nước cũng luôn xảy ra những tranh chấp. Dưới đời vua Lê Thái Tông, vào những năm Mậu Ngọ (1438), Nhâm Tuất (1442) xảy ra một số vụ tranh chấp đất đai và cướp phá tài sản giữa hai châu giáp ranh là châu An Bình, Tư Lăng thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) và châu Tư Lang Hạ thuộc tỉnh Cao Bằng (Đại Việt). Quan lại hai châu đều có thư báo cáo sự việc lên triều đình hai nước. Triều đình Lê yêu cầu triều đình Minh "nghiêm cấm các châu ấy không được xâm phạm cướp bóc"59. Để giải quyết vấn đề, vua Minh đưa ra phương thức cùng cử người đến nơi xảy ra sự việc xem xét, xác minh, vua Lê đồng ý với cách giải quyết trên. Nhưng trên thực tế có những lần triều đình Minh không cho người đến hội khám như đã giao ước. Để đạt được mục đích hai bên giữ yên bờ cõi và không xâm chiếm lẫn nhau, triều đình Lê kiên trì trao đổi thông tư với triều đình Minh và quan tỉnh Quảng Tây, đề nghị tiến hành hội khám. Đến năm Đinh Mão (1447), đường biên giới giữa hai vùng đã được giải quyết thỏa đáng đáp ứng được lợi ích của cả hai bên. Lê Thánh Tông là vị vua yêu hoà bình, không muốn có chiến tranh, nhưng ông cũng rất kiên quyết, không nhân nhượng kẻ thù một khi chúng xâm phạm biên cương Tổ quốc. Quan điểm của Lê Thánh Tông là phải kiên quyết tranh biện, nếu họ không nghe, thì sai sứ sang trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Vấn đề tranh chấp ở vùng biên giới phía Bắc dưới triều Lê Thánh Tông được giải quyết khôn khéo, cứng rắn, đầy mưu lược, biểu hiện ở một số vụ điển hình sau: Vào năm Đinh Hợi (1467), Sầm Tổ Đức người phủ Trấn An, Quảng Tây đem hơn 1.000 người tung tin là đi bắt tên giặc Sầm Vọng đang trốn chạy rồi thừa cơ tiến sâu vào châu Thông Nông, phủ Bắc Bình (Cao Bằng) của Đại Việt cướp trâu bò, súc vật và bắt người... Sau đó lại chiếm cứ vùng châu Bảo Lạc. Nhưng lại tâu báo rằng có hai thôn Man Ly, Man Nhung của Đại Việt giả vờ quy phục Trấn An để cướp súc vật. Triều đình Lê Thánh Tông xem xét sự việc thấy rằng đây đều là những vu cáo của Sầm Tổ Đức, lệnh cho triều thần làm tờ tư thẩm cho bố chính ty Quảng Tây, đòi lại người và súc vật đã bị cướp. Hoặc, năm Quý Ty (1473), Quan Ngọc ở Long Châu được sự đồng tình của thổ quan Long Châu, Bằng Tường đã vượt biên vào châu Văn Uyên thuộc Lạng Sơn buôn lậu, rồi mua tranh bán cướp dẫn đến đánh nhau và kiện cáo, hơn nữa còn nhục mạ các đầu mục địa phương. Triều đình nhà Lê chỉ thị cho các quan sở tại bắt và tạm giữ Quan Ngọc và hàng hoá tranh chấp. Mục đích tạm giữ được nói rõ trong tờ tâu của bộ Lễ là: nhằm ngăn tệ xấu của bọn gian, để tắt mối rắc rối ở biên giới sau này. Bọn thổ quan ở Long Châu, Bằng Tường vì việc này đã trả thù bằng cách gây khó dễ việc cống sứ ngay năm sau (Giáp Ngọ - 1474), chúng đã bắt giữ chánh sứ triều đình Lê là Hoàng Dục đến 4 tháng không thả. Triều đình Đại Việt một mặt tư cho Tổng đốc Quảng Tây, mặt khác thông qua viên Khâm sai theo đường Vân Nam để đưa tờ tư lên cho vua Minh. Trong đó triều Lê đã kết hợp lý và tình để đấu tranh với triều Minh, khẳng định việc xâm phạm biên giới, bắt sứ bộ là hoàn toàn sai, phía triều đình Minh phải có trách nhiệm xử phạt các quan địa phương của mình. Không chỉ dùng lý lẽ để đấu tranh, triều Lê Thánh Tông còn có những biện pháp cứng rắn, quyết liệt để chống lại những hành động lấn chiếm, cướp bóc, xâm phạm chủ quyền của phong kiến phương Bắc. Sử cũ chép: Vào những năm Quý Tỵ (1473), Ất Mùi (1475), Đinh Dậu (1477)... Đại Việt đem quân đi dẹp quân lấn chiếm. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí cho biết: "Nhân có bọn Hoàng Chương Mã người Bảo Lộc, vệ Tuyên Quang tụ tập bọn xấu thành đảng cướp bóc dân các vùng biên giới, triều đình cho phép vệ Tuyên Quang đem quân truy nã. Đồng thời có đưa thư cho phía Trấn An, Quảng Nam thuộc Quảng Tây phối hợp đuổi bắt. Có lúc quân của vệ Tuyên Quang đuổi bắt vượt cả sang vùng Quảng Tây và Vân Nam"60. Trong thư tịch Trung Quốc cũng ít nhiều nhắc đến những sự kiện vừa nêu trên. Minh sử chép: Trước kia An Nam nhập cống phần nhiều đem đồ riêng, đi theo đường Bằng Tường, Long Châu, thiếu người vận chuyển, lại hay gây hấn. Mùa đông năm Thành Hoá thứ 15 (1479), Hạo (chỉ vua Lê Thánh Tông) đem hơn 800 quân vượt quá địa giới Mông Tự - Vân Nam, nói phao là đi bắt cướp, tự tiện dựng nhà làm doanh trại để ở. Các bề tôi giữ biên giới hết sức ngăn chặn, mới trở về. Từ những dòng ghi chép trên của hai phía đã cho chúng ta thấy triều vua Lê Thánh Tông đã chủ động giữ từng tấc đất biên cương, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Lê Thánh Tông cùng triều thần đã dựa vào thực lực của mình, xây dựng được quốc gia Đại Việt mà kẻ thù cũng phải thừa nhận là “Quốc phú binh cường" để đấu tranh với chúng. Chính sách hoà thân với các quan trấn trị địa phương phía Bắc của triều Lê Thánh Tông đã tạo thành một sức mạnh, một uy thế lớn khiến cho quan lại triều đình Minh cũng phải nể phục. Là người đứng đầu quốc gia, vua Lê Thánh Tông luôn theo dõi nội tình của triều đình Minh trong từng thời kỳ để đưa ra những phương sách phù hợp, để đạt được kết quả. Thắng lợi to lớn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cùng chính sách khôn khéo, cương quyết của Lê Thái Tổ và các vua kế nhiệm đã bảo toàn được lãnh thổ quốc gia, buộc nhà Minh phải thiết lập mối quan hệ bình thường với nhà Lê và không thể thực thi được mưu đồ cát cứ. Có thể nói, mối quan hệ với nhà Minh dưới thời Lê Sơ cực kỳ phức tạp và tế nhị vì triều Minh luôn cậy là nước lớn đứng trên thế mạnh và luôn mượn cớ để gây sự xâm chiếm nhưng triều đình nhà Lê đã có một đối sách khôn khéo vừa mềm dẻo, vừa kiên quyết. Do vậy, biên giới nước ta ở phía Bắc được ổn định và bảo toàn trong suốt hơn 3 thế kỷ. Đạt được kết quả đó còn do sự cường thịnh về mọi mặt của Đại Việt ở thế kỷ XV mà triều Lê Sơ đã có nhiều công lao khiến triều Minh phải kiêng nể. Phan Huy Chú đã nhận xét về mối quan hệ của Đại Việt với đế chế Trung Hoa: "Từng xét, đời Đinh, đời Lê được sách phong gọi là quận vương, đến đời Lý mới phong là An Nam Quốc Vương. Đời Trần thì hạn ba năm một kỳ cống, đến đời hậu Lê mới định lệ 6 năm cống cả hai kỳ, xem sự thể không giống nhau thấy thế nước mỗi lúc một khác. Bởi vì thanh danh rạng rỡ, phong khí ngày một mở mang, văn vật ngày một mới mẻ nên Thượng quốc phải coi trọng, phong cho danh hiệu vẻ vang nào khác như được ngôi bắc thần đoái đến. Còn như khi sứ giả đi lại thì có lễ tiếp đãi, bờ cõi hai nước thì có văn thư biện bạch, đó đều là việc có quan hệ đến quốc thể và lân giao"61. - Kiên quyết đập tan các hành động lấn chiếm của Chămpa ở phía Nam Là nước láng giềng ở về phía Nam của Đại Việt, Chămpa vốn lập quốc từ rất sớm và đã từng có một lịch sử phát triển lâu dài, một nền văn hoá rực rỡ. Trong buổi đầu triều Lê Sơ, lãnh thổ Đại Việt ở phía Nam đến vùng Thuận Hoá. Sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ xác định Hoá Châu là trọng trấn nên đã phái các trọng thần vào trấn thủ vùng đất này. Đèo Hải Vân là cương giới phân chia giữa hai nước Việt - Chămpa. Dưới các triều đại trước, Chămpa và Đại Việt luôn có các cuộc xung đột tranh giành một số vùng đất của nước Chămpa đã thuộc về Đại Việt Thế kỷ XV, tuy là nước yếu nhưng các vua Chămpa đều muốn giành lại những vùng lãnh thổ đã mất, vương triều Lê Sơ kiên quyết không để mất lãnh thổ của quốc gia, vì thế vùng biên giới hai nước luôn xảy ra xung đột vũ trang. Trong những năm đầu, chiến công đánh thắng quân Minh của Lê Thái Tổ khiến Chămpa kính nể Đại Việt. Ngay từ năm Đinh Mùi (1427), khi Lê đi đang đóng đại bản doanh ở Bồ Đề (Gia Lâm - Hà Nội), vua Chămpa đã cho sứ thần mang sản vật địa phương đến tiến cống và xin đặt quan hệ hoà hiếu. Nhưng đến năm Quý Sửu (1433), vua Lê Thái Tổ băng hà, Thái tử Nguyên Long mới 11 tuổi lên ngôi, vua Chămpa là Ba Đích Lại nhân cơ hội này muốn khôi phục lại những vùng đất đã mất trước đây liền đích thân đem quân đến đóng sát biên giới Đại Việt, đồng thời sai chiến thuyền đột nhập vào vùng biển Cửa Việt, bắt một số người Việt đem về nước để dò hỏi tình hình phòng thủ của nhà Lê ở vùng Thuận Hoá. Hành động của quân Chămpa đã bị nhân dân địa phương đánh trả. Được tin quân Chămpa có những hành động quấy phá biên giới, triều đình nhà Lê phái Tư mã Lê Liệt đốc suất quân các đạo Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá đi kinh lược vùng biên giới Đại Việt Chămpa, tăng cường phòng thủ những nơi hiểm yếu. Sau đó lại cử các tướng Lê Khôi, Lê Chuyết đem quân vào tiếp ứng. Trước lực lượng hùng hậu của các đạo quân nhà Lê, xét thấy không thể đương đầu nổi, vua Chămpa vội vã cho quân rút khỏi biên giới, đồng thời thả những người Việt đã bắt và sai sứ mang lễ vật sang xin giảng hoà, nối lại quan hệ hoà hiếu. Triều đình nhà Lê cũng cho sứ sang nước Chămpa đáp lễ, củng cố thêm tình láng giềng thân thiện giữa hai quốc gia. Trong đời vua Lê Thái Tông, quan hệ bang giao giữa hai nước đã được nối lại. Năm Tân Dậu (1441), Ba Đích Lại chết, cháu là Bí Cai lên nối ngôi (1441-1446). Bí Cai cho người sang cống và xin thần phục triều Minh, muốn dựa vào nhà Minh chống lại Đại Việt Năm Quý Hợi (1443), vua Lê Thái Tông mất, Bang Cơ mới 2 tuổi lên ngôi. Mặc dù thực lực không mạnh, nhưng chớp cơ hội triều Lê đang gặp khó khăn, năm Giáp Tý (1444), Bí Cai dẫn quân Chămpa theo đường thủy tiến vào vây hãm thành Hoá Châu, cướp bóc các vùng lân cận. Tướng nhà Lê trấn thủ thành Hoá Châu là Lê Chuyết phải dùng kế cho quân đào đường ngầm xuyên qua thành, bất ngờ tung quân ra đánh, tiêu diệt và bắt được nhiều tù binh, buộc Bí Cai phải lui quân. Ít ngày sau, quân Chămpa lại kéo đến đánh úp Hóa Châu lần thứ hai nhưng cũng thất bại. Trước các cuộc tiến công liên tiếp của quân Chămpa, triều đình Lê liền phái Thái bảo Lê Bôi và tướng Lê Khả đem 10 vạn binh vào tiếp ứng khiến quân Chămpa không chống đỡ kịp phải vội vã rút quân về bên kia biên giới. Năm Ất Sửu (1445), một lần nữa Bí Cai lại đem quân vào cướp phá thành An Dung ở Hoá Châu. Lúc này đang là mùa lụt, Lê Chuyết lợi dụng nước sông dâng cao chỉ huy thuỷ binh đang đêm tiến công vào đội hình của quân Chăm, tiêu diệt được nhiều tên và bắt được hơn 200 chiến thuyền. Bí Cai cùng tàn quân ngay trong đêm phải tìm đường trốn chạy. Thừa thắng, Lê Chuyết cho quân đuổi theo khiến quân Chămpa phải bỏ thuyền lên bộ theo đường nơi mới chạy thoát về nước. Tinh thần đoàn kết, ý chí kiên cường của quân dân Thuận Hoá đã được vua Lê Nhân Tông khen ngợi và ban chiếu dụ tha tô thuế trong 3 năm cho những ấp nào bị giặc cướp phá. Tổng quản Lê Chuyết được ca ngợi là "bức tường dài muôn dặm ở phương Nam". Những cuộc xung đột biên giới diễn ra trong thời gian này đều do phía Chămpa phát động với mục đích giành lại vùng đất Thuận Hoá. Còn với triều Lê, đây thực sự là những cuộc chiến đấu mang tính tự vệ, nhằm bảo toàn cương giới lãnh thổ quốc gia; bởi, Thuận Hoá mặc dù là đất cũ của Chiêm Thành (châu Ô và châu Lý), nhưng từ năm 1306 vua Chế Mân đã cắt dâng cho vua Trần làm đồ sính lễ cưới công chúa Huyền Trân. Vùng đất này đã được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt và được khai thác qua nhiều đời, cư dân ở đây phần lớn là người Việt. Những hành động cướp phá biên giới liên tục của Chămpa khiến triều đình Lê Sơ không thể làm ngơ, phải xuất quân đánh dẹp. Tháng giêng năm Bính Dần (1446), vua Lê Nhân Tông sai đô đốc Lê Thụ, Lê Khả, thiếu phó Lê Khắc Phục thống lĩnh 60 vạn quân đi đánh Chămpa. Tháng 2, quân nhà Lê tiến vào đất Chămpa, đến các xứ Ly Giang (nay thuộc đất Thăng Bình, Quảng Nam), Đa Lang, Cổ Lũy (nay thuộc đất Quảng Ngãi). Sau khi khai thông đường thuỷ, dựng đồn đắp thành lũy, đánh tan các đạo quân phòng thủ biên giới của nước Chămpa, quân nhà Lê tiến thẳng vào cửa biển Thị Nại (thuộc Quy Nhơn), bao vây thành Chà Bàn. Sau một thời gian vây hãm, lại có một bộ phận quân Chămpa làm nội ứng, đến tháng 4, quân nhà Lê hạ được thành Chà Bàn, bắt sống vua Bí Cai và toàn bộ phi tần, bộ thuộc, thu nhiều voi ngựa, khí giới mang về Thăng Long. Sau khi quân nhà Lê rút về nước, Ma Ha Quý Lai sai cận thần mang lễ vật và biểu sang dâng vua Lê xin được làm vua và làm phiên thần của Đại Việt. Quan hệ hai nước trở thành quan hệ thần thuộc. Sang thời Lê Thánh Tông (1460-1497), ngay khi mới lên ngôi, vua Lê Thánh Tông yêu cầu Chămpa phải duy trì quan hệ với Đại Việt như với triều đình nhà Minh. Ngoài những lễ vật cống hằng năm, còn phải hiến dâng những sản vật quý, như voi trắng, tê giác, châu báu... Vua Chămpa là Trà Toàn không chịu, quyết định cắt đứt quan hệ với triều đình nhà Lê và nhiều lần cho quân đánh phá Hóa Châu. Năm Mậu Tý (1468), thủy quân Chămpa tiến vào đánh phá Hoá Châu. Đặc biệt hơn, năm Canh Dần (1470), Trà Toàn đích thân chỉ huy hơn 10 vạn quân gồm cả thủy, bộ tiến đánh Hóa Châu, tướng giữ thành là Phạm Văn Hiển không chống cự nổi. Những hành động bạo ngược của Trà Toàn càng thúc đẩy vua Lê Thánh Tông quyết định khởi binh chinh phạt Chămpa. Ngày 6 tháng 11 năm Canh Dần (1470), vua Lê Thánh Tông hạ chiêu xuất quân chỉ rõ: Chămpa "coi khinh dân ta hơn cỏ rác, nảy dã tâm sâu độc hại người; tưởng chiếm nước ta dễ tự chơi cờ… muốn đạp đổ tông miếu dòng giống nhà ta...”62; Mục đích cuộc tiến công là nhằm “Giết kẻ thù chín đời theo nghĩa Xuân Thu, định mưu kế vẹn toàn cho yên đất nước. Cứu muôn dân thoát khỏi vòng điêu đứng, dẹp nước loạn đã trái đạo lâu năm. Đánh phản nghịch, cứu sinh dân, trồng mầm nhân, nhổ cội ác”63. Thái sư Đinh Liệt được cử làm Chinh lỗ tướng quân cùng Thái bảo Lê Niệm làm Phó tướng chỉ huy thủy quân ba phủ vệ Đông, Nam, Bắc gồm 15 vạn lên đường. Vua Lê Thánh Tông sau khi cáo Thái miếu, thân xuất đại quân tiếp theo. Tháng chạp năm Canh Dần (1470), các đạo quân đến Thiết Sơn (thuộc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An). Đầu tháng 2 năm Tân Mão (147l), đại quân tiến vào hai cửa biển Tân Áp và Cựu Tọa (thuộc đất Quảng Nam ngày nay). Ngày 27 tháng 2 năm Tân Mão (147l), đại quân nhà Lê đánh bại quân Chămpa ở cửa biển Thị Nại; ngày 28, tiến đến bao vây thành Trà Bàn, sau đó dùng thang đột nhập thành; 3 ngày sau chiếm được thành, giết hơn 4 vạn, bắt hơn 3 vạn quân Chămpa trong đó có vua Trà Toàn. Sau khi đánh bại quân Chămpa, Lê Thánh Tông chiếm lại đất Đại Chiêm (Quảng Nam), Cổ Lũy (Quảng Ngãi) - tức đất phủ Thăng Hoa, vùng đất trước kia họ Hồ đã khai mở. Đến tháng 6 năm Tân Mão (1471), toàn bộ vùng đất vừa giành lại từ quân Chăm được xác lập thành đạo thứ 13 - đạo Quảng Nam, gồm 3 phủ, 9 huyện. Đối với phần đất đai còn lại của Chămpa (từ phía nam Đại Lãnh trở vào), triều Lê thực hiện chính sách chia nhỏ (chia thành ba nước: Chămpa, Nam Bàn, Hoa Anh) nhằm làm cho lực lượng Chămpa suy yếu và mãi lệ thuộc vào Đại Việt. Nước Chămpa là vùng đất phía nam Thạch Bi giao cho Bô Trì Trì (một viên tướng của Chămpa sau khi Trà Bàn thất thủ đã đầu hàng nhà Lê); Nam Bàn là vùng đất phía tây (Thủy xá và Hỏa xá - miền Kon Tum và Buôn Ma Thuột) và nước Hoa Anh. Hai nước này phong cho dòng dõi vua Chămpa cũ. Sau sự kiện này, Chămpa ngày càng suy yếu, kiệt quệ và bị các triều đại sau Lê Sơ xâm lấn dần, đến cuối thế kỷ XVII bị tiêu diệt hoàn toàn. Trong thời Lê Sơ, cũng có lần người Chămpa vùng dậy hòng khôi phục lại đất nước nhưng đều bị triều Lê trấn áp ngay. Như vậy, từ các cuộc chiến tranh xâm lấn biên giới, giai cấp thống trị Chămpa đã đưa chiến tranh về lãnh thổ của mình. Cuộc tiến công năm Tân Mão (1471) của vua Lê Thánh Tông đã chấm dứt hoàn toàn các cuộc lấn chiếm của người Chămpa và quốc gia Chămpa bị chia nhỏ không còn như trước. Với quy luật "mạnh được, yếu thua” của thời đại phong kiến, sự suy yếu dẫn đến diệt vong của quốc gia Chămpa sau đó là điều tất yếu. Vấn đề Chămpa đã được giải quyết cơ bản dưới triều Lê Sơ mà đòn quyết định chính được thực hiện dưới thời vua Lê Thánh Tông - thời kỳ cực thịnh nhất của triều đại này. - Trấn áp các hành động lấn chiếm của Ai Lao ở phía Tây. Ai Lao là nước láng giềng tiếp giáp phía Tây của Đại Việt hai bên có đường biên giới chung dài hàng trăm kilômét đường núi rừng hiểm trở. Ngay từ thời kỳ còn là quân khởi nghĩa hoạt động ở vùng thượng du Thanh Hoá, Lê Lợi đã tạo được mối quan hệ tốt đẹp với Ai Lao. Ai Lao là đất đứng chân và từng giúp đỡ quân khởi nghĩa về lương thảo, khí giới, voi chiến và che chở cho những lãnh tụ và nghĩa quân khi bị quân giặc truy đuổi. Từ năm Canh Tý (1420), quan hệ hoà hiếu, giúp đỡ ấy không còn bởi sự gièm pha của Lộ Văn Luật và sự mua chuộc, uy hiếp của quân Minh. Đã có những lần Ai Lao đem quân tập kích sau lưng nghĩa quân Lam Sơn nhưng đều bị đánh bại. Sau cuộc đại thắng quân Minh, uy thế của Đại Việt không ngừng được nâng cao, Ai Lao nhiều lần cử sứ giả sang giao hiếu và triều cống. Khi vương triều có biến, Ai Lao còn nhờ sự giúp đỡ của triều Lê. Trong khoảng 10 năm (1428-1438), nội bộ giai cấp thống trị Ai Lao bước vào thời kỳ khủng hoảng, tranh giành quyền lực diễn ra gay gắt. Năm Giáp Dần (1434), vua Ai Lao là Côn Cô bị bầy tôi là Nữu Tại uy hiếp lật đổ, triều đình Ai Lao đã cho người sang Đại Việt cầu cứu. Triều Lê sai Lê Bạn sang dàn xếp nhưng không có kết quả. Côn Cô lại sai sứ sang triều cống và xin vua Lê đưa quân sang can thiệp. Triều đình quyết định cử Thiếu uý Xa Miên là một tù trưởng người Thái ở Mộc Châu đem quân địa phương sang giúp Côn Cô. Khi quân của Xa Miên sang tới nơi thì Côn Cô đã bị giết và Dụ Quần đã được lập nên làm vua. Dụ Quần dâng 3 thớt voi và nhiều vàng bạc, lễ vật xin hàng nhà Lê. Sau đó Xa Miên được lệnh rút quân về nước. Từ đó về sau Ai Lao vẫn giữ lệ một nước phiên thần, đều đặn nộp cống cho triều đình Lê. Tuy vậy, trong thời gian này, một số thổ tù người Thái thuộc Ai Lao ở vùng biên giới phía Tây Bắc vẫn thường liên kết với một vài thổ tù người Thái ở vùng Hưng Hoá của Đại Việt kéo quân sang cướp phá. Mỗi lần như vậy, triều đình nhà Lê đều phải cử tướng hoặc chính nhà vua thân chinh đem quân lên đánh đuổi quân Ai Lao ra khỏi biên giới và trấn áp uy hiếp các tù trưởng thiểu số. Năm Ất Mão (1435), quân Ai Lao đánh vào Mường Viễn, năm Đinh Ty (1437), sang cướp phá châu Mã Giang và châu Mộc (Sơn La ngày nay). Những cuộc tiến quân này đều bị quân nhà Lê đánh lui. Từ năm Mậu Ngọ (1438), do dần ổn định và phục hưng được đất nước, nên Ai Lao không những từ bỏ việc triều cống cho nhà Lê, mà còn thường gây hấn, quấy phá biên giới Đại Việt, những cuộc xung đột vũ lực giữa hai bên liên tiếp xảy ra: Năm Kỷ Mùi (1439), 3 vạn quân Ai Lao do Nữu Hoa chỉ huy tràn vào biên giới Đại Việt cướp phá châu Phục Lễ, bị vua Lê Thái Tông trực tiếp cầm quân đánh bại. Năm Đinh Hợi (1467), vua Lê Thánh Tông sai Hành tổng binh Khuất Đả đem hơn 1.000 quân phát hợp với quân đồn thú trấn Gia Hưng đánh Ai Lao đòi lại động Cư Lộng. Đến năm Tân Mão (1471), sau sự kiện vua Lê Thánh Tông cầm quân tiến đánh bắt được vua Chămpa và chiếm một phần lãnh thổ của quốc gia này nhập vào Đại Việt, thì Ai Lao cũng như một số quốc gia lân cận khác đều nể sợ, phải cho sứ sang triều cống. Nhưng vài năm sau, Ai Lao lại phối hợp cùng Bồn Man xuất binh đánh sang biên giới phía Tây Đại Việt hòng chiếm lại phủ Trấn Ninh. Bồn Man là bộ lạc người Thái thuộc Ai Lao do người dòng họ Cầm thay nhau làm hào trưởng. Bộ lạc này nằm tiếp giáp với biên giới phía tây và có mối quan hệ lâu đời với các bộ lạc người Thái của Đại Việt. Dưới các đời vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Bồn Man vẫn thường sang triều cống nhà Lê. Tháng 7 năm Đinh Mão (1447), Bồn Man sai sứ mang voi và lễ vật sang cống và xin với vua Lê Nhân Tông được nội thuộc vào Đại Việt. Năm Mậu Thìn (1448), nhà Lê chính thức sáp nhập đất Bồn Man vào Đại Việt và đổi thành châu Quy Hợp thuộc phủ Lâm An. Dòng họ Cầm vẫn truyền nối nhau được phong chức tước và cai quản bộ lạc của mình như cũ. Năm Bính Tý (1456), nhà Lê phong Cầm Công làm Trấn viễn thượng tướng quân và ban thưởng cho áo đoạn màu hồng dệt hoa kim tuyến, mũ cao sơn, đai thếp bạc, yên ngựa, ghế dựa, án thư... Đến đời Lê Thánh Tông, châu Quy Hợp được đổi thành phủ Trấn Ninh, gồm bảy huyện và bắt đầu đặt quan phủ huyện nhưng quyền lực vẫn thuộc về dòng họ Cầm. Dù vậy, nếu đến kỳ mà họ Cầm không chịu nộp cống phẩm, thì triều đình nhà Lê lập tức phái quân lên chinh phạt. Ví như, năm Canh Thìn (1460), họ Cầm không tiến cống, ngay cuối năm ấy, triều đình Lê cử Thái phó Lê Lựu, Thái bảo Lê Lăng thống lĩnh một đạo quân lên trấn áp. Năm Kỷ Hợi (1479), Ai Lao cùng với Bồn Man lại mang quân đánh sang biên giới phía Tây Đại Việt, quyết chiếm lại vùng đất Trấn Ninh. Cuộc chiến giữa quân nhà Lê với liên quân Ai Lao - Bồn Man đã diễn ra. Trước hiểm họa của đất nước, ngày 7 tháng 6 năm Hồng Đức thứ 10 (Kỷ Hợi - 1479), vua Lê Thánh Tông hạ chiếu chinh phục Bồn Man. Ngày 22 tháng 7, Thánh Tông hạ chiếu đánh Ai Lao. Theo đó, ngày 23 tháng 8, một đạo quân gồm 18 vạn, được chia làm năm mũi bắt đầu xuất phát tiến đánh sang Ai Lao. Cả năm cánh quân sau khi vượt biên giới, cùng lúc tiến vào Kinh đô Lạn Xạng, nhanh chóng chiếm Kinh thành và tổ chức truy đuổi quân Ai Lao đến tận vùng biên giới Diến Điện. Quốc vương Ai Lao là Tia Ka Phát bỏ chạy về phía tây. Nhưng rồi trước dũng khí kiên cường chiến đấu bảo vệ đất nước của quân và dân Ai Lao (có nơi họ đã bỏ thuốc độc xuống giếng nước ăn hòng giết hại quân nhà Lê; Hoàng tử Thèn Kham cũng khẩn trương tập trung lực lượng, tổ chức phản công quân nhà Lê...) khiến quân nhà Lê phải nhanh chóng rút quân về nước. Tháng 10 năm Hồng Đức thứ 10 (Kỷ Hợi - 1479), Lê Thánh Tông giao cho Quận công Lê Niệm chỉ huy 30 vạn quân tiến sang trừng phạt Bồn Man. Trước đạo quân hùng hậu của nhà Lê, Cầm Công thấy không thể chống cự nổi phải bỏ chạy và chết ngay sau đó. Lê Niệm cho quân lính đốt phá thành trì, tiêu huỷ hết lương thực, của cải tích trữ của người Thái khiến Bồn Man phải cử người đứng ra xin hàng. Triều đình nhà Lê phong cho một người trong dòng họ Cầm là Cầm Đông làm Tuyên úy đại sứ để cai quản người Thái, nhưng đặt quan phủ huyện trấn trị và kiềm chế cai quản chặt chẽ hơn trước. Vậy là công cuộc quật khởi của Bồn Man và công cuộc khôi phục lại một vùng đất đã bị sáp nhập vào Đại Việt của nước Ai Lao bị thất bại hoàn toàn. Đất Bồn Man trong suốt thời Lê Sơ là phủ Trấn Ninh gồm 7 huyện của nước Đại Việt, do họ Cầm thế tập làm tù trưởng dưới sự kiềm chế của những viên quan phủ do triều đình cử đến giám sát. Từ chỗ tù trưởng họ Cầm tự xin nội phụ, triều Lê đã dần sáp nhập hẳn đất Bồn Man vào lãnh thổ Đại Việt. Đây chính là nguyên nhân gây ra những cuộc xung đột ở biên giới phía Tây giữa giai cấp thống trị hai nước trong suốt thế kỷ XV. Từ những diễn tiến trong quan hệ với các quốc gia nói trên chúng ta thấy tư tưởng đối ngoại quân sự của nhà nước Lê Sơ nổi lên một số vấn đề sau: Mục đích của chính sách ngoại giao trong thời kỳ đầu của vương triều là xác lập chủ quyền và vị thế của quốc gia đối với các nước xung quanh, nhất là đối với triều Minh, nước luôn có ý đồ xâm chiếm và cai trị nhân dân ta. Đồng thời phải tạo ra được môi trường thuận lợi để đất nước sinh tồn và phát triển, trong đó việc ngăn ngừa các cuộc chiến tranh, giữ vững và bảo toàn lãnh thổ được đặt lên hàng đầu. Như vậy phải trải qua một cuộc kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh với kẻ thù mạnh hơn gấp bội trong hàng chục năm mới giành lại được chủ quyền cho đất nước, độc lập tự do cho dân tộc, nên những người đứng đầu nhà nước Lê Sơ luôn nhận thức một cách sâu sắc về chủ quyền quốc gia, nền hoà bình và sự toàn vẹn của cương vực lãnh thổ. Lê Thái Tổ cùng các tướng lĩnh, quan lại của mình đã tìm nhiều giải pháp buộc triều đình nhà Minh phải công nhận quyền đứng đầu quốc gia Đại Việt của dòng họ Lê. Phải qua hàng chục năm đấu tranh gay gắt, đến năm Đinh Tỵ (1437), triều đình Lê Sơ mới đạt được kết quả như mong muốn. Triều đình nhà Minh từ chỗ chỉ chấp nhận phong Lê Thái Tổ là "Quyền thự An Nam quốc sự” đã phải phong “An Nam quốc vương" cho Lê Thái Tông vào năm Đinh Tỵ (1437), quan hệ hai nước được thiết lập theo truyền thống. Bằng những sách lược khôn khéo, mềm dẻo trên cơ sở giữ vững nguyên tắc bảo toàn biên cương lãnh thổ, triều đình Lê Sơ đã làm tiêu tan ý đồ xâm chiếm Đại Việt của đế chế Minh trong suốt thời gian trị vì. Đây là thắng lợi quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng đất nước sau nhiều năm chiến tranh. Nhìn lại lịch sử dân tộc, chúng ta đều biết phong kiến Trung Hoa đã từng thiết lập ách cai trị trên đất nước ta hàng ngàn năm. Sau khi Ngô Quyền đánh bại quân xâm lược Nam Hán (kháng chiến chống quân Nam Hán lần thứ hai), năm 938, lập ra nhà Ngô, mở đầu kỷ nguyên độc lập tự chủ lâu dài cho đất nước, cho tới thời Lê Sơ, chúng ta vẫn liên tục phải chống trả các cuộc xâm chiếm của phong kiến "Bắc triều”. Có những triều đại phải nhiều lần đối chọi với các thế lực ngoại xâm như thời nhà Trần đã phải 3 lần chống quân Nguyên. Thế nhưng trong suốt trăm năm trị vì của nhà Lê Sơ, phong kiến phương Bắc không một lần xâm chiếm. Lý giải điều này có nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân quan trọng là dư âm của võ công đánh thắng các đạo quân tiếp viện hùng mạnh và ách đô hộ của nhà Minh cùng cách ứng xử nhân nghĩa đối với kẻ bại trận của quân dân ta khiến chúng vẫn phải kiêng nể. Khi các cuộc xung đột biên giới xảy ra, nhà Lê đã giải quyết mềm dẻo và kiên quyết cùng hệ thống phòng thủ vững chắc nên đã tránh được mầm hoạ của các cuộc chiến tranh. Sự vững mạnh về mọi mặt của đất nước cũng khiến kẻ thù không dễ gây hấn. Qua một số cuộc xung đột ở biên giới và cách giải quyết của triều Lê Sơ ở trên đã giúp cho chúng ta hiểu thêm được tư tưởng đối ngoại của triều đình được thực hiện theo một nguyên tắc không thay đổi là không để mất một tấc đất, một ngọn núi, con sông của ông cha để lại nhưng vẫn giữ được quan hệ hữu nghị, tôn trọng và không chịu bị nước lớn uy hiếp. Ngay cả khi phải dùng lực lượng quân sự chống trả, phòng vệ cũng vì mục đích “cốt giữ gìn đất đai, không gây hiềm khích". Cùng với đề cao cảnh giác và chủ động xử lý mềm mỏng nhưng cũng rất kiên quyết trong việc giành, giữ từng thước đất, ngọn núi, con sông của ông cha để lại đã trở thành quan điểm tư tưởng chỉ đạo thường xuyên và thống nhất trong suốt triều đại Lê Sơ. Đất nước trong một thế kỷ tồn tại của vương triều Lê Sơ đã không xảy ra chiến tranh lớn, lãnh thổ quốc gia được giữ vững. Điều đó góp phần quan trọng để Đại Việt phát triển vững chắc và ổn định trong thế kỷ XV. Yêu cầu đặt ra đối với vương triều Lê Sơ trong thế kỷ XV là giữ vững chủ quyền dân tộc, bảo toàn lãnh thổ quốc gia. Nhằm đáp ứng yêu cầu đó, triều đình đã có nhiều chủ trương, chính sách trên lĩnh vực quân sự nhằm tạo ra một lực lượng quân sự và tiềm lực quốc phòng vững mạnh nhằm duy trì trật tự an ninh quốc gia, phá tan các hành động xâm phạm lãnh thổ, ngăn ngừa chiến tranh, duy trì một nền hoà bình trong suốt một thế kỷ. Từ thực tiễn lịch sử đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài, xây dựng đất nước đầy gian lao và anh dũng của dân tộc ta dưới thời Lê Sơ có thể khẳng định rằng: cũng như các triều đại phong kiến Việt Nam trước và sau đó, tư tưởng quân sự triều Lê Sơ là "sản phẩm" nằm trong hệ tư tưởng quân sự của dân tộc trong đó có những nội dung được kế thừa của các triều đại phong kiến trước đó một cách có chọn lọc, phát triển lên một đỉnh cao mới; có những nội dung được hình thành trong điều kiện lịch sử riêng biệt của thời kỳ này. Tất cả được đúc kết thành những tư tưởng quân sự của vương triều Lê Sơ - một vương triều hưng thịnh của chế độ phong kiên trung ương tập quyền Việt Nam với những đặc trưng riêng biệt. Trong đó nổi bật nhất là: Tư tưởng kết hợp "kiến quốc” với “vệ quốc” (kết hợp xây dựng với bảo vệ đất nước); Tư tưởng xây dựng quân đội tập trung thống nhất, vững mạnh để giữ nước, Tư tưởng tích cực chủ động, phòng giữ biên cương, thực hiện "biên phòng hảo vị trù phương lược"; Tư tưởng đối ngoại quân sự khôn khéo để giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền toàn trên lãnh thổ quốc gia. Đây thực sự là những nhân tố rất quan trọng góp phần tạo nên sự vững mạnh của triều Lê Sơ; đồng thời tiếp tục phát triển và làm phong phú thêm nội dung của lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam. _________________ 1. Xem Trương Hữu Quýnh (Chủ biên): Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 2, từ nguyên thủy đến 1858, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr.320. 2. Xem Trương Hữu Quýnh (Chủ biên): Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 2, từ nguyên thủy đến 1858, Sđd, tr.320. 3. “Hiệu định quan chế”, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, t.II, tr. 453-456. 4. “Hiệu định quan chế”, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, t.II, tr. 453-456. 5. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.291. 6. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.299. 7. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.469. 8. Lời can gián của Phó đô ngự sử Quách Đình Bảo, Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.485. 9. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.391. 10. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.504. 11. Tuyển tập văn bia Hà Nội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, t.l, tr.65. 12. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.302. 13. Nguyễn Trãi: Toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, tr.201. 14. Nguyễn Trãi: Toàn tập, Sđd, tr.201. 15. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.396. 16,17. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr. 425,484. 18. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, t.1, tr.860. 19. Lê Quý Đôn: Toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, t.1, tr.40. 20,21. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.396. 22. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.III, tr.11. 23. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.334. 24. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960, t.l, tr.26. 25. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.269. 26,27. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.390, 408. 28. Viện Nghiên cứu Hán Nôm; Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, tr.215. 29,30. Chinh tây kỷ hành thi tập: Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, tr.63, 83. 31. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.396. 32. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.4, tr.8. 33. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.III, tr.469. 34. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.4, tr.17. 35. Nguyễn Trãi: Toàn tập, Sđd, tr.143. 36. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr. 303. 37. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.303. 38,39. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.502, 303. 40,41. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.302, 502. 42. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Quan chức chí, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, t.2, tr.84. 43. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.2, tr.84. 44,45. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.408, 447. 46. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.447. 47. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.485. 48. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.268. 49. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.462. 50. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.l, tr. 1042. 51. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.2, tr.9. * Sau là châu Phục Lễ. 52. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.l, tr. 840. 53,54,55. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr. 391, 427, 433. 56. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr. 281. 57. Lê Lợi và Thanh Hóa trong khởi nghĩa Lam Sơn (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb. Thanh Hoá, Thanh Hóa, 1988, tr.115. 58. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1963, t.4, tr.142. 59. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007, t.2, tr.651. 60. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.2, tr.659. 61. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Bang giao chí, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1961, t.4, tr.135. 62,63. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.443, 444. """